Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Năm Thường niên

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ Năm
Thường niên Năm C 10-02-2013

Trần Ngọc Mười Hai

nguồn:Vietcatholic.net

 

2/7/2013

“Em thường hay ước mơ”

“Mơ người yêu lý tưởng.

Với vẻ hào hoa lắm nét kiêu hùng,

điểm chút phong sương.”

(Y Vân – Tình Yêu Lý Tưởng)

(Mt 23: 11)

Ước mơ của bần đạo, hồi đó, rất lý tưởng. Lý tưởng, không chỉ vì Tình Yêu Thiên
Chúa rất trừu tượng, mà còn là tình yêu hiện rõ nơi mọi người. Chí ít, là người
ít tiền, ít của, ít cả tham vọng nữa. Tham vọng, mà làm gì khi các nhân vật mà
người Hoa bên Trung Quốc vẫn cứ ước và cứ mơ chỉ là Lưu Bang, Tần Thuỷ Hoàng,
Mao Trạch đông, vv… nay đi vào chốn quên lãng, rất chê bai.

Nhớ về “Tình Yêu Lý Tưởng” có ước và mơ, bần đạo lại nhớ về chuyến “tư du”
Trung Quốc đầu niên lịch 2013 có khá nhiều điều buồn/vui lẫn lộn. Điều vui buồn
đáng nhớ hôm ấy, là khi bần đạo được hai hướng dẫn viên du lịch trẻ một tên
Khương và một tên là Alison Wong dám nói lên điều mình nhận xét về nhân vật nổi
tiếng tàn bạo là Tần Thuỷ Hoàng và cả Mao Trạch Đông, khi xưa đốt sách giết
người có học. Anh Khương nói: “Về với lịch sử Trung Quốc, theo tôi bạo chúa họ
Tần là người đầu tiên từng đốt sách, hạ bệ và diệt trừ giới trí thức. Ngàn năm
sau, lại cũng có một đấng hậu duệ khác cũng rơi vào dấu mòn vết cũ, như tội
ác… Người đó là ‘Mao sếnh sáng’, tức Mao Trạch Đông. Ông này là vị đồ tể cuối
cùng của lịch sử của người Hán.”

Là ‘sếnh sáng’, đồng nghĩa với đấng chóp bu lịch sử mà nhất cử nhất động vị ấy
vẫn được người đời biết đến. Được biết đến, là biết về “tình lý tưởng” đeo mang
ý tưởng hơi khác người như một ước mơ cũng rất khác, như lời người nghệ sĩ sau
đây:

“Em thường hay ước mơ.

Mơ người yêu lý tưởng.

Với vẻ hào hoa lắm nét kiêu hùng

điểm chút phong sương.

Đây là chàng chiến binh,

Hay là chàng phi công hay là chàng thủy thủ..”

(Y Vân- bđd)

Nhân vật nào dù “lắm nét kiêu hùng” của bạo chúa, rồi ra cũng có ngày tan tành
tâm trí lẫn tâm tư và sẽ chìm lắng trong hôn hoàng, trời mây. Thế nhưng, nói
thế đâu có nghĩa bảo rằng vị nào vị nấy cứ tung hoành bạo tàn như hai đấng
‘chóp bu’ nọ của Trung Quốc/nước Tàu đều quẫn bức giới có học đâu. Nơi nhà Đạo
cũng thế, thủ lãnh nhà Đạo mình chẳng bao giờ tung hoành lập thành tích bất
ưng, nhưng vẫn được nhiều người nhớ và ước mơ, được như thế. Ước mơ, một lý
tưởng hoặc ước vọng tưởng là mơ, lại được đấng bậc chuyên chăm nhà Đạo biến
thành chuyện để kể, rất hôm nay. Truyện, do đấng bậc hôm nay kể lại chính là
đan viện phụ nọ ở Bỉ, cũng có ước và có mơ về một lý tưởng; nhưng “nửa đường
đứt…bóng’ rất như sau:

‘Nhất định. Nhất định rồi!

Tôi không thể trở thành đương kim Giáo Hoàng được nữa rồi! Bởi các đấng bậc của
tôi, nay lại bầu vị khác thay vì tôi. Thế nên, nay tôi xin bộc bạch dự
kiến/chương trình mà lâu nay tôi hoạch định để mọi người còn biết mà cảm thông.

Giả như tôi được bầu làm đấng bậc cao cả đến là thế, hẳn là đương nhiên tôi đã
trở thành vị giám quản giáo phận La Mã rất đương nhiệm, thôi! Và khi ấy, tôi sẽ
yêu cầu Hồng y giáo chủ Ratzinger, lên án các triết thuyết ngộ đạo này khác và
cáo buộc bất cứ lập trường/tư tưởng này khác của người đạo rối. Nhất thứ là
những vị cứ giả tảng/làm ngơ muốn biến vai trò của vị ‘giám quản giáo phận
Roma” thành đấng chủ quản toàn cầu hoặc trở thành vị chánh-trương/chánh-quản
toàn thế giới.

Và lúc đó, có lẽ tôi cũng gỡ bỏ mọi chất kích tác mọi ước vọng khỏi niềm mơ ước
của Cộng Đồng Vatican 2 chỉ muốn thiết lập một tập đoàn giám mục rất đoàn kết.
Và rồi, vào năm đầu triều đại giáo hoàng, tôi sẽ triệu tập một thượng-hội-đồng
giám mục gồm toàn các vị chủ quản giáo hội toàn cầu, quyết đề ra chương trình
hành động khả dĩ khiến mọi giám quản tham dự thượng hội đồng này được coi như
‘phụ mẫu chi dân’, rất trong Đạo.

Để chuẩn bị cho một thượng-hội-đồng giống như thế, có lẽ tôi sẽ phát tán toàn
bộ thư luân-lưu đến hội đồng giám mục các nơi trên thế giới; và nói với các
đấng một câu như: “chư huynh đừng sợ!’ Tôi sẽ khuyến khích các ngài nhận lãnh
trách nhiệm mới, để rồi còn truyền bá cho toàn hội-đồng, hầu các vị mới am
tường về nhu cầu của mọi người, nam cũng như nữ đang sống đạo ở giáo phận; cả
người Công giáo cũng như người ngoại Đạo. Và khi đó, có lẽ tôi sẽ yêu cầu Hồng
Y Ratzinger hoàn tất một số tài liệu mới về nền tảng thần học cho tập-đoàn giám
mục khắp nơi. Có thể, tôi cũng sẽ kêu mời các giám mục đia phương nhận lãnh
trọng trách mục vụ của các ngài, mà chẳng sợ gì đội ngũ ‘đức ông‘ vẫn có thói
quen điều hành cơ quan/sở bộ khác nhau, ở giáo triều.

Sau đó, có lẽ tôi cũng sẽ yêu cầu bãi bỏ các chuyến công du của chính tôi và
các vị giáo chủ kế-tục tôi, ta sẽ không còn xuất dương ra khỏi giáo phận La Mã,
cho đỡ tốn. Và, tôi sẽ thiết lập một thế hệ mới mẻ bao gồm mọi thành phần
giáo-dân có khả-năng truy cập mạng của giáo triều La Mã mình. Bằng vào tiền
tiết kiệm/dành dụm, thay vì xuất dương du ngoạn nước ngoài như thế, sẽ giúp tôi
thiết lập một dự án cho phép tất cả mọi công dân trên địa cầu này được tự do
vào mạng này cách dễ dàng, trước nhất ưu tiên cho người nghèo hoặc ít tiền.

Và, tôi sẽ chuẩn bị dư luận để cuối cùng lại cũng cho phép nữ-giới được tấn
phong làm linh mục đã chọn kỹ từ các vị nữ-lưu khôn ngoan, khéo léo, lành
thánh. Đương nhiên, tài liệu này sẽ khởi lên như một bản văn chính thức của
tông-toà trong đó ghi đôi câu như sau: “Hội thánh La Mã lúc nào cũng tin tưởng
và đặt nặng vào giáo huấn như thế.’

Còn nữa, tôi sẽ mời gọi hết thảy các thánh bộ trong giáo triều hãy cải-hối
chính mình thành cơ-quan chức-năng thực tế, chỉ phục vụ giáo hội và các cơ sở
tôn giáo địa phương thôi. Tôi sẽ cố gắng tin tưởng các hội-dòng chiêm-nghiệm
chuyên sống khắc kỷ và các tu hội này khác vẫn cứ tồn tại sau nhiều thế kỷ gặp
khủng hoảng. Đồng thời, tôi cam kết với họ rằng: các ngài sẽ không bị khuyến dụ
hoặc kêu mời làm thành-viên trong tổ chức Công-Trình Của Chúa (tức Opus Dei);
đồng thời nhắc nhở các ngài rằng: nhiều thế kỷ qua, các ngài vẫn thật sự là
‘chiến hữu’ Đức Kitô. Và, tôi cũng tự mình xem xét các phong trào mới – hoặc để
giải thoát/hiệp thông hoặc làm tân tòng của Chúa- nhưng vẫn tôn trọng quyền tự
trị và sức sống của hội thánh địa phương.

Bên cạnh các cơ sở tôn giáo mang tính cổ truyền, là cơ quan có mục tiêu chính
như tái sáng chế ra thứ nước nóng đang cần. Tôi cũng sẽ yêu cầu giáo triều La
Mã -trước khi tự biến cải chính mình – sẽ đồng thuận để trở thành hình-thái mới
khả dĩ phối-kết giáo hội, hầu đáp ứng những gì được coi như hơi thở của Thần
Khí cho nhiều thập niên mà không cần đến chỗ đứng trong giáo luật. Là, gia-đình
linh-đạo gồm cả nam lẫn nữ, có gia đình hoặc độc thân, giáo dân hay linh mục,
sống năng-động hay chỉ chiêm-nghiệm, nhất nhất đều kết hiệp quanh thị-kiến
linh-đạo cũng rất chung qua hiệp-thông phục-vụ Thiên Chúa, thế giới và Nước
Trời.

Tôi sẽ tiến đến giải-pháp đình chỉ việc phong chân phước và hiển thánh cho đến
khi tất cả tín-hữu tốt-lành hôm nay được biết đến cả danh tánh, sử hạnh và giáo
huấn của các bậc hiển thánh trong quá trình 25 năm qua. Tôi sẽ đề ra một luật
trừ cho vị nào được toàn thể dân Chúa coi là vẫn muốn phong làm thánh nhưng lại
bị thánh-bộ “phong thánh” quên tên như trường Đức Giám mục Oscar Romêrô chẳng
hạn.

Tôi sẽ hít vào buồng phổi lớp tro tàn của phong trào Linh thánh dấy lên ở Châu
Mỹ La-tinh vào năm tháng quẫn bách dưới chế-độ hà-khắc của đám quân-binh
độc-tài kiểu Pi-nô-chê để rồi tặng ban sự sống mới cho các phong trào bị xoá
tên vì sợ bị ảnh hưởng từ chủ-nghĩa xã-hội đích thực. Tôi sẽ tổ chức các buổi
hội-nghị chuyên đề thảo-luận và trình-bày cho thấy nền thần-học giải-phóng cũng
đem đến cho hội thánh hiện-tại các thần-học-gia sâu sắc của Châu Âu thời Công
đồng Vatican 2 nay tuyệt chủng; vì nền thần học này đang ngày càng thoái hoá,
suy sụp.

Tôi sẽ đề nghị các thần-học-gia nhà mình hãy sáng-tạo hơn nữa trong điều
nghiên, hầu dẫn-giải sứ-điệp Tin Mừng thành thứ gì đó cho mọi người cả nam lẫn
nữ đều có thể hiểu được, để rồi họ sẽ có vai trò không chỉ bó mình trong việc
bình giải văn bản của các Tổ phụ, thôi. Tôi sẽ khuyến khích các vị ấy biết
chỉnh-sửa lẫn nhau và biến đổi giáo-triều hầu bảo vệ niềm tin đi vào cơ sở
chuyên chăm nghiên cứu thần học.

Tôi cũng nói thêm một lần nữa, cho giới trẻ biết tương lai của Hội thánh và yêu
cầu họ giới hạn chuyện đi đây đó trong các năm sắp tới, dành tiền tiết kiệm cho
việc dựng-xây nơi-ăn-chốn-ở cho các vị cao niên –có khi cũng là ông bà của họ
tại nước họ đang sống. Tôi vẫn biết Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne bị lỗ nặng về
tài chánh và bãi bỏ các Đại hội như thế bằng cách bán cơ sở/cao ốc hiện được dùng
làm văn phòng ở Vatican.

Tôi chỉ muốn bán các cơ sở ở Vatican đi, trừ Vương Cung Thánh Đường Phêrô thôi,
rồi sau đó, mua một căn hộ nho nhỏ để sống tại quận lỵ dân dã ở Rôma, và khi
muốn đi đây đó tới các ty/sở, tôi sử dụng xe chuyên-tu dành cho Giáo Hoàng,
thôi.

Và rồi, tôi quyết tâm sẽ về hưu sớm. Nhưng ở tuổi 75, xem ra tôi vẫn còn trẻ vì
tôi cũng sắp đi vào tuổi đó rồi. Tôi sẽ bớt việc của các hồng y xuống thành
những việc mang tính danh dự thôi, và sẽ tổ chức bầu cử Giáo Hoàng kế tục cho
dân La Mã, vì đó là giáo phận ngài chăm sóc.

Đấy! Quí vị thấy đấy. Họ có cho tôi cơ hội nào đâu dù chỉ một cơ hội duy nhất
để biến chương trình này thành hiện thực.” (xem Lm Armand Veilleux Trappist –
Abbot of Scourmont, Belgium- If I had been elected Pope…)

Là đấng bậc viện-phụ mà chỉ ước và mơ mỗi như thế, cũng không thành. Nghĩ cho
cùng, làm sao thành sự được khi đó chỉ là những mơ cùng ước. Ước mơ/mơ ước
thành sự ở thơ văn/âm nhạc, mà thôi. Bởi thế nên, người nghệ sĩ của ta vẫn hát
câu thơ khá mơ và ước như sau:

‘Tuổi mộng mơ,

tuổi mộng mơ ước mơ tiên.”

(Phạm Duy- Tuổi mười ba)

Tuổi mộng mơ, chưa chắc là tuổi của những mơ và ước. Ước và mơ, thật ra cũng
chẳng cần đợi tuổi tác hoặc năm tháng/ngày giờ, mới đạt được. Mơ và ước, hầu
như ai cũng có cơ hội và có quyền hạn để thực hiện. Tuy nhiên, cứ sự thường thì
người đời chỉ mơ và ước khi mình còn trẻ, tức thời gian còn dài để có thể đợi
mong nó thành hiện thực. Trường hợp đấng bậc trên, kể cũng lạ và hiếm có. Thế
nên, đức thày mình vẫn cứ mơ và cứ ước lại không nghĩ rằng những ước mơ của
ngài sẽ được thực hiện, cũng chóng thôi.

Tuy nhiên, người đời tuy biết thế nhưng vẫn ước và mơ. Mơ ước, nhưng không là
mơ mộng. Và, chắc chắn không là mộng ảo, mộng tưởng hoặc mộng mỵ. Mộng gì thì
mộng, tưởng gì thì tưởng hẳn cũng không là mộng ước của vua cha như truyện kể,
ở bên dưới.

