Cuộc sống của chúng ta sẽ có kết thúc. Chết là gặp gỡ với Thiên Chúa
Cuộc sống của chúng ta sẽ có kết thúc. Chết là gặp gỡ với Thiên Chúa
11/17/2017
Suy tư về ngày cùng tận của thế giới và cũng là ngày cuối cùng của mỗi người chúng ta: đó là lời mời gọi mà Giáo hội ngày nay cũng nói với chúng ta qua đoạn Tin mừng thánh Luca 17,26-37 trong Thánh lễ ngày hôm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ điều này trong Thánh lễ tại nhà nguyện thánh Marta sáng hôm nay.
Đoạn Tin mừng thuật lại cuộc sống bình thường của những người nam nữ trước đại hồng thủy và trong thời ông Lot. Họ ăn uống, mua bán, cưới vợ lấy chồng …, nhưng rồi ngày Thiên Chúa tỏ hiện đến và mọi sự đều thay đổi. Giáo hội, Mẹ của chúng ta, muốn mỗi người chúng ta suy nghĩ về chính cái chết của mình.
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với sự bình thường đều đặn của cuộc sống, giờ giấc, công việc, nhiệm vụ, nghỉ ngơi và chúng ta nghĩ rằng cuộc sống thì luôn luôn như thế. Nhưng rồi một ngày, Chúa Giêsu sẽ gọi chúng ta “hãy đến!”. Với một số người, tiếng gọi của Chúa sẽ là bất ngờ, còn đối với những người sau một thời gian dài nằm bệnh, chúng ta không biết có bất ngờ đối với họ không. Tiếng gọi của Chúa sẽ đến. Tiếng Chúa gọi sẽ là một sự ngạc nhiên, nhưng rồi sẽ có một ngạc nhiên khác của Chúa, đó là sự sống đời đời. Bởi thế, Giáo hội trong những ngày này nói với chúng ta: dừng lại một tí, dừng lại để suy nghĩ về cái chết.
Ngày nay việc tham dự các đám tang, hay ngay cả đi đến đất thánh (nghĩa trang), đôi khi trở thành một biến cố xã hội. Người ta đi đến đó, nói chuyện với những người khác, trong một số trường hợp người ta còn ăn uống. Nó trở thành dịp hội họp gặp gỡ thêm, để không phải suy nghĩ. Ngày hôm nay, Giáo hội và Thiên Chúa, với sự tốt lành của mình, nói với mỗi người chúng ta: Hãy dừng lại, dừng lại, không phải mọi ngày sẽ luôn như hôm nay. Đừng trở nên quen thuộc với suy nghĩ rằng cuộc sống hôm nay sẽ là vĩnh cửu. Sẽ có một ngày bạn sẽ bị mang đi, người khác sẽ ở lại, bạn sẽ bị mang đi, bạn sẽ bị mang đi và đi với Thiên Chúa. Hãy nghĩ rằng cuộc sống của chúng ta sẽ có kết thúc. Nghĩ như thế là điều tốt.
Nó là điều tốt vì ví dụ, trước khi bắt đầu một ngày làm việc mới, chúng ta có thể suy nghĩ: Hôm nay có thể là ngày cuối cùng, tôi không biết, nhưng tôi sẽ làm công việc thật tốt. Và chúng ta làm tốt như thế, trong các mối liên hệ trong gia đình hay khi chúng ta đi khám bệnh.
Suy nghĩ về cái chết không phải là một sự tưởng tượng tồi tê.Tồi tệ hay không, tùy thuộc ở tôi, tôi nghĩ đến nó như thế nào. Nhưng nó sẽ đến, cái chết sẽ đến. Và ở đó sẽ là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và điều này sẽ là nét đẹp của cái chết. Nó sẽ là cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, sẽ là Chúa đến gặp, sẽ là Ngài nói: “hãy đến, hãy đến, kẻ được Ta chúc phúc, hãy đến với Ta.”
