Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường

Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường

Viet-studies

Nguyễn Quang Dy

Albert Einstein và câu nói nổi tiếng của ông. Nguồn: interne

Albert Einstein và câu nói nổi tiếng của ông. Nguồn: internet

“Có hai thứ vô hạn: vũ trụ và sự ngu xuẩn của con người…” (Two things are infinite: the universe and human stupidity – Albert Einstein)

Hơn bảy thập kỷ sau khi lập quốc (1945) và hơn bốn thập kỷ sau cuộc chiến tranh Việt Nam (1975), đất nước vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Tại sao lại có bi kịch này? Làm thế nào để thoát ra ra khỏi ngã ba đường của lịch sử?

Trong nhiều thập kỷ, đất nước đã bị sa vào chiến tranh và bạo lực, cực đoan và hận thù, như cái bẫy ý thức hệ. Những thế lực cực đoan (trong và ngoài nước) đã thao túng số phận đất nước này, làm cho chính họ và ít nhất một thế hệ người Việt bị ngộ nhận, lạc vào ma trận (như chiến tranh Việt Nam). Muốn thoát ra khỏi ngã ba đường không dễ. Báo cáo “Việt Nam 2035” khuyến nghị phải đổi mới thể chế và cải cách vòng hai.   

Có nhiều việc phải làm, như cách thể chế và chống tham nhũng. Trong phạm vi bài viết này, hãy thử xem lại mấy điều cơ bản: Thứ nhất là đặc điểm bối cảnh hiện nay; Thứ hai là nguyên nhân và hệ quả; Thứ ba là các giải pháp khả thi.

Đặc điểm bối cảnh hiện nay

Cuộc tranh cãi hiện nay về giải pháp nào cho các vấn nạn quốc gia vẫn còn bế tắc. Đất nước có thể tiếp tục suy thoái và tụt hậu, nếu vẫn chưa cải cách được thể chế, vẫn chưa xử lý được nạn tham nhũng bị thao túng bởi các nhóm lợi ích.

Sau bao thăng trầm, Việt Nam vẫn bị mắc kẹt tại ngã ba đường, bị các nhóm lợi ích tham nhũng bắt làm con tin, mà vẫn tưởng mình đang làm chủ. Đoàn tàu đất nước bị bắt cóc (hijacked), đang đi chệch đường ray, chạy loanh quanh trong thung lũng mù, mà vẫn tưởng đang chạy trên đường ray “kinh tế thị trường định hướng XHCN”.

Nhiều người ngồi trong các toa tàu (cả chủ lẫn khách) vẫn tưởng an toàn và vô can, mà không biết rằng đoàn tàu đang lầm đường lạc lối. Một số người nhanh chân thu gom tài sản, nhảy khỏi đoàn tàu, hy vọng thoát thân tại một “thiên đường” nào đó.

Một hệ quả đáng buồn là dòng người và dòng tiền đang lũ lượt ra đi. Theo UN DESA, từ năm 1990 đến 2015 đã có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài (trung bình mỗi năm gần 100 ngàn người). Theo World Bank (năm 2013), Việt Nam là một trong 10 quốc gia có nhiều người di cư nhất khu vực Đông Á-Thái Bình Dương.

Trong mấy năm qua, đã có 92 tỷ USD được chuyển ngầm ra nước ngoài bằng nhiều cách, và có hàng trăm người Việt có tên trong Hồ sơ Panama và có tài khoản tại các “thiên đường trốn thuế” như Virgin Islands, Cayman và Malta… Đây không chỉ là hiện tượng tham nhũng, chảy máu chất xám và tài nguyên, mà còn là khủng hoảng lòng tin.

Những vấn đề hậu chiến như hòa giải dân tộc, tái thiết đất nước, cải cách kinh tế và chính trị, vẫn còn ngổn ngang như mới bắt đầu. Những thành tựu đầy ấn tượng của hai thập kỷ cải cách kinh tế thị trường đã bị triệt tiêu bởi thiếu đổi mới chính trị. Các nhóm lợi ích dựa vào cơ chế thân hữu, tiếp tục thao túng thể chế “kinh tế thị trường định hướng XHCN” như một miếng mồi ngon, làm đất nước ngày càng kiệt quệ và tụt hậu.

Không khỏi giật mình khi nhìn vào các chỉ số kinh tế cơ bản. Hàng trăm ngàn doanh nghiệp phá sản hoặc “chết lâm sàng”. Thâm hụt ngân sách tới mức báo động. Nợ xấu và nợ công chồng chất. Các khoản vay World Bank để ứng phó thay đổi khí hậu, phát triển đồng bằng Mekong, và nâng cao năng lực cạnh tranh, như muối bỏ bể.

Theo Ngân hàng Nhà nước, tính đến đầu năm 2016, dự trữ ngoại hối của Việt Nam chỉ còn khoảng 30 tỷ USD, đến tháng 6/2016 tăng lên 38 tỷ USD. Theo Bộ tài chính Mỹ, Việt Nam nắm giữ 12 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ (chiếm 1/3 dự trữ ngoại hối), do đó dự trữ tiền mặt chỉ có 26 tỷ USD. Năm 2015, Việt Nam phải trả nợ 20 tỷ USD và năm 2016 ít nhất là 12 tỷ USD (trả nợ nước ngoài chiếm 40%). Năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc là 30 tỷ USD (nhập chính thức) và 20 tỷ USD (nhập lậu). Nếu Trung Quốc muốn, họ có thể làm cho dự trữ ngoại hối của Việt Nam (30 tỷ USD) bốc hơi trong một ngày.

Chỉ cần quan sát kỹ một chút là thấy bức tranh quốc gia đầy bất ổn, cả về sức khỏe kinh tế lẫn ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia. Cách đây 26 năm, cựu ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã bức xúc thốt lên rằng một thời kỳ bắc thuộc mới bắt đầu. Những hệ quả của Thành Đô vẫn dai dẳng như một nghiệp chướng, chưa biết bao giờ thoát Trung.

Mấy năm qua, tai họa môi trường xảy ra liên tiếp. Không phải chỉ do ông trời làm thay đổi khí hậu, mà còn do con người gây ra. Trong khi hạn hán và ngập mặn chưa từng có trong lịch sử tại đồng bằng Mekong đe dọa cuộc sống hàng triệu nông dân, vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu, thì thảm họa môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra đãg hủy diệt hải sản và môi sinh, đe dọa cuộc sống hàng vạn ngư dân và cộng đồng. Không phải chỉ có ngành hải sản và du lịch biển bị tê liệt, mà chủ quyền Biển Đông có nguy cơ bị mất.

Tại sao ta lại từ chối đề nghị giúp đỡ của cộng đồng quốc tế (như Liên Hợp Quốc và Mỹ)? Tại sao phạt Formosa có 500 triệu USD để đền bù thiệt hại (và cho tồn tại)? Tại sao lại phải nhẹ tay “khoan hồng” đối với thủ phạm đã và đang gây ra thảm họa môi trường miền Trung? Trong khi lại nặng tay đàn áp người dân biểu tình ôn hòa đòi “biển sạch” và “minh bạch”? Và bưng bít thông tin bằng cách kiểm duyệt và đe nẹt báo chí? Tại sao Chính phủ và các cơ quan chức năng phải mất gần 3 tháng mới công bố nguyên nhân và thủ phạm gây ra thảm họa môi trường (trong khi hầu như ai cũng biết thủ phạm là Formosa)?

Thật là nghịch lý nếu ta phải cầu cứu Trung Quốc giúp đỡ, khi đồng bằng sông Mekong bị hạn, (do họ xây quá nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn) và khi máy bay Su 30MK và CASA 212 bị rơi liên tiếp ngoài khơi Biển Đông (một cách bí ẩn). Tại sao ta lại sợ Trung Quốc như vậy? Trong khi Philippines dám kiện (và đã thắng), nhiều nước ủng hộ phán quyết của PCA, thì Việt Nam vẫn giữ thái độ rất dè dặt, không dám kiện.

Nguyên nhân và hệ quả

Thứ nhất là nỗi sợ đi vào tiềm thức. Đó là nguyên nhân sâu xa gây chia rẽ, hận thù, nghi ngờ, dối trá, không thể hòa giải (như những chỉ số năng lượng tiêu cực). Người Việt vốn sợ Tây, sợ Tàu, sợ tất cả, nên căm thù và đánh tất. Nhưng khi phải quyết định lựa chọn kế thoát hiểm, thì lại sợ thay đổi thể chế, nên mắc kẹt tại ngã ba đường. Dân sợ và không tin chính quyền. Chính quyền sợ dân (coi dân như thù địch), vì sợ mất ghế, mất chế độ, mất độc quyền, nên phải bưng bít thông tin và trấn áp. Làm sao thoát khỏi nỗi sợ?

Trung Quốc không đáng sợ như vậy, và họ đang suy yếu. Về đối ngoại Trung Quốc ngày càng bị cô lập, nhất là sau phán quyết của PCA về Biển Đông. Về đối nội, kinh tế xuống dốc, uy tín của Đảng cầm quyền suy giảm. Theo một báo cáo của Ủy ban Kỷ luật Trung ương (1/7/2016) chỉ có 2,2% đảng viên đạt tiêu chuẩn, và 90% bộ máy cầm quyền của Đảng phải cải tổ, vì “đã mục nát triệt để”. Các lãnh đạo cao nhất của Đảng (như Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã công khai thừa nhận chế độ Cộng sản Trung Quốc đang đứng trước “nguy cơ vong Đảng” và đã đến “điểm giới hạn gần như sụp đổ” (theo Vương Kỳ Sơn).

Thứ hai là tư tưởng cực đoan ẩn tàng trong cộng đồng, nhất là các quan tham muốn “làm giàu bằng mọi giá”, nên thường bỏ qua và quên mọi rủi ro tiềm ẩn (do vô minh). Tư tưởng cực đoan dẫn đến “hội chứng nhất” (cái gì cũng phải nhất). Ví dụ, Hà Tĩnh có dự án to nhất (Formosa), tốc độ duyệt dự án này cũng nhanh nhất, và có số cán bộ tham gia trung ương cũng đông nhất (16 người). Nay xảy ra thảm họa môi trường cũng lớn nhất.

Có thể nói, đó là hệ quả của cực đoan và bè phái, là hai trở ngại lớn nhất đối với quá trình đổi mới và phát triển. Các nhóm lợi ích thân hữu (bán nước hại dân) có thể làm đất nước trệch khỏi đường ray phát triển, và tiếp tục mắc kẹt tại ngã ba đường. Phải chăng nhóm lợi ích thân hữu  lũng đoạn Hà Tĩnh đã biến Formosa Vũng Áng thành một tô giới Tàu, hay “vương quốc nước ngoài trong lòng Hà Tĩnh” (GDVN, 26/7/2016).

Thứ ba là khủng hoảng nhân cách (như đa nhân cách). Trong khi các quan lại (địa phương và trung ương) làm giàu bất minh và gây ra tai họa, thì họ luôn mồm “vì quê hương đất nước”.  Khi đã mất nhân cách thì họ thường vô cảm, vô minh, và làm như “vô can” trước tai họa do họ gây ra. Vì vậy, ông Võ Kim Cự mới tỏ ra “thực sự bất ngờ…không lường được” và thản nhiên phán “phải kiên quyết xử lý đối với những vi phạm dù bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào” nhưng lại khẳng định “ký giấy chứng nhận đầu tư là đúng luật và đúng quy trình…”

Điệp khúc “đúng quy trình” là một cách ngụy biện thô thiển đến phản cảm, mà những kẻ đạo đức giả và mất nhân cách hay sử dụng để qua mặt những ai nhẹ dạ cả tin. Làm “đúng quy trình” mà không cần biết quy trình đúng hay sai và hậu quả ra sao, là một trò lừa đảo mà những nhóm lợi ích (bán nước hại dân) hay dùng để thao túng luật lệ trong một thể chế bất minh có nhiều kẻ hở. Họ tìm đủ cách lý giải và đổ cho quy trình và kỹ thuật (chứ không phải do con người), đổ lỗi cho người khác (chứ không phải do mình).

Vì vậy, sau khi xảy ra tai họa thì ông Cự làm như vô can, rồi lý giải như “lấy thúng úp voi” (lời ông Phạm Quyết Thắng, nguyên phó Tổng thanh tra Chính phủ). Ông Thắng bức xúc hỏi, “ông là người trình xin thủ tướng cho phép dự án có thời hạn 70 năm hay trình dự án 50 năm mà thủ tướng chữa lại thành 70 năm?… Tôi không loại trừ trong quá trình quan hệ đó có lý do nể nang, quen biết, cảm tình, và có cả vấn đề lợi ích cá nhân… Ông Cự chủ động, tích cực làm việc này, nhưng chắc chắn phải có người hậu thuẫn, bật đèn xanh cho ông ấy.

Formosa: Phần nổi của tảng băng chìm

Đại dự án Formosa như “con ngựa thành Troy” đã gây ra thảm họa môi trường và đẩy đất nước vào một cuộc khủng hoảng với những hệ quả khôn lường, liên quan đến phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh quốc phòng. Nó xẩy ra đúng lúc chuyển giao quyền lực giữa chính phủ cũ (đã “ăn không từ cái gì”) và chính phủ mới (còn “chưa ấm chỗ”), nên đối phó bị động và lúng túng như “gà mắc tóc” và “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

Hãy điểm lại mấy nét chính của câu chuyện Formosa, với những lỗ hổng lớn về quản lý nhà nước và giám sát an toàn môi trường. Không thể đổi mới thể chế, nếu không làm rõ và xử lý thích đáng vụ Formosa như một “case study” mà cả ba chỉ số cơ bản của mô hình cải cách đều thiếu hụt: (1) chống tham nhũng (corruption), (2) quản trị tốt (governance), (3) minh bạch & trách nhiệm giải trình (transparency & accountability).

Điều phi lý nhất là sau khi để xảy ra một thảm họa môi trường lớn như vậy, và sau khi Formosa (nhà đầu tư) đã nhận tội, phía chủ nhà vẫn im lặng như vô can, vì làm “đúng quy trình”, mà không hề quan tâm quy trình đó đúng hay sai. Nếu ông Cự (nguyên Chủ tịch/Bí thư Hà Tĩnh) và những quan chức liên đới trong chính phủ cũ và các bộ ngành (TN&MT, KH&ĐT, KH&CN, NN&PTNT…) mà vô can, thì ai là bị can đây?

Ông Cự  đúng là người có “công đầu”, đưa đường chỉ lối cho Formosa vào đầu tư tại Vũng Áng và Sơn Dương (một vị trí chiến lược tại Miền Trung), nhưng không phải chỉ có một mình. Nếu ông Cự (và cộng sự) không biết Formosa nổi tiếng hủy diệt môi trường, và đằng sau Formosa là Trung Quốc, thì là vô minh. Ông Cự (và cộng sự) còn tìm mọi cách lách luật (hay phạm luật) để đáp ứng các yêu cầu tối đa của FHS (chủ đầu tư Đài Loan) và MCC (nhà thầu Trung Quốc). Đó là bất minh (chứ không phải “bất ngờ”).

Ông Cự đầy tự tin và tự hào về “đứa con” Formosa sẽ “làm cho Hà Tĩnh và đất nước này thay đổi cơ bản… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế Hà Tính và khu vựcđây là dự án chủ lực của Hà Tĩnh. Nếu đi vào hoạt động, dự án sẽ đem lại lợi ích rất lớn. Riêng tiền thu được từ thuế cũng lên đến hàng chục tỷ USD. Ngoài ra, còn tạo ra hàng ngàn việc làm cả trong và ngoài hàng rào nhà máy…Khi đi vào hoạt động, 12 huyện thị của Hà Tĩnh sẽ trở thành khu hậu cần cho dự án. Hơn nữa, dự án sẽ tạo ra cú hích để cấu trúc lại kinh tế cho nhiều thế hệ. Đây là cơ hội tốt để người dân Hà Tĩnh đổi đời” (Tiền Phong, 10/4/2014).

Nay “cháy nhà ra mặt chuột”, ông Cự có muốn người dân Hà Tĩnh “đổi đời” bằng cách bỏ ngư trường Biển Đông (cho Trung quốc)? Sự vô minh và bất minh của ông Cự (và cộng sự) khác gì bán nước hại dân. Nhưng đến nay ông Cự vẫn khẳng định “tôi làm đúng, khi thẩm định dự án đều có ý kiến của 12 bộ nghành… sau đó báo cáo Chính phủ và được Chính phủ đồng ý…”. Theo báo Tuổi Trẻ, ngày 9/4/2008 ông Cự ký văn bản số 858/UBND-CN2 gửi Formosa nêu rõ thời hạn cho thuê đất là 70 năm. Tới ngày 8/5/2008, Hà Tĩnh mới có công văn gửi các bộ nghành xin ý kiến. Theo Thanh tra Chính phủ, ý kiến các bộ ngành không đề nghị Chính phủ cho phép thời hạn 70 năm, và tại thời điểm đó Chính phủ cũng chưa có ý kiến cho phép thời hạn trên 50 năm. Nếu đúng vậy thì ông Cự phạm tội nói dối, và đổ lỗi quanh.

Trước khi FHS đầu tư vào Khu Kinh tế Vũng Áng làm nhà máy thép Formosa và cảng biển Sơn Dương, thì Tata Group, một tập đoàn lớn có kinh nghiệm sản xuất thép hơn 100 năm của Ấn Độ cũng quyết định đầu tư vào Vũng Áng. Nhưng vì ông Cự đã chọn FHS nên Tata đành bỏ cuộc. Trả lời phỏng vấn báo Tiền Phong, ông Cự giải thích, “Đúng là Tata vào trước, đáng ra Tata phải được ưu tiên, nhưng do họ triển khai quá chậm nên Formosa đã chớp lấy cơ hội!”. Phải chăng Formosa nhanh chân hơn Tata, hay lại quả nhiều hơn, nên ông Cự cũng “chớp lấy cơ hội” bất chấp rủi ro tiềm ẩn về môi trường và an ninh?

Không biết ông Cự vì quê hương đất nước hay vì “lợi ích cá nhân” (như lời ông Quyết Thắng), mà bất chấp luật lệ và dư luận xã hội, cho Formosa hưởng quá nhiều ưu đãi (như một tô giới). Buông lỏng quản lý và giám sát đã dẫn đến thảm họa môi trường (“đúng quy trình”). Đó là quy trình gì? Làm bậy “đúng quy trình” rồi đổ lỗi để chạy tội là một đặc thù văn hóa tham nhũng kiểu Việt Nam (tham nhũng “đi vào ổn định”). Đó là quy trình siêu tốc đối với một đại dự án, khi hai bên câu kết trở thành đồng minh về lợi ích, thao túng luật lệ. Nếu Formosa đã từng thao túng chính quyền Quốc Dân Đảng tại Đài Loan thì nay (với MCC) họ thừa sức thao túng những quan tham trong chính quyền Hà Tĩnh (và Hà Nội).

