ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II

ĐGH Gioan XXIII sau 50 năm Công đồng Vatican II
Tác giả: Trầm Thiên Thu
Nửa thế kỷ qua, từ sau khi Chân phước GH Gioan XXIII triệu tập Công đồng Vatican II (1962-1965), Giáo hội Công giáo đã được canh tân. Người triệu tập Công đồng Vatican II là một “ông già vui vẻ”, được mệnh danh là “Giáo hoàng Tốt lành” (Good Pope). Ngài đã được Chân phước GH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước năm 2000. Liệu vị “Giáo hoàng Tốt lành” có được tôn phong hiển thánh? Có nên như vậy?
Chiều ngày 3-6-1963, ĐGH Gioan XXIII đã đi vào cõi vĩnh hằng sau 4 năm rưỡi làm giáo hoàng. Văn phòng báo chí Tòa Thánh chỉ nói ngắn gọn: “Ngài không còn chịu đau khổ nữa”.
Ngay lập tức, có một phong trào nổii lên do một số người thân cận với ngài muốn ngài được phong thánh, như các vị thánh trong những thế kỷ đầu của Giáo hội. Khóa họp thứ nhất của Công đồng Vatican II kế thúc vào tháng 12-1962, ĐGH Gioan XXIII đã công bố Tông thư Pacem in Terris (Hòa bình trên Thế gian) vào tháng 4-1963 tạo bước ngoặt của đời ngài.
Ngài được lòng nhiều người trên thế giới, những người hiểu biết mức độ quan trọng của lịch sử đối với triều đại giáo hoàng ngắn ngủi và dự án Công đồng Vatican II của ngài.
Được biết, vào lúc ĐHY Leo Suenens (Bỉ), thân cận với ĐGH Gioan XXIII, và có tiếng nói uy tín trong Công đồng Vatican II, ủng hộ việc mau chóng phong hiển thánh cho Chân phước Gioan XXIII. ĐHY Suenens nói rằng người ta cần những con người đương thời mới làm khuôn mẫu cho việc phong thánh để gợi hứng cho họ trong đời sống tâm linh.
Một lời đề nghị được lan truyền trong các giám mục, thúc đẩy tiến hành nhanh, nhưng các vị lãnh đạo theo truyền thống và Bộ phong thánh đã thắng. Người kế vị ĐGH Gioan XXIII là ĐGH Phaolô VI đã tuyên bố năm 1965 rằng hai án phong thánh cùng được mở: ĐGH Piô XII và ĐGH Gioan XXIII. Hai cuộc điều tra được tiến hành, và một vị được phong chân phước năm 2000 là ĐGH Gioan XXIII, ngày xưa gọi là á thánh, bước cuối cùng là hiển thánh.
Ngoài Thánh Phêrô, mới chỉ có 80 trong 264 giáo hoàng được chính thức tôn kính trên bàn thờ. Trong 400 năm qua, Giáo hội vẫn nghiệm ngặt trong việc chính thức mở án phong thánh, điều tra và xác nhận phép lạ. Vì thế, dù thế nào thì cơ hội cho bất kỳ vị giáo hoàng nào được tôn phong hiển thánh cũng rất ít.
Tuy nhiên, ĐGH Gioan XXIII lại khác. Khi hài cốt ngài được chuyển từ hầm mộ  giáo hoàng (papal crypt) bên dưới Đền thờ Thánh Phêrô và cải táng bên dưới Bàn thồ Thánh Jerome ở lầu chính của Đền thờ vào năm 2001, khoản 40.000 người đã tham dự nghi thức cải táng này.
Khi mở quan tài, thi hài ĐGH Gioan XXIII vẫn nguyên vẹn, không hề hư nát (remarkably uncorrupted). Sau gần một ngày, người ta thấy được khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII. ĐHY Virgilio Noe, người giám sát và chịu trách nhiệm vụ này, đã diễn tả khuôn mặt của ĐGH Gioan XXIII vẫn “nguyên vẹn và thanh thản” (intact and serene). Ngài nói rằng các nhân chứng hiện diện khi mở nắp quan tài đã ngạc nhiên và vui mừng khôn tả. Thế giới chỉ mong chờ một phép lạ được xác định là của Chân phước Gioan XXIII là đủ thủ tục.
Rất có thể ngài sẽ được tôn phong hiển thánh vào năm 2013, sau 50 năm ngài qua
đời. Tại sao? Công đồng Vatican II của ĐGH Gioan XXIII đúng là một phép lạ!
Người Công giáo tin rằng, nhờ Chúa Thánh Thần, Công đồng Vatican II đã cứu Giáo
hội Công giáo khỏi tình trạng xơ cứng và suy sụp. Người ta vẫn nói rằng, cứ khoảng 300 năm tới 500 năm, Giáo hội lại cần tái tự kiểm tra và kiểm tra vị trí của mình trên thế giới. Đó là điều đã xảy ra tại Công đồng Nicê (Nicaea) hồi thế kỷ thứ 4 và Công đồng Trentô (Trent) hồi thế kỷ 16 – và đặc biệt là Công đồng Vatican II trong thế kỷ 20.
ĐGH Gioan XXIII tìm cách canh tân Giáo hội, ngài vẫn luôn luôn sống bác ái và
khiêm nhường, qua những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử thế giới, khi còn là một linh mục trẻ và một binh sĩ, khi là nhà ngoại giao của Giáo hội, nhất là khi trở thành người kế vị Thánh Phêrô. Chứng cớ đời sống nội tâm của ngài được  ghi rõ trong “Journal of a Soul” (Tờ báo của một Linh hồn), một kiệt tác tôn giáo và phản ánh rõ nét mà ngày nay nên đọc nhiều.
ĐGH Gioan XIII thực sự là một vị thánh, đã và đang được nhiều người yêu mến trên khắp thế giới. Họ không cần sự chấp nhận chính thức của Tòa Thánh xác nhận những gì đã được ghi tạc vào tâm hồn họ.
TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ ReligionNews.com)

Khai mạc “Năm Đức Tin”, 11-10-2012

ANH EM,

ANH EM,
Đừng khóc em ơi! Có anh đây,
Hôm nay khói nóng quyện nơi này,
Ôm trọn tình nhau hai ta cũng,
Có miếng lót lòng đỡ đắng cay…
Giữ lấy tin yêu đừng bi thảm,
Đời có gì vui để mà ham,
Ngọn lửa trong tim mình đang cháy,
Anh sẽ cùng em bắt tay làm…
Liverpool.12/10/2012.
Song Như.
Ghi chú về bức ảnh
Ngẹn ngào bức ảnh anh ôm em trên bãi rác

Hình ảnh người anh bế em mình ngồi trên bãi rác, nhìn vào khoảng không tuyệt vọng khiến mọi người không cầm được nước mắt.Hai anh em ôm nhau thật chặt, đang cùng tìm sự sống trong nỗi tuyệt vọng trước bãi rác thải mênh mông ở Kathmandu, Nepal. Bao trùm lên nét buồn thảm của hai anh em là không khí ô nhiễm, ảm đạm, thiếu hơi thở của sự sống ở vùng Kathmandu này

.

Bức ảnh từng lọt vào Top 10 bức ảnh ấn tượng nhất thế giới năm 2011, và đang
được lan truyền nhanh chóng trên mạng với thông điệp: “Sống chậm một chút, làm việc chậm một chút, yêu thương nhiều một chút để thấy rằng cuộc đời này không trôi qua một cách vô nghĩa. Đôi khi bạn chỉ cần nhắm mắt lại, chỉ vài phút thôi, bạn cũng có thể cảm nhận được ý nghĩa cuộc sống. Đôi khi bạn chỉ cần ngừng chạy, chỉ vài phút thôi, bạn có thể cảm nhận được nhịp điệu cuộc sống…”.
Nhiếp ảnh gia Hồng Kông, Chan Kwok Hung tâm sự, hai anh em trong bức ảnh này đang sống cùng bà ngoại ở khu vực gần đó. Hằng ngày người anh cõng em đi tìm trong đống rác khổng lồ, cố gắng tìm ra những vật hữu ích có thể bán được để mua thức ăn sống qua ngày.