Truyện rằng,

Vị vua tài đức nọ giàu đức hạnh, nhưng không có hoàng tử nối ngôi. Vua ta bèn
nghĩ tới việc chiêu mộ những người trẻ tài đức để có thể kế vị ông sau khi ông
qua đời.

Một ngày kia, vua cho mời tất cả các trẻ em từ 5 đến 12 tuổi vào hoàng cung. Vị
vua giải thích cho các em ý định của ông là muốn tìm người tài đức để thay ông
cai quản đất nước. Ông trao cho mỗi em một hạt giống và dặn các em rằng sau ba
năm, các em hãy mang mỗi cây mà mình sẽ trồng đến trình diện tại cung điện. Sau
khi nhận hạt giống, mỗi em đều nhiệt tình trồng hạt giống của mình và ngày đêm
chăm sóc chúng với hy vọng là cây của mình sẽ lớn nhanh và có thể sinh hoa kết
quả. Một số em nghĩ rằng, mình phải gây sự chú ý của nhà vua bằng cách làm cho
cây của mình thật lớn và có hoa quả.

Ðúng ngày đã hẹn, cả nước nhộn nhịp tiến vào cung điện để xem thử cây nào là
cây đẹp nhất, có nhiều trái nhất, và để xem ai sẽ là vị vua tương lai cho đất
nước. Quả đúng như dự tính, mỗi em đều mang đến cây mà mình đã trồng với nhiều
màu hoa hương sắc. Người ta cũng thấy có những cây đã kết trái thật xum xuê.
Nhà vua đi đến từng địa điểm để hỏi thăm các em, cách thức các em trồng cây. Sự
hồi hộp và im lặng của đám đông càng tăng lên khi nhà vua tiến đến những cây
tươi trái tốt; nơi mà nhiều người nghĩ rằng một trong số các em này sẽ được
chọn là hoàng tử.

Thế nhưng, nhà vua vẫn tiếp tục đi qua và bỗng dưng ông dừng lại trước một cậu
bé. Trên tay cậu bé là một chậu đất không cây. Thấy nhà vua đứng lại bên mình,
cậu biểu lộ sự thất bại bằng dòng nước mắt chảy dài trên má. Nhà vua hỏi,
“Tại sao con khóc?” Cậu bé thưa, “Con đã gieo hạt giống vào chậu
đất này, con đã bón phân cho nó, con đã tưới nước cho nó hằng ngày, con đã che
nắng cho nó và con đã làm nhiều cách để chăm sóc hạt giống của con, nhưng cuối
cùng không có cây nào.” Càng nói, cậu bé càng khóc lớn tiếng.

Nhà vua ôm cậu vào lòng và ra lệnh cho quân lính mời cậu lên chỗ cao danh dự.
Giờ đây, trước sự sửng sốt của bao nhiêu người, và kể cả cậu bé, nhà vua bắt
đầu lên tiếng. “Hôm nay, bệ hạ đã tìm được người mà bệ hạ mong đợi từ lâu.
Cậu bé đây đã chân thật khi nhận sự thất bại của mình. Và thực đúng là như vậy.
Vì tất cả hạt giống ta trao cho các con cách đây ba năm, chúng đã bị luộc chín
cả rồi.”

Nhà vua quay qua cậu bé và nói. “Con đã biết trung thành và trung tín
trong việc nhỏ; con đã không bị ngai vàng và danh lợi mê hoặc; con đã cần mẫn
chu toàn công việc của con với hết khả năng của mình. Ðó là điều ta mong
muốn.” Nhà vua nói tiếp, “Trên tay con là chiếc chậu đất không cây,
nhưng chính trong trái tim con, con đã gieo hạt giống sự thật vào lòng mọi
người hôm nay.”

Thật ra thì, vua cha mơ ước như thế, có thể là chuyện thực tế ở đời, cũng rất
thật. Khổ một điều, là: sự việc ở đời thường vẫn không như vua cha mơ ước. Thế
nên, thi ca/âm nhạc lại vẫn thấy có những câu ca rất mộng và rất mơ, như sau:

“Em ước mơ em là,

em được là tiên nữ

Ban phép tiên cho hoa

biết nói cả tiếng người

Ban phép tiên cho người

chắp cánh bay giữa trời.

Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ tiên!

Thật đẹp thay! Thật đẹp thay! Giấc mơ tiên!”

(Phạm Duy – Tuổi Mười Ba)

Ước và mơ của nghệ sĩ và của đan-viện-phụ nọ ở Scourmont, nước Bỉ vẫn là chuyện
thực tế, nhưng hơi mơ. Mơ và ước, cả những mệnh lệnh của Chúa sẽ thành hiện
thực, như Kinh sách nói:

“Các ngươi cũng chớ gọi mình

là lãnh đạo.

Vì lãnh đạo của các ngươi

chỉ có một: Đức Kitô.

Kẻ lớn hơn trong các ngươi

sẽ là tôi tớ của các ngươi.”

(Mt 23: 11)

Phải chăng mơ và ước đó, là của mọi người trong Đạo. Như Đạo Chúa vẫn dạy?

Mơ gì thì mơ. Ước gì thì ước, hãy cứ ước và mơ những chuyện nho nhỏ, nhè nhẹ
như truyện kể để suy nghĩ, rất như sau:

“Nhà nghèo, chạy vay mãi mới được xuất hợp tác lao động, Thanh coi đó như cách
duy nhất để giúp đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan. Xứ người chẳng phải là
thiên đường. Thanh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng.

Để nhà khỏi buồn, trong thư Thanh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ. Ngày
về, mọi người mừng rỡ nhận quà, Thanh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.

Đêm. Chỉ có Mẹ. Hết nắn tay, nắn chân Thanh rồi Mẹ lại sụt sùi. Thanh nghẹn
ngào khi nghe Mẹ nói:

-Dối Mẹ làm gì! Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!” (x.
Kangtakhoa, Lòng Mẹ)

Trong mọi mơ ước, nhiều người vẫn cứ sống trong mơ mà chẳng giấu được ai hết,
chí ít là mẹ hiền. Vì, mẹ hiền hiểu biết lòng dạ của con cái, cũng rất nhiều.
Hệt như thế, nếu dân con nhà Đạo chạy đến hỏi han Mẹ hiền Hội thánh xem nay Mẹ
có mơ hay ước gì không? Phải chăng, Mẹ đang có nỗi mơ và ước về con cái và cho
các con của mình được hạnh phúc, hơn khi trước?

Hỏi, tức đã trả lời rồi, dù không rõ.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng ít khi hỏi người, hỏi mình

về những ước mơ

rất như thế.

Suy niệm Lời Ngài đọc trong tuần thứ Năm mùa thường niên năm C 10.02.2013

“Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,”

“Em về trăng mọc bến chân như.”

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Lk 5: 1-11

Gót nhỏ lên thuyền, gót của em. Người em dân dã, vẫn cứ về. Em về trăng mọc,
bến chân anh. Người anh mộc mạc, xưa theo Chúa.

Trình thuật thánh Luca, nay ghi về chuyến lên thuyền để đánh bắt rất nhiều cá.
Cá ở đây, gồm truyện kể về quà tặng Chúa ban, không chỉ cho mỗi dân con được
chọn, mà cả con dân ngoài Đạo, cũng vẫn được. Trước nhất, là về Galilê, và sự
thể đánh bắt, vào thời đó.

Biển hồ Galilê, là hồ nhân tạo duy nhất ở Israel. Hồ này dài đến 55 cây số,
chạy vòng quanh bến bãi, ở nơi đây. Hồ này sâu từ 25m đến 45m, nhưng mực nước
lại thấp hơn mặt nước biển đến 200m. Hồ nhân tạo, nhưng đây là chốn lý tưởng để
đánh bắt đủ mọi loại cá. Với dân chài, thì Biển hồ Galilê là nơi tốt nhất để
bắt cá. Với khảo cổ, lại có khám phá tuyệt vời từng phát hiện một thuyền đánh
cá dài rộng cỡ 8m x 2.20m x 1.35m bộ, với niên đại có từ năm 40 trước Công
nguyên. Thuyền này được gọi là “Con Thuyền Của Chúa”, vì là đặc trưng tiêu biểu
thời Chúa sống.

Dân chài đây, có nhóm chuyên đánh bắt các loại cá có chất lượng để cung cấp
khắp nơi, cả người Ai Cập cũng là khách hàng thường xuyên mua về đem hun khói
thành đặc sẳn rất tuyệt vời. Các khai quật cho thấy thuyền đánh cá ở đây được
trang bị khá tốt để có thể đánh bắt suốt cả đêm. Sản phẩm đánh được lại đã tạo
nguồn lợi tức cho một số công ty chuyên ngành trong thời gian dài, chuyên
nghiệp.

Dân chài ở đây, có người còn có nghề tay trái không chỉ đánh cá đóng thuyền
thôi, nhưng còn kinh doanh và tránh thuế. Dân chài người Bét-sai-đa sống ở
Ca-pha-na-um quen tránh né đám thu thuế; nên, nghề cá là nghề ít bận tâm về
luật thuế nhất. Nói chung, dân chài ở đây biết nhiều thứ, chứ không chỉ sơ sơ
mỗi cá tôm.

Thế nên, cử toạ đầu tiên tìm đến Chúa để nghe Ngài giảng giải, lại là dân chài
Biển hồ Galilê. Chúa hoạt động công khai, Ngài cũng di chuyển loanh quanh các
vùng: Bét-sai-đa, Ca-pha-na-um, Ghê-nê-sa-rét, Mag-đa-la, hoặc Ghê-ra-sa cùng
các vùng chài lưới và thôn làng ở Biển hồ. Chúa giảng rao vùng cận duyên gồm
các làng chài trong đó có cả Tyrô và Siđôn nữa. Hôm ấy, bên vệ đường cạnh hồ
Galilê, Chúa gặp ông Phêrô (cùng nhạc mẫu) và các bạn chài là: An-rê, Giacôbê
và Gioan (có bà Zêbêđê) và cả anh Lêvi thu thuế, nhất nhất đều đến từ
Ca-Pha-Na-Um, ở quanh đó.

Chúa vẫn thường có thói quen di chuyển trên hồ bằng thuyền bè. Chính ở nơi này,
Ngài chỉ cho các thánh biết đánh bắt thật nhiều cá, như phép lạ. Và cũng ở
triền hồ, Ngài còn phân phát cho cả ngàn người được no nê, ăn thoả chí. Tin
Mừng thánh Luca (đoạn 24) cũng cho thấy Chúa đã trở lại hồ này ngay sau ngày
Ngài Phục sinh quang vinh.

Vấn đề hỏi là: làm sao thánh Luca lại biết rõ điều ấy. Bởi, ai cũng đều biết
thánh Luca đâu thuộc thành phần dân chài và cũng chẳng là tay thu thuế. Thế
nên, nguồn văn của trình thuật hôm nay, có lẽ đã được rút từ Tin Mừng thánh
Matthêu đoạn 4 câu 18. Đoạn này, thánh Matthêu ám chỉ một Xuất hành mới cốt để
tái lập Vương quyền của Đavít.

Thánh Luca không chỉ nhấn mạnh sự kiện Chúa gọi mời dân chài làm tông đồ, nhưng
nhấn mạnh lên câu Chúa nói với Phêrô, rằng: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới
người.” Có thể là, thánh Luca không có ý đó, nhưng thánh Mátthêu lại trích dẫn
lời ngôn sứ Giêrêmia đoạn 16 câu 16 và Êdêkiel đoạn 47 câu 9, trong đó Chúa
nói: “Này Ta sai ngư phủ đến, một số đông và họ sẽ vung lưới bắt chúng.” Tất cả
điều đó, chỉ muốn nói rằng: Chúa đến như thể cuộc đánh bắt rất nhiều cá chứ
không phải chỉ mỗi thứ cá, là người Do thái mà thôi.

Ở đây, thánh Luca lại nói lên lập trường của riêng thánh-nhân về ơn cứu độ Chúa
rộng ban, không chỉ gửi đến với dân được chọn là Do thái mà thôi, nhưng còn mở
ra với hết mọi người, mọi sắc tộc, giòng giống. Và cũng thế, các tông đồ của
Chúa được gửi đến với mọi người có giòng giống sắc tộc, rất khác nhau. Ngài sẽ
không phân biệt một ai để rồi đem tất về với Vương quốc của Ngài, cũng là vùng
đất có biển có hồ, mầu mỡ rất nhiều cá.

Truyện kể ở trình thuật thánh Luca hôm nay cũng rất đẹp, trong đó tác giả cho
thấy kết quả của công việc hợp tác giữa hai chiếc thuyền đánh cá mỏng manh đến
suýt chìm vì nặng chĩu những cá. Một trong thuyền đó, có Simôn Phêrô đã thành
công đánh bắt được rất nhiều cá. Một lần nữa, ở đây thánh Luca cũng không nhiều
kinh nghiệm về sông nước với đánh bắt. Nhưng tác giả đã để Chúa yêu cầu thánh
Phêrô chèo đò vào bờ, rồi theo Ngài.

Nhiều năm qua, có học giả người Do thái là Abraham Joshua Heschel đã nói về vai
trò của ngôn sứ ở Israel. Theo ông, ngôn sứ là người hiểu được những “xúc cảm”
của Thiên Chúa. Qua cụm từ “xúc cảm”, ông muốn nói: Thiên Chúa không xa với với
con người chúng ta, theo nghĩa khoảng cách thần linh, thánh thiêng; nhưng Ngài
là Đấng rất cần gần gũi với những khổ đau/sầu buồn, như con người. Ngài cũng có
cảm xúc như con người. Giữa Ngài và con người, luôn có sự tuỳ thuộc hỗ tương,
tức là: Chúa cần ra khỏi tính thánh thiêng để đến với chúng ta. Và chúng ta
cũng thế, cần ra khỏi hoàn cảnh của mình để ra đi mà đến với Chúa. Để sống với
những cảm xúc của chính Chúa.

Ý tưởng của diễn giả Heschel đem đến cho ta một mô hình mẫu mực để hiểu được tư
tưởng của thánh Luca viết ở đây. Thánh Luca tuy không là ngôn sứ, giống như
thế. Chúa của thánh sử cũng không là Thiên Chúa của tác giả Heschel. Nhưng theo
thánh Luca, thì Chúa cũng có cảm xúc muốn san sẻ sự vui mừng với chúng ta. Ngài
đã đi vào cuộc sống phàm trần theo cung cách cũng trần tục để niềm vui của Ngài
lấp đầy hết mọi người. Trong mọi người. Và niềm vui của ta cũng có kết quả
tương tự, đối cới Chúa.