Khi Chúa gọi thì sẽ không còn thời giờ để sắp xếp mọi vấn đề của chúng ta. Đức Thánh Cha kể lại điều một linh mục đã kể với ngài: Một ngày kia tôi gặp một linh mục, hơn kém 65 tuổi, vị linh mục đó không cảm thấy khỏe. Linh mục đó đi khám bệnh và bác sĩ nói: “Xem kìa, sau khi khám bệnh, cha có bệnh này. Đây là một điều xấu nhưng có lẽ chúng ta đang trong thời gian để chặn bệnh này lại. Nếu nó không dừng lại, chúng ta sẽ chữa cách khác và nếu nó không hết, chúng ta sẽ bắt đầu bước đi và tôi sẽ đồng hành với cha cho đến phút cuối.” Kết thúc câu chuyện, Đức Thánh Cha khuyến khích: Chúng ta cũng thế, chúng ta cùng đồng hành với nhau trên con đường này, chúng ta làm tất cả nhưng luôn luôn hướng về lúc đó, về ngày mà Thiên Chúa sẽ đến để đưa tôi đến với Ngài.
(Hồng Thủy, RadioVaticana 17.11.2017/ REI 17/11/2017)
Đối diện với cái chết
01-11-2017
Ronald Rolheiser, 2010-01-03
Vài năm trước đây, người em họ của tôi chết trong một tai nạn nghề nghiệp. Anh phụ trách chất hàng lên toa xe lửa và khi sợi giây cáp bật đứt dưới sức nặng ngàn cân của sức ép, thì người anh như bị cắt đôi. Anh chết trên đường đến bệnh viện. Anh còn trẻ, đang độ tuổi xuân, là lực sĩ tài năng có mặt trong các đội thể thao địa phương.
Cái chết của anh thật đau đớn và buồn thảm, tuy vậy gia đình và bạn bè anh có vài chuyện an ủi: Những ngày cuối cùng của anh thật dễ thương, các hành vi cuối cùng của anh thật nồng ấm: Trước đó vài ngày, anh tạt qua thăm mẹ và ăn trưa với mẹ, có một thời gian vui vẻ tuyệt vời, và khi đi về anh hôn mẹ chào từ giã, mẹ anh yên lòng biết anh thương mẹ. Cách đó mấy tuần, anh đưa người em út, người em rất thần tượng anh, đi nghỉ vài ngày để xem các trận đấu bóng bầu dục. Theo cách mọi người vẫn nghĩ, anh đã từ giã thế gian trong bình an, anh chết trong khi làm việc. Chất hàng là công việc của anh, khi giây cáp bị đứt, anh bị chết, anh ở đúng nơi anh phải ở, đúng giây phút làm việc của anh. Nếu anh không ở đó vào lúc đó, một người khác cũng sẽ ở đó và họ sẽ chết. Anh chết ở cương vị của anh, đang làm công việc của anh, làm việc lương thiện, anh kiếm sống, anh là nạn nhân của một chuyện bất ngờ, ở nơi mà anh phải ở.
Rốt cùng đó là những gì chúng ta cố gắng để đảm trách cho chính chúng ta. Chúng ta cố gắng trụ nơi chúng ta phải trụ.
Mỗi người chúng ta, không ngoại trừ ai, bất kể tuổi tác, sức khỏe như thế nào, chúng ta đều mong manh, đều không biết gì trước, đều có thể chết, một nhịp tim hụt là rời thế gian, một cú đột quỵ là mất cuộc sống, một tai nạn cho chúng ta biết sức mạnh của chúng ta là phù du, sợi giây cáp đứt và chết trong xe cứu thương. Chúng ta có thể cẩn trọng với mạng sống của mình, sống thận trọng, cố gắng đảm bảo an toàn cho mình, cho người thân, nhưng cuối cùng vẫn không đủ. Chúng ta không thể bảo đảm tim của chúng ta luôn đập.
Vậy chúng ta phải làm gì?
Chúng ta có thể sống cẩn thận, săn sóc sức khỏe và sự an toàn của chúng ta, và nếu chúng ta có đức tin, chúng ta có thể xin Chúa quan phòng. Đương nhiên đó là điều tốt. Nhưng chúng ta có thể làm những chuyện khác, những chuyện còn quan trọng hơn.
Chúng ta cố gắng trụ nơi chúng ta phải trụ. Chúng ta có thể luôn luôn cố gắng giữ nhiệt tâm, phòng hờ đó là những hành vi cuối cùng của chúng ta. Chúng ta có thể ăn điểm tâm với mẹ và tỏ lòng âu yếm mẹ. Chúng ta có thể đưa người thân đi xem trận đấu bóng bầu dục và cố gắng hoà thuận với mọi người. Cốt yếu, chúng ta có thể trung tín, chân thật với những người chúng ta thương, chân thật với những gì chúng ta tin. Chúng ta ở đúng trách vụ của mình, trong dấn thân, trong tình yêu và bổn phận.