NGƯỜI GIẦU KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI

NGƯỜI GIẦU KHÓ VÀO NƯỚC TRỜI

(CN 28 TN, Năm B)

Tác giả:Tuyết Mai

Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: “Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽcó một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”. Nhưng người ấy nghe những lờiđó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệrằng: “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!” Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa”. (Mc
10, 17-27).

Điều hay lẽ phải Chúa dậy cho chúng ta thì muôn đời chẳng bao giờ sai trái như câu rất quen thuộc mà ta thường nói với nhau là “tađã nói mi rồi mà mi không nghe” hay “I told you so”; nói thường hơn nữa là những bậc cha mẹ hay dùng câu này để nói với các con. Vì chúng ít khi nào tin lời cha mẹ của chúng. Chúng nghĩ rằng cha mẹ già mà biết cái gì, nhưng chúng hoàn toàn không biết là Trường Đời thì chỉ có một trường mà thôi!. Có khác chăng là một người tốt nghiệp ra trường Công Giáo hay không Công Giáo.

Thật phải là chẳng phải đợi Chúa dậy thì chúng ta mới biết là Đường Về Trời và Đường Đời, cả hai là hai Quốc Gia không đội trời chung. Chỉ có chính ta là phải quyếtđịnh cho Linh Hồn sống đời của chúng ta sau này muốn được đến Thế Giới nào hay Quốc Gia nào?. Có
Quốc Gia luôn luônđón nhận chúng ta bất cứ ở giờ phút nào hay cả liền ngay bây giờ nếu chúng ta chán đời, không muốn sống nữa. Nhưng có Quốc Gia giầu mạnh, có tự do; ai cũng bằng ngang nhau, không ai ở cao trên ai, và cũng không ai phải ở dưới ai. Và là mạnh giầu bậc nhất so với cả thái dương hệ cộng lại cũng không sao sánh ví cho bằng. Muốn được đến đó thật chẳng phải dễ, vì lẽ con đường đi cách đàng hoàng mà không phải đi chui hay đi lậu thì đòi hỏi thời gian dài chờ đợi, nhất là chờ đợi cho có đủ tiền cái đã thì mới điđược chứ!?.

Dù chúng ta không có khả năng để xin cho được định cư lâu dài, nhưng cũng có thể đi một chuyến du lịch cho biết thì cũng đòi hỏi nơi ta công sức và mồ hôi, để tạo ra tiền mà ra nước
ngoài du lịch. Thì hà huống gì con người chúng ta lại muốn, ao ước, và khao khát trông đợi để được Có Tên Định Cư vĩnh viễn trên Nước Trời.

Một Nơi mà sẽ không đòi hỏi bất cứ một ai phải ra tay làm lụng vất vả ngày đêm. Mồ hôi,đau khổ, bị hành hạ, đau bệnh, già nua, và chết sẽ hoàn toàn không còn thấy có trên Nước Trời. Điều Chúa cam kết đó, chúng ta phải tin làm vậy!. Điều này đã chứng minh cho
toàn thể con người cách nay đã được 1979 năm trước, vì ngày đó trong thời gian đó là ngày Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết trên Thập Giá, để con người cũng sẽ được sống lại như Người.

Cùng tương tự trải qua suốt bao nhiêu thời đại, các Thánh Nam Nữ cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy là Đường lên Trời chỉ có duy nhất một Con Đường mà ai cũng muốn lên đó, đều phải trải qua con Đường Hẹp. Là vác Thánh Giá đời mình cho trọn. Là từ bỏ tất
cả mọi thú vui thếtrần do ma quỷ chúng bày mưu và giăng bẫy để chúng ta dễ dàng theo chúng mà không chút do dự hay nghi ngờ.

Ai bảo con đường lên Trời là dễ dàng đâu? Nếu ai từng nghe người Mỹ nói là “no pain no gain” có đồng nghĩa là nếu ta không đổ mồhôi thì ăn cơm không ngon. Nhưng đối với rất nhiều người xem lời ấy chẳng có nghĩa gì cả. Mà theo Chúa thì con đường để được lên
Nước Chúa chẳng khó khăn gì lắm vì hầu hết dân Chúa đều là nghèo. Có Của đâu để mà dính bén. Có cái gì quý đâu để mà canh chừng hay ham muốn. Ngoài tấm lòng luôn rộng mở và lòng bác ái thì to hơn cả cái gia tài của cả gia đình cộng lại. Luôn sống thiện hảo và biết kính sợ Chúa hình như đó là bản ngã của dân nghèo được Chúa cấy sẵn trong tâm hồn, trái tim, và tận sâu thẳm trong cõi lòng của họ!?. Do đó 2 Điều Răn của Chúa đối với họ có khó khăn chi! Như anh nhà giầu trả lời Chúa là anh vẫn giữ tất cả Điều Răn Chúa dậy ngay từ thuở nhỏ.

Người giầu có khó có thể vào Nước Thiên Đàng bởi lối sống của dân nhà giầu thường là không biết Chia Sẻ. Đã thế họ rất thích để được gom góp, tích lũy, càng gom nhiều càng tốt. Mà muốn gom muốn tích thì nguồn ở đâu để cho họ gom và họ tích? Mà không do từ những
cái mánh khóe để trục lợi của dân nghèo ở khắp cùng mọi nơi. Từ sự gian ác trong lãnh vực mướn người làm công, trả lương họ thật rẻ mạt ngay cả không thể nuôi nổi cho người thợ đói lòi cả xương. Rồi thì khi họ đổ bệnh thì liệng họ ra ngoài đường cách tàn nhẫn vô nhân đạo.

Vâng, có phải Ý Chúa muốn nói vậy hay không? Rõ ràng nhất là chuyện của anh phú hộ giầu có và anh Lazaro nghèo ghẻ lở. Anh phú hộ giầu có ngày ngày sống nhởn nhơ,vô tư lự như con ve sầu, chẳng để ý gì đến ai, thế mà Chúa phạt cho xuống Hỏa Ngục đời đời.
Thưa chỉ vì cái tội“chẳng để ý đến ai” đấy thôi!.

Lậy Thiên Chúa của Lòng Thương Xót! Ban cho chúng con có tấm lòng nhân lành và bác ái, giống Chúa. Có được cái đầu khôn ngoan để biết tính toán Nơi sau này chúng con muốn Đến. Có khôn ngoan không thưa Chúa khi ở đời này chúng con chịu cực, chịu thương chịu
khó, chịu nhịn nhục, thì ở Đời Sau là sự thưởng ban mà không gì quý giá hơn cả cho bằng được Chúa ban cho Nước Trời. Được sống một đời sung mãn, hoan lạc, trong yêu thương, trong đoàn kết, trong tựdo.

Thương yêu nhau trong tình yêu ba ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Cùng được tìm về bên Mẹ Maria yêu dấu. Nơi ấy sẽ hoàn toàn không còn ngăn cách, mất mát, và chia lìa. Ôi còn gì hạnh phúc cho bằng lậy Thiên Chúa vô cùng rất Yêu
Thương của chúng con. Xin ban cho chúng con sự khao khát thèm thuồng Nước Chúa
ấy, luôn nung nấu trong tận thâm sâu cõi lòng của chúng con. Để cùng đích là cho Linh Hồn sống đời của chúng con chiếm hữu được Lòng Thương Xót của Chúa và Nước Trời. Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-11-12)

 

LẤY CHỒNG MIỆT THỨ, & MƯA THU

LẤY CHỒNG MIỆT THỨ,
Tam bản lướt đều sóng rung rinh,

Che vầng trán rộng nón lá xinh,
Tóc nương chiều gió hương bồ kết,
Chiếc áo bà ba mặc trữ tình…
Phù sa bồi đắp đôi bờ rộng.
Cây trái bốn mùa lúa trĩu bông,
Em về Miệt Thứ nghe cuốc gọi,
Giọng nĩ non buồn lệ đầy sông…
Má biểu lấy chồng không dám chối,
Nhưng vì chữ hiếu cũng đành thôi,
Gởi hương theo gió mang về xứ,
Đời con lờ lửng lục bình trôi…
Nước lớn ngập bờ bầy cá bơi,
Nước ròng đất ướt chim đầy trời,
Bờ dâu xanh thẫm con thầm nhủ,
Ba Má ở xa dạ rối bời…
Liverpool.9/10/2012.
Song Như.
Kính tặng Quý Thầy Cô và các bạn LCV.
Kính chúc sức khỏe.
Kim Trọng