Thật ra thì, cụm từ “xúc cảm” ở đây cũng không đúng nghĩa cho lắm khi ta diễn
tả điều mà thánh Luca muốn nói. Nhưng điều mà thánh sử Luca muốn nói chính là
niềm vui chung vẫn có giữa Đức Giêsu và các thánh tông đồ, rất thuyền chài. Đó
là niềm vui rất lớn không biên giới nhưng đã hoàn toàn rộng mở. Niềm vui ấy,
nay phát tán đi vào với thế giới gồm đầy khổ đau, âu sầu. Vui, là rung động với
những cảm xúc hân hoan của con người để đi vào tận tâm can con người vẫn thường
gặp nhiều klhổ đau/sầu buồn vào mọi lúc. Niềm vui ấy, như thể đàn cá tung tăng
nhẩy xổ vào lưới bắt của các vị tông đồ/thuyền chài. Đàn cá xem ra thích nhảy
vào lưới như thế. Và các tông đồ/thuyền chài cũng mỉm cười vui thích khi thấy
đàn cá cứ làm thế.

Và thánh Luca vẫn ghi lại những truyện kể ở trình thuật có Đức Giêsu mỗi lần
đến với ai, là người đó cũng sẽ vui mừng, nhảy chồm lên vì sung sướng. Và lòng
thương xót của Chúa lớn lao gồm đủ những cảm-xúc và niềm vui to lớn còn là kết
quả của sự việc nhảy ra khỏi làn da, thớ thịt mà Chúa từng làm và từng sống với
ta như thế. Đức Giêsu cũng đã làm như Chúa đã làm như thế với mọi người. Như thế,
thì Ngài đích thật là Người Con của Thiên Chúa.

Điều này dấy lên một vấn đề hỏi rằng: làm sao chủ đề “ơn cứu độ” lại có thể trở
nên chuyện chính yếu đối với tác giả Luca, là thế? Đôi khi, đó còn là trọng tâm
Tin Mừng của thánh-nhân nữa. Chuyện này kể cũng thực, nhưng không phải là tiên
quyết. Ít ra, tác giả cũng không đến nỗi ưu tư nhiều như thế. Ơn cứu độ, là cụm
từ ta dùng để chỉ về trạng huống ta trải nghiệm Niềm vui chung có Chúa đã từng
đảo ngược mọi chuyện tiêu cực thành cơ hội để ta suy tư về ân huệ trọng yếu
này.

Những điều kể trên, đôi khi làm người đọc lại nghĩ về truyện ông Noê ở Cựu Ước.
Truyện kể vẫn cứ kể về điều là những sinh vật được cứu sống, chỉ mỗi vài cặp
thú vật trên thuyền mà thôi. Cứ tin là như thế. Như thế, tức như thể không phải
tất cả mọi thú vật đều có mặt ở đó, hết. Thế thì, các thú khác và người khác
thì sao? Có được cứu rỗi không? Về cá heo và chúng bạn vẫn tung tăng bơi lội và
cười đùa vui vẻ ngoài con thuyền cách vô tội vạ thì sao? Chúng không được cứu
sao?

Nếu thế, cũng không phải là ý của tác giả, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước. Bởi Thiên
Chúa là Đấng thực sự rất Vui và rất đại độ. Có lúc Ngài cũng tung tăng vui vẻ,
ngoài con thuyền đấy chứ? Dù thuyền đó là thuyền đánh cá của Phêrô hay thuyền
cứu độ của Noê, cũng đều thế. Cả tác giả Luca cũng thế. Cũng đâu bao giờ có
được ý tưởng buồn cười về cuộc sống được cứu rỗi và về Thiên Chúa đến như thế.

Thế nên, đọc trình thuật thánh Luca, người đọc hẳn đôi lúc cũng nghĩ như nhà
thơ bên dưới:

“Gót nhỏ lên thuyền một kiếp xưa,

Em về trăng mọc bến chân như.

Người Em hơi thở say mùi huệ,

Mây trắng vương buồn mắt thái sơ.”

(Đinh Hùng – Trái Tim Hồng Ngọc)

Trái tim của Chúa, cũng “Hồng Ngọc”, tức: cũng mầu hồng và bằng ngọc, luôn
tưởng nhớ hết dân gian mọi người, dù là dân chài thợ mộc, Ngài vẫn mời theo
Ngài giảng rao ơn cứu độ thân thương, rất hồng ngọc. Để dân gian mọi người sẽ
trở thành ngọc hồng, ngọc bích vẫn cứ thương.

Lm Nguyễn Đức Vinh Sanh –

Mai Tá lược dịch

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

(Dân trí) – Đá cuội ở sông suối không phải là thứ xa lạ đối với hầu hết mọi người. Tuy nhiên, khi xem những viên đá cuội đã được nữ họa sĩ Ernestina Gallina “thổi hồn”, chắc chắn người xem không khỏi thán phục.

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Họa sĩ Ernestina Gallina đến từ Cenestino, nước Ý từ khi còn là một đứa trẻ đã biết
cách biến những vật tầm thường thành những vật độc đáo lạ mắt. Lúc nhỏ, bà
Gallina rất đam mê lĩnh vực hội họa, thiết kế. Tuy nhiên, do gia đình Gallina
không ủng hộ sự lựa chọn này của bà cho nên bà không có cơ hội để phát triển kỹ
năng của mình cũng như đăng ký tham gia học tập tại bất kỳ trường nghệ thuật
chính thống. Bà chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật của mình như là một thú vui
giải trí.

 

Biến đá cuội thành tác phẩm độc đáo

Năm 1987, bà cùng với gia đình chuyển đến thành phố Nairobi, ở Kenya để sinh sống. Tại đây sự nghiệp hội họa của bà được thăng hoa. Gallina kể lại, vào một hôm tại
thư viện, vô tình bà đã vấp phải một cuốn sách được trưng bày trên những bức
tranh đá. Từ hôm đó bà bắt đầu suy nghĩ về cách biến những viên đá cuội bình
thường ở sông suối thành những tác phẩm nghệ thuật. Đây chính là điểm mấu chốt
giúp bà kết hợp và phát huy được niềm đam mê nghệ thuật cùng với tình yêu thiên
nhiên đất trời. Kể từ đó, bà đến với nghệ thuật vẽ tranh trên đá như một điều
tất yếu và không bao giờ ngừng lại được.

Sau 3 năm làm quen với công việc vẽ tranh trên đá, bà Ernestina Gallina đã có thể dạy lại những bí quyết vẽ tranh trên đá cho nhiều học viên, đến năm 2003 bà đã thành lập câu lạc bộ vẽ trên đá đầu tiên tại Ý.

Chiêm ngưỡng một số tác phẩm của bà Ernestina Gallina:An TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn TửAn Tử

TỪ NAY ANH SẼ LÀ KẺ LƯỚI NGƯỜI

TỪ NAY ANH SẼ LÀ KẺ LƯỚI NGƯỜI

http://www.google.com.vn/url?sa=i&rct=j&q=luca+4,30&source=images&cd=&cad=rja&docid=dH7VzgVml2UysM&tbnid=7ZdbQwBxxZ5yOM:&ved=0CAUQjRw&url=http://menchuayeunguoi.com/index.php?option=com_content&view=article&id=5495:cn-4-tn-c-c-giesu-tht-bi-ti-nadaret&catid=135:suy-nim-suy-t-chia-s&Itemid=365&ei=_nQTUfSiPOiaiAey1YFo&bvm=bv.42080656,d.aGc&psig=AFQjCNEgznsugNf60S_oHCJ5uI1raj84Fg&ust=1360315988424091

Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng. Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom săn sóc.

Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.

Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể dùng kinh nghiệm của mình để nhận thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi
bệnh (4,39).

Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.”

Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình.

Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông. Và Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.

Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.

Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.

Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.

Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể thay đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?

***

Lạy Chúa, chúng con  không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Trích từ “Manna”

nguồn: ngocnga Và Anh chị Thụ & Mai gởi

Soi gương, soi lòng

Soi gương, soi lòng

Nhà văn Quyên Di

image

Ngày nọ, tôi gặp một vị linh mục trung niên, tính tình vui vẻ hòa đồng. Lâu ngày không gặp, tôi nhìn thấy nơi khuôn mặt vị linh mục những nét phong sương, nếp nhăn xuất hiện trên vừng trán và khóe mắt, nụ cười tuy vẫn tươi nhưng nét môi như chùng xuống. Tôi nói:

– Trông cha như già đi…

Vị linh mục xác nhận, ông nói:

– Soi gương thì thấy mình già…

Nhưng ông tiếp ngay:

– Soi lòng thì thấy vốn là thanh niên.

Rồi ông cười, giọng đầy hào sảng.

Cuộc gặp gở ngắn ngủi kết thúc. Buổi tối trở về nhà, tôi nhớ hoài đến câu thơ ”soi gương, soi lòng” ấy. Và rồi tôi soi gương, soi lòng chính tôi thật.

Tôi soi gương và thấy  khuôn mặt tôi trong đó. Tôi hôm nay khác hẳn tôi mấy chục năm về trước. Đã có một thời xa xưa nào đó, tôi là một khuôn mặt trẻ thơ, hiền lành, nhút nhát; có thể là một khuôn mặt ngây ngô, không lanh lợi cho lắm. Nhưng dù sao đó cũng là một khuôn mặt không mấy khó ưa. Thời đó, tóc tôi còn xanh, đôi mắt còn trong, dĩ nhiên là không phải đeo kính như bây giờ. Thời đó tuy là con trai nhưng da
mặt của tôi mịn (da trẻ em nào mà không mịn), cánh môi tôi cũng xinh; má tôi
không phính, nhưng nhiều người lớn thấy tôi cũng muốn ”véo má một cái”. Thời
đó, trán tôi chưa hề có nếp nhăn, lông măng phơn phớt, một vài đường gân xanh
nhỏ bên thái dương và những tia máu nhỏ chạy li ti trên đôi má, Thời đó khuôn
mặt tôi hiền hậu, dễ thương. Ít là tôi nghĩ như thế.

Rồi thời gian qua đi. Khuôn mặt tôi biến đổi cho phù hợp với tuổi thiếu niên tôi có. Tóc trở nên rậm và cứng hơn. Da không còn mịn nữa. Nó đã hơi ”gồ ghề” và nhiều nơi có mụn trứng cá. Đôi má không còn hấp dẫn để cho người lớn ”muốn véo một cái” nữa. Cặp mắt tôi sâu hơn, đen hơn và đôi lông mày rậm. Khuôn mặt tôi thuở ấy hình
như có những nét không cân đối và thiếu hòa hợp. Có lẽ không phải vì những
đường nét tự nhiên của khuôn mặt, nhưng do ảnh hưởng của thể lí và sinh lí tuổi
đang lớn.

Khuôn mặt tôi biến đổi một lần nữa khi tôi bước vào tuổi thanh niên. Tôi không phải là một người vạm vỡ, cao lớn. Nhưng dù sao ở tuổi ấy, khuôn mặt tôi cũng có góc cạnh hơn, tóc tai “đâu vào đấy” hơn. Tôi vốn không phải là người chú ý đến diện mạo bên
ngoài nên không nhớ mình có “đẹp trai” không. Những cô bạn gái của tôi
không ai chú ý đến khuôn mặt tôi cả, họ để tâm đến tính nết tôi hơn. Nhưng dù
sao tôi cũng không bị mang tiếng là người xấu xí.

Thế rồi thời gian cứ trôi, khuôn mặt tôi vẫn cứ biến đổi. Không biết bao nhiêu lớp da với những tế bào cằn cỗi đã bị đào thải, thay vào đó là những lớp da mới. Đã nhiều lần khuôn mặt tôi trầy xước, xây xát vì những vết thương; nhiều lần sưng phù, mọng đỏ,
mụn mằn vì những cơn bệnh; nhiều lúc hóp lại vì mệt nhọc, lo lắng, ưu tư. Cũng
đôi khi khuôn mặt ấy hồng hào vì khỏe mạnh, rạng rỡ vì niềm vui. Tất cả những
khuôn mặt ấy đều là ”TÔI” cả .

Cho đến ngày hôm nay, một buổi tối thinh lặng, tịch mịch, một mình tôi đối diện với tấm gương. Tôi thấy là lạ vì không có thói quen soi gương sửa soạn cho khuôn mặt. Tôi vốn có tính xấu: cẩu thả và luộm thuộm; phải đi đâu vớ được bộ quần áo nào là xỏ vào ngay, không chắc mặc nó ”hợp’ hay ”không hợp”. Tóc thì chỉ cần đưa tay lên
“cào” vài cái là xong. Chính vì vậy, hôm nay nhìn kĩ khuôn mặt mình trong
gương, tôi thấy nó kì kì. Tôi nhăn mũi, lè lưỡi chọc ghẹo cái khuôn mặt trong
gương ấy. Nhưng rồi tôi cũng quan sát nó thật kĩ. Tôi, trong gương, bây giờ là
một khuôn mặt trung niên; mái tóc đã có một vài sợi bạc; trán có kha khá nếp
nhăn; lông mày còn rậm, nhưng đuôi lông mày bên trái bị đứt một đoạn ngắn, hậu
quả của một lần mí mắt bị sưng và làm độc. Da tôi không đen nhưng sạm màu, làn
da cũng có những nếp nhăn và không còn phẳng phiu, mịn màng như ”ngày xưa còn
bé ”.

Tôi nhìn tôi trong gương, không thấy mình đáng ghét cho lắm, nhưng không còn chút nào vẻ thơ trẻ hồn nhiên. Thời gian và những biến thiên dời đổi của cuộc đời đã để lại trên khuôn mặt tôi nhiều vết tích không phai mờ. Tôi thử cười một cái, nụ cười làm
cho khuôn mặt tôi có nhiều nếp nhặn hơn. Nụ cười không làm cho tôi trẻ đi, tươi
hơn; trái lại, hình như trông già hơn, héo hơn một chút.

Trong khoảnh khắc, tất cả mọi khuôn mặt của tôi liên tiếp xuất hiện trong gương, rất nhanh nhưng cũng rất rõ. Tất cả đều là tôi, là “tôi-trong-cùng-một-lúc”; không có
”tôi” nào trước, ”tôi” nào sau. Bởi vậy, nếu hỏi rằng tôi thích “tôi” nào nhất thi tôi không trả lời được.

Bỏ tấm gương đấy, tôi muốn ”soi lòng”. Tôi tắt đèn đi, ngồi thu lu trên giường, đắm chìm trong bóng tối và sự tịch liêu. Lòng mình là cái rất khó nhìn vào và rất khó thấy rõ. Bởi vậy, tôi cần sự trợ giúp của bóng tối, che phủ tất cả những ngoại cảnh,
ngoại vật, để tôi không còn bị chi phối mà chú tâm vào lòng mình. Trong bóng
đêm thinh lặng, cõi lòng tôi mở ra, và tôi soi tôi trong cõi lòng ấy.

Tôi nhìn lại cõi lòng tôi, lúc thiếu thời mở cửa cho tuổi hoa niên. Khi ấy cõi lòng tôi phơi phới nở hoa. Bao nhiêu mơ mộng thần tiên với những hoa và bướm. Tôi lớn lên với những giấc mộng đẹp và lí tưởng cao trong đáy trái tim. Lòng tôi đã bao phen reo vui và  ngây ngất với những tâm tình hướng thượng. Tuổi trẻ nào cõi lòng cũng đẹp và lí tưởng nào cũng tuyệt vời. Nhưng nhiều người tuổi trẻ khi lớn lên đã thấy mình
lầm, vì bị lợi dụng để phục vu cho những mục tiêu cá nhân, vụ lợi:

“Nhân Ái, Công Bình, Yêu Thương, Bất Khuất,

Viết chữ hoa trong óc tuổi mười lăm.

