Đạo tại Tâm

Đạo tại Tâm

Dongten.net

dao-tai-tam

“Đạo Tại Tâm” là câu nói cửa miệng của nhiều người xưa nay, nó đã trở nên một thành ngữ phổ biến trong dân gian, từ người bình dân cho đến người có học. Nó quá quen thuộc đến nỗi người ta đã hiểu sai cái ý nghĩa đích thực của nó, rồi mỗi người hiểu theo ý riêng của mình, sinh nhiều lạm dụng và tranh cãi, cho cả người ủng hộ lẫn người phản đối.

CÁCH HIỂU ĐẠO TẠI TÂM NƠI MỘT SỐ NGƯỜI

Người ta hiểu “đạo tại tâm” nhiều cách khác nhau, đôi khi trái ngược nhau. Có người hiểu Đạo là giữ trong lòng chứ không cần thiết phải phô trương bên ngoài. Người khác lại hiểu giữ đạo cốt ở tâm hồn, còn cái bề ngoài chỉ là phụ thuộc, có cũng được, không có cũng chẳng quan trọng. Lại có cách hiểu Đạo là cái lõi, kiểu giữ đạo là vỏ, chỉ là phụ, nên cái vỏ chỉ có giá trị nhất thời. Cũng có người hiểu Đạo Tại Tâm là cách ngụy biện của kẻ “vô đạo”, cho rằng giáo lý tôn giáo của họ không có chuyện Đạo Tại Tâm. Một cách hiểu dung hòa cho rằng Đạo (tại tâm) là nội dung, còn giữ đạo là hình thức, đạo chú trọng về nội dung nên nói vậy, nhưng cần có cả nội dung lẫn hình thức mới được hoàn hảo. Và còn nhiều cách hiểu khác nhau, tùy theo ý niệm hoặc thành kiến để hiểu Đạo và Tâm theo nhãn quan của mỗi người .

Người đả phá việc theo “đạo tại tâm” cũng tìm những lý lẽ, viện những câu chuyện ví dụ làm luận cứ cho cái tiền đề khá mơ hồ theo cách hiểu của họ. Khái niệm hoặc định nghĩa về Đạo Tại Tâm không được đề ra một cách thỏa đáng, không dựa trên nguồn gốc có cơ sở trên lãnh vực đạo học và văn hóa tư tưởng, nên cách giải thích và phản bác của mỗi người khác nhau, cái lý đưa ra khiến người nghe không thỏa mãn, dù họ khó phản biện được.

Như vậy nếu hiểu Đạo, hiểu Tâm theo ý mỗi người thì không còn biết chân lý nằm ở chỗ nào, cũng chẳng nhận ra bản thể của Đạo, và cũng không tìm thấy cái Tâm Nguyên Bản của nó.

Vậy Đạo và Tâm từ đâu và bản chất của nó như thế nào?

ĐẠO VÀ TÂM

Ngoài Ấn Độ theo Ấn giáo, Do Thái giáo của Israel và một số quốc gia theo Hồi giáo, hầu hết các nước Á châu đều thấm nhiễm triết lý, tư tưởng và luân lý của Khổng, Lão và Phật. Vì vậy muốn hiểu Đạo và Tâm theo nghĩa “đạo tại tâm”, không gì hơn là tìm đến Đạo học Đông phương, nơi xuất xứ ra thành ngữ này. Nơi đây, cái gốc được căn cứ trên cơ sở của “Tam giáo Đồng nguyên”, tức Khổng, Lão và Phật.

– Nho Giáo:

Đức Khổng Tử nói: “Thiên mệnh vị chi Tánh, suất tánh vị chi Đạo, tu Đạo vị chi Giáo” (Cái mệnh Trời phú cho gọi là Tánh, theo Tánh gọi là Đạo, sửa mình cho đúng Đạo gọi là Giáo –  sách Trung Dung).

Nho giáo cho rằng theo Đạo là tuân thủ theo Thiên lý, mà Thiên lý với bản tánh con người là một, cho nên theo Đạo là cốt để sửa cái tính con người cho hợp với Thiên lý. Nên Đạo với con ngưòi là một.

Đức Khổng nói rằng: “Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi Đạo” (Đạo không xa rời bản tánh con người, nếu theo Đạo mà để xa cái bản tánh con người, thì không phải là Đạo –  sách Trung dung).

Cũng như: “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn, sự tại dị nhi cầu chư nan” (Đạo ở gần sao lại đi tìm ở xa, sự việc dễ sao lại làm cho nó khó – Mạnh tử). Ở gần là ở trong ta (tâm), việc dễ vậy mà lại tự gây (khi hành đạo) cho nó phức tạp.

Do đó Đạo luôn gắn bó với con người, nằm trong con người, đó chính là lương tâm, thiện tánh.

Cho nên:  “Đạo bất khả tu du ly dã, khả ly phi Đạo dã” (đã là Đạo thì không giây phút nào xa lìa được, nếu xa lìa được thì không phải là đạo – sách Trung dung).

Theo Nho giáo thì Tâm và Tánh là thần minh, là linh giác của con người, cũng còn gọi là linh tâm, giác tánh.

Nho giáo xem Tâm và Tánh ban đầu vốn lành, nhưng sở dĩ con người có tâm tánh độc ác, là do càng ngày càng tập nhiễm những điều xấu, mà xa dần cái tánh bổn thiện. Nên bài học vỡ lòng của đạo Nho là: “Nhơn chi sơ, tánh bổn thiện; Tánh tương cận, tập tương viễn ” (Tánh thuở ban đầu của con người vốn lương thiện, luôn gần gũi với điều lành, nhưng vì tập nhiễm tánh xấu, nên xa dần điều lương thiện – Tam Tự Kinh).

Cũng như thuyết “Tri Hành Hợp Nhất” của Vương Dương Minh  (14721528), một nho gia nổi tiếng đời nhà Minh, Trung Quốc, nói cái Tâm là cái “Trí lương tri” của con người đã được phú bẩm, cần quay về mình (tâm) để tìm lại nó, nhờ sự soi sáng và dẫn dắt của nó mà thi hành đạo.

Vì vậy phương châm tu hành của Nho giáo dạy phải: “Tồn Tâm Dưỡng Tánh”, tức là giữ cái thiện tâm luôn tồn tại, và nuôi dưỡng cái tánh vốn lành của mình, đừng cho tiêm nhiễm những điều xấu. Nó được căn cứ trên LÒNG NHÂN (cái tâm), thể hiện qua TAM CƯƠNG và NGŨ THƯỜNG (thực hành đạo).

– Lão Giáo:

Đức Lão Tử cho Đạo là tinh thần, là Bản Nguyên của trời đất, vạn vật, nên trời đất vạn vật là bản thể của đạo, vì thế Đạo lưu hành trong vũ trụ, tàng ẩn trong muôn vật, cho nên vật nào cũng có phần linh diệu của Đạo bên trong để điều hòa, trưởng dưỡng cho nó. Đạo không có hình tướng, rất khó diễn tả, nên con người chỉ lấy Tâm để cảm nhận và hình dung Đạo mà thôi.

Còn Tâm Tánh là Thiên lương (Tâm nguyên thủy), có sẵn trong con người, còn gọi là Lương tâm và Thiện tánh, cứ nhìn thẳng trở vào Tâm Tánh của chính mình thì sẽ thấy Đạo.

Tâm Tánh có sẵn trong mỗi người ban đầu, nó hồn nhiên, vô tư vô dục, lương thiện như tâm hồn của đứa trẻ con mới sinh ra, nên Lão Tử so sánh cái Thiên lương của con người như là tâm của đứa con đỏ, gọi là “Xích tử chi tâm”. Cái Tâm phát sinh ra các tư tưởng, làm chủ cái thân, là cái hồn của con người. Nhưng trong tâm lại có động, có tịnh. Ý động thì khí hành, ý tịnh thì khí lặng, cho nên khí hành hay lặng đều từ cái Ý của Tâm mà ra.

Nhưng sở dĩ có sự biến dạng thành hung ác, là do tập nhiễm vật dục làm thay đổi từ tốt trở nên xấu. Vì vậy con người trở thành thánh nhân cũng do bởi Tâm, mà sống như thú vật cũng do cái Tâm sai khiến. Nên đường hướng tu hành của Lão giáo lấy sự hư tĩnh để tu luyện đó là: “Tu tâm luyện tánh” (sửa tâm và trau dồi tánh).

Tu Tâm là sửa lòng cho trong sạch, cốt làm cho tâm con người luôn thanh tịnh, làm chủ được bản thân mình, không để thất tình lục dục dẫn dắt. Luyện Tánh là tập cái tánh trở thành không không, đừng để ảnh hưởng bởi thất tình (hỉ, nộ, ái ố, ai, cụ, dục), lúc đó con người sẽ được cái Tâm sáng tỏ soi dẫn, hành động sẽ theo sự tự nhiên của cái lý Vô Vi, có nghĩa là không làm, tức là không can thiệp vào quy luật tự nhiên, để con người sống theo tự nhiên, để cùng với tự nhiên mà tiến hóa (vô cầu, vô tranh, vô đoạt, vô chấp).

– Phật Giáo:

Đạo đối với Đức Phật rất đơn giản, đó là “Không được bám víu vào bất cứ gì cả”, nghĩa là để cho cái Tâm trở nên hư không. Trong quá trình tu tập, Phật tử phải quay về tìm cái “Tâm Phật” của mình. Nhà Phật gọi Tâm và Tánh là Chân như, Chân tâm, Phật tánh… Trong mỗi chúng sanh đều có Chân tâm và Phật tánh. Cái Tâm Chân bất sanh bất diệt, nên cũng gọi là Thường trụ Chân tâm. Vì vậy phương hướng tu hành của Phật giáo dạy phải: “Minh Tâm Kiến Tánh”, nghĩa là làm cho sáng cái Tâm thì sẽ thấy rõ cái Tánh.

Về cái Tâm, Ðức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy lo tu tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, tức là “bốn thứ tâm rộng lớn không đo lường được”. Đó là các Tâm: “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Phật dạy hãy mở rộng bốn Tâm này, không hạn chế, cho tất cả các loài hữu sinh ở khắp bốn phương. Đây là những đặc tính giúp con người trở nên tốt đẹp, hoàn thiện, là lối sống của bậc thánh. Nếu mỗi người tự cố gắng thực hành “Tứ Vô Lượng Tâm”, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, thành phần, đẳng cấp trong xã hội thì mỗi người sẽ trở thành một “thánh nhân” trong một thế giới hòa bình, an lạc.

Người Phật tử lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân, cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị.

Người phật tử thực hành giáo lý nhà Phật gọi là “hành giả”, dù niệm Phật để thanh tịnh hư không – gỡ khỏi mọi ràng buộc – dù  hành giả ra đi để cứu nhân độ thế, cũng đều là thực hành tâm linh tìm về Chân tánh để gặp Đạo. Như vậy Đạo với đời sống tâm linh cũng chỉ là một chứ không có sự tách biệt.

– Hệ kết:

Tóm lại các pháp môn tu luyện để ngộ đạo và đắc đạo của Tam giáo tuy danh xưng và phương tiện thể hiện có khác nhau, nhưng tựu trung cũng khuyên người thực hành đạo phải:

– “Tồn tâm dưỡng tánh” đối với Nho giáo

– “Tu tâm luyện tánh” đối với Lão giáo

–  “Minh tâm kiến tánh” đối với Phật giáo

Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà nơi kết quả sự thật mình làm, chẳng phải nơi câu kệ câu kinh mà phải thể hiện ra. Nếu chỉ nghiên cứu suông kinh điển để làm một kẻ trí đạo “năng thuyết bất năng hành” thì cũng chẳng khác gì người ngồi đó chỉ biết diễn tả phân tích đủ thứ món ăn tuyệt diệu trên đời, nhưng rốt cuộc bụng họ vẫn đói meo, hoặc như con lạc đà trên lưng mang nặng trĩu gỗ trầm hương, nhưng chẳng bao giờ nó thưởng thức được hương thơm của trầm cả. Phải biến nhận thức của mình thành hành động cụ thể. Có như vậy mới đi đúng đường và mang lại lợi ích thực sự.

Để đi vào đạo, con người chỉ cần biết thức tỉnh quay vào chính mình thì sẽ nhận ra “Chân tánh”, được “Tính bản thiện”, được cái “Thiên lương”, lúc đó sẽ được nó soi tỏ và dẫn dắt, đồng thời sẽ gặp được Đạo.

Như vậy Đạo với đời sống tâm linh là một, mà hoạt động tâm linh không hề tách biệt với đời sống thực tại, cũng như tâm linh luôn gắn liền với thể chất như bóng với hình, vì Tâm và Vật không thể phân chia. Nói cách khác, hoạt động tâm linh luôn hiện hữu trong đời sống con người, tức là đạo không lìa xa cuộc sống. Vì thế người theo đạo không có nghĩa là phải từ bỏ các hoạt động hằng ngày, để theo đuổi một cái gì xa vời ngoài cái thực tại. Sống theo đạo là sống một cuộc sống cho ra sống, đáng sống với cuộc đời, sống một cách có ý thức và chủ động trong mọi sinh hoạt, chứ không phải sống một cách máy móc thụ động.