MƯA THU,

Gió to,gió nhỏ,gió vừa vừa,
Giọt dài,giọt ngắn,giọt lưa thưa,
Mưa thu lạnh lẽo ngồi bó gối,
Chẳng có gì hay một ngày thừa…
Cánh chim lẽ bạn ngoài vườn vắng,
Lạc giọng gọi bầy đau lắm chăng?
Đong đưa cành lá như đùa cợt,
Mỏi mắt trời cao thiếu cánh bằng…
Hồn hoang lạc lõng sầu viễn xứ,
Chết lịm thu tàn nẻo tâm tư,
Lá rơi đầy lối đường xưa cũ,
Để lại nơi đây cảnh giã từ…
Anh đến rồi đi đã mấy thu,
Mùa qua rồi lại vẫn mịt mù,
Ngàn khơi tăm cá đang vùng vẫy,
Có nhớ chiều thu khói sương mù…
Liverpool.12/10/2012.
Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC đọc đở buồn…
Kính chúc sức khỏe.
Kim Trọng

MẸ BAN BÌNH AN TRÊN GIA ĐÌNH

MẸ BAN BÌNH AN TRÊN GIA ĐÌNH

(Hạnh Phúc Gia Đình)

Tác giả: Tuyết Mai

Cả một ngày hôm qua vợ chồng chúng tôi vẫn còn tiếp tục bàn về chuyện liên hệ tình cảm của cháu với người bạn trai “già” mới quen.   Thật tình mà nói chuyện của hai cháu cũng rất mới mẻ, còn trong thời gian quen biết, và  tìm hiểu.   Tôi cũng cảm tạ Thiên Chúa cho chúng tôi có buổi nói chuyện gia đình quan trọng này cùng có mặt của cháu gái lớn “cả” của chúng tôi.

Ít nhất chúng tôi cũng cho cháu hiểu rằng đâu là điều kiện để cháu được an toàn mà cháu cần lưu ý ở người bạn trai lớn tuổi hơn cháu nhiều.   Vì già nên anh ta có nhiều kinh nghiệm
sống đời từng trải.   Nếu già mà tốt và hiền lành, có tín ngưỡng đàng hoàng thì là điều tốt cho cả hai.   Ngặt nỗi anh bạn này ở mãi tận L.A. nên sự gặp gỡ qua lại của hai cháu cộng những lần đi chơi khuya làm chúng tôi đâm lo lắng, đứng ngồi không yên, và cảm thấy bất an thế nào ấy!.   Dù cháu khẳng định rằng hai đứa chỉ là bạn nhau thôi với một tình cảm rất trong sáng và lành mạnh (vì có Chúa ở giữa chúng, cháu bảo vậy!).

Sự quan tâm của bố cháu theo con mắt của ông nhà tôi thì là điều ông không thể chấp nhận được, bởi ông nghĩ rằng cháu chưa lớn đủ để hiểu đời và không thể lường được mọi người.   Thứ nhất vì chúng tôi không từng biết gì về anh ta, tuy nhiên bạn bè quen thân trong nhóm đi làm việc thiện nguyện, đều biết rất rõ về anh ta và sự đàng hoàng của anh ấy!.   Và con gái tôi đã quen biết anh cũng trong những dịp làm việc thiện nguyện với nhau, hầu như là mỗi tuần.   Nhưng đối với con mắt nhìn lạc quan của tôi, ngoài cái tuổi tác của anh ra thì anh ta cũng được.

Vì Face Book của anh tôi cũng biết.   Anh làm việc tại đâu tôi cũng tỏ.   Quan hệ của anh
trong quá khứ tôi cũng nắm phần nào.   Nhà anh ở đâu tôi cũng hay.   Số phôn của anh tôi có và số phôn của anh trưởng nhóm trong nhóm thiện nguyện nhà cũng ở rất gần với anh ta.   Được biết anh ta rất yêu Chúa và những giờ rảnh rỗi cũng chỉ tìm những nơi để làm việc thiện nguyện và giúp người có cuộc sống bất hạnh.   Và vì lý do này mà con gái lớn nhà tôi rất mến mộ anh ta, vì hai đứa có cùng Lý Tưởng Sống cho người.

Đối với tôi tuổi tác tuy có chênh lệch nhưng nếu 2 con tim hát cùng một bài hát yêu thương người thì dù có sóng gió chúng cũng cùng nhau vượt qua và quá khứ đã được chứng minh điều đó!.   Không nhất thiết chồng hơn tuổi vợ mà hứa hẹn rằng chồng sẽ chết trước vợ đâu nhé!.   Như bà chị kế của tôi đây, chồng hơn vợ đến 20 tuổi tròn, nhưng sức khỏe hiện giờ thì bà chị tôi lại bệ rạc hơn ông nhiều.   Anh rể tôi lớn tuổi hơn nhiều nhưng rất hiền
lành.   Theo đạo và sống một cuộc đời luôn thương yêu Chúa, gia đình, và yêu người.   Có biết bao nhiêu người yêu thương ông ấy!.   Có khả năng nuôi cả gia đình.   Con cái nên người và tất cả đều đã thành nhân và nên gia thất.   Thế thì đâu là tệ?.   Hoặc giả ai dám cam đoan vợ chồng trẻ ngang tuổi nhau lại sống với nhau đến răng long đầu bạc? Không có vấn đề?.

Như ông nhà tôi lớn hơn tôi những 13 tuổi thì lại thấy đó là vấn đề ư?.   Nếu người mà thấy là vấn đề thì người ấy phải là tôi chứ, thưa có phải?.   Đối với tôi vấn đề hay không là ở cách ăn ở sao trong cách sống của mình.   Tỏ lộ sự yêu thương, chăm lo, và quan tâm đến nhau.   Đừng tỏ ra là mình có quyền hành trên vợ rồi hiếp đáp vợ mình vì đó là điều chẳng phải tí nào, khi vợ là người luôn cần đến sự bảo bọc của chồng.   Nhiều nhất, khác nhất đối với tôi vẫn là sự chọn lựa cách nhìn đời và nhìn người cách lạc quan hơn mới phải.   Khác nhau lắm là ở chỗ đó!.

Người lạc quan là con người can đảm, chấp nhận mọi tình huống trong cuộc đời.   Vấp té bể đầu cũng tự vực  mình dậy để đi tiếp chứ không nằm yên đó chờ đợi có người đến hỏi han chăm sóc, nhất là thời nay!.   Chuyện tệ tới đâu cũng nhủ lòng rồi thì ngày mai trời lại sáng.   Luôn tìm niềm vui trong đau khổ.   Biết tìm lời an ủi người để chính mình cảm thấy được an ủi vì dẫu sao người vẫn đau khổ và kém may mắn hơn mình nhiều.

Nhưng có phải con người  cứ mỗi buổi sớm mai thức dậy cũng luôn cảm thấy thiếu Nguồn Sinh Lực Sống và cần được lãnh nhận từ Nguồn của Nó? Thưa nguồn ấy ở đâu?.   Thưa nguồn Sinh Lực không giới hạn ấy là từ Trời Cao là từ Thiên Chúa của chúng ta.
Đó là điều mà tất cả chúng ta cần phải làm ở mỗi buổi sáng sớm.   Là tịnh tâm, lắng lòng, dâng lời tạ ơn và kinh nguyện; gọi là “thiền” (meditation) đó thưa anh chị em!.   Do đó và nhờ đó mà mỗi ngày chúng ta có một ngày mới tinh trong; hay một tờ giấy trắng trong ngày của cuộc đời.

Có nghĩa tờ giấy trắng ấy nó cho ta “đủ” những gì ta sắp xếp trong ngày để cho ta có cuộc sống quân bình.   Tờ giấy ấy luôn luôn trên cùng và sau hết là Lời Cảm Tạ Chúa.   Khoảng giữa là tất cả mọi điều chúng ta có thể làm tùy theo thứ tự quan trọng của chúng cần phải làm trước làm sau là do ta quyết định.   Như công ăn việc làm.   Thời giờ cơm nước và với
nhau trong gia đình.   Thời giờ thăm hỏi bạn bè cùng người thân thuộc.   Hay tìm thời giờ riêng cho chính mình, v.v…..

