SỐNG Ý NGHĨA

SỐNG Ý  NGHĨA

Hãy chia nhau những gì mình biết

Đừng khư khư ích kỷ giữ riêng

Mai chết đi sẽ bị thất truyền

Đời ý nghĩa là khi chia sẻ

Hãy cứ thương đi dù ai ghét

Dù ai ganh, bôi bác thị phi

Thói đời vẫn vậy chấp mà chi

Đời ý nghĩa là khi tha thứ

Hãy giúp đỡ đi nếu có thể

Đừng nề hà cân nhắc thiệt hơn

Cũng đừng mong ai đó trả ơn

Đời ý nghĩa khi làm thiện nguyện

Hãy cứ cho đi, đừng tiếc rẻ

Mai ta về chẳng thể mang theo

Thế gian biết bao kẻ khó nghèo

Đời ý nghĩa là khi cống hiến

 

ĐỪNG TƯỞNG…..

Những bài thơ đi cùng năm tháng

ĐỪNG TƯỞNG…..
Tác giả: Bùi Giáng

Đừng tưởng cứ núi là cao
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù
Đừng tưởng cứ dưới là ngu
Cứ Trên là Sáng cứ Tu là Hiền
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên
Cứ nhiều là được cứ tiền là xong
Đừng tưởng không nói là câm
Không nghe là điếc không trông là mù
Đừng tưởng cứ Trọc là Sư
Cứ Vâng là Chịu cứ ừ là Ngoan
Đừng tưởng có của đã sang
Cứ Im lặng tưởng là Vàng nguyên cây
Đừng tưởng cứ uống là say
Cứ chân là bước cứ tay là sờ
Đừng tưởng cứ đợi là chờ
Cứ âm là nhạc cứ thơ là vần
Đừng tưởng cứ Mới là Tân
Cứ Hứa là Chắc cứ Ân là Tình
Đừng tưởng cứ thấp là khinh
Cứ chùa là tĩnh cứ đình là to
Cứ già là hết hồ đồ
Cứ trẻ là chẳng âu lo buồn phiền
Đừng tưởng cứ quyết là nên
Cứ mạnh là thắng cứ mềm là thua
Dưa vàng đừng tưởng đã chua
Sấm rền đừng tưởng sắp mưa ngập trời
Khi vui đừng tưởng chỉ cười
Lúc buồn đừng tưởng chỉ ngồi khóc than
Đừng tưởng cứ nốc là say
Cứ Hứa là Thật, cứ Tay là Cầm
Đừng tưởng cứ giặc – ngoại xâm
Cứ Bè là Bạn, cứ Dân là Lành
Đừng tưởng cứ trời là xanh
Cứ Đất và Nước là thành Quê Hương
Đừng tưởng cứ Lớn là Khôn
Cứ Bé là Dại, cứ Hôn… là Chồng
Đừng tưởng chẳng có thì không
Chẳng trai thì gái, chẳng ông thì bà
Đừng tưởng chẳng gần thì xa
Chẳng ta thì địch, chẳng ma thì người
Đừng tưởng chẳng khóc thì cười
Chẳng lên thì xuống, chẳng ngồi thì đi
Đừng tưởng sau nhất là nhì
Gần quan là tướng, gần suy là hèn
Đừng tưởng cứ sáng là đèn
Cứ đỏ là chín, cứ đen là thường
Đừng tưởng cứ đẹp là thương
Cứ Xấu là Ghét, cứ Vương là Tình
Đừng tưởng cứ ghế là vinh
Cứ tiền là mạnh, cứ dinh là bền
Đừng tưởng cứ cố là lên
Cứ lỳ là chắc, cứ Bên là Gần
Đừng tưởng cứ đều là cân
Cứ đông là đủ, cứ ân là nhờ
Đừng tưởng cứ vần là thơ
Cứ âm là nhạc, cứ tờ là tranh
Đừng tưởng cứ vội thì nhanh
Cứ Tranh là Được, cứ Giành thì Hơn
Đừng tưởng Giàu hết Cô đơn
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo
Đừng tưởng cứ bến là neo
Cứ suối là lội, cứ đèo là qua
Đừng tưởng chồng mẹ là cha
Cứ khóc là khổ cứ la là phiền
Đừng tưởng cứ hét là điên
Cứ làm là sẽ có tiền đến ngay
Đừng tưởng cứ rượu là say
Cứ gió là sẽ tung bay cánh diều
Đừng tưởng tỏ tình là yêu
Cứ thơ ngọt nhạt là chiều tương tư
Đừng tưởng đi là sẽ chơi
Lang thang dạo phố vào nơi hư người
Đừng tưởng vui thì sẽ cười
Đôi hàng nước mắt lệ rơi đầm đìa
Đừng tưởng cứ mực là bia
Bút sa gà chết nhân chia cộng trừ…
Đừng tưởng cứ gió là mưa
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè
Đừng tưởng cứ hạ là ve
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu là lá tuôn
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu.
Đừng tưởng cứ Thích là Yêu
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay
Đừng tưởng tình chẳng lung lay
Chỉ một giấc ngủ, chẳng may … có bầu.
Đừng tưởng cứ cầu là hên,
Nhiều khi gặp hạn, ngồi rên một mình.
Đừng tưởng vua là anh minh,
Nhiều thằng khốn nạn, dân tình lầm than.
Đừng tưởng tìm bạn tri âm,
Là sẽ có kẻ mạn đàm suốt đêm.
Đừng tưởng đời mãi êm đềm,
Nhiều khi dậy sóng, khó kềm bản thân.
Đừng tưởng cười nói ân cần,
Nhiều khi hiểm độc, dần người tan xương.
Đừng tưởng trong lưỡi có đường
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người
Đừng tưởng cứ chọc là cười
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao ?!!!
Đừng tưởng khó nhọc gian lao
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay
Đừng tưởng cứ giỏi là hay
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần
Đừng tưởng cứ quỳnh là thơm
Nhìn đi nhìn lại hóa ra cúc quỳ
Đừng tưởng mưa gió ầm ì
Ngày thì đã hết trời dần về đêm
Đừng tưởng nắng gió êm đềm
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng
Đừng tưởng góp sức là chung
Chỉ là lợi dụng lòng tin của người
Đừng tưởng cứ tiến là lên
Cứ lui là xuống, cứ yên là mằn (mần, làm)
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu
Đừng tưởng cứ khóc là sầu
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng
Đừng tưởng cứ nước là trong
Cứ than là hắc, cứ sao là vàng
Đừng tưởng cứ củi là than
Cứ Quan là Có, cứ Dân là Nghèo_
Đừng tưởng cứ khúc là eo
Cứ lúc là mạc, cứ Sang là Giàu
Đừng tưởng cứ thế là khôn!
Nhiều thằng khốn nạn còn hơn cả mình
Đừng tưởng lời nói là tiền
Có khi là những oán hờn chưa tan
Đừng tưởng dưới đất có vàng
Vàng đâu chả thấy phí tan cuộc đời
Đừng tưởng cứ Nghèo là Hèn
Cứ Sang là Trọng, cứ Tiền là Xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lúc thịnh, lúc suy
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi nhớ lấy đừng quên…