Báo cáo đầu tư của Formosa lập trong 3 ngày (thật kỷ lục!). Quá trình thẩm định và phê duyệt dự án của UBND tỉnh làm trong 1 tháng. Ngày 9/4/2016, ông Cự (lúc đó là phó chủ tịch tỉnh) ký văn bản số 858/UBND-CN2 xác nhận ưu đãi đầu tư cho Formosa thuê đất 70 năm. Chỉ 2 tháng sau (12/6/2008) ông Cự đã ký giấy phép đầu tư, và chỉ 18 ngày sau (30/6/2008) bộ TN&MT đã phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (DTM).

Theo nhà báo Lan Anh (VTC) người đã phỏng vấn ông Chu Xuân Phàm với câu nói nổi tiếng “chọn cá hay thép” (25/4/2016), chỉ 3 ngày sau (28/4) ông Phan Tấn Linh (giám đốc sở TTTT Hà Tĩnh) đã gửi công văn cho các cơ quan chức năng, đề nghị xử lý VTC vì đã phát nội dung cuộc phỏng vấn. Tại sao ông Linh lại mẫn cán gửi công văn bênh vực Formosa và chĩa mũi nhọn vào báo chí? (tuy báo chí làm đúng chức năng). Lý giải hành động mẫn cán của ông Linh, nhà báo Lan Anh gọi đó là hành động “cõng rắn cắn gà nhà”.

Trong khi cá chết hàng loạt thì ông Đặng Ngọc Sơn (phó chủ tịch UBND) khuyên dân cứ ăn cá và tắm biển (như không có chuyện gì). Hôm đó chắc không phải là “ngày cá 1/4” và cá chết không phải là chuyện đùa. Còn ông Đặng Quốc Khánh (chủ tịch UBND) thì vẫn yên lặng một cách bí ẩn, chưa hề xuất hiện và lên tiếng (tuy 3 tháng đã trôi qua).

Đến nay, một số nhà thầu phụ Hà Tĩnh vẫn đang tiếp tay cho Formosa gây ô nhiễm môi trường bằng cách bí mật di chuyển hàng ngàn tấn rác thải các loại đi chôn trộm tại nhiều nơi (như công viên, khu dân cư) tại Kỳ Anh, Hà tĩnh, và chở hàng trăm tấn chất thải nguy hiểm ra chôn trộm tại Phú Thọ. Nếu bị phát hiện thì họ đổ lỗi quanh, và cho người hành hung báo chí. Phải chăng vì đồng tiền nên họ “đâm lao phải theo lao”? Nhưng điều đáng nói là một số quan lại địa phương vẫn vô cảm và vô can trước thảm họa môi trường (mà họ là đồng phạm). Một quan nhỏ như Phan Duy Vĩnh (phó chủ tịch thị xã Kỳ Anh) mà cũng dám coi thường công chúng khi viết trên Facebook, “Biển nhiễm chất độc từ cái mồm của các bạn.

Tiến sỹ Tô Văn Trường (một chuyên gia về môi trường) cho biết ông “không khỏi giật mình vì sự tắc trách và trình độ chuyên môn của những người có trách nhiệm phía Việt Nam trong công tác kiểm tra, và giám sát môi trường…Khuyết điểm lớn nhất không phải là cấp giấy phép xả thải hay báo cáo ĐTM mà chính là lỗ hổng về công tác kiểm tra, giám sát về môi trường của Bộ TN&MT và Sở TN&MT Hà Tĩnh…Một số người phụ trách về môi trường chẳng những làm ngơ, mà còn nhận làm thuê, đổ chất thải của Formosa không đúng quy định… Chỉ có một nguyên nhân là họ tham tiền và đã bị Formosa móc ngoặc”. (BVN, 27/7/2016).

Ông Trường còn đặt nghi vấn là ngoài chất độc đã được phát hiện là phenol, cyanua mà thủ phạm là Formosa, liệu còn chất độc nào khác chưa bị lôi ra ánh sáng? Một số người vẫn tin là phải có một lượng độc tố khác ngoài phenol và cyanua, được thải vào biển. Theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang (Basam.info, 28/7/2016), kết quả phân tích mẫu cá chết của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt nam đã xác nhận cá chết vì ammonia. “Mọi bằng chứng khoa học về nguyên nhân cá chết hàng loạt tại miền Trung đều hướng về phía ammonia chứa trong nước thải xả từ nhà máy luyện than coke của Formosa”.

ĐBQH Trần Quốc Khánh cho rằng, Formosa là bài học cảnh tỉnh cho những ai có tư duy bất chấp tất cả để chạy theo lợi ích, kể cả lợi ích cá nhân và lợi ích địa phương… Cần phải xử lý nghiêm khắc những sai phạm tại Formosa, kể cả xử lý hình sự”. ĐBQH Trương Trọng Nghĩa cũng nói, “Tôi ủng hộ quan điểm nên thành lập Ủy ban Lâm thời để xem xét, điều tra các vấn đề môi trường nổi cộm. Trước mắt là tập trung vào trường hợp Formosa… Đã đến lúc phải rà soát lại tất cả các quy trình để xem có đủ sức ngăn chặn được những tiêu cựccủa những người có trách nhiệm xây dựng cũng như là phê chuẩn những quy trình đó hay không”.

Ông Vũ Quốc Hùng (nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra TƯ) khẳng định. “lần này theo chỉ đạo của Trung ương, khi xem xét khuyết điểm của cán bộ thì không hề có bất cứ vùng cấm nào, bất luận người đó đương chức hay đã về hưu, ngay cả đương chức thì dù ở bất cứ chức vụ nào cũng phải bị xem xét Về xử lý nội bộ, Đảng không phân biệt một ai, kể cả là đã về hưu nhiều năm nhưng nếu có liên quan đến những sai phạm trong thời kỳ công tác thì cũng không có chuyện “hạ cánh an toàn”. Chúng ta hãy chờ xem!

Phải nhắc lại câu chuyện Formosa bởi vì đó là phần nổi của tảng băng chìm. Nó lý giải một phần tại sao Việt Nam vẫn đang mắc kẹt tại ngã ba đường. Ông Trịnh Xuân Thanh, ông Vũ Huy Hoàng, và bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường đã “lên thớt” (theo chỉ đạo của TBT) trong chiến dịch “đả hổ diệt ruồi” (kiểu Việt Nam). Trận “Núi Pháo” cũng đã mở màn. Nhưng chưa biết bao giờ đến lượt ông Võ Kim Cự (và cộng sự)? Đến nay ông Cự vẫn vô can, vẫn là đại biểu Quốc Hội và Chủ tịch Liên Minh Hợp Tác Xã. Việc ông Cự “lên thớt” hay hạ cánh an toàn là thước đo lập trường của Việt Nam đối với câu chuyện Formosa và Biển Đông (sau phán quyết của PCA), và đổi mới thể chế (như khuyến nghị trong báo cáo “Việt Nam 2035”).

Miến Điện & Mông Cổ: Bài học chuyển đổi

Trong mấy thập kỷ qua, nhiều nước đã chuyển đổi thể chế chính trị từ độc tài thành dân chủ. Trong đó, Miến Điện và Mông Cổ là hai bài học thành công, đáng để cho Việt Nam tham khảo và học hỏi. Tất nhiên, bối cảnh lịch sử mỗi nước một khác, với những đặc thù kinh tế, văn hóa, tôn giáo, sắc tộc cũng khác nhau, nhưng đây là hai câu chuyện chuyển đổi thành công bằng đường lối ôn hòa và không bạo lực.

Trong khi Trung Quốc và Việt Nam đổi mới kinh tế khá thành công (với các mức độ khác nhau), nhưng không đổi mới chính trị, nên đất nước đang gặp rắc rối. Việc tham khảo các mô hình chuyển đổi như Miến Điện và Mông Cổ là cần thiết, để đổi mới thể chế, nhằm giải phóng và phát huy những tiềm năng của đất nước.

Người ta đã nói nhiều về Miến Điện như một bài học chuyển đối mà Việt Nam cần tham khảo. Những người dẫn dắt quá trình chuyển đổi ôn hòa tại Miến Điện đã thành công vì họ đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích riêng. Ông Then Sein (cựu tổng thống) và bà Aung San Suu Kyu (lãnh tụ đảng NLD) đã thay đổi lịch sử Miến Điện bằng hòa giải dân tộc, chuyển đổi nền độc tài quân sự thành thể chế dân chủ. Nhưng họ mới đi được nửa đường.

Nhiều người cho rằng Miến Điện đang có dấu hiệu bất ổn, vì bà Aung San Suu Kyi đã khẳng định “ở trên tổng thống” (trong vai trò “cố vấn nhà nước”). Người ta lo rằng hành động này làm xói mòn nền dân chủ mà chính bà chủ trương. Một số người lên án đảng NLD của bà đang lạc vào chủ nghĩa độc đoán. David Matieson (một chuyên gia về nhân quyền) nhận xét, “Văn hóa trong đảng rất không minh bạch và độc đoán…Nhiều đảng viên bị khoá miệng không được nói…Họ đang thật sự cố gắng để giữ kỉ luật đảng ở mức độ phi dân chủ.”

Trong khi đó, những người khác cho rằng bà Suu Kyi cũng chỉ là con người, và là một chính khách. Để làm một chính khách khác với đoạt giải Nobel, và hoạt động dân chủ. Không nên nhầm lẫn. Trong một cuộc phỏng vấn với CNN, bà Suu Kyu nói, “Tôi đã là một chính khách từ lâu… Tôi khởi đầu làm chính trị không phải như một người bảo vệ nhân quyền, hay một nhà hoạt động nhân đạo, mà là lãnh tụ của một đảng chính trị. Nếu đó không phải là chính khách thì tôi không hiểu thế nào mới là chính khách”.

Đây là những vật vã trong quá trình phát triển (growing pains), chứ không phải bế tắc tại ngã ba đường. Miến Điện đã thoát khỏi ngã ba đường và đang trên con đường dân chủ hóa và kiến tạo đất nước. Khó khăn, thử thách còn nhiều. Bà Suu Kyu không chỉ là một “ngọn đèn hi vọng” (như lời Tổng thống Obama), mà là một tổng thống (de facto).

Bên cạnh bài học Miến Điện, bài học Mông Cổ cũng đáng suy nghẫm. Một nước nghèo, lạc hậu, dân số ít, bị kìm kẹp giữa hai nước láng giềng khồng lồ, đã trỗi dậy và chuyển đổi ngoạn mục. Trong suốt bảy thập kỷ, Mông Cổ chưa hề biết đến tự do và dân chủ, bị chìm đắm trong bóng đen của nền độc tài. Nhưng người Mông Cổ đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, đồng hành với tự do dân chủ để tiến bước về phía tương lai của dân tộc.

Tsakhiagiin Elbegdorj (sinh 1963), là lãnh tụ của phong trào dân chủ Mông Cổ, được ca ngợi như là Thomas Jefferson của Mông Cổ. Khi từ Moscow trở về nước (năm 1989), hành trang của anh sinh viên 26 tuổi này không phải là tài liệu sách vở về CNXH học được tại trường đảng Moscow mà là những thay đổi từ chính sách Glasnost của Gorbachev. (Theo Trần Trung Đạo, “Dân cần minh bạch”, Danlambao.vn, 21/5/2016).

Elbegdorj tin rằng chỉ có dân chủ mới cứu được Mông Cổ. Trong bài phát biểu (28/11/1989), Elbegdorj đã nhấn mạnh, “Mông Cổ cần dân chủ và minh bạch…”  Mông Cổ phải chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ bằng một cuộc cách mạng bất bạo động.

Cuộc biểu tình tuyệt thực đầu tiên ngày 10/12/1989 chỉ có 13 “tên phản động” (do Elbegdorj cầm đầu). Ngày nay người Mông Cổ gọi họ một cách kính trọng là “13 nhà dân chủ Mông Cổ đầu tiên”. Cuộc cách mạng dân chủ không làm rơi một giọt máu nào là do hầu hết 2.1 triệu dân Mông Cổ dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, trong số đó có Tổng Bí Thư Đảng Công sản Jambyn Batmönkh. Năm 1998, khi cách mạng thành công, Elbegdorj được bầu làm Thủ Tướng, và năm 2009 ông được bầu làm Tổng thống Cộng Hòa Mông Cổ.

Elbegdorj đã biến điều không thể thành có thể. Về đối nội, Mông Cổ từ bỏ chính sách “kinh tế kế hoạch hóa tập trung” theo mô hình Liên Xô cũ, và áp dụng chiến lược “hai chọn một”. Về đối ngoại, từ 1994, Mông Cổ theo phương châm “ngoại giao trong thế cân bằng về khoảng cách”.  Từ cuối thập niên 1990, Mông Cổ thực hiện chính sách “láng giềng thứ ba”, và đến năm 2015, đề xuất ý tưởng “nước trung lập vĩnh viễn”. Mông Cổ đã từng bước phá thế kìm kẹp địa chính trị để tạo ra bước nhảy vọt, mở rộng không gian sinh tồn cho mình.

Mông Cổ coi mối quan hệ cân bằng với Nga và Trung Quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong chính sách ngoại giao của mình. Tháng 8/2014, tại Ulan Bator, Mông Cổ và Trung Quốc đã ra tuyên bố chung về “xây dựng và phát triển mối quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện”. Đồng thời, ngoài Nga và Trung Quốc, Mông Cổ đã phát triển quan hệ hợp tác với các nước lớn khác như Mỹ, Nhật và Đức theo chính sách “láng giềng thứ ba”.

Vai trò của của Ulan Bator trong vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên cũng như mở rộng đối thoại đa phương đã giúp Mông Cổ có vai trò quan trọng trên thế giới. Mông Cổ đã dần trở thành cầu nối giữa Triều Tiên và các nước Đông Bắc Á, và đã tận dụng ưu thế này để trở thành nước hòa giải giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Mông Cổ đã đề xuất sáng kiến “Đối thoại Ulan Bator” nay trở thành diễn đàn đa phương quan trọng, bên cạnh vòng đàm phán 6 bên do Bắc Kinh khởi xướng. Khi Đàm phán 6 bên bị đình trệ thì “Đối thoại Ulan Bator” là kênh đàm phán hiệu quả nhất giữa Bình Nhưỡng với thế giới.

Nói tóm lại, Mông Cổ đã dũng cảm và khôn ngoan chuyển đổi thành công, mà vẫn giữ được độc lập chủ quyền, trong khi Việt Nam vẫn mắc kẹt tại ngã ba đường.

Thay lời kết: Lối thoát nào cho Việt Nam

Trong lịch sử gần đây, không có một chính thể độc tài nào (kể cả Miến Điện và Mông Cổ) lại tình nguyện từ bỏ độc quyền và độc tài, nếu không có đủ sức ép đòi đổi mới. Mọi chuyển đổi (dù ôn hòa và bất bạo động) đều phải từ dưới lên (bottom up), chứ không chỉ từ trên xuống (top down). Điều kiện thiết yếu là phải dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, để đưa dân tộc tiến tới tự do dân chủ (như Miến Điện và Mông Cổ).

Đặc điểm của những người không dám đoạn tuyệt với quá khứ là họ chỉ phê bình hiện tượng, nhưng tránh nhắc đến bản chất, chỉ nói đến hệ quả nhưng bỏ qua nguyên nhân, chỉ nói lên thực trạng xã hội mà không lý giải nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng đó. Có lẽ hầu hết là sản phẩm của ý thức hệ đã thấm dần và ăn sâu vào tiềm thức thành thói quen tư duy. Họ thường  hoài nghi những thay đổi “không chính thống”, mà không hiểu rằng chế độ đã bị thao túng bởi các nhóm lợi ích bất minh như tư bản đỏ và xã hội đen.

Bị ngộ độc bởi ý thức hệ cực đoan, lòng tin gần như vô thức của nhiều người quen lệ thuộc vào cơ chế xin cho và ban phát. Nay dù ủng hộ tự do dân chủ, nhưng tâm thức và thói quen tư duy của họ vẫn chưa thoát khỏi ám ảnh về cực đoan và bạo lực, là hệ quả của chiến tranh. Mọi thay đổi đều có quy luật và phải trả giá. Đổi mới thể chế tại Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Phải từ bỏ cực đoan và bạo lực. Không thể thay thế độc quyền này bằng độc quyền khác. Muốn thoát Trung và thoát khỏi ngã ba đường, phải ra khỏi cái hang ý thức hệ. Einstein đã từng nói, “không thể giải quyết vấn đề bằng chính tư duy đã tạo ra vấn đề đó”.

NQD. 29/7/2016

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 29-7-16

Người ta đi kiếm giàu sang cả,

 “Người ta đi kiếm giàu sang cả,

Mình chỉ mơ hoài chuyện viển vông.

Em biết giàu sang đâu đến lượt,

Nợ đời nặng quá gỡ sao xong.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mai Tá lược dịch.

Mơ hoài giàu sang, đâu có là chuyện viển vông! Viển-vông đời thường, là thái-độ loanh-quanh với ý-nghĩ thường-tình: “Người ta đi kiếm giàu sang cả”, hoặc“nợ đời nặng quá, gỡ sao xong.”

“Nợ đời giàu sang”, còn là chuyện Chúa nói qua Tin Mừng thánh Luca hôm nay. Thánh Luca đề-cập đến chủ-đề giàu sang, được Chúa dẫn-giải bằng một dụ-ngôn rất tinh-tế. Dụ-ngôn Chúa kể, là về những điều quan-trọng, trong cuộc đời. Quan trọng, khi Ngài nhấn mạnh đến sự khác-biệt giữa “ta là ai”? với “Ta có gì”?

Mở đầu trình thuật, là những ưu tư về phân chia gia tài mà người Do Thái thường hay trình lên vị tư tế, chánh thẩm. Nhưng vị Tư Tế hôm nay, không muốn dự phần vào các tranh giành/cãi vã có tính cách thế tục. Ngài nhắn nhủ: “Hãy coi chừng! mạng sống con người không được bảo đảm nhờ của cải đâu.” Chính vì lòng tham lam của cải, mà nhiều gia đình đã đổ vỡ. Vì, mải lo tranh chấp gia tài, mà nhiều anh em cùng nhà cứ xâu xé nhau. Xâu xé, là để giàu sang.

Giàu sang. Đó là mơ ước của nhiều người, ở đời. Giàu sang, là chiếc đũa thần giúp người người tạo nên những thứ họ muốn. Nhưng khi đã giàu sang, vẫn không phải là hết chuyện để ưu tư. Đây là ngộ nhận lớn, nơi quan niệm của người đời.

