Sống để tìm cái gì?

Sống để tìm cái gì?

                                                             Tâm Thương

                                                    nguồn: Thanhlinh.net

Bạn thân mến, cuộc đời này là một hành trình đi tìm. Có người đi tìm cho mình một công việc thật nhiều tiền. Nhiều người đàn ông giàu có, thành đạt lại muốn tìm cho mình một người vợ sắc đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Nhiều bạn trẻ lo tìm cho mình một trường dạy Anh văn thật nổi tiếng để hy vọng có một chỗ làm cho nhiều công ty nước ngoài thu nhập rất cao. Gần tới ngày tựu trường, nhiều sinh viên tất bật lo đi tìm cho mình một chỗ ở trọ như ý muốn v.v… Tựu trung lại, ai cũng muốn đi tìm hạnh phúc cho đời mình. Đó là hành trình đi tìm nhiều thứ. Thế nhưng, có bao giờ bạn và tôi thử đi tìm chính mình. Vậy, đi tìm chính mình nghĩa là gì? Phải chăng sống là đi tìm chính mình cũng là hành trình đi tìm người khác và đi tìm Thiên Chúa?

Đi tìm người khác

Trước tiên, đi tìm chính mình cần phải được cắm mốc trong mối tương quan với người khác. Vì thế, một linh mục nhạc sĩ đã viết: “Tôi chỉ thật sự là người nếu tôi sống với anh em tôi. Thế giới này không ai là một hòn đảo. Loài hoa này không có loài hoa lạc loài.” (Bài hát Không Ai Là Một Hòn Đảo – Linh mục Giuse Đào Trung Hiệu). Ngoài ra, một nhà tư tưởng trứ danh nào đó đã trải nghiệm: “Sống không bạn chết cô đơn.” Thật vậy, cuộc đời này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì khi mỗi chúng ta đánh mất mối tương quan tốt đẹp với người khác. Không được người khác quan tâm, chúng ta sống trong cô đơn chán chường.

Không có tình yêu thương nơi người khác, cuộc đời này vô vị biết bao. Bởi thế, Thánh Phaolô đã viết những lời thật thấm thía: “Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoài món nợ của tình thương.” Quả thật, đây là món nợ bám víu thân phận cuộc đời mỗi Kitô hữu chúng ta. Bởi vậy, có người bảo rằng: “Nợ tiền đem trả thì vơi. Nợ tình đem trả ai ơi càng đầy.”

Mấy ngày trước đây, cha tôi lên bệnh viện Đại học y dược Tp. Hồ Chí Minh khám bệnh. Cha đi từ ba giờ sáng. Đến chiều tối, mẹ tôi không thấy cha về. Cha đi không mang theo điện thoại. Vì phải đợi kết quả vào sáng hôm sau nên cha ở lại Sài Gòn một đêm. Mẹ tôi thấp thỏm lo âu trong nước mắt. Mọi người ai cũng tìm mọi cách để tìm cha tôi. Cuối cùng, cha tôi bình an.

Mọi người ai cũng thấy ấm áp vui mừng trong lòng. Vậy đó, cuộc sống luôn dệt nên bởi nhiều mối tương quan với tha nhân.

Tương quan giữa chồng với vợ. Tương quan giữa cha mẹ và con cái. Tương quan bạn bè anh em v.v… Khi đánh mất những mối tương quan ấy, con người ta sẽ cảm thấy hụt hẫng. Đánh mất tương quan với tha nhân làm ta đau khổ. Đánh mất chính mình cũng là đánh mất cả một cuộc đời. Vì vậy, chúng ta cần phải đi tìm chính mình như thế nào?

Đi tìm chính mình

Triết gia Socrate có câu nói trứ danh: “Hãy tự biết mình.” Quả thật, con người hôm nay hiểu biết rất nhiều thứ. Tuy nhiên, người ta thường không hiểu biết về chính mình. Nhiều người sống nhưng không tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống. Nhiều người không biết mình đang muốn cái gì, sống để làm gì? Vì thế, đi tìm chính mình nghĩa là trở về với sự thật sâu thẳm lòng mình. Dám nghĩ và dám sống thật với con người của mình. Đó là hành trình đi tìm chính mình. Danh ngôn có câu: “Biết người biết ta. Trăm trận trăm thắng.” Thế nên, biết rõ chính mình là một sự thành công lớn trong đời ta.

Thế nhưng, dòng chảy cuộc sống hôm nay luôn cuốn hút ta dính bén bởi nhiều thứ. Nào là những dính bén tình cảm. Nào là những dính bén quyền lực và tiền tài. Dính bén những thú vui thế thái nhân tình. Càng dính bén nhiều vào những thứ như thế, chúng ta càng dễ đánh mất chính mình. Bởi vậy, một tác giả đã cảm nghiệm như sau: “Dòng đời ngược xuôi, Chúa ơi con biết về đâu. Về đâu con đi tìm Ngài. Đi giữa cuộc đời con bơ vơ. Năm tháng cuộc đời con ngu ngơ.” Vậy, sống chỉ để tìm chính mình thôi vẫn chưa đủ. Con người cần đi tìm Thiên Chúa.

Đi tìm Thiên Chúa

Thiên Chúa là cội nguồn của vũ trụ. Ngài là ý nghĩa tối hậu cho vận mệnh con người. Thế nhưng, mỗi Kitô hữu chúng ta thường dễ để lạc mất sự hiện diện của Chúa trong đời. Ma quỷ, xác thịt và thế gian lôi kéo chúng ta ra khỏi mối tương quan với Thiên Chúa. Chúng ta lo tìm nhiều thứ không phải là Thiên Chúa. Cuối cùng, tâm hồn chúng ta cảm thấy trống rỗng.

Dù vậy, Chúa vẫn đi tìm chúng ta. Chúa yêu chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Chúa vẫn chờ đợi chúng ta như người cha già đợi chờ đứa con út đi hoang trở về như một tác giả nào đó đã viết: “Ngài có đó khi con tưởng mình đang cô đơn. Ngài bên con khi mà con không biết gì.”

Cuối cùng, có lẽ bạn và tôi đã biết mình sống trên đời để đi tìm cái gì cho đời mình. Vậy, chúng ta cần phải làm gì để dấn thân cho lý tưởng tìm Chúa làm lẽ sống cho đời mình?

Nguồn: WGPSG

Thánh nữ Monica, bao la tình mẹ

Thánh nữ Monica, bao la tình mẹ

                                                                                        Tâm Thương

 

WGPSG — Ngày 27.08 hằng năm, Giáo hội hân hoan mừng lễ nhớ thánh nữ Mônica. Cả cuộc đời của thánh nhân là những chuỗi ngày hết mình phụng sự Chúa và hết lòng hy sinh vì chồng con. Bởi thế, thánh nữ Mônica được Giáo hội chọn làm bổn mạng của các bà mẹ Công giáo. Thánh nữ Mônica, một người phụ nữ bao la tình mẹ. Sự bao la ấy được ẩn sâu nơi những giọt nước mắt đau khổ của thánh nhân. Sự bao la ấy được thể hiện bằng những nghĩa cử vất vả hy sinh vì tương lai cho con mình.

Bạn thân mến, mừng lễ thánh nữ Mônica, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau suy nghĩ và cảm nghiệm về tình thương bao la của mẹ. Nhạc sĩ Y Vân đã cảm nhận về lòng mẹ bằng những lời ca sâu lắng: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào. Tình mẹ chan chứa như đồng lúa chiều rì rào. Lời mẹ êm ái như dòng suối hiền ngọt ngào” (Bài hát Lòng Mẹ). Còn mỗi người chúng ta thì sao? Chúng ta cảm nghiệm về tình mẹ như thế nào và bằng cách nào? Phải chăng đó là những ký ức cảm động và đời thường về tình thương của mẹ đã dành cho chúng ta?

Những giọt nước mắt của mẹ vì yêu con

Trước hết, tình mẹ bao la được thể hiện nơi những giọt nước mắt của mẹ. Người ta thường bảo: những giọt nước mắt của người phụ nữ là vũ khí lợi hại nhất để chinh phục lòng người. Một tác giả đã viết như thế này: “Có những giọt nước mắt đem lại hạnh phúc cho người khác. Có những giọt lệ làm lay chuyển tâm hồn người khác. Giọt nước mắt của người mẹ luôn có tác dụng rất lớn đối với con cái.” Thật vậy, thánh nữ Mônica đã cầu nguyện và đã khóc ròng rã suốt mười tám năm trời: “Giọt nước mắt của thánh nữ Mônica đã biến đổi cả cuộc đời của Augustinô, người con trai đầu lòng thông minh nhưng ngang tàng, trụy lạc.” Vâng, đó là những giọt nước mắt xuất phát từ sâu thẳm trái tim của một người mẹ. Giọt nước mắt của tình yêu. Giọt nước mắt như là cách giải tỏa những đau đớn lên đến tột độ trong tâm hồn và trái tim của mẹ.

Vì thế, Marie Antoinette đã cảm nhận thật thấm thía: “Không ai có thể hiểu những đau khổ của tôi, hay nỗi kinh hoàng dâng lên trong lồng ngực, nếu người đó không hiểu trái tim của một người mẹ.” Mẹ tôi cũng đã nhiều lần khóc. Mẹ khóc vì nhớ đến tôi đang đi học xa nhà. Mẹ khóc vì lâu quá tôi không điện thoại về thăm. Mẹ khóc vì sợ tôi té xe. Mẹ khóc mỗi lần tôi sai lầm vấp ngã trên đường đời. Và mẹ đã khóc vì lo lắng cho tương lai của tôi sau này. Có lẽ, mẹ là người dễ khóc và là người khóc nhiều nhất trên trần gian này. Bởi vậy, không phải vô tình mà Bernard Shaw đã cảm thấu: “Vũ trụ có nhiều kì quan, nhưng kì quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ.” Hay Florian cũng đã từng trải nghiệm: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là lòng mẹ.” Phải chăng những giọt nước mắt của mẹ đã trở thành một đại dương bao la vô bờ bến của tình thương trong cuộc đời này?

Những vất vả hy sinh vì con

Hơn thế nữa, sự bao la của tình mẹ còn được cụ thể bằng những vất vả hy sinh vì tương lại con cái. Vì vậy, Napoleon I đã cảm nghiệm: “Tương lai của con là công trình của mẹ.” Thật vậy, bất kỳ tình yêu nào cũng đòi hỏi hy sinh. Không có hy sinh thì tình yêu trở nên vô nghĩa. Mẹ là người hy sinh cho con cái nhiều nhất. Hy sinh chín tháng mang nặng đẻ đau. Hy sinh nuôi dưỡng, chăm sóc cho con cái khôn lớn nên người. Mẹ hy sinh cả cuộc đời vì mạng sống, vì hạnh phúc và tương lai của con. Thánh nữ Mônica đã là một người mẹ như thế. Hay mới đây ở Hà Nội có một người mẹ lao vào đường ray để cứu đứa con của mình. Người mẹ ấy đã chết. Đứa con hấp hối. Thật cao cả tuyệt vọng và cảm động.