Tác giả: nhà thơ Bùi Giáng

Nếu thấy ý nghĩa trong cuộc sống bạn hãy chia sẻ cho nhiều người cùng biết.

SINH NHẬT 60 (16-5-1955)

SINH NHẬT 60 (16-5-1955)

Song Như

Mới đó mà nay đã sáu mượi
Nhớ quá đi thôi tiếng mẹ cười
Trăng tròn trăng khuyết nuôi con lớn
Mẹ mãi bôn ba phận làm người…

Nước mắt mừng vui lúc sinh con
Nắm lấy tay chân biết no tròn
Biết trong cơ thể một nguồn sống
Biết đến sau này rạng sắc son…

Góp hết gia tài để con đi
Một chuyến phiêu lưu mẹ xá chi
Lòng con nặng trĩu đêm xa cách
Lệ thảm tuôn dòng mãi khắc ghi…

Mấy độ xuân tàn muốn về thăm
Mẹ bảo không sao mẹ sống trăm
Bao ngày lần lựa không về được
Mẹ khuất dương gian mãn kiếp tầm…

Đã biết bao lần sinh nhật con
Nhớ mẹ đê mê nhớ vẫn còn
Vang vang trong gió lời mẹ dặn
Sống phải nên người…ráng nghe con…

Liverpool.16-05-2015

Song Như

Kính dâng mẹ yêu…
Hôm nay là sinh nhật lần thứ 60 của con.
LKT.

NGÀY XƯA ÁO TÍM

NGÀY XƯA ÁO TÍM

Về đâu áo tím ngày xưa
Xa xôi khuất nẻo nắng mưa đợi chờ
Áo bay hồn nhớ như mơ
Áo xa màu tím ngẩn ngơ nhớ về
Trăng treo rụng xuống hương thề
Mây bay lờ lửng quên đề vần thơ
Chia chi lối cũ đôi bờ
Dòng sông uốn khúc bơ vơ liễu buồn
Lục bình xuôi ngược lên nguồn
Con đò xa bến bỏ luôn mái chèo
Sáo ơi sáo chớ mè nheo
Quên lồng một thuở trăng treo vẫn chờ
Đường xưa khách lỡ cung hờ
Âm vang lạc phách thẫn thờ đắng cay…

Liverpool.11-5-2015
Song Như

HAI SẮC HOA TI GÔN

HAI SẮC HOA TI GÔN
T.T.Kh

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người ấy với yêu thương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng lạnh lòng.

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài những lúc thấy tôi vui.
Bảo rằng “Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng thế thôi.”

Thuở đó nào tôi có hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Mầu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biết suy.”

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu đương.
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui, pháo nhuộm đường.

Từ đấy thu rồi thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
“Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn giấu trong tim bóng một người.

Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhung hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu cũ rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ,
Chiều thu hoa đỏ rụng, chiều thu…
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng,
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi, người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng

********************************

Huyền thoại thi ca tiền chiến Việt Nam những năm 1937-38 bỗng nổi cơn ba đào với bốn bài thơ ký tên T.T.Kh rồi sau đó lặng lẽ tan vào cõi hư không mặc cho dư luận ồn ào xôn xao.  Chất hưng phấn làm hoa ti gôn nở rộ một thời được khai hoa nở nhụy bằng một câu chuyện “Hoa ti gôn” của ký giả Thanh Châu đăng trên báo “Tiểu Thuyết Thứ Bảy” xuất bản tại Hà Nội.  Là một truyện ngắn không có gì đặc sắc nhưng nhẹ nhàng và bay bổng, “Hoa ti gôn” kể về một chuyện tình buồn giữa một chàng họa sĩ và một thiếu nữ gia đình thượng lưu.