Người đời những tưởng: khi đã ổn định tài chánh, đã có nhà có cửa, có xe có tiền rồi, là có tất cả. Mọi sự coi như đã thành công. Thật sự, của cải tiền bạc tuy được coi là dấu hiệu của sự thành công; nhưng, đó vẫn chỉ là quan niệm của người đời, ở đời thường. Quan niệm của nhà Đạo, khác hẳn.

Bài đọc thứ nhất hôm nay, sách Giảng viên quả quyết: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân!” (Gv 1: 2). Ở bài đọc thứ hai, thánh Phaolô thêm:“Anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới: đam mê, ước muốn xấu và tham lam, thảy đều là ngẫu tượng”. (Cl 3: 5).

Và, ở trình thuật thánh Luca, Đức Kitô khuyên:“Hãy giữ mình khỏi mọi thứ tham lam; không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm, nhờ của cải đâu.” (Lc 12: 15).

Quả thật, khi khẳng định chân lý ấy, Đức Kitô không bắt mọi người phải chịu đau khổ. Ngài chỉ muốn nhắc: mọi người hãy tìm phương thức tốt nhất để tạo an toàn, hạnh phúc cho nhau. An toàn, để có cuộc sống ổn định. Cuộc sống có ý nghĩa đích thực. Nơi đó, mọi người trao cho nhau tình yêu thương, an bình. Mọi người san sẻ với nhau cũng một hạnh phúc chung. Hạnh phúc, chỉ có chỗ đứng, khi mọi người đều cùng hưởng. Hạnh phúc, phải được sẻ san cho nhau.

Với dụ ngôn hôm nay, ta lưu ý: truyện kể cho thấy có mỗi nhân vật chính, là nhà phú hộ. Ông cương quyết biến mình thành trung tâm của vũ trụ, nơi mình sống. Ông dồn tất cả tiền bạc của cải, gom lại để nuôi sống mỗi mình mình. Ông chỉ lo cho mình ông, thôi. Tất cả, chỉ để mình ông ung dung hưởng thụ. Chẳng bận tâm đến ai, chẳng cho ai, dù một xu lẻ.

Ở đây, Đức Kitô không phản đối chuyện ta có thể trở nên giàu sang, sung túc. Miễn là, sự giàu sang của ta không tạo bất công cho mọi người. Ở đây nữa, Đức Kitô muốn chứng minh cho con dân của Ngài thấy được, là: giàu sang – sung túc đích thực mới tồn tại dài lâu. Và, sự sung mãn hạnh phúc không nằm nơi của cải, tiền bạc. Mà, ở nơi khác. Của cải tiền bạc, chỉ tạo được hạnh phúc tạm bợ, chóng qua, những “nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12: 20). Còn hạnh phúc đích thật, lại nằm ở nơi khác

Nhìn vào thực tế, chắc mọi người vẫn còn nhớ nhà tỷ phú Howard Hughes, hôm trước. Ông chết đi, bỏ lại đằng sau đến 2 tỷ Mỹ kim. Giàu sang sung mãn đấy. Nhưng vào cuối đời, ông vẫn sống trong hãi sợ, trộn lẫn với cô đơn.

Dù chuẩn bị trước mọi thứ, ông vẫn chết trong quên lãng, chết rất tủi hổ. Và khi chết, ông nào có khác người nghèo? Có khi lại không bằng người nghèo đang chết ở Calcutta. Người nghèo ở Calcutta, họ cũng chết. Nhưng, được chết trong vòng tay yêu thương của Mẹ Têrêxa. Và của các nữ tu hiền hoà, đầy yêu thương chăm sóc.

Mahatma Ghandi, một thời là luật sư trẻ nổi tiếng, có của. Nhưng ông không màng giàu sang, sung túc. Vẫn bỏ hết những gì mình có, chọn lựa cuộc sống giản đơn hơn, không vướng mắc những nào của cải vật chất. Vì thế khi chết đi, ông đã để lại cho hậu thế một di sản thật lớn. Di sản ấy, người giàu và sang như Howard Hughes không tìm thấy. Di sản ấy, chính là: tạo sự bình an hưng phấn cho nhiều người. Di sản ông để, là: biết quan tâm đến người cô thân, cô thế.

Hợp cùng trình thuật hôm nay, thánh Phaolô gợi lên một tư tưởng khác: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới.” (Cl 3: 2). Nghe thánh Phao-lô đề nghị, hẳn có người cho rằng: lời khuyên của thánh nhân thiếu phần thực tế. Nhưng, thánh nhân đâu có đề nghị ta hãy nhắm mắt làm ngơ trước thực tại, của trần thế. Thánh Phaolô chỉ khuyên: hãy hy vọng và hướng lòng vào Nước Trời. Hãy “cởi bỏ con người cũ, để mặc lấy người mới”. Con người được thay đổi theo hình ảnh Đấng Tối Cao. Hãy trỗi dậy với Đức Kitô. Để rồi, ta sẽ cùng Ngài hưởng phúc vinh quang, miên trường.

Cởi bỏ con người cũ, là bỏ đi các hành vi mang tính hủy diệt. Những tính hư nết xấu, như: gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu xa và tham lam, vị kỷ. Bởi, những thứ đó là “ngẫu tượng” là phàm tục. Cởi bỏ con người cũ, là bỏ đi tính ích kỷ, chỉ muốn thu vén cho riêng mình. Cởi bỏ người cũ, không phải là tự sát/tự hủy, nhưng mặc lấy những gì là mới mẻ. Mới mẻ, với giá trị thăng tiến, hướng thượng. Mới mẻ, trong nhận thức biết rõ mà định hướng cuộc đời. Định hướng, bao gồm một đổi thay toàn bộ con người mình. Thay đổi, để nên giống Đức Kitô hơn. Định hướng và đổi thay, để rồi sẽ lớn mạnh trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô vào với Nước Trời, ở trần gian.

Với Nước trời đầy tình người này, ta chẳng cần đến những an toàn bằng tài sản, hoặc kế thừa. Chẳng cần trúng độc đắc, số lô-tô. An toàn đích thực, chỉ có thể đạt được nếu ta chấp nhận là thành viên của cộng đoàn biết chăm nom, và đùm bọc. Chăm nom lẫn nhau. Đùm bọc bên nhau, thì Nước Trời chính là trạng thái sống đang diễn ra trong lòng Hội Thánh, ngay trước mắt.

Nước Trời hôm nay, bao gồm cuộc sống hòa mình với mọi người. Hòa mình với môi trường sinh sống, rất thân thương. Nước Trời đây, không có chỗ cho những kỳ thị, phân biệt. Nước Trời đây, không tách biệt Hy Lạp với Do Thái. Nước Trời đây, chẳng bao giờ rẽ chia giới cắt bì với phường ô uế, không chịu cắt. Nước Trời của Chúa, không ly cách kẻ man di, nô lệ với người tự do. Ở Nước trời của chúa, tất cả vẫn là chi thể cùng một Thân Mình, Đức Kitô yêu dấu ở với ta. Ngài là Tất cả. Ngài ở trong mọi người.

Hiệp-thông liên-kết với Đức Kitô, ta có tất cả. Có an-ninh, an-toàn và sự bình-an bên trong. An-bình trong kết-hợp với Chúa, đó là sự giàu sang, sung-túc, đáng được ta mơ ước. Ước mơ của tất cả mọi người. Giàu sang đích-thực, chính là thế. Giàu sang sung-mãn, không do của cải vật-chất cung-cấp. Nhưng, có được là nhờ biết xác-tín hiệp-thông, trong Nước Trời.

Trong hân-hoan xác-tín sự bình-an đang có ngay trước mắt, ta hân-hoan hiệp-thông với mọi người, hát lên lời ca sau đây:

“Nhịp sống thắm thiết vui,

Kìa ánh-sáng thắm tươi.

Bốn phương lừng vang cung đàn khắp nơi.”(Xuân Lôi/Nhật Bằng – Ánh Sáng Miền Nam)

 Vui thắm thiết. Sống hạnh-phúc vang lừng khắp nơi. Nơi, có Ánh sáng Nước Trời đã và đang hoà nhịp, thắm thiết. Vui, vì lâu nay ta vẫn giàu sang, sung-túc. Chẳng cần của cải vật-chất, nhưng vẫn sang. Sang và giàu, không là “chuyện viển-vông” hay “chưa đến lượt”. Nhưng, là sống đích-thực lời Ngài dặn-dò. Giàu sang, là sống theo lời Đức Kitô dặn. Chính đó, là giàu sang miên-trường. Giàu sang không hư-nát, nhưng rất bền nhiều phấn-khởi.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn  –

Mai Tá lược dịch.

Ta yêu em lầm lỡ!

 “Ta yêu em lầm lỡ!”

Bây giờ đường nào đi!”
Em yêu ma quỷ dữ,

Đã đến gieo sầu bi
Em là cây cỏ úa,

Em đến gieo buồn thương!

(Trịnh Công Sơn – Ta Yêu Em Lầm Lỡ)

Video Ta Yêu Em Lầm Lỡ:

httpv://www.youtube.com/watch?v=s-wjz3LclA0

(Công Vụ 20: 7)

 Trần Ngọc Mười Hai

Đã yêu Em, sao còn nói chữ “lầm lỡ”? Đã lỡ-lầm, sao còn thấy mình vẫn cứ yêu? Yêu hay không, vẫn là nét diễm-kiều tràn đầy do tình-thương đem đến. Dù, tình đó có là tình người, tình bạn hoặc tình nhân-thế, rất dễ yêu.

Yêu lầm lỡ”, lại vẫn được nghệ-sĩ hát lên bằng cả hơi thở có những lời lẽ rất như sau:

“Ta cho em tất cả.
Hỡi nụ hôn tình đầu!
Bây giờ tình tan vỡ.
Ta còn lại thương đau.

Ta yêu em lầm lỡ.
Ôm vòng tay dại khờ.
Em là loài hoang thú
Ta vất vả tinh khôn.
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Yêu lầm lỡ, cũng có thể lầm và lỡ thế nào đi nữa, hãy cùng nhau hát tiếp ca-từ tuyệt-vời, như sau:

“Loài phù hoa mắt mờ.
Bạc vàng phấn son mơ.
Nơi mộ hoang lạc thú.
Em bước hỏng lửng lơ.

Ôi! chông gai đầy lối,
Cất bước đi về đâu?
Một lần ta lầm lỡ,
Trăm đường còn sầu đau!
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Ôi! Chông gai đầy lối, đó là tình-tự của người đời, ở với đời. Và, tình người đi Đạo có bao giờ “lầm lỡ” với Đức Chúa-là-Tình-Yêu theo kiểu-cách của nhà Đạo chứ? Và, một trong các kiểu cách mà người nhà Đạo vẫn diễn-tả bằng hình-thức/phong-cách được đấng bậc đưa ra, qua hỏi/đáp sau đây:

Thưa Cha, con không hiểu tại sao các Chủ-nhật là ngày của Chúa, mà lại được Giáo-hội cử-hành/mừng kính long-trọng vào Chủ-nhật, thay vì thứ Bẩy tức ngày Sabát, của người Do-thái vậy? Xin Cha cho con một giải-thích thoả-đáng để con còn biết được mà trả lời của bạn bè của con ở các nơi cứ hỏi hoài hỏi mãi mà chẳng biết nói làm sao, đây. Cảm ơn cha rất nhiều.”

 Thế đó, là câu hỏi của nữ giáo-dân mộ-đạo chuyên-chăm chuyện nhà thờ/nhà thánh, mới hỏi han những điều như thế. Chứ, người thường làm gì có thì-giờ mà hỏi-han/vấn nạn, mất thời-gian.

Thế nhưng, có là thắc-mắc hay vấn-nạn từ đâu đó, ngắn gọn hay dài giòng, nay vẫn cứ mời bạn/mời tôi, ta đi vào giòng diễn-giải có lời lẽ đạo mạo và đạo-đức như sau:

“Câu hỏi anh/chị đưa ra, hẳn đã qui về điều thứ 3 trong 10 điều răn có ghi rõ ở sách Xuất-hành, cứ nói rằng:

 Trong sáu ngày,

người ta sẽ làm việc,

nhưng ngày thứ bảy là một ngày sabát,

một ngày nghỉ hoàn toàn, dâng Đức Chúa:

kẻ nào làm việc trong ngày sabát

sẽ bị xử tử.”

(Xh 31: 15)

 Điều thứ 3 lại đã ghi: “Nhớ tuân-giữ các ngày lễ buộc!” như đã dặn. Với người Do-thái-giáo, thì: ngày Sabát là ngày thứ bẩy trong tuần, tức: ngày dành riêng để ta nghỉ-ngơi, tĩnh-dưỡng như Giavê Thiên-Chúa đã giải thích rõ ở Cựu Ước.

 Ngõ hầu nắm rõ lý-do của việc này, ta cũng nên trở về với công-cuộc tạo-dựng trời đất có ghi ở sách Sáng Thế Ký, như sau:

 Ngày thứ bảy,

Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người làm.

Khi làm xong mọi công việc của Ngài,

ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi.

Thiên Chúa ban phúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó,

vì ngày đó Ngài đã nghỉ,

ngưng làm mọi công việc sáng tạo của Ngài.”

(Sáng Thế Ký 2: 2-3)

 Về câu hỏi: kể từ lúc nào Đạo Chúa của ta dời một ngày để nghỉ-ngơi phụng thờ Thiên-Chúa vào Chủ nhật, thế? Sự việc này, xảy ra gần như tức khắc, cách tự phát. Sách Công Vụ Tông Đồ được viết vào thập-niên 70 thế-kỷ đầu, có nói rõ, là:

 “Ngày thứ nhất trong tuần,

chúng tôi họp nhau để bẻ bánh.

Ông Phaolô thảo-luận với các anh em,

và vì hôm sau ông ra đi,

nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến nửa đêm.”

(Cv 20: 7)

 Nói cho cùng, thì: với thời xưa, ngày đầu tuần chính là ngày Chủ-nhật và việc cử-hành nghi-thức bẻ bánh, hay Tiệc Thánh-Thể hoặc lễ Misa, cũng đều thế. Sách Điđakê xuất-hiện khoảng cuối thế-kỷ thứ nhất, cũng có nói: “Vào các ngày của Chúa, hãy tụ-tập nhau lại mà bẻ bánh và cảm-tạ Chúa.” (Didache 14: 1a). Đó, là lần đầu tiên Giáo-hội dùng cụm từ “Ngày của Chúa” để chỉ về ngày Chúa-nhật.         

 Kitô-hữu thời tiên-khởi, cũng đã tụ-tập vào các ngày Chúa-nhật để cử-hành Tiệc Thánh như thế. Nhưng lúc đầu, nhiều vị trong Giáo-hội cũng vẫn tiếp-tục đến với hội-đường Do-thái-giáo vào ngày thứ Bẩy như dạo trước. Tông-thư “Dies Domini” (tức: “Ngày của Chúa”) viết năm 1998, rõ rang thánh Gioan Phaolô đệ Nhị có nói: “Các thánh tông-đồ và đặc-biệt là thánh Phaolô lúc đầu cũng tiếp-tục đến hội-đường để rao-giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô bằng và bàn-luận ‘lời các ngôn-sứ đọc vào ngày Sabát’ (Cv 13: 27).

 Một số cộng-đoàn khi trước cũng giữ ngày Sabát cùng với việc cử-hành thánh-lễ Chúa nhật. Tuy nhiên, không lâu sau đó, một số vị đã tách-bạch hai ngày này rõ ràng hơn, phần lớn là để phản-ứng với Kitô-hữu khi trước theo Do-thái-giáo, vẫn nhất-định duy-trì việc giữ luật buộc ở thời trước.” (Điđakê đoạn 23)

Lý-do chính khiến ta tụ-tập ngày Chúa-nhật và gọi đó là “Ngày của Chúa”, là vì: ngày ấy, Đức Kitô đã trỗi dậy từ cõi chết vào đầu tuần (Ga 20: 1). Cũng hệt thế, lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống vào ngày Ngũ Tuần lại cũng được mừng kính vào Chúa-nhật, rất trọng-thể. Tuy nhiên, tín-hữu thời tiên-khởi còn đi xa hơn bằng cách kết-hợp ngày đầu tuần vào với ngày thứ nhất khi Thiên-Chúa tạo dựng trời đất muôn vật.

 Thánh Gioan Phaolô đệ Nhị lại cũng bảo: “Suy-nghĩ của Kitô hữu chúng ta luôn nối-kết cách hài-hoà với Phục Sinh xảy đến vào đầu tuần”, cùng với ngày thứ nhất trong chuỗi ngày Chúa tạo-dựng trời đất. (Stk 1: 2 – 2:4). Nối kết này, giúp ta hiểu Phục Sinh như một khởi-đầu tạo-dựng xem đó như hoa quả đầu mùa là Đức Kitô quang-vinh mà thánh Phaolô tông-đồ gọi Ngài là “Trưởng-tử sinh trước mọi loài thọ-tạo” (Côlôsê 1: 15) và “Trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Côlôsê 1: 18; Điđakê 24). Điều đáng kể, là như thể ánh-sáng được tạo-thành ngay từ ngày đầu, và Đức Kitô là “ánh-sáng thế-gian” (Gioan 8: 12)…

Vào giữa thế-kỷ thứ hai, thánh Justinô đã sử-dụng chủ-đề này để luận-bình về ý-nghĩa ngày đầu trong tuần được định-danh theo sau mặt trời ở tiếng La-tinh, khi bảo rằng: “Chúng ta tụ-tập nơi đây vào ngày mặt trời, bởi lẽ đó là ngày đầu-tiên [tiếp theo sau ngày Sa-bát ở Do-thái-giáo, nhưng đây cũng là ngày đầu-tiên] khi ấy Giavê Thiên-Chúa phân-định sự vật khỏi tối-tăm bao trùm, tạo-thành vũ-trụ vạn-vật; và cũng vào ngày này Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu-Chuộc chúng ta khỏi cõi chết” (1 Apol. #67).

Tín-hữu thời tiên-khởi qui về Đức Kitô là “mặt trời công-chính” và vì thế mới ăn-khớp với những điều mà các vị ấy muốn vinh-danh Ngài vào ngày này hơn việc phụng-thờ mặt trời như dân ngoại vẫn làm.

 Thế nhưng, Chúa-nhật lại cũng là ngày thứ tám và ta gọi được thế là để nhắc đến ngày tháng không có kết-thúc, tức cuộc sống miên-trường ở chốn vĩnh-cửu nghỉ-ngơi mãi với Chúa. Thánh Âu-tinh viết trong cuốn “Lời xưng-thú” có xin Chúa ban cho chúng ta “sự an-bình lặng-thinh, tức sự hài-hoà của ngày Sa-bát, một hài-hoà không có chiều tà nào hết” (Lời Xưng thú đoạn 13, câu 50).