Muốn được vậy thì con người phải lấy Tâm làm gốc, Đạo làm nền, là trung tâm trong đời sống tâm linh, mà cũng là trung tâm của tất cả hoạt động của đạo được thể hiện ra bên ngoài. Nên Đạo Nho mới nói: “Đạo bất khả tu du ly dã” (đạo không giây phút nào xa lìa được), và “Đạo tại nhĩ nhi cầu chư viễn” (đạo ở gần đừng tìm nơi xa).

“Tam giáo đồng nguyên” chính là vậy.

CÔNG GIÁO VỚI ĐẠO TẠI TÂM

Căn cứ trên Kinh Thánh và Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG), “Thuở ban đầu con người đơn sơ trong trắng như trẻ thơ vô tội, chưa bị rối loạn vì tội lỗi. Con người sống an bình hoà hợp với Thiên Chúa, với mọi người, và với bản thân mình” (St 2).

Cũng như: “Con người đầu tiên không những được tạo dựng là tốt lành, mà còn được sống trong tình thân nghĩa với Đấng Tạo Hóa của mình, trong sự hài hòa với chính mình và với vạn vật xung quanh. Tình thân nghĩa và sự hài hòa này chỉ thua kém vinh quang của công trình tạo dựng mới trong Đức Kitô” (GLHTCG số 374).

Và: “Hội Thánh, khi giải thích một cách chính thống ngôn ngữ biểu tượng của Thánh Kinh dưới ánh sáng của Tân Ước và Truyền Thống, dạy rằng: nguyên tổ chúng ta, ông Ađam và bà Evà, đã được tạo dựng trong tình trạng thánh thiện và công chính nguyên thủy. Ân sủng của sự thánh thiện nguyên thủy đó là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa” (GLHTCG số 375).

Đặc biệt hơn, Sách Sáng Thế 1, 26 – 27 nói: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa. Trong các loài Chúa đã dựng nên, chỉ có con người được Thiên Chúa ban cho linh hồn thiêng liêng, bất  tử.  Nhờ đó, con người có khả năng hiểu biết, chọn lựa điều hay lẽ phải và quyết tâm loại trừ điều xấu để hướng đến hạnh phúc đích thực và trọn vẹn”. Vì linh hồn thiêng liêng, có trí tuệ, ý chí và tự do, nên con người có khả năng hướng về sự thiện đích thực và hạnh phúc muôn đời.

Cái Tâm của con người được hiểu là toàn thể cõi lòng, đó là lương tâm ngay lành, là ý chí (ý muốn), là sự tự do, trong đó có cả sự nhận thức thông qua trí tuệ của con người – vì không thể tách trí tuệ ra khỏi cái Tâm được – đã được Thiên Chúa phú bẩm trong linh hồn. Đó là hình ảnh của Thiên Chúa, dù một thai nhi hay trẻ sơ sinh cũng hội đủ tố chất của cái Tâm này.

Kinh Thánh và GLHTCG nêu trên cho biết, cái Tâm nguyên thủy của con người hoàn toàn tốt lành, thiện hảo chứ không yếu đuối, mê muội, nhiều dục vọng xấu xa… Nó được hòa nhập vào thân xác không thể phân chia, trở thành một bản tính, như GLHTCG số 365 nói: “Sự thống nhất xác hồn thâm sâu đến độ linh hồn phải được coi là “mô thể” của thân xác; nghĩa là, nhờ linh hồn thiêng liêng mà thân xác, vốn được cấu tạo bằng vật chất, là một thân xác nhân linh (corpus humanum) và sống động; tinh thần và vật chất nơi con người không phải là hai bản tính được nối kết lại, nhưng sự kết hợp của chúng tạo thành một bản tính duy nhất”.

Tình trạng ban đầu của vạn vật là tốt lành, không có đau khổ và sự dữ. Chính tội lỗi của con người đã làm hỏng sự tốt lành nguyên thuỷ và làm con người mất hạnh phúc. Tuy nhiên tình trạng đau khổ của con người không đến nỗi tuyệt vọng như người ta đáng phải chịu, bởi vì Thiên Chúa nhân từ sẽ tìm cách cứu vớt. (St 1)

Công giáo là đạo được Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Làm Người mạc khải, gọi là Đạo Từ Trời. Thiên Chúa Là Tình yêu (Ga 4, 16), Người đã hoàn tất trong lề luật “Mến Chúa yêu Người”, nên cũng được gọi là Đạo Yêu Thương, Bác Ái. Vì vậy Đức Ái là trung tâm điểm của đạo, xuất phát từ cái Tâm yêu thương, thể hiện qua hành vi bác ái. “Nếu tôi nói được các tiếng của loài người và thiên thần, mà tôi không có bác ái, thì tôi chỉ là tiếng đồng la vang dội hoặc não bạt vang động. Và nếu tôi được nói tiên tri, thông biết mọi mầu nhiệm và mọi khôn ngoan; nếu tôi có đầy lòng tin, đến nỗi chuyển dời được núi non, mà không có bác ái, thì tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát mọi của cải tôi có để nuôi kẻ nghèo khó, nếu tôi nộp mình để chịu thiêu đốt, mà tôi không có bác ái, thì không làm ích gì cho tôi” (1 Cr 13, 1-3).

Cũng như, “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21), ngoài ý nghĩa cho mọi người, còn nói lên ở trong lòng, trong tâm mỗi người nữa, nơi đó tình yêu ngự trị  trong tâm hồn mỗi người. Nước Thiên Chúa chính là mọi người yêu thương và sống bác ái với nhau, trong Đức Kitô.

Bác ái được căn cứ và xuất phát từ cái Tâm, nên câu nói “Đạo tại tâm” xuất phát từ Đạo học Đông Phương không những không mâu thuẫn hay trái với đạo Công giáo, mà nó còn am hợp một cách diệu kỳ, khá thú vị.

KẾT LUẬN

Có thể nói trong suốt dòng thời gian xưa nay, vấn đề “đạo tại tâm” luôn được nhiều người nhắc tới  như một sự “cảnh tỉnh” về đạo, với nỗi suy tư khác nhau, tùy theo góc độ nhìn nhận và hiểu biết nơi mỗi người, nhiều khi vô tình đi đến sự lệch lạc mà không biết. Chính vì vậy mới có tình trạng tự mâu thuẫn trong lý do của những người ủng hộ “đạo tại tâm”, cũng như nơi những người đả phá nó. Nếu sự nhận thức về đạo mà thiếu thành tâm thiện chí thì dễ dẫn đến cực đoan, đưa đến những ngõ ngách, sinh ra sự cố chấp vô lối, như “bốn người mù xem voi” vậy.

Như đã trình bày, Đạo và Tâm gắn liền với nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt. Bởi vì cái Tâm (心) mới là nơi ở (tại – 在 ) của cái Đạo (道). Mà đạo là sống, là hành, là thi thố ra bên ngoài, gọi là hành đạo (hành giả).

Còn theo sự nhận thức bình dị nhất, đạo là việc đạo đức, còn tâm là lòng dạ, nó được thể hiện trong cuộc sống. Nó cũng đúng, vẫn thuận hợp và có ý nghĩa với cụm từ “đạo tại tâm”, vì phải có lòng mới làm việc đạo đức được.

Con người theo đạo dễ lâm vào một số trường hợp, như giữ đạo theo kiểu giả hình, kiêu kỳ, vụ lợi, hình thức, lập dị, đồng bóng… Vì vậy dễ bị người khác chống đối, mà cách lên án thông thường nhất là nại vào câu nói “đạo tại tâm” để phản kháng. Cũng có những người lợi dụng câu này để che lấp, bào chữa cho những cái vô tâm và bê bối trong việc sống và giữ đạo.

Thực ra ít có người xuyên tạc hay hiểu lầm câu “đạo tại tâm” một cách thành tâm, thành thật với bản thân. Vì một khi có sự thành tâm thành ý tìm Đạo thì tự nhiên trong Tâm của con người sẽ thấy cái Đạo ló dạng, và họ sẽ không ngần ngại thi hành đạo đã chiếu soi trong tâm hồn của họ.

Như vậy, ĐẠO TẠI TÂM  (道 在 心) đã được trình bày khái quát trên cơ sở từ nguồn gốc của nó (tam giáo), cũng như xem xét qua mạc khải trong Thánh Kinh của Kytô giáo. Vấn đề đã tạm ổn trong sự nhận thức và hiểu biết hạn hẹp về Đạo và Tâm. Đây là vấn đề mà con người khó thấu triệt, dành cho các vị đã “đắc đạo” và những thánh nhân mới có thể quán thông được nó. Tuy vậy ai cũng có thể dùng cái Tâm của mình để gặp được Đạo, tùy theo cơ duyên tu dưỡng nơi mỗi người để được nhiều hay ít. Như trong Công giáo là tùy thuộc vào ân ban của Thiên Chúa, nhờ Đức Kitô, với điều kiện là phải thành tâm với chính mình để tìm đạo, sẽ gặp được hình ảnh củaThiên Chúa trong chính mình và nơi tha nhân.

Hàn Cư Sĩ

(Bài viết được tác giả gửi đến dongten.net)

Sách tham khảo:

-Tứ Thư trọn bộ (Dịch giả: Đoàn Trung Còn)

– Đạo Đức Kinh (Dịch giả: Nguyễn Hiến Lê)

– Phật Học Tinh Hoa (Nguyễn Duy Cần)

– Sách Giáo Lý Công Giáo và nguồn internet.

TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH

TẠ ƠN CHÚA TRONG MỌI HOÀN CẢNH

cam-on-doi

Có một câu thơ mà dường như ta vẫn hay nhìn thấy ở đâu đó.  Một câu thơ cho ta ý thức về những niềm vui không do mình tạo ra mà do cuộc sống ban tặng cho chúng ta.  Câu thơ ấy viết rằng:

“Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương”.

Thật đẹp cho tâm hồn con người biết cám ơn.  Biết cám ơn là biểu lộ một tấm lòng lạc quan yêu đời.  Biết cám ơn biểu lộ một cung cách khiêm nhường để đón nhận mọi sự trong yêu thương và kính trọng.

Người không biết cám ơn sẽ luôn bất mãn vì những gì đang xảy ra.  Người không biết cảm ơn sẽ thiếu tôn trọng người làm ơn và món quà được đón nhận.

Ngược lại, người biết cám ơn sẽ cảm thấy vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.

Họ biết cám ơn Chúa khi mỗi sáng mai thức dậy đang khi đó có hàng vạn người không còn thức dậy.

Họ biết cám ơn cha mẹ đã cho họ góp mặt vào trần thế.  Cám ơn thầy cô cho họ kiến thức.  Cám ơn bạn bè đã dìu họ đi qua những khúc quanh của dòng đời.  Cám ơn cuộc đời đã cho họ kinh nghiệm để sống hạnh phúc hơn.

Cám ơn làm cho tâm hồn con người an vui hạnh phúc.  Không biết cám ơn sẽ làm cho tâm hồn bi quan, thất vọng và chán chường.

Trong tích truyện kể về ông Matthew Henry là một học giả Kinh Thánh lừng danh vào đầu thế kỷ 18.  Một ngày kia, ông bị bọn cướp trấn lột và đêm hôm đó, Henry đã ghi xuống cuốn nhật ký của ông như sau: Hãy để cho lòng ta cảm tạ Thượng Đế.

Thứ nhất, bởi vì cho đến bây giờ ta mới bị ăn cướp; trước đây ta chưa bao giờ bị bọn cướp đón đường cả.

Thứ nhì, bởi vì mặc dầu bọn chúng cướp cái ví tiền, nhưng chúng nó không cướp mất mạng sống của ta.

Thứ ba, bởi vì mặc dầu chúng nó cướp sạch những gì ta có trên người lúc đó, nhưng cũng chẳng đáng giá là bao.

Thứ tư, ta là người bị cướp, chứ ta không phải là quân đi ăn cướp.

Một con người biết cám ơn luôn nhìn mọi sự trong nhãn quan tích cực.  Họ luôn thấy ánh bình minh xuyên qua màn đêm tăm tối của cuộc đời.  Họ không bi quan khi cánh cửa khép lại nhưng luôn tìm kiếm những lối đi khác cho bản thân.

Nhưng tiếc thay, người biết cám ơn lại quá ít!  Rất nhiều người đã không nhận ra cuộc đời họ là một chuỗi hồng ân của Chúa để cám ơn.  Họ không nhận ra tình thương của gia đình, bè bạn và cuộc đời dành cho họ để tri ân.  Họ vẫn sống trong bi quan để oán trời – oán đất về những gì đã – đang xảy ra trong cuộc đời của họ.

Dầu vậy giữa cuộc đời vẫn còn đó những lời cám ơn chân thành.  Dầu chỉ là số 1 so với số 9 quên cám ơn.  Ở giữa cuộc sống phồn hoa vẫn còn đó những gia đình cùng nhau đọc kinh, dâng lễ để tạ ơn Chúa đã phù hộ bình an.  Ở giữa cuộc sống bon chen hối hả vẫn còn đó những người con thảo hiếu mẹ cha qua việc chăm sóc cha mẹ già yếu.  Ở giữa chợ đời thị phi vẫn còn đó những người thiện nguyện phục vụ vô vị lợi để trả ơn cuộc đời.

Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ thật khiêm cung của người phong hủi được chữa lành.  Anh cám ơn Chúa với một thái độ khiêm tốn thẳm sâu.  Anh sấp mình trước vị ân nhân đã cứu anh.  Một thái độ cho thấy từ nay anh sẽ làm nô bộc cho người thi ân.  Một thái độ tôn kính dành cho Đấng có quyền năng xua trừ sự dữ trên cuộc đời anh.  Nhưng tiếc thay, con số biết cám ơn lại là con số nhỏ.  Chỉ một trong 10 người biết cám ơn, còn lại vẫn cho mình được quyền sống, quyền hưởng lộc mà không cần cám ơn.

Cuộc sống sẽ đẹp hơn nếu chúng ta biết cám ơn.  Cám ơn Chúa và cám ơn nhau sẽ làm cho con người thân thiện với nhau hơn.  Cám ơn Chúa mỗi sáng mai thức dậy vì đang khi đó có thể nhiều người sẽ không còn khả năng thức dậy.  Cám ơn Chúa mỗi khi chúng ta có dịp làm một việc thiện, một việc nghĩa đầy yêu thương đang khi đó có nhiều người không có khả năng để làm điều đó.  Cám ơn đời vì trên dòng đời hối hả vẫn còn có những người bạn cầm lấy tay ta để cảm thông, để nâng đỡ và dìu dắt chúng ta.

Xin cho chúng ta đủ khiêm tốn để cám ơn trong mọi sự, vì tất cả là hồng ân. Tất cả đều do Chúa mà có. Con người chỉ là thụ tạo nhưng được Chúa yêu thương và ban cho mọi sự trên trần gian.  Xin cho lời tạ ơn của chúng ta luôn vang dội không gian, hòa vào vạn vật để tôn vinh chúc tụng và ngợi khen tình thương Chúa vẫn ấp ủ đời ta và gìn giữ chở che chúng ta.  Amen!

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

langtghangchieutim gởi

Hỡi người biểu tình, hãy luôn cảnh giác…

  Hỡi người biểu tình, hãy luôn cảnh giác…

Mai Tú Ân (Danlambao)  Cuộc biểu dương lực lượng của bà con giáo dân ở trước cửa công ty Formosa đã thành công tốt đẹp bởi sự thắng lợi trong tầm mức của một cuộc đấu tranh ôn hòa bất bạo động. Nhưng vẫn có những bài học mà chúng ta phải rút ra từ trong thắng lợi này và làm nền tảng cho những cuộc xuống đường khác trong tương lai…

Trong cuộc biểu dương lực lượng ngày 2/10/2016 thì hẳn các cha xứ cùng giáo dân không hề có ý định tấn công các lực lượng CSCĐ đang đứng thành một hàng rào để bảo vệ bức tường rào của Formosa ở đằng sau. Có lẽ cuộc biểu dương lực lượng của bà con giáo dân và lương dân đã đến đúng điểm cần đến, cho một cuộc mitinh rầm rộ khí thế nhưng hoàn toàn ôn hòa trên tinh thần bất bạo động Thiên Chúa Giáo. Và đấy cũng là một chiến thắng không có gì phải bàn cãi cho những người biểu tình khi họ đến được nơi cần đến, và thể hiện khí thế ở nơi cần thể hiện khí thế.

Nhưng trong diễn tiến thì có một nhóm người nhỏ, có Trời biết họ là ai nhưng chắc chắn không phải là những giáo dân trật tự được dẫn dắt bởi linh mục Phe rô Trần Đình Lai, đã tấn công hàng rào CSCĐ bằng ném đá. Trong số người tấn công nhỏ này, có thể là những ngư dân phẫn uất, hay những người bị thản họa Formosa gây khốn đốn, mà cũng có thể lại chính là người của chính quyền, CA cài cắm vào hàng ngũ của người biểu tình để tìm cách gây bạo lực, bạo loạn, cũng như gây mọi cớ để đổ thừa cho người biểu tình, để chính quyền ra tay đàn áp. Chẳng có gì là quá đáng khi ta nói đây là một chiêu bài quen thuộc của những người CS trong suốt sự nghiệp “dựng nước và giữ nước” của họ. Và cái cái cách cho người của họ vào cài cắm và tấn công cảnh sát của họ để kích động bạo lực là chuyện họ sẵn sàng làm ngay, nếu cần.

Trở lại cuộc biểu tình ở Formosa thì ta thấy làm lạ là lịch xuống đường đã công khai trước đó mấy ngày nhưng lực lượng đối phó thì lèo tèo vài chục đến hơn 100 người và lọt thỏm giữa hàng ngũ đông đảo của người biểu tình. Không biết ý đồ của những người thực thi pháp luật hôm đó nhưng vẫn có dư luận cho rằng họ định ‘thí” số CSCĐ ít ỏi đó hoặc “thí” ngay cả Formosa để mưu việc lớn. Ngay cả hàng rào có lớp CSCĐ của họ cũng đứng dàn hàng ngang chỉ có một lớp người mỏng manh trước số rất đông người biểu tình. Điều này ngược lại hoàn toàn với qui tắc chống biểu tình đông người là phải có nhiều lớp CSCĐ, mỗi lớp phải có nhiều hàng người gắn kết và hỗ trợ chặt chẽ cho nhau để bảo vệ hàng rào. Nên khi bị ném vài hòn sỏi, vì cũng chẳng có đá để mà ném thì hàng ngũ CSCD này co cụm rồi chạy biến mất. Formosa thất thủ. Dân tràn lên, leo lên rào và hò reo. Nhưng các cha xứ đã ban hành lệnh rút quân sau khi đạt thắng lợi, và đương nhiên làm thất bại thảm hại âm mưu nào đó, nếu có của chính quyền.

Tôi tin rằng các cha xứ dẫn dắt không bao giờ ra cái lệnh ném đá và đa phần, nếu không phải là tuyệt đối số giáo dân đều không làm chuyện đó. Chắc chắn không ai lại tấn công lực lượng công an chỉ để tiến chiếm lấy cái hàng rào cả. Ta có thể nghe tiếng các người lãnh đạo cuộc biểu tình luôn la thét coi chừng những kẻ lạ mặt ném đá vào CS. Giáo dân phải ngồi xuống để phát giác những kẻ trà trộn.

Ta hãy xem một đoạn trích trên đài BBC tường thuật vụ này:

Linh mục Phê đô Trần Đình Lai nói người dân “Không được ném chai lọ, không được ném đất”, …”không được bạo động, tất cả ôn hòa”.

“Cảnh sát không được đánh dân, dân và cảnh sát không được xô xát,” ông Lai nói khi cuộc xô xát ngắn dừng lại.

Vị linh mục này phát biểu cuộc biểu tình là để “đòi hỏi những người đã gây ra thảm họa này phải bồi thường công bằng, trả lại môi trường xanh sạch cho dân tộc”.

“Người dân đứng ở cổng chính Formosa, trèo lên tường treo các băng-rôn khẩu hiệu, nhưng không có cuộc đập phá nào, không ai đập phá,” BBC

Và cũng gần như ngay sau đó, lực lượng giáo dân đã có lệnh rút lui, và các thành phần khác trong đoàn biểu tình cũng rút theo giáo dân. Như vậy rõ ràng là đã lệnh ôn hòa từ người biểu tình để đáp trả xứng đáng thái độ ôn hòa của các lực lượng an ninh trong ngày 2/10/2016 đó. Nói một cách văn vẻ thì không ai đã vượt qua lằn ranh Đỏ của ngày hôm đó, và cuộc biểu tình đã thành công tốt đẹp.

Biểu tình, xuống đường là sự thể hiện quyền lợi không thể bàn cãi của đông đảo người dân, hành động để phản đối, hay ủng hộ một việc nào đấy thiết thực với họ. Nếu không gặp phải sự trấn áp, phá hoại của chính quyền thì nó cũng không bao giờ biến thành bạo động hay mất kiểm soát mà mãi chỉ là các cuộc xuống đường hòa bình của lòng dân. Người dân tham gia xuống đường để thể hiện tiếng nói của mình, và vì những điều thiết yếu đến cuộc sống của họ chứ không phải do ai hay cái gì kích động cả. Đa phần họ đều là những công dân tôn trọng pháp luật, và nếu là giáo dân thì đều là những người kính Chúa, yêu nước… Họ xuống đường để đề đạt nguyện vọng với chính quyền và cũng như thể hiện sự phản đối hòa bình với chính quyền và tất cả đều muốn mọi sự diễn ra trong bình an, yên ổn. Chính quyền nên xem mỗi lần có đông đảo người dân xuống đường như là một “dịp may” để nhìn lại mình, để xem lại cách hành xử của mình chứ đừng vì nỗi sợ hãi nào đó mà hành động ngược lại với ý chí của người dân.

Bởi nâng thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân…

5.10.2016
Mai Tú Ân
danlambaovn.blogspot.com

“Sấm Trạng Trình” nói gì về sự sụp đổ của nhà Sản?

“Sấm Trạng Trình” nói gì về sự sụp đổ của nhà Sản?

Nguyễn Tiến Dân

6-10-2016

Sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Đông Âu trước đây. Nguồn: internet

1- Phụ nữ, mỗi tháng, họ hành kinh 1 lần. Cộng sản, cứ 5 năm, Đại hội Đảng 1 đận. Đận sau, bao giờ cũng hoành tráng hơn, so với đận trước. Kể cả, cái bánh vẽ. Chỉ có mỗi 1 thứ, không bao giờ thay đổi. Đó là, “Báo cáo Chính trị của Đại hội”. Báo cáo nào, rồi cũng vẫn “kiên định chủ nghĩa Mác – Lê”. Kèm theo tí dưa góp, “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Xem lắm, thấy nhàm. Nhàm đến mức, Báo cáo Chính trị của Đại hội này, chỉ cần sửa vài từ, là có thể, dùng cho Đại hội sau. Đến kì hành kinh, à quên, đến kì Đại hội Đảng các cấp, chỉ có mỗi một vấn đề khiến người ta tò mò: Dân Việt, sẽ bị kẻ nào cai trị trong 5 năm tới. Và, sau bao lâu nữa, chúng sẽ giúp Việt nam, soán được cái ngôi đội sổ của thiên hạ.

Đại hội lần thứ 12 vừa rồi, chẳng phải là ngoại lệ. Phần lớn thời gian của nó, được dùng cho việc đấu đá và tranh giành ngôi vị. Đó là kì Đại hội, chỉ của riêng 2 ông: Phú Trọng và Tấn Dũng. Trước khi bước vào Đại hội, nhiều người bán nhà, để đặt cửa Tấn Dũng. Chẳng phải, họ yêu quí ông ta. Chỉ vì, thế và lực của ông ta, quá mạnh. Chỉ những kẻ xổng chuồng ở trại “Tâm thần Trâu quỳ” ra, mới cổ vũ cho Phú Trọng. Một cái anh chàng, văn dốt – võ nhát. Cả đời, chỉ biết đánh võ mồm. Nói gì, cũng sai – làm gì, cũng hỏng. Sức thì yếu – tuổi lại phá khung.

Kết cục, đảo lộn hoàn toàn. Phi lí, đến mức cùng cực. Sau Đại hội, ối kẻ bị vỡ tim mà chết.

Giải thích cho cái sự thành công của Phú Trọng, thiên hạ, đưa ra 3 giả thuyết: Một là, mả bố nhà Phú Trọng, táng được vào Hàm Rồng – Hai là, Phú Trọng giả “”. Nhưng thật ra, ông ta thông minh tuyệt đỉnh – Ba là, Trung cộng chống lưng và thổi đít ông lên.

Ai cũng cố sống – cố chết, bảo vệ cho bằng được, cái quan điểm riêng của mình. Thế nên, những cuộc tranh luận về đề tài đó, không bao giờ chấm dứt và bất phân thắng bại.

Cho đến 1 ngày đẹp trời, hiền triết Nguyễn Khắc Mai, đưa ra 1 đôi câu đối (đồn rằng, đó là sấm của Trạng Trình). Bấy giờ, thiên hạ mới ngã ngửa người: Tất cả, là mệnh Trời và sự sụp đổ của nhà Sản, không những chỉ là tất yếu, mà nó còn xảy ra trong 1 tương lai hết sức gần. Nguyên văn, đôi câu đối:

                 

      

Bỉnh chúc vô minh quang tự diệt.

Trọng ngân bạc phúc sản tất vong.

Dịch đôi câu đối này, theo cái nghĩa thông thường, nhiều người đã làm. Mình không dám, “vẽ rắn – thêm chân”. Chỉ xin, được nói đôi ba điều, về cái ẩn ý đằng sau của nó:

– Vế thứ nhất: Ai cũng biết, khi dầu hết – bấc sẽ tàn. Ngọn đèn nào, cũng tắt. Bóng đêm, sẽ ập tới.