Sau đó không lâu, tòa soạn nhận được một bài thơ “Hai sắc hoa ti gôn”, ký tên T.T.Kh do một người thiếu phụ trạc hai mươi, dáng bé nhỏ thùy mị, nét mặt u buồn mang đến.  Đó là lần đầu và cũng là lần cuối người thiếu phụ nầy xuất hiện.  Câu chuyện “Hoa ti gôn” đã khơi lại mối tình xưa của người thiếu phụ (T.T.Kh.) với một chàng nghệ sĩ, cả hai đã qua một thời yêu thương hẹn hò dưới giàn hoa ti gôn.  Rồi chàng ra đi biền biệt không hẹn ngày về.  Nàng ở lại vâng lời mẹ cha gạt nước mắt nên duyên cùng người khác – một người chồng luống tuổi – để rồi tan nát tâm tư mỗi khi nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của thời quá khứ.  Bài thơ Hai sắc hoa ti gôn đã gây nên xúc động lớn trong lòng người yêu thơ bởi những câu thơ quá da diết.  Sau bài thơ nầy, toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bẩy lại nhận được bằng đường bưu điện ba tác phẩm khác cũng mang tên T.T.Kh.  Đó là các bài “Bài thơ thứ nhất”, “Bài thơ đan áo” (riêng đăng ở Phụ nữ thời đàm) và “Bài thơ cuối cùng”.

Từ đó về sau, người ta không còn gặp thơ của T.T.Kh nữa.  Không ai hiểu tại sao bài “Hai sắc hoa ti gôn” lại xuất hiện trước “Bài thơ thứ nhất” và cũng không hiểu tại sao tác giả lại lặng lẽ rời bỏ văn đàn không lời từ biệt để lại trong lòng người yêu thơ bao nỗi niềm thương nhớ luyến tiếc.

********************************

Bảy mươi năm trôi qua, nhân gian tốn bao giấy mực để tìm hiểu T.T.Kh là ai.  Người thì đoán Trần Thị Khánh, một nữ sinh Hà nội, người yêu của Thâm Tâm, một nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với bài Tống Biệt Hành.  Kẻ lại bảo là Nguyễn Bính, rồi em gái họ nhà thơ Tế Hanh.  Người khác đoan chắc đó là Trần Thị Vân Chung, người yêu nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn.  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi tác giả tiếp tục thinh lặng “sống hờ hết kiếp, trong duyên trái đời”.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình buồn nếu chỉ có một người?  Thế là dư luận đổ xô đi tìm “người ấy” của T.T.Kh để hỏi xem “người ấy có buồn không?  Có còn nghĩ tới loài hoa vỡ”. Kẻ xầm xì nói đó là nhà thơ Thâm Tâm, người lại bảo là nhà văn Thanh Châu.  Nguyễn Bính, J. Leiba và bao nhiêu anh hùng thiên hạ khác nữa cũng nhận T.T.Kh. là người yêu của mình!  Ai đúng ai sai, làm sao biết được khi loài hoa ti gôn chỉ nở một lần, hoa rụng mang theo niềm bí mật của người yêu hoa.

Làm sao có thể dệt nên chuyện tình ngang trái nếu không có người thứ ba, là kẻ có nợ nhưng không duyên, có nghĩa nhưng không tình?  Thế mà thiên hạ chẳng ai buồn tìm hiểu người chồng “nghiêm luống tuổi” là ai?  Báo chí chẳng tốn một giọt mực, không một lời phân ưu.  Chẳng ai buồn thắc mắc đến danh tính của kẻ chiến thắng nhưng lại là chiến bại, kẻ “được” nhưng là “mất”.  Cũng như vợ mình, chân dung của ông vẫn là một ẩn số phụ bé nhỏ không lối đáp trong nghi án văn học T.T.Kh.

Bài thơ tình lãng mạn thời tiền chiến này đã đi sâu vào lòng tôi một thời.  Ngắm hoa ti gôn “sắc hồng tựa trái tim tan vỡ, và đỏ như màu máu thắm pha”, tôi ngậm ngùi xót thương người con gái bạc phận ôm mối tình dang dở lên xe hoa, theo lời mẹ cha nhắm mắt đưa chân sống “quang cảnh lạ, tháng năm dài.  Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.” Tôi cảm thông tâm tình cay đắng người thiếu phụ buồn ngồi bên song cửa sổ miễn cưỡng “đan đi đan lại áo len cho chồng” mà mắt cứ dõi nhìn phương xa.  Tôi thầm trách “người ấy” đã làm tan nát thêm cõi lòng người yêu khi mang “bài thơ đan áo nay rao bán, cho khắp người đời thóc mách xem”. Xót xa, tiếc nuối…. là những tình cảm lưu luyến dành cho hai nhân vật trai thanh gái tú có duyên gặp gỡ nhưng không phận phu thê đã dệt nên những áng thơ tình bất hủ cho nền văn chương Việt Nam!