 Thánh Gioan Phaolô đệ Nhị trích lời thánh Basil có giải-thích rằng: “Chúa-nhật quả thật tượng-trưng cho ngày độc-nhất vốn dĩ theo sau thời hiện-tại, là ngày không có kết-đoạn cũng chẳng có buổi sáng hoặc buổi chiều gì hết, là thời bất-tử không bịết đến già-nua, lãi hoá bao giờ. Chúa-nhật là ngày báo trước không ngừng sự sống không có đoạn-kết vốn dĩ canh-tân niềm hy-vọng của các tín-hữu đi theo Đức Kitô và khích-lệ họ trên đường họ vẫn đang đi. (x. On the Holy Spirit đoạn 27 câu 66, Điđakê #26)     

        Xem thế thì, Chúa-nhật là ngày ta cử-hành mừng-kính Phục-sinh vào mỗi tuần, tức “Ngày của mọi ngày” và như thế mới có ý-nghĩa quan-trọng với sự sống của mọi người.” (Lm John Flader, Why is the Lord’s Day celebrated on Sunday instead of Saturday, The Catholic Weekly 17/4/2016, Question Time, tr. 18)                     

   Nói gì thì nói, tham-dự Tiệc Thánh Lòng Mến ngày Sabát hay đầu tuần, tức Chủ-nhật, được nhiều người hiểu: đây là thời-gian đẹp nhất để ta và mọi người cùng nhau nguyện-cầu cùng Chúa Cha. Bởi, Tiệc thánh Lòng Mến có nghi-thức để ta và người cùng đọc câu kinh “Lạy Cha” đầy ý-nghĩa do Đức Giêsu dạy.

Nguyện cầu ở Tiệc thánh, còn là và vẫn là cách nguyện và cầu như nhận-định của đấng bậc từng nói ở bài giảng bên dưới:

“Khi dạy dân con đồ đệ biết cách mà nguyện cầu cho đích đáng, Đức Kitô nhắc mọi người, một chân lý. Chân lý ấy, tóm gọn nơi lời khuyên: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.” Và: “Ai trong anh em là người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ư?” (Lc 9-10)

 Thoạt nghe, tưởng chừng như có nghịch lý, khác thường ở lời Ngài. Nếu Thiên Chúa Cha trên trời chăm lo cho ta đủ mọi điều, thì tại sao ta lại cứ liên tục xin-xỏ mãi như thế? Cầu nguyện, như Đức Kitô dạy, không phải cứ lải-nhải như dân ngoại. Hẳn mọi người đều nắm vững được rằng: Cha chỉ phú-ban những gì ta cần, chứ không phải những gì ta muốn hoặc ưa-thích. Bởi, những gì mọi người ưa thích, chỉ là ưa và thích những là vật-chất tạm bợ, gồm tóm cho riêng mình, thôi.

 Cách hay nhất để nguyện cầu, là: hãy tìm-hiểu xem mình đang ở vị-trí nào trong tương-quan với Chúa. Với mọi người và với thế-giới ở quanh ta. Liên lỉ nguyện cầu -nhưng không phải là cứ ê a sớm tối-  nhưng là giúp ta định ra được những gì mình cần có và cần làm.

 Và, liên lỉ nguyện cầu, còn giúp ta biết lọc-lựa, cả lời kinh. Việc nguyện cầu, giúp ta làm sang-tỏ giá-trị nội-tại cũng như niềm hy-vọng mình đang có. Có nguyện-cầu như thế, ta mới chú-tâm đến những gì mình thật cần, để được cứu. Nguyện-cầu, là cầu và mong Chúa thực-hiện điều Ngài muốn ta làm theo ý Ngài.

 Nói tóm lại, mục-đích tối-hậu của việc nguyện-cầu, là biết đầm mình trong tương-quan với Chúa, với mọi người quanh ta. Đi vào với tiệc long-mến hôm nay, ta sẽ cùng với người anh/người chị trong Hội thánh, cứ chung-vai sát-cánh mà nguyện-cầu cho mọi người sẽ mãi mãi ở lại trong tương-quan với Cha. Để rồi, cùng với Đức Kitô, ta sẽ thực-hiện thánh-ý Cha trong mọi hoàn-cảnh của đời thường.” (X. Lm Richard Leonard sj, Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 17 thường niên năm c,www.suyniemloingai.blogspot.com 17/7/2016)

Nói gì thì nói, có tham-dự phụng-vụ Tiệc Thánh ngày Sabát hoặc ngày-của-Chúa tức Chủ-nhật, cũng là để cùng nhau tôn-dương cảm-tạ Thiên-Chúa-là-Tình-Yêuqua và bằng hành-động cụ-thể biến yêu-thương thành hiện-thực.

Nói gì thì nói, nói chuyện tu-đức hoặc giáo-lý niềm-tin là nói như thế. Nói, về tình-thương-yêu đùm bọc trên thực-tế cuộc đời, còn là và mãi mãi là: nói theo truyện kể để dễ nhớ. Nói, như kể cho nhau nghe đôi ba câu truyện đại để cũng dễ nhớ, mà người kể truyện đã đặt tiêu-đề là “Không nên so-sánh”, như sau:

“Trong cuộc sống không nên so sánh, một người lái chiếc xe Mercedes-Benz giá 4 tỷ, nhưng họ có thể vay ngân hàng tới 20 tỷ, cuộc sống của họ thực sự đang rất khốn đốn.

 Một người đi chiếc xe Volkswagen 500 triệu, nhưng họ có thể đang nợ ngân hàng tới 2 tỷ đồng, cũng đang ở trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng.

 Một người đi chiếc xe đạp điện 6 triệu, nhưng họ vẫn có 60 triệu gửi ngân hàng. Họ sống một cuộc sống an nhàn.

 Lúc 3 người gặp nhau ở trên đường, người đi xe đạp điện ngưỡng mộ người lái xe Volkswagen, người lái xe Volkswagen ngưỡng mộ người lái xe Mercedes-Benz, người lái xe Mercedes-Benz lại mong muốn có được cuộc sống như người đi xe đạp điện.

 Đây chính là thực tại trong xã hội, ai cũng có thể trở thành nô lệ của đồng tiền, nô lệ của cuộc sống!

Mèo thích ăn cá, nhưng mèo lại không biết bơi. Cá thích ăn giun, nhưng cá lại không thể lên bờ. Thượng đế mang đến cho bạn rất nhiều thứ hấp dẫn, nhưng lại không cho bạn dễ dàng đạt được nó.

 Nhưng, cũng không thể cứ đổ máu thì kêu đau, sợ tối thì bật điện, nhớ nhung thì liên lạc, ngày hôm nay với bạn là chuyện lớn, nhưng có thể ngày hôm sau lại là chuyện nhỏ. Cuộc đời giống như cây bồ công anh, nhìn có vẻ tự do, nhưng kỳ thực lại là thân bất do kỷ.

Có những chuyện không phải là không thèm lưu tâm, mà là có lưu tâm cũng chẳng làm được gì. Chỉ biết dốc toàn lực của mình để ứng phó là được, cuộc đời không có nếu, chỉ có hậu quả và kết quả …

Đời là bể khổ, bây giờ bạn không khổ, sau này sẽ càng khổ!

Vạn sự tương sinh tương khắc, không có lên thì không có xuống, không có thấp thì không có cao, không có đắng thì không có ngọt.

Chỉ khi biết thế nào là mệt mỏi, thì mới cảm nhận được thế nào là an nhàn; nếm qua cay đắng thì mới biết thế nào là ngọt bùi. Nhân lúc đang còn trẻ, dũng cảm bước đi, nghênh đón phong sương gió mưa, tôi luyện bản thân, có thể độ lượng, có thể nhìn xa trông rộng, thì hạnh phúc mới đến.

Trên thế giới này ngoại trừ bạn ra, thì không có ai có thể thực sự giúp đỡ bạn, nếu có giúp thì cũng chỉ là tạm thời. Rất nhiều người đã từng nếm thử “trứng luộc trong nước trà”, vỏ trứng nứt càng nhiều, thì trứng ăn càng ngon miệng.

 Tương tự như vậy, trong cuộc sống trải nhiệm càng nhiều, trắc trở càng nhiều thì sẽ càng có hương vị. Trứng gà bị vỡ do tác động từ bên ngoài là đồ ăn, bị vỡ do tác động từ bên trong thì chính là sinh mệnh. Cuộc sống cũng vậy, làm vỡ từ bên ngoài là áp lực, làm vỡ từ bên trong chính là trưởng thành.

Nếu bạn chờ người khác làm vỡ bạn từ bên ngoài, thì nhất định bạn sẽ là món ăn của người khác; nếu bạn có thể đánh vỡ chính mình từ bên trong, như vậy bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự trưởng thành, cũng giống như là được tái sinh.

Nhìn thấy con bướm đang giãy-giụa muốn thoát ra khỏi cái kén, có người hảo-tâm giúp nó thoát ra. Nhưng không ngờ rằng, sau khi con bướm thoát ra ngoài, nó lại không thể duỗi đôi cánh ra được, và cuối cùng thiệt-mạng.

Giãy-giụa chính là điều con bướm cần làm để trưởng-thành, lúc đó bạn giúp nó thoải-mái, nhưng sau này nó sẽ không có đủ sức mạnh để đối mặt với những thử-thách sẽ phải gặp trong cuộc đời.

Nếu bạn muốn hóa-thân thành con bướm, thì bạn phải chịu-đựng được nỗi khổ của quá-trình giãy-giụa ở trong kén, vậy thì mới có thể dang cánh bay cao được.

Trong cả cuộc đời, bạn phải tôn-trọng bao nhiêu người, thì sẽ có bấy nhiêu người tôn-trọng bạn.
Bạn tin-tưởng bao nhiêu người thì sẽ có bấy nhiêu người tin-tưởng bạn.

 Bạn có thể giúp bao nhiêu người thành-công, thì sẽ có bấy nhiêu người giúp bạn thành-công!
Trên thế-giới này, người giàu có nhất, thường là người vấp ngã nhiều nhất. Người có thể thành-công là người mỗi lần vấp ngã, không chỉ có thể đứng dậy, mà vẫn có thể kiên-trì tiếp-tục bước đi. 
(Nguồn: Sưu tầm)

Truyện kể trên, có thể không xứng với chủ-đề bạn và tôi, ta bàn chuyện nhà Đạo ở nhiều nơi dù nhiều người không đồng ý như thế. Nhưng, đã là truyện kể không để minh-hoạ cho điều mình cố ý nêu ra, đôi khi chỉ là cơ-hội để ta nhìn vào cuộc sống có nhiều ý-nghĩa; của những suy-tư vớ-vẩn chẳng ăn-nhập chuyện gì, nhưng dễ nhớ và dễ hiểu hơn chuyện nhà Đạo.

Nói gì thì nói, nói mọi chuyện bằng truyện kể và thơ/văn-âm/nhạc vẫn thích hơn là nói bằng những biện-luận có mở đề, phản-đề và tổng-đề, như một triết-thuyết không-kịp-sống thực trước đã, mà chỉ kịp nói lý và luận bàn cùng minh-định như thế rồi, nay ta cùng nhau quay về lại với nhạc-bản ở trên, mà hát những câu thêm-thắt, rất như sau:

Ta yêu em vất vả,
Ôi! lần cuối lần đầu.
Em là cành gai sắc,
Cho thịt nát xương đau.

Yêu em nên mất cả,
Vỡ nụ hôn tình đầu.
Yêu là sầu chất-chứa,
Yêu còn được là bao?

Người ngoảnh lưng giấu mặt,
Cuộc đời mới đi xây.
Đi van xin hạnh phúc,
Nô lệ nào rủi may.

Ta thương em nhỏ bé,
Với giấc mơ bạc vàng.
Em là cây cỏ úa,
Ta là loài ma hoang.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Nói gì thì nói, nói bằng thi-ca/âm-nhạc hoặc bằng luận-lý/biện-luận chi bằng ta đi vào vườn hoa Lời Vàng có những dặn dò như sau:

Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện ở nơi kia.

Ngài cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Ngài:

‘Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu-nguyện,

cũng như ông Gioan đã dạy môn đệ của ông.’

Ngài bảo các ông:

‘Khi cầu nguyện, anh em hãy nói:
‘Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,
Triều Đại Cha mau đến…”
(Lc 11: 1-4)

Và tiếp theo đó, Ngài còn dặn thêm:

“Thế nên Thầy bảo anh em:

anh em cứ xin thì sẽ được,

cứ tìm thì sẽ thấy,

cứ gõ cửa thì sẽ mở cho.

Vì hễ ai xin thì nhận được,

ai tìm thì thấy,

ai gõ cửa thì sẽ mở cho.”

(Lc 11: 9-10)

Xem thế thì, có cầu-nguyện hay cầu xin điều gì đi nữa, cũng hãy cùng nhau làm việc ấy trong yêu-thương giùm giúp, hết mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc vẫn nhủ lòng mình

luôn phải như thế để còn thương.

Thương người, thương ta,

thương cả-và-thế-gian

hết mọi người.

NIỀM TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON

NIỀM TIN CỦA CON ĐÃ CỨU CON

Tác giả:  Huệ Minh

Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy tiến trình niềm tin của Mácta. Từ việc coi Đức Giêsu như một ngôn sứ đến việc tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa.

Qua việc cho Ladarô sống lại, Chúa Giêsu dẫn đưa Mácta tiến sâu vào con đường đức tin, giúp cho cô vững tin Ngài chính “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (c.27). Đối với Mácta, niềm vui này còn lớn hơn niềm vui tìm lại được người em đã chết, bởi vì niềm tin ấy đưa cô đến sự sống đời đời: “Ai tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (c.26).

Tin vào con người Đức Kitô thì cũng đồng thời là tin vào Lời của Ngài, bởi vì Ngài chính là Ngôi Lời (Ga 1, 1), và Lời Ngài là Lời hằng sống, Lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 68). Và ta thấy Chúa Giêsu mạc khải chính Ngài là mục tử đem lại sự sống dồi dào cho dân. Điều kiện để đón nhận là ai sống và tin vào Thầy.

Sau khi mạc khải Ngài là sự sống lại và là sự sống. Chúa Giêsu hỏi Mácta có xác tín vào điều đó không. Mácta với câu trả lời rất xác quyết: “con vẫn tin”. “Con vẫn tin” nghĩa là trước đây con đã tin, hiện giờ con luôn tin và sau này lòng tin của con vào Thầy vẫn không thay đổi.

Giữa cơn thử thách lớn lao, Mácta đã gặp Đức Kitô, và lời Ngài đã vực chị dậy để chị đứng vững trong niềm tin. Ta đã làm gì khi gặp thử thách trong đời sống, trong đức tin?

Thật vậy, khi gặp thử thách mới thấy niềm tin của mình như thế nào! Ta hãy cùng bạn bè, người thân chia sẻ kinh nghiệm cá nhân khi đối diện thử thách, dựa vào  gương của Mácta trong câu truyện Tin Mừng hôm nay, và hãy khích lệ nhau vững tin vào Chúa hơn.

Quả thật Mácta biết Chúa, tin Chúa và yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng yêu mến hết tình, tin tưởng và phó thác trọn vẹn. Cả trong những lúc buồn bã nhất như tình cảnh vừa mất một người thân, thì Mácta vẫn biết, vẫn tin và vẫn một lòng yêu mến tín thác vào tình thương của Thầy Giêsu. Cuộc đối thoại rất thân tình chứng tỏ mối liên hệ giữa Chúa Giêsu và gia đình Bêtania rất keo sơn. Cuộc sống thường ngày của chúng ta, chúng ta đã gắn bó với Chúa ở mức độ nào ?

Khi người em là Ladarô chết, Mácta và Maria buồn sầu báo tin cho Chúa Giêsu. Giữa những đau khổ thử thách đó, Mácta vẫn giữ được bình tĩnh. Mácta đã thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Dù rằng em cô là Ladarô đã chết, Mácta vẫn tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu cách tuyệt đối: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. (Ga 11, 27).

Ta biết mục đích chính và là cùng đích ơn cứu độ Chúa Giêsu thực hiện cho loài người, là Ngài làm cho ai tin theo và kết hợp nên một với Ngài, thì dù họ có chết cách nào, chết bao lâu, Ngài cũng làm cho người ấy được sống lại vinh hiển trong Ngài. Thế mà suốt đời phục vụ của Chúa Giêsu, rất nhiều người chứng kiến những phép lạ Ngài làm, nhưng dưới ngòi bút của thánh sử Gioan, chưa từng có ai tuyên xưng Đức Tin vào Đức Giêsu như chị Mácta : “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Vì vậy “nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết” (Ga 11, 24.32). Và Chúa Giêsu đã từng nói : “Đức Tin của con đã cứu con”  (Mc 5,34 ; Lc 7,50).

Thật thế, “người công chính sống bởi Đức Tin” (Rm 1,17), và “đức Mến làm cho con người tồn tại” (1Cr 13,13c). Anh Laladô được sống lại là nêu giá trị Tín Điều Các Thánh Cùng Thông Công.

Không phải chỉ thông công với Đức Tin và lòng Mến của các thánh, mà nhất là còn được thông công với lòng Mến của Thiên Chúa. Thánh Gioan nói về tình yêu của Thiên Chúa như thế này : “Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ.

Nếu ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong ta, và tình yêu của Người nơi ta mới nên hoàn hảo.

Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian. Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa,và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1Ga 4, 7-16).

Vậy chính nhờ Đức Tin của chị Mácta mà Chúa Giêsu đã làm cho Ladarô, em chị được sống lại.

Chúa là sự sống lại và là sự sống, Ngài luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Ngài mong ước trao ban cho ta sự sống và tình yêu của Ngài. Để mỗi người chúng ta được sống và sống dồi dào. Thử hỏi ta có tin và sẵn sàng đón nhận ? Để sự sống của Ngài được lớn mãi trong ta và tình yêu của Ngài được lan tỏa đến tha nhân.

Với niềm tin của Mácta, Chúa Giêsu đã làm phép lạ cho Lagiarô sống lại sau khi chôn cất trong mồ đã bốn ngày.

Mừng lễ thánh nữ Mácta hôm nay, theo gương thánh nữ Mácta, ta sống đức tin mạnh mẽ giữa những cơn thử thách của cuộc sống. Nhờ đó, ta cố gắng vượt qua những thử thách hiện tại và hướng đến sự phục sinh vinh quang với Chúa Kitô.