Bạn thân mến, tình mẹ thật bao la. Thật không bút mực nào diễn tả hết được. Vì thế, Balzac cảm nhận: “Chỉ trong sự nuôi dưỡng, người phụ nữ mới nhận ra bổn phận làm mẹ của mình một cách rõ ràng và hiện hữu; nó là niềm vui trong mọi khoảnh khắc.” Chị tôi đã chia sẻ kinh nghiệm làm mẹ của mình thế này: “Có làm mẹ mới biết thương con như thế nào. Làm mẹ đâu thể nào bỏ con của mình được. Dù có vất vả cỡ nào cũng phải sống chết vì con.”

Cuối cùng, Lamartine đã cảm nghiệm như sau: “Hạnh phúc thay cho người nào được Thượng Đế ban tặng cho một người mẹ hiền.” Vậy, bạn và tôi đã đáp lại tình thương của mẹ như thế nào? Xin mượn lời của một bạn trẻ cảm nhận về mẹ để khép lại bài viết này: “Đêm nay con ngủ giấc tròn. Mẹ là ngọn gió của con suốt đời. Mẹ ơi, mẹ hy sinh cho con nhiều đến thế mà chưa bao giờ mẹ đòi con trả công. Mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất, cao cả nhất, vĩ đại nhất. Đi suốt đời này có ai bằng mẹ đâu. Có ai sẵn sàng che chở cho con bất cứ lúc nào. Ôi mẹ yêu của con! Giá như con đủ can đảm để nói lên ba tiếng ‘Con yêu mẹ!’ thôi cũng được.”

Maria Thanh Mai gởi

SỨC MẠNH CỦA SỰ CẦU NGUYỆN

SỨC MẠNH CỦA SỰ CẦU NGUYỆN

 

Cầu nguyện là một quá trình truyền thông cho phép ta được thưa chuyện và nghe được tiếng nói của Thiên Chúa- một đấng mà chúng ta tin tưởng một cách tuyệt đối rằng Ngài luôn quan tâm và yêu thương ta hết mực. Nhờ cầu nguyện, thánh Monica trở thành một mẫu mực của người chuyển đại họa thành đại phước. Thánh đã sử dụng một phương thức bình thường: kiên trì cầu nguyện vào lòng cậy trông vào Thiên Chúa đến những mức tới hạn, mà số đông chúng ta không thể tưởng tượng hết. Và sự nhẫn nhục của vị Thánh được chọn làm bổn mạng của các bà mẹ Công giáo này làm chúng ta phải kính phục.

Những gợi ý về cầu nguyện

Cầu nguyện ở mức đơn giản chỉ là một cuộc độc thoại của chúng ta với Thiên Chúa.  Cầu nguyện ở mức cao hơn là một cuộc đối thoại, như một cuộc trao đổi thân mật giữa 02 đối tượng trong mạng truyền thông không dây, mà trái tim đóng vai trò như các thiết bị thu phát.  Chúng ta cần mở rộng trái tim và các giác quan để phát ra và đón nhận tiếng đáp trả của Thiên Chúa trực tiếp hay gián tiếp qua người khác. Thánh Gioan Vianney đã nói “khi cầu nguyện tâm linh, hãy nhắm mắt, ngậm miệng và mở rộng trái tim”. Mẫu nhỏ trong câu chuyện sau cho chúng ta biết sự phản ứng của Thiên Chúa một cách gián tiếp sau khi thánh Monica đã cầu nguyện liên lỉ, thông qua một giám mục:

Thấy người con đầu quá khó để từ bỏ cuộc sống tội lỗi, thánh Monica nhờ sự can thiệp của một giám mục. Song vị giám mục đã thất bại và chỉ biết khuyên Monica tiếp tục cầu nguyện cho con trai. Ông bảo “Không thể nào một người con được bao bọc bởi quá nhiều nước mắt của người mẹ lại có thể bị hư mất”. Nhờ vậy, Monica càng kiên tâm cầu nguyện cho con trai-sau này trở thành vị thánh nổi tiếng Augustino. 

Khi nói chuyện với Thiên Chúa. Mỗi lời cầu có cấu trúc tổng thể gồm 02 vế. Vế đầu là ngợi ca, cảm tạ các hồng ân mà chúng ta đón nhận. Vế sau là trình bày các nhu cầu vô hình lẫn hữu hình tốt đẹp khác của bản thân. Hai kinh phổ biến nhất của đạo Công giáo, Lạy Cha, Kính mừng là điển hình cho lời cầu nguyện hoàn hảo. Lời cầu không nhất thiết phải dài, nhưng rất cần chân thành, sâu lắng, tin tưởng và xuất phát từ con tim. Trong Matthêu 6, 7 Chúa bảo rằng “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng, cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin”.

Sau khi cầu nguyện chúng ta đừng nghĩ rằng mình sẽ nhận lời. Thiên Chúa sử dùng thất bại như là một thử thách, Ngài không chấp nhận sự bỏ cuộc. Thánh sử Luca 18, 1 có viết về Chúa Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn người quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy, để dạy các ông cầu nguyện luôn, không được nản chí.

Cũng giống như các cuộc giao tiếp khác, chúng ta có thể không biết cách để làm hợp ý người đối thoại. Mẹ Teresa Calcuta dạy rằng, chúng ta cần tìm nơi tĩnh lặng và cũng để cả tâm hồn tĩnh lặng- không ghen tuông, giận hờn, đố kị với những người xung quanh. Thánh Phaolô trong (1, Tm 2, 8) nói thêm “Vậy tôi muốn rằng, người đàn ông hãy cầu nguyện bất cứ nơi đâu, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn không xung khắc”. Nhờ trạng thái yên lặng, chúng ta có thể chạm đến những phần thuộc phần tâm linh-phần hồn. Trong giây phút này, chúng ta đang chờ đón cuộc gặp gở thiêng liêng mà Thiên Chúa là đối tượng duy nhất với niềm hạnh phúc và mến yêu tối đa.

Sự quan trọng của cầu nguyện

Mỗi chúng ta, trong sinh hoạt hàng ngày về đời sống tâm linh bao gồm các hoạt động: đọc kinh, cầu nguyện, suy niệm, tham dự thánh lễ và làm các việc lành khác. Trong đó cầu nguyện và suy niệm là 02 công cụ quan trọng để làm đức tin tăng trưởng, nó chính là phần rễ cho đời sống tâm linh-cái quyết định sức sống của một cây trồng. Nhờ rễ, cây đươc hấp thụ nước và các chất dinh dưỡng vô cơ. Trong lễ đại hội Quốc tế giới trẻ 2011 tại Madrid, Đức Giáo hoàng  Benedict XV nói “Nếu các bạn đâm rễ sâu trong lòng tin, các bạn sẽ gặp được suối nguồn của niềm vui, cả khi có phải sống giữa các trái ý và khó khăn.

Đức tin không đối nghịch với các lý tưởng cao đẹp nhất của các bạn, trái lại nó nâng cao và hoàn thiện chúng”.

Cố Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận nhấn mạnh: “Hoạt động không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa. Cầu nguyện phải là ưu tiên hàng đầu: thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động”. Cầu nguyện và suy niệm giúp chúng ta gia tăng sức mạnh và vững chãi trong những hy sinh và họat động khác, cũng như rễ cây càng phát triển thì nhận càng nhiều dưỡng chất, nguồn nước và làm cây trở nên chắc chắn nhờ bám chặt vào đất.

Thánh Monica thật có phước khi sử dụng phương thuốc cầu nguyện để hóan cải và canh tân cho chồng, con vì ngài đã tin rằng “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7, 7). Hơn nữa trong suốt cuộc đời đau khổ, đầy nước mắt, chính Thánh hưởng được phúc thứ 03 trong 08 mối phúc: “Phúc cho ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mt 5, 5).

Còn chúng ta trước khi cầu nguyện, nên nhớ lấy câu “Thầy nói với các con: tất cả những gì các con cầu xin, các con cứ tin là mình đã được rồi , thì sẽ được như ý” (Mc 11, 24).

 Maria Thanh Mai gởi

Hai Vợ Chồng Già Với Con Chó Cưng

Hai Vợ Chồng Già Với Con Chó Cưng

(Hạnh Phúc Gia Đình)

                                                                                                Tác giả: Tuyết Mai

Có ai đã đọc được tin tức thật đáng thương trên Internet thuật về hai vợ chồng cùng con chó cưng, bị chết chìm trên giòng sông trong tuần vừa qua?.   Tin tức buồn này đáng cho chúng ta bài học Sống thật quý báu.  

Hai vợ chồng già đang ở tuổi hưu chắc cuộc sống cũng khá giả, đi chơi trên chiếc thuyền canoe cùng con chó cưng của hai ông bà, trên giòng sông có nước chảy xiết.   Đột xuất con chó cưng của họ đã bị té bõm xuống giòng sông đó!.   Chẳng hiểu ông chồng có biết bơi hay không nhưng vì quá thương con chó nên đã không mảy may suy nghĩ và bất chấp mọi sự, đã nhảy xuống cứu con chó cưng, nhưng sức người có hạn chẳng những ông không cứu được con chó, mà tánh mạng của ông cũng rất nguy kịch.  

Người vợ trên chiếc canoe nãy giờ chắc chứng kiến mọi sự việc trước mắt mình, thấy chồng đang chìm dần và cũng như ông, bà vì quá thương chồng nên cũng nhảy bõm xuống giòng sông nước chảy xiết để cứu ông mà quên rằng mình không hề biết bơi.   Cuối cùng thì cả hai vợ chồng và con chó cưng của họ đã bị nhận chìm dưới lòng sông.

Đọc câu chuyện trên đã cho tôi một suy nghĩ sâu xa nào đó về dòng đời và cuộc sống hằng ngày của chúng ta.   Sáng hôm nay tôi đã lợi dụng thời giờ và câu chuyện trên để khuyên ông nhà tôi.   Khuyên ông bớt ôm đồm công việc nhà, bớt sống vội, bớt lo sợ viễn vông những điều có thể không bao giờ xẩy ra, bớt lo xa cho các con thái quá và lo dùm cho chúng trong khi mình không thể.   Hãy dâng tất cả lên cho Thiên Chúa định liệu và hãy luôn cảm tạ Người!.   Vì để cho Thiên Chúa sắp xếp, định liệu, và lo cho mọi việc là điều khôn ngoan nhất tôi nghĩ khi làm con của Người.      