Rốt cùng, đó là những gì chúng ta có thể làm, và rốt cùng, như thế là đủ. Ý thức về tính mong manh và về cái chết không có nghĩa là chúng ta sợ hãi, khiếp nhược, rụt rè trước cuộc đời hay cảm thấy tội lỗi vì vui sướng. Chúng ta không buộc phải hướng về một cuộc sống ở thế giới khác mà buông bỏ cuộc sống này. Ngược lại, chúng ta cũng không buông tuồng vui hưởng vì cuộc sống này ngắn ngủi và đầy chuyện không ngờ tới được. Đó là lời mời gọi lòng trung tín; luôn luôn cố gắng để trụ nơi chúng ta phải trụ, trong nhiệt tâm, tình yêu, bổn phận và vui hưởng.
John Powell đã viết có thể có hai thảm kịch trong cuộc sống, mà chết trẻ không nằm trong số đó. Hai thảm kịch đó là: Sống mà không yêu, yêu mà không bao giờ nói lên được tình yêu và lòng biết ơn. Quả đúng như vậy.
Có thể vì tuổi của tôi và cũng có thể đó là chỉ là một thời gian khác thường, nhưng suốt năm vừa rồi, không một tháng nào trôi qua mà thần chết không lấy đi một người tôi thương mến. Chưa bao giờ tôi ý thức tính mong manh của cuộc sống như bây giờ. Về mặt bên ngoài nó làm cho tôi phải nhìn lại sức khỏe của tôi: Tôi đã săn sóc đủ cho tôi? Tập thể dục đủ chưa? Chế độ ăn uống đúng không? Nghỉ ngơi đủ không?
Tuy nhiên, ở tầng mức sâu hơn, nó buộc tôi nhìn lại sức khỏe của tôi theo nghĩa rộng hơn: Tôi có đang trụ nơi tôi phải trụ? Liệu tôi có trung tín với con người của tôi và với những gì tôi tin để mà thanh thản biết rằng tôi đang làm những việc tôi phải làm, giả như hôm nay là ngày cuối cùng của đời tôi? Những gì tôi làm có nồng ấm không?
Tôi cố gắng trung tín mỗi ngày – cầu nguyện, dâng thánh lễ, nhiệt tâm với mọi người, làm công việc của tôi tốt nhất có thể, biết rằng, nếu tôi làm như vậy, tôi đang trụ nơi tôi phải trụ và tôi có thể vui hưởng cuộc sống tốt đẹp này, không mặc cảm tội lỗi, không sợ hãi, sẵn sàng, đứng trụ ngay thẳng, dù sợi giây cáp có đứt thình lình.
J.B. Thái Hòa dịch
(phanxico.vn)
Các luật sư Việt Nam nên xem series phim American Crime Story,
Tiến trình xét xử vụ án này diễn ra một cách ngoạn mục với sự đấu trí giữa hai phía công tố và luật sư, gồm những cao thủ lão luyện bậc thầy trong ngành tư pháp Mỹ đương thời.
Trong khi bên công tố nắm trong tay hàng loạt chứng cứ (evidence), đặc biệt về vết máu và tóc, đủ để truy tố O.J. Simpson về tội mưu sát, thì đội ngũ luật sư của bị cáo biện luận theo hướng khiến bồi thẩm đoàn (jury) tin vào câu chuyện (story) điều tra viên nguỵ tạo chứng cứ lúc tiếp cận hiện trường vụ án đầu tiên.
Johnnie Cochran, trưởng nhóm luật sư (lead attorney) của O.J. Simpson vạch ra chiến lược chiến thắng vụ án như sau: kết quả vụ án không chỉ tùy thuộc vào chứng cứ, mà quan trọng hơn còn được dẫn dắt bởi một câu chuyện mà các luật sư trình bày trước bồi thẩm đoàn.
Với chiến lược đó, bất chấp các chứng cứ vững chắc của công tố viên, đội ngũ luật sư đã chứng minh rằng điều tra viên Mark Fuhrman có thể đã bỏ máu và tóc của của nghi phạm vào hiện trường, đồng thời bỏ máu và tóc của nạn nhân vào nhà nghi phạm, bởi lý do Mark Fuhrman kỳ thị dân da đen.