Khi ba mươi biết được chuyện xưa lầm

Thì đau khổ đã hằn trên trán nhỏ,

Thì uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ,

Rồi cô đơn như một kẻ chăn cừu,

Trên đường về nhìn tinh tú luân lưu…”

Tạ Ký (Sầu Ở Lại)

image

Rất may cho riêng tôi  ! Qua tuổi mười lăm, mười bảy; đến tuổi hai mươi, hăm lăm; rồi tuổi ba mươi, rồi lớn hơn nữa… chưa bao giờ tôi thấy “chuyện xưa lầm” và cũng chưa bao giờ ”uất hận vạch trời nhưng chẳng tỏ. ”Lí tưởng và những giấc mơ đẹp có
khi bùng cao, chói sáng; có khi trầm lắng, giấu ẩn… nhưng lúc nào ước vọng
làm đẹp cho đời, cho người cũng vẫn còn đấy. Bao nhiêu người đã than thở: “Mộng
bền năm xưa chỉ là mơ qua”.
Tôi chưa hề một lần than thở, dù rằng đau
khổ không những “hằn trên trán nhỏ” mà đôi khi còn tạo nên
những lết thương làm tan nát cõi lòng.

Tôi soi lòng, và nhìn thấy trong đó những đam mê cuồng nhiệt của tình cảm; những nhớ nhung đằm thắm; những mong đợi thiết tha. Tôi soi lòng tôi và thấy cả những ”bối rối bồi hồi, ráo riết miệt mài” khi yêu lần cuối, những “bỡ ngỡ xôn xao, cuống quít dạt dào” khi yêu lần đậu (Phạm Duy, Giọt mưa trên lá). Tôi soi lòng, và cảm nhận những chao nghiêng, vùi lấp; nghe thấy những tiếng: sóng lúc rì rào, khi ào ạt. Những cơn sóng lòng đôi khi như bị nhân chìm tôi vào biển tình cảm.

Tôi soi lòng lôi, và may mắn không thấy hiện lên những hận thù, cũng không có cả những mưu mô gian ác, những tính toan bất chính, những lường gạt phi nhân. Nhưng tôi thấy trong lòng. đôi khi có những ghét ghen nhè nhẹ, những bực dọc âm thầm, những trách cứ nghiêm khắc và những đòi hỏi sự lưu tâm.

Tôi soi lòng tôi và tìm thấy ở nhiều lúc có những nỗi chán chường, những cơn buồn dày dặc; và những sự tủi thân, âm thầm, không muốn cho ai biết. Những cơn buồn và sự tủi thân gặm nhấm lòng tôi, làm cho đắng cay, đau đớn.

Tôi soi lòng tôi, và bắt gặp những thân thương, ấm áp của tình yêu, tình bạn, tình người. Những tình cảm nồng nàn và ân cần, làm cho tôi thấy cuộc đời tươi đẹp, hạnh phúc và đáng sống.’

Tôi soi lòng tôi và cũng thấy những nỗi cô đơn. Có những phút giây cõi lòng tôi hoang lạnh, tưởng chừng như không có ai và cũng chẳng biết đến ai.

Tôi soi lòng tôi, thấy hết trong cùng một lúc niềm vui nỗi buồn, khổ đau và hạnh phúc; tâm tình hướng thượng và tư tưởng thấp hèn; cô đơn và thân ái; chấp nhất và thứ tha; hăng say và buồn chán; bất ổn và bình an.

Và tôi thấy lòng tôi để rồi thấy trong đó một chú bé, chú bé ”tôi-ngày-xưa”. Chú bé thân quen và dễ thương. Vị linh mục tôi mới gặp ”soi lòng thì thấy vẫn là thanh niên”.
Tôi, tôi thấy mình không còn là thanh niên nữa. Tôi già giặn, chín chắn và trầm
tĩnh hơn tuổi thanh niên ngày trước rất nhiều, nhưng trong lòng tôi vẫn có một
chú bé, và tôi muốn chơi với chú. Tôi nhớ lại bạn tôi nói: ”Trong lòng mỗi
người chúng ta đều có một chú bé hay một cô bé , và rất nhiều khi chúng ta phải
mở cửa cho em bé ấy ra ngoài chơi. “Tuổi thơ đẹp, không phải chỉ ở trong
quá khứ. Tuổi thơ có thể được gọi về, bất cứ lúc nào; nếu chúng ta gọi với đúng
ngôn ngữ và tâm tình của tuổi thơ, những tín hiệu mà tuổi thơ có thể ”bắt’ được.

Hôm nay, một buổi tối cuối năm, tôi ngồi ”soi gương” và “soi lòng”. Chẳng mấy khi trong đời tôi làm được như thế. Soi gương, với tôi, có lẽ không cần thiết lắm. Nhưng soi lòng, tôi mong rằng tôi thực hiện mỗi ngày, vào những buổi tối trước khi tôi
thiếp vào giấc ngủ, để thấy những gì mình làm vui lòng Chúa và vui lòng người
khác; những gì mình làm buồn lòng Chúa và buồn lòng người khác. Nếu tôi thực
hiện được như vậy, chắc cuộc đời tôi sẽ dễ thương hơn, hữu ích hơn và đáng sống
hơn một chút.

Nhà văn Quyên Di

Anh Nguyễn v Thập gởi

TÔI VẪN NHỚ,

TÔI VẪN NHỚ,

Song Như.

Lâu lắm không về thăm cố hương,

Hàng tre xanh thẩm khuất nẻo đường,

Trâu già phe phẫy đuôi xua muỗi,

Nhai lại trong mồm nỗi nhớ thương…

Hàng cây trứng cá hoa trăng trắng,

Cánh bướm khoe màu lượn tung tăng,

Lục bình lờ lửng trên sông cạn,

Cá đớp mồi trưa sóng nhập nhằn…

Võng đưa kẽo kẹt mà ai đã,

Đưa khúc đồng dao đến mọi nhà,

Cho hồn dân tộc thêm tha thiết,

Len lỏi trong lòng khách phương xa…

Chiều chiều ngắm vạt nắng vàng rơi,

Nghe tiếng ầu ơ dạ rối bời,

Tết nay lại vắng nhà lần nữa,

Tết tới về thăm… nhớ lắm rồi…

Liverpool.6/2/2013.

Song Như.
Kính gởi Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Bảo vệ đức tin trong thế giới chống Kitô

Bảo vệ đức tin trong thế giới chống Kitô

Trầm Thiên Thu
LTS – Năm nay là Năm Đức Tin, chúng ta cần xem lại đức tin của mình cả chiều ngang,
chiều dọc, chiều cao, chiều sâu, chiều dài và chiều rộng. Nhờ đó mà xứng đáng
là môn đệ của Đức Kitô, cả về danh nghĩa và thực tế. Mùa Xuân về, mùa Chay đến,
mỗi người hãy tự suy nghĩ về cách sống của mình – nhất là khi chúng ta gặp
những người chống Kitô giáo. Trên trang GotQuestions.org có đăng cách lập luận
thú vị, xin mời bạn cùng tìm hiểu!
Là Kitô hữu, có hai điều chúng ta có thể làm để ủng hộ Đức Kitô là “sống Lời Chúa” và “nhận biết Ngài”. Chúa Giêsu nói: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:16). Nghĩa là chúng ta phải SỐNG và HÀNH ĐỘNG theo Phúc Âm.
Chúng ta cũng phải  “mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ” (Ep 6:10-17) và thế gian xung quanh chúng ta. Trước hết, Thánh Phêrô khuyên: “Đức Kitô làĐấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1 Pr 3:15). Những gì chúng ta có thể làm là sống và hành động như Đức Kitô, phần còn lại cứ phó thác cho Ngài lo liệu.
Những người phê bình Kitô giáo ngày càng nhiều. Một phần vì có nhiều người không tin Thiên Chúa hoặc không hiểu gì về Ngài. Tuy nhiên, số người chống Kitô giáo tăng cũng do nhận thức. Với nhiều chủ đề, những người coi thường Kitô giáo là những người lớn tiếng nhất trong số những người không có niềm tin tôn giáo.Đại đa số những người không tin đều không đủ sức làm phiền các tín hữu. Một số ít người không có niềm tin Kitô giáo tỏ ra bực tức, lớn tiếng, cay cú và làm ồn ào để làm ra
vẻ đông số hơn.
Lời lăng mạ chủ yếu từ số người ngoại đạo cho rằng các tín hữu là “dốt
nát”,“ngu xuẩn”, “bị tẩy não”, hoặc cho rằng các tín hữu kém thông minh hơn
những người không có niềm tin tôn giáo. Khi một Kitô hữu khéo léo bảo vệ đức tin,
lại bị cho là “tin mù quáng”, “cực đoan”, hoặc “cuồng tín”. Khi họ biết các tín
hữu sống tử tế và yêu thương, người vô thần giống như kẻ ngu si nói: “Làm gì có
Thiên Chúa” (Tv 53:1). Đa số những người không có niềm tin tôn giáo đều không
có lý do riêng để coi các Kitô hữu là tiêu cực, nhưng đôi khi họ nghe nhiều từ
những người chống Kitô giáo cho rằng các Kitô hữu chỉ làm ra vẻ vậy thôi. Họ cần
những tấm gương sống như Đức Kitô để thấy sự thật.
Dĩ nhiên, khi người nào đó nhận mình là Kitô hữu mà không hành động như Đức Kitô, thì đám đông tức giận và lớn tiếng sẽ coi người đó là giả hình. Đây là điều chúng ta đã được cảnh báo: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (Mt 5:11), hoặc: “Vì họ đã không thèm nhận biết
Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất
xứng, lòng họ đầy bất chính, xấu xa, tham lam, độc ác đủthứ; nào là ganh tị,
giết người, cãi cọ, mưu mô, thâm hiểm; nào là nói hành nói xấu, vu oan giá hoạ”
(Rm 1:28-30).
Cách tốt nhất là trích dẫn câu Kinh thánh nói chống lại những người làm như
vậy. Hãy nhắc cho những người vô thần biết rằng chỉ vì ai đó nhận mình là Kitô
hữu, thậm chí nghĩ mình là Kitô hữu, thì cũng chẳng phải người đó là Kitô hữu.
Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi
gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ? Cứ xem họ sinh
hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà hái? Trên cây găng,
làm gì có vả mà bẻ? Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai
” (Mt
7:16 & 20). Rất rõ ràng. Và hãy nói với những người chỉ trích đó rằng “chẳng
ai lại không phạm tội
” (x. Rm 3:23).
Điều quan trọng cần nhớ rằng, dù khéo léo thuyết phục cỡ nào thì cũng không ai
có thể ép buộc người khác tin cái gì mà họ không muốn tin
. Dù đó là chứng cớ hoặc là tranh luận, người ta sẽ chỉ tin cái mà họ muốn tin (x. Lc 12:54-56). Kết tội không là nghề của các Kitô hữu. Chúa Thánh Thần mới kết tội người ta (x. Ga 14:16-17), và tùy họ tin hay không tin. Điều chúng ta có thể làm là cố gắng hết sức để sống như Đức Kitô. Đáng buồn là có nhiều người vô thần đã từng đọc toàn
bộ Kinh thánh chỉ để tìm lý lẽ để chống lại các Kitô hữu, và có nhiều Kitô hữu hầu như không đọc Kinh thánh.
Người ta khó mà kết tội một Kitô hữu nào đó là người tin mù quáng và đáng ghét nếu người đó thể hiện cách sống tử tế, khiêm nhường và trắc ẩn. Khi một Kitô hữu có thể thảo luận, tranh luận hoặc vạch trần chính xác những cách tranh luận trần tục, cái nhãn “dốt nát” không còn thích hợp nữa. Một Kitô hữu đã đọc các bài tranh luận trần tục và có thể lịch sự dẫn chứng các điểm sai sót sẽ giúp“hạ hỏa” các định kiến từ phía những người vô thần. Hiểu biết là vũ khí mạnh, và điều đó bất khả khuất phục khi chúng ta để cho Đức Kitô hướng dẫn chúng ta cách sử dụng.
(Trầm Thiên Thu chuyển ngữ)
BENEDIC AMUS DOMINO – DEO GRATIAS!
Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay,
và như vậy mãi đến muôn đời (Dt 13)
HN. ThaoNhi

Mồ Mả: Mộ Người Chết Hay Tâm Hồn Người Sống?

Mồ Mả: Mộ Người Chết Hay Tâm Hồn Người Sống?

Linh Mục Nguyễn Tầm Thường Dòng Tên, S.J.

Qủy nhập là điều có thật:
Giáo Hội xác tín điều đó.  Giáo Hội đã có mục vụ đặc biệt cho những trường hợp này.  Các Giám Mục trong địa phận phải chỉ định cách riêng một linh mục nào đó để khi chuyện xảy ra, có kẻ trừ tà.  Không  gì rõ bằng trong Kinh Thánh.  Phúc Âm xác nhận quỷ nhập vào người ta, Kinh Thánh cũng nói đến trừ quỷ.  Chúa Kitô trừ quỷ.  Các môn đệ trừ quỷ.
Hiện tượng quỷ nhập rất phức tạp, có thể lẫn lộn với bệnh tâm thần.  Phức tạp không có nghĩa là không có quỷ thật sự nhập vào người ta.  Vì thế phải rất cẩn thận khi đề cập đến.  Tôi không dễ tin những chuyện này.  Không dễ tin, nhưng có những
chuyện tôi phải tin.