CNCS, cũng vậy. Giờ đây, nó đã phá sản hoàn toàn, về mặt Lý luận. “Kinh tế thị trường”, thì được pha với “định hướng XHCN”. Để, làm thành 1 nồi lẩu thập cẩm. Mà mùi vị của nó, khắm vô cùng. Đổ đi, thì tiếc. Còn ăn vào, bụng sẽ trương phềnh lên. Chế độ “người bóc lột người” của cái bon Thực dân – Phong kiến thối nát, đã bị đập tan. Thế vào đó, cũng vẫn chỉ là chế độ “người bóc lột người”. Có điều, tỉ lần, độc ác và man rợ hơn. Một ông Vua, bị đánh đổ. Thế vào đó, là cả 1 lũ ngợm người. Chúng làm “Vua tập thể”… Nói tất cả những thứ đó, chỉ để minh chứng 1 điều: Nguồn nhiên liệu, để giúp thắp sáng lên cái lí tưởng CS, đã không còn.

Lãnh đạo CS, toàn những kẻ không có Tâm – chẳng đủ Tầm. Bởi thế, chẳng thể đưa được cái mớ Lí thuyết ma mọi CS vào thực tiễn: Bấc, đã bị thối.

Bấc thối, không thể dẫn dầu. Đã thế, dầu cặn lại còn bị pha trôn với rất nhiều nước lã. Ngọn đèn CS, vẫn còn cháy, đã là 1 kì công của Tạo hóa. Nhưng cái sự leo lét của nó, chắc cũng chẳng còn kéo dài được bao lâu. Bởi, ở phía chân trời, cơn báo táp Dân chủ đã xuất hiện và đang sầm sập kéo về. Sinh khí tràn trề, sẽ quét sạch bầu không khí ô nhiễm và hắc ám. Ngày tàn của Đảng CS, đã đến.

– Vế thứ 2: Những người Cộng sản, sinh ra trong nghèo khó và thất học. Do đó, không hiểu Đạo lý. Chúng luôn tối mắt – tối mũi trước đồng tiền. Chỉ cần có tiền, dẫu có phải hủy diệt môi trường – dẫu có phải hủy hoại giống nòi – dẫu có phải thiêu rụi cả non sông gấm vóc Việt nam, chúng cũng chẳng từ. Ngày đêm, chúng chỉ ngồi nghĩ ra những mưu ma – chước quỷ. Cốt sao, cướp sạch được mọi thứ của thiên hạ. Từ Chính quyền – của nổi – của chìm – thuế má, cho tới quyền của con người. Tàn ác và man dại, còn hơn cả bầy cầm thú.

Của phi nghĩa, chẳng bền – Bọn bạc phúc, sao có thể ổn cố được. Bởi thế, tương lai của nhà Sản, đã được Trạng Trình đóng đinh trong có mỗi 1 chữ. Đó là, “vong”.

2- Có lần, một độc giả hỏi mình: “Bác nói, chế độ CS, nhất định sẽ sụp đổ. Nhưng liệu bác có nói được, khi nào thì nó sụp đổ hay không?”. Mình thưa với bác ấy: “Chế độ CS, chúng hoàn toàn đi ngược với tất cả những qui luật của Tự nhiên và Xã hội. Bởi vậy, sự sụp đổ của nó, là 1 điều chắc chắn. Tôi không phải là nhà Tiên tri. Bởi thế, không thể biết được chính xác, bao giờ thì nó sẽ sụp đổ. Nhưng có một vĩ nhân, sống cách đây trên 5 trăm năm, đã đưa ra dự đoán về sự kiện này. Mời bác, tìm đọc đôi câu đối của Trạng Trình. Nó đang được lan truyền rất nhanh, trong các tầng lớp Nhân dân. Khảo cổ – nghiệm kim, người ta đều thấy: Trạng Trình, liệu việc như Thần. Nếu lần này cũng ứng nghiệm, thì nhà Sản, không sống sót được qua khóa 12”. Bác ấy hỏi: “Tại sao?”. Xin thưa:

Câu sấm này của Trạng Trình, chứa ẩn 1 điều hết sức kì diệu: Có đủ mặt, cả tứ trụ Triều đình nhà Sản: Quang – Trọng – Ngân – Phúc. Ở đó, không có 1 chữ nào, có tên là Dũng cả. Từ cái chi tiết này, có thể khẳng định: Kì vừa rồi, Dũng trượt. Chẳng phải, vì ông ta kém cạnh Phú Trọng. Dũng trượt, là do mệnh Trời.

Còn cái câu “sản tất vong”, có thể hiểu là: Khi lãnh đạo chủ chốt của nhà Sản, hội tụ đủ cả 4 nhân vật có tên trong đôi vế đó, thời khắc cáo chung của nó, đã đến. Sợ thiên hạ chưa tin, Trạng Trình, còn nhấn kép vào cái sự kiện này. Bằng cách, hai chữ cuối của 2 vế: bên này, ông để chữ “diệt” – bên kia, ông để chữ “vong”. Ngụ ý, chạy đằng nào, chúng mày cũng phải chết.

Bác ấy, chẳng chịu: “Đó chỉ là sự suy diễn, sao có thể đáng tin. Thực tế, Đảng CS, đang ở trong thời kì mạnh nhất. Nó không thể đổ sập, trong một vài năm tới được”. Mình thưa lại:

– Tất cả mọi triệu chứng, đều cho thấy: Ngày mà Đảng CS Việt nam, sẽ nằm đúng vị trí của nó, ở trong cái đống rác của Lịch sử, đã kề cận lắm rồi. Thiên ương và Nhân tai, đang diễn ra hết sức dồn dập và hết sức nghiêm trọng. Kinh tế, suy thoái – Dân chúng, bất an – Cán bộ, biến chất. Giữa thanh thiên – bạch nhật, chúng thản nhiên vác dao – vác súng, xông vào tận trụ sở làm việc, để thanh toán lẫn nhau. Cái độc ác và cái giả dối, đang trắng trợn lên ngôi. Trong khi, Đảng CS cầm quyền, vô kế khả thi, để dẫn dắt Đất nước, thoát ra ngoài những cuộc khủng hoảng đó. Không những thế, họ còn cố tình làm cho nó trầm trọng thêm. Cùng 1 lúc, họ gây thù – chuốc oán với dân chúng, thông qua việc bóp nghẹt Tự do – Dân chủ và mưu sinh của họ. Đồng thời, gây thù – chuốc oán với chính những cộng sự của mình, thông qua chiêu bài “chống tham nhũng”. Mà thực tế, chỉ là tranh quyền – đoạt vị và thâu tóm tiền bạc của nhau. Cả Xã hội, đã đến lúc loạn hết cả lên. Mọi thứ, đã nằm ngoài tầm kiểm soát của Đảng.

Đảng CS Việt nam, đã vỡ trận.

Thiên – Địa – Nhân, đã cùng đặt thời gian. Để, đếm ngược.

3- Đến đây, lại xuất hiện 1 câu hỏi nan giải. Nếu, Trạng Trình đã biết trước, sẽ có 1 thế lực đủ mạnh, để lật nhào được chế độ CS. Thì, ông dự đoán: ai sẽ là “người cầm cái”, trong cái gọi là cuộc Cách mạng ấy?

– Chế độ CS, đã dùng bạo lực, để cướp Chính quyền. Đó là 1 sự thực, không thể chối cãi. “Sinh nghề – tử nghiệp”. Chúng sẽ chết, trong bạo lực. Điều đó, vô nghi. Bạo lực này, có thể, xuất phát từ quần chúng. Cũng có thể, được sinh ra, ngay trong nội bộ của chúng. Hoặc, đồng thời cả hai nhân tố đó. Không có chuyện, chúng chết, do quân đội nước ngoài đổ bộ vào và tiêu diệt chúng. Như, sự việc đã từng xảy ra, ở Campuchia hoặc Iraq.

Suốt bảy chục năm có dư, phải sống dưới ách cai trị tàn bạo của CS. Người dân Việt nam, đã quá hiểu bộ mặt thật của chúng. Chúng đàn áp người dân, khiến họ không thể mở miệng – không thể ngóc đầu. Chúng bóc lột họ, đến tận xương – tận tủy. Ai cũng căm ghét chúng và ai cũng muốn tiễn chúng, về với cái Tổ tiên Mác – Lê nhà chúng nó. Tuy vậy, họ vẫn chưa tập hợp được, trong một cái Mặt trận rộng rãi, có tổ chức chặt chẽ và có sự chỉ huy thống nhất. Do đó, dẫu có đông, cũng không mạnh. Họ, lại chưa được luyện tập, một cách thường xuyên. Quan trọng nhất, họ vẫn sợ CS. Họ biết, chúng rất tàn bạo. Nói theo cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng sẵn sàng, “tắm tất cả những cuộc xuống đường của Nhân dân ta, trong bể máu”. Do đó, sẽ là ảo tưởng, nếu nghĩ rằng: những cuộc xuống đường một cách ôn hòa và lẻ tẻ như hiện nay, có thể lật đổ được chế độ CS.

Nguyễn Phú Trọng, quá hiểu điều đó. Ông biết, cái Đảng đểu của ông, rồi sẽ bị đổ. Bởi chính những thế lực, nằm ngay trong nội bộ của nó. Chính vì vậy, ông phải nhanh chóng thâu tóm quyền lực. Để tự mình, giữ được cái thể chế thối nát này, ít nhất, cho đến hết cái thế kỉ thứ 21. Hệ quả, tất cả những thế lực trong Đảng, dám cả gan ngáng chân ông, đều phải bị tiêu diệt. Nhưng, đó chỉ là sự giãy giụa trong cơn tuyệt vọng của 1 kẻ cuồng tín và giáo điều.

Xưa – nay, có ai “bẻ nạng – chống Trời” mà đã thành công?

a- Binh pháp Tôn tử, có câu: 主孰有道. Chủ thục hữu Đạo. Nghĩa là, bên nào có chính nghĩa, bên đó có nhiều cơ hội để giành phần thắng.

Trong cuộc đấu đá nội bộ lần này, tất cả các phe phái, đều không vì quyền lợi của Nhân dân và của Đất nước. Do đó, chúng không được sự ủng hộ của Nhân dân. Tuy nhiên, cái phe bảo thủ của Phú Trọng, luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lê, cộng với xu thế ngả Tàu, sẽ làm mất lòng dân nhiều hơn. Chỉ cần, phe kia tung ra được bằng chứng khả tín. Phe bảo thủ, khó lòng mà chống đỡ. Chuyện đó, nào có khó gì. Bằng chứng, đầy. Mật ước Thành đô, chẳng hạn.

Đó là lí do thứ nhất, khiến phe Trọng tất bại.

b- Muốn “đội đá – vá trời”, trước hết. phải kiểm đếm lực lượng. Chí ít, trong tay phải có đủ cả 2 thứ, đó là quân và tiền. Đây toàn là những thứ, mà Trọng không có.

Thân, là Bí thư Quân ủy Trung ương, cộng thêm, tay đàn em thân tín nắm Bộ Quốc phòng. Điều đó, hoàn toàn không đồng nghĩa với việc, đã nắm chắc Quân cán. Ai “lương tướng” – ai “bẩn tướng”, Trọng sao biết được. Mảng kinh tế, xưa nay, cũng lại do Dũng nắm. Những tử huyệt của nó, nằm ở đâu, Dũng biết. Muốn phá Trong, dễ ợt. “Trong tay sẵn có đồng tiền/ Nói quấy nói quá, chúng nghe rầm rầm”.

Trong cái cuộc chiến sinh – tử này, Trọng chỉ nắm chắc trong tay, có đúng 1 thứ. Đó là, bọn Tuyên giáo. Bọn này, mồm cá ngão. Cả đời, chỉ biết ăn tục và nói phét. “Tiếng hát” của chúng, dẫu có hay, cũng chẳng thể “làm cho giặc điếc tai”. Có thực, mới vực được Đạo.

Đó là lí do thứ hai, khiến phe Trọng nhất định bại.

c- Sách Lục thao, thiên Quân thế chép rằng: 无恐惧,无犹豫。用兵之害,犹豫最大. Vô khủng cụ, vô do dự. Dụng binh chi hại, do dự tối đại. Tạm dịch: Không được sợ sệt, không được do dự. Trong tất cả những tai hại của việc dụng binh, do dự đứng đầu.

Khốn nỗi, đây lại là sở trường của Trọng. Muốn diệt chuột, nhưng ông ta lại sợ vỡ bình. Chống tham nhũng, lúc thế yếu, chỉ muốn dùng vũ khí phê bình và tự phê bình. Khi đã “lên hương”, lại ti toe, muốn dùng đại bác và hỏa tiễn xuyên lục địa. Kế hay – mẹo hiểm, dẫu có bày ra với những thằng cha ba phải và nhút nhát, phỏng có ích gì. Viên Thiệu, há chẳng phải tấm gương tày liếp đó sao? Tầm như Trọng, diệt ruồi cũng khó. Sao dám uống thuốc liều, để cưỡi lên lưng cọp.

Đó là lí do thứ 3 khiến phe Trọng tất bại.

d- “Yếu, đừng đứng ra trước gió”. Vừa mới ốm dây, đang còn phải ăn trả bữa. Thế mà, Trọng dám cả gan vác đinh ba, bổ cùng 1 lúc vào cả ba bốn con cọp. Ông muốn: loại Quang – sờ đít Thăng – xách tai Hoàng và mục tiêu cuối cùng, tóm gáy cừu thù Tấn Dũng.