Cũng như người đời, tôi chưa một lần thắc mắc tâm tư người chồng đi bên lề cuộc đời vợ mình ra sao.  Ông buồn hay vui khi đêm đêm nằm ôm cái xác không hồn với cặp mắt ngơ ngác thất thần?  Ông nghĩ gì khi môi đụng làn môi băng giá?  Ông cảm thấy gì khi được vợ nhưng không được trái tim của nàng?  Cho đến một ngày tình cờ đọc Kinh Thánh, tôi ngờ ngợ như đọc được nỗi niềm cay đắng của ông, một người đứng bên lề cuộc đời người yêu qua những dòng chữ chua chát “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b). Ôi, Thiên Chúa của tôi, Đấng tạo dựng nên muôn loài muôn vật, giàu sang và uy quyền, lại chia sẻ chung số phận hẩm hiu với người chồng già bạc phận trong “Hai sắc hoa ti gôn” hay sao?  Tôi đã sống ra sao để Ngài phải thốt lên những lời ai oán ấy?

Từ “ngày vui pháo nhuộm đường” đó, cuộc sống tuy nhiều sầu muộn, tháng ngày đong đầy những chua cay nhưng T.T.Kh. không hề có ý định chạy trốn cuộc sống, cũng chẳng dự định trốn theo người yêu.  Nàng” vẫn đi bên cạnh cuộc đời” trong sự “ái ân lạt lẽo” của chồng với một thái độ lạnh lùng dửng dưng chấp nhận sự thật dù phũ phàng.  Tôi cũng thế, vẫn đi bên Thiên Chúa, vẫn thờ phượng Ngài, không có ý định bỏ đạo, càng không muốn chống đối Ngài.  Chỉ là một thái độ lạnh nhạt chấp nhận sự việc có Chúa bên đời như một tình cờ, như một sự ép đặt của mẹ cha.  Còn lòng tôi ư?  Người thiếu phụ có chồng “vẫn giấu trong tim bóng một người”, chỉ một người thôi!  Còn tôi, thờ phượng Ngài đó nhưng che giấu trong tim biết bao bóng hình, những mộng mơ với thế gian phù phiếm, những toan tính cho tương lai dù tương lai không thuộc về tôi và bao dự định dang dở….  Những bóng hình đó không ngừng đeo đuổi tôi đến nhà thờ những ngày Chúa nhật dù chỉ một tiếng, vẫn hiện diện trong những lời kinh ro ro thuộc lòng dù chỉ vài phút.  Như một thiếu phụ đoan trang khép mình trong lễ giáo, tôi tuân giữ những luật buộc một cách máy móc, dâng Ngài những của lễ dư thừa trong nhăn nhó.  Nhưng linh hồn tôi, trái tim tôi, tâm trí tôi… dật dờ đâu rồi trong một cõi xa xăm nào đó!

Đi bên chồng nhưng lại hỏi “người ấy” có buồn không, đó là tâm trạng của người xưa.  Còn tôi hôm nay đi bên Ngài đó nhưng vất vả lo toan cho những việc ở trần gian.  Miệng nói tôn kính Thiên Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự.  Nhưng bao sức lực, trí lực, tài năng, máu huyết của tuổi thanh xuân…. tôi đã dâng hiến cho thế gian hết rồi để mong tìm một chỗ đứng trong xã hội, một cuộc sống tiện nghi…..  Còn chăng chỉ là cái xác mệt mỏi vô hồn trong lòng nhà thờ mỗi ngày Chúa nhật buồn.  Xa thật hai cõi lòng của tôi và Ngài!  Phải chăng những lời trách móc “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mc 7:6b) là để chỉ tôi sao?

“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời…, vẫn giấu trong tim…”,  “Vẫn đi”“vẫn giấu”, một sự ngoan cố đến lạ lùng của một phụ nữ yếu đuối.  Không có ý định từ chối cuộc sống và gia đình nhưng cũng không có ý định chôn hình ảnh xưa cố quên để sống, nàng đã cố bám víu lấy nó như một thứ lương thực nuôi sống hiện tại.  Tôi thấy thấp thoáng hình ảnh mình trong sự cố chấp bám dính quá khứ của người thiếu phụ.  Vẫn biết một ngày nào đó tôi sẽ phải rũ áo ra đi không mang theo được gì nhưng tôi vẫn ngoan cố xây đắp cho thật nhiều.  Vẫn biết đời sau mới là thiên thu vĩnh cửu nhưng tôi chỉ chăm lo hạnh phúc hời hợt của vài thu chóng qua.  Phải chăng đó là oan trái của kiếp người?  Phải chăng con rắn ngày xưa vẫn tiếp tục cám dỗ trong lòng mỗi người mãi không thôi?  Người thiếu phụ đã bám lấy cả hai và nàng đã phản bội cả hai: người yêu và chồng mà cuộc sống chỉ là “từng thu chết, từng thu chết”. Kết quả cuộc sống của tôi có khá hơn không khi tôi cùng bám vào cả hai:  Thiên Chúa và thế gian?

Còn gì xót xa não nùng cho bằng khi nghe những lời thở than của người vợ hiền “Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời.  Ái ân lạt lẽo của chồng tôi.” Phải chăng đó cũng là những tiếng trách móc của tôi về sự “ái ân lạt lẽo” của Thiên Chúa?  Như một ông chồng già giàu có nhưng keo kiệt, uy quyền nhưng bủn xỉn, Ngài quay mặt làm ngơ trước những lời van xin thống thiết của tôi: cái xin không được, cái không xin lại cho, cái muốn được thì mất, cái mất lại được.  Ngài đã bỏ tôi chới với một mình trong khổ đau, mặc tôi ngụp lặn trong cô quạnh không lời ủi an.  Trong nỗi đau không tình cờ đó, Ngài tiếp tục thinh lặng, bí mật và khó hiểu….. không một lời đáp trả.  Quả là lạt lẽo và vô tình làm sao!