Tôi bắt đầu để ý về những hiện tượng quỷ nhập khi đọc tờ báo National
Catholic
Reporter số ra ngày 1 tháng 9 năm 2000. Tờ National Catholic Reporter dành nguyên một số báo đề cập đến hiện tượng quỷ nhập.  Theo
điều tra của tờ National Catholic Reporter, trong vòng hai trăm năm vừa qua,
Giáo Hội khá lặng im về vấn đề này.  Bỗng dưng đầu thế kỷ này, hiện tượng quỷ nhập xảy ra nhiều nơi.  Theo thống kê, cha Gabriele Amorth, người được bổ
nhiệm trừ quỷ của địa phận Roma, cũng là một trong những người sáng lập International Association of Exorcists, vào trung tuần tháng bẩy năm 1993 trong đại hội những người trừ quỷ tại Roma chỉ có sáu người tham dự.  Vào năm 2000, con số tăng lên 200 người.  Vẫn theo tờ National Catholic Reporter, tại
Roma vào năm 1986 chỉ có 20 người làm mục vụ trừ quỷ.  Hiện nay toàn nước Ý con số lên tới 300 người.
Theo kinh nghiệm mục vụ, cha Gabriele Amorth viết một cuốn sách mang tên: An Exorcist Tells His Story – Câu Chuyện Của Kẻ Trừ Tà.
Ngài cho biết quỷ có thể làm cho người bị nó nhập mửa ra những đụm tóc người.  Ta
cũng có thể khám phá ra quỷ nhập bằng cách trộn Nước Phép vào đồ ăn rồi xem nó
phản ứng ra sao.  Cũng trong số báo này cho biết, cha James LaBar, được Đức Hồng Y John J.O’Conner bổ nhiệm làm kẻ trừ quỷ của địa phận New
York,
cho hay trong năm 1999, ủy ban của ngài đã phải đương đầu với
25 trường hợp quỷ nhập.  Theo ngài, nhu cầu mỗi ngày một gia tăng. Ngài nổi tiếng là “kẻ trừ quỷ” sau vụ trừ tà ở Florida năm 1991 và được chương trình 20/20 của đài truyền hình Mỹ ABC phát hình.  Tờ Atlanta Journal Constitution, 1999 làm một
cuộc điều tra, cho biết 50% người Mỹ tin rằng cuộc sống ít nhiều cũng có lúc bị
quỷ nhập vào.  Chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trừ quỷ cho một người đàn bà Ý tên là Francesca Fabrizzi, Ngài gọi nó là kẻ sát nhân và là vua gian dối của vũ trụ.  Theo Cha Amorth, Đức Giáo Hoàng đương kim đã trừ quỷ ba lần trong điều đại của ngài.  Phúc Âm Mátthêu và Luca tường thuật, Đức Kitô cũng trừ quỷ (Mt. 2:63, Lc. 8:26-40).  Theo tờ National Catholic Reporter, nhiều thần
học gia tại Hoa Kỳ cho rằng quỷ nhập là một sự kiện phải nhìn nhận một cách
nghiêm chỉnh.
Với những sự kiện trên, tôi đặt dấu hỏi cho những tò mò của tôi.

Tại sao thời đại này lại có nhiều hiện tượng quỷ nhập như thế?
Đời sống con người trong thời đại này thế nào?
Niềm tin tôn giáo?  Sự công bình xã hội?
Giá trị luân lý?
Giá trị gia đình?
Đang lúc tôi muốn tìm hiểu vấn đề này, tôi bắt gặp câu chuyện quỷ nhập một người ở Ba Tri, thuộc tỉnh Bến Tre, Việt Nam.  Tôi không dễ tin, nên tôi muốn gặp tất cả đương sự, kẻ làm chứng, nhất là giáo quyền, linh mục trừ tà để kiểm điểm sự kiện.  Điều tôi mong muốn đã xảy ra.

Câu chuyện xảy ra đã hơn hai mươi năm về trước.

Trong số những chứng nhân, chỉ có thân sinh của nạn nhân là qua đời.
Tôi gặp chính cô Hồng, người bị quỷ nhập.  Ngày đó mới hai mươi hai tuổi, hôm nay cô bốn mươi bẩy.

Tôi gặp cô Chi, người sống bên cạnh cô Hồng mấy tháng trời, nuôi cô.

Người giảng viên giáo lý tên Chi này là nhân chứng biết nhiều chuyện về cô Hồng nhất.

Tôi gặp mẹ cô Hồng, bà cụ cũng già yếu rồi.
Tôi gặp các giáo dân, những người trong ca đoàn cùng tuổi cô Hồng của nhà thờ Cái Bông.
Tôi gặp cha phó nhà thờ Cái Bông, lúc đó là thầy giúp xứ.
Tôi gặp chính cha quản nhiệm Nguyễn Văn Quang, người đã trừ quỷ cho cô Hồng.

Một trong những điều làm tôi tò mò là tại sao quỷ hay chọn mồ mả làm nơi cư trú. “Khi Đức Giêsu sang qua bờ bên kia, và đến miền Gađara, thì có hai người bị quỷ ám từ trong đám mồ mả gặp Ngài.  Chúng rất dữ tợn đến nỗi không ai dám qua lại lối ấy” (Mt. 8:28).  Đức Giêsu và các môn đệ tới vùng đất của dân Ghêsarê, “từ mồ mả có một kẻ bị thần ô uế ám ra gặp Ngài.  Người này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích.  Nhiều lần bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh ta vẻ gẫy xiềng xích, đập tan gông cùm.  Không ai có thể kiềm chế anh được.  Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình” (Mc. 5:2-5).  Bốn Phúc Âm đều nói đến mồ mả.  Tôi có thể chia ra ba loại mồ mả sau đây:

– Quỷ thường sống ở mồ mả.
– Người ta cũng là một thứ mồ mả. “Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài
có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế.  Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác” (Mt. 23:27).
– Chúa phục sinh từ mồ mả.
Trong những thứ mồ mả trên chỉ có ngôi mộ của Chúa Kitô có sự sống.  Về câu chuyện cô Hồng, vào những đêm cô trốn nhà  người ta thường bắt gặp cô ở nghĩa địa gần đó.  Cách nhà thờ không xa có một nghĩa địa lâu đời.
Chị Kim Chi đã dẫn tôi đến nghĩa trang này chụp hình, chị cho tôi biết, nhiều đêm cô ta biến mất, đổ đi tìm thì thấy cô đang nằm ngoài nghĩa địa trên các mồ mả cỏ rậm um tùm.

Ma quỷ gần với sự chết.  Nó yêu thích sự chết.  Căn nhà cư trú của nó là sự chết.  Không phải những người nằm dưới đó là bạn bè nó.  Nhưng nghĩa trang là nơi dành cho sự chết.  Ngoài nghĩa trang chỉ còn một nơi nữa nó có thể cư ngụ là lòng con người.  Như Đức Kitô đã nói, lòng con người có thể là một “mồ mả tô vôi”.  Trong ý nghĩa ấy, có biết bao ngôi mộ đang đi ngoài đường, đi trong chợ, ngồi ở tiệm ăn.  Theo lời Đức Kitô nói, có biết bao mồ mả tô vôi, bên ngoài đẹp đẽ mà bên trong toàn xương người.  Có thể ngôi mộ ấy là người bạn của chính mình.
Họ ở cạnh nhau.
Bà mẹ cô Hồng kể cho tôi biết cô ta có dấu hiệu khác người từ hồi lên năm tuổi.  Tính đến ngày cô được trừ quỷ vào năm cô hai mươi hai, nghĩa là dòng dã mười bẩy năm.  Bà cụ cho biết trong gia đình không người con  nào mặc bệnh tâm trí.  Riêng cô Hồng lúc năm tuổi thì bắt đầu đau yếu.  Khoảng mười tuổi thì bỏ nhà đi làm nhiều điều phi thường ai cũng sợ.  Bà kể cô ta ăn hết một chiếc nồi đất để luộc
bánh tét.  Một chiếc nồi đất to thế mà cô cứ ngồi nhai rau ráu, ăn chỉ chừa có cái vành nồi.  Rồi bà tự hỏi:

– Ông cha coi đó, nó ăn như vậy mà không sao, bụng đâu mà chứa hết một cái nồi
đất to như vậy.
Tôi nghe bà kể, rợn người.  Bên cạnh bà, trước mặt ống kính máy thu hình, chị Hồng cũng ngồi bên cạnh. Tôi giả bộ, lại bào chữa cho hành động phi thường ấy. Tôi bảo bà:
– Thưa cụ, người bị bệnh tâm thần cũng có thể làm như thế.
Chưa để bà cụ trả lời, cô Hồng lên tiếng ngay:
– Thưa cha không mà, con bị quỷ nhập thật mà cha ơi!
Chị Kim Chi cũng đang trước ống kính thu hình, kể thêm:
– Thưa cha người tâm thần gì mà treo lơ lửng trên trần nhà, lúc con nhân danh
Chúa truyền cho nó ra, nó thả cô ta rơi đánh bịch cái xuống mà không hề bị gì.
Cô Kim Chi lúc ấy là giảng viên giáo lý, gặp cô Hồng ngoài đường, dẫn về nhà thờ.  Theo lời cô Kim Chi thuật lại, lúc tới cổng nhà thờ cô Hồng bỏ chạy. “Nó sợ nhà thờ”.  Cô Chi nói vậy.  Sau này đem cô Hồng về nhốt trong căn nhà thuộc
đất nhà xứ.  Đó là phòng họp dành cho hội Legio Mariae.  Bên cạnh nhà có một giếng nước khá to.  Khi quỷ nhập vào, cô nhảy xuống giếng, nằm nổi trên mặt nước hằng giờ.  Những cô trong ca đoàn bấy giờ cũng chỉ độ hai mươi, bây giờ đã mấy mặt con rồi, họ là chứng nhân còn sống.  Tôi gặp một nhóm sáu người, phỏng vấn họ:
– Tại sao các chị cho rằng cô Hồng bị quỷ nhập mà không phải là bệnh thần kinh?
– Thưa cha, thần kinh làm sao biết được những chuyện kín?  Một hôm chúng con đang ngồi xem cô ấy lên cơn.  Nó bảo: “Đấy, thằng Quang vừa đi tìm
cách để chống lại ta.”  Không ai hiểu nó nói gì.  Sau này mới biết khi nó nói thế
chính là lúc cha Quang ở nhà thờ lái xe lên toà giám mục xin đức cha làm phép
giây Stola trừ quỷ đem về.  Thần kinh gì mà khi hú nghe rợn người.  Nó hú nghe ghê
lắm cha ơi.  Bây giờ mà con còn rởn da gà lên đây nè.  Lúc lên cơn trốn chạy, nó chỉ
về ngủ ở nghĩa trang.
Lúc tôi phỏng vấn mấy chị này, trời đã xế trưa.  Tôi sẽ ra nghĩa trang chụp mấy tấm hình.  Tôi lại liên tưởng đến Phúc Âm hay nói về quỷ và mồ mả.  Nếu đời sống mà linh hồn là ngôi mộ tô vôi, bên trong chất chứa sự dữ, chỉ giả hình bên ngài thôi thì đấy chính là quê hương của nó trú ngụ.  Lời Chúa nói về mồ mả trong Phúc Âm Mátthêu lại vẽ trong tâm trí tôi một thứ quê hương của ma quỷ. Một thứ mồ mả nơi con người sống đang biết đi, đang mặc áo đẹp.
“Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong
thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì
có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian
ác” (Mt. 23:27).
Phải chăng nếu sống mà linh hồn là nơi nó cư trú thì khi chết chôn xuống lòng đất
nó sẽ tìm về ngôi mộ đó.
Linh Mục Nguyễn Tầm Thường Dòng Tên, S.J.

LÀM NGƯỜI THẬT KHÓ

LÀM NGƯỜI THT KHÓ

Đại sư Tinh Vân có một người đệ tử, sau khi tốt nghiệp đại học liền học
thạc sĩ, rồi lại học tiến sĩ, sau nhiều năm đèn sách cuối cùng cũng đã hoàn
thành luận án tiến sĩ nên vô cùng mừng vui.
Một hôm người đệ tử này trở về, thưa với Đại sư: “Thưa thầy nay con đã có
học vị tiến sĩ rồi, sau này con phải học những gì nữa?”
Ngài Tinh Vân bảo: “Học làm người, học làm người là việc học suốt đời chẳng thể nào tốt nghiệp được.

1. Thứ nhất , “học nhận lỗi”.
Con người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều
đổ cho người khác, cho rằng bản thân mình mới đúng, thật ra không biết nhận lỗi
chính là một lỗi lầm lớn.
2.Thứ hai, “học nhu hòa”.
Răng người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên, cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì đời
con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được. Tâm nhu hòa là một tiến bộ lớn
trong việc tu tập.
3. Thứ ba, ” học nhẫn nhục”.
Thế gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước
biển rộng trời cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết
hóa giải, dùng trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ
hóa thành không.
4. Thứ tư, “học thấu hiểu”.
Thiếu thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm. Mọi người
nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn nhau
làm sao có thể hòa bình được?
5. Thứ năm, “học buông bỏ”.
Cuộc đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt
nó xuống, lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành
lý nặng nề không tự tại chút nào cả.  Năm tháng cuộc đời có hạn, nhận lỗi,
tôn trọng, bao dung, mới làm cho người ta chấp nhận mình, biết buông bỏ thì mới
tự tại được!
6. Thứ sáu, “học cảm động”.
Nhìn thấy ưu điểm của người khác chúng ta nên hoan hỷ, nhìn thấy điều không may
của người khác nên cảm động. Cảm động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề;
trong cuộc đời mấy mươi năm của tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm
tôi cảm động, cho nên tôi cũng rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
7. Thứ bảy, “học sinh tồn”.
Để sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe
mạnh không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm,
cho nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.”
(Sưu tầm, không rõ xuất xứ)

Cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam. Phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung

Cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam. Phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung

nguồn: RFI

 

Các biểu tượng của Hội Tam Điểm: Mắt, êke, compa (DR)

Các biểu tượng của Hội Tam Điểm: Mắt, êke, compa (DR)

Thanh Phương

Lần đầu tiên một công trình nghiên cứu bằng tiếng Việt về Hội Tam Điểm ở Việt Nam và những thành viên người Việt đầu tiên của hội này sắp được xuất bản tại Pháp vào khoảng đầu tháng 2/2013. Cuốn sách có tựa đề: “ Hội Tam Điểm với những đóng góp của các thành viên Việt Nam đầu tiên trong công cuộc giải phóng thuộc địa và bảo tồn văn hóa ngôn ngữ dân tộc” (Les Franc-maçons au Vietnam), (The Story of freemasons in Vietnam).

Tác giả cuốn sách này là tiến sĩ văn chương Trần Thu Dung, hiện sống tại Paris. Cuốn sách được phát hành bởi một nhà xuất bản vừa mới ra đời tại Paris, đó là Nhà xuất bản SÁNG.

Tiến sĩ Trần Thu Dung từng là tác giả của công trình nghiên cứu “Đạo Cao Đài và Victor Hugo”, đồng thời là một nhà nghiên cứu văn hóa đối chiếu và nhà thơ. Để viết cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam, bà Trần Thu Dung đã bỏ nhiều năm để tra cứu các tài liệu quý hiếm của các Hội Tam Điểm và của nhiều thư viện Pháp, cũng như phỏng vấn một số người có liên quan.

Như lời giới thiệu của Giáo sư Nguyễn Thái Sơn, chủ tịch Hội Interface Francophone Paris và cũng là giám đốc Nhà xuất bản SÁNG, những thành viên người Việt đầu tiên của Hội Tam Điểm đã biết “ vượt qua nhiều khó khăn của hoàn cảnh, kiên nhẫn và tương kế tựu kế, tích cực tham gia vào việc bảo tồn văn hóa dân tộc và phong trào giành độc lập, tự do và dân chủ cho nhân dân và đất nước”, trung thành với những giá trị của Hội Tam Điểm : tự do, bình đẳng, tình huynh đệ bác ái, bốn biển đều là anh em.