Tôi khuyên ông hãy quẳng gánh lo đi để mà sống, như lời của một nhà văn bất hủ nào đó mà tôi không nhớ tên?.   Tôi khuyên ông rằng trên thế giới hiện nay có cả hằng triệu người bằng tuổi ông, đang làm việc tối mặt tối mày, chỉ mong cho được trúng số độc đắc để được ở nhà, có cuộc sống thoải mái hiện tại như ông đang có.   Tôi khuyên ông hãy sống như người triệu phú mới vừa được trúng số độc đắc.   Tại sao không nhỉ!??.   Vì có phải ông rất đáng được hưởng?.  

Vâng, vì ông đã trả nợ xương máu cho phần đất quê hương rất thân yêu của ông là nước VN, suốt bao nhiêu năm vất vả “giãi nắng dầm sương, nằm gai nếm mật” trong đời sống quân ngũ của ông.   Cũng đã có lập chiến công oai hùng để giữ nước giữ nhà.   Cũng đã bị thương tích vì những miểng của bom dội và nằm điều trị trong nhà thương Cộng Hòa trước năm “75”, và có được huy chương do Tướng T. đích tay trao tặng.  

Qua Mỹ ông cũng đã vất vả đi cầy trên 20 năm như một công dân tốt và đóng thuế suốt từng ấy năm.   Giờ đây ông được Chúa thưởng công cho ở nhà và ăn tiền hưu non sớm hơn người thường 3 năm vì ông bị thất nghiệp sau khi hãng xưởng dời đi tiểu bang xa.   Vì là hưu non nên tiền hưu cũng bị cắt xén vì đã không chờ được cho đến đủ tuổi “65” và vì lý do kinh tế gia đình không được khá nên không đợi được.  

Tôi khuyên ông hãy luôn cảm tạ Thiên Chúa ngày cũng như đêm.   Ban cho có được người vợ tốt lành và một lòng chung thủy.   Ban cho con cái hết thảy đứa nào cũng ngoan, cũng có trái tim rất nhậy cảm biết rung động trước anh chị em khốn cùng.   Cảm ơn Thiên Chúa đã luôn ban cho gia đình chúng ta có Mái để che nắng che mưa, hằng ngày dùng đủ.   Không có vấn đề gì nan giải để phải bận tâm lo lắng, để mất bình an, hay quá sầu khổ.  

Tôi khuyên ông nhà tôi hãy biết sống an hưởng tuổi già và trân trọng sự sống từng ngày một Chúa ban vì ai biết ngày mai ta sẽ ra sao??.   Ai mà ngờ được và biết được ngày giờ nào Chúa sẽ gọi???.   Chuyện hai vợ chồng và con chó cưng của hai ông bà, giúp chúng ta nhìn về cuộc đời thực tế hơn, thưa có phải?.  

Con chó cưng của họ ở đây tượng trưng cho những gì chúng ta quý và thương yêu? Nhưng chó nó cũng chỉ là chó mà chúng ta không nên chết thay cho chúng??.   Tôi khuyên ông nhà tôi hãy để ý đến sức khỏe và để ý đến sức khỏe của tinh thần nhiều hơn, nhiều hơn nữa!.   Ông hay bẵn gắt với tôi những gì tôi cho là không quan trọng, rất tầm phào, và đã làm cho tôi rất khó chịu, nên tôi đáp trả bằng với cái tông giọng của ông, thì làm cho ông giật mình!?.   Mà không hiểu rằng vì ông mà tôi mới trả đôi với ông và dùng lời nói thiếu tế nhị như ông vậy!?.   Người mình có câu “gậy ông đập lưng ông” là vậy!.  

Chuyện ở trên đây của hai vợ chồng đã chết cách thảm thương vì thương một con vật đã luôn ở bên cạnh với mình, nhưng có những người đã thương yêu và trân quý những vật chất những đam mê cực kỳ nguy hiểm hơn cả con người và tánh mạng của mình, mà tự tìm đến cái chết cách cũng rất tang thương và rất tội nghiệp.   Và câu “ở ngoài thì sáng, ở trong thì tối”, ước gì hết thảy chúng ta biết quý trọng cuộc sống mà Chúa ban cho chúng ta rất nhưng không.   Biết Kính Chúa và Yêu người như yêu chính mình hằng ngày, thiết tưởng đó là điều Thiên Chúa luôn mong mỏi nơi chúng ta.   Luôn cảm tạ Thiên Chúa những điều Chúa đã, đang, và sẽ ban cho chúng ta, nhất là Bình An của Người.   Amen.

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

     http://www.youtube.com/watch?v=1g-kjKGbEZI

     (Hãy Tìm Chúa Vì Kiếp Người Sống Là Bao)             

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(08-26-12)

DẠY ẨN SĨ ÐỌC KINH

DẠY ẨN SĨ ÐỌC KINH

 Inline image 1

Truyện cổ nước Nga thuật lại câu chuyện của một học giả thông thái và một vị ẩn sĩ khiêm tốn như sau:

Một học giả nọ đi dạo theo bờ hồ, bỗng nghe có tiếng cầu kinh của một ẩn sĩ vang lại từ một hòn đảo giữa hồ.  Ông lắng tai nghe một lúc rồi tiếp tục đi.  Nhưng một lát sau ông cảm thấy khó chịu.  Bởi vì lời kinh của vị ẩn sĩ hoàn toàn sai lạc.  Từ nội dung cho đến cách phát âm, tất cả đều sai.

Học giả liền thuê một chiếc ghe và chèo sang hòn đảo, cốt chỉ để nhắc nhở cho vị ẩn sĩ thấy được những sai lầm của ông trong lúc cầu kinh.  Học giả nói với vị ẩn sĩ:

–          Này ông bạn, tôi nghĩ là ông bạn sẽ không chấp nhất khi tôi làm việc này cho ông bạn.

Nói xong, ông đọc một thôi những lời cầu kinh, không sai một chữ, một phẩy, và dĩ nhiên với cách phát âm điêu luyện của một nhà học giả.

Trước khi trở lại ghe, học giả còn giải thích thêm:

–          Tôi chèo ghe đến đây cốt để giúp bạn đọc kinh cho đúng cách mà thôi.

Vị ẩn sĩ cám ơn nhà học giả rối rít.  Nhưng khi học giả vừa chèo ghe ra đến giữa hồ, ông bỗng nghe có tiếng động trên mặt nước.  Quay nhìn lại, ông thấy vị ẩn sĩ đang đi trên mặt nước tiến về phía ông.  Và đứng trên mặt nước, vị ẩn sĩ nói với nhà học giả:

–          Xin ngài vui lòng chỉ dạy cho tôi một lần nữa.  Vừa mới nghe xong lời kinh tôi đã quên cả rồi.

*******************************

Thiên Chúa là Cha vô cùng yêu thương của mọi người.  Ngài biết ta cần gì trước khi ta kêu xin.  Ðiều làm cho Ngài ưa thích chưa hẳn là những lời hay ý đẹp của con người, hay những câu kinh đọc đúng cung đúng cách.

Ðiều mà Thiên Chúa hài lòng hơn cả chính là một tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, một tâm tình cậy trông và phó thác trọn vẹn cho tình thương của Ngài. 

Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây hẳn đã hiểu được bí quyết ấy.  Lời cầu kinh của ông không phải là để phô diễn những kiến thức uyên bác, mà chính là tâm tình tin tưởng phó thác của ông.  Ðó là sức mạnh có thể khiến ông di chuyển trên mặt nước.

*******************************

Lạy Chúa Giêsu Kitô xin dạy con biết cách cầu nguyện, xin dạy con biết cách nói chuyện với Chúa trong đời sống thường nhật.  Con có thể không thuộc câu kinh, bản nhạc, không kiến thức về giáo lý, về Thiên Chúa Ba Ngôi nhưng con vẫn có thể thân thưa với Chúa từ đáy tâm hồn con bằng ngôn ngữ hạn hẹp của chính mình, bằng những lời nói đơn sơ chân thành từ tấm lòng và bằng tấm lòng tin tưởng tuyệt đối nơi Người Cha Yêu Dấu.  Nhưng làm sao con có thể cầu nguyện khi con không dành thì giờ cho Chúa mỗi ngày?  Xin giúp con biết thu xếp một khoảng riêng cho Giêsu giữa những tháng ngày bận rộn tối tăm mặt mũi. 

R. Veritas

 Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

CẦN PHẢI KÊU VAN THIÊN CHÚA TRỢ GIÚP!

                                                           Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

 

… Tôi thay đổi. Dù muốn dù không, tôi thay đổi. Tôi thay đổi nơi hình dáng, cách cư xử và tư tưởng. Đúng thế, bởi vì cuộc sống có một điều kiện cơ bản chính xác, đó là mối quan hệ. Thật vậy, không thể nghĩ rằng tôi có thể sống mà không liên hệ với điều gì đó, với người nào đó sống chung quanh tôi. Mỗi một kiểu trao đổi nào đó ở bên ngoài, vẫn khiến tôi phải can dự bằng sự đáp trả, bằng tư tưởng và bằng thái độ tương ứng với con người của tôi. Vậy thì, nếu có thay đổi nào đó liên hệ đến tất cả mọi người thì đáng cho chúng ta phải dành thời giờ để suy tư. Nhưng có sự khác biệt: có những thay đổi đưa con người vào tình trạng khủng hoảng, chẳng hạn như: thay đổi việc làm, thay đổi xứ sở mình đang sống hoặc phải đặt lại vấn đề khi có một biến cố bất ngờ xảy ra. Tôi bị bó buộc phải cố gắng tối đa hầu có thể thích ứng với hoàn cảnh mới, cũng như tìm kiếm một quân bình mới cho chính tôi để đáp ứng với thế giới bên ngoài. Thế là tôi bị mất hướng, xem ra như thể các chắc chắn cổ xưa giờ đây trở thành suy yếu, không còn đáng tin nữa. Bị mất hướng nhưng tôi vẫn hy vọng có các điểm tựa mới hầu giúp tôi được ổn định.

Cách đây vài năm, nếu nhớ không lầm, tôi có đọc một bài báo trong đó có một câu làm tôi suy nghĩ mãi và không bao giờ quên:
– Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Khi chúng ta bị rơi vào vòng vây của chính mình hay bị cuốn hút vào các biến cố, hoặc khi xảy đến cho chúng ta điều gì đó làm cho chúng ta bị bấn loạn đảo điên, thì có lẽ, bước đầu tiên chúng ta phải làm là: Tha Thứ!