Tại tòa, Mark Fuhrman tuyên thệ khai trung thực và khẳng định chưa bao giờ dùng từ “Nigger” (một từ miệt thị, tạm dịch là “Mọi đen”) khi nói chuyện với bất kỳ người da đen nào. Tuy nhiên, sau đó nhóm của luật sư Johnnie Cochran đã tìm được các băng ghi âm ở một tòa án khác ghi nhận các mẩu đối thoại của Mark Fuhrman với người da đen, trong đó rất nhiều lần y dùng từ “Nigger”.
Thái độ kỳ thị chủng tộc đó hiển nhiên không loại trừ khả năng Mark Fuhrman cố tình hủy hoại O.J. Simpson bằng cách nguỵ tạo chứng cứ để đổ tội cho anh ta. Kết luận điều tra do vậy không đáng tin cậy, bởi có thể đã bị định hướng một cách chủ quan từ phía cơ quan điều tra.
Câu chuyện mà đội ngũ luật sư dẫn dắt đã thuyết phục đa số thành viên bồi thẩm đoàn tin vào sự thiếu trung thực và thiếu khách quan của mọi chứng cứ mà bên công tố đệ trình trước tòa. Nhờ đó bồi thẩm đoàn tuyên O.J. Simpson vô tội và trắng án.
Đội ngũ luật sư do Johnnie Cochran, một luật sư hình sự người da đen, làm thủ lĩnh, được dư luận lúc đó gọi là “Dream Team” nhờ chiến lược tiếp cận và giải quyết vụ án một cách xuất sắc.
Dù kết quả phiên tòa đó làm thất vọng nhiều người da trắng vì họ tin chính O.J. Simpson là thủ phạm giết vợ cũ và bạn trai của cô, nhưng đó là chiến thắng vang dội của nền công lý đặt trên nền tảng triết lý tôn trọng tự do cá nhân, theo đó xã hội chấp nhận bỏ sót tội phạm còn hơn bắt lầm người vô tội.
Triết lý hình sự nói trên được công nhận và dung nạp trong hầu hết nền pháp lý hiện đại trên thế giới, trừ vài nước như Việt Nam, Trung Quốc, v.v…, vốn thà bắt lầm hơn bỏ sót, thậm chí cố tình dàn dựng chuyện để bắt! “
(Copy FB LS Lê Công Định )
TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN
TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN
ĐGM. Giuse Nguyễn Năng
- Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.
Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.
Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.
Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.
Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.
Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.
Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).
- Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào. Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?
Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”
Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được.”
Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ.” Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng.” Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.
- Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.
Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.
Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.
Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo.”
Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ hai của ngài là cô Anna Năm xác nhận: “Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho.” Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi:“Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ.”
Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.
Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.
Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.
Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.
Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan, và những người hành xử mình.
Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan.” Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên, càng ngày càng thịnh.”
Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này. Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.
Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé.” Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”
Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.
Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.
Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.
Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12)? Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.
ĐGM. Giuse Nguyễn Năng
From Langthangchieutim
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì
Dang Tuong
Quả thật câu này nó chính xác đến 100%, cố tìm cũng chẳng thấy tý tẹo cái sai nào trong đó. Hãy nhìn cái cách hiện tại mà người Việt Nam đối với người Việt Nam, hay cái nhìn khinh khi của người dân các nước có người Việt Nam đến lao động, học tập và sinh sống là chúng ta thấy câu nói ấy nó giá trị thế nào.
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có một Việt Nam lẹt đẹt trên các bảng xếp hạng của thế giới, làm gì có một Việt Nam không sản xuất nổi con ốc vít hay phải nhập cả cái tăm xỉa răng.
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có một Việt Nam nổi tiếng với việc xuất khẩu culi và gái điếm, nổi tiếng với nạn trộm cắp, giết, hiếp xảy ra hằng ngày như cơm bữa trên mảnh đất hình chữ S này.
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì có lãnh đạo lương tuy không quá 15 triệu/tháng mà ông nào cũng nhà lầu, xe hơi, cũng con du học nước này, nước nọ. Không có Đảng, không có Bác thì làm gì có chuyện mỗi người dân được vinh dự gánh 1200 đô tiền nợ công, 432 loại thuế phí, và vô số các chiêu trò bóc lột khác.