Cũng xin nói thêm là tác giả Trần Thu Dung đã muốn cuốn sách của bà được xuất bản ở Việt Nam, nhưng cho tới nay vẫn không được cấp giấy phép. Nhân dịp cuốn sách về Hội Tam Điểm ở Việt Nam sắp ra mắt độc giả, RFI Việt ngữ đã phỏng vấn tác giả Trần Thu Dung.
.
RFI : Xin chào tiến sĩ Trần Thu Dung, trước hết xin bà nói sơ sơ lược vài nét về lịch sử của Hội Tam Điểm nói chung và Hội Tam Điểm Pháp ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Hội Tam Điểm mang tính chất huyền bí, nên nhiều chi tiết nguồn gốc cũng mang tính huyền thoại. Hội xuất hiện ở châu Âu vào cuối thế kỷ 17. Thời trung cổ, Giáo hội và nhà vua là hai thế lực mạnh nhất. Những người kiến trúc xây dựng đền đài cung điện, nhà thờ luôn được nhà vua và Giáo hội ân sủng cho hành nghề tự do. Họ thành lập những hội đoàn sinh hoạt riêng lấy tên những người thợ xây tự do ( tiếng Pháp là Franc Maçonnerie). Sau này hội mở rộng thu nạp những người xuất sắc trên mọi lĩnh vực.

Tam Điểm là cách gọi sáng tạo thông minh của người Việt dựa trên ba dấu chấm trong các văn bản chữ ký của các bậc đại sư. Ba chấm thể hiện ba góc hình tam giác tượng trưng sự hoàn hảo -có nghĩa là ba cấp bậc (Tập sự – Thợ – Thầy), cả ba đều đóng vai trò chủ thể như nhau trong việc tạo dựng thế giới và ba tiêu chí “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Tất cả mọi cấp bậc đều bình đẳng dù ở góc độ nào. Cách dịch Tam Điểm vừa mang tính chất huyền bí vừa mang đúng ý nghĩa của hội.

Tự do, công bằng, huynh đệ bác ái là khát vọng muôn thuở của con người, trở thành ba nguyên tắc chính của hội và trong hiến pháp của nước Pháp. Ba điểm chính là đòn bẩy để thu hút tất cả mọi người, mọi nơi, mọi chính kiến khác nhau, đến với nhau trong hội. Hội trở thành một hội triết lý và bác ái.

Các biểu tượng phong phú và đa dạng như mắt, ê ke, thước thợ, compas, kim tự tháp của hội dựa trên chân lý ham muốn hiểu biết. Sự hiểu biết giúp con người tự giải phóng cho chính bản thân mình ra khỏi sự lệ thuộc. Nhiều người nhầm lẫn, đồng hóa Tam Điểm với tôn giáo. Tam Điểm không phải tôn giáo, cũng không phải là một đảng phái.

Thành viên của hội Tam Điểm được quyền tham gia bất kỳ tôn giáo nào và sinh hoạt bất kỳ ở tổ chức chính trị nào mà họ thấy phù hợp vì quan điểm của hội là tôn trọng sự nhận thức của mỗi cá nhân. Song hội là một hội kín không mở rộng cửa như các nhà thờ nên nhiều người nghĩ nhầm là một hình thức giáo phái.

Hiện nay hội Tam Điểm ở Anh và Pháp có ảnh hưởng mạnh nhất trên thế giới. Số lượng người theo hội trên thế giới không đông, nhưng họ lại nằm trong bộ máy chính của chính quyền nhà nước và nắm chức vụ lớn trên mọi lĩnh vực. Nhiều đời Tổng thống Mỹ, Pháp, thủ tướng, bộ trưởng, nhà văn nổi tiếng trên thế giới là thành viên của hội như Washington, Lincoln, Churchill, Allende, Napoléon; Voltaire, Montesquieu, Kipling, Pouskin, …; Tóm lại, hội thu hút được nhiều thành phần ưu tú trong xã hội.

RFI : Vậy thì Hội Tam Điểm Pháp đã đến Việt Nam như thế nào và đã có tác động ra sao trong chính sách khai hóa thuộc địa?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Nhiều sĩ quan, giáo chức và công chức Pháp cao cấp phục vụ tại Việt Nam là thành viên Tam Điểm. Việc thành lập chi hội trực thuộc ở Đông Dương là sự thiết yếu để các thành viên Tam Điểm có điều kiện sinh hoạt tiếp tục và phát triển hội viên mới. Hội gắn liền với thời kỳ hoàng kim của nước Pháp với các thuộc địa. Nhiều nhân vật quan trọng trong Bộ Thuộc địa là thành viên Tam Điểm, nên sự có mặt công khai của hội ở Đông Dương là điều hiển nhiên để phô trương thế lực.

Hội gắn chặt với sự phát triển thuộc địa Pháp và chính sách thực dân. Do đó chính sách khai hóa thuộc địa của hội chính là chính sách của chính quyền thuộc địa. Nhân danh đi khai sáng văn minh, và nhân danh nước Pháp« tự do, bình đẳng, bác ái », ở Việt Nam, họ đã đóng góp trong việc mở các trường học, xóa bỏ kỳ thi kiểu ảnh hưởng Tàu, báo chí, nhà in, kiến trúc, xây dựng, phát triển chữ quốc ngữ, …

Tất nhiên các thành viên Tam Điểm Pháp không bao giờ quên quyền lợi của họ khi đến khai phá thuộc địa (như các đồn điền cà phê, cao su, nhà máy xi măng, thuế, thuốc phiện, rượu… đã đem lại cho nước Pháp và cho chính họ một lợi nhuận đáng kể).

RFI : Ai là các nhân vật nổi tiếng trong số những thành viên Việt Nam đầu tiên của Hội Tam Điểm ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Có thể nói họ đều là những người xuất sắc thành công trong xã hội trong nhiều lĩnh vực văn hóa, chính trị, tôn giáo như Nguyễn Văn Vĩnh, Vua Duy Tân, Nguyễn Ái Quốc, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Hoàng Mịnh Giám, … Một phần lớn được kết nạp tại Pháp khi du học.

Trường hợp đặc biệt nhất thể hiện tài năng xuất chúng là Nguyễn Văn Vĩnh, ông xuất thân từ nhà nghèo, không đi du học Pháp, chỉ được mời sang triển lãm hội chợ Đông Dương (1908), ông được mời ở lại thêm hơn hai tháng nhằm mục đich kết nạp ông vào hội Tam Điểm, vượt qua một số quy chế ngặt nghèo của hội và những rào ngăn cản ở Đông Dương khi kết nạp người bản xứ. Lúc đó hội chưa kết nạp người Việt Nam tại bản địa.

RFI : Ông Nguyễn Ái Quốc tại sao được vào hội Tam Điểm, và sau đó ông lại theo Cộng sản ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Nguyễn Ái Quốc thời kỳ qua Pháp, ông tuy chỉ là thợ sửa ảnh (tức là sửa lại cho đẹp, chứ không phải thợ rửa ảnh) nhưng được kết nạp vào hội Tam Điểm, vì ông Nguyễn Ái Quốc lúc đó là quen Nguyễn Thế Truyền, Phan Văn Trường… những người sinh viên xuất sắc đã tốt nghiệp và đang làm việc tại Pháp. Cùng một lý tưởng « giải phóng thuộc địa », lòng yêu nước đưa họ xích lại gần nhau.

Nguyễn Thế Truyền và Phan Văn Trường và các huynh đệ thành viên TĐ đã thấy khả năng tiềm ẩn trong NAQ, NAQ cũng vốn xuất thân từ gia đình nhà nho, do đó họ đã giới thiệu NAQ vào hội. NAQ nhận thấy hội TĐ là một tổ chức mang tư tưởng tiến bộ và có tinh thần bác ái huynh đệ, nên NAQ xin tham gia năm 1922.

Nhưng Tình huynh đệ bác ái thực sự không thể có được giữa người bị áp bức, và người áp bức, giữa người đi thực dân và người bị đô hộ, nên năm 1923, với khát vọng giải phóng thuộc địa, ông đã sang Nga tìm hiểu về Cộng sản khi ông thấy cách mạng Nga thành công rực rỡ vào năm 1917.

Qua Nga, NAQ đã nhận thấy chỉ có con đường CS mới giải quyết được vấn đề giải phóng thuộc địa. Đảng CS mới thu hút mọi tầng lớp xã hội. Giải phóng thuộc địa là phải giải phóng toàn bộ những người bị áp bức. Trong khi hội Tam Điểm chỉ kết nạp những thành viên xuất sắc của xã hội.

Do đó, NAQ với khát vọng giải phóng thuộc địa, ông đã chọn con đường Cộng sản. Giải phóng thuộc địa, giành độc lập là khát vọng chung của cả dân tộc. Nhiều trí thức công chức Việt Nam thời đó cùng chung khát vọng đã lên rừng tham gia Việt Minh kháng chiến giành độc lập trong đó có một số thành viên Tam Điểm như Cao Triều Phát, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Minh Giám…

RFI : Các thành viên Việt Nam Hội Tam Điểm đã có những đóng góp gì vào công cuộc bảo tồn văn hóa và giải phóng thuộc địa?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, họ đã dám vượt lên trên được ý thức tư tưởng hệ ngoại lai, tham gia hội với khát vọng mở mang dân trí và giải phóng thuộc địa. Đó là một trong những mưu kế để bảo tồn dân tộc. Khi những Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bị Pháp vô hiệu hóa bắt giam và Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Trung Trực bị giết, họ đã ý thức được phải vào hội và nhân danh « Bình đẳng, tự do, huynh đệ bác ái,» đòi độc lập khi VN chưa đủ khả năng về quân sự, nếu chống lại, nổi loạn đất nước sẽ bị diệt vong xóa sổ như Inca.

Đóng góp đầu tiên của những thành viên VN TĐ chủ yếu trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa và ngôn ngữ dân tộc qua báo chí, mở trường. Văn hóa và ngôn ngữ dân tộc chính là một vũ khí để giành độc lập. Phạm Quỳnh nói một câu nổi tiếng« Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, Tiếng Việt còn là nước ta còn ».

Họ đã mở mang dân trí bằng con đường dịch các tác phẩm mang tư tưởng tự do, nhân đạo, dân chủ đặc biệt thời kỳ ánh sángcủa Pháp ra tiếng Việt, giới thiệu, dịch một số tác phẩm VN ra chữ quốc ngữ, và tiếng Pháp.

Với tinh thần ái quốc, họ lập đảng, lập hội, lập đạo để thu hút mọi tầng lớp tham gia. Qua báo chí, họ khơi dậy tinh thần ái quốc và thổi luồng tư tưởng đòi tự do độc lập. Tên các tờ báo mà họ làm chủ bút, hoặc phụ trách thể hiện tinh thần ái quốc và khát khao giành độc lập : Tiếng vọng An Nam, Đông Dương hành động ,Việt Nam hồn, Phục quốc, An Nam Mới. Tương lai Bắc kỳ. Đuốc nhà Nam, Phục sinh,…

Thời Pháp thuộc việc tham gia các tổ chức chính trị đấu tranh bài trừ thực dân, đòi dân chủ không phải là đơn giản. Trong tình thế bắt buộc, họ đã chọn con đường thỏa hiệp để chờ thời cơ. Dựa trên tình huynh đệ bác ái, tự do bình đẳng, họ đã lập Đảng, lập hội như Đảng Lập hiến, Đảng Lao động, – Đảng Việt Nam Độc lập.- Hội hỗ trợ những người Đông Dương – Hội Khai trí Tiến Đức, ..

Một số thành viên chọn con đường hòa bình khác bằng cách lập đạo. Đạo CĐ thu hút nhiều trí thức và 2 triệu tín đồ, tồn tại đến tận ngày nay vì lý tưởng cao đẹp “Hòa hợp tôn giáo, hòa hợp Đông Tây, hòa hợp mọi dân tộc”. Ngô Văn Chiêu sáng lập viên đầu tiên của đạo Cao Đài và Lê Văn Trung giữ chức Giáo tông đều là thành viên TĐ. Nói chung họ tham gia các hoạt động chính trị với tinh thần ái quốc. Một số đã tham gia Việt minh giành độc lập.

RFI : Để viết công trình nghiên cứu này, bà đã thu thập tài liệu, chứng cứ từ những nguồn nào ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Tài liệu thu thập rất đa dạng. Tài liệu chính là kho lưu trữ văn khố của hội Tam Điểm tại Paris và qua phỏng vấn gia đình và các chức sắc Cao Đài trong và ngoài nước.

Khó khăn chủ yếu là kiểm chứng tài liệu. Nhiều tài liệu bị đốt, thất thoát khi chính phủ Vichy cấm hội kín hoạt động. Tài liệu quá cũ, vàng ố, tên tiếng Việt do người Pháp ghi chép sai, không dấu, hoặc ngược lại, tên người Pháp phiên âm sai qua tiếng Việt. Nhiều tài liệu không chính xác hoặc che giấu sự thật.

Khó khăn thứ hai, khi phỏng vấn và xin tài liệu. Một số né tránh vì vấn đề tế nhị. Có chức sắc Cao Đài rất nhiệt tình giúp nhưng bảo tôi hãy thề « không nói xấu đạo », tôi đã hứa « tôi chỉ viết đúng như tài liệu và sẽ kiểm chứng ở mức độ văn bản cho phép».

Tất nhiên, trong quá trình đó, có thể có sai sót, tôi mong tất cả bạn đọc, gia đình con cháu họ hãy giúp tôi hoàn chỉnh bổ sung khi có dịp tái bản cuốn sách.

RFI : Khi cho phát hành cuốn sách này, mong muốn của bà là gì ?

Tiến sĩ Trần Thu Dung : Cuốn sách mang hai thông điệp : Hãy nhìn lại khái niệm yêu nước. Thánh Gióng nằm yên câm không đồng nghĩa là Gióng không yêu nước. Sự im lặng thể hiện khát vọng hòa bình với các nước láng giềng, với kẻ thù.

Thỏa hiệp không đồng nghĩa là chấp nhận, là đầu hàng và không yêu nước. Hoàn cảnh không cho phép, sức yếu buộc một số người phải im lặng, hoặc phải thỏa hiệp đề cứu dân bằng cách giáo dục dân trí và đòi tự trị bằng con đường không bạo động.

Thời kỳ Pháp thuộc, nhiều trí thức Việt Nam như thánh Gióng, đã thức tỉnh. Lòng ái quốc tiềm ẩn trỗi dậy thể hiện rất đa dạng và phong phú. Ông cha chúng ta đã thông minh tương kế tựu kế, hợp nhau lại để giành độc lập. Chúng ta theo gương ông cha phải giữ lấy độc lập và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ.

Dù theo đảng nào, tư tưởng nào, Việt Nam nghèo, hay bị mất nước, là người Việt Nam chúng ta đều xấu hổ. Hãy xóa bỏ hận thù, vì lợi ích dân tộc, người Việt Nam hãy liên minh để bảo vệ và xây dựng một nước Việt Nam tự cường và hạnh phúc như khát vọng của ông cha và khát vọng chung của toàn người Việt Nam trên quả địa cầu. Chiến tranh không ai ca ngợi, không ai muốn tham gia, nhưng cuộc chiến tranh bảo vệ nước, giành độc lập dưới mọi hình thức đều đáng khâm phục và xứng đáng ca ngợi.