Tôi muốn nói rằng: Không hẳn chúng ta đã phạm một lầm lỗi nào đó khiến chúng ta phải rơi vào tình trạng hoang mang hoảng sợ. Không phải như vậy. Tôi chỉ muốn nới rộng tư tưởng đi đến chỗ: Hãy thương xót chính chúng ta! Cứ chấp nhận coi như chúng ta bị thua và chúng ta cần trở về tìm kiếm mối quan hệ quân bình với chính mình và với thế giới chung quanh chúng ta.

Đừng từ chối xem như thể đó là những ”chuyện bên ngoài chúng ta”, nhưng phải nhận biết và tái nhận biết cái khủng hoảng khiến chúng ta bị treo lơ lửng trên hố thẳm. Nên chấp nhận là chúng ta cần được giúp đỡ. Vậy hãy xin giúp đỡ và tiếp nhận sự giúp đỡ.

Mỗi khi có một thay đổi làm lo âu bấn loạn thì việc đầu tiên phải làm là thân thưa cùng THIÊN CHÚA. Khiêm tốn nhìn nhận với chính mình rằng sức lực hạn hẹp không cho phép chúng ta có thể thoát ra khỏi những giai đoạn trầm trọng của cơn khủng hoảng. Cần phải kêu van THIÊN CHÚA trợ giúp. Ngài làm được mọi sự và luôn luôn cứu giúp mọi người, không trừ ai.

Không ai được cứu rỗi nếu không biết tha thứ!

Thật vậy! Tha Thứ là ngôn ngữ của THIÊN CHÚA, là phương tiện Ngài ban cho để nói với chúng ta và nói với người khác. Hãy tìm nương ẩn nơi niềm tin vào THIÊN CHÚA trong những lúc gặp gian nan thử thách, giống y như thể là chúng ta trở về Nhà Cha. Xin Chúa ban cho chúng ta thoáng trông thấy ánh sáng mà trước đó chúng ta không còn trông thấy nữa, mặc dầu ánh sáng luôn luôn ở đó. Ngay trong những hoàn cảnh thay đổi khốn khổ nhất, xem ra không còn có hy vọng nào nữa, vẫn có một chút ánh sáng mặt trời len lỏi vào. Chẳng hạn như một cử chỉ nhỏ nhặt, một đóa hoa, một nụ cười, một tư tưởng. Hoặc dưới bất cứ hình thức nào khác. Điều quan trọng là phải quyết định mở rộng cửa để cho ánh sáng tràn vào nhà. Nên luôn luôn ghi nhớ rằng chúng ta không hứng chịu một thay đổi nhưng là sống một thay đổi. Và phải luôn luôn tha thứ như chính THIÊN CHÚA luôn luôn tha thứ cho chúng ta.

Chứng từ của nữ tu Maria Giacomina Stuani thuộc Đan Viện Agostiniano Thánh Nữ Rita thành Cascia (Trung Ý).

… Khi đến nơi gọi là ”Đồi Sọ”, họ đóng đinh Đức Chúa GIÊSU vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Chúa GIÊSU cầu nguyện rằng: “Lạy CHA, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Luca 23,33-34) .. Được đầy ơn Thánh Thần, ông Têphanô đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang THIÊN CHÚA và thấy Đức Chúa GIÊSU bên hữu THIÊN CHÚA. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu THIÊN CHÚA”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông, rồi lôi ông ra ngoài thành mà ném đá. Họ ném đá ông Têphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Đức Chúa GIÊSU, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ (Công Vụ 7,55-60).
 
(”Dalle API alle ROSE”, Bimestrale Del Monastero Agostiniano Santa Rita Da Cascia, Gennaio-Febbraio 2012, Nr.1, trang 31-33)

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt 

Nguồn : vietvatican.net

Maria Thanh Mai gởi

Hãy Buông Ra

Hãy Buông Ra

  

Một đứa trẻ đang chơi cạnh một cái bình quý.

Nó thò tay vào bình và không thể rút ra được. 

Bố nó đến giúp, nhưng vô ích. 

Họ đã nghĩ đến việc phải đập cái bình đi. 

Ông bố nói, “Con trai, hãy cố nốt lần này. Thả lỏng và duỗi thẳng các ngón tay như bố đây này, rồi rút tay ra.”

Trước sự ngạc nhiên của bố, thằng bé kêu lên, “Không được bố ơi. Con không thể làm như thế được, nếu thế con sẽ làm rơi đồng xu của con mất.”

Có thể bạn sẽ cười, nhưng, hàng nghìn người trong chúng ta cũng giống cậu bé đó, cứ cố nắm giữ thứ gì đó vô nghĩa dù phải hi sinh những điều quý giá, thậm chí cả sự tự do! Vì thế, “hãy buông nó ra”, tôi thực lòng khuyên bạn điều đó.

P/s:Nhiều người trong chúng ta có khi tốn cả cuộc đời để loay hoay trong những cái không quan trọng để rồi bỏ qua những điều thực sự quan trọng. Không nói về những chuyện to tát trong cuộc đời mà ngay cả trong việc giải quyết một công việc cũng vậy.

Biết từ bỏ, biết hy sinh những điều không cần thiết, không quan trọng để tập trung thời gian và công sức vào những điều cần thiết, những điều quan trọng là một trong những bí quyết để thành công.

(tổng hợp từ nhiều nguồn)

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

 

PHÚC ĐỨC TẠI MẪU

1. LỜI CHÚA: Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói. Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.

2.CÂU CHUYỆN: CÁCH DẠY CON CỦA MỘT BÀ MẸ

Mạnh Tử thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa thấy người ta đào huyệt và mang xác chết đi chôn, về nhà cậu cũng bắt chước đào huyệt, khóc lóc và an táng người chết. Bà mẹ thấy thế tự nhủ rằng: “Chổ này không phải là chổ cho con ta ở đuợc“. Rồi bà liền dọn nhà ra phố chợ. Mạnh tử thấy người ta mua bán gian xảo, ăn nói chua ngoa tục tĩu, cậu cũng học chơi trò buôn bán xảo trá lừa lọc và ăn nói lỗ mãng với mọi người .Bà mẹ thấy thế tự nhủ rằng: “Chổ này cũng không phải là chổ ở tốt cho con trai ta“. Sau đó, bà dọn nhà đến gần trường học. Mạnh Tử thấy các học trò biết lễ độ kính trên nhường dưới và chăm chỉ học tập các sách thánh hiền, cậu cũng bắt chước học đòi bút nghiên đèn sách. Thấy vậy, bà mẹ rất hài lòng và tự nhủ rằng: “Đây mới thực là chỗ ở tốt cho con trai ta“.

Một hôm Mạnh Tử đến chơi nhà hàng xóm, thấy họ làm thịt heo liền về nhà hỏi mẹ rằng: ”Mẹ ơi, nhà bên cạnh người ta giết heo làm gì vậy ?” Bà mẹ nói đùa với con: ”Họ giiết heo cho con ăn đấy !”. Nói xong, biết mình lỡ lời, bà liền suy nghĩ “Con mình còn nhỏ chưa phân biệt thật giả đúng sai. Nếu ta nói dối nó thì chẳng khác gì ta đã dạy cho con ta nói dối hay sao ?” Sau đó, bà đã ra chợ mua một cân thịt heo về nhà làm món ăn ngon cho con.

Lần khác ,Mạnh Tử  đang học ở trường bỗng trốn học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi bên khung cửi dệt vải, biết con trai trốn học, liền cầm con dao chặt đứt tấm vải đang dệt và dạy con rằng: ”Con ơi! Con đang học mà bỏ trốn đi chơi thì chẳng khác gì mẹ đang dệt tấm vải mà lại chặt đứt nó vậy !” Từ đó, Mạnh Tử quyết tâm chuyên cần học tập. Về sau ông đã trở thành một hiền nhân xuất chúng và rất nổi tiếng của nước Trung Hoa.

3.SUY NIỆM : 

Trong việc giáo dục con cái, người ta thường hay đỗ lỗi cho các bà mẹ nếu con cái bị hư hỏng như câu : ”Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà“. Tuy nhiên nếu con cái được thành đạt thì vai trò của bà mẹ cũng đựơc đặc biệt đề cao : ”Phúc đức tại mẫu“ do biết dạy dỗ con cái : “Dạy con từ thuở còn thơ“. Chính nhờ có một bà mẹ khôn ngoan, biết ứng xử nhanh nhậy và có khả năng tiêu liệu điều tốt cho con mà ngày nay chúng ta mới có được một hiền nhân rất nổi tiếng là thây Mạnh Tử. Vậy cha mẹ cần dạy con từ khi nào ? Phải dạy con những gì ? và nên dạy con bằng phương pháp nào ?

1)PHẢI DẠY CON TỪ KHI NÀO ?

Một nhà trồng tỉa muốn uốn cây cảnh mỹ thuật, cần phải uốn khi cây còn non mới đem lại kết quả tốt. Cha ông chúng ta cũng dạy các bậc làm cha mẹ : “Dạy con từ thưở còn thơ”. “Còn thơ” hay “còn nhỏ” còn được hiểu là ngay từ khi con còn trong bụng mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy: Người mẹ cũng ảnh hưởng đến tâm tính và sức khoẻ của đứa con ngay từ lúc còn phôi thai. Việc giáo dục này được gọi là thai giáo. Trong thời gian này, các tâm tình và thái độ ứng xử của bà mẹ sẽ ghi dấu sâu đậm trên tâm tính thai nhi của mình. Tránh cho bà mẹ mang thai bị xúc động như buồn sầu bực tức, để thai nhi được phát triển khỏe mạnh cả về thể xác cũng như tâm hồn.

Tuy nhiên, thời gian thuận tiện nhất để trực tiếp giáo dục con cái là khi con bắt đầu nhận biết những lời cha mẹ dạy dỗ : “Dạy con từ thuở lên ba”. Trong giai đọan này gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho đứa bé những bài học làm người, và cha mẹ chính là những “thày cô” được con tín nhiệm và vâng lời hơn cả, vì cha mẹ sống gần con, hiểu biết tính nết của con và có lòng yêu thương con hơn tất cả.

2) CHA MẸ CÔNG GIÁO CẦN DẠY CON NHỮNG GÌ?