Nếu không có Đảng, không có Bác thì làm gì chúng ta có con đường đắt nhất hành tinh, rồi tới đây là tháp truyền hình cao nhất thế giới, hay việc biển đảo ngày càng mất dần vào tay Trung Cộng.
Tôi cố liệt kê, nhưng liệt kê mãi cũng không hết những cái mà nhờ có Đảng, có Bác mới có một Việt Nam như ngày hôm nay trên bản đồ thế giới. Cảm ơn các bạn DLV đã thông não, đã cho tôi được sáng mắt, sáng lòng.
Quả thực công ơn trời biển của Đảng, của Bác không một lời lẽ hay bút mực nào có thể tả hết được, nói gì đến một thằng ngu lâu, dốt bền, lại khó cải tạo như tôi đây.
Tác giả: Nhân Thế Hoàng.

Hồi kết đảng cộng sản chắc chắn cũng sẽ như tên độc tài bị lật đổ ở Zimbabwe.
Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Phan Thị Hồng.
Chúc Mừng Người Dân Zimbabwe đã được tự do !!!
Hồi kết đảng cộng sản chắc chắn cũng sẽ như tên độc tài bị lật đổ ở Zimbabwe.
Nhà độc tài già nua Robert Mugabe vừa bị lật đổ ở Zimbabwe từng luôn nghĩ rằng không có lực lượng chính trị và nhân vật chính trị nào đủ năng lực và uy tín quản lý đất nước … ngoài chính ông ta.
Luận điệu tự huyễn hoặc mình và huyễn hoặc thiên hạ của mọi kẻ độc tài trên khắp thế giới có vẻ giống nhau. Lão đãng ở Việt Nam cũng không khác, luôn cho rằng không tổ chức chính trị nào ngoài “đảng quang vinh muôn năm” có khả năng lèo lái con thuyền đất nước, vì đó là “lựa chọn của lịch sử”(!).
Độc tài như nhau, tham lam như nhau, tàn phá quốc gia như nhau, nguỵ biện như nhau, nên kết cuộc chắc chắn cũng sẽ như nhau.
Ảnh 1: Nhà độc tài Zimbabwe, tổng thống Robert Mugab khi còn quyền hành.
Ảnh 2: Tổng thống Robert Mugabe bị cô lập, mọi kẻ thân cận đều lìa bỏ ông và lên tiếng buộc ông ta từ chức.
Ảnh 3: Người dân Zimbabwe biểu tinh, họ trương biểu ngữ trên đường phố kêu gọi ông Mugabe phải ra đi.



Chúng tôi không là Việt Kiều… – Ts Nguyễn Đình Thắng.
Nguồn: Van Pham
Chúng tôi không là Việt Kiều… – Ts Nguyễn Đình Thắng.
Năm ngoái, một cô du sinh Việt Nam theo học chương trình tiến sĩ ở Hoa Kỳ phỏng vấn tôi cho luận án của cô ấy với đề tài: Cách nào để chính quyền Việt Nam đến với Việt kiều ở Mỹ.
“Trước hết hãy ngưng gọi chúng tôi là Việt kiều,” tôi trả lời.
Thấy cô ấy lúng túng, tôi giải thích: “Chúng tôi là công dân Mỹ gốc Việt, không phải công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”
Chính quyền Việt Nam muốn xem người Việt ở hải ngoại là công dân Việt mang “hộ chiếu” nước ngoài.
Cứ xem thái độ của Ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang của họ thì rõ. Khi gặp Tổng Thống Mỹ Barack Obama ở Toà Bạch Ốc hồi tháng 7 năm ngoái, Ông Sang cảm ơn chính phủ Mỹ đã chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ. Đây là lời cám ơn không đúng cương vị. Chính phủ Mỹ lo cho dân Mỹ là việc đương nhiên; hà cớ gì Ông Sang cảm ơn nếu không là muốn nhận vơ chúng tôi là dân của ông ấy?
Nhận vơ như vậy không ổn, vì nhiều lý do.
Những người không còn, hoặc chưa bao giờ mang hộ chiếu CHXHCN VN liệu có phải là Việt Kiều?
Trước hết, rất nhiều người chưa hề một ngày là công dân của nhà nước cộng sản Việt Nam: những người ngoài Bắc di cư vào Nam trước khi đảng cộng sản lập ra Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và những người trong Nam bỏ nước ra đi trước khi đảng cộng sản ấy xâm chiếm miền Nam.