Trong câu Sấm của Trạng Trình, xin độc giả, hãy để ý kĩ đến 1 điểm khác thường: Tứ trụ, được chia ra làm 2 mảng và cho vào cả 2 vế. Có điều, 2 mảng ấy, không quân bình. Quang được tách ra, để đứng riêng ở 1 vế. Ba tay còn lại, chung nhau 1 cái chuồng. Trong cái chuồng ấy, Trọng và Ngân dính với nhau, làm thành 1 cặp đôi hoàn chỉnh. Bỏ chữ Trọng, chữ Ngân ở đây, chẳng có ý nghĩa gì và ngược lại. Riêng Phúc, hình như, chưa được sự tín nhiệm tuyết đối. Do đó, tuy là đồng bọn và được đồng sàng. Nhưng quan hệ với đôi kia, vẫn bị lép vế và chỉ được đứng ở hạng chầu rìa.

Một khi, đã là câu đối, 2 cái vế của nó, phải đối nhau chan chat. Từ cái logic hình thức đó, mà suy ra rằng: Quang, hoàn toàn đối nghịch với 3 tay kia. Thực tế diễn ra, cũng gần đúng như vậy. Chỉ cần, xét trên vài luận điểm:

– Trong phiên tòa xét xử Dương Chí Dũng, ông ta khai ra những chi tiết, có liên quan tới Trần Đại Quang. Những chi tiết này, hoàn toàn bất lợi cho ngài Chủ tịch. Bởi thế, ngay lập tức, Chí Dũng đã bị quan tòa bịt miệng. Tuy vậy, không hiểu sao, cái Video clip ấy, lại bị rò rỉ ra bên ngoài. Phiên tòa ấy, chỉ có 2 loại người được vào: Công an và Tuyên giáo. Lộ ra ngoài, chẳng có loại thứ 3. Công an, dẫu cho ăn gan hùm, cũng không dám tố Thủ trưởng của mình. Do đó, có thể kết luận, 1 cách hết sức chắc chắn: Chính bọn Tuyên giáo lẻo mép, đã cố tình tiết lộ chi tiết này. Tuyên giáo, là con đẻ của đứa nào và tại sao, chúng lại làm như thế? Câu trả lời, xin nhường cho độc giả.

– Cái màn kia, tuy đê hèn và hiểm độc. Nhưng chưa đủ sức, đánh gục được Đại Quang. Lý do, tướng Phạm Quý Ngọ, nhân chứng duy nhất trong vụ này, “đang sống, bỗng đột ngột, chuyển sang từ trần”. Người chết, hết chuyện. Nghi án, đã được đóng lại vĩnh viễn. Cay cú, Trọng bày keo khác. Ông cho ban hành riêng, cái Thông báo số 13- TB/TW. Thông báo này, xác quyết: “Tuổi của đảng viên, xác định theo tuổi khai trong hồ sơ lý lịch gốc”. Đến nước này, Đại Quang hết đỡ. Quá lứa – nhỡ thì. Chỉ một hai năm nữa, Quang sẽ phải “ô tô ma tích”, cắp đít về hưu. Cùng với vết nhơ, khai man Lí lịch. Trong khi, Trọng lại có “miễn chiến bài”, về cái chuyện tuổi tác. Chưa kể đến chuyện, Trọng còn lần mò, để chen chân ngồi vào Đảng ủy Công an Trung ương. Chút quyền lực cuối cùng của Quang, cũng chẳng còn. Ông ta, trở thành dạng “hữu danh – vô thực”. Phú Trọng, quá giỏi. Ép Quang, hơn ép giò. Quang đã về rồi, khác gì, con rắn mới lột. Đánh kiểu gì, chẳng chết. Hai tay còn lại, không ai đủ trình và chẳng ai dám mơ, tới cái chân Tổng Bí thư. Trọng, “đành” phải lỗi hẹn, để ôm trọng trách hết khóa. Đó là lí do cơ bản nhất, khiến Trọng phải loại cho bằng được Đại Quang. Để, giữ vững ngôi vị, “tay tham nhũng quyền lực số một của Việt nam”.

– Tất nhiên, Đại Quang có thể khoanh tay, ngồi chờ người ta nện mình hay không, lại là chuyện khác. Xét về trình độ và bản lĩnh, ông ta, đều vượt trội, so với cái tay gà mờ Phú Trọng. Con người kín đáo và chuyên làm nghề An ninh như ông ta, một khi đã hành động, ít khi, để lại dấu vết. Trịnh Xuân Thanh, chỉ là khúc nhạc dạo đầu. Kịch hay, đang còn ở phía trước.

Nguyễn Tấn Dũng, cũng là tay sừng sỏ có tiếng. Ông ta, đã từng, làm cho Trọng phải nức nở trước bàn dân thiên hạ. Bây giờ, mất sạch quyền hành. “Hổ xuống đồng bằng, bị chó khinh”. Đòn thù, nếu có giáng xuống ông ta, cũng là điều dễ hiểu. Nhưng còn Đinh La Thăng, ông ta có tội tình gì, khiến cho Phú Trọng phải lao tâm – khổ tứ? Câu trả lời, hết sức đơn giản: Đây là tay tham nhũng và làm thất thoát rất nhiều tiền bạc của Nhân dân và Đất nước. Quan trọng hơn, y rất giàu. “Đánh con – kể tội”. Dân, thì được hả lòng. Còn phe bảo thủ, thu tiền về cả mớ. “Nhất tiễn – song điểu”. Ngu gì, mà không làm.

Xưa, Võ Tòng ở bên Tàu, là 1 dũng sĩ. Cùng bất đắc dĩ, mới phải đánh nhau tay không, với chỉ 1 con hổ. Nay, thư sinh Phú Trọng, dám tay không, xông vào giữa đàn hổ. Ngưỡng mộ, vô cùng.

Đó là lí do thứ 4, khiến phe Trọng tất bại.

Chừng ấy thứ, cũng thừa đủ, để Phú Trọng thân bại – danh liệt. Kể thêm nữa, làm gì. Chỉ biết rằng, cuộc giải phẫu mới bắt đầu. Nhưng mọi thứ, đã rối tinh – rối mù. Còn nội bộ, đã hoảng loạn hết cả lên. Bởi, đố tìm thấy ông cán bộ CS nào, liêm khiết. Các phe phái, đã buộc phải phân hóa – đã buộc phải co cụm – đã buộc phải sắm sửa khí giới và tất cả nín thở, đợi Trọng, sờ đến phao câu của mình.

Long tranh – hổ đấu” lần này, sẽ phơi bày tất cả những cái thối tha của cái Đảng CS đểu. Kết thúc cuộc chiến, ngôi nhà CS, sẽ bị phá tan hoang. Kẻ thắng cuộc, không thể dựng lại thể chế CS được nữa. “Đắm đò – giặt mẹt”. Họ sẽ phải lưu tên mình trong Lịch sử, bằng cách khác. Tỷ như, cách mà Yeltsin đã làm ở nước Nga, hoặc cách mà Thein Sein vĩ đại đã làm ở Miến điện. Bởi, chỉ có dùng cách đó, sự mất mát của họ, mới không nhiều. Nếu không muốn nói, là ngược lại. Người đó, không thể là Phú Trọng, Vậy, Trạng Trình nhắm ai?

4- Đọc đến câu “Quang tự diệt”, chắc chẳng có ai hiểu 1 cách thô thiển rằng: Nếu bị Trọng ép, Quang sẽ “học tập và làm theo tấm gương” của xạ thủ Đỗ Cường Minh. Không, ngàn vạn lần, không có chuyện đó.

Con tắc kè hoa, khi gặp nạn. Giữa cái sống và cái chết đang cận kề, nó chọn cách làm rụng đuôi của mình và tháo chạy. Những đối thủ của Trọng, cũng thế. Khi bị dồn vào tử địa, họ chỉ có 2 cách lựa chọn: Một là, bị Trọng khai trừ ra khỏi Đảng và bị điệu ra Tòa án của Trọng. Hai là, tự đoạn tuyệt với cái Lý tưởng CS đểu của mình và quay về với Nhân dân. Khôn ngoan, không ai chọn phương án một.

Do đó, lời Sấm của Trạng Trình, phải hiểu là: Nếu bị ép vào tử địa, Đại Quang, sẽ chọn phương án 2. Sau đó, tập hợp lực lượng, để dọn dẹp sạch sẽ cái bãi rác, có tên là CS. Mở đường và đảm bảo cho cái lộ trình Dân chủ hóa ở Việt nam, được diễn ra trong Hòa bình. Máu của con dân Đất Việt, sẽ bị đổ ra 1 cách ít nhất. Còn ông, sẽ ghi tên mình vào Lịch sử, như một “Thein Sein của Việt nam”.

5- Đến đây, bác độc giả cười rũ rượi: “Đó là câu chuyện hoang đường và nhảm nhí nhất, mà trong đời, tôi đã nghe được”. Mình thản nhiên:

– Lịch sử, đã ghi nhận những chuyện hoang đường và nhảm nhí, còn hơn thế nhiều. Chỉ xin, nêu vài dẫn chứng:

Cho đến cuối những năm 80 của thế kỉ trước, ai nói rằng: “Liên xô, thành trì của phe XHCN, sẽ sụp đổ hoàn toàn vào năm 1991”, người đó, chắc chắn, bị coi là kẻ hoang tưởng. Trước Đại hội lần thứ 12 của Đảng CS, ai nói rẳng: “Nguyễn Phú Trọng trúng Tổng Bí thư”, người đó, chắc chắn, bị coi là kẻ thần kinh. Euro 2004, ai nói rằng: “Hy lạp, sẽ là đội vô địch”, kẻ đó, chắc chắn, sẽ bị coi là người ngoài hành tinh.

Bác ấy đờ đẫn, như vừa bị trúng phong. Lát sau, lắp bắp hỏi: “Này, cái lão Dân già. Thiên cơ, bất khả lậu. Sao, lão cứ phèng phèng nói ra, như thế? Đã dám nói thế, sao không nói nốt: Bao giờ, thì thiên hạ thái bình?”. Mình cười: “Tôi chỉ là người hát rong. Bác và bà con, chấp làm gì. Trong bài Thử luận Sấm Trạng Trình (Trang Bùi Văn Bồng Ngày 25 – 9 – 2016), tác giả Minh Lê, đưa ra dự đoán: Thân – Dậu niên lai, kiến thái bình. Nghĩa là, nhà Sản sẽ ngắc ngoải vào năm Bính Thân (2016) và không sống được quá năm Đinh Dậu (2017) đâu. Tôi và bác, hãy ráng chờ”.

Nguyễn Tiến Dân

Tạm trú tại: 544 đường Láng – quận Đống đa – Hà nội.

Tel: 0168 – 50 – 56 – 430

Như Phong, La Thăng, Phú Trọng: Chính trường rối loạn

Như Phong, La Thăng, Phú Trọng: Chính trường rối loạn

Nguoi-viet.com

Nguyễn Như Phong, cựu đại tá công an, tổng biên tập báo PetroTimes vừa bị cách chức và thu hồi thẻ nhà báo. (Hình: Internet)

HÀ NỘI (NV) – Không chỉ giới truyền thông chính thống mà ngay cả công chúng cũng sửng sốt khi ông Nguyễn Như Phong, cựu đại tá công an, tổng biên tập PetroTimes, bị cách chức và tờ báo điện tử này bị đình bản trong ba tháng.

PetroTimes là báo điện tử của tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN). Còn ông Phong từng là đại tá công an, phó tổng biên tập tờ Công An Nhân Dân được PVN mời về làm tổng biên tập khi PVN có giấy phép xuất bản báo điện tử.

Tuy thuộc PVN, một tập đoàn nhà nước, song dưới sự điều hành của một cựu đại tá công an, PetroTimes đã tự lãnh nhận vai trò “xung kích trên mặt trận truyền thông,” cùng các tờ Nhân Dân (của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng CSVN), Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân “tả xung hữu đột” để bảo vệ chính quyền CSVN.

PetroTimes là tờ báo duy nhất tự hạch toán (tự thu chi, không ngửa tay nhận ngân sách để duy trì hoạt động như Nhân Dân Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân) nhưng luôn luôn tiên phong trong việc chỉ trích, bôi nhọ các cá nhân, các hoạt động đòi tự do, dân chủ và cũng vì vậy mà mức độ chỉ trích PetroTimes trên mạng xã hội còn lớn hơn những cơ quan truyền thông “ăn cơm chúa, múa tối ngày.”

Mức độ “trâng tráo, nhâng nháo” của PetroTimes được xem là lên tới đỉnh khi tháng 6 vừa qua, nhân “Ngày Báo Chí Cách Mạng Việt Nam,” PetroTimes giới thiệu bài “Nghề phóng viên là phải như con chó ấy” của ông Nguyễn Như Phong. Trong bài viết này, ông Phong khuyến cáo các đồng nghiệp bắt chước chó (trung thành, tôn thờ, yêu, vui buồn cùng chủ, bảo vệ chủ) vì “chó khôn nhờ chủ, nhà báo giỏi cũng nhờ chủ!”