Tôi thấy Thiên Chúa của chúng ta Người cho chúng ta thời giờ ngày 24 tiếng là tuyệt hảo là rất vừa vặn và vừa sức cho con người.   Chứ không chắc chẳng ai qua được tuổi 50.   Tôi thấy Người thật Tuyệt Hảo vì cứ thế con người ta sống còn có bao nhiêu cơ hội để làm lại cuộc đời vì mỗi sớm mai Chúa cho chúng ta một ngày mới toanh.   Một trang giấy nhật ký mới và tùy ở mỗi người chúng ta muốn chọn cách sống sao để những trang giấy ấy là một tác phẩm tuyệt đẹp để đời?.

Tất cả mọi người chúng ta có phải đã từng nghe có những cuốn nhật ký của ai đó đã qua đời, nhưng để lại cho con cháu một bài học “đời” đáng để lưu lại từ thế hệ này qua thế hệ kia.   Ngược lại cũng có những cuốn nhật ký mà đọc một lần thôi thì chỉ muốn đốt nó đi vì
trong ấy chỉ chứa đựng toàn những mối mọt, mục nát, và bợn dơ bám phủ đầy, phát
gớm?.

Lậy Mẹ Maria! Xin Mẹ ban cho tất cả gia đình chúng con luôn sống trong an vui, hạnh phúc, và Bình An của Chúa.   Dù cuộc sống có nghèo cũng luôn giúp nhau sống nên Thánh được giống như Gia Đình Thánh Gia gương mẫu và mực thước.   Nghèo chẳng phải là cái tội phải không thưa Mẹ? Nhưng ngược lại đó là cái Phúc vì có thế chúng con mới biết thông cảm và biết an ủi người.   Vì khi chúng con an ủi người là chính lúc chúng con tìm được nguồn Bình An và được Chúa chúc phúc.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(10-11-12)

SỢI NẮNG,

SỢI NẮNG,

Em giữ hộ anh những sợi nắng vàng,

Còn vương trên tóc thiên đàng nhớ thương,

Em giữ hộ anh sợi nắng trên đường,

Để anh biết hướng về thăm quê mình,

Em giữ hộ anh sợi nắng ghập ghình,

Để anh còn biết bóng mình  trăng in,

Em giữ hộ anh sợi nắng lung linh,

Để anh được đọc hồi kinh nguyện cầu,

Em giữ hộ anh sợi nắng đậm sâu,

Đan trong kẻ lá đượm màu quê hương,

Em giữ hộ anh sợi nắng vấn vương,

Để cho anh gặp người thương ướm lời,

Em giữ hộ anh sợi nắng tuyệt vời,

Cùng chung xây dựng khắp nơi thanh bình,

Em giữ hộ anh sợi nắng thật xinh,

Để anh nói tiếng chung tình cùng em…

Em giữ hộ anh sợi nắng thật mềm,

Để anh cột lại những đêm trăng đầy…

Em giữ hộ anh sợi nắng nồng say,

Hai ta uống cạn kiếp này có nhau…

ERSKINE PARK.10/10/2012.

Song Như.

Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Chuỗi Mân Côi và Thánh Đa Minh

Chuỗi Mân Côi và Thánh Đa Minh

Tác giả: Robert Feeney

 

Bà Jane ở Aza thánh thiện đến nỗi chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời ban đêm. Bà sinh năm 1140, sống ở một lâu đài tại Tây Ban Nha với chồng là Felix, một người được
kính trọng với chức hiệp sĩ. Bà là một phụ nữ hay thương người, đầy lòng trắc ẩn với những người kém may mắn, và giúp đỡ vật chất cho người nghèo.

Bà Jane có 2 con trai là Mannes và Anthony, nhưng bà muốn con thêm nhiều con. Một hôm, bà tới tu viện Silos để cầu xin có thêm một con trai nữa, xin Dòng Silos cầu nguyện giúp bà. Một tu sĩ Dòng Đa Minh nói: “Này chị, lời cầu của chị đã được nghe và Thiên Chúa sẽ ban cho chị một người con trai. Người con đó sẽ là tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa và có thể làm nhiều điều phi thường cho Chúa Kitô và Giáo hội”.

Khi tạ ơn, bà Jane đặt tên cho con trai là Dominic (Đa Minh).

Trước khi sinh con, bà Jane đã có giấc mơ tiên tri linh cảm việc giảng thuyết mà thánh Đa Minh, trong hình con chó trắng đen, chạy đi với ngọn đuốc sáng ngậm ở miệng, thắp sáng khắp thế giới. Bà Jane sinh bé trai Đa Minh tại Calaroga, thuộc Old Castile, năm 1170. Khi Đa Minh được rửa tội tại nhà thờ xứ, mẹ đỡ đầu của ngài cũng thấy ánh sáng chói lọi, nhìn như ngôi sao, trên lông mày của bé Đa Minh. Lúc đó Đa Minh được tiền định là một luồng sáng, một người sẽ soi sáng những người ở trong bóng tối.

Thánh Đa Minh được trông mong nhiều, nhưng ngài không làm thất vọng. Ngài là một thanh niên thông minh, vui vẻ, có chiều cao trung bình, điển trai, diện mạo khá hồng hào, có tiếng nói ấm và vang. Ngài thừa hưởng ở người mẹ lòng súng kính Đức Mẹ, biết giá trị của việc kết hợp việc cầu nguyện bằng lời và bằng tâm linh, nghe biết những câu chuyện về cuộc đời Chúa Giêsu mà ngài biết đó là những mầu nhiệm, và ngài sẽ rao giảng.

Thánh Đa Minh tận hiến cho Thiên Chúa, trở thành linh mục và phục vụ 9 năm ở Osma, sống theo tu luật thánh Augustinô. Có lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác, ngài cầu nguyện và khóc thương những người tội lỗi và những người đau khổ. Ngài được
nhiều người yêu mến và kính trọng.

Năm 1203, lúc 33 tuổi, ngài rời Osma đi thành phố Fanjeaux thuộc vùng Languedoc, miền Nam Pháp quốc, tại đây ngài giảng đạo gần 13 năm. Trong những hành trình tông đồ, ngài thường dừng lại để cầu nguyện ở Nguyện đường Maria ở Prouille, một làng nhỏ nằm giữa
Fanjeaux và Montreal, không xa núi Pyrenees.

Công việc của ngài không hề dễ dàng. Lúc đó, Pháp quốc bị tà thuyết An-bi-gen (*) đe dọa. Những người theo tà thuyết này cho rằng sự sống trên trái đất là công việc của ma quỷ. Niềm tin này sản sinh một nền văn hóa sự chết khủng khiếp. Những người theo tà thuyết này từ bỏ tính thánh thiện của hôn nhân và sự sinh sản con cái. Việc tự tử được khen ngợi vì nó chấm dứt vấn đề hiện hữu. Những người theo tà thuyết này hoàn toàn bác bỏ các giáo huấn của Giáo hội, kể cả mầu nhiệm Nhập thể.

Mọi thứ có vẻ không suôn sẻ, khi thánh Đa Minh cầu nguyện và khóc ở Nguyện đường Đức Maria năm 1208, ngài than thở với Đức Mẹ về việc thiếu kết quả của việc rao giảng cho
những người theo tà thuyết An-bi-gen. Đang lúc đó thì Đức Mẹ hiện ra với ngài.

Đức Mẹ nói: “Đừng lo, đến nay con đã đạt được một ít kết quả như vậy nhờ sức lao động của con. Con phải dùng kết quả đó trên vùng đất khô cằn, chưa được tưới bằng sương hồng
ân. Khi Thiên Chúa muốn canh tân bộ mặt trái đất, Ngài sẽ bắt đầu bằng cách cho mưa tuôn sự chào đón của thiên thần (rain of the Angelic Salutation). Hãy truyền bá Chuỗi Mân Côi gồm 150 câu chào của sứ thần và 15 kinh Lạy Cha, con sẽ bội thu”
.