Kế đến là những người bỏ nước đi tị nạn. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, tị nạn có nghĩa từ bỏ sự bảo vệ của chế độ cầm quyền ở quốc gia nguyên quán. Theo nguyên tắc này, khi chúng ta đang xin hay còn mang quy chế tị nạn mà đặt chân về Việt Nam, dù chỉ để thăm gia đình, thì xem như tự đặt mình trở lại dưới sự bảo vệ của chế độ cầm quyền và sẽ tự động mất tư cách tị nạn. Pháp áp dụng đúng nguyên tắc này trong khi một số quốc gia khác thì nhân nhượng hơn.
Dù không thuộc các thành phần trên, một khi giơ tay tuyên thệ nhập quốc tịch Hoa Kỳ, mỗi người trong chúng tôi đã chính thức từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Trước luật pháp Hoa Kỳ, chúng tôi là công dân Mỹ chứ không là công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Cô sinh viên tiến sĩ xem chừng hiểu ra câu trả lời: “Chúng tôi không là Việt kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,.”
Tôi giải thích thêm: “Cái gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam. Chúng tôi có thân nhân bị đàn áp. Chúng tôi có tài sản bị cưỡng chiếm. Đó là những vấn đề quyền lợi của công dân Mỹ, khi bị xâm phạm thì chính quyền Mỹ có nhiệm vụ can thiệp. Hơn nữa, chúng tôi có sự hiểu biết sâu sắc về hiện tình xã hội Việt Nam để giúp cho sự can thiệp ấy đạt hiệu quả.”
Nói đi thì cũng phải nói lại. Khi nhà nước cộng sản Việt Nam nhận vơ thì lỗi của họ chỉ có phân nửa. Phân nửa còn lại là lỗi của chúng ta.
Gần đây, cộng đồng Việt ở vùng Hoa Thịnh Đốn xôn xao về cuộc phỏng vấn video của một người Việt bị chặn ở phi trường, không được nhập cảnh, khi về thăm nhà ở Việt Nam. Cuộc tranh luận đã bỏ sót một yếu tố quan trọng: Cả hai phía của cuộc tranh luận đứng trên cương vị Việt kiều hay trên cương vị công dân Mỹ?
Khi công dân Mỹ bị gây khó dễ ở phi trường, thì người ấy dứt khoát đòi liên lạc với toà lãnh sự Mỹ ở Việt Nam; nếu bị công an câu lưu “làm việc” thì người ấy tuyệt nhiên không hợp tác cho đến khi đã nói chuyện được với toà lãnh sự Mỹ; nếu bị tống tiền, chèn ép bởi giới chức chính quyền Việt Nam thì cũng báo ngay cho toà lãnh sự Mỹ. Khi về lại Hoa Kỳ thì nạn nhân phải báo động ngay với Bộ Ngoại Giao.
Chính quyền Mỹ có nhiệm vụ bảo vệ công dân Mỹ. Khi nhận được nhiều báo cáo từ các công dân Mỹ bị sách nhiễu, thì chính quyền Mỹ sẽ phải đặt vấn đề với phía Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam có dám đối xử tệ với những công dân Mỹ khác đâu, mà chỉ sách nhiễu người Mỹ gốc Việt. Chẳng qua chúng ta cho phép họ làm vậy. Lỗi ấy là của chúng ta.
Thành ra, muốn khẳng định “chúng tôi không là Việt kiều” với nhà nước Việt Nam thì trước hết chúng ta phải tự nhủ và nhắc nhở lẫn nhau: “Chúng ta không là Việt kiều”. Khi người người trong chúng ta ý thức điều này và hành xử đúng cương vị thìnhà nước Việt Nam sẽ phải thay đổi theo. Tôi tin là vậy.

Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức



Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức vì đã thông tin sai về mạng xã hội Đức! (Xin cư dân mạng chia sẻ và cùng yêu cầu này).
Ngày 17/11/2017, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nói trên diễn đàn Quốc hội về mạng xã hội. Ông nói vo, được bà Chủ tịch Quốc hội khen hay, cho thêm 10 phút. Ông dẫn nhiều số liệu về mạng xã hội Việt nam và các nước khác, có vẻ các ông bà nghị tin sái cổ. Tuy nhiên một số thông tin ông cung cấp không chính xác.