Dù lời thơ ai oán, hồn thơ chất chứa niềm trách móc cam chịu của người vợ bị chồng “lạt lẽo, hờ hững”, nhưng tôi vẫn bắt gặp đâu đó một sự quảng đại nơi người chồng “nghiêm luống tuổi” môn đăng hộ đối.  “Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ, “Người ấy” cho nên vẫn hững hờ.” Chỉ là hững hờ thôi sao?  “Vẫn biết”, một sự khẳng định chắc chắn đến thế nhưng không có cảnh đòi li dị, không đuổi về nhà người vợ ngày qua đêm lại chỉ“thờ thẫn hồn eo hẹp” nhớ người xưa, không cưới năm thê bảy thiếp, không đánh đập hành hạ, mà cũng chẳng có chuyện “ông ăn chả bà ăn nem”, … không một hành động cụ thể nào cho sự trả thù.  Chỉ là một thái độ “hững hờ” của người quân tử!  Thái độ “hững hờ” hay nồng nàn, “lạt lẽo” hay sốt mến còn do thái độ cảm nhận của đối tượng nữa.  Tôi không thể nhìn thấy cuộc đời màu hồng khi đeo cặp kiếng đen.  Làm sao có thể tìm thấy một sự yêu đương nồng cháy khi “từ đấy thu rồi, thu lại thu.  Lòng tôi còn giá đến bao giờ?”   Ai có thể làm tan tảng băng nếu lối vô bị bít kín?  Ly nước đã đầy làm sao có thể rót thêm?  Làm sao có thể tìm được lòng sốt sắng yêu mến khi tôi đến với Thiên Chúa với tấm lòng giá băng qua những nghi thức thờ phượng hời hợt bên ngoài, với trái tim đầy ắp những tham vọng thế gian và cái đầu tính toán đầy những thành kiến.

Có đúng chăng sự “hững hờ”“lạt lẽo” của người chồng trong “Hai sắc hoa ti gôn” là kết quả cách sống thờ ơ của người vợ?  Có sai không thái độ giận dữ của Thiên Chúa “Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi!  Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3:15-16) là kết quả cách sống dở dở ương ương của tôi?  Tôi còn có sự tự do lựa chọn cho mình một lối sống, nhưng người con gái đất Việt bảy mươi năm về trước thì không.  Vậy tôi và nàng ai đáng thương và đáng trách hơn?

Xuyên suốt bốn bài thơ của T.T.Kh, ngoài thái độ “hững hờ”“lạt lẽo” của người chồng, còn một thái độ tế nhị khác nữa, đó là sự chờ đợi!  Ông đã âm thầm đi bên cạnh cuộc đời vợ mình để chờ đợi sự quay về của người vợ hiền, nếu không quay về vì yêu thương thì cũng xin vì bổn phận.  Qua ông, tôi bắt gặp hình ảnh chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài đã kiên nhẫn đứng bên lề cuộc đời của những người đã chọn Ngài là Chúa nhưng chỉ là môi miệng để ngày qua tháng lại tiếp tục mòn mỏi trông chờ.  Một Thiên Chúa đầy quyền uy nhưng thật tội nghiệp vẫn lặng lẽ đứng đó, không một lời giải thích cho thái độ tưởng như hờ hững, lạt lẽo của mình, với đôi cánh tay giang rộng để chờ đợi không chỉ thân xác, không chỉ hình thức, không chỉ môi miệng nhưng là một tình yêu đích thực từ trái tim, một cái xác có hồn, một sự dâng hiến trọn vẹn tuyệt vời của người yêu.

Ngược lại với sự quảng đại chờ đợi trong âm thầm nhẫn nhục của người chồng là một sự phản bội tế nhị của “người ấy”:

“Chỉ có ba người đã đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em

Bài thơ đan áo nay rao bán

Cho khắp người đời thóc mách xem.”

Là giết đời nhau đấy biết không? (Bài thơ cuối cùng)

Bây giờ thì nàng đã rõ rồi tấm lòng yêu thương của người mà nàng hằng ấp ủ trong tim.  Trong khi người con gái “vườn Thanh” lo lắng “nếu biết ngày mai tôi lấy chồng.  Trời ơi! Người ấy có buồn không? với một niềm tin mạnh mẽ vào người yêu “nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ.  Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em” và nỗi khắc khoải mong chờ được tái ngộ dù chỉ trong mơ “tiếng lá thu khô xiết mặt hè.  Như tiếng chân người len lén đến”. Thế mà người ấy lại nhẹ nhàng đem tình nàng “rao bán” trên mặt báo.  “Bài thơ đan áo” chỉ viết riêng cho chị chia sẻ nỗi lòng u uất của người con gái lấy chồng phương xa, giờ còn đâu nữa những tâm tư thầm kín của người thiếu phụ khuê các.  Người ta đã quên rồi lời hẹn xưa: “Cố quên đi nhé câm mà nín.  Đừng thở than bằng những giọng thơ”. Người ta thương gì “một mảnh lòng tan vỡ”, xót xa gì “một tâm hồn héo”, tiếc gì một đóa “hoa tàn dấu xác xơ”. Không ăn được thì đạp đổ!  Hạnh phúc của người yêu nào có nghĩa lý gì!  Thẳng tay, phũ phàng và dứt khoát “lại chính là anh, anh của em” đó!  Đâu rồi một tâm hồn nghệ sĩ cao thượng?  Đâu rồi nét quân tử của người yêu hoa?  Chả trách nào tiếng chim trong lồng tắt lịm từ đó!