Dẫu liên tục “đăng ký lập trường” theo kiểu như thế nhưng ngày 3 tháng 10 vừa qua, ông Phong vẫn bị cách chức, thu hồi thẻ nhà báo (một kiểu giấy phép hành nghề). PetroTimes thì bị tạm đình bản trong ba tháng.

Trong thông báo chính thức về sự kiện gây ngỡ ngàng ấy, Bộ Thông tin – Truyền thông của chính quyền Việt Nam cho biết lý do là vì PetroTimes có “sai phạm trong hoạt động báo chí” và cơ quan chủ quản đề nghị như vậy.

Bài trên báo Petro Times đ8ang lại bài phỏng vấn của tờ Thời Báo ở Đức. (Hình: Internet)

Bài trên báo Petro Times đăng lại bài phỏng vấn của tờ Thời Báo ở Đức. (Hình: Internet)

Nguyễn Như Phong và PetroTimes đột tử vì ai?

“Sai phạm trong hoạt động báo chí” của PetroTimes không được xác định nhưng cuối tuần vừa qua, PetroTimes dẫn lại nội dung cuộc phỏng vấn giữa blogger Người Buôn Gió và Thời Báo (một tờ báo tiếng Việt tại Đức) về quan hệ giữa blogger này với Trịnh Xuân Thanh và dù sau đó ít giờ dù PetroTimes đã tự ý đục bỏ nhưng vẫn không được tha.

Trịnh Xuân Thanh, con trai một nhân vật từng là cựu phó Ban Dân Vận của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSVN, vốn là tâm của một trận bão dư luận. Sau năm năm sang Đông Âu kiếm cơm, ông Thanh quay về Việt Nam và ngay lập tức được tuyển dụng làm lãnh đạo của nhiều doanh nghiệp nhà nước.

Khoảng cuối thập niên 2000, ông Thanh trở thành lãnh đạo Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí Việt Nam (PVC). Trong khoảng năm năm điều hành PVC, ông Thanh cùng các đồng liêu tạo ra khoản lỗ khoảng 3,300 tỷ đồng. Ông Thanh được rút ra khỏi PVC trước khi một số thuộc cấp bị tống giam và được bổ nhiệm làm trưởng văn phòng đại diện của Bộ Công Thương ở miền Trung rồi được rút về làm chánh văn phòng Ban Cán Sự Đảng của Bộ Công Thương. Kế đó ông Thanh được “luân chuyển” về tỉnh Hậu Giang làm phó chủ tịch của tỉnh này. “Luân chuyển” là một bước trong tiến trình sắp đặt – bổ nhiệm các viên chức đã được lựa chọn để đảm nhận những chức vụ cao hơn và quan trọng hơn trong hệ thống công quyền Việt Nam.

Do bão dư luận, ông Thanh xin thôi làm phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang, còn Ủy Ban Thường Vụ của Quốc Hội Việt Nam thì biểu quyết, loại ông khỏi danh sách Đại Biểu Quốc Hội. Cả tổng bí thư, chủ tịch Quốc Hội Việt Nam cùng hứa với công chúng là sẽ điều tra, bạch hóa xem tại sao ông Thanh có thể lọt lưới và tiếp tục thăng tiến bất thường như vậy.

Ngay sau đó có một tình huống phát sinh, ông Thanh đột nhiên biến mất. Ít ngày sau, blogger Người Buôn Gió loan báo ông Thanh đã tiếp xúc với mình và tố cáo đang bị ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN biến thành công cụ để thực hiện kế hoạch thanh trừng nội bộ. Ông Thanh đòi một cuộc “điều tra công bằng” và tuyên bố rời bỏ đảng CSVN.

Bão dư luận xoay chiều, từ ông Thanh, xoáy vào ông Trọng và âm mưu “loại trừ những thành phần ‘thân Mỹ,’ thâu tóm quyền lực, bán nước cho Tàu” của ông Trọng.

Công an Việt Nam khởi tố ông Thanh kèm lệnh truy nã. Bốn thuộc cấp của ông Thanh trong giai đoạn ông đang làm chủ tịch Hội Đồng Quản Trị PVC bị tống giam. Trong số này có ông Vũ Đức Thuận, tổng giám đốc PVC.

Giống như ông Thanh, ông Thuận cũng rời khỏi PVC trước khi công an Việt Nam điều tra về những sai phạm tại PVC dẫn tới khoản thua lỗ 3,300 tỷ đồng. Có một điểm đáng chú ý là “quá trình công tác” của ông Thuận giống hệt với “quá trình công tác” của ông Đinh La Thăng, nhân vật đang là ủy viên Bộ Chính Trị Đảng CSVN, kiêm bí thư thành ủy của Sài Gòn: Ông Thăng rời Tổng Công Ty Sông Đà thuộc Bộ Xây Dựng Việt Nam để về Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) thì sau đó, ông Thuận cũng rời Tổng Công Ty Sông Đà để về PVC, một doanh nghiệp thuộc PVN. Khi ông Thăng rời PVN về làm bộ trưởng Giao Thông-Vận Tải Việt Nam thì ông Thuận rời PVC để về Bộ Giao Thông-Vận tải Việt Nam làm chánh văn phòng. Đến lúc ông Thăng bỏ Bộ Giao Thông Vận Tải vào Sài Gòn làm bí thư thì ông Thuận không còn xuất hiện ở Bộ Giao Thông-Vận Tải nữa.

Sau khi ông Thuận bị công an Việt Nam bắt để điều tra về những sai phạm khiến PVC mất 3,300 tỷ, báo chí Việt Nam đồng loạt loan tin, sở dĩ ông Thuận không đến Bộ Giao Thông-Vận Tải làm chánh văn phòng vì… thành ủy Sài Gòn đã xin ông Thuận về làm việc. Một ngày sau khi loan tin này, báo chí Việt Nam đồng loạt đục bỏ nó.

Cần nhắc lại rằng trong vài năm gần đây, từ những thông tin, hình ảnh trên hệ thống truyền thông chính thống, ông Đinh La Thăng trở thành một “nhân vật” mà nhiều người cho là có thể thay đổi hệ thống công quyền Việt Nam theo chiều hướng tích cực hơn, bởi ngoài việc công khai chỉ trích các… thuộc cấp ông còn cách chức một số người làm việc thiếu hiệu quả. Chính trường Việt Nam từng có một “nhân vật” giống hệt như thế tên là Nguyễn Bá Thanh. Ông Nguyễn Bá Thanh đã chết hồi tháng 2 năm ngoái.

Scandal Trịnh Xuân Thanh chuyển hướng sau khi nhà báo Trương Huy San (Osin Huy Đức tác giả Bên Thắng Cuộc) nhận định, Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận chỉ là đồng phạm trong chuyện PVC mất 3,300 tỷ, thủ phạm chính gây thất thoát hàng trăm ngàn tỷ là ông Đinh La Thăng. Trong hai bài viết liên quan đến cáo buộc này, blogger Trương Huy San dẫn nhiều số liệu, dữ liệu, liệt kê tên một số cá nhân có thể xem như nhân chứng và đề nghị điều tra.

Hai bài viết về Đinh La Thăng của blogger Trương Huy San khiến nhiều người cho rằng blogger này là một “dư luận viên cao cấp” đang hỗ trợ ông Trọng thực hiện chiêu bài “chống tham nhũng” để loại trừ những thành phân ‘thân Mỹ,’ củng cố địa vị nhằm dễ dàng thực hiện “âm mưu bán nước cho Tàu.”

Dù tán thành hay không đồng tình với đề nghị của nhà báo Trương Huy San thì nhiều người vẫn tin rằng Đinh La Thăng sẽ là nhân vật kế tiếp bị “chặt đầu, lột da.” Đúng lúc đó tờ Thời Báo phỏng vấn blogger Người Buôn Gió về những bài viết liên quan đến Trịnh Xuân Thanh.

Theo blogger Người Buôn Gió thì ông Thanh tiếp xúc, cung cấp tài liệu cho anh ta nhằm “nhờ phản biện.” Ông Thanh đã cung cấp cho blogger Người Buôn Gió những tài liệu nhằm chứng minh 3,300 tỷ mà PVC làm mất là một thứ rủi ro có thể gặp trong trong kinh doanh chứ không phải tham nhũng.

PetroTimes , tờ báo của PVN, một thứ “xung kích trên mặt trận truyền thông” của chính quyền CSVN gặp đại nạn do đăng lại bài phỏng vấn vừa kể. Ông Đinh La Thăng từng là “thái thượng hoàng” của PVN.

Dòng thông báo trên trang Petro Times nay đã đóng cửa. 9Hình chụp qua màn hình)

Dòng thông báo trên trang Petro Times nay đã đóng cửa. (Hình chụp qua màn hình)

Tại sao tương lai của xứ sở và dân tộc vẫn là thứ yếu?

Hiện trạng kinh tế-xã hội của Việt Nam đã khiến nhiều triệu người Việt tỉnh ngộ. Lúc này, nhiều triệu người Việt không thèm giấu giếm sự khinh miệt và căm giận chính quyền CSVN. Họ muốn có sự thay đổi.

Trong bối cảnh khao khát thay đổi càng lúc càng mãnh liệt song không có cá nhân hoặc lực lượng đối lập nào đủ sức đối đầu với hệ thống công quyền, công chúng đã dồn niềm tin và hy vọng vào một số viên chức có vài tuyên bố và hành động dường như tử tế hơn đám đông viên chức đương nhiệm. Chẳng hạn ông Nguyễn Bá Thanh, cựu bí thư thành ủy Đà Nẵng, cựu trưởng Ban Nội Chính Trung Ương.

Tuy mồ ông Thanh đã xanh cỏ nhưng nhiều người vẫn còn ngậm ngùi vì ông ta ra đi quá sớm. Họ tin rằng nếu ông Thanh còn sống, chính trường Việt Nam sẽ khác. Niềm tin đó được xây trên những tuyên bố kiểu như sẽ “bắt hết, hốt hết” những viên chức tham nhũng và những tuyên bố hiếm có ấy trong một xã hội như xã hội Việt Nam đã giúp xóa hết tất cả các vết nhơ của ông Nguyễn Bá Thanh trong quá khứ.

Người ta quên ông Nguyễn Bá Thanh từng gây sức ép để thuộc cấp phải mang băng ca khiêng ông Trần Văn Thanh – một thiếu tướng công an đang cấp cứu tại bệnh viện – đến nhà hát Trưng Vương hầu tòa trong một vụ xử lưu động được tổ chức hồi tháng 7 năm 2009. Hồi giữa thập niên 2000, khi đang là giám đốc công an thành phố Đà Nẵng, ông Trần Văn Thanh là người cương quyết lôi ông Nguyễn Bá Thanh, lúc đó là chủ tịch thành phố Đà Nẵng ra tòa vì có đầy đủ dấu hiệu cho thấy ông Nguyễn Bá Thanh đã nhận hối lộ từ ông Phạm Minh Thông, giám đốc công ty Hợp Doanh Xây Lắp và Kinh Doanh Nhà Quảng Nam-Đà Nẵng. Tuy nhiên nỗ lực của ông Trần Văn Thanh bất thành.

Niềm tin vào ông Nguyễn Bá Thanh còn được củng cố nhờ sự khang trang của thành phố Đà Nẵng. Không mấy người muốn xét xem đằng sau sự khang trang đó nôi lực thật sự của Đà Nẵng ra sao và tiềm lực của thành phố này như thế nào sau khi đã bán sạch đất.

Để thỏa mãn sự tin yêu hiếm hoi của công chúng, chính quyền CSVN vừa loan báo đang xem xét việc phong tặng ông Nguyễn Bá Thanh danh hiệu “anh hùng.” Tin này làm nhiều người “hởi lòng, hởi dạ” vì “nguyện vọng” của họ được đáp ứng. Chừng đó là đủ để giúp quên nhiều thứ.

Tương tự, sự “ngưỡng mộ” ông Đinh La Thăng khiến người ta dễ dàng phản đối các cáo buộc của nhà báo Trương Huy San cho dù rõ ràng cần phải xem xét thực hư bởi nó liên quan đến hàng ngàn tỷ của công quỹ.

Cho đến giờ, chính phủ Hoa Kỳ chưa xác định viên chức nào trong chính quyền CSVN “thân” với mình. Chính quyền Trung Quốc cũng chưa loan báo viên chức nào trong chính quyền CSVN “theo” họ. Chỉ có dân chúng Việt Nam với sự âu lo cho tiền đồ của xứ sở, tương lai của dân tộc đang bị dẫn dắt bởi các “nguồn tin cung đình cho phép nhận định,” cá nhân này “thân Mỹ” còn nhóm kia “theo Tàu.”