Mục tiêu của việc giáo dục đức tin là giúp con cái thành một người trưởng thành nhân cách và thành con hiếu thảo của Cha trện Trời theo gương Chúa Giêsu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha”.

a)Giáo dục nhân bản: Cha mẹ cần quan tâm giáo dục con về đức dục, trí dục, thể dục và tính dục:

-Thể dục: dạy con ăn ở vệ sinh sạch sẽ, bảo vệ sức khỏe bản thân.

-Trí dục: giúp con trau dồi học vấn và nghề nghiệp, có khả năng sống tự lập và giúp ích cho tha nhân.

-Đức dục: Lọai trừ các thói hư tật xấu và tập luyện các tính tốt. Nhất là các đức tính nền tảng như: khôn ngoan, công bình, khiêm tốn, thật thà, tiết độ và dũng cảm. Ngòai ra nam giới còn cần học Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, và nữ giới cần học về Công, Dung, Ngôn, Hạnh.

-Giới tính: Ngoài ra, trong việc giáo dục nhân bản cũng phải để ý đến việc giáo dục giới tính, hướng dẫn con cái về phái tính và tính dục. Việc giáo dục này nhằm mục đích giúp con cái hiểu biết căn bản về tính dục phù hợp với lứa tuổi và tầm nhận thức, để chúng có thể sống trong sạch, trưởng thành, xứng đáng là theo thánh ý Thiên Chúa. Trong việc giáo dục này, cũng cần dạy cho con cái biết sử dụng cách đúng đắn các phương tiện truyền thông, đặc biệt phim ảnh, trò chơi game và sử dụng mạng dưới sự kiểm sóat của cha mẹ.

b) Giáo dục đức tin:

Mến Chúa yêu người: Ngoài nền giáo dục nhân bản, cha mẹ công giáo còn phải giáo dục đức tin cho con, nghĩa là ngay từ nhỏ, đã phải dạy cho con biết “mến Chúa yêu người”, biết tuân giữ những giới luật của Chúa, năng tham dự những việc đạo đức, năng lãnh nhận các bí tích… Nhờ đó, con cái sẽ trở thành những tín hữu thực sự, nghĩa là có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô giới thiệu cho người chưa biết Chúa.

Đáp lại tiếng Chúa kêu gọi: Trong việc giáo dục đức tin, cũng cần để ý tới việc giúp con cái nhận ra lời mời gọi của Chúa và sẵn sàng đáp lại ơn gọi dâng mình phục vụ Chúa theo lý tưởng tu trì.

Chia sẻ sứ vụ loan Tin Mừng: Khi con cái tới tuổi học giáo lý, cha mẹ nên quan tâm tìm hiểu hệ thống các lớp giáo lý tại giáo xứ của mình. Cha mẹ nên tham gia dạy giáo lý, là cách đơn giản để nâng cao trình độ của mình và trang bị khả năng đào tạo đức tin cho con cái sau này. Hiện nay việc giảng dạy giáo lý thường được giao cho Giáo lý viên chưa lập gia đình. Thật ra, đội ngũ Giáo lý viên cần những người có bề dày kinh nghiệm sống đức tin, nên Hội Thánh rất mong các cha mẹ trẻ quảng đại tham gia vào sứ mạng này.

4)Để việc giáo dục đạt kết quả tốt

a)Đồng tâm nhất trí: Cha mẹ phải nhất trí với nhau trong đường hướng và phương thức giáo dục con cái: Tìm hiểu tính tình, năng khiếu của con cái và phải biết dùng những phương pháp thích hợp với lứa tuổi để việc giáo dục đạt hiệu quả. Ngoài ra cha mẹ cần cộng tác với thầy cô nhà trường và các Giáo lý viên nhà thờ.

b)Làm gương sáng“Cha nào con nấy, mẹ nào con nấy”, “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”; “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”; “Đời cha ăn mặn đời con khát nước”; ….Thật vậy, đứa con chưa có đủ trí khôn để phân biệt điều tốt và điều xấu, nên thường bắt chước những gì đập vào mắt nó. Vì thế, gương sáng của cha mẹ là điều cần thiết trong việc giáo dục con cái. Người xưa có câu: “Lời nói hương bay, Gương bày lối kéo”.

c)Tạo bầu khí gia đình đầm ấm: Thư chung của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 1980 số 12 viết: “Gia đình của anh chị em phải trở nên như một trường học về đức tin, một nơi để cầu nguyện, một môi trường sống bác ái yêu thương và rèn luyện tinh thần tông đồ để làm chứng nhân cho Chúa”.

d)Tìm hiểu con cáiViệc đầu tiên cần thực hiện là cha mẹ phải tìm hiểu con cái, phải biết con cái nghĩ gì, muốn gì, nói gì và làm gì thì mới có thể hướng dẫn chúng cách hữu hiệu. Duy trì phát triển điều tốt của con cái và uốn nắn nhắc bảo chúng lọai bỏ điều xấu, Cần dạy con bằng những lời lẽ ôn tồn tế nhị và yêu thương. Tránh la mắng con bằng lời thô lỗ tục tĩu.

e)Kiên nhẫn dạy dỗ: Người xưa đã từng khuyên: “Dục tốc bất đạt”. Trẻ con thường ham chơi và mau quên. Cho nên cha mẹ phải nói nhiều lần, phải nhắc đi nhắc lại để những lời khuyên ấy thấm dần vào đầu óc chúng. Nhất là phải dùng lời Chúa mà khuyên dạy con. Đừng bao giờ thất vọng nản chí trong việc sửa dạy con.

d) Cầu nguyện cho con cái:

Trong việc giáo dục con cái, hai vợ chồng cần chạy đến với Chúa, bởi vì như Chúa dạy: “Không có Thầy, anh em không làm được gì” (Ga 15,5). Đến với Chúa để xin Người soi sáng và hướng dẫn cách dạy dỗ. Năng cầu nguyện cho con cái, đặc biệt trong những giai đoạn phát triển khó khăn cuộc đời của chúng.

Sau cùng chúng ta cần học nơi Chúa Giêsu như Người đã nói : “Hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11,29). Người sẽ ban Thánh Thần cho ta để ta được biến đổi nên hiền lành và khiêm nhường noi gương Ngừơi. Đây là điều kiện để cha mẹ chu tòan sứ mệnh giáo dục con cái.

4. THẢO LUẬN:

 1)Hãy kể một số câu hướng đẫn cho các bậc cha mẹ trong việc giáo dục con cái và cho biết bà mẹ thày Mạnh Tử đã áp dụng những câu nào để day dỗ con mình ?”. (Chẳng hạn: ”Yêu  cho rôi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi; Dạy con từ thuở còn thơ; Học ăn học nói học gói học mở; Tiên học lễ,hậu học văn; Gần mực thì đen gần đèn thì ság…).

 2)Trong các phương cách giáo dục con cái nói trên, bạn thấy cách nào hữu hiệu nhất giúp cha mẹ chu tòan bổn phận giáo dục đức tin cho con cái ?

5.LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin giúp mỗi tín hữu chúng con ý thức và chuẩn bị cho mình có các nhân đức tự nhiên và siêu nhiên hầu chu tòan bổn phận nuôi dạy con cái cả về nhân bản và đức tin. Ước chi chúng con năng học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần để được ơn biến đổi ngày càng nên hoàn thiện hơn, hầu có thể chu tòan bổn phận làm cha làm mẹ đạo đức, tích cực cộng tác với Chúa trong việc nuôi dạy con cái nên “Con rát yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha” noi gương Chúa khi xưa. Amen

LM ĐAN VINH

www.hiephoithanhmau.com

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Chống Công Giáo

Chống Công Giáo,

                                                                             Thanh Tam (08-02-2012)

Tôi là một tín hửu Công Giáo tầm thường như những tín hửu khác. Qua bao kinh nghiệm về cuộc đời của một con người trên 70 năm lăn lộn; cho đến giờ nầy, lúc viết mấy hàng chữ nầy, tôi vẫn muôn vàn yêu mến Giáo Hội của tôi. Tại sao? Thưa qua nhận xét và thấy rằng không có đạo nào có tỷ số tín hửu hành xữ sai phạm ít như trong đạo Công giáo: Với con số giáo sĩ trên dưới 50 ngàn, giáo dân chiếm 1, 2 tỷ người và cán bộ nam nữ làm việc, phụng sự xã hội thì vô số. Tôi nhớ cách nay lối 5 năm, đã đọc một tờ báo Công giáo cho hay theo thống kê của bộ Xã Hội Nam Hàn, người công giáo chiếm đa số về hoạt động từ thiện và ít phạm pháp nhất.

Những nước văn minh và tiến bộ đều ảnh hưởng sâu đậm nền triết lý Thiên Chúa Giáo. Những nước xa lìa hoặc lăm le bỏ Thiên Chúa Giáo như Nga Sô, Bắc Hàn, Trung Quốc kể cả Việt Nam … thì không bại cũng xuội; dân tình thì sống như trong địa ngục trần gian. Tại sao? Thưa vì chính quyền không có tình thương! Một chế độ thuộc quyền quỷ vương; chẳng ai thiết tha đến vận mạng chung. Sự liên hệ dựa trên tư lợi, ích kỷ và óc tư hửu.

Ông HTA viết và suy nghỉ không phải là sai: Đã là giáo sĩ thì phải thế nầy…phải thế kia…mới đúng. Nhưng đó là lý tưởng mà con người cố thực hiện. Thiên Chúa cho chúng ta bộ óc biết phân biệt tốt xấu, cái nên và không nên làm…Nhưng xem ra khó và có những thời điểm rất khó trong việc thực hiện; vì bản chất con người không chỉ quá yếu kém, dòn mõng mà còn tự do nữa; trong khi thế gian lại quá hấp dẫn. Hãy nhìn đảng Cộng Sản; mọi thành viên đều nói: Không được tham nhũng. Rốt cùng anh nào cũng xe hơi đắt giá, nhà lầu 3,4,5… tầng, bồ nhí hằng tá.

Nhìn lên Thập Giá, nếu ai có quả tim “mềm” sẽ không cầm nỗi giòng lệ. Ôi Giêsu! Người quá dịu hiền! Ngài không muốn Thiên Chúa Cha dùng đến phép công thẳng đối với tội nhân, nên Ngài đã chịu mọi cực hình để đền thay: “Xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm…”

Nói đến đây, lại nhớ lời bà xã tôi trách: Thế thì Đức Chúa Cha ác?! Tôi đã trả lời “Không”! Nếu bảo rằng Đức Chúa Cha ác “1” đối với con người, thì con người đã tỏ ra ác “1” triệu lần hơn đối với Thiên Chúa. Tôi chứng minh: Thiên Chúa cho chúng ta khuynh hướng dục tình; cốt để truyền sinh. Chúa chỉ đòi buộc xữ dụng cho mục đích chính đáng. Chúng ta đã lạm dụng; Nam nữ gần gủi với nhau thiếu chính đáng đã đành, có chữa lại giết bào thai; tức phạm tội sát nhân! Mỗi năm có hằng triệu triệu thai nhi bị giết. Tội phạm lan tràn như thế mà muốn Chúa ngồi nhìn thôi sao?!