Hình ảnh “người ấy” phải chăng là hình ảnh của thế gian: đẹp đẽ, lãng mạn, nên thơ… khi tình đang mặn nồng, thưở “nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn”. Nhưng khi lòng tôi thao thức với lời mời gọi thiêng liêng từ trong đáy tim thì thế gian cố níu kéo bằng những dụ dỗ ngon ngọt, những hình ảnh phù phiếm, sự hưởng thụ thân xác.  Và khi tôi nhất quyết quay gót trở về với Thiên Chúa thì bộ mặt thế gian biến đổi với những gian trá mưu mô xảo quyệt, với hành động trả thù bỉ ổi nhằm phơi bày tội lỗi thầm kín của tôi cho dù làm thế “là giết đời nhau”. “Đời chỉ đẹp khi tình còn dang dở!” Tình đã dang dở rồi đây nhưng người trong cuộc có thấy đẹp hơn, thơ mộng hơn không hay chỉ toàn cay đắng phũ phàng?

Thế gian là thế đấy!  Người tình là thế đó!  Mặc dù “oán hờn anh mỗi phút giây” nhưng lòng thì “giận anh không nỡ nhớ không thôi”! Thiên Chúa có lẽ quá thấu hiểu sự yếu đuối mù quáng của con người nên hai chữ TỈNH THỨC được lập đi lập lại nhiều lần trong giáo huấn của Ngài và ân sủng từ trời cao không ngừng tuôn đổ để giúp con người biết lựa chọn và sống với sự chọn lựa của mình một cách sáng suốt.

Chuyện tình nào rồi cũng có đoạn kết, mối tình tay ba nào cũng phải kết thúc bằng sự lựa chọn.  Như “Người chồng – Người tình” không thể cùng song hành với nhau trong cuộc sống “Người vợ“, thì Thiên Chúa cũng không thể cùng đồng hành với thế gian trong trái tim và linh hồn một người.  Tôi đang ở đâu trong mối tình tay ba giữa “Thiên Chúa – Thế gian –  và Tôi”?  Tôi sẽ chọn lựa ai, chỉ một trong hai?  Và sẽ sống với thái độ nào trong sự tự do lựa chọn đó?

Lang Thang Chiều Tím

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Lời mẹ dặn

Lời mẹ dặn

Phùng Quán

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
– Con ơi
trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
– Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
– Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
– Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời.
In lên vết son đỏ chói.
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi giây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

Vì Chúa đã phục sinh

Lạy Chúa phục sinh,
vì Chúa đã phục sinh
nên con thấy mình chẳng còn gì phải sợ.

Vì Chúa đã phục sinh
nên con được tự do bay cao,
không bị nỗi sợ hãi của phận người chi phối,
sợ thất bại, sợ khổ đau,
sợ nhục nhã và cái chết lúc tuổi đời dang dở.

Vì Chúa đã phục sinh
nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu
là cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.

Sự Phục Sinh của Chúa là một lời mời gọi
mang một sức thu hút mãnh liệt
khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời :
nhìn tất cả từ trên cao
để nhận ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.

Sự Phục Sinh của Chúa
giúp con dám sống tận tình hơn
với Chúa và với mọi người.
Và con hiểu mình chẳng mất gì,
nhưng lại được tất cả.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

http://dongten.net

Xin Sống Lại Một Lần.

Xin Sống Lại Một Lần.

Nếu tôi được sống thêm lần nữa
Sẽ về ngồi lắng đọng giữa chiều quê
Bên sông nhỏ trôi qua làng tĩnh lặng
Soi bóng mình, nghe lúa hát ven đê.

Nếu tôi được sống thêm lần nữa
Với bạn hiền cùng dạo phố sau mưa,
Tìm một chỗ bên dòng đời vội vã
Ngắm chiều rơi.. đồng vọng tiếng chuông chùa..

Nếu có thể xin thuyền đời trôi ngược
Chở tôi về thắm lại buổi hoa niên.
Sống hiện tại thong dong không ràng buộc
Không ” thả mồi bắt bóng ” để truân chuyên.

Giá như được sống thêm lần nữa
Sẽ mỉm cười chấp nhận nỗi đau riêng
Lưng cúi xuống bên những đời bất hạnh
Mắt tình thương xin xóa dịu ưu phiền..

Nếu có thể, xin bắt đầu Sống lại
Thôi tháng ngày rồ dại.. chuốt ăn năn
– Dẫu biết kiếp nhân sinh là hữu hạn
Lòng tôi còn chan chứa tận nghìn năm!