Những “nguồn tin cung đình” vốn luôn tạo sự hiếu kỳ và những nhận định về chuyện “thân Mỹ,” “theo Tàu” từng giúp ông Nguyễn Tấn Dũng, cựu thủ tướng Việt Nam, có thể “rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”

Một Nguyễn Tấn Dũng được cho rằng “thân Mỹ” đã giúp người ta quên trách nhiệm của ông ta đối với kinh tế suy thoái, xã hội đảo điên, nợ nần tăng vọt. Quên luôn cả chuyện tương quan giữa lương Thủ tướng Việt Nam với chi phí của việc gửi cả ba đứa con ra ngoại quốc du học. Quên ông Dũng là người công khai hóa và mở đường cho phong trào công khai sắp đặt vợ chồng, con cái, anh chị em vào những vị trí lãnh đạo từ trung ương cho tới địa phương…

Càng ngày, điều quan trọng, cần nhớ và cần làm cho bằng được càng bị “thân Mỹ,” “theo Tàu” bôi mờ. Đó là ông Trọng hay ông Dũng, ông Thanh hay ông Thăng, hoặc ông X, ông Y, ông Z thổ tả nào đó, phàm đã là viên chức của chính quyền CSVN thì cũng không thể nào ký gửi cả niềm tin lẫn hy vọng.

“Thân Mỹ” hay “theo Tàu” chỉ là cách nói nhằm chứng tỏ sự “thạo tin,” “am tường thời cuộc.” Đôi khi đó là một kiểu lung lạc. Lịch sử cho thấy CSVN từng “thân” và “theo” nhiều thứ. Những “thân” và “theo” đó làm hàng chục triệu người “trao duyên lầm tướng cướp,” khiến cả xứ sở điêu linh, dân tộc lầm than. “Thân” và “theo” nay tiếp tục là chiêu đắc dụng để tìm kiếm sự hậu thuẫn của dư luận, cho các đương sự và băng nhóm của họ duy trì đặc quyền, đặc lợi.

Chẳng lẽ sau 62 năm ở miền Bắc và 41 năm trên toàn Việt Nam tất cả các viên chức CSVN vẫn chưa cần phải rời khỏi chỗ mà họ thật sự bất xứng? Chẳng lẽ vẫn chưa tới lúc hàng trăm triệu người Việt mới là thực thể có quyền quyết định “thân” và “theo” ai? Tại sao vấn đề cần bận tâm nhất lúc này vẫn không phải là có viên chức CSVN nào muốn thân dân và theo dân hay không. (G.Đ)

Đảng viên nói gì về cuộc biểu tình của giáo dân Kỳ Anh

Đảng viên nói gì về cuộc biểu tình của giáo dân Kỳ Anh

Sáng Chúa Nhật ngày 2/10/2016, đã có khoảng trên10.000 giáo dân của 7 giáo xứ trong Giáo hạt Kỳ Anh đã tập trung tại trước hai cổng vào nhà máy Formosa Hà Tĩnh - khu vực Vũng Áng Hà Tĩnh, để biểu thị thái độ phản kháng trước việc vô trách nhiệm của Formosa cũng như của các cấp chính quyền.

Sáng Chúa Nhật ngày 2/10/2016, đã có khoảng trên10.000 giáo dân của 7 giáo xứ trong Giáo hạt Kỳ Anh đã tập trung tại trước hai cổng vào nhà máy Formosa Hà Tĩnh – khu vực Vũng Áng Hà Tĩnh, để biểu thị thái độ phản kháng trước việc vô trách nhiệm của Formosa cũng như của các cấp chính quyền.

Citizen photo

Cuộc biểu tình của hơn 10.000 giáo dân Kỳ Anh tại Formosa Hà Tĩnh ngày 2/10/2016 có tiếng vang lớn, được dư luận quan tâm và đánh giá cao. Các đảng viên Đảng CSVN nói gì về việc nay?

Người dân đã hành động đúng

Sáng Chúa Nhật ngày 2/10/2016, đã có khoảng trên10.000 giáo dân của 7 giáo xứ trong Giáo hạt Kỳ Anh đã tập trung tại trước hai cổng vào nhà máy Formosa Hà Tĩnh – khu vực Vũng Áng Hà Tĩnh, để biểu thị thái độ phản kháng trước việc vô trách nhiệm của Formosa cũng như của các cấp chính quyền.

Các tin tức về về cuộc biểu tình này được lan truyền nhanh trên mạng xã hội và được nhiều người hết sức quan tâm và chia sẻ.

Từ Sài Gòn, Bác sĩ Đinh Đức Long, một người đã từ bỏ Đảng CSVN trước đây ít lâu thấy rằng, đây là một cuộc biểu tình được đánh giá là lớn nhất từ trước đến nay, xảy ra tại vùng đất nổi tiếng về truyền thống các cuộc cách mạng trong lịch sử Việt Nam. Ông nói với chúng tôi:

Tôi rất mừng và nghĩ rằng người dân đã hành động đúng vì họ đã nói thanh tiếng nói của chúng tôi, nhưng tiếc rằng mình không có mặt ở tại đó.
-BS Đinh Đức Long

“Tôi rất mừng và nghĩ rằng người dân đã hành động đúng vì họ đã nói thanh tiếng nói của chúng tôi, nhưng tiếc rằng mình không có mặt ở tại đó. Tôi cho rằng đó là tiếng chuông báo hiệu sự cáo chung của chế độ cộng sản, vì đất Nghệ An – Hà tĩnh là cái nôi của cách mạng, đã từng là nơi xuất phát của phong trào “Tiếng trống năm 1930” và chính họ là những người gây dựng nên chế độ này. Có lẽ rằng đất này cũng bắt đầu tiến trình thany đổi và khai tử chế độ này.”

Ông Nguyễn Khắc Mai nguyên Vụ trưởng Vụ Nghiên Cứu, Ban Dân vận Trung ương, hiện là giám đốc Trung tâm nghiên cứu Văn hoá Minh Triết nhận xét rằng, cuộc biểu tình của người dân Kỳ Anh ngày 2/10 vừa qua là một việc làm chính đáng và hết sức cần thiết. Theo ông, đây là biện pháp để buộc chính quyền phải tiến hành đối thoại với dân chúng để tìm ra một giải pháp thỏa đáng. Ông nói:

“Việc biểu tình của của người dân nói chung và bà con ở 4 tỉnh miền Trung chịu ảnh hưởng của việc Formosa thải chất độc làm cho biển độc, cá chết làm cuộc sống của họ khốn khổ, ảnh hưởng đến công ăn việc làm là quyền tự nhiên của họ, là quyền dân sự để cho xã hội cũng như nhà cầm quyền biết để cùng nhau xem xét để xử lý. Ở một thế giới văn minh thì đó là chuyện đương nhiên, bình thường của một Xã hội Dân sự.”

Đánh giá về khả năng tổ chức của cuộc biểu tình, BS. Đinh Đức Long nhận xét:

“Phải nói là sự tổ chức lãnh đạo rất tài giỏi của các Cha, họ là những người tổ chức thực hiện việc này. qua đó tôi nhận thấy rằng, rõ ràng đạo Công giáo đã đồng hành với lợi ích của dân tộc. Việc điều hành đảm bảo tình chất bất bạo động, không có gây rối, đập phá đã thể hiện tính tự giác. Đặc biệt cuộc biểu tình này là lần đầu tiên và chưa từng có trong lịch sử của chế độ này.”

14495399_10154676052399040_2162375083415116099_400.jpg
Cuộc biểu tình chống Formosa vào sáng Chủ Nhật 2 tháng 10 năm 2016 quy tụ hơn 10 ngàn người được người dân cả nước xem là một cuộc cách mạng của người dân Kỳ Anh Hà Tĩnh. Citizen photo.

Theo báo Hà Tĩnh, ngay 2/10/2016 cho rằng, cuộc biểu tình này là “Những hành động quá khích, vi phạm pháp luật này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của Công ty Formosa trong lúc doanh nghiệp đang tiến hành khắc phục, hoàn thiện hệ thống xử lý môi trường theo đúng yêu cầu của Chính phủ, Bộ TN&MT, tỉnh Hà Tĩnh; làm xấu môi trường đầu tư tại Hà Tĩnh nói chung và Khu kinh tế Vũng Áng nói riêng.”

Ông Nguyễn Khắc Mai cho rằng, mấu chốt của vấn đề là sự bất đồng về quyền lợi giữa chính quyền và người dân, việc chính quyền đặt quyền lợi của Formosa lên trên quyền lợi của dân chúng đã khiến cho người dân hết sức bất bình. Theo ông, khi cuộc sống yên bình của người dân ở đây đã chịu hậu quả thảm khốc do Formosa gây ra, thì chính quyền thờ ơ và không giải quyết thỏa đáng cho họ. Ông khẳng định:

“Trong cái vụ Formosa thì chủ trương của Đảng khác với nguyện ước của dân, khác với nhu cầu của đất nước và xã hội, vì thế nó trái ngược với nhau. Cho nên họ không muốn giải quyết vấn đề này. Thực ra vấn đề cũng hết sức đơn giản, chẳng hạn anh Nguyễn Thiện Nhân xuốn bàn với dân, ngồi trao đổi với họ, thì họ cũng không làm. Chính vì thế người ta mới bức xúc, mâu thuẫn bị đẩy đến đỉnh điểm và buộc họ phải hành động.”

Tinh thần bất bạo động được đánh giá cao

Theo các thông tin trên mạng xã hội cho biết “Công an, quân đội ban đầu trấn áp quyết liệt người biểu tình, song khi thấy số lượng người tham gia quá đông, đã rời bỏ hàng ngũ tháo chạy. Nhiều quân nhân còn nhanh chóng cởi bỏ quân phục để tránh bị phát hiện, vì họ thừa hiểu trong mắt người dân bấy giờ họ đang bảo vệ cho Formosa – thủ phạm trực tiếp gây ra cảnh khốn cùng của dân chúng.”

Biểu tình để biểu lộ ý chí của mình và họ làm xong thì họ về trong trật tự thì cũng khó để đàn áp. Đặc biệt, đàn áp giáo dân và một tôn giáo đó là việc mà bất kể quốc gia nào cũng phải chú ý và rất dè dặt.
-LS Trần Quốc Thuận

LS. Trần Quốc Thuận, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn Phòng Quốc hội đánh giá cao tinh thần bất bạo động, sự tổ chức chặt chẽ và tính tuân thủ kỷ luật của người biểu tình. Theo ông, đây chính là sự thành công và cũng là lý do đã khiến chính quyền không có phản ứng bằng bạo lực. Ông cho biết:

“Cuộc biểu tình này là bước tiếp theo của các cuộc biểu tình trước đây, sau việc 600 người nộp đơn kiện Forrmosa tại tòa án, thì đây cũng là việc thúc đẩy buộc Tòa phải giải quyết. Các giáo dân tổ chức rất chặt chẽ, trật tự, không cản trở giao thông, không xung đột… thì tôi nghĩ kiếm lý do để đàn áp thì cũng rất khó.”

LS. Trần Quốc Thuận cũng cho biết thêm lý do mà phía chính quyền sẽ không dám mạnh tay đối với các cuộc biểu tình tương tự trong thời gian tới. Ông nói:

“Biểu tình để biểu lộ ý chí của mình và họ làm xong thì họ về trong trật tự thì cũng khó để đàn áp. Đặc biệt, đàn áp giáo dân và một tôn giáo đó là việc mà bất kể quốc gia nào cũng phải chú ý và rất dè dặt. Chứ không phải lúc nào cũng đàn áp. Đàn áp người dân thường thì khác, nhưng động vào một tổ chức Tôn giáo thì đó là chuyện không đơn giản.”

Trong bài viết “Hãy đối thoại, chớ đàn áp dân”, GS-TS Mạc Văn Trang đã viết rằng, “Lúc đầu có xảy ra xô xát giữa công an và người dân, nhưng rất may, những người lãnh đạo cuộc biểu tình đã yêu cầu dân chúng không được manh động và lực lượng công an cũng rút lui. Qua những vụ việc trên, chứng tỏ dân chúng đã giác ngộ, biết đấu tranh ôn hòa, có tổ chức chặt chẽ… Điều đó hoàn toàn trái với luận điệu tuyên truyền: Dân ta dân trí thấp, tụ tập đông người sẽ sinh tâm lý bầy đàn, gây ra bạo loạn xã hội… Điều này càng cho thấy cấp thiết phải có Luật Biểu tình để người dân và chính quyền đều biết hành xử đúng luật.”

NHỮNG VỤ TỰ SÁT KHÓ HIỂU

NHỮNG VỤ TỰ SÁT KHÓ HIỂU

Ngô Thanh Tú
Ngày 3/10/2016 xảy ra hai vụ tự sát cực kỳ khó hiểu. Vụ đầu tiên xảy ra tại thành phố Cẩm Phả (Quảng Ninh), người đàn ông tên Lê Thành (50 tuổi) đón xe taxi đến khu trung tâm đông người, đối diện với trụ sở hành chính thành phố rồi giựt mìn tự sát. Cái chết của ông còn kéo theo cả anh tài xế vô tội.

Công an Cẩm Phả kết luận ông Thành có ý định tự sát, điều này đã được thể hiện qua lá thư tuyệt mệnh. Tuy nhiên, công an không cung cấp lá thư này cho báo chí. Ông Thành được công an nói là bị nhiễm HIV do chơi xì ke nên mới muốn chết để khỏi phiền vợ con. Nhưng, tại sao một người muốn chết lại chọn cách kinh hoàng nhất, đó là giựt mìn cho nổ? Đã vậy lại còn chọn nơi đông người qua lại, trước trụ sở hành chính thành phố? Muốn tự sát sao lại còn kéo theo anh chạy taxi vô tội?