Tôi cũng vừa đọc bài viết về tội ác của Công Gíao thời Trung Cổ như giết người phạm tội gọi là dị giáo. Tôi buồn và cũng đau nữa, nhưng rất thông cảm. Tại sao? Vì theo dị giáo là kẻ phản nghịch với Thiên Chúa (thờ ngẫu tượng). Kẻ theo Chúa, vừa có quyền vừa cực đoan thì cái gì họ cũng có thể làm. Có một điều chắc chắn là Thiên Chúa không muốn việc giết người, dù kẻ đó là ai. Tôi quyết đoán như sắt đá là vì tôi tin Thiên Chúa toàn năng; nhưng vì tình yêu mà nhiều sự việc đã không xảy ra như ý muốn của con người. Thiên Chúa vẫn chờ đợi tội nhân sám hối và những gì con cái Chúa gánh chịu sẽ không bao giờ trở nên vô ích. Cũng như cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu đã mang lại cái mà những anh em đang chống Công Giáo gọi là “thảm trạng, đại họa”…Không đúng chút nào! Họ đang nghỉ sai và vì đã nghỉ sai nên viết cũng sai luôn. Thế gian quả là giả trá; chẳng ai nói đúng 100%; được 50,60% là quí lắm rồi.  

Tôi thông cảm với các anh em đang viết bài chống, bươi móc đánh phá Công Giáo. Tôi biết quí vị đang hổ trợ chiến dịch bài Công Giáo bên quê nhà, đồng thời “viết” để kiếm sống. Người Công Giáo gọi việc làm của các anh là “bất lương”; nhưng biết làm sao hơn? Tôi chỉ muốn nhắc nhở các anh em đó chớ quên rằng Công Giáo từng bị bách hại qua 2000 năm rồi. Hậu quả là gì? Nhiều anh em bảo: Kẻ bỏ đạo ngày càng đông! Đúng! Nhưng kẻ gia nhập đạo bao nhiêu bạn có biết không? Ngày càng đông hơn kẻ “bỏ”.

Chứng minh: Lúc Chúa Giêsu tắt thở, chỉ có 11 người theo. Giờ đây là 1,2 tỷ.

                                                                                                Thanh Tam (08-02-2012)

LỜI NGUYỆN BAN MAI XIN BẨY ƠN CHÚA THÁNH THẦN.

LỜI NGUYỆN BAN MAI XIN BẨY ƠN CHÚA THÁNH THẦN.

 

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

Lời nguyện:
Cùng với Mẹ Maria, con nài xin Chúa hãy đổ đầy Thánh Thần Chúa xuống trên con để Người hướng dẫn con trong ngày hôm nay và suốt cả đời con. Xin Chúa cho con luôn được sống trong ơn Thánh Chúa, luôn bước đi trong đường tình yêu và chân lý, đường cứu rỗi và toàn thiện.

Chúa Nhật: Xin Chúa ban cho con ơn KHÔN NGOAN của Thánh Thần Chúa, để con biết tìm Chúa trước tiên, và biết nhìn mọi việc với cái nhìn đầy yêu thương Chúa.

Thứ Hai: Xin Chúa ban cho con ơn THÔNG MINH của Thánh Thần Chúa, để con cảm biết các chân lý đức tin tự đáy lòng, sống theo chân lý ấy và biết cách truyền đạt các chân lý ấy cho tha nhân.

Thứ Ba: Xin Chúa ban cho con ơn BIẾT LO LIỆU của Thánh Thần Chúa, để con biết xếp đặt ngày giờ và công việc đúng theo thánh ý và chương trình yêu thương của Chúa.

Thứ Tư: Xin Chúa ban cho con ơn SỨC MẠNH của Thánh Thần Chúa, để con đủ nhẫn nại chịu đựng những khó khăn thử thách trong cuộc sống, đủ nghị lực và can trường chu toàn những bổn phận Chúa giao phó.

Thứ Năm: Xin Chúa ban cho con ơn HIỂU BIẾT của Thánh Thần Chúa, để con biết nhìn thấy Chúa nơi mọi người, mọi vật, mọi biến cố trong cuộc đời để quy hướng tất cả về Chúa và biết thoát ly mọi sự để được tự do yêu mến Chúa.

Thứ Sáu: Xin Chúa ban cho con ơn ĐẠO ĐỨC của Thánh Thần Chúa để con luôn sống với Chúa trong tình con thảo và sống với mọi người bằng tình huynh đệ chân thành.

Thứ Bảy: Xin Chúa ban cho con ơn KÍNH SỢ Chúa của Thánh Thần Chúa, để con luôn biết sống trong sự hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa và thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Về linh địa La Vang

 Về linh địa La Vang

                             tác giả:  Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

 

LA VANG (Quảng Trị, 15-8-2012) – Linh địa La Vang (1) là Trung tâm Thánh Mẫu Quốc gia Việt Nam. Dù chưa một lần đến nhưng chắc hẳn người Việt Công giáo nào cũng đã từng nghe nói và quen với hình ảnh Đức Mẹ La Vang, với trang phục truyền thống Việt Nam là áo dài và khăn đóng, tay bồng Con Trẻ Giêsu. Đặc biệt là linh đài có hình những chiếc nấm. La Vang là nơi không chỉ phải chịu cái nóng như lửa đốt mà còn chịu tang tóc vì lửa đạn một thời chiến cuộc.

Phải nói ngay và phải “thẳng thắn thành thật tự thú” rằng nếu không “dính líu” tới cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót của TGP Saigon thì có thể chẳng bao giờ tôi được đặt chân tới linh địa La Vang (Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị). Rất có thể đó là sự quan phòng của Thiên Chúa – tôi nghĩ vậy.

Không chỉ vậy, tôi còn được biết một số địa danh lịch sử nổi tiếng khác. Trước tiên là nhà thờ Mằng Lăng, nơi có hang tử đạo của Thánh Anrê Phú Yên (vị tử đạo tiên khởi của Giáo hội Việt Nam), với câu nói để đời của vị thánh trẻ này: “Hãy giữ nghĩa cùng Đức Chúa Giêsu cho đến hết hơi, cho đến hết đời”. Một chủng sinh trẻ 19 tuổi mà có tư tưởng thật lạ và tuyệt vời biết bao! Một câu nói nhẹ nhàng nhưng đủ sức xoáy vào lòng mỗi người Công giáo, phải suy nghĩ nhiều và phải xem lại chính đức tin tôn giáo của mình.

Rồi tôi còn được biết đến nhưng nơi lịch sử và danh lam thắng cảnh khác như Đức Mẹ Sao Biển, thuộc một dòng nữ ở Nha Trang; Cổ thành Quảng Trị âm thầm; dòng sông Thạch Hãn lịch sử; cầu Tràng Tiền danh tiếng; con đường “Mưa Hồng” của cố NS Trịnh Công Sơn; Đại nội (cổ thành Huế) trầm lặng bên dòng Hương giang trôi lững lờ với khu Văn Lâu; Đan viện Thiên An (Dòng Biển Đức) với những con người ẩn tu trong những vách đá để chiêm niệm Thiên Chúa, sống giản dị, chuyên cần cầu nguyện và miệt mài lao động âm thầm trong sự tĩnh lặng của rừng cây thường xanh trên đồi cao; Cáp treo Bà Nà giữa núi rừng tịch mịch; Nhà thờ Trà Kiệu, nơi Đức Mẹ hiện ra ngày 10 và 11-9-1885 với lời động viên: “Này, Mẹ của các con đây! Đừng sợ!”, và Đền Đức Mẹ Trà Kiệu (đồi Bửu Châu); Nhà thờ chính tòa Nha Trang (Nhà thờ Núi) làm bằng đá, nơi an nghỉ của ĐGM Marcel Piquet (1888-1966), tên Việt Nam là Lợi, với khẩu hiệu: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến), giám mục tiên khởi của GP Nha Trang và sáng lập Hội dòng Khiết Tâm Đức Mẹ; Tháp Thiên Y Thánh Mẫu với nét kiến trúc độc đáo của người Chàm,… Đúng là một chuyến “đạo đời giao duyên”.

Đoàn chúng tôi tới linh địa La Vang ngày 14-8-2012. Vừa bước xuống xe, cái nắng như đổ lửa hắt vào mặt rát nóng. Núi rừng âm u. Đất sỏi đá khô cằn. Do đó mà con người miền đất này cũng phải vất vả lầm than lắm. Tuy nhiên, khi tiếp xúc với họ, tôi thấy họ rất thật thà, chân chất, hiền hòa và nói cười xởi lởi. Những đứa trẻ nhìn người qua lại với ánh mắt ngây thơ mà rất lạ, vẫn ẩn chứa điều gì đó sâu thẳm…

Một rừng người trong khu vực linh địa La Vang. Nắng cứ nắng. Mồ hôi cứ chảy. Tay cứ vuốt mồ hôi, nhưng chân vẫn bước và ai cũng nói cười vui vẻ. Càng lúc càng đông khách hành hương đổ dồn về. Dưới chân linh đài lúc nào cũng có nhiều người đứng cầu nguyện.

17 giờ ngày 14-8-2012, Đức TGM Leopoldo Girelli (2), Đặc sứ Tòa thánh, chủ tế thánh lễ khai mạc. Trong bài giảng, ngài nhấn mạnh đến sức mạnh, ý nghĩa và tầm quan trọng của đức tin Kitô giáo trong việc định hướng cuộc đời, biến đổi cuộc sống và việc đóng góp xây dựng một xã hội nhân bản hơn.

Ngài giải thích: “Để được như thế, Giáo hội cần có sự tự do tôn giáo căn bản để rao giảng và sống đức tin của mình cách công khai. Sống đức tin cách riêng tư hay công khai là thể hiện sự duy nhất của một người vừa là tín hữu vừa là công dân. Một người Công giáo tốt sẽ là một người công dân tốt. Ở đâu có Chúa Kitô hiện diện thì ở đó con người trở nên nhân đạo hơn”. Ngài còn nhắc đến sông Hồng, sông Hương, sông Cửu Long, là những dòng sông “đại diện” các miền Nam, Trung, Bắc, với ý nói về ý chí kiên cường của người Việt Nam nói chung và người Công giáo nói riêng.