Thánh Đa Minh không có thời gian. Theo mệnh lệnh của Đức Mẹ, ngài bắt đầu truyền bá Chuỗi Mân Côi, bắt đầu từ Toulouse, một thành phố không xa Prouille. Theo ghi chép của thánh Louis Montfort, một nhà truyền giáo người Pháp hồi thế kỷ 18, thánh Đa Minh đã tới
nhà thờ, nơi các thiên thần rung chuông mời gọi mọi người. Khi thánh Đa Minh rao giảng, Thiên Chúa đã hỗ trợ: Trái đất rung chuyển, mặt trời tối sầm, sấm chớp dữ dội. Hầu như cả dân thành Toulouse đều bỏ niềm tin lầm lạc và bắt đầu sống đời Kitô hữu.

Sau thành công tại Toulouse, thánh Đa Minh đi từ thành phố này tới thành phố khác ở Pháp quốc, Tây Ban Nha và Ý để truyền bá Kinh Mân Côi. Trên hành trình, ngài tỏ ra rất chịu đựng, đến nỗi những người đương thời diễn tả ngài là “vận động viên mạnh mẽ”.
Sức chịu đựng của ngài gây ấn tượng. Bất cứ đi đâu ngài cũng rao giảng chân lý Phúc âm tập trung vào cuộc đời vui mừng, sầu thương, và vinh quang của Đức Kitô. Nói đến một mầu nhiệm và giảng một câu về đời sống của Chúa Giêsu, ngài mời người nghe lần một hạt trong chuỗi hạt – thường được dùng để đếm các lời cầu nguyện – rồi đọc kinh Lạy Cha và kinh Kính Mừng, các yếu tố của đức tin vẫn nhắm vào những người theo tà thuyết An-bi-gen. Chú ý những lời đầu tiên Đức Mẹ nói với ngài, và một lần Chúa Giêsu hiện ra hướng dẫn ngài khơi lòng người ta yêu mến cầu nguyện trước khi giảng thuyết chống lại tội lỗi, thánh Đa Minh và các linh mục khác đều đọc kinh Kính Mừng chung với giáo dân trước khi giảng
thuyết để xin Ơn Chúa. Ngài giải thích rằng kinh Kính Mừng chứa đầy các ví dụ về cuộc sống hàng ngày.

Phương pháp đó tác dụng. Hầu như ở các thành phố ngài rao giảng, ngài đều thành lập Hội ái hữu Mân Côi (Confraternity of the Rosary). Thánh Montfort nói rằng các giáo huấn của
thánh Đa Minh tạo sự nhiệt thành đến nỗi hoán cải được những người tội lỗi chai lỳ nhất. Thánh Montfort viết rằng một người đàn ông bị ma quỷ chiếm hữu đã kêu lớn tiếng rằng lời rao giảng của thánh Đa Minh đã làm hoảng sợ cả hỏa ngục. Chuỗi Mân Côi cũng được tin là tạo chiến thắng của đội quân Công giáo do Count  Simon de Montfort dẫn đầu, trong trận Muret hồi tháng 9-1213 ở miền Nam Pháp quốc, gồm 800 binh sĩ chống lại vua Aragon và 40.000 quân của tà thuyết An-bi-gen.

Năm 1215, thánh Đa Minh thu hút 6 người bạn cùng làm việc tông đồ và cho họ mặc trang phục như ngài. Đó là một dòng tu đang hình thành với chương trình cầu nguyện, sống
chung, và chương trình học tập với Alexander Stavensky, tiến sĩ thần học người Anh. Rao giảng, dạy dỗ, và làm việc để cứu các linh hồn là lý tưởng của thánh Đa Minh. Một người giàu có tên là Phêrô Siela đến xin theo thánh Đa Minh, giao cho ngài nhà cửa của mình ở gần Narbonne Gate tại Toulouse. Cũng trong năm 1215, thánh Đa Minh đi Rôma và quỳ trước mặt ĐGH Innocent III để xin phê chuẩn Dòng Anh Em Thuyết Giáo (OP – Order of Preachers). ĐGH hướng dẫn ngài dùng tu luật hiện có để sống theo. Thánh Đa Minh và các tu sĩ đồng ý chọn tu luật của thánh Augustinô. Ngày 22-12-1216 có tân giáo hoàng là ĐGH Honoriô III, ngài đã phê chuẩn và tuyên bố thánh Đa Minh là “ánh sáng thật của thế giới”.

Khi sinh thời, thánh Đa Minh đã chữa lành các bệnh nhân, phục sinh người chết, và biến lương thực ra nhiều (các phép lạ vẫn tiếp tục xảy ra cho đến sau khi ngài qua đời). Ngài
khuyến khích  người trẻ và trìu mến với những người mà ngài gặp. Dù ngài già theo thời gian, nhưng tâm hồn ngài vẫn trẻ trung và vui vẻ. Sau khi dòng được phê chuẩn 5 năm, thánh Đa Minh qua đời ngày 6-8-1221 tại Bologna, Ý. Ngay khi  hấp hối, ngài vẫn an ủi người khác. Ngài nói: “Anh em đừng khóc. Tôi sẽ có ích hơn cho anh em dù tôi đi bất cứ nơi đâu, có ích hơn khi tôi sống trên đời này”.

Ước mơ từ lâu của chân phước Jane, mẹ của thánh Đa Minh, đã thành hiện thực: Con trai bà đã thắp lửa sáng khắp thế giới.

Thánh thi hay Chuỗi Mân Côi?

Trong thời thánh Đa Minh, Chuỗi Mân Côi được nhắc tới như “Thánh thi của Đức Maria”, và mãi tới thế kỷ 15 Chuỗi Mân Côi mới được sử dụng. Nhưng 100 năm sau khi thánh Đa Minh giới thiệu Chuỗi Mân Côi, người ta vẫn không hề nhớ tới.

Chữ ros có thể lấy từ tiếng Latin, nghĩa là “sương”, ám chỉ lời Đức Mẹ nói với thánh Đa Minh về “sương hồng ân” hoặc do tiếng Latin là rosarium, nghĩa là “triều thiên hoa hồng” –từ ngữ “Chuỗi Mân Côi” (Rosary) có sau khi Lm Alan de la Roche, Dòng Đa Minh,
người Pháp, được thị kiến Chúa Giêsu, Mẹ Maria, và thánh Đa Minh khuyến khích
ngài khôi phục Chuỗi Mân Côi.

Dạng Chuỗi Mân Côi như chúng ta thấy ngày nay cũng không có trong thời thánh Đa Minh. Việc thêm các mầu nhiệm đã mất nhiều thế kỷ để chỉnh sửa và xác định. Thánh GH Piô V, cũng là tu sĩ Dòng Đa Minh, đã làm điều này năm 1569. Ngày 16-10-2002, chân phước GH
Gioan Phalô II đề nghị thêm 5 Mầu nhiệm Sự Sáng vào Chuỗi Mân Côi truyền thống. Gọi là “Mầu nhiệm Sự Sáng” vì gồm các mầu nhiệm trong sứ vụ công khai của Chúa Kitô từ khi chịu Phép Rửa tới Cuộc Khổ Nạn.

Tặng phẩm của scapular

Năm 1218, tại Rôma, Đức Mẹ hiện ra với một tu sĩ Dòng Đa Minh là Master Reginald, ở Orleans, là giáo sư nổi tiếng về giáo luật tại ĐH Paris trước khi gặp thánh Đa Minh và gia
nhập dòng này. Các bài giảng thuyết của ngài đã thu hút nhiều người vào dòng. Lúc Đức Mẹ hiện ra, Reginald bị bệnh. Mỉm cười với ngài, Đức Mẹ xức dầu cho ngài, chữa bệnh cho ngài, và giới thiệu với ngài một áo dòng trắng (scapular). Đức Mẹ nói: “Đây là áo dòng của con”.

Tại sao lần Chuỗi Mân Côi?

Thế kỷ 15, Lm Alan de la Roche, OP, bảo đảm Chuỗi Mân Côi là nguồn vô biên của các phúc lành:

1.    Tội nhân được tha thứ.

2.  Linh hồn nào khao khát sẽ được thỏa khát.

3.   Ai khổ sầu sẽ tìm thấy hạnh phúc.

4.    Ai bị cám dỗ sẽ được bình an.

5.    Người nghèo được giúp đỡ.

6.    Tu sĩ được canh tân.

7.    Ai không hiểu biết sẽ được hướng dẫn.

Về Chuỗi Mân Côi, chân phước GH Gioan Phaolô II nói: Lần Chuỗi Mân Côi là giao phó những gánh nặng cho Thánh Tâm Thương Xót của Chúa Kitô và Đức Mẹ”.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicDigest.com)

(*) Albigensianism (Albigensianian): Phong trào Kitô giáo được coi là hậu duệ thời trung cổ của Mani giáo (Manichaeism) ở miền Nam nước Pháp hồi thế kỷ XII và XIII, có đặc
tính của thuyết nhị nguyên (đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác). Thuyết này bị kết án là lạc giáo thời Tòa án Dị giáo (Inquisition hoặc Catharism).