Xin sự sống cho tôi lần cơ hội
Để tâm tình mở lối, biết khoan dung
Nhìn nhân thế khộng vội vàng kết tội

Hiểu và Thương mong trải đến vô cùng…

Thích Tánh Tuệ

(Viết thay cho tâm trạng của một người đang cận tử bởi cancer)

Phục Sinh Thắp Sáng Niềm Mơ

Phục Sinh Thắp Sáng Niềm Mơ

Phục sinh tỉnh thức tâm hồn

Niềm tin hồi phục hoàng hôn cuối đời

Tạ ơn cao Đức Chúa Trời

Hy sinh con một cứu người lầm than

Bao ngàn năm chuông ngân vang

Dưới chân thập tự lệ tràn niềm vui

Tội xưa đã được chôn vùi

Tâm tư tẩy sạch ngậm ngùi thứ tha

Mỗi ngày thêm nét hài hòa

Truyền rao danh Chúa, thăng hoa cho người

Môi khô lại nở nụ cười

Rạng đông thánh lễ giữa trời tinh sương

Đem chiên lạc lối lầm đường

Về miền vinh hiển yêu thương thanh bình

Tạ ơn Chúa mỗi bình minh

Lòng thầm khấn nguyện vững tin nơi Ngài

Hôm qua, hôm nay, ngày mai

Thánh kinh cuốn quyện vóc hài Chúa ban .

Mùa Phục Sinh

4-4-2015

  • ĐT Minh Giang

MỘT CÂU CHUYỆN TẦM THƯỜNG ĐẾN THẾ !

MỘT CÂU CHUYỆN TẦM THƯỜNG ĐẾN THẾ !

LM. Giuse Trương Đình Hiền

Gần hai ngàn năm,
Nhân loại nghe hoài một chuyện kể,
Chuyện kể của bà Maria
trên đường về từ Ngôi Mộ Trống :

“Tôi đã thấy nấm mồ của Đức Ki-Tô.
Người đã sống lại và ra khỏi mồ.
Người đang sống vinh quang” [1]

Một ngôi mồ trống,
Qua chứng từ của một cô thôn nữ tiểu tốt vô danh,
Một câu chuyện quá tầm thường, quá giản đơn,
Nhưng mau chóng đã trở thành “Tin Vui vĩ đại” ?

Một Tin Vui đã làm nên bao điều kỳ lạ,
Đã vươn xa Khỏi vùng đất khô cằn sỏi đá Palestina
Đã vượt biên đến mọi miền thế giới bao la,
Mà ngươi mang tin vui, cũng lại là,
Những cô, những cậu mang thân phận khó nghèo khiêm tốn.

Và từ lời chứng của Maria,
Cho đến bảng “Tin Vui”,
Của hàng hàng lớp những thế hệ tông đồ tiếp nối,
Cũng chỉ được dệt đan, thêu thùa, trau chuốt…
Mà nội dung cốt yếu vẫn chỉ là :
“Ngôi Mộ Trống và Một Đấng Phục Sinh”.

Thì ra đây,
Là đích điểm của một chuyện tình,
Một giao ước giữa Thượng đế với con người,
đã hình thành trước ngàn muôn thế kỷ.

Ngôi Mộ trống trên đồi Gô-gô-tha thuở ấy,
Đã ôm trọn cả chiều dài của lịch sử con người,
Từ xa tắp cát bụi A-đam
cho đến tiếng khóc oa oa của em bé sau cùng trên trái đất…
Mộ trống của tối tăm, ngục tù chết chóc,
Của đau thương, tội lỗi, thất vọng, đọa đầy…
Mộ trống của muôn kiếp phận xưa nay,
Bị giam kín dưới quyền lực của tử thần âm phủ.

Nhưng viên đá lấp mộ,
Đã lăn ra vào buổi sáng tinh mơ ngày thứ nhất,
Buổi sáng diệu kỳ làm lóa mắt người thôn nữ Maria,
Một người đã chết,
một một Đấng Phục Sinh đầy uy dũng bước ra,
Bỏ lại sau lưng cánh cửa mộ âm u,
Cùng với lịch sử nhân loại với cả con đường hầm tăm tối.

Để có được giây phút bình minh rạng rỡ ấy,
Thiên Chúa đã phải lặn lội,
Đi qua bao ngàn năm chắp nhặt dựng xây.
Dãy dỗ, bảo ban, ước hẹn vơi đầy,
Mà đích điểm chính là quà tặng :
Ban Con Một hiến thân làm hy lễ.

Thì ra, đâu chỉ giản đơn là chuyện kể,
Mà “Ngôi Mộ trống” của ngươi thôn nữ Maria,
Một chuyện tình vĩ đại mang tên : cứu độ giao hòa
Một chiến thắng của tình yêu và ân sủng.

Đã lâu rồi, Thiên Chúa vẫn luôn làm chuyện lớn
Bằng những sự kiện tầm thường, khiêm hạ, giản đơn.
Và câu chuyện “Mồ trống” cách đây hai ngàn năm,
Lại là chuyện lớn nhất trong “trường ca cứu độ”.

Tin Mừng Phục Sinh và câu chuyện “Mộ Trống” đó,
Sẽ cứ mới hoài cho đến mãi ngàn sau !

LM. Giuse Trương Đình Hiền

[1] Một đoạn lời trong bài “hoan ca Phục Sinh” của ns. Hùng Lân

Mai tôi đi… …. Mốt tôi đến…

Mai tôi đi… . . . Mốt tôi đến…


Mai tôi đi…chẳng có gì quan trọng,Mốt tôi đến… đó mới là quan trọng

Lẽ thường tình, như lá rụng công viên  … Về quê trời, là ước vọng tương lai

Như hoa rơi trước gió ở bên thềm,      … Nơi yên vui không cần đến tiền tài

Chuyện bé nhỏ giữa giòng đời động loạn .. Danh với vọng chẳng ai mơ màng tới


Trên giường bệnh, Tử Thần về thấp thoáng, Bệnh chẳng sợ vì hồn đang phơi phới

Xin miễn bàn, thăm hỏi hoặc cầu an,      .. Có đến thăm xin hãy đợi đôi ngày

Khi xác thân thoi thóp trút hơi tàn,         .    . Vì hồn tôi như nửa tỉnh nửa say

Nằm hấp hối đợi chờ giờ vĩnh biệt.         .. Và vui sướng đêm ngày không biết tới!