Đêm xuống dần. Bước chân người vẫn không ngừng đổ về từ tứ phía. Có những người thức trắng. Tiếng kinh không ngừng vang lên bên linh đài Đức Mẹ La Vang. 20 giờ là phần diễn nguyện ca tụng Đức Mẹ và vọng mừng Đức Mẹ lên trời ngay chân linh đài. Chỗ nào cũng thấy người, chen chân qua rừng-người-hành-hương cũng khó.

6 giờ sáng ngày 15-8-2012, Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (chủ tịch HĐGMVN) chủ tế thánh lễ mừng Đức Mẹ lên trời, cũng là lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Vương Cung Thánh Đường La Vang với tước hiệu Đức Mẹ Phù hộ các Giáo hữu. Đồng tế có Đức TGM Girelli, gần 20 giám mục trong 26 giáo phận, Đan viện phụ Thiên An (Huế), và khoảng 300 linh mục. Khách hành hương tham dự thánh lễ ước tính khoảng hơn 200.000 người, trong đó có khá nhiều người dân tộc thiểu số trong trang phục đặc trưng.

 

Trong bài giảng, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, GP Thanh Hóa, nói:“Chưa một ai đã được tạc tượng tạo ảnh nhiều như Đức Maria. Ở Âu châu, không một ngôi làng nhỏ bé nào không có hình tượng Mẹ; trên thế giới, không một thành phố nào không có nhà nguyện hay linh đài tôn vinh Mẹ. Lời kinh được đọc nhiều nhất trên hành tinh, lời kinh chưa bao giờ ngừng nghỉ trong lịch sử Giáo hội, lời kinh của hàng tỉ người Công giáo, chính là lời chào chị thánh Isave dành cho Mẹ: ‘Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ, và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ’. Bài ca được hát nhiều nhất không phải là một bản tình ca lừng danh thế giới, nhưng đáng ngạc nhiên lại là bài ca Magnificat: ‘Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng’, mà tác giả chính là Đức Maria”.

ĐGM Giuse nói tiếp: “Đối với rất nhiều Kitô hữu Việt Nam, một ngày không có Kinh Kính Mừng không phải là một ngày đúng nghĩa, một ngày không có Kinh Lạy Nữ Vương là một ngày trơ vơ chênh vênh, một ngày không có Kinh Mân Côi là một ngày rời rạc không nhựa sống… Tắt một lời, một ngày không có Đức Maria đồng hành thì không phải là ngày”.

Với tâm tình đó, từ ngày Mẹ hiện ra an ủi tín hữu lâm nạn vào cuối thế kỷ 18 (có thể khoảng cuối tháng 8 hoặc đầu tháng 9 năm 1789), hàng hàng lớp lớp khách hành hương đã tuôn về La Vang càng ngày càng đông. Họ đã kêu cầu Đức Mẹ và đã được Đức Mẹ nhậm lời. ĐGM Giuse đặt vấn đề: “Những tấm bia tạ ơn dày đặc đàng kia phải chăng là bằng chứng tình Mẹ La Vang luôn dạt dào lai láng?”.

Năm 1958, La Vang đã được chọn làm địa điểm tổ chức Ðại Hội Thánh Mẫu Toàn Quốc, với sự hiện diện của ÐHY Agagianian, Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền Giáo, đặc sứ của ĐGH Gioan XXIII (nay là chân phước). Và ngày 22-8-1961, ĐGH Gioan XXIII đã chính thức nâng nhà thờ La Vang lên bậc “Vương Cung Thánh Ðường”.

Cuối bài giảng, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh cầu nguyện: “Lạy Mẹ Maria, chúng con xin Mẹ hãy viếng thăm để cứu chúng con khỏi hận thù thương đau. Ước gì hôm nay, tại linh địa này, viên đá đầu tiên chúng con đặt xuống cũng là viên đá yêu thương, khởi đầu một tương lai yên ấm thuận hòa cho quê hương đất nước thân yêu chúng con. Amen”.

Khi ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh đang giảng, bỗng dưng giáo dân hướng mắt nhìn lên trời và vỗ tay, khiến ngài phải ngưng bài giảng để ổn định cộng đoàn. Đó là một hiện tượng lạ: Mặt trời xoay với đám mây hồng. Điều này có thể nhắc chúng ta nhớ tới “trời mới, đất mới” mà Thánh Gioan Tông đồ nói trong sách Khải huyền (Kh 21:1). Tuy nhiên, nên lưu ý rằng Giáo hội luôn cẩn trọng về các “sự kiện lạ”. Người ta thường cho rằng ai “thấy” thì người đó tốt lành, còn người “không thấy” thì là người “có vấn đề”. Thật ra người ta rất dễ “ảo tưởng” theo kiểu “đạo đức bình dân”. Nên nhớ rằng việc thấy hiện tượng lạ mà chúng ta nói là phép lạ luôn có điểm đặc biệt: Người thấy “sự kiện lạ” hoặc “phép lạ” đều cương quyết thay đổi cách sống, nghĩa là sống thánh thiện hơn. Nếu không thì chỉ là ảo giác, là ngộ nhận, hoặc là cuồng tín (mà cuồng tín là phi tôn giáo), vì bất kỳ phép lạ nào xảy ra cũng đều có mục đích rõ ràng chứ không “xảy ra cho… vui”. Đừng bao giờ quên điều này: “Đức tin quan trọng hơn phép lạ”

 

Nếu được hỏi “yêu thương là gì” thì chắc rằng ai cũng khả dĩ trả lời một cách tương đối. Nhưng đó chỉ là “định nghĩa”. Yêu thương theo Chúa Giêsu dạy là “yêu người NHƯ chính mình” (chứ Chúa không bắt “thương người HƠN mình), là “thương xót nhau”. Muốn “thương xót nhau” thì phải “từ bỏ chính mình” và “vác thập giá theo Chúa” (x. Mt 10:37-39; Lc 9:23; Lc 14:26-27). Nếu chưa biết sống “mình vì mọi người” (từ bỏ mình) thì chưa “vác thập giá”, mà chưa “vác thập giá” thì chưa yêu thương, nghĩa là chưa thực thi “luật yêu” của Chúa Giêsu.

Hệ lụy này dẫn tới hệ lụy khác. Mừng lễ Đức Mẹ lên trời là chúng ta hy vọng được lên trời: “Xin cho con được thưởng cùng Mẹ trên Nước Thiên Đàng” (thứ 5, mùa Mừng). Làm sao được thưởng khi chưa yêu thương đúng ý Đức Kitô? Thế thì không thể lên trời. Rất rõ ràng. Rất mạch lạc. Rất lô-gích. Yêu thương không chỉ là “định nghĩa” hoặc “nói suông”. Chữ “thương xót” rất hay: “Thương” thì phải “thương” làm sao mà thấy “xót” thì mới là “thương” thật, chỉ cảm thấy “thương” mà chưa thấy “xót” thì chưa phải là “thương”.

Tưởng cũng cần nói thêm: Đứng trước tôi là một phụ nữ trung niên, phụ nữ này vừa tham dự thánh lễ vừa lần hạt. Lần chuỗi Mân Côi là việc cần thiết và tốt lành, nhưng lần chuỗi trong thánh lễ thì lại “không đúng nơi, không đúng lúc”. Nhiều người vẫn thường có “thói quen” này, thiết nghĩ phụ nữ này “nhắc nhở” chúng ta nên “xem lại” cách sùng kính của mình. Không chỉ vừa dự lễ vừa lần chuỗi, phụ nữ kia còn ngước nhìn trời mà miệng vẫn “máy môi”, đặc biệt hơn là còn sử dụng điện thoại liên tục. Chắc chắn cách cầu nguyện và cách làm việc đạo đức như vậy là không hợp lý!

Thánh lễ kéo dài khoảng 90 phút. Sau đó là nghi thức làm phép diện tích đất xây dựng Vương cung Thánh đường Đức Mẹ La Vang. Thật ấn tượng với nghi thức thả bay 27 bức phướn biểu hiện cho 26 giáo phận của Giáo hội Việt Nam và cộng đồng người Việt hải ngoại. Mỗi Giáo tỉnh được biểu hiện một màu khác nhau: màu hồng cho TGP Hà Nội, màu đỏ cho TGP Huế và màu vàng cho TGP Saigon, đặc biệt là một chuỗi Mân Côi lớn được kết từ những chiếc bong bóng và được thả bay lên bầu trời La Vang.

Sau khi chết, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa và Con Yêu Dấu của Đức Mẹ, đã phục sinh khải hoàn và về ngự bên hữu Chúa Cha, đó là cách Thiên Chúa muốn củng cố đức tin để chúng ta can đảm sống “vượt qua chính mình” và vượt qua mọi nghịch cảnh. Việc Đức Mẹ mông triệu, nói bình dân là Đức Mẹ lên trời, là tái xác tín rằng chúng ta chắc chắn cũng sẽ lên trời – nhưng với điều kiện là phải sống theo lời khuyên Phúc Âm. Đó là điều chắc chắn, không thể tự biện hộ theo bất kỳ lý do nào khác!

Được đặt chân tới linh địa La Vang là “điều may mắn”, là hồng ân, nhưng cũng là một trách nhiệm. Đó là bổn phận cầu nguyện cho những người khác, những người không “may mắn” được đến La Vang, những người không có điều kiện để hành hương về La Vang. Biết nhiều thì khổ nhiều vì trách nhiệm nhiều, biết nhiều là nợ nhiều. Nợ Thiên Chúa và nợ tha nhân. Đó là “nợ tình” và “nợ máu”. Nợ tình với Thiên Chúa và với tha nhân, nợ máu với Đại sư phụ Giêsu!

Ai được đặt chân tới đất La Vang còn mắc một món nợ nữa là nợ Đức Mẹ. Tại sao? Đức Mẹ luôn yêu thương những người kém may mắn thì chúng ta cũng phải noi gương yêu thương của Đức Mẹ. Yêu thương là thương xót. Yêu thương phải được qua ánh mắt, thái độ, cử chỉ, hành động, lời nói và lời cầu nguyện. Dọc đường đi về La Vang có nhiều cảnh đẹp thiên nhiên, nhiều cao tầng, nhiều khu dân cư sầm uất, nhưng vẫn còn nhiều khu dân cư nghèo lắm… Nhưng nhìn tổng thể thì thấy dân Việt Nam còn nghèo khó quá, mà NGHÈO thì luôn kèm theo KHỔ. Chúng ta đang mắc nợ người nghèo: “Không cho kẻ nghèo được chia sẻ của cải thuộc về họ là ăn cắp, là cướp lấy mạng sống của họ. Của cải chúng ta đang nắm giữ, không phải là của chúng ta, nhưng là của họ” (Thánh Gioan Kim khẩu). Đó là công bằng, là công lý! Mà khi nào có công lý thì mới có hòa bình đích thực.