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

MẸ MARIA CHỮA BỆNH BI QUAN

MẸ MARIA CHỮA BỆNH BI QUAN

(Hạnh Phúc Gia Đình)

Tác giả: Tuyết Mai

Người có tánh bi quan tôi phải liệt họ vào loại bị bệnh.   Nặng hay nhẹ chắc cũng phải cần được chữa trị hay cho toa thuốc uống.   Ngược lại với bi quan là lạc quan.   Ai sống luôn có tinh thần lạc quan thì bảo đảm cuộc sống của chính người đó và gia đình của họ luôn có hạnh phúc.   Tôi trước đây cứ tưởng là vậy nhưng theo giòng thời gian thì không phải được vậy! Vì trong gia đình tôi đây thì được có tôi là mẹ và con gái đầu lòng của chúng tôi là sống luôn vui vẻ và lạc quan yêu đời.
Nếu anh chị em nào có thường đọc bài viết của tôi đều nhớ rằng chúng tôi có cháu gái lớn “cả”, cháu có trái tim lớn hơn cả người của nó.   Thật phải khi tôi nói vậy vì trí khôn của cháu chỉ lớn bằng đứa trẻ 10 tuổi, nhưng lạ một điều là cháu thu hút tất cả mọi người như thỏi nam châm vậy, từ trẻ cho đến già, không trừ một ai!.   Chẳng ai có thể giận hờn hay ghét cháu cho được, vì cháu cho tất cả mọi người tình thương yêu rất sẵn có của cháu là nụ cười, cái ôm, lời nói dịu ngọt luôn đi cùng với tiếng cười rộn rã làm ấm phòng ấy của cháu.
Kế đến là tôi, nhờ cái tánh rất tự tin và rất lạc quan của tôi mà gia đình đến giờ này vẫn còn nguyên vẹn tuy sóng gió không ngừng nghỉ và không có được cơ hội dù là 1 tuần lễ của bình an mà không do những con lốc nhỏ có to có của ông nhà tôi, luôn đe dọa.   Vâng, rất thường là vì sự lo lắng thái quá cho các con của ông mà nhất là cháu gái đầu.
Có ai đời sự lo lắng của ông lại không tìm thẳng đến các cháu để hỏi, để chất vấn, để tìm hiểu ngọn ngành? Mà ông luôn tìm đến tôi để thắc mắc và để cho ông những câu trả lời thích đáng và để trấn an ông.   Thưa sao vậy, có người hỏi? Có phải vì ông ngại phải giáp mặt với chúng vì hiểu rằng chúng sẽ không đồng quan điểm với những lo âu thái quá, không cần thiết ấy của ông!? Vì chúng lớn hết cả rồi!.   Trong đầu ông tôi biết ông vẫn chưa tin tưởng vào Thiên Chúa của ông 100%, vì ông mới theo Chúa đây thôi!.   Do đó có phải khi Đức Tin của chúng ta nó nhỏ hơn cả hạt cải thì không điều gì trong cuộc sống mà ta không lo lắng, hốt hoảng, và không ngừng bạc đầu?.
Tôi thì rất tin vào Đấng Chí Tôn, tuyệt đối tin vào Đấng mà có thể làm cho ta chết cả thân xác và liệng linh hồn ta vào lửa của đời đời, nếu ta không tin người và từ chối người.   Ông có những suy nghĩ rất nghịch lý với những điều ông từng dậy con ông.   Ông sợ giáp mặt chúng và cho chúng
biết ý muốn của ông là chỉ muốn chúng bị nhốt trong nhà để cho ông dễ theo dõi và được an tâm, thì bảo đảm chúng sẽ làm mọi thứ ngược lại với ý của ông ngay.   Vì thế ông đã chọn tôi để làm khổ cái đời tôi!.   Tôi không phủ nhận rằng ông rất toàn diện trên mọi phương diện khác nhưng ông vẫn bị bệnh tưởng tượng, hay vẽ vời, và hình dung ra mọi sự trong con mắt bi quan của ông.
Phải chi sự tưởng tượng của ông nó tưởng tượng ra cách lạc quan thì đỡ khổ cho cái đời ông biết mấy!.   Vì sự sống lạc quan Nó còn hơn là tất cả thuốc tây, thuốc nam, và thuốc bắc cộng lại.
Để thử xem lời tôi nói có đúng không nhé!.   Anh chị em thử đi hỏi khắp cùng những ông những bà sống thọ xem cách họ sống ra sao mà họ được thọ đến thế?.   Chắc hẳn chẳng phải vì họ giầu có, chẳng phải cực khổ làm lụng, hay được ăn cao lương mỹ vị hằng ngày.   Cũng chẳng phải vì họ có được vợ đẹp, con khôn ngoan, được chìu chuộng cả cuộc đời họ đâu! Nhưng thưa vì họ có được cái tánh sống lạc quan yêu đời.   Tánh lạc quan giúp họ tin tưởng vào chính họ và khả năng của họ.   Họ luôn tin tưởng vào con người và cuộc đời.
Nhờ sống lạc quan nên họ không nghi ngờ việc gì cả! Vì có phải sự nghi ngờ làm chúng ta trở nên nhút nhát và không dám làm điều gì cả?.   Chưa ra làm ăn thì đã sợ thua lỗ.   Chưa đặt chân ra ngoài đường thì đã sợ bị giật bóp hay cướp bóc.   Chưa muốn lập gia đình vì nghĩ rằng chắc chắn mình sẽ bị phản bội và bị bỏ, v.v…. Nói chung là nhát, chẳng tin vào ai cả! Đó là giải thích cho một người có tánh bi quan.
Nhưng điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải đặt Niềm Tin vào Đấng Tối Cao cách trọn vẹn và tuyệt đối vào Thiên Chúa của chúng ta.   Chính Niềm Tin ấy là nguồn Sinh Lực dồi dào mà ta đã hứng từ Trên, từng ngày một trong cuộc sống.   Hoặc lãnh (refill) dầu cho đèn. Có phải bình dầu càng đầy thì chức năng của đèn cho ta ánh cực sáng hay không? Thưa đúng là vậy!.
Nhân tháng 10 tháng Mân Côi là tháng mà chúng ta phải biết lợi dụng mọi cơ hội mọi thời giờ chúng ta có, để dâng lên cho Mẹ Maria càng nhiều Kinh Mân Côi càng tốt.   Vì chỉ có Kinh Mân Côi mới giúp chúng ta đến gần mẹ, liên kết chặt chẽ với Mẹ là được thôi!.   Vâng, Kinh Mân
Côi là đường dây điện thoại rất vô hình, rất linh thiêng sẽ cho ta liện lạc được với Mẹ.
Hãy luôn là những người con ngoan ngoãn và hiểu rằng nhờ Mẹ mà cuộc đời chúng ta sẽ luôn được an vui, lành mạnh, sống tốt, sống khỏe, từ tinh thần cho đến thể xác.   Để linh hồn hết thảy chúng ta không chút bợn nhơ vì nhờ Kinh Mân Côi gạn lọc cho đến mức toàn hảo như hột soàn vô giá không còn dính chút bụi than.   Nhớ nhé! Chỉ có Kinh Mân Côi của Mẹ Maria  mới có thể chữa trị bệnh cho Linh Hồn Sống Đời của chúng ta và bệnh cần chữa nhất là bệnh Bi Quan.   Amen.
Y Tá Của Chúa,
Tuyết Mai
(10-10-12)