Khoảnh khắc cuối… Đâu còn gì tha thiết… Trong khoảnh khắc là ngàn năm hạ giới

Những tháng ngày hàn nhiệt ở trần gian   …. Chẳng sợ gì mà đợi để đến sau

Dù giàu sang hay danh vọng đầy tràn         ….Nơi giàu sang đều hưởng lợi như nhau

Cũng buông bỏ trở về cùng cát bụi…      . . Miền Miên Viễn sẽ toàn màu tuyết trắng!


Sẽ dứt điểm đời phù du ngắn ngủi,  .. Không tranh chấp, mà những ngày phẳng lặng

Để đi vào ranh giới của âm dương,        …Cứ vào đi Ngài luôn sẵn đợi chờ!

Không bàng hoàng trước ngưỡng cửa biên cương, Cõi Vĩnh Hằng toàn đẹp đẽ như mơ

Bên trần tục, bên vô hình cõi lạ…           ….Không dành dựt bon chen như bên nớ


Chỉ ước nguyện tâm hồn luôn thư thả,Hãy dứt khoát khi trả xong món nợ

Với hành trang thanh nhẹ bước qua nhanh,   …Bỏ lại sau đừng tìm cớ đợi chờ

Quên đàng sau những níu kéo giựt dành,    …Hãy yên lòng và đừng có thờ ơ

Kết thúc cuộc lữ hành trên dương thế…        …Chết không hết, mà đổi bờ sang bến


Mắt nhắm rồi… Xin đừng thương rơi lệ,     ..  … Khi tôi chết hãy thắp lên ngọn nến

Đừng vòng hoa, phúng điếu hoặc phân ưu  …  . Ở trong lòng vì thương mến anh em

Đừng quay phim, chụp ảnh để dành lưu.     …   . Hãy nghĩ rằng như nằm ngủ qua đêm

Gây phiền toái, nợ thêm người còn sống       …  .Vào giấc mộng êm đềm chưa thức giấc


Ngoảnh nhìn lại, đời người như giấc mộng,   . Sống với chết thật gần trong gang tấc

Đến trần truồng và đi vẫn tay không.           . . . Đời bên kia mới thật sẽ bền lâu

Bao trầm thăng, vui khổ đã chất chồng,        ..  .Nơi yêu thương và hết sức nhiệm mầu

Nay rũ sạch…lên bờ, thuyền đến bến…         .. .. Vì công lý trước sau là như một


Nếu tưởng nhớ..Xin âm thầm cầu nguyện    . . .  .Trong cuộc sống hãy cố làm việc tốt

Nên xem như giải thoát một kiếp người. . . ...Yêu thương nhau đừng dại dột hại người

Cứ bình tâm, thoải mái với vui tươi,          . .. Tâm hồn ta sẽ mai mãi thảnh thơi

Kẻ đi trước, người sau rồi sẽ gặp…          …. Hồn với xác sẽ sống đời Thần Thánh

TÔI CHẾT RỒI XIN HÃY ĐỂ TÔI YÊN

Lời mẹ Nguyễn Thị Thứ ( 1904-2010) gửi bức tượng đá “MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG” mang tên mình :

thanhnientudo /


TÔI CHẾT RỒI XIN HÃY ĐỂ TÔI YÊN

Thơ Trần Mạnh Hảo

Sao các ông nỡ biến tôi thành bức tượng đá pháo đài bay B-52
Cả đời tôi bị máy bay này rải thảm
Chồng tôi và chín người con trai tử trận
Hai con rể một cháu ngoại hi sinh

Tôi chưa đủ đớn đau hay sao, còn làm tội làm tình ?
Còn biến tôi thành pháo đài bay hung ác
Sao lại biến tôi thành con nhân sư Ai Cập
Tôi chết rồi không vồ được ai đâu…

Hãy chôn cất tôi đừng để ló cái đầu
Tôi có tội gì đâu mà chôn sống tôi vào núi
Cả đời chôn cất chồng con, đầu tôi lặng cúi
Sao lại tạc mặt tôi hãnh tiến dường này ?

Tôi thuần Việt mà, đâu có lai Tây
Sao gương mặt tượng tôi y chang bà mẹ Mỹ ?
Cả đời tôi đói nghèo nuôi chiến sỹ
Hãy trả bốn trăm mười một tỉ đồng lại cho dân
Số tiền đó dùng chôn tôi vào trùng trùng đá xám
Ôi Mẹ Việt Nam, tôi đâu dám
Mẹ bốn nghìn năm, tôi mới có trăm năm

Tôi đã chết rồi trong đất mẹ yên nằm
Xin đừng bêu đầu tôi trên đá biếc
Đừng bắt tôi làm anh hùng khi đã chết
Anh hùng nằm trong mộ lại hi sinh

Tôi chỉ còn nắm xương thôi, xin hãy thương tình

Trong tĩnh lặng, xin Phật Trời siêu thoát…

Sài Gòn ngày 16-03-2015

T.M.H.