Không ai lại không mắc món nợ yêu thương. Đó là món nợ lớn nhất mà chúng ta phải trả cả đời. Quả thật, ai trả xong món nợ này mới “được thưởng cùng Đức Mẹ trên Nước Thiên Đàng” vậy!

Lạy Chúa, xin thương xót và tha thứ những động thái mà chúng con đã thể hiện không đúng Ý Ngài, đồng thời xin giúp chúng con can đảm sống trọn Luật Yêu của Ngài. Lạy Mẹ Maria, xin thương xót và chúc lành cho những người không đủ điều kiện đến linh địa La Vang để tâm sự và bày tỏ nỗi lòng với Mẹ, vì họ nghèo lắm. Mẹ ơi! Xin giúp chúng con biết mau mắn “xin vâng” trong mọi hoàn cảnh và kiên tâm theo bước Anh Hai Giêsu, Con Mẹ, để xứng đáng cùng lên trời và đồng hưởng thiên phúc với Mẹ muôn đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

Thom. Aq. TRẦM THIÊN THU

(1) Theo truyền thuyết, dưới thời vua Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn có chính sách chống đạo Công giáo. Để tránh sự trừng phạt của nhà Tây Sơn, nhiều giáo dân vùng Quảng Trị đã chạy lên vùng đất này. Đây là khu vực đồi núi hẻo lánh nên để liên lạc với nhau được thì họ phải “la” lớn, mà “la” lớn thì “vang”. Thế là có tên La Vang.

Một truyền thuyết tương tự về chữ La Vang có từ đặc tính của âm thanh chuyển thành địa danh, người ta nói rằng nơi chốn rừng rú này xưa kia có nhiều cọp beo hại người. Do đó, những người đi rừng nếu ở lại đêm thường phải chia phiên nhau thức canh, thấy động thì “la vang” lên để mọi người đến tiếp cứu.

Cách giải thích khác là khi giáo dân chạy lên vùng đất này thì bị dịch bệnh, lúc đó Đức Mẹ đã hiện ra và chỉ dẫn họ đi tìm một loại lá gọi là “lá vằng” – uống vào sẽ khỏi bệnh. Viết “lá vằng” không dấu thành La Vang.

Truyền thuyết khác cho là địa danh “phường Lá Vắng” đã có từ trước đó, thuộc làng Cổ Vưu, nằm về phía Tây cách đồn Dinh Cát, về sau là tỉnh Quảng Trị, cách 4 cây số, và cách Phú Xuân (Kinh đô Huế) 58 km về phía Bắc.

Đền thờ La Vang được xây dựng năm 1925, hoàn tất dịp Đại hội La Vang IX (1928).

(2) TGM Leopoldo Girelli (sinh 13-31953) hiện đảm nhận nhiều chức vụ ngoại giao của Tòa Thánh tại khu vực Đông Nam Á. Ngài sinh tại Predore, tỉnh Bergamo (Ý), thụ phong linh mục ngày 17-6-1978 thuộc giáo phận Bergamo, tốt nghiệp thần học và gia nhập Học viện Ngoại giao Tòa Thánh sau khi đã học tập xong tại Học viện Giáo hoàng về Giáo hội.

Ngài bước vào ngành ngoại giao Tòa Thánh từ ngày 13-7-1987 và làm việc trong các cơ quan ngoại giao của Tòa Thánh tại Cameroon và New Zealand, Phòng Nội vụ Quốc vụ Khanh, và Khâm Sứ Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, rồi được phong hàm tham tán viên tại đây.

Ngày 13-42006ĐGH Bênêđictô XVI bổ nhiệm ngài làm Sứ thần Tòa Thánh tại Indonesia, hiệu tòa Capreae, được tấn phong giám mục ngày 17-6-2006 do Hồng y Angelo Sodano chủ phong, được kiêm nhiệm Sứ thần Tòa Thánh tại Đông Timor ngày 10-10-2006.

Đến ngày 13-12011, TGM Girelli rời nhiệm tại Indonesia và Đông Timor vì được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Singapore, kiêm Khâm sứ Tòa Thánh tại Malaysia và Brunei, kiêm đại diện không thường trú tại Việt Nam. TGM Girelli là vị đại diện đầu tiên của Tòa Thánh được bổ nhiệm phụ trách Việt Nam từ sau năm 1975.

Ngày 18-6-2011, ngài tiếp tục được bổ nhiệm làm Sứ thần Tòa Thánh tại Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Sau đó không lâu, ngài được nâng từ chức vị Khâm sứ lên chức Sứ thần tại Malaysia khi Tòa Thánh và quốc gia này thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ từ ngày 27-7-2011.

nguồn : Maria Thanh Mai gởi

TRIẾT LÝ SỐNG ĐƠN GIẢN VÀ HIỆN THỰC CỦA MẸ TÊRESA CALCUTA !

QUÁ TUYỆT VỜI TRIẾT LÝ
SỐNG ĐƠN GIẢN VÀ HIỆN THỰC CỦA
MẸ TÊRESA CALCUTA !

Thế nhưng sao mình vẫn cứ u u mê mê, loanh quanh tìm kiếm cái gì đâu đâu – trong khi mà ngọn “đèn đời” của mình thì ngày càng “lụi” dần !

Ui chao ! Phải quanh co nguỵ biện bào chữa cho mình làm sao đây, khi ngọn “đèn đời” mình phụt tẳt và đơn thân độc mã “trần trụi” trình diện trước SỰ THẬT VĨNH HẰNG?

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về tình yêu

“Nếu bạn xét đoán ai, bạn sẽ không còn thì giờ để yêu thương họ”

“Bạn phải cho đi những gì làm bạn bị thiệt thòi. Như thế, cho đi không chỉ những gì dư thừa, nhưng những gì bạn không thể sống nếu không có, những gì bạn thật sự yêu thích. Như thế, món quà của bạn trở thành một hy sinh, có giá trị trước mặt Thiên Chúa.”

“Tôi luôn luôn nói rằng, tình yêu khởi sự từ gia đình trước đã, và sau đó mới đến thành phố hay đô thị. Yêu thương những người ở xa chúng ta thì dễ, nhưng yêu thương những người sống với chúng ta hay ngay cạnh chúng ta thì không luôn dễ dàng.”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về nghèo đói

“SỰ NGHÈO ĐÓI KHỦNG KHIẾP NHẤT CHÍNH LÀ SỰ CÔ ĐƠN,
BỊ BỎ RƠI VÀ CẢM NHẬN KHÔNG ĐƯỢC YÊU THƯƠNG”

“Căn bệnh trầm trọng nhất của thời nay không phải là bệnh phong hủi hay bệnh lao, mà là sự cảm nhận bị ruồng bỏ”

“Trên thế giới, người đói khát tình yêu thì nhiều hơn người đói khát cơm bánh”

“Nhiều khi chúng ta cứ nghĩ rằng nghèo đói là đói khát, thiếu áo quần, không nhà ở. Sự nghèo đói lớn nhất là bị bỏ rơi, không ai chăm sóc, không được hưởng sự yêu thương. Loại nghèo đói này cần được giải quyết ngay từ những tổ ấm gia đình”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về chiến tranh

“Tôi chưa bao giờ sống trong cảnh chiến tranh nhưng tôi đã chứng kiến nạn đói và sự chết chóc.
Tôi tự hỏi : ‘Họ đã cảm nhận điều gì khi họ gây ra chiến tranh?’
Tôi không thể hiểu nổi. Họ đều là con cái Thiên Chúa. Tại sao họ lại làm như vậy ? Tôi không hiểu nổi”

“Hãy làm ơn chọn lựa đường lối hòa bình…!
vì trong chỉ một khoảng thời gian ngắn ngủi, sẽ có người thắng kẻ thua trong cái cuộc chiến mà chúng ta đều sợ hãi, nhưng rồi chẳng thể và chẳng bao giờ có thể biện minh cho những nỗi đau và chết chóc do bom đạn gây ra”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về phá thai

“Phá thai chính là giết người. Trẻ nhỏ là quà tặng của Thiên Chúa.

Nếu bạn không muốn có nó, hãy giao em bé cho tôi !”

“Sự phá hoại nền hoà bình kinh khủng nhất chính là việc phá thai,vì nếu người mẹ nhẫn tâm giết chính con mình thì bạn cũng có thể giết tôi và tôi có thể giết bạn, vì giữa chúng ta chẳng có mối liên hệ nào”

“Chính thật là sự nghèo nàn khi quyết định đứa trẻ phải chết để bạn được sống theo ý bạn”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về phục vụ Chúa

Tôi chỉ là cây bút chì của Chúa, để Ngài gởi bức thư tình yêu của Ngài cho thế giới”

“Tôi không cầu nguyện cho sự thành công, tôi cầu nguyện cho sự trung tín”

“Nhiều người lầm lẫn công việc và ơn gọi. Ơn gọi của chúng ta là yêu mến Chúa Giêsu”

“Mỗi người trong số họ, chính là Chúa Giêsu cải trang”

“Cần phải nói ít đi, vì điều rao giảng chưa phải là điều được đón nhận. Vậy ta phải làm gì ?
Hãy cầm lấy cây chổi để quét nhà cho một ai đó, công việc ấy đã đủ để rao giảng”

Mẹ Têrêsa Calcutta nói về cầu nguyện

Không cầu nguyện, tôi không thể làm việc dù chỉ nửa giờ. Tôi có được sức mạnh của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện”

“Có quá nhiều đau khổ trong các gia đình ngày nay trên toàn thế giới, nên cầu nguyện thật là quan trọng, và tha thứ cũng thật quan trọng. Người ta hỏi tôi phải khuyên bảo thế nào cho đôi vợ chồng đang gặp khó khăn, tôi luôn luôn trả lời ‘Cầu nguyện và tha thứ’; và cho những thanh thiếu niên từ những mái nhà đầy hung bạo: ‘Cầu nguyện và tha thứ’; và cho những người mẹ cô độc không được gia đình hỗ trợ: ‘Cầu nguyện và tha thứ’. Hãy nói : ‘Lạy Chúa, con yêu Chúa. Lạy Chúa, con hối lỗi. Lạy Chúa, con tin ở Chúa. Lạy Chúa, con tín thác vào Chúa. Xin giúp con yêu thương nhau như Chúa yêu thương chúng con’.”

nguồn: chị Nguyễn Kim Bằng gởi