Đơn Sơ Chân Thật – Nhạc Bất Quần

Br. Huynhquảng
Thưa quí bạn, chúng ta đã lần lượt suy ngẫm về ba đề tài: Tha Thứ, Hiệp Nhất,
và Sống Hiện Tại. Thực ra, sống giây phút hiện tại không gì khác hơn chính là
sống thật với con người mình. Sống hiện tại luôn luôn níu kéo chúng ta trở lại
với hiện tại, với bản chất con người thật của mình. Vì lý do đó, mục Sống Đẹp
hân hạnh giới thiệu đến quí bạn đề tài mới: Đơn Sơ – Chân Thật, chỉ với hy vọng
phần nào góp thêm chất liệu màu sắc để bạn và tôi cùng nhau hoàn thiện bức
tranh của chính mình. Kỳ này mục Sống Đẹp xin mượn nhân vật Nhạc Bất Quần trong
tiểu thuyết võ hiệp lừng danh của Kim Dung để giúp ta hiểu thêm hậu quả của sự
gian trá, không chân thật. Nhưng quan trọng hơn, nhân vật này có thể giúp ta
dừng lại để lắng nghe tiếng nói trong con tim: Động cơ gì đã dẫn quân tử kiếm
Nhạc Bất Quần dùng mọi thủ đoạn âm mưu để lừa gạt, để hại người, hại gia đình,
và hại chính mình.
Nhạc Bất Quần
Kim Dung thoạt đầu miêu tả Nhạc Bất Quần như một bậc chính nhân quân tử thuộc chính phái. Ông là chưởng môn phái Hoa Sơn, luyện thành công môn Tử Hà Công; ông ăn nói nhỏ nhẹ, thái độ khoan thai cộng với võ nghệ cao cường nên ông được nhiều người trong chốn giang hồ kính nể, đặc biệt Lệnh Hồ Xung, chàng một lòng kính phục sư phụ mình.
Dầu vậy, do tham vọng hợp nhất năm môn phái thành một, và sau đó sẽ làm minh
chủ Ngũ Nhạc Phái, Nhạc Bất Quần đã lừa gạt mọi người và dùng Lệnh Hô Xung để
che đậy tội lỗi của ông. Ông đã ăn cắp Tịch Tà Kiếm Phổ của nhà họ Lâm; ông
đoạt ngôi minh chủ trên tay Tả Lãnh Thiền, người cũng có tham vọng làm minh chủ
Ngũ Nhạc Kiếm Phái, và tệ hại hơn, ông đã đánh lừa chính vợ con ông và bản thân
ông khi ông tự thiến để luyện Tịch Tà Kiếm Phổ. Cuối cùng, Nhạc Bất Quần đã
thành công và đã đạt được mục đích; ông trở thành minh chủ Ngũ Nhạc Phái; ông
đã luyện thành công Tịch Tà Kiếm Phổ; ông đã có tất cả những gì ông khao khát,
nhưng cuối cùng ông đã đánh mất đi chính bản thân ông. Khi ông được tất cả cũng
chính là lúc ông mất tất cả.
Kim Dung tài tình lột dần mặt nạ của Nhạc Bất Quần, để dù Nhạc Bất Quần đã có
trong tay tất cả những gì ông muốn, nhưng khi mặt nạ đã bị lột bỏ, thì dù là
minh chủ của Ngũ Nhạc Phái, bên ông không còn ai là bạn hữu, không còn ai là đệ
tử, và cuối cùng phải chết dưới tay Ni-Cô Nghi Lâm phái Hằng Sơn. Bộ mặt thật
“ngụy quân tử” của Nhạc Bất Quần lộ ra khi ông có trong tay mọi thứ ông tham vọng và khao khát. Cảnh cuối đời của Nhạc Bất Quần diễn tả đúng với tên gọi của ông, nghĩa là “không chơi với ai.” Vì thực ra dù trước khi bị lột mặt nạ, ông có rất nhiều bạn hữu và được nhiều người kính nể, nhưng thực ra ông đâu có thực lòng giao tình bằng hữu với ai đâu! Với ông, tất cả các mối quan hệ đều ngấm ngầm tính toán hơn thua; ông dùng mọi người kể cả đại đệ tử, vợ ông, và con ông làm bàn đạp cho ông thực hiện âm mưu bá chủ võ lâm. Mối quan hệ của ông từ trong gia đình ra ngoài xã hội đều dựa trên sự gian dối, lừa gạt,
âm mưu… chứ không dựa trên sự thật, đơn sơ, chân chính của người võ sư.
* * *
Thưa bạn, cũng như Nhạc Bất Quần, điều nguy hiểm nhất cho cuộc đời chúng ta là đôi khi chúng ta đã gạt bỏ những gì chúng ta đang có để cố chụp giựt cho được điều mà chúng ta thích, vui. Động cơ này dễ dàng thúc dục chúng ta tìm mọi phương cách để đạt được mục đích kể cả khi phải dùng những kỹ xảo thấp hèn. Gạt bỏ những gì sẵn gần bên ta, trong gia đình ta, trong tâm hồn ta để rong ruổi tham vọng những sự xa ta, ngoài gia đình ta, và ngoài tâm hồn ta… đó là thất bại lớn nhất của một đời người. Chạy theo dục vọng để chiếm hữu, để được làm chủ một điều gì ngoài ta là một cuộc rong ruổi nguy hiểm và dễ dàng đánh mất chính ta; vì thực ra khi ta chỉ lo kiếm tìm những sự “bên ngoài” thìchắc một điều, sự “bên trong” không được quan tâm và chăm sóc cho chu đáo. Được điều gì khi ta thắng trận mà ta không biết ta trở về đâu. Hóa ra, cái sự thật căn bản vẫn là chính ta, trong ta chứ không phải bên ngoài được tô điểm bằng danh thơm hão huyền hư ảo. Từ đó ta học được rằng, dù xã hội có thể ban tặng cho ta tước hiệu hoa mỹ đến đâu đi chăng nữa, nhưng ta không thật với lòng ta, thì ta cũng mất tất cả – và điều mất mát lớn nhất trong cuộc đời chính là mất đi chính ta. Mong rằng chúng ta cùng giúp nhau mỗi ngày khám phá ra sự thật
về chính mình; cùng giúp nhau cẩn tĩnh về hiểm họa của những tiếng mời gọi ta
đi ra khỏi lòng ta. Thực tế cho thấy, “Đôi khi thế giới [con người] cứ lôi kéo bạn theo một hướng, mà theo con tim, bạn không mong muốn đi theo.”
Thưa bạn, nếu Nhạc Bất Quần biết nhận ra tài năng và thật tâm của Lệnh Hồ Xung,
nhận ra một gia đình hạnh phúc trong giá trị hiện tại của đời ông, chắc một điều ông sẽ đạt được cả “bên trong” lẫn “bên ngoài.” Nhưng đáng buồn thay ông đã không làm như vậy. Còn bạn thì sao?

Giận Dữ

Giận Dữ
Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức
Trong một dịp hàn huyên, Mục sư Phan Thanh Bình bên San Diego có chia xẻ như sau về sự Giận Dữ.
Giận dữ là bản tính tự nhiên của con người. Giận là một trong những thất
tình: Mừng, giận, buồn, sợ, yêu, ghét, muốn
.
Giận thì buồn phiền, hờn dỗi cho những người yếu thế. Giận thì quát tháo, chửi
rủa, đập phá, đánh nhau đôi khi giết nhau cho những người ở thế mạnh.
Người xưa đã chia giận làm hai loại: Giận huyết khí và giận nghĩa lý. “Huyết
khí chi nộ bất năng hữu. Nghĩa lý chi nộ, bất năng vô”.
Cái giận nóng tính
không nên có. Cái giận nghĩa lý, chẳng nên không.
Người huyết khí chi nộ” hầu hết là người yếu về trí xét đoán: giận đã, xét sau;
yếu về tinh thần, không kiềm chế nổi sự giận dữ nơi mình; yếu về lòng thương
sót, thông cảm.
Người biết giận “nghĩa lý chi nộ” là người rất mạnh. Mạnh về trí xét đoán, mạnh
về tinh thần dù thể xác có yếu và đầy lòng thương xót.
Với tinh thần “cầu an” chúng ta thường bò “ Nghĩa lý chi nộ”. Nhưng chúng ta thường tỏ ra “anh hùng” với “huyết khí chi nộ”.
Người xưa đã phân định: “Người không biết giận là người dại, người không muốn giận là người khôn”. Người kiềm chế được cơn giận phải là người giàu
nghị lực.
Kinh Thánh dạy: “Người nào cũng phải mau nghe, chậm nói, chậm giận”(Gia-cơ
1:19).
Biết bao lần chúng ta hối tiếc đã để cơn giận bùng lên chỉ vì nghe chưa thấu, xét chưa tường, mà đã hàm hồ phán đoán
Nếu phải nổi giận vì cái “nghĩa lý chi nộ”, cũng phải cẩn thận : “Ví bằng anh em đương cơn giận thì chớ phạm tội, chớ giận cho tới khi mặt trời lặn, và đừng tạo cơ hội cho ma quỷ” (Ê-phê-sô 4:26-27).
Ôn lại quá khứ, bởi giận mà chúng ta làm cho “cái sảy nảy cái ung”, “giận chuột ném vỡ bình quý, “giận con rận, đốt cái áo”. Tất cả đều là giận dại. Là không còn sáng suốt hiểu biết chân lý để nói.
“Giận lên là nổi cơn điên
Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu”
Cảm ơn Mục sư Phan Thanh Bình, người đã viết tới 99 cuốn sách về Chúa Jêsus,
Kinh Thánh, Chứng đạo, Gia đình…
Thưa Mục sư,
Nhà Phật cũng dạy: “Ôm lấy sự giận dữ chẳng khác chi nắm cục than hồng định
liệng vào người khác, nhưng trước khi ném thì tay đã phỏng cháy”.
Hoặc theo lời khuyên của Thomas Jefferson: “Khi giận hãy đếm tới 10 trước
khi nói. Nếu giận tràn hông thì đếm tới 100”.