Tác giả:  Huệ Minh

“BẠN ANH ĐÓ ĐANG SAY NGỦ YÊN…”

“BẠN ANH ĐÓ ĐANG SAY NGỦ YÊN…”

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Tri’ch EPHATA 704

QUANG TRI

Tôi theo những anh em trong lãnh vực Mỹ Thuật đến thăm Cổ Thành Đinh Công Tráng, tỉnh Quảng Trị, vào những ngày hè nóng bức tháng 7 năm 2016. Ở đây đang có trại sáng tác các tác phẩm mỹ thuật của ngành điêu khắc. Cuộc triển lãm được đặt tên: “Bất tử và Hồi sinh”. Nói đến Cổ Thành Đinh Công Tráng tỉnh Quảng Trị hay còn gọi tắt là Cổ Thành Quảng Trị là gợi về một nỗi đau của dân tộc Việt Nam, nơi đây vào những ngày đầu năm 1972, kéo dài cho đến mùa thu năm ấy, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Nam Bắc đã tàn phá biết bao cuộc đời những thanh niên trai tráng khỏe mạnh, dũng cảm đang tuổi xuân tràn đầy sự sống. Không chỉ gây ra những cái chết đau thương, chiến tranh còn để lại những di lụy trên những người què cụt trở về và một miền đất ngập tràn bom đạn.

Ngoài những người lính của hai miền, bao nhiêu đồng bào vô tội đã chết thảm dưới vì chiến tranh, bao nhiêu tài sản, nhà cửa bị tàn phá… 44 năm qua rồi, nhiều chứng từ đã được công bố, nhiều bài viết đã ghi lại cuộc chiến tàn khốc này, chỉ cần vào trang Google gõ những chữ liên quan như: Cổ Thành Quảng Trị, Mùa Hè Đỏ Lửa… sẽ gặp hàng trăm bài viết, hàng trăm hình ảnh về biến cố đau thương của miền đất dân gầy quê hương ta. Ngay cửa chính vào Cố Thành, một đống đá gạch vụn nát còn lại phía bên phải như một chứng tích duy nhất về một cổ thành một thời lừng danh với người anh hùng yêu nước Đinh Công Tráng, tất cả đã được xây dựng lại, xòa đi những vết tích chiến tranh, vết tích của một trận chiến dài ngày đến nỗi không còn một hòn đá nào trên hòn đá nào.  Qua cửa chính, khách viếng thăm không khỏi xúc động trước câu thơ được in trên một tảng đá:

Nhẹ bước chân và nói khẽ thôi,

Cho đồng đội tôi nằm yên dưới cỏ,

Trời Quảng Trị trong xanh và lộng gió,

Ru mãi bài ca Bất Tử đến vô cùng.

( Phạm Đình Lân )

Quả thật người ta đã để lại rất nhiều  đồng  đội “nằm yên dưới cỏ”. Những người đang thực hiện những tác phẩm dự triển lãm chỉ cho chúng tôi một tác phẩm

điêu khắc nằm ở giửa khu vườn bên phải cửa vào, họ nói, khi đào móng để làm bệ tượng, chúng tôi gặp một bộ cốt nằm dưới đất. Tôi hỏi kỹ về bộ cốt này với những câu hỏi như có thấy thẻ bài không, có thấy đôi giầy còn không, có thấy dây đeo vật dụng quân trang bên hông không… Tất cả là không, không một dấu vết nào về bộ

cốt “nằm yên dưới cỏ”. ( Ảnh chụp một người lính VNCH quỳ cầu nguyện giữa đống đổ nát của Vương Cung Thánh Đường La Vang, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ).

Có bao nhiêu bộ cốt không vết tích còn “nằm yên dưới cỏ” ở nơi “trời trong xanh và lộng gió” này ? Bao nhiêu gia đình 44 năm nay ra vào thương nhớ người con thân yêu ? Bao nhiêu người con gái cuộc đời xoay hướng khác vẫn còn thầm nhớ về người bạn trai năm xưa ra đi không trở về ? Không một dấu vết !

Dạo quanh một vòng các tác phẩm điêu khắc người ta nhận ra ngay sự đơn điệu đến trơ trẽn của một thể loại được kể là nghệ thuật đương đại trong trại gọi là trại sáng tác này. Hơn một nửa nội dung các sản phẩm chúng ta đã gặp thấy ở bất cứ cuộc triển lãm nào về điêu khắc hoặc hội họa. Cũng nón tai bèo, cũng chiến sĩ khăn rằn cầm súng ra trận, cũng bà mẹ liệt sĩ đứng ngẩn ngơ, cũng liên minh công nông… Về ngôn ngữ và bút pháp có thể nói các sản phẩm cùng một thể loại, không cái nào khác đột phá ra ngoài những đường nét hao hao từa tựa nhau như các sản phẩm cùng một lò thủ công nghiệp. Thô thiển hơn nữa là các bệ đặt sản phẩm đươc xây như nhau, cái nào cũng trên bệ cao 1 mét ! Nói cho công bằng thì cũng tìm được một vài tác phẩm xem ra đỡ làm khách thăm viếng mỏi mắt, nhưng còn lên thì đầy dẫy những hạt sạn khó nhai, làm ê cứng răng khách thưởng ngoạn.

Tôi được biết các tác phẩm dự trại gởi mẫu phác thảo đến, có một đơn vị nhận thầu mọi chuyện từ đầu đến cuối, tác giả chỉ cần ra để mài dũa một chút và làm công việc đề tên mình, dĩ nhiên kinh phí do ngân sách đài thọ được chia đúng quy trình.

Chúa Nhật 18 Thường Niên năm C, bài đọc 1 trích trong sách Giảng Viên. Tác giả Kinh Thánh nhắc chúng ta về sự chọn lựa khôn ngoan trong cuộc sống, chạy đua theo những lý tuyết phù du gây tổn hại cho bao người, tan nát bao gia đình, tổn thương bao tâm hồn, chính là tự phá tan tương lai đời đời mình. Tàn ác trong hành xử để gây dựng cơ đồ hiện tại, hưởng thụ trên bàn son thảm gấm mà quên rằng: “Đồ ngốc, đêm nay ta đòi mạng người về, ngươi để lại những thứ đó cho ai ?”

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 29.7.2016

Tựa đề lấy từ bài hát “Một mai giã từ vũ khí” của Ngân Khánh

Đảng, các ông mở cửa hậu cho Trung Quốc?

Đảng, các ông mở cửa hậu cho Trung Quốc?

“Đảng phải tự kiểm điểm chính mình một cách thành thật và chấp nhận các giải pháp khắc khe để thay máu. Đây là cuộc cách mạng nội thân ý nghĩa nhất nếu Đảng còn tin vào sự mầu nhiệm cách mạng mà hơn 70 năm qua Đảng đã dựa vào.  Nếu không, dân sẽ thay Đảng làm cuộc cách mạng cho chính họ.  Nếu không, chính Đảng đã thừa nhận rằng mình tự mở cửa hậu cho Trung Quốc vào Việt Nam và Đảng sẽ trở thành một tập thể bán nước lớn nhất trong lịch sử nhân loại”.

_____

Blog RFA

CanhCo

30-7-2016

Từ trái qua phải: Tập Cận Bình, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc, Đinh Thế Huynh tại Hà Nội, 05/11/2015. Nguồn: internet

Cuộc chiến giữa nhân dân và Đảng về vấn đề Trung Quốc đã rẽ sang bước ngoặc mới. Một là Đảng tồn tại vì được Trung Quốc tiếp tay khủng bố quần chúng để dần dần biến Việt Nam thành vùng đất nô lệ, hai là Đảng phải thay đổi cách ứng phó với Trung Quốc trong hàng trăm vấn đề, mà vấn đề hiện hữu nhất là an ninh lãnh thổ.

Bước ngoặc này không do người có lòng với đất nước tạo ra để áp lực Đảng mà đến từ Trung Quốc, đất nước ngày càng chứng tỏ lòng tự đại vượt mọi giới hạn, trong đó chủ nghĩa dân tộc điên cuồng đang làm cho Bắc Kinh dần dần trở thành kẻ thù của toàn thế giới, ngoại trừ với những chính phủ độc tài toàn trị.

Sự việc hacker Trung Quốc công khai nhìn nhận đã tấn công hàng loạt phi trường Việt Nam trong ngày 29 tháng 7 cho thấy việc bảo vệ lãnh thổ của quân đội, an ninh mạng cũng như các cơ quan tình báo, chống xâm nhập của Việt Nam quá thô thiển, lạc hậu và thụ động vượt qua sự tưởng tượng của người dân, vốn luôn tin rằng quân đội cũng như các hệ thống vừa nói đủ sức đối phó với Trung Quốc, hay ít ra đủ thông tin để ứng phó sau khi cuộc tấn công diễn ra. Những bài báo ca ngợi tính chiến đấu của quân đội nhân dân hay tâng bốc tính năng an ninh mạng vượt bậc của Việt Nam trở thành khôi hài và từ đó người dân đang chờ sự tuyên bố của nhà nước trước vấn đề hệ trọng này.

Hệ trọng vì nếu hacker tấn công được hệ thống hàng không dân dụng, cụ thể là các phi trường quốc tế của Việt Nam, có nghĩa là hacker Trung Quốc có thể tấn công vào những cơ chế khác, dân sự lẫn quân sự khi chiến tranh xảy ra.

Hacker Trung Quốc từng thâm nhập Bộ quốc phòng Mỹ ăn cắp dữ liệu, ai dám đảm bảo Bộ Quốc phòng Việt Nam ưu việt hơn Mỹ để vô hiệu hóa hoạt động gián điệp của chúng?

Về dân sự ai đảm bảo rằng các phi trường Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Tân Sơn Nhất hay Cần Thơ sẽ không bị tê liệt một lần nữa. Nhưng lần tê liệt sắp tới sẽ nghiêm trọng hơn, dài ngày hơn vì hacker đã biết cách tránh né mọi kỹ thuật phòng chống của an ninh mạng Việt Nam?

Ở các lĩnh vực khác, nơi nào được điều hành bằng hệ thống máy tính thì nơi đó sẽ tê liệt khi bọn hacker tấn công.

Và điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra: Khi Trung Quốc chuẩn bị chiến tranh, hệ thống phát thanh, truyền hình toàn quốc sẽ bị cướp mất, như đã được chúng làm thí điểm trong vài ngày vừa qua tại Nha Trang và Đà Nẵng, để thay vào đó là các bài tuyên truyền chống Việt Nam phát liên tục 24 giờ, cùng lúc mạng Internet Việt Nam hoàn toàn sụp đổ, người ta không thể liên lạc qua phone, e-mail hay thậm chí qua Facebook, bởi các phần mềm gián điệp của Trung Quốc được cài sẵn từ các ISP (Internet Service Provider) của Việt Nam lúc ấy sẽ thức dậy và hoạt động.

Bọn hacker cũng thức dậy ngay từ chiếc computer của người dân bình thường nếu nó được sản xuất từ Trung Quốc. Không ai ngạc nhiên vì điều này, có ngạc nhiên chăng là chính phủ Việt Nam biết rõ hơn người dân rằng, công ty phần mềm Hoa Vi (Huawei) là nơi gián điệp của Trung Quốc đang mượn để núp bóng hoạt động. Nó đã bị vạch mặt tại nhiều nước trên thế giới và người ta đưa ra phương cách đối phó mạnh mẽ, kể cả cấm hoạt động trong nước của họ, còn Việt Nam, vẫn như cũ vẫn cứ rẻ là được phần còn lại hãy để cho cơ quan trách nhiệm lo.

Cơ quan được gọi là trách nhiệm ấy biết rõ tất cả các máy computer được Trung Quốc sản xuất đều có cửa hậu backdoor, nơi thích hợp nhất cho hacker thâm nhập. Biết nhưng vẫn lờ đi vì nếu đánh động lên sẽ bị Trung Quốc tát tai bằng những câu chữ hết sức hữu nghị.

Những câu chữ ấy bây giờ Đảng Cộng sản Việt Nam phải nhận thức rõ rằng chúng chỉ có giá trị được dùng để xâm lược, và khi cần người bạn đồng chí này của Đảng sẽ trở mặt như Thủ tướng Hun Sen.

Trung Quốc chỉ dẫn cho Hun Sen cách cho Việt Nam một bài học lần thứ hai, có lẽ là sự cần thiết để chế độ chính trị hiện nay thức tỉnh, thức tỉnh trước khi nhân dân dạy cho Đảng bài học thứ ba: Bạo lực cách mạng.

Đảng không nên nghi ngờ sức mạnh quần chúng. Đảng càng không nên tiếp tục tìm cách giữ ghế bằng việc gieo rắc nỗi sợ hãi trong nhân dân, và một điều nữa, Đảng càng không nên quên lịch sử có thể lập lại bất cứ lúc nào.

Đảng không nên quên bài học sáng hôm nay, 30 tháng 7 một ngày sau khi hacker Trung Quốc chiếm lĩnh 2 phi trường lớn nhất Việt Nam, người dân Nghệ An đã áp dụng đúng những gì mà Đảng dạy cho dân nhiều chục năm về trước, đó là bài học bạo lực cách mạng.

Những hình ảnh ghi lại trên một video clip cho thấy người dân tại xã Nghi Tiến, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đã phản ứng lại việc công an đàn áp họ trong dự án xây dựng nhà máy xi măng Nghi Tiến. Khi lực lượng cơ động tấn công vào người dân, đã bị dân chúng ném đá không nương tay vào những “chiến sĩ” trang bị tận răng nón sắt, khiên, dùi cui. . .và rốt cuộc đã có những chiến sĩ gần trở thành “liệt sĩ” nếu không được cấp cứu kịp thời.

Nhiều nơi khác đã từng phản ứng “tích cực” như vậy và báo chí tường trình rất chi tiết. Những tập hợp tích cực về sự phản kháng sẽ ngày một lớn hơn, mà quan trọng và tiềm ẩn lớn nhất là nỗi lo sợ nước mất vào tay Trung Quốc.

Những cuộc biểu tình chống hacker Trung Quốc nếu nổ ra Đảng không nên tiếp tục ra tay đàn áp để đi tới đổ máu khi sự bức xúc của người dân lên tới đỉnh điểm. Đảng không thể ru ngủ người dân khi kẻ thù đã vào tới cửa ngõ nhà mình. Điều mà Đảng có thể làm trong những ngày sắp tới là khai tử lý thuyết mềm mỏng để bắt tay vào xây dựng sách lược đối phó mà trong đó Đảng hãy can đảm khai trừ những thành phần hèn nhát, cơ hội, dựa vào Trung Quốc để tiếp tục hút xương tủy nhân dân.

Đảng phải tự kiểm điểm chính mình một cách thành thật và chấp nhận các giải pháp khắc khe để thay máu. Đây là cuộc cách mạng nội thân ý nghĩa nhất nếu Đảng còn tin vào sự mầu nhiệm cách mạng mà hơn 70 năm qua Đảng đã dựa vào.

Nếu không, dân sẽ thay Đảng làm cuộc cách mạng cho chính họ.

Nếu không, chính Đảng đã thừa nhận rằng mình tự mở cửa hậu cho Trung Quốc vào Việt Nam và Đảng sẽ trở thành một tập thể bán nước lớn nhất trong lịch sử nhân loại.

Chào ánh sáng, chào những ánh mắt mở ngủ mê

Chào ánh sáng, chào những ánh mắt mở ngủ mê

Tuấn Khanh

30-7-2016

Ảnh: một góc của cuộc chiến tranh 1979 chống Trung Cộng xâm lược. Ảnh: internet

Sự kiện tin tặc Trung Cộng tấn công vào hệ thống IT của phi cảng Tân Sơn Nhất và Nội Bài, ngày 29/7, như có một luồng ánh sáng chớp lóe lên trong suy nghĩ của hàng triệu người dân Việt. Hy vọng thay, đó là khoảnh khắc sẽ thức tỉnh được nhiều con người về hiện trạng đất nước.

Có lẽ, bất kỳ ai vẫn lớn tiếng kêu to rằng đừng quan tâm chính trị, hãy chỉ lo làm ăn – làm giàu, và hãy cứ phỏ mặc cho Nhà nước giải quyết mọi chuyện, lúc này sẽ phải dành chút ít thời gian nghĩ về thân phận của mình và gia đình mình. Trên các chuyến bay của ngày 29/7, một nhà triệu phú hay một người nghèo khó đều có thể bỏ xác ngay trên đất nước mình trong niềm tin cố thơ ngây phi chính trị ấy. Có hơn 400.000 hành khách đã bị ảnh hưởng như vậy từ hành động cảnh cáo của nhóm tin tặc 1937cn, do Bắc Kinh tài trợ và nuôi dưỡng, mà bên cạnh đó, có những lời tố cáo cho biết các thành viên của nhóm này đã xâm nhập từ lâu vào hệ thống IT của Việt Nam. Dĩ nhiên, còn chưa tính tới việc có ai đó là kẻ phản bội và bán đứng các thông tin quan trọng cho giặc phương Bắc.

Nhưng vì sao, giữa vô vàn thống khổ lâu nay của quê hương – từ nạn bauxite đang giết dần mòn Tây Nguyên, từ biển và đảo đang mất dần, ngư dân bỏ mạng trên biển và tuyệt vọng trên bờ, cho đến những dự án nguy nga giả tạo xây lên để tạo ra ngân khoản rút rỉa mồ hôi nước mắt nhân dân, những cuộc cưỡng chiếm đất đai của nông dân như bọn thổ phỉ chiếm đóng – chuyện mất an ninh mạng của các phi cảng Việt Nam lại gây chấn động như vậy?

Người dân Việt Nam bị ru ngủ trong một thông điệp mơ hồ là hãy chỉ nên lo cho bản thân mình, lâu nay đã trở thành những vùng quần cư ích kỷ và hẹp hòi, nên rồi chỉ biết nẹp mình trong chén cơm và manh áo. Họ quên cả đồng bào, quên cả tổ quốc, quên cả số phận tương lai của mình. Sự xót thương không còn nhưng lại liều lĩnh tội nghiệp như những hành khách theo lệnh ra khơi mà không bao giờ được chu cấp một chiếc phao cứu sinh. Những ngày cá chết, ngư dân tuyệt mạng thì nhiều người Việt nghe chừng đâu đó rất xa xôi. Bùn đỏ tràn miền Thượng thì nghe như bản tin quốc tế thoáng qua với họ. Chỉ đến khi sinh mạng của từng người bắt đầu bị đe dọa thì mới xuất hiện sự hoảng sợ và ý thức. Nhất là đối với từng con người đang chăm chút cho số tiền để dành, cho sự bình yên phi chính trị… chợt bừng tỉnh rằng mọi thứ là vô nghĩa trước một tình cảnh quá hoang tàn.

Có ý kiến hùng tráng cho rằng dân tộc Việt Nam đang bật lên đoàn kết sự kiện hoảng hốt này. Đó là một loại ngụy biện đáng thương. Sẽ không có chứng cứ nào về loại đoàn kết từ sự rúm ró sợ hãi và mơ hồ về tương lai của mình như vậy. Những con cừu chỉ còn đứng tụm vào với nhau trong niềm đau đớn bất lực trước những con sói bất kỳ giờ phút nào cũng có thể xông vào trang trại, trong khi các chủ trại chỉ biết chè chén mỗi ngày và ngủ mê với cái nhìn tin yêu, rằng bọn chó sói có thể trở thành chó chăn cừu.