Hôm qua, trong một STT tôi đã phân tích ông VĐĐ đã sai khi khẳng định Việt nam không thu thuế được từ doanh thu quảng cáo hàng trăm triệu đô la từ Việt nam của hai ông lớn Facebook và Google, vì thực tế các doanh nghiệp Việt chuyển tiền cho hai ông lớn này phải trích trả hộ thuế nhà thầu nước ngoài cho Việt nam.
Đặc biệt ông VĐĐ đã thông tin sai về mạng xã hội Đức, khi ông nói “Chỉ 37% người Đức dùng mạng xã hội, bởi họ biết rằng dùng là bị lấy mất thông tin cá nhân”. Ý nói rằng, dân Việt dễ dãi quá, đua nhau dùng mạng xã hội và bị các hãng cung cấp dịch vụ (chủ yếu của nước ngoài) lấy mất thông tin cá nhân. Tôi không rõ ông Đam lấy số liệu trên từ nguồn nào. Trong khi theo những số liệu chính thức từ nước Đức về người sử dụng Internet và sử dụng mạng xã hội tại nước này như sau:
Năm 2016, có 79% người Đức sử dụng Internet, và 80% số người sử dụng Internet dùng mạng xã hội. (Trong số người sử dụng mạng xã hội, 88% sử dụng Youtube, 87% sử dụng Facebook). Như vậy, trong năm 2016 trên 63% người Đức sử dụng mạng xã hội, năm 2017, tỷ lệ này còn gia tăng. (Xem nguồn http://social-media-atlas.faktenkontor.de/2015/index.php và https://de.statista.com/…/entwicklung-der-internetnutzung-…/)
Có lẽ ông VĐĐ do không biết tiếng Đức, nên không thẩm tra lại con số ” chỉ 37% người Đức sử dụng mạng xã hội”, đúng ra là “chỉ 37% người Đức không sử dụng mạng xã hội” và “có đến 63% người Đức sử dụng mạng xã hội”.
Ông Vũ Đức Đam cần xin lỗi quốc hội và dân Việt lẫn nước Đức vì đã thông tin sai về mạng xã hội Đức!
http://cafebiz.vn/pho-thu-tuong-vu-duc-dam-chi-37-nguoi-duc…
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ .


Mai Sương added 2 new photos.
Cứ mỗi năm , đến ngày 1/11 – lễ các thánh nam nữ , một đại lễ của người Công giáo , thì chúng ta lại được nghe Chúa Giêsu công bố HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI ( Tám mối phúc thật ).
Trong hiện tình đất nước hiện nay , tôi chú ý đến mối phúc cuối cùng : ” Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính , vì Nước Trời là của họ . Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta xỉ vả , bách hại và vu khống đủ điều xấu xa . Anh em hãy vui mừng hớn hở vì phần thưởng dành cho anh em ở trên Trời thật là lớn lao ” ( Mt 5 , 10 – 12) . Vâng , mối phúc thứ 8 này khiến tôi nghĩ đến những người đấu tranh dân chủ chân chính ở Việt nam , họ đã dấn thân đấu tranh cho SỰ THẬT, CÔNG BÌNH , BÁC ÁI … và cái giá họ phải trả là bị vu khống , bắt bớ , tù đầy … tôi tự hào vì chị NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH ( mẹ Nấm ) là một trong những người Công giáo dám đánh đổi tất cả để đấu tranh cho SỰ CÔNG CHÍNH !
Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,
Suy Tư Tin Mừng tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017
Tin Mừng (Mt 25: 14-30)
Bấy giờ, Đức Giêsu kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này: “Người kia sắp đi xa, gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông đưa cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn, và gây lời được năm yến khác.
Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ các đầy tớ ấy đến và yêu cầu họ thanh toán sổ sách. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây.” Ông chủ nói với người ấy: “Khá lắm! Anh đúng là tôi tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông vẫn còn nguyên đây này” Ông chủ đáp: “Anh thật là tôi tớ xấu và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
“Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,”
“Bởi mùi hương ngự trị, cánh hoa tàn.”