Mới đếm tới bảy tám mươi đã ngủ khì thì còn giận gì nữa.

Sao mà khéo khuyên!!! Nhẹ nhàng nhưng công hiệu.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Anh chị Thụ Mai gởi

SÀI GÒN MƯA NẮNG, & ĐÊM TRĂNG,

SÀI GÒN MƯA NẮNG,

Mưa Sài Gòn nước ngập thành sông,

Xe cũng bơi sóng lượn chập chồng,
Người lặn hụp tranh từng nhịp thở,

Số kiếp nghèo đầy những bất công…

Nắng Sài Gòn nóng cháy khô da,

Khói bụi mù bao kẻ không nhà,

Đêm nằm giường đất chăn sương đắp,

Ngày uống tương lai xót ruột rà…

Người Sài Gòn giờ thay đổi mới,

Học không nhiều lại nhậu đến nơi,

Làm khơi khơi chơi bời tới bến,

Đến khi nào đất nước tàn thôi…

Cảnh Sài Gòn đêm về tươi sáng,

Hút thâu đêm đốt cháy bạc vàng,
Trong phòng trà uống cạn đời hoang,

Dân kêu khổ người nghe cũng chán…

Nghề Sài Gòn muôn người buôn bán,

Máu tươi thận mới nữa lá gan,

Người bán đêm về mơ oằn oại,

Người mua ngay ngáy sống lo âu…

Sài Gòn ơi…bạc quá biết về đâu?

Nghe hụt hẫng chìm tận đáy nỗi sầu!!!

Liverpool.3/10/2012.

Song Như.

ĐÊM TRĂNG,

Vầng trăng lắc lẻo trên cao,
Đêm đêm thức giấc rơi nhào xuống sông,

Vàng trên sóng nước bềnh bồng,

Chèo thuyền vớt hết mặn nồng trao em,

Tim hoang lạnh thấm ướt nhèm,

Tình anh gói trọn bên thềm nhớ thương,

Sương mờ ấp ủ vấn vương,

Em về bến ấy mà hương vẫn còn…

Liverpool.2/10/2012.

Song Như.

Có thể thật lòng yêu kẻ thù ?

Có thể thật lòng yêu kẻ thù ?

Đăng bởi pleikly lúc 2:17 Sáng 9/10/12

VRNs (09.10.2012) – CatholicHerald – “Thiên Chúa nói với Môsê: Hãy nói với toàn thể cộng đồng về con cái Israel và hãy nói với họ. Hãy nên thánh, vì Tôi là Đức Chúa, là
Thiên Chúa của ông, là Đấng Thánh”.

Sách Lê-vi tóm tắt các giới răn khác theo giới răn này: Như Chúa là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta cần nên thánh. Sự thánh thiện mô tả mọi thứ mà Thiên Chúa đặt lên trên sự sáng tạo sai trái. Sự thánh thiện là điều gì đó hơn cả việc giữ trọn lề luật như nô lệ. Nên thánh là
vào trong ý nghĩ và trái tim của Chúa, phân xử như Chúa phân xử, hiểu như Chúa hiểu.

Khi những câu trong sách Lê-vi mở ra, chúng ta bắt đầu đánh giá hố ngăn cách (gulf) giữa thói quen tội lỗi của con người và sự thánh thiện của Thiên Chúa. Nhiều người coi sự thù hằn là cách phản ứng tự nhiên nhất đối với sự thiệt hại mà chúng ta chịu. Sự thánh thiện mà
chúng ta được mời gọi đòi hỏi cách phản ứng khác, đó là cách phản ứng có vẻ đi ngược với bản chất. Bạn không được thù ghét anh em, bạn không được trả thù, bạn không được đố kỵ.

Một trong các hậu quả của tội là xu hướng phê phán thù hận. Sách Lê-vi loại trừ điều này bằng giới răn, được Chúa Giêsu lặp lại, rằng chúng ta phải yêu người như chính mình. Giới răn quá quen thuộc đến nỗi chúng ta có thể dễ dàng làm ngơ sự thay đổi cơ bản của con tim mà giới răn ám chỉ. Tội lỗi khiến chúng ta tự nhận là “trung tâm vũ trụ”, vô tình xác nhận rằng mọi thứ phục vụ chính mục đích của chúng ta. Yêu người như chính mình đảo lộn ý nghĩ này. Đây là sự thánh thiện mà Thiên Chúa đặt chúng ta lên trên tội lỗi, đưa chúng ta vào ý nghĩ và trái tim của Thiên Chúa.

Tiếp theo Bài Giảng Trên Núi, Phúc âm nhấn mạnh hố ngăn cách giữa sự thánh thiện và thái độ tội lỗi đã thâm căn cố đế (ingrained attitudes of sin). Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” có vẻ rất cân xứng. Điều gì đó trong chúng ta bắt đầu nổi loạn khi chúng ta được khuyên không chống lại kẻ độc ác, đưa má cho người ta vả, không chỉ đưa áo trong mà
đưa luôn cả áo ngoài cho kẻ áp bức mình.

Sự không thoải mái mà chúng ta cảm thấy đã ăn rễ sâu trong chúng ta. Chúng ta bị giằng co: sự công thẳng và ân sủng. Đức Kitô không đến thế gian này để đối xử công thẳng với chúng ta. Ngài đến để mạc khải tình yêu của Chúa Cha, một hồng ân vượt trên mọi thứ mà chúng ta đáng hưởng. Bài Giảng Trên Núi mời gọi chúng ta đạt đến sự thánh thiện để đối xử với tha nhân bằng sự độ lượng mà chúng ta đã lãnh nhận. Chỉ bằng cách này thì chúng ta mới có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, và hoàn thiện như Chúa Cha là Đấng hoàn thiện.

Chỉ là tự nhiên để cảm thấy bất xứng trước các yêu cầu của Chúa Giêsu trong Bài Giảng Trên Núi. Chúng ta có thực sự yêu kẻ thù và làm điều tốt cho những người làm hại mình? Thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô đặt yêu cầu của Chúa Giêsu ngược với những ân sủng mà chúng ta lãnh nhận.

“Bạn không nhận ra mình là đền thờ của Thiên Chúa và Chúa Thánh Thần sống trong bạn sao?”. Đó là tặng phẩm của Chúa Thánh Thần mà chúng ta có thể nên thánh như Chúa Cha là Đấng Thánh, độ lượng như Ngài. Thánh Phaolô tiếp tục làm tương phản sự khôn ngoan của thế gian với sự điên dại của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan của thế gian đòi hỏi sự công bình. Sự điên dại của Thiên Chúa là ân sủng vị tha. Đây là tính thánh thiện mà chúng ta
được mời gọi.

ĐGM David McGough

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ CatholicHerald.co.uk)