Những con cừu ấy, vốn sống theo tiếng gậy chăn dắt, mang niềm tin rằng chúng cứ ăn no, dâng hiến đời mình cho chủ trại là trọn phận. Sống ngu ngơ và chết lặng im.

Từ vụ tấn công ngày 29/7/2016, hãy nghĩ đến những ngày về sau. Đáp trả lại một câu, mà một nhân viên hải quan Việt Nam nào đó ghi trên hộ chiếu có đường lưỡi bò, Bắc Kinh đã gửi đến một thông điệp đầy tính đe dọa không đơn giản, rằng họ đang ở khắp mọi nơi.

Mà không phải chỉ riêng hôm nay, các vụ tấn công nằm sâu trong các tin tức bị ỉm đi, bị che giấu như chuyện tầm phào, từ truyền thanh ở Đà Nẵng, Huế bị chiếm sóng, tia laser tấn công vào các phòng lái máy bay ở phi trường, kể cả những lần bị mất sóng kiểm soát không lưu khiến đường bay hỗn loạn, các sự cố mất điện bất thường ở sân bay…  nhân dân bị đối xử như trẻ dại, không nên bàn đến, không cần biết đến – mặc dù những người có trách nhiệm thì ngày càng giới thiệu rõ sự bất lực của mình.

Nhưng chính nhân dân cũng bất lực. Họ nhận ra cái chết của mình mỗi ngày, nhận ra nỗi khốn khổ của quê hương này mỗi ngày bên cạnh các tuyên bố thề trung thành với tình hữu nghị bất chấp. Vận mệnh dân tộc đang bị nhấn chìm trong biển hữu nghị ấy – bao gồm lời gào thét của các quan chức cấp cao khi một mực đòi chấp nhận cho Trung Cộng nắm giữ các dự án quan yếu của đất nước, thậm chí nhượng bộ các yêu sách của Trung Quốc liên quan đến an ninh quốc gia. “Các người đã làm được gì cho đất nước chưa?” – dĩ nhiên là chưa, vì với mọi sắp đặt tàn độc đó, người Việt chỉ còn rơi nước mắt nhìn tổ quốc mình trong tay những kẻ thỏa hiệp và bọn phản bội.

Giờ thi không ai còn hồ nghi nữa, rằng Trung Cộng đã có một bước đi thâm hiểm từ rất lâu, và chỉ đợi thời cơ để chứng minh khả năng đè bẹp Việt Nam. Đừng trút mọi oán giận lên kẻ thù – vì  đó là một kẻ thù đã được nhận biết rõ từ lâu – hãy oán giận những suy nghĩ kết thân với kẻ thù, tay bắt mặt mừng, thề thốt và rước kẻ thù vào nhà.  Nếu không có những kẻ đó, hàng trăm cây số biên giới Việt Nam không mất cùng Thác Bản Giốc, biển Việt Nam không nguy hiểm chập chờn từng ngày, Tây nguyên không suy kiệt và Formosa Hà Tĩnh không thể hủy diệt môi trường và con người Việt Nam.

Và vì sao, những người anh chị em Việt Nam xuống đường kêu gọi chống lại âm mưu xâm lược của Bắc Kinh luôn bị đánh đập, giam cầm?

Trong một bài thơ của Bùi Chí Vinh, ông có viết rằng:

Mãi quốc cầu vinh tất quả báo nhãn tiền
Chào một ngày soi rõ mặt anh em!

Trong bất lực, người ta chỉ còn biết nghĩ đến quả báo, nhưng một cách tự an ủi mình, và mong manh hy vọng kẻ ác có thể tỉnh giác để trở lại làm người. Nhưng với hiện thực hôm nay, mọi thứ sẽ như một luồng ánh sáng soi rọi đến từng trái tim con người Việt. Thức tỉnh từng con mắt đang mở mà như vẫn ngủ mê. Hãy biết qúy trọng từng cơ hội đi qua sợ hãi – chào một ngày mới, không phải để đoàn kết mộng mị – mà dựa vào đó để soi rõ mặt các loại anh em, bao gồm loại anh em đang phản bội lại máu thịt và tương lai dân tộc.

Formosa: Cùng nhau lợi dụng lỗ hổng pháp luật

Formosa: Cùng nhau lợi dụng lỗ hổng pháp luật

Nam Nguyên, phóng viên RFA

000_CL8R5-622.jpg

Tại cuộc họp báo công bố nguyên nhân gây ra tình trạng cá chết hàng loạt ở 4 tỉnh miền Trung chiều 30/6/2016 ở Hà Nội, chính phủ Việt Nam cũng cho chiếu một đoạn video với lời phát biểu nhận lỗi của ông Trần Nguyên Thành, chủ tịch hội đồng quản trị công ty gan thép Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh.

AFP

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Báo cáo Quốc hội về thảm họa môi trường 4 tỉnh ven biển miền Trung, Chính phủ thừa nhận có sự lợi dụng lỗ hổng pháp luật về đầu tư cũng như xây dựng và môi trường trong dự án Formosa. Bên cạnh đó Chính phủ cũng giảm số lượng người bị ảnh hưởng trực tiếp vì thảm họa Formosa.

Làm gì để phục hồi niềm tin của công chúng?

Thực hiện yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bản báo cáo của Chính phủ về thảm họa môi trường ven biển miền Trung do Formosa gây ra đã tới tay các đại biểu Quốc hội hôm 26/7 vừa qua. Theo đó, Chính phủ nhìn nhận sự cố môi trường đã làm giảm lòng tin của người dân với Nhà nước. Trong bản báo cáo dài 23 trang do Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường Trần Hồng Hà ký tên và được phổ biến trên mạng, Chính phủ nhìn nhận:“Người dân nghi vấn về sự đúng đắn, đầy đủ của quá trình thẩm định, phê duyệt các thủ tục đầu tư, xây dựng, vận hành nhà máy ở Hà Tĩnh, giảm lòng tin vào khả năng của các cơ quan trong việc ứng phó với các tình huống khẩn cấp về môi trường.”

Chuyện bắt buộc đầu tiên phải là pháp luật và tôi đề cao chuyện đó, nếu không dùng pháp luật thì không một biện pháp nào có thể lấy lại niềm tin được.
-LS Lê Văn Luân

Trả lời chúng tôi vào tối 28/7, đáp câu hỏi qua thảm họa Formosa Nhà nước Việt Nam có thể làm gì để phục hồi niềm tin của công chúng, Luật sư nhân quyền Lê Văn Luân từ Hà Nội phát biểu:

“Chuyện để mà lấy lại niềm tin thì chỉ có pháp luật bởi vì một xã hội được duy trì vào thượng tôn pháp luật, mà đây chính là mục tiêu của bất kỳ nhà nước nào kể cả nhà nước Việt Nam cũng phải thượng tôn pháp luật, thì đương nhiên phải sử dụng pháp luật để điều tiết xã hội, điều chỉnh xã hội và không nương nhẹ với bất kỳ ai đặc biệt là quan chức. Bởi vì quan chức mới là người có cơ hội, có quyền lực, có khả năng để tham nhũng, để lạm dụng những kẽ hở, hoặc là chính Đảng Cộng Sản làm những việc gọi là gây hậu quả nghiêm trọng, chứ người dân thì không có. Cho nên chuyện bắt buộc đầu tiên phải là pháp luật và tôi đề cao chuyện đó, nếu không dùng pháp luật thì không một biện pháp nào có thể lấy lại niềm tin được.”

Trong bản báo cáo gởi các đại biểu Quốc hội, Chính phủ cho biết thảm họa môi trường 4 tỉnh ven biển khiến 17.682 tàu thuyền khai thác hải sản với khoảng 41.000 lao động trực tiếp và hơn 176.000 người phụ thuộc bị ảnh hưởng do sự cố môi trường gây ra. Sản lượng khai thác ven bờ và vùng lộng tức khu vực sát bờ bị thiệt hại khoảng 1.600 tấn mỗi tháng.

Như vậy bản báo cáo chính thức này đã giảm bớt khoảng gần 60 ngàn người cần được trợ cấp lương thực và tài chính cũng như chuyển nghề. Thời gian qua báo chí nhà nước đồng loạt đưa tin số lao động trực tiếp bị ảnh hưởng là hơn 100.000 người và hơn 176.000 người phụ thuộc.

Trong báo cáo, Chính phủ nhìn nhận về tình trạng bất an xã hội, nhân dân lo lắng về việc mất sinh kế, thất nghiệp, nợ nần, phá sản do không tiêu thụ được cá và sản phẩm từ hải sản.

image006-620.jpg

Giáo dân thuộc giáo xứ Cồn Sẻ biểu tình phản đối Formosa Hà Tĩnh hôm 7/7/2016.

Chúng tôi xin nhắc lại đã xảy ra cuộc biểu tình bị đàn áp vào ngày 7/7/2016 vừa qua của hàng ngàn giáo dân Cồn Sẻ Quảng bình, một địa phương hoàn toàn sống nhờ nghề cá. Lúc đó, Linh mục Phê Rô Hoàng Anh Ngợi, Chánh xứ Cồn Sẻ đã nói với Đài RFA:

“Chuyện cá chết, từ tháng tư đến giờ không đi biển được. Thêm nữa một số bè cá trên sông trong 4 ngày này bị chết. Những con nào không chết bây giờ đem đi các chợ bán không ai mua. Về nhà vợ chồng phải ôm nhau khóc vì lỗ 100 triệu, 70-80 triệu. Ở một miền quê mà lỗ 100 triệu, 70-80 triệu- một khoản tiền rất lớn. Có khi họ làm cả đời cũng không được khoản tiền như thế. Mà ở đây cả hằng trăm bè cá. Bức xúc quá khứ, bức xúc hiện tại chồng nhau. Công bố nói Formosa đền 500 triệu đô. Họ nghĩ đền 500 triệu đô thì làm sao đánh đổi được cuộc sống của họ, chưa nói đến 4 tỉnh miền Trung. Lấy gì cho tương lai đây.”

Có cần Formosa đến 70 năm không?

Được biết, ngày 29/7/2016 trong phiên thảo luận tại Quốc hội về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 2016, nhiều đại biểu đã tập trung vào vấn đề giải quyết thảm họa môi trường ven biển, điều mà đại biểu Trần Công Thuật, Phó bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình gọi là quả bom Formosa.

Thời báo kinh tế Saigon Online dẫn lời đại biểu Trần Công Thuật nói nguyên văn: “Khi nào bà con yên tâm ăn cá và hải sản, khi nào môi trường biển an toàn? Đúng là chúng ta vừa cần tôm cá, vừa cần thép, nhưng có cần Formosa đến 70 năm không?”

Việc đánh đổi tăng trưởng với môi trường, thì thực sự các chuyên gia trong nước cũng đã nhắc đến từ lâu, cảnh báo với họ từ lâu. Rất đáng tiếc, bởi vì không phải một chế độ dân chủ nên người ta phớt lờ những ý kiến đó của người dân…
-TS Nguyễn Quang A

Ông Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình Trần Công Thuật còn công khai một thảm trạng của tỉnh nhà, đó là trong 4 tháng qua kinh tế của Quảng Bình điêu đứng, lòng dân không yên. Quả bom Formosa, theo lời ông Trần Công Thuật, đã kéo lùi sự phát triển của Quảng Bình, kể cả về kinh tế, xã hội, an ninh , trật tự mất ổn định và làm giảm lòng tin của nhân dân.

Theo tường thuật của SaigonTimes Online, Người đại diện của Quảng Bình đã kêu gọi Chính phủ làm rõ trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân liên quan, đồng thời nhanh chóng giải quyết những khó khăn của người dân về việc làm, về thu nhập, ổn định đời sống lâu dài một cách căn cơ để nhân dân yên tâm.

Tại phiên họp Quốc hội chiều 29/7/2016, ông Trần Hồng Hà Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường cho biết thêm thông tin về số tiền 500 triệu USD mà Formosa chấp thuận bồi thường. Theo đó, tính đến ngày 28/7, Formosa đã chuyển một nửa số tiền này tức 250 triệu USD vào một tài khoản tạm giữ. Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết tiền sẽ được chuyển cho các tỉnh, nhưng các địa phương chịu trách nhiệm về việc phân phối. Phần 250 triệu USD còn lại Formosa hứa chuyển vào ngày 28/8 sắp tới.

Việt Nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo toàn diện đã trải qua một giai đoạn phát triển kinh tế bằng mọi giá, bất chấp những cảnh báo về hiểm họa môi trường mà giới trí thức, học giả đã kiến nghị. Dự án Formosa Vũng Áng, cũng từng được cảnh báo trong mấy năm liền không những về ô nhiễm môi trường biển, mà quan trọng hơn nữa là vấn đề an ninh quốc phòng. Tuy vậy những phản biện về dự án Vũng Áng cũng như bauxite Tây Nguyên, đã không được Đảng và Nhà nước lắng nghe.

Điều này đã được TS Nguyễn Quang A, nhà hoạt động dân quyền ở Hà Nội nhận xét:

“Việc đánh đổi tăng trưởng với môi trường, thì thực sự các chuyên gia trong nước cũng đã nhắc đến từ lâu, cảnh báo với họ từ lâu, ít nhất từ đợt lấy kiến nghị phản đối bauxite Tây Nguyên và liên tục sau đó đã có rất nhiều tiếng nói. Rất đáng tiếc, bởi vì không phải một chế độ dân chủ nên người ta phớt lờ những ý kiến đó của người dân…”

Phải đợi tới khi một thảm họa thực sự xảy ra cho 4 tỉnh ven biền Bắc Trung Bộ, Đảng và Nhà nước mới như được thức tỉnh. Trong báo cáo gởi đại biểu Quốc hội ngày 26/7/2016, Chính phủ Việt Nam nói rằng, qua sự cố Formosa, Chính phủ nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn về những thách thức và vấn đề môi trường đặt ra trong chính sách phát triển hiện nay.

Việt Nam: Truyền thông nhà nước không còn độc quyền ‘múa gậy vườn hoang’

Việt Nam: Truyền thông nhà nước không còn độc quyền ‘múa gậy vườn hoang’

Nguoi-viet.com 

A vendor sell newspapers in downtown Hanoi on May 13, 2008. The two journalists who led denunciation of a major corruption scandal in the communist country have been arrested on May 12, 2008 for "abuse of power". Nguyen Van Hai and Nguyen Viet Chien, respectively journalists of Tuoi Tre and Thanh Nien newspapers. The dailies were among the most active media covering the scandal when it broke two years ago. AFP PHOTO/HOANG DINH Nam (Photo credit should read HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Trước sự lớn mạnh của mạng xã hội, những tờ báo do đảng trực tiếp chỉ huy nay không còn mấy tờ được độc giả quan tâm. (Hình: Getty Images)

Điếu Cày/Người Việt

Thế giới thay đổi, sự xuất hiện và phát triển nhanh của mạng xã hội, công nghệ thông tin, blog, Facebook tại Việt Nam khiến truyền thông nhà nước không thể “múa gậy vườn hoang.” Đó là thực tế của những “trận đấu truyền thông Việt” trong vài năm qua.

Một vài ví dụ

Ngày 14 tháng Năm, 2016, Báo Tuổi Trẻ có bài viết, rằng Công An Thành Phố Hồ Chí Minh khẳng định “Việt Tân tổ chức gây rối,” đồng thời nêu đích danh công dân Huỳnh Thành Phát cùng địa chỉ cư trú với nhân thân “có hai tiền án.”

Ngay sau đó, Huỳnh Thành Phát dùng điện thoại gọi trực tiếp đến máy của phóng viên viết bài, chất vấn thông tin tiền án. Câu hỏi anh Phát đặt ra: Thông tin tiền án lấy từ đâu? Và cuộc gọi này được ghi lại bằng video.

Vài giờ sau khi đăng tải đoạn video trên Facebook Huỳnh Thành Phát, cuộc đối thoại giữa Huỳnh Thành Phát và phóng viên báo Tuổi Trẻ được chia sẻ nhanh chóng trên internet. Trong video này, phóng viên Viễn Sự (báo Tuổi Trẻ) cho biết bài viết do Công An Thành Phố gửi đăng và báo Tuổi Trẻ chưa hề kiểm chứng thông tin về Huỳnh Thành Phát. Báo Tuổi Trẻ sau đó đã phải gỡ tên Huỳnh Thành Phát ra khỏi bài viết, và tiếp theo gỡ luôn bài viết khỏi trang web của mình.

Một trường hợp khác. Trong bài phóng sự tối 14 tháng Năm, 2016, đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh (HTV2) đưa tin về một nhân vật khác, là chị Hoàng Mỹ Uyên (Facebook Ubee Crazee), liên quan đến việc Hoàng Mỹ Uyên và con gái đi biểu tình tại Sài Gòn.

Trong cuộc biểu tình vì môi trường sáng ngày 8 tháng Năm, Hoàng Mỹ Uyên và con gái bị công an và Thanh Niên Xung Phong đánh đập gây thương tích.

Sau khi đoạn video được HTV2 loan tải, Hoàng Mỹ Uyên lập tức phản ứng bằng bài viết “HTV2 Dựa Vào Đâu Để Nói Tôi Là “… mang con theo để phục vụ mục đích chính trị?”

Bài viết của Hoàng Mỹ Uyên ngay lập tức gây sốt trên mạng, được cộng đồng mạng chia sẻ rộng rãi.

Các ví dụ trên cho thấy, hai cơ quan truyền thông lớn hàng đầu ở Sài Gòn đã theo thông tin của công an, không kiểm chứng nguồn tin, đăng tải thông tin có tính vu khống và bôi nhọ danh dự công dân.

Đó là chuyện miền Nam. Miền Bắc cũng xảy ra tương tự.

Cuối tháng Năm, 2016, MC Phan Anh, người dẫn chương trình trên truyền hình ở Hà Nội, bị đấu tố trong buổi tọa đàm bởi một nhóm người, được dẫn dắt bởi bà Tạ Bích Loan. Cuộc đấu tố kéo dài 2 giờ, truy vấn Phan Anh “mục đích nào, động cơ nào…” trong việc chia sẻ thông tin về vụ cá chết mà anh đưa lên facebook của mình.

Khi VTV đăng tải video đấu tố Phan Anh trên Youtube, một cơn bão truyền thông đã phẫn nộ nhắm vào VTV, chỉ trích cuộc đấu tố mang hơi hướng của thời “Cải Cách Ruộng Đất.” Nhóm đấu tố được ví như “Hồng Vệ Binh” thời Cách Mạng Văn Hóa Trung Cộng. Trong vòng vài giờ đồng hồ, VTV đã phải gỡ toàn bộ video đấu tố ra khỏi Youtube.