Vụ thứ hai là tại phòng làm việc của Viện trưởng Viện kiểm sát huyện Quốc Oai (Hà Nội). Ông Tô Ngọc Chuẩn, Viện trưởng được biết là đã tự sát bằng cách dùng dao đâm vào tay, dùng kéo hoặc dao đâm vào cổ và đâm thủng phổi để quyên sinh.
Tự đâm vào tay đã khó, nhưng khi đâm vào tay đau quá chẳng lẽ chưa chịu thôi ý định tự sát? Đằng này lại còn dùng kéo hoặc dao đâm thủng phổi, sao tài giỏi vậy nhỉ? Chưa hết, lại còn đâm vào cổ mình nữa.
Người Nhật với tinh thần Samurai (Võ sĩ đạo) chắc hẳn cũng phải bái ông Chuẩn làm sư.
Vụ tự sát này làm tôi nhớ đến Chi cục trưởng Kiểm lâm Yên Bái, ông Đỗ Cường Minh. Ông Minh được biết là đã tự sát trong tư thế chỉa súng ra sau ót và bóp cò, không phải 1 mà là 2 phát.
Ở Việt Nam, đã không tự sát thì thôi, một khi đã tự sát thường chọn những tư thế rất khó, không giống ai


FB Ngô Thanh Tú

Bình luận của Huynh Ngoc Chenh: 
Làm cán bộ nhà nước còn khổ hơn con gì mà anh Như Phong nói đó.

Bị trộm mất vài chục tỷ đồng không dám khai báo, còn phải đi lo lót báo chí để khỏi đưa tin. Bị đâm cho ba nhát chí tử mà cứ nhận là tự đâm vào mình. Bị cách mất chức và thu thẻ nhà báo một cách vô lý mà không dám ẳng một tiếng…

Formosa – sự chấm dứt của triều đại cộng sản?

Formosa – sự chấm dứt của triều đại cộng sản?

Paulus Lê Sơn (Danlambao) – Kể từ khi Formosa gây ra thảm họa môi trường biển cho Việt Nam, lòng dân khắp nơi sục sôi phẫn uất trước thái độ ngang ngược của chính công ty Formosa và sự lấp liếm bao che của nhà cầm quyền Hà Nội. Những hành động mập mờ, trắng đen lẫn lộn của nhà cầm quyền càng khiến cho người dân Việt Nam sục sôi và căm giận.
Hơn nửa năm đã trôi qua mà thảm họa Formosa vẫn còn nguyên đó, thậm chí mỗi ngày lại phát hiện nhiều hơn những hành động phá nát môi trường của công ty Formosa qua việc chôn lấp chất thải rắn rải khắp các tỉnh thành.
Những thực trạng xã hội tại Việt Nam đang diễn ra là chỉ dấu hết sức hiện hữu có vai trò to lớn để kết thúc triều đại cộng sản. Bài viết này chỉ dám lạm bàn về thảm họa Formosa mà không đề cập đến nguyên nhân kinh tế, quốc phòng cũng đang trong tình trạng suy thoái và nhiễu nhương.
Đây là một thảm họa chung cho cả dân tộc, ai ai cũng phải hứng chịu, trong đó có gia đình thân nhân của công an, an ninh và bộ đội là khiên che thuẫn đỡ cho chế độ. Nhưng thử hỏi, liệu hàng ngày ngồi vào mâm cơm cùng ăn với cha mẹ, vợ con thì lực lượng bảo vệ đảng cộng sản có thấy lo sợ và đau nhói trong lòng hay không khi những thực phẩm cá biển chim trời bị nhiễm độc là thần chết luôn rình rập thân nhân của họ?
Tôi tin chắc rằng lực lượng công an, quân đội đang có sự chán chường và mệt mỏi không hề nhỏ trước sự lãnh đạo của đảng cộng sản và hiện trạng đất nước. Tất nhiên chúng ta không thể ngây thơ để tin tưởng rằng họ sẽ trở cờ và trở về với nhân dân. Những hình ảnh cảnh sát cơ động, quân đội chùn tay và cởi áo bỏ chạy trước sức mạnh của người dân Hà Tĩnh trong cuộc biểu tình ngày 02.10.2016 vừa qua là một tín hiệu đáng mừng.
Động thái không dùng súng ống và dùi cui để đàn áp người dân Hà Tĩnh cho thấy một cái nhìn khách quan về giá trị nhân văn trong họ vẫn trỗi dậy. Quân lính Đông Đức bất tuân lệnh cấp trên chống lại nhân dân trước bức tường Bá Linh năm 1989 có thể là một bài học chân thật nhất cho quân đội và công an Việt Nam.
Khát vọng được sống trong một đất nước dân chủ, tự do là một khát vọng hết sức chính đáng. Người dân hành động để cứu nguy đất nước bị độc tố để mong mỏi được sống trong môi trường trong sạch lại càng thực tế hơn.
Formosa – đã, đang cắt đi từng khúc dạ dày của ngư dân Miền Trung và nhân dân cả nước. Trong khi đó cộng sản Việt Nam lại sẵn sàng đào mồ để chôn sống nhân dân mình một cách vội vã. Hai thế lực này như một nhà hòm tiễn đưa xác chết về với đất nhanh hơn. Người dân nhận thấy sự sống của mình đang thoi thóp trước gọng kiềm này nên họ phải vắt kiệt sức còn lại của mình để tìm sự sống trong cái chết.
Formosa là một trang đen tối trong chiến lược chính trị của cộng sản. Họ đang tự dìm mình trong một tư thế tiến thoái lưỡng nan trước sức mạnh của toàn dân: “chọn Formosa hay chọn nhân dân”. Formosa làm cho đời sống nhân dân khổ cực trăm bề. Về mặt xã hội thì thiếu dân chủ và công bằng. Tình trạng đó kéo dài đã khơi sâu lòng bất mãn trong quần chúng.
Thiếu tôn trọng đầy đủ các quy luật phát triển khách quan các quyền căn bản con người, coi thường và khinh dể ý chí người dân. Đó là một sự lạc lối và mất phương hướng chính trị và những nguyên tắc đối nội sẽ đẩy bất cứ chế độ nào xuống mồ một cách nhanh nhất.
Khí thế của người dân miền Trung mãnh dũng bước đầu chiếm lĩnh được bức tường thành Formosa là một lời cảnh tỉnh mạnh mẽ đối với cộng sản Hà Nội. Đến thời điểm này nhân dân Việt Nam không còn ảo tưởng vào cộng sản và cũng không còn ảo tưởng rằng cộng sản là thành trì kiên cố không thay thế được.
04.10.2016

CẢM ƠN CÁC ANH ĐÃ BỎ CHẠY

From:   Trong Nguyen shared Nguyễn Hữu Thao‘s post.
Nguyễn Hữu Thao's photo.
Nguyễn Hữu Thao's photo.

Nguyễn Hữu Thao added 2 new photos.

 CẢM ƠN CÁC ANH ĐÃ BỎ CHẠY

Xin cảm ơn các anh, không đàn áp nhân dân
Các anh bỏ chạy – nước Việt Nam ghi nhận
Các anh thua bởi nhân dân sức mạnh
Cảm ơn các anh đã cởi áo, bỏ chạy hôm nay!

Và xin đừng bận tâm vì dân ném đá chửi ai
Vì phẫn nộ đã trào dâng đỉnh điểm
Nhân dân hiểu các anh cũng bát cơm tìm kiếm
Có sung sướng gì chống đối lại nhân dân!

Các anh chạy hôm nay, là chạy về với dân
Là quay lại với lương tâm, công lý
Là quay lại với tình yêu đất mẹ
Dã tâm nào đàn áp lại mẹ cha!

Các anh bỏ chạy vì không muốn đánh đập dân ta
Chứ không phải vứt súng quay lưng đầu hàng chạy giặc
Các anh chạy vì bình yên đất nước
Không muốn gieo tang tóc cho những ngôi nhà!

Các anh hiểu, chúng nó Formosa
Đã giết chết biển miền Trung ta đó
Đã huỷ hoại môi trường, cá tôm còn đâu nữa
Đẩy hàng triệu người vào cảnh lầm than!

Nhìn các anh chạy mà chúng tôi mừng vui hơn
Khi con em mình đã không thành ác thú
Khi con em mình đã nhìn nhận thức đầy đủ
Bảo vệ ai: Nhóm lợi ích – Nhân Dân???

(Hình ảnh chụp lại từ clip của fb. Sơn Văn Lê)

02/10/2016. NHT.

Sáu bài học từ Mẹ Têrêxa mà bạn có thể áp dụng trong cuộc sống

 Sáu bài học từ Mẹ Têrêxa mà bạn có thể áp dụng trong cuộc sống

phanxicovn me-teresa

Sáu bài học từ Mẹ Têrêxa mà bạn có thể áp dụng trong cuộc sống

1- Khiêm tốn

Chúng ta có thể thực hành bài học này bằng cách: Nói về mình ít nhất có thể. Lo công việc của mình. Tránh tò mò. Chấp nhận các nghịch lý và vui vẻ sửa đổi. Bỏ lơ các sai lầm của người khác. Chấp nhận bị tổn thương, bị chế giễu. Chấp nhận bị khinh, bị ghét, bị quên. Hiền lành và dễ thương dù bị khiêu khích. Không làm hại nhân cách của ai. Luôn chọn làm điều khó nhất.

Nếu bạn khiêm tốn thì không có gì có thể đụng đến bạn được, khen cũng như chê, vì bạn biết bạn là ai.

2 – Làm ngang sức của mình

Sống đơn giản để người khác cũng có thể sống đơn giản.

Chúng ta có cảm nhận những gì mình làm chỉ là một giọt nước trong lòng đại dương. Nhưng đại dương sẽ khác đi vì có giọt nước này.

Tôi làm những chuyện mà bạn không thể làm, bạn làm những chuyện mà tôi không thể làm, cùng nhau, chúng ta có thể làm những chuyện cao lớn

3 – Đừng xem tất cả là nghiêm trọng

Con người thường phi lý, mất lý trí, ích kỷ chỉ nghĩ về mình. Dù vậy cứ thương họ!

4 – Đừng nhấn mạnh đến lỗi lầm của người khác

Tình yêu mãnh liệt không đo đếm. Là nhưng không.

Tôi khám phá một nghịch lý. Nếu bạn yêu cho đến đau đớn thì không còn đau đớn, chỉ còn tình yêu.

Đôi khi chúng ta nghĩ nghèo là không có ăn, không có mặc, không nhà ở. Cái nghèo lớn nhất là bị bỏ rơi, không được yêu, không được chăm sóc. Chúng ta phải bắt đầu sửa loại nghèo này trong chính nhà mình.

5- Luôn lịch sự dù ở trong tình trạng nào

Khi gặp nhau luôn có nụ cười, nụ cười là khởi đầu của tình yêu.

Cho vợ chồng, cho con cái mình, cho người láng giềng tình yêu… Đừng bao giờ để ai đến với mình mà khi họ ra họ không tốt hơn, không hạnh phúc hơn.

Nếu bạn phán xét người khác, bạn không có thì giờ để thương họ.

Một đời sống không sống vì người khác không phải là một đời sống.

6 – Chọn con đường khó nhất

Đừng hài lòng chỉ đơn giản cho tiền. Tiền không đủ, tiền là của cải mình có thể làm ra, nhưng tình yêu phải được nhận như một món quà. Hãy tỏa lan tình yêu nơi nào bạn đi qua.

Đừng chờ ở các người điều khiển, cứ làm một mình, từ người này qua người kia.

Trung tín trong từng việc nhỏ, vì sức mạnh của bạn ở trong chính những việc nhỏ này.

Đụng đến người gần chết, người nghèo, những người ở một mình, những người không ai mong muốn tùy theo ơn mình nhận, đừng bao giờ ngần ngại hoặc chậm chạp khi làm công việc khiêm tốn này.

Marta An Nguyễn chuyển dịch

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

MẸ MÂN CÔI – MẸ CHIẾN THẮNG

 MẸ MÂN CÔI – MẸ CHIẾN THẮNG

 ĐGM Vũ Duy Thống

Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ.  Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời.  Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến.  Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi.  Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo.  Người ta mở lễ ăn mừng.  Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.

kinh-man-coi

Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng.  Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn.  Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng.  Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.

1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”.  Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người.  Điều này thật quan trọng và chính yếu.  Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa.  Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.

“Xin Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa.  “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi.  “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh, hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn.  “Xin Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.

Rõ ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria.  Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.

Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.

2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”.  Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất.  Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức.  Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria.  Đó cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.

Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ.  Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.

Bên kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng.  Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ.  Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.

Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.

3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi

Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.

Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ.  Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người.  Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.

Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng.  Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực.  Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.  Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.

Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của mình.  Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra.  Khối kẻ u đầu sứt trán.  Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy.  Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ.  Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.

Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.

 ĐGM Vũ Duy Thống

(trích trong “Với Cả Tâm Tình”)

Langthangchieutim gởi