Thông điệp thứ hai mong người Việt Nam dù ở đâu trên trái đất theo gương ông cha luôn ý thức bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ dân tộc. Đó là một vũ khí để bảo vệ tổ quốc bằng con đường hòa bình và cao sang. Hiện nay tiếng Việt mà ông cha chúng ta bao công sức bảo tồn cũng như nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới có xu hướng bị tiếng Anh áp đảo.

Các chương trình phát trên vô tuyến Việt Nam xen rất nhiều tiếng Anh, trong khi tiếng Việt rất phong phú để diễn đạt. Hòa đồng cùng thế giới không có nghĩa xóa bỏ ngôn ngữ dân tộc. Thế giới đa sắc màu, như hoa đa sắc. Bản sắc dân tộc sẽ làm phong phú sự đa dạng trên thế giới và một hình thức bảo vệ độc lập.

Nhân đây, tôi xin trân trọng cám ơn Giáo sư Nguyễn Thái Sơn, Giáo Sư Vũ Quốc Thúc, hiệp hội Interface Paris, nhà xuất bản « Sáng » với mục đích vì phát triển văn hóa, ngôn ngữ dân tộc và nâng cao dân trí đặc biệt ở Việt Nam, vì một lý tưởng cao đẹp « thế giới huynh đệ bác ái » đã nhiệt tình ủng hộ cho cuốn sách ra đời, và cám ơn đài RFI đã giúp giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc.

RFI : Xin cám ơn tiến sĩ Trần Thu Dung.

 

CHÚC MỪNG

CHÚC MỪNG

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ

Có nhiều lời chúc mừng.

Có nhiều dịp chúc mừng.

Có nhiều người được chúc mừng.

Người ta chúc mừng nhau.  Bằng lời nói.  Bằng thư từ.  Trong những lời chúc mừng, lời chúc mừng về tình yêu, về những gì liên quan đến hạnh phúc, đến giá trị thiêng liêng là lời chúc mừng bi đát nhất.

Chẳng hạn:

Kỷ niệm 25 năm thành hôn của anh chị, chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị
nồng nàn như thủa mới yêu nhau.

Hoặc như:

Kỷ niệm 10 năm linh mục của Cha.  Chúng con kính chúc Cha những ngày tràn
đầy hồng ơn Chúa. Tâm tình Cha sốt mến như ngày Cha dâng thánh lễ mở tay.

Những lời chúc rất chân thành.  Càng chân thành bao nhiêu, càng thấm thía
và bi đát bấy nhiêu.       Thực tế, những lời chúc này xảy ra hàng ngày, ở chỗ này, chỗ kia.  Nó đến từ trái tim người cầu chúc là mong ước.  Và biết đâu, từ trái tim người được cầu chúc cũng tha thiết xin được như thế.  Sự bi thương nằm ở đó.  Lời cầu chúc này đến từ một thực tế.  Nó diễn tả cái thực trạng hàng ngày.  Nó là tấm gương
phản chiếu trung thực lòng khao khát của người cầu chúc, nó là ước vọng của
người được cầu chúc.

Bi thương hơn nữa là đời cứ tiếp đời, lời chúc tiếp tục lời chúc đi theo thời
gian.

***********************

Kỷ niệm 25 năm thành hôn

Chúng tôi cầu chúc tình yêu của anh chị nồng nàn như thủa mới yêu nhau.
Chúc như thế, nghĩa là, tình yêu của anh chị hôm nay mệt mỏi lắm rồi.  Nó
xói mòn lắm rồi, nên tôi chúc cho anh chị được như ngày đầu.  Nói cách
khác, tình yêu ấy cứ mỗi ngày một nhạt đi, cứ mỗi ngày một hết như thủa ban đầu.
Chúc như thế, không là thành thực xót xa sao.  Nếu tình yêu của người nào
đó, sau 25 năm cưới nhau, bây giờ nồng nàn hơn, thì chúc như thế mang ý nghĩa
gì?  Nó vô duyên và vụng về biết mấy. Nhưng hôm nay, họ cứ chúc mừng nhau
như vậy.  Họ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà làm nên lời chúc.  Nếu
vậy, mỗi lời chúc không là một lời đau thương sao?

***********************

Kỷ niệm 25 năm linh mục

Sau 25 là linh mục.  Tôi rửa tội biết bao nhiêu người.  Tôi săn sóc
biết bao bệnh nhân, xức dầu Thánh cho biết bao nhiêu người trong giờ hấp
hối.  Trong 25 năm tôi dâng biết bao thánh lễ.  Biết bao lần Mình Máu
Thánh Chúa hóa thân trên tay tôi.  Tôi cử hành biết bao bí tích.  Như
thế, sau 25 năm đôi tay tôi đã xây dựng biết bao ân sủng.  Một phần tư thế
kỷ sống sống đời linh mục, tôi xây dựng biết bao nhân đức.  Tại sao người
ta lại chúc mừng trong ngày kỷ niệm đẹp như thế bằng lời chúc bi thương?

Họ mong cho tôi dâng thánh lễ sốt sắng như ngày đầu, nghĩa là thánh lễ tôi dâng
hôm nay không còn chuẩn bị như ngày mở tay.  Nghĩa là hôm nay tôi dâng
thánh lễ nhàm chán như chuyện phải làm.  Tôi hết náo nức rồi.

***********************

Vì sao có những lời chúc như thế.  Cũng là do thực tế mà thôi.  Nó cũng đến từ một nhận thức trong sinh hoạt bình thường.  Nó do kinh nghiệm, do quan sát, do thấy như vậy.  Tôi gọi đó là những lời chúc bi thương.  Vì nó thật nên nó bi thương.  Những lời chúc ấy đến từ cảm nghiệm.

Những lời chúc như thế, là linh mục, hay tình yêu hôn nhân, nó là tiếng chuông
cầu thương khó.  Trước lời chúc đó, tình yêu phải nhìn lại tình yêu.  Hôn nhân phải hỏi lại hôn nhân.  Linh mục phải nhìn lại linh mục.  Tu sĩ khấn Dòng phải hỏi lại lý tưởng.  Những lời chúc ấy đến từ ước vọng.  Nó vừa là tiếng lòng mong mỏi, cũng vừa là tiếng lòng đợi trông.

Thủa ban đầu có nhau lưu luyến ấy, nếu bây giờ nhạt phai, nó phải có nguyên
nhân.

Nếu thánh lễ mở tay là náo nức, bây giờ chỉ còn là bổn phận, nó phải có nguyên
do.

Những ngày đầu của tình yêu hôn nhân, tháng ngày ấy mới là ngưỡng cửa bước vào
vườn hạnh phúc.  Ðàng sau đó là một chân trời khám phá.  Thì càng đi càng say chứ.  Nhưng thực tế, cứ có những tiếng thở dài.  Nhiều đôi hôn nhân càng đi càng mỏi.

Những ngày đầu của linh mục cũng thế.  Mới lên đường mà thấy lòng rộng mở,
thì càng cao, đường phải càng đẹp, càng đi lâu tâm hồn càng say mê đi tới
chứ.  Nhưng thực tế, không thiếu những cử hành phụng vụ chỉ là cánh cửa sổ
cũ kỹ muốn đóng sập xuống cho chóng xong.

Từ những kinh nghiệm được xác định đó, lời cầu chúc ra đời.  Ði tìm nguyên
do, đi hỏi nguyên nhân.  Kinh Thánh bảo: “Khi mọi người ngủ thì kẻ thù đến gieo cỏ lùng, rồi bỏ đi” (Mt.13: 25).  Thời gian nào mà không có phấn bụi bay.  Khoảnh khắc nào mà không có sương mù.  Hạnh phúc rất mong manh.  Tấm gương cần phủi bụi mỗi ngày.  Cỏ lùng cần nhổ khi còn là mầm non.  Chúa muốn nói với tôi về một tỉnh thức.

**********************

Là linh mục, xin Chúa cho con trước lời chúc đó là tiếng lòng cảnh tỉnh.

Con muốn sống làm sao mỗi ngày đẹp hơn.

Con muốn sống làm sao với ân sủng để mỗi ngày có thêm thiết tha đi tới chứ
không ao ước quay về.

Tình yêu mà cứ mỗi thời gian đi tới, lại cứ cầu chúc nhau tìm về bến cũ, thì
con đò sẽ lặng lẽ biết bao.  Hôn nhân mà mỗi bình minh lên, lại cứ phải
mong cho nhau như ngày xa xưa cũ thì còn đâu chân trời khám phá.  Chả có
sáng tạo, hôn nhân mà cứ phải nương nhờ ngày xưa thì bước đi tới nặng nề làm
sao.

Lạy Chúa, con muốn nói với Chúa về một lời chúc.

Ðừng để đời linh mục con, có những lời cầu chúc như thế.

Xin cho con sửa lại lời cầu chúc bi thương.

Ngày con dâng lễ mở tay, chỉ là mở tay thôi, mỗi ngày bàn tay con phải vươn cao
hơn, nhiều nhân đức hơn, chứa đựng nhiều ơn trời hơn.

Ngày đầu bước vào đời linh mục, có ngỡ ngàng, thì mỗi ngày, mỗi sáng sáng phải
ngỡ ngàng hơn vì khám phá ra quá nhiều ơn sủng Cha ban.

Mỗi thời điểm về gần ánh sáng, con phải thấy hân hoan hơn, thấy mình thấm nhuần
ánh sáng hơn.

Con phải quên đi những ngày đầu chập chững.

Con phải sống sao những ngày đầu chỉ là ơn sủng còn non màu mạ, mỗi thời gian
đi tới là chứa chan màu vàng của lúa đơm bông.

Như cánh bướm, vì vườn hoa càng rực rỡ thì càng buông cánh vào càng duyên dáng
hơn.

“Ơn sủng Cha ban thì hằng hà sa số,

Lớp lớp thời gian Cha không ngừng đổ rót.

Ðể lãnh xin, con chỉ có bàn tay bé nhỏ,

Vậy sao hồn con cứ trống và tim con còn vơi?” (Tagore)

Lạy Cha, lỗi ở con mà thôi.

Con ước muốn sửa lại lời cầu chúc trên kia.

Con muốn mỗi ngày cánh buồm đong gió ra đi là càng thênh thang, chứ đừng có lời
cầu chúc tầm thường mong sao được như ngày xưa bên bến hồ nhỏ bé.

Lời cầu chúc đời ban tặng con đến từ nhận xét.

Con không thể thay đổi cái nhìn của đời được, vì con thế nào thì đời nhận xét
như thế.

Lời cầu chúc đến từ cảm nghiệm.

Con không van xin đời thay đổi cảm nghiệm được, con chỉ có thể thay thế chanh
chua bằng mật ong, vì đời cảm nghiệm thế nào, đời mong mỏi như vậy.

Lời cầu chúc đến từ ước mơ.

Con không cho đời hạnh phúc được nếu mơ ước kia không là sự thật.

Lời cầu chúc đến từ lòng thành thật.

Con có đau thương vì lời chúc thì cũng hãy thành thật nhận lời chúc như câu
kinh.

Lời cầu chúc đến như tiếng than thở.

Con hãy quý những thở than đó vì nó là tiếng lòng nhắc nhở con về một tiếng
gọi.

Lời cầu chúc đến từ thực tế.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi lòng mình: Tại sao thế?

Lời cầu chúc có thể còn tiếp tục mãi.

Con không thể lặng thinh mà không hỏi Chúa:

– Vậy sáng mai con dâng thánh lễ ra sao.

 

***********************

Ôi! Lạy Chúa,

Mỗi lời chúc đều nói với con về một ý nghĩa.

Mỗi lời chúc đều nói với con về chính con.

Mỗi lời chúc đều nói với con về liên hệ giữa con và Chúa.  Amen!

 

Lm Nguyễn Tầm Thường SJ
– Trích tập suy niệm Ðường Ði Một Mình

From: langthangchieutim &

Anh chị Thụ & Mai gởi

 

 

“ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN…”

“ANH EM HÃY CHO HỌ ĂN…”

nguồn: conggiaovietnam.net

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

 


Năm hết Tết đến, mọi người bận rộn lao xao cho cái Tết của chính mình, của gia đình mình. Các bến xe nêm chặt cứng người, xe
hỏa, xe đò ngược xuôi đủ kiểu. Năm nay kinh tế tiếp tục khủng hoảng, kinh tế thế giới khủng hoảng thì kinh tế Việt Nam làm sao thoát khỏi ? Mới đây ông Thủ Tướng hội nghị với các tập đoàn kinh tế Nhà Nước, những tập đoàn, những tổng công ty vốn được mệnh danh là “quả đấm thép” tuyên bố… lỗ 60 tỷ đôla. Con số nợ khủng khiếp người dân bình thường nghe ngơ ngác vì không tưởng tượng được con số theo mệnh gía Việt Nam đồng ( 1.330.000 tỷ VND ), và cũng không thể tưởng tượng được con số theo mệnh giá Mỹ Kim ( 60 tỷ USD ).

Lại lang thang trên mạng và đọc được những thông tin màu xám xịt, hoặc tím tái:

“…Việt Nam hiện đứng thứ 11 thế giới về số lượng người nghèo ( 14,3 triệu người, chiếm 16,9% dân số ) và cũng nằm trong số các nước có lượng người nghèo cao nhất khu vực. Lâu nay Việt Nam được xem là một trong những nước thành công nhất về chuyện giảm nghèo, tuy nhiên đó là đo theo chuẩn nghèo cũ, thấp hơn chuẩn quốc tế.

Nếu tính theo chuẩn nghèo mới của Việt Nam ( 1,61 USD cho khu vực thành thị và 1,29 USD cho khu vực nông thôn ) thì tỷ lệ nghèo trên toàn quốc là 20,7%. Còn nếu so với chuẩn của quốc tế 2 đôla Mỹ một ngày ( tính theo PPP ) thì có hơn 40% người Việt Nam nằm dưới mức nghèo…” ( Cafef, 15.12.2012 ).

“Nhìn chúng nó cởi truồng giữa mùa đông, xót xa lắm. Có cảm giác như vùng đất ấy, con người ấy trở lại thời hồng hoang, chỉ vỏ cây – áo lá che thân. Và quan trọng hơn, cảm giác như nòi giống cứ bị lụi bại đi bởi chim cò tím tái, thông thống giữa gió lạnh từ bên kia biên giới kèn kẹt thổi sang… Lo được cái ăn rồi, nhưng căn cơ gì mà
không lo thêm cái mặc, cho chính tương lai của đất liền, của vùng biên ải…
Không biết Thủ Tướng của mình, đã bao giờ được chứng kiến những cảnh này chưa
?”
( Xin đọc toàn bài và xem các ảnh chụp ở http://maithanhhaiddk.blogspot.de/2013/01/thu-tuong-oi-ung-e-chung-no-coi-truong.html )

Cũng chính cái ông Thủ Tướng ở Hà Nội mà tác giả Mai Thanh Hải vừa gọi đến, ông ấy đang còn rất ư tự hào tuyên bố đất nước của ông đứng đầu thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu !

Những ai còn lương tâm, còn tình người, khi đọc những bản tin này không thể không xót xa, cay đắng cho đồng bào mình, cho dân tộc mình. Đáng tiếc thông tin không được rộng rãi, đáng tiếc nỗi sợ hãi làm người ta không dám thông tin, đáng tiếc người ta bị hoặc tự khoanh những vùng cấm kị, nhạy cảm để không dám bước vào, thản nhiên nhìn nỗi đau hoành hành, dửng dưng chấp nhận thực tế, ngày này qua ngày khác, mãi thành quen. Thản nhiên đã đành nhưng còn cảm thấy khó chịu khi có người đề cập đến, bàn đến, rồi tự mình phong thánh cho mình vì “không thuộc về thế gian”.

Một xã hội sau nhiều năm “hòa bình” mà cứ tụt hậu, chắc chắn trách nhiệm thuộc về những người cấm quyền, không cần phải lý luận dài dòng. Trên trường đua, bạn bè chạy bên cạnh vượt xa tắp tít, khoảng cách mỗi ngày một giãn ra, hoàn toàn mất khả năng thu ngắn thì trách nhiệm thuộc về mình, chẳng cần phải hỏi ai ! “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt ?”

Một đáng tiếc khác là nhà cầm quyền không cho  phép tôn giáo được tham gia với xã hội về 3 mặt quan trọng của đời sống một dân tộc, một quốc gia: đó là Giáo Dục, Y Tế Cộng Đồng và Từ Thiện !

Qua kinh nghiệm của miền Nam trước năm 1975 và  qua thực tế của thế giới, tôn giáo là một tổ chức rất có uy tín trong cả ba lãnh vực này. Người ta không cho làm thì cứ ngồi yên trong Nhà Thờ, trong Tu Viện, và chấp nhận. Gần 38 năm qua đối với một số người, Đạo đã trở thành lô cốt phòng thủ, thành pháo đài kiên cố. Nhưng rồi từ khi có chính sách đổi mới, có nhiều nơi Đạo được trở thành lễ đài, tha hồ phô diễn sự hoành tráng, mặc kệ kẻ khát kẻ đói, mặc xác kẻ cô thế cô thân. Thật ra thì cũng có rất nhiều nỗ lực để thi hành sứ mạng của mình, có rất nhiều cố gắng và hy sinh, nhưng cứ làm
chui lủi trong cái mặc cảm của “cơ chế xin – cho”, nó chẳng ra làm sao cả !

Thôi thì năm mới xin có vài ước mơ, hay gọi là có vài đề nghị cũng được: Hãy giảm bớt những lễ hội, nhất là những lễ tạ ơn rềnh rang, những chi phí tiếp đón ồn ào thi đua với thế gian; giảm bớt những chi tiêu xây dựng sang trọng to lớn cho những công trình “của Giáo Hội” để chia cho vùng đói vài hạt gạo, chút vải dư; giảm bớt, thậm chí chấp nhận thiếu thốn nhân  sự vùng phát triển, hầu có người dôi ra để gởi đến các vùng nghèo, vùng đói, mà ân cần phục vụ…

Năm mới tha hồ uốn lưỡi để nói những lời chúc tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn, chân thành hơn, chắc chắn là những sẻ chia cho người nghèo, thay vì chỉ môi miếng hời hợt bên ngoài mà thôi !

Chúa bảo chúng ta: “Anh em hãy cho họ ăn” ( Mt 14, 16 )…

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 2.2.2013 (Ephata 547)

Nguy cơ Trung Quốc

Nguy cơ Trung Quốc

Đăng bởi lúc 6:58 Sáng 5/02/13

nguồn: chuacuuthe.com

VRNs (05.02.2013) – Handelsblatt, ĐứcNền kinh tế Vìệt Nam cũng như hệ thống tài chánh ngân hàng Việt Nam hiện nay là một  „copy“ mang nhiều khiếm khuyết
của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Trung quốc. Nhân đọc được bài viết có giá
trị về sự rủi ro của hệ thống ngân hàng Trung quốc đăng trên trang nhất của
nhật báo dành cho giới doanh nhân và kinh tế của Đức “Handelsblatt“ ngày
31.01.2013  tôi xin được dịch ra tiếng Việt để mọi người cùng tham khảo.

*  *  *

Trung Quốc lừa cả thế giới: trong lĩnh vực nợ nần nhà nước là biểu tượng sáng chói. Tuy nhiên rủi ro bạc tỷ trong lĩnh vực ngân hàng dùng chi phí cho các dự án danh tiếng và chi phí cho các chương trình kích thích kinh tế. Bong bóng tín dụng rất nguy hiểm đã được hình thành (tại Trung quốc).

Niềm tự hào mới nhất của Trung Quốc là tuyến đường sắt cao tốc 2 300 km với xe lửa màu trắng thon gọn nối liền Quảng Châu và Bắc Kinh, trung tâm kinh tế phía Bắc và phía Nam của quốc gia. Tốc độ tối đa là 300 km mỗi giờ.

Dự án chỉ có một lỗi là không bao giờ có lợi nhuận.

Cho tới nay công ty đường sắt Trung Quốc đã mượn nợ của ngân hàng tổng cộng là 280 tỷ euro để chi phí cho dự án này cũng như cho các dự án khác. Ngân hàng chủ nợ có „thấy lại“ được số tiền cho vay nêu trên hay không là điều còn cao hơn là nghi ngờ.

Bong bóng nợ  đã hình thành tại Trung Quốc, bong bóng này cũng như tất cả mọi thứ khác hiện diện trên Nước Cộng hòa Nhân dân là rất vĩ đại. Nhà nước luôn luôn chi phí hàng tỷ USD vào các dự án danh tiếng mới, chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay nợ ngân hàng ngắn hạn. Họ muốn phát triển bằng mọi giá – cho dù nợ ngập đầu.

Ở phương Tây, các ngân hàng phải bảo đảm rủi ro tín dụng mà họ cho vay bằng vốn của chính ngân hàng và tiền vốn bảo đảm này mỗi ngày mỗi tăng (bởi qui định của pháp luật) và các khoản nợ xấu phải được xử lý bằng cách đưa vào các ngân hàng xấu (bad debt bank),  trong khi đó các ngân hàng Trung Quốc được thổi phồng to một cách không kiểm soát được. “Hàng chục nghìn  quan chức cấp thấp của chính phủ và các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đã mượn nợ mà không cần phải kiểm tra, giám sát”, nhà kinh tế Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cho biết. Chính thức là nhà nước không thiếu nợ cao. Tuy nhiên tất cả các rủi ro được dồn vào bảng cân đối của các ngân hàng (bank balance sheet). Vì vậy, ngân hàng (tại Trung Quóc) là lĩnh vực nguy hiểm nhất cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Họ phải phục vụ một
nền kinh tế lớn nhất trên thế giới sau Hoa kỳ, nhưng đồng thời cũng là nơi nhận
chỉ thị của chính quyền xã hội chủ nghĩa trung ương. Các khoản cho vay mà không
có bất kỳ một kiểm soát từ bên ngoài. Theo các chuyên gia, trên thực tế
Trung quốc chỉ có đủ khả năng tăng trưởng từ 5% đến 6% mà thôi, nhưng họ
đặt mục tiêu cho năm nay là hơn tám phần trăm. Cơn nghiện tín dụng đã phóng đại
thực tế ở Trung Quốc.

Vòng luẩn quẩn của việc giảm tăng trưởng và gia tăng nợ nần có vẻ đe dọa nặng nề hơn là Trung Quốc có nhiều ngân hàng lớn nhất thế giới. Ngân hàng Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc (Industrial & Commercial Bank of China), với mức vốn tổng cộng gần 186 tỷ euro là ngân hàng có giá trị nhất thế giới. Ngân hàng thúc đẩy tăng trưởng gần như là độc quyền, tài trợ từ các ngân hàng khác cho tới nay không đáng kể.

Cơn đói tín dụng lên cao đến độ mà các doanh nghiệp (Trung quốc) phải kiếm ngày càng nhiều nguồn vốn từ các ngân hàng không chính thức. Tháng mười năm ngoái Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã cảnh báo sự phát triển bùng nổ của các ngân hàng trong bóng tối gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính của đất nước và tăng tính thiếu minh bạch của hệ thống (tài chính).

Chẳng có gì gọi là ngạc nhiên khi doanh nhân Đức ngày càng mất tin tưởng vào quốc gia đầy hy vọng trong quá khứ này là Trung Quốc. Tuy vẫn còn thu hút với doanh thu bán hàng hoá ngày càng tăng – nhưng nguy cơ cũng gia tăng.

Ở phương Tây cuộc khủng hoảng tài chính được lắng dịu, nhưng ở Trung Quốc lại đang ủ một thảm họa mới. Tin tức hôm qua được loan báo là nợ hàng tỷ của chính quyền cấp tỉnh đã được gia hạn tiếp. Rõ ràng là việc trả nợ không cần thiết phải nghĩ đến. Cựu giám đốc Ngân hàng Thế giới phụ trách Trung Quốc, Yukon Huang, đã viết trên báo Financial Times rằng, “các ngân hàng Trung Quốc quá lớn để quản lý, Chúng ta sẽ chứng kiến nhiều cuộc vỡ nợ và những cuộc khủng hoảng tài chính nhỏ, một hoặc thậm chí hai …”

Mặt trái của sự phát triển bùng nổ tại Trung Quốc.

Trong khi châu Âu đang tiếp tục trông chờ một giải pháp thuyết phục nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng nợ euro và Mỹ đang trên bờ vực thẳm của sự suy sụp ngân sách quốc gia, một nền kinh tế lớn khác tỏ vẻ không một chút ấn tượng về khủng hoảng là Trung Quốc. Tại Cộng hòa nhân dân hàng năm có trình báo số liệu thống kê về tình hình phát triển bùng nổ đặc biệt, năm 2013 các nhà kinh tế Trung quốc kỳ vọng nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8,5%.

Một phép lạ xảy ra nhờ sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản lèo lái nền kinh tế thị trường? Thưa không. Bởi vì  phép lạ phải được chứng minh, kiểm tra chặt chẽ hơn là chỉ qua một cơ chế rất tầm thường – sự gia tăng GDP chủ yếu là do các tỉnh và địa phương Trung Quốc, thí dụ như chi phí cho các dự án lớn xây nhà ở  theo phương châm: tiền không không quan trọng.

Với phương pháp trên, các tỉnh và địa phương làm suy yếu hệ thống tài chính Trung Quốc từ bên trong ra bên ngoài – mặc dù trung ương Bắc Kinh làm ăn thực sự vững chắc. „Hàng chục ngàn các quan chức chính phủ cấp thấp cũng như các nhà quản lý doanh nghiệp nhà nước đều có thể thực hiện các dự án đầu tư mà không cần được kiểm soát, giám sát“, kinh tế gia Michael Pettis của Đại học Bắc Kinh cảnh báo. Kết quả là: nợ lên đến nhiều nghìn tỷ (ức) nhân dân tệ, việc trả được nợ là hoàn toàn không chắc chắn, như các chuyên gia từng cảnh báo. Thoạt nhìn, hệ thống ngân hàng có vẻ mạnh mẽ, theo ông Pettis. Trong trường hợp của một cuộc suy thoái kinh tế, các
ngân hàng tin tưởng rằng sẽ được nhà nước để được cứu trợ.

Các khoản nợ của chính phủ tỉnh và địa phương theo một cuộc kiểm tra đặc biệt của nhà nước ít nhất là 25% tổng sản lượng GDP –  ở Đức, mặc dù tình hình tài chính các thành phố, địa phương không mấy sáng sủa nhưng khoản nợ của thành phố chỉ với 5% GDP. Thậm chí chính phủ trung ương Bắc Kinh không hề biết được là bao nhiêu các khoản vay này không thể trả lại được.

Chính thức  ngân hàng khai báo ít khoản nợ xấu. Các nhà phân tích hoài nghi những con số được khai báo này. Mục tiêu lợi nhuận cho các dự án nhà ở thường được nêu không thực tế. Nhà cửa thường được xây dựng một cách nhanh chóng và chỉ hai năm sau khi xây hoàn tất đã cần phải được cải thiện. Chính quyền địa phương sau đó cần nhiều tiền hơn. Các tỉnh trưởng hành động theo phương châm: “Bắc Kinh sẽ giải quyết.”

Một vấn đề của nợ Trung Quốc nữa là thời gian đáo hạn khác biệt của các khoản vay và các dự án mà họ tài trợ. Thời gian xây dựng một hệ thống xử lý nước thải hoặc một tuyến đường sắt đòi hỏi phải mất nhiều năm. Thời gian có thể đạt được lợi nhuận thường lên tới nhiều thập niên.. Chi phí cho các dự án này thường bằng các khoản vay nợ ngân hàng có kỳ hạn một vài tháng hoặc vài năm. “kỳ hạn trả nợ thực tế và thời gian đáo hạn của các khoản vay nợ cách nhau quá xa” kinh tế gia Qu Hongbin của ngân hàng lớn HSBC.cho biết. Tiền, không phải là một vấn đề, bởi vì tỷ lệ tiết kiệm
của Trung quốc trên 50%. “vật thiếu thốn là những công cụ (quản lý) tài trợ
dài hạn
.”

Trung Quốc không có những công cụ đó. Tài trợ bằng trái phiếu đòi hỏi phải có một thị trường thực sự trưởng thành, với việc đánh giá trung thực và thông tin minh bạch về những doanh nghiệp và chính quyền liên quan. “Trung Quốc đã thực hiện được một số vấn đề, nhưng chưa đủ” , một doanh nhân người Đức cho biết. Những người có
trách nhiệm rõ ràng là thiếu tính nhận thức vấn đề.

Tuy nhiên, ngay cả trong một nền kinh tế mà nhà nước chiếm ưu thế, một nguyên tắc cũng phải tuân giữ là: nếu mượn nợ thì tiền vay nợ cuối cùng phải được  hoàn trả lại cho chủ nợ. Tiền của các ngân hàng trên thực tế là tiền do người dân Trung quốc tiết kiệm. Một ví dụ là Bộ Đường sắt Trung Quốc là một trong những tổ chức mang nợ cao nhất thế giới: bộ vay mỗi năm thêm gần một nghìn tỷ nhân dân tệ, tương đương với 118 tỷ euro. Theo nhà kinh tế Pettis   là „một sự mất cân bằng to lớn“ và tiên đoán về trung hạn nước Cộng hòa nhân dân sẽ có „một thảm họa nợ nần“. Cứu trợ ngân hàng bởi nhà nước là điều không thể tránh khỏi.

Do đó, thống đốc ngân hàng trung ương Zhou Xiaochuan suy nghĩ phương cách làm thế nào qui trách nhiệm rủi ro này cho chính quyền cấp tỉnh. Đề nghị của ông là: phần lớn các khoản  vay nợ của chính quyền tỉnh phải được bảo đảm bởi cư dân của tỉnh đó. Theo cách suy tính  của Zhou Xiaochuan, chỉ khi nào có chủ nợ hoặc người bảo lãnh tại địa phương, thì chức năng kiểm soát mới thực sự  được thực hiện.

Tựa: Das China-Risiko

Tác giả: Finn Mayer-Kuckuk và Frank Sieren.

Đăng trên trang nhất nhật báo Đức Handelsblatt ngày 31.01.2013

Chuyển ngữ: Nguyễn Hội