Một âm mưu được dàn dựng, cắt ghép, với bầy đàn đấu tố nhằm hạ uy tín MC Phan Anh, khi đưa ra công khai trên internet đã hoàn toàn thất bại. Không những không hạ được uy tín MC Phan Anh, mà thông điệp của người này còn lan tỏa khắp nơi: “Đừng im lặng!”

Trong bài viết “Chia Sẻ Trên Mạng Để Làm Gì?” Nhạc sĩ Tuấn Khanh nhận định: “Từ câu chuyện của em Huỳnh Thành Phát đến anh Phan Anh, cho thấy tư duy và hành động của phía một phía vẫn không đổi, nhưng nhận thức và ý thức của phía nhân dân đã vùn vụt đổi thay. Chuyện của em Huỳnh Thành Phát chỉ có hàng trăm lượt share, hàng ngàn like nhưng đến chuyện của Phan Anh đã là hàng ngàn lượt share, hàng chục ngàn like. Vấn đề không phải là Phan Anh nổi tiếng hơn, mà vấn đề ở chỗ cấp số nhân của thái độ đó, cùng một ý nghĩa là phẫn nộ cho sự thật…”

Chống lại hệ thống truyền thông độc tài

Đây không phải là lần đầu tiên các tờ báo và đài truyền hình nằm trong tay Đảng Cộng Sản bị các Blogger phản đối và công khai thách đấu.

Đầu năm 2007 (thời còn Yahoo 360), báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh (CATP) có bài viết “Vụ án hy hữu 160 nghìn đồng” với nội dung bôi nhọ tôi (Blogger Điếu Cày). Ngay lập tức, tôi đã đến báo CATP yêu cầu phải có bài đính chính và xin lỗi công khai. Mặc dù đã được cung cấp thông tin, bằng chứng đầy đủ, tờ báo này vẫn ngoan cố không chịu đính chính.

Cùng với các bạn bè trong nhóm Blogger, tôi công bố thông tin phản biện và yêu cầu báo CATP phải đính chính và xin lỗi. Tất cả những nội dung liên quan đến vụ việc đều được hàng chục Blogger chia sẻ và nhân rộng trên các trang Blog, tạo thành một mạng lưới thông tin với hàng trăm ngàn lượt truy cập cả trong và ngoài nước.

Trận đấu giữa Blog và báo CATP đang diễn ra, chưa phân thắng bại.

Lần thứ 5, khi tôi đến yêu cầu đính chính thì những người có trách nhiệm giải quyết ở báo CATP yêu cầu tôi chấm dứt đưa tin trên internet!

Chính cái yêu cầu quái gở này của báo CATP đã gây phẫn nộ trong cộng đồng mạng. Nhiều comment, bài viết bày tỏ quan tâm đến thân phận người dân trong xã hội độc tài truyền thông. Những vụ hàng chục tờ báo xúm vào đánh hội đồng Hòa Thượng Quảng Độ, Linh Mục Nguyễn Văn Lý trong khi họ còn đang bị giam cầm, không có phương tiện phản biện, được nhắc lại như những bằng chứng về sự khốn nạn của một hệ thống truyền thông trong tay Đảng.

Thử hỏi, truyền thông do nhà nước chỉ đạo, viết nội dung sai sự thật, xúc phạm danh dự công dân, không chịu đính chính, xin lỗi, thì người dân biết lấy phương tiện nào để tự bào chữa, bảo vệ danh dự mình?

May thay, công nghệ thông tin ra đời, cung cấp cho người dân công cụ tuyệt vời để chia sẻ, để cất lên tiếng nói của mình, để liên kết với nhau tạo ra sức mạnh chống lại hệ thống truyền thông độc tài. Đó là Blog và Facebook!

Trong khi tôi và các bạn Blogger của mình đang liên thủ đấu với báo CATP thì đài BBC đã kịp thời  đăng bài “Blog Đấu Với Báo,” dẫn cả hai đường link của Blog Điếu Cày và báo CATP để bạn đọc phân biệt đâu là sự thật! Với tầm vóc và lượng truy cập của BBC, tương quan lực lượng đã thay đổi. Báo CATP đã phải gỡ bài khỏi website như một sự đầu hàng!

Đây thực sự là hiện tượng trong lịch sử truyền thông Việt. Bởi lần đầu tiên một người dân dùng một trang Blog nhỏ bé của mình để “đấu” với một tờ báo của nhà cầm quyền, lại ở trong một xã hội độc tài về truyền thông, và đã thắng.

Tôi cùng bạn bè nhận ra rằng, một trang Blog, dù nhỏ bé nhưng nếu liên kết với nhiều trang Blog khác, sẽ tạo sức mạnh, nhất là khi nó được các tờ báo lớn trên thế giới tiếp sức.

Hiện tượng này khích lệ các blogger liên kết thành nhóm, công khai thực hiện quyền tự do ngôn luận mạnh mẽ hơn. Câu Lạc Bộ Nhà Báo Tự Do được thành lập tháng Chín, 2007, phát động phong trào Dân Báo tại Việt Nam từ đầu năm 2008, trong tinh thần đó.

Sau sự lớn mạnh của các blog liên kết, cái kết của các trận đấu truyền thông đến nhanh hơn, chỉ trong vòng vài giờ đồng hồ!

Từ năm 2007 đến nay, số lượng người dùng internet tăng gần gấp đôi, số lượng người sử dụng mạng xã hội tăng gấp 5 lần. Các blogger liên kết, giúp thành hình những nhóm hoạt động nhanh nhạy, chuyên nghiệp, lượng truy cập và chia sẻ chỉ trong một thời gian ngắn đã đạt những kỷ lục mà các tờ báo nhà nước không bao giờ có được!

Rõ ràng, mạng xã hội đóng vai trò rất lớn trong tiến trình dân chủ và thể hiện quyền biểu đạt; đặc biệt, góp phần thức tỉnh nhiều người, khi mà báo chí “chính thống” vẫn bị quản lý, định hướng và giúp bưng bít thông tin.

Thế giới thay đổi, xã hội thông tin ở Việt Nam đang thay đổi, không còn là nơi cho các phương tiện truyền thông trong tay Đảng “múa gậy vườn hoang” nữa.

Nếu không biết hành xử trong “thế giới phẳng,” các tờ báo Đảng sẽ còn nhận được nhiều quả đắng. Và điều quan trọng nhất đối với một tờ báo: Mất niềm tin của độc giả là mất tất cả. Bài học này không chỉ cho truyền thông, mà còn cho cả nhà cầm quyền Cộng Sản!

Quan chức Việt khó xóa vết chàm Formosa

Quan chức Việt khó xóa vết chàm Formosa

Nam Nguyên, phóng viên RFA

vo-kim-cu-622.jpg

Ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư, nguyên Chủ tịch Hà Tĩnh, người đưa Dự án Formosa vào Vũng Áng.

File photo

03:37/10:58

Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Trận bão số 1 của năm 2016 thổi vào miền Bắc gây nhiều thiệt hại, cũng là lúc dư luận Việt Nam đang có một trận bão khác với mắt bão là ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư, nguyên Chủ tịch Hà Tĩnh, người đưa Dự án Formosa vào Vũng Áng.

Trách nhiệm của toàn hệ thống

Trong những ngày qua ông Võ Kim Cự đã bị truyền thông báo chí nhà nước vùi dập tàn tệ, dù cha đẻ của dự án Formosa rõ ràng không thể là người đơn thương độc mã trao cho Formosa 3.000 ha đất và mặt nước ở Vũng Áng trong thời hạn 70 năm, để thành lập Khu liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương với vốn đầu tư 10 tỷ USD.

Báo Tuồi Trẻ Online ngày 27/7 dẫn lời ông Nguyễn Ngọc Phương, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Bình nói rằng, vụ Formosa, trách nhiệm không chỉ cá nhân ông Võ Kim Cự, ông Cự không phải là người quyết định và một mình ông cũng không thể quyết định cho cả tổ chức, hệ thống, các bộ ngành.

Trước đó vào sáng 25/7 Đại biểu Quốc hội Trương Trọng Nghĩa đại diện cho cử tri Saigon, từ hành lang Quốc hội đã đề nghị Ủy ban kiểm tra Trung ương xem xét trách nhiệm cụ thể của ông Võ Kim Cự vì những sai phạm ở Formosa. Theo VTC News, LS Trương Trọng Nghĩa nói rằng cơ quan nắm cây roi kỷ luật của Đảng có thể mở điều tra ông Võ Kim Cự giống như cách làm với ông Trịnh Xuân Thanh nguyên Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang. Theo Đại biểu Trương Trọng Nghĩa và VTC News, sự vào cuộc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng không nên chậm trễ vì có thể gây ra những dư luận bất lợi. Cần làm rõ ông Võ Kim Cự có sai phạm hay không, mức độ sai phạm như thế nào và có ảnh hưởng đến các cương vị hiện tại của ông Võ Kim Cự hay không.

Đây là về công tác quản lý nhà nước, những cán bộ nào liên quan đến quản lý lãnh vực này và quản lý trực tiếp Formosa thì chắc chắn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, còn Formosa là chủ thể trực tiếp thôi.
-LS Lê Văn Luân

 Ông Võ Kim Cự thôi chức Bí thư, chủ tịch Hà Tĩnh trước thềm Đại hội Đảng 12. Ngày 16/10/2015 Bộ Chính trị đã điều động ông Cự về làm Bí thư Đảng đoàn Liên minh hợp tác xã Việt Nam, sau đó ông Cự tiếp tục trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa 14 và được đưa vào Ủy ban Kinh tế Quốc hội.

Như vậy ông Võ Kim Cự vẫn là lãnh đạo cao nhất ở Hà Tĩnh cho tới giữa tháng 10/2015, ông không thể không biết việc Formosa thiết lập đường ống xả thải ngầm dài 1,5 km dưới đáy biển, cũng như việc Formosa chuẩn bị sản xuất thử. Những sự kiện này giải thích qui kết của đại biểu Nguyễn Ngọc Phương, Phó trưởng đoàn đại biểu Quảng Bình, khi ông cho rằng, ông Võ Kim Cự không thể chối bỏ trách nhiệm cá nhân của mình.

Trao đổi với chúng tôi vào tối ngày 28/7/2016,  Luật sư Lê Văn Luân thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội nói rằng, cần phân biệt hành vi Formosa xả thải chất độc chưa qua xử lý qua đường ống đặt ngầm không thể kiểm soát và trách nhiệm của ông Võ Kim Cự, người ký giấy phép cho Formosa. LS Lê Văn Luân tiếp lời:

“… Không thể qui được cho ông Võ Kim Cự về hành vi nếu có xả thải độc. Đối với ông Cự là việc thẩm quyền cấp phép giấy đầu tư thôi, về Luật Đầu tư thôi. Còn việc xúc xả là hành vi trực tiếp, truy tố, khởi tố người trực tiếp gây ra những hậu quả nghiêm trọng đó. Và thứ hai là truy tố cả người có liên quan, ở đây là đầu tư và giám sát quản lý vì anh chịu trách nhiệm nên đã xảy ra việc đó. Đây là về công tác quản lý nhà nước, những cán bộ nào liên quan đến quản lý lãnh vực này và quản lý trực tiếp Formosa thì chắc chắn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, còn Formosa là chủ thể trực tiếp thôi.”

Báo Người Lao Động, bản tin trên mạng ngày 26/7 dẫn lời LS Trương Trọng Nghĩa, đoàn đại biểu Quốc hội TP.HCM nói rằng, hiện nay vẫn chưa có quy trình nào được khởi động xem xét trách nhiệm của ông Cự liên quan đến Formosa Hà Tĩnh.  Về trách nhiệm của các bộ ngành có liên quan trong vụ Formosa, LS Trương Trọng Nghĩa dẫn lời ông Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam báo cáo kiến nghị của cử tri và nhân dân với Quốc hội tân nhiệm. Theo đó, cần phải xem xét trách nhiệm của các tổ chức cá nhân có liên quan trong việc cấp phép, quản lý và giám sát Formosa vừa qua.

000_9Y4WA-400.jpg

Một phần nhà máy thép Formosa của Đài Loan tại huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh hôm 4/12/2015. AFP PHOTO.

Như vậy về phía Chính quyền, ngoài ông Võ Kim Cự là người vận động cho dự án, nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nguyên Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải còn có 14 Bộ trưởng và thuộc cấp cần phải xem xét trách nhiệm, khi cấp tốc phê duyệt để chỉ trong vòng 6 tháng, mà Formosa đã nhận được giấy phép đầu tư 70 năm ngược qui trình. Đó là nói về mặt chính quyền, về mặt Đảng sẽ dính líu tới nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, đương kim Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và tất cả các Ủy viên Bộ Chính Trị khóa 11.

Nhận định về vấn đề những ai phải chịu trách nhiệm và ai sẽ là người chịu trách nhiệm cao nhất, khi chấp thuận cho Formosa đầu tư vào Vũng Áng với những ưu đãi ngoài sức tưởng tượng, TS Nguyễn Quang A nhà hoạt động dân quyền nguyên Chủ tịch Viện Nghiên cứu Phát triển IDS từ Hà Nội phát biểu với RFA:

“Toàn bộ việc cho Formosa vào…quá trình hoạt động ấy hoàn toàn là trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam và người đứng đầu là ông Nguyễn Phú Trọng …Ông ấy thực sự phải là một người chịu trách nhiệm cao nhất về cái thảm họa môi trường này, bất luận kể cả việc ông Cự ký sai lẫn ông Nguyễn Tấn Dũng hay ông Hoàng Trung Hải vi phạm pháp luật khi đã làm ngược với pháp luật. Tất cả các quan chức này đều là cán bộ cao cấp của đảng Cộng sản Việt Nam vi phạm pháp luật như thế thì người chịu trách nhiệm chính là ông đảng trưởng Nguyễn Phú Trọng… Nếu ông ấy tỉnh ra… lệnh là phải xử thì cũng giống hệt như ông ấy chỉ thị xử ông Thanh ở Hậu Giang, ông Cự cũng thế, nếu ông ấy quyết thì sẽ xử… khả năng này là ít…”

Theo dõi sát báo chí Việt Nam, có thể thấy rằng nhờ Quốc hội tân nhiệm khởi sự các phiên họp, nên báo chí mới có dịp cạy miệng ông Võ Kim Cự, sau khi Chủ tịch Quốc hội lên tiếng chê trách thái độ trốn chạy báo chí của đương sự. Cũng khá ngạc nhiên khi báo chí nhà nước được kiểm soát chặt bởi Bộ Thông tin Truyền thông và Ban Tuyên giáo Trung ương, thời gian trước nhiều thông tin hậu thảm họa cá chết bị gỡ bỏ, nhưng nay lại hợp đồng tác chiến tấn công trực diện ông Võ Kim Cự và báo chí cũng tha hồ để các vị đại biểu Quốc hội thẳng thừng về sự dính líu của toàn hệ thống Chính trị, trong việc cấp phép cho Formosa vào Vũng Áng.

Ông Cự có thể ngồi tù 20 năm

Giả dụ ông Võ Kim Cự bị làm dê tế thần thì ông và các cấp lãnh đạo có lien quan có thể bị truy tố về tội gì. LS Lê Văn Luân trả lời câu hỏi này:

Ông Cự đã làm ngược, nói qui trình thì quan trọng nhất không phải là qui trinh nào mà vấn đề trình tự thủ tục theo luật định. Nếu ông ấy làm sai, sai ở đây là đảo ngược qui trình 50 năm và vượt quá thẩm quyền, ông ấy phê duyệt 70 năm trước khi chính phủ chấp thuận là hoàn toàn sai.
-LS Lê Văn Luân
 

“Trách nhiệm đến đâu xử lý đến đó, theo thông tin cung cấp thì ông Cự đã làm ngược, nói qui trình thì quan trọng nhất không phải là qui trinh nào mà vấn đề trình tự thủ tục theo luật định. Nếu ông ấy làm sai, sai ở đây là đảo ngược qui trình 50 năm và vượt quá thẩm quyền, ông ấy phê duyệt 70 năm trước khi chính phủ chấp thuận là hoàn toàn sai. Sau đó được chấp thuận khi xin ngược lại thì đó hoàn toàn là một chuyện khác. Bây giờ gây ra hậu quả thì đó là hậu quả của hành vi sai. Hành vi hợp thức hóa hoàn toàn khác với việc đúng luật, cái đấy ông Cự phải chịu trách nhiệm. Còn quy trình ở đây là mơ hồ chung chung, quy trình là người ta tự đặt ra. Giới luật sư gọi là trình tự thủ tục theo luật định trong đó vấn đề thẩm quyền rất quan trọng, nếu mà đã sai, sai ở đây có thể hiểu là ngược, hoặc đứt đoạn, không chấp hành đúng thì đều là hành đông vi phạm nghiêm trọng. Tất cả những cái đó đều phải bị xét xử  trước pháp luật về tội cố ý làm trái qui định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.”

Theo Luật hình sự về tội cố ý làm trái qui định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, điều 165 khoản 3 qui định phạm tội gây thiệt hại từ một tỷ đồng trở lên, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. Khoản 4 ghi rõ, người phạm tội còn có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định từ  một năm đến năm năm.

Như vậy ông Võ Kim Cự và các cấp thẩm quyền cao hơn ở Trung Ương bị chi phối bởi điều luật vừa nêu. Bởi vì phần trách nhiệm về thẩm quyền quản lý nhà nước trong vụ Formosa gây thiệt hại tới mức độ không thể tính được thành tiền.

LS Lê Văn Luân tiếp lời:

“Như ông Trần Hồng Hà nói, dự án này không đơn giản là một dự án kinh tế mà liên quan ảnh hưởng cả an ninh quốc phòng. Thế thì chuyện này là vội vàng xảy ra từ thời điểm trước, chính phủ trước, bắt đầu từ năm 2008 thời ông Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó có một loạt dự án khác đưa về chứ không chỉ có Formosa. Cái này là vội vàng mà bây giờ gây ra hậu quả tiền lệ chưa từng có. Đúng là nó ảnh hưởng đến cả an ninh quốc gia.”

Luật sư Lê Văn Luân nói với chúng tôi, qua vụ Formosa để lấy lại niềm tin của nhân dân thì chính quyền Việt Nam phải thượng tôn pháp luật, đây là mục tiêu của bất cứ quốc gia nào kể cả nhà nước Việt Nam. Đương nhiên phải sử dụng pháp luật để điều chỉnh xã hội và không nhân nhượng với bất kỳ ai, đặc biệt là quan chức, bởi vì quan chức mới là người có cơ hội, có quyền lực có khả năng để tham nhũng, để lạm dụng những kẽ hở.

Cho tới ngày 28/7/2016, chính quyền Việt Nam chưa truy tố Formosa ra tòa, cũng chưa có quy trình xem xét trách nhiệm quản lý của ông Võ Kim Cự và các giới chức có lien quan ở Trung uơng cũng như địa phương.

Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại…

 Dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại…

Song Chi

000_APP2000052916857.jpg

Một nhóm 162 người Việt tị nạn từ một chiếc thuyền nhỏ bị chìm gần bờ biển Malaysia. Các chuyến bay của người tị nạn Việt bắt đầu sau khi Sài Gòn sụp đổ vào năm 1975.

 AFP PHOTO

Chỉ trong một ngày, chat với người quen, bạn bè qua facebook, viber… cả 3 câu chuyện đều cùng một chủ đề: ra đi khỏi Việt Nam (VN).

Ra đi vì môi trường sống

Một người quen qua facebook báo tin sắp đến Na Uy, quốc gia nơi tôi đang sinh sống, định cư theo diện hôn nhân. Một người quen trong nghề, thuộc thế hệ đàn em trong giới truyền hình, hỏi ý kiến tôi về việc có nên bỏ tất cả công việc, sự nghiệp ra đi bây giờ theo diện đầu tư kinh doanh ở nước ngoài hay vài năm nữa liệu có còn kịp. Và một chị bạn thân đang tính liều đến mức trước hết là đi Mỹ theo diện du lịch, rồi sang đó tìm đường tính tiếp.

Cả ba đều không phải là những người nghèo hay đang có cuộc sống khó khăn, thất bại ở VN, trái lại, họ có tiền, có công việc, cuộc sống vật chất phải nói là khá thoải mái.

Nhưng họ muốn ra đi trước hết vì môi trường sống ở VN ngày càng tệ khiến con người luôn ở trong cảm giác bất an, lo lắng. Từ thực phẩm không an toàn, cho tới nguồn nước, không khí, biển… nhiều nơi bị ô nhiễm/nhiễm độc nặng nề; đạo đức xã hội xuống cấp, những vụ án cướp, giết, hiếp ngày nào cũng xảy ra với mức độ ngày càng dã man, con người dễ dàng bức hại nhau, lừa lọc nhau, giết nhau chỉ vì một lý do vặt vãnh; chế độ an sinh xã hội không có để bảo đảm cho người dân một sư hỗ trợ khi cần thiết, lúc ốm đau, tai nạn, thương vong; pháp luật không bảo đảm cho con người được xét xử công bằng, công lý được thực thi, những quyền lợi tối thiểu về tự do, dân chủ, nhân quyền không có, không được tôn trọng… Quan trọng hơn, họ ra đi vì không tin rằng chế độ này, nhà nước này sẽ tốt đẹp hơn hoặc sẽ đưa đất nước, dân tộc đến một tương lai sáng sủa – thời gian đảng cộng sản cầm quyền đã quá lâu đủ để chứng minh điều đó.

Đây không phải là lần đầu, ngược lại, không biết bao nhiêu lần, tôi chứng kiến những người quen, bạn bè, họ hàng chuẩn bị rời bỏ VN. Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con thuyền đang đắm!

Thực tế, kể từ sau khi chiến tranh VN kết thúc, người Việt bắt đầu bỏ nước ra đi, và trong suốt 40 năm qua, dù có khi ồ ạt, có khi lặng lẽ, nhưng dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại.

Giai đoạn 1976-1980, chủ yếu là người miền Nam, chủ yếu vì lý do chính trị, tạo nên một trong những cuộc di dân lớn nhất trong lịch sử nhân loại ở thế kỷ XX, rúng động thế giới với những bi kịch thương đau của bao phận người bị chết đuối, bị giết, bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, gia đình tan đàn xẻ nghé… trên hành trình tìm đến tự do. Và hai chữ “thuyền nhân” (boat people) gắn liền với giai đoạn đau thương đó.

Đến khi chính phủ Hoa Kỳ làm việc với nhà nước VN, mở ra những con đường ra đi chính thức theo diện HO, con lai, đoàn tụ gia đình, và các trại tỵ nạn ở các nước Đông Nam Á lần lượt đóng cửa không tiếp nhận người Việt tỵ nạn nữa, thì dòng người ra đi theo con đường vượt biển mới dần dần chấm dứt (trong vài năm gần đây lại có hiện tượng vượt biển sang Úc nhưng thường là bị chính phủ Úc trả về, không chấp thuận cho ở lại).

Nhưng người Việt lại tìm được cho mình những con đường khác. Bây giờ thành phần ra đi đa dạng hơn, ở cả ba miền đất nước, chủ yếu vì lý do kinh tế, nhưng rải rác cũng có những trường hợp ra đi vì lý do chính trị. Người ta đi bằng con đường xuất khẩu lao động, ban đầu là “xuất khẩu lao động” sang các nước XHCN sau đó mở rộng ra nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ từ Đông Âu, Đông Á, Đông Nam Á, Trung Đông, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và Kuwait, cho tới châu Phi… Thực chất là một kiểu buôn người công khai, được nhà nước cho phép.

songchiblog-400.jpg

Cựu Ceo FPT Trương Đình Anh mới đây cũng đưa cả nhà sang Mỹ sinh sống, làm việc. Courtesy of vtc.vn

Cho đến nay thì VN có khoảng trên dưới 600.000 lao động ở nước ngoài, hàng năm đem lại một nguồn ngoại tệ không nhỏ cho VN. Người ta đi bằng con đường hôn nhân, làm việc, đầu tư kinh doanh, du học rồi tìm cách xin việc và ở lại, đi du lịch và trốn ở lại bất hợp pháp trên nước người…

Bài báo “Mỗi năm, gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài”(Vietnam Finance) viết:

“Phần lớn người Việt di cư sang các nước phát triển trên thế giới. Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia di cư ra nước ngoài nhiều nhất khu vực Đông Á – Thái Bình Dương tính đến năm 2013.

Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm 2015 có 2.558.678 người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Như vậy tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài.

… Theo một báo cáo của Cục Lãnh sự – Bộ Ngoại giao Việt Nam, chưa có thời kỳ nào trong lịch sử nhân loại di cư lại diễn ra với quy mô lớn như hiện nay. Quy luật cung – cầu về sức lao động, dịch vụ, chênh lệch về mức sống và thu nhập, các điều kiện về an sinh xã hội… đã thúc đẩy các luồng di cư từ Việt Nam ra nước ngoài. Số lượng người Việt Nam đang lao động, học tập và sinh sống ở nước ngoài hiện đã lên đến con số nhiều triệu người. Các hình thái di cư của công dân Việt Nam ngày càng đa dạng và phức tạp, quy mô di cư ngày càng gia tăng.”

Mọi thành phần trong xã hội

Không chỉ dân thường bỏ nước ra đi, những năm sau này, số lượng người thành đạt, có chức vụ trong xã hội, kể cả quan chức cũng ra đi ngày càng nhiều. Người dân ra đi vì không có niềm tin vào chế độ, vào nhà cầm quyền. Quan chức ra đi để bảo vệ tài sản tham nhũng, ăn cắp được sau bao nhiêu năm. Chất xám, trí tuệ, và tiền bạc, tài sản của dân của nước bị các quan tham và những kẻ lừa đảo mang theo, ồ ạt chảy sang nước khác.

Đó là chưa kể số quan chức vẫn còn ở lại trong nước, vẫn tiếp tục làm việc, hưởng lợi, vơ vét nhưng đã “chân trong chân ngoài”, âm thầm chuẩn bị đường rút cho mình bằng cách cho vợ con hoặc người thân đi trước, mua nhà cửa cơ sở vật chất, làm ăn sẵn hoặc đã mua quốc tịch ở một nước tư bản phát triển.

Câu chuyện bà Nguyễn Thị Nguyệt Hường, tỷ phú bất động sản, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc của VID Group, Chủ tịch hội đồng sáng lập Ngân hàng Maritime Bank vừa bị bác tư cách đại biểu Quốc hội khóa XIV vì bị phát hiện có 2 quốc tịch VN và Malta (chồng bà Hường, ông Trần Anh Tuấn – Chủ tịch Hội đồng MaritimeBank nhiệm kỳ 2012-2016 cũng đã có quốc tịch Malta) chỉ là một ví dụ. Còn bao nhiêu quan chức, doanh nhân thành đạt đã mua quốc tịch nước khác mà không ai biết. Hay câu chuyện cựu Ceo FPT Trương Đình Anh, người đặt nền móng và xây dựng FPT Telecom, FPT Online, mới đây cũng đưa cả nhà sang Mỹ sinh sống, làm việc.

Với những người tài ra đi, là nỗi buồn chảy máu chất xám. Với những quan chức tham nhũng, đại gia lừa đảo ra đi, là nỗi lo số tài sản tiền bạc của nhân dân bị thất thoát không biết làm sao lấy lại.

Dù là dân thường hay quan chức, dù họ ra đi vì bất cứ lý do nào, điều đó chứng tỏ một sự thật chua chát là trong suốt hơn 40 năm qua, tuy thống nhất được quê hương và giành được độc quyền lãnh đạo, đảng cộng sản VN đã thất bại trong việc điều hành quản lý đất nước; thất bại trong việc xây dựng VN trở thành một quốc gia độc lập – tự do – hạnh phúc đúng với câu khẩu hiệu có khắp nơi và trên mọi giấy tờ hành chính, nơi mà người dân cảm thấy gắn bó, muốn cống hiến và muốn sống từ đời này sang đời khác; thất bại trong việc tạo nên niềm tin cho người dân vào năng lực của nhà cầm quyền và tương lai của đất nước dưới sự lãnh đạo của họ.

Điều đó cũng chứng tỏ cuộc “cách mạng tháng Tám 1945” với mục đích lật đổ chế độ phong kiến thực dân, xây dựng chế độ mới XHCN hay cuộc chiến tranh kéo dài hơn 20 năm với danh nghĩa “chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam” đã hoàn toàn thất bại; đồng nghĩa với sự hy sinh xương máu của hàng triệu con người là lãng phí, khi thành quả là một chế độ độc tài, bán nước hại dân, một quốc gia bị tụt hậu về nhiều mặt, bị tàn phá đến cạn kiệt, còn người dân thì phải bỏ nước tha phương.

GIA TÀI

GIA TÀI

 LM Giuse Trần Việt Hùng

 

GIA TAI

 

Người ta kể rằng ở miền rừng núi, dân Thượng có một lối bẫy khỉ rất đơn giản.  Họ làm một cái lồng có nhiều lỗ nhỏ vừa tay con khỉ.  Rồi họ buộc lồng vào một gốc cây và bỏ vào đó ít hạt bắp rang.  Các chú khỉ ngửi mùi bắp thơm thì thò cả hai tay vào bốc.  Lúc đó người bẫy khỉ ngồi xa xa cứ việc tiến lại bắt chú khỉ.  Con khỉ cuống cuồng muốn thoát chạy nhưng không rút tay ra được.  Lý do đơn giản là hai tay còn nắm chặt hai nắm hạt bắp.

Tác giả sách Giảng Viên đã suy gẫm sự đời một cách rất sâu lắng.  Phản ánh một triết lý sống. Thực ra cuộc sống con người rất phức tạp và đa diện.  Chúng ta nên quan sát và suy gẫm rất cẩn thận để tìm một hướng đi thích hợp.  Trước khi chúng ta được mở mắt chào đời, vũ trụ và muôn loài đã có đó.  Khi chúng ta nhắm mắt xuôi tay, muôn sự vẫn cứ tiếp tục hiện hữu.  Cuộc đời của mỗi người xuất hiện đó, rồi biến mất.  Không có gì tồn tại mãi ở trần gian này.  Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không và mọi sự đều hư không (Gv 1:2).  Hư không diễn tả một khía cạnh vô thường của cuộc sống này.  Có nghĩa là mọi sự hiện hữu như gió thoảng mây bay.  Giảng Viên chia sẻ kinh nghiệm sinh hoạt cuộc sống hằng ngày và gẫm suy: Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư không và tai hại lớn lao (Gv 2:21).

Chúng ta không nhìn cuộc sống một cách bi quan hay tiêu cực.  Vì sự sống là một hồng ân. Chuỗi ngày sống là một chuỗi ân sủng nối tiếp.  Sống là hiện hữu.  Mọi sự hiện hữu đều hữu ích.  Sự sống cần được sinh hoa kết trái.  Thể xác con người cần được lớn lên và phát triển mỗi ngày.  Đời sống tâm linh cũng được bồi dưỡng để tiến tới sự hoàn hảo hơn.  Sinh ra là khởi đầu.  Bắt đầu bước vào một cuộc lữ hành trần thế.  Cuộc lữ hành cần có hướng đi và cùng đích.  Trong các loài thụ tạo, sứ mệnh của con người thật cao quí.  Vì con người được tạo dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa.  Thiên Chúa trao ban cho con người có ý chí, lý trí và tự do.  Với những khả năng ưu việt, con người có bổn phận và trách nhiệm xây dựng một xã hội giầu mạnh, thịnh đạt và an bình.  Với khối óc và bàn tay lao động, con người góp phần làm cho thế giới ngày tốt đẹp hơn.

Con người được trao quyền làm chủ trái đất và cai quản mọi loài.  Làm chủ chứ không làm nô lệ cho của cải vật chất.  Của cải trần thế là phương tiện thiết yếu giúp con người đạt tới cứu cánh.  Con người dùng những sản phẩm do mình tạo ra để phục vụ đời sống.  Con người không thể lệ thuộc làm tôi tớ cho của cải vật chất.  Chúng ta không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi tiền của.  Chúa Giêsu nhắc nhở: “Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu” (Lc 12:15). Tất cả vũ trụ đều đang thay đổi, nay còn mai mất.  Của cải không thể bảo đảm kéo dài đời sống hạnh phúc.  Các phương tiện vật chất chỉ giúp cho cuộc sống con người được thanh thản, thoải mái và tiện lợi hơn.  Biết rằng ai cũng cần có tiền bạc của cải để nâng cao mức sống và đáp ứng những nhu cầu cần thiết.

Câu truyện Phúc âm, Chúa Giêsu giúp chúng ta nhận rõ về giá trị về việc tìm kiếm và sử dụng của cải trần đời.  Cần có thái độ chọn lựa đối với vật chất phù vân.  Chúng ta còn có gia sản tinh thần quí báu hơn.  Hãy dùng của cải hay hư nát để mua Nước Trời.  Hãy dùng tiền bạc thế gian để đổi lấy bạn hữu.  Hãy dùng của giả để đổi lấy của thật.  Hãy tráo đổi giá trị trần thế để mua gia sản nước trời.  Đổi tiền giả ra tiền thật.  Đó là dùng tiền bạc hay của cải để bố thí hoặc làm việc bác ái, chúng ta sẽ tích trữ được khó báu trên trời.  Chúa Giêsu đã dậy: Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi vĩnh cửu (Lc 16:9).

Điều quan trọng là chúng ta phải đặt đúng giá trị của sự việc.  Tiền bạc của cải không thể trở thành chủ nhân ông.  Đừng qúa tham lam thu tích của cải phù hoa thế trần, nhưng luôn ý thức hướng tới mục đích sau cùng.  Chúa Giêsu cảnh báo: “Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai? (Lc 12:20).  Người đời nghĩ rằng phải cố gắng làm việc để trở nên giầu có và có của ăn của để, phòng khi hữu sự.  Điều này thật phải lẽ!  Đối với các tín hữu, chúng ta được mời gọi không chỉ làm giầu gia sản vật chất nhưng quan trọng hơn là làm giầu trước mặt Chúa.  Chúa Giêsu nói tiếp: Vì kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy” (Lc 12:21).  Khi lao động làm việc hay kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt, các thành quả đều có giá trị giúp thăng hoa cuộc sống.  Chúng ta không chỉ tích trữ gom góp tiền bạc để thụ hưởng riêng mình, nhưng sử dụng của cải để sinh hoa quả cho tha nhân và xã hội.  Biến đổi giá trị vật chất phàm hèn tới giá trị tinh thần cao siêu trước mặt Chúa.

Những lời huấn dụ trong Kinh Thánh xem ra khó áp dụng cuộc sống đời thường.  Vì chúng ta thấy ai ai cũng đang mải mê lao động kiếm kế sinh nhai và vun đắp gia sản vật chất.  Chúng ta nêu đủ lý do để biện minh cho sự tham lam và tích trữ của cải.  Nói rằng nếu không cực lực lao động, lấy gì mà trả bills và các món nợ chồng chất.  Chúng ta đầu tư mọi vốn liếng và khả năng để lo làm giầu mỗi ngày.  Lòng tham vô đáy.  Chúng ta chắt chiu từng đồng và thấy vẫn cần thiếu một xu.  Chúng ta dần bị chìm đắm trong sự ham mê của cải vật chất.  Thế là cuộc sống lôi kéo vào sự kiếm tìm không ngừng nghỉ.  Biết rằng lao động kiếm sống là tốt.  Dành dụm tiền bạc để tiêu xài cũng tốt.  Nhưng điều quan trọng hơn là chúng ta hãy biết làm giầu trước mặt Thiên Chúa qua việc sử dụng tiền bạc của cải đúng cách để sinh hoa kết trái đời này và đời sau.

Truyện kể có người giầu có kia chết, chôn chưa được ba ngày, một tên đạo tặc giữa đêm lén đào mả lên, lột hết vàng bạc trong mình kẻ chết, rồi lại vác búa đập bể đầu, bể miệng.  Sao lại thù hằn dữ vậy?  Không, chỉ vì khi chôn, người ta cho ông ngậm viên ngọc quí đó thôi.  Giầu có sống không yên, chết cũng chẳng yên.

 Lợi lộc gì chứ khi chúng ta chỉ biết cắm đầu lo làm giầu sở hữu của cải vật chất.  Hãy ngước nhìn lên và nhắm hướng về cùng đích.  Cuộc đời của chúng ta có những gia trị cao quí hơn nhiều.  Vì sự sống của chúng ta được chuộc lại bởi giá Máu châu báu của Chúa Giêsu.  Thánh Phaolô diễn tả: Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa (Col 3:1).  Quê hương đích thực của chúng ta là trời cao.  Tại sao chúng ta xả thân miệt mài thu tích của cải dưới đất nơi mối mọt rúc rỉa?  Hãy tìm kiếm những sự cao siêu hơn: Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất (Col 3:2).

Thánh Phaolô đã từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa.  Ngài đã trở thành con người mới hoàn toàn.  Sống phó thác và tin tưởng vào Đấng tạo thành vũ trụ.  Phaolô lên tiếng: Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Đấng đã tạo thành nó (Col 3:9-10).  Theo gương thánh Phaolô, tuy chúng ta còn khoảng cách rất xa trên con đường trọn lành.  Mỗi người chúng ta có thể khởi đầu từ hôm nay để chọn lựa một thái độ và thực hành sống lời Chúa cách tích cực hơn.

Lạy Chúa, chúng con xin chọn Chúa làm gia nghiệp đời chúng con.  Tiên vàn chúng ta hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và mọi sự Chúa sẽ ban thêm.  Có Chúa, chúng con sẽ có tất cả.

 LM Giuse Trần Việt Hùng