(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)
Mất tình/mất tiền, nào mấy sợ. Bởi, tình/tiền xưa nay còn đó vẫn rất hiền. Cái dễ mất nhất, là niềm tin Chúa gửi nơi lòng dạ con người từ xưa đến nay. Lòng dạ ấy nay đà thấy ở trình thuật, ngày Chúa nhật. Trình thuật Chúa nhật về niềm tin để luột mất, là ý tứ và ý từ được thánh Mat-thêu đềcập đến qua dụ ngôn kể lại hôm nay. Dụ ngôn, nay kể về “yến bạc” giao cho các người đầy tớ để sinh lời. Dụ ngôn, nay mang nặng tình tiết nối tiếp truyện kể đọc tuần trước, cũng đề cập việc sử dụng và đầu tư của cải vào mọi chuyện.
Thời xưa,“yến bạc” là đơn vị đo lường trọng lượng. Đó, là đồng cân nặng nhất trong hệ thống cần lường. Yến bạc, được dùng để cân đo vàng/bạc, kim loại, và đồ đồng. Mãi về sau, con người mới dùng nó làm đơn vị tiền tệ. Với người Do thái, một yến bạc tương đương với 3,000 shekels, tương tự định mức cân lượng mà người thường mang vác được.
Lịch sử sau thời của Chúa và vào thời thánh Mát-thêu, thì một yến bạc tương đương với 6,000 quan tiền người La Mã. 6,000 quan tiền, tương đương với lợi tức mà công nhân bình thường ở huyện có khả năng kiếm được trong vòng 15 đến 20 năm. Đó, cũng là lối nói thông thường về “một tấn tiền quan” người La Mã.
Người chủ được nói đến ở dụ ngôn, là người bận rộn, phải đi xa một thời gian không biết trước được hạn định. Ông trao cho 3 người tớ của ông 3 lượng tiền khác nhau. Một người, những 5 yến bạc. Kẻ kia chỉ hai yến. Còn người chót, chỉ mỗi yến một. Tất cả đều tuỳ khả năng của mỗi người.
Nhưng, ông lại không cho họ biết phải làm gì với số bạc ấy. Ông coi mọi người như kẻ chín chắn. Chững chạc. Ông rất tôn trọng tự do và sức sáng tạo, của mỗi người. Và, ông cũng chẳng hề nghĩ là ông đã trao phần ít ỏi cho người đầy tớ thứ nhì và thứ ba. Bởi, mỗi yến bạc khi ấy nặng cả tấn tiền.
Về cốt truyện thì ai cũng đều đã tỏ. Hai người tớ đầu, đều biết mình phải làm gì với số lượng yến bào do chủ ủy thác. Tức, sử dụng nó một cách mẫn cán, hiệu quả. Cả hai người này đều làm lợi cho chủ nhiều điều thấy rất rõ. Trong khi đó, người đầy tớ cuối lại không hành xử hệt như thế. Y đào đất chôn tiền quan xuống đó, tưởng rằng làm thế tức tạo sự an toàn, đúng đắn như bỏ vào két sắt/quỹ tiết kiệm, mà chẳng biết đầu tư cũng chẳng sinh lời sinh lãi.
Đó là biện pháp an toàn tối thiểu mà người khờ-khạo nhất cũng nghĩ ra. Tức, không sinh lợi nhưng cũng chẳng làm hại, chẳng thua lỗ điều gì. Tức, không tạo tăng trưởng, nhưng cũng chẳng làm ai thiệt thòi hoặc mất mát. Y ta đem về cho chủ đúng số lượng buổi ban đầu do chủ giao, chẳng dùng vào việc chi hết. Cất như thế, có bỏ công tìm kỹ cũng chẳng thấy được dấu tay, hoặc vết tích.Thật ra, y ta chẳng làm điều gì sai trái cả vì có làm gì đâu mà có sai sót.
Dụ ngôn cũng cho thấy: hai người đầy tớ đầu được chủ tặng thưởng rất hậu hỹ. Lại được chủ gọi đích danh “tôi tớ lương hảo và trung trực”. Tức, nhận nhiều trách nhiệm sẽgặt hái được nhiều niềm vui. Trong khi đó, người tớ chót bị chủ cho là thành phần bất hảo/lười biếng, đáng trách. Nói đúng ra, phải gọi anh ta là kẻ vô tích sự, chẳng làm được gì nên chuyện, loại người ăn không ngồi rỗi, rất đáng buồn. Thế nên, họ mới bị lên án, dù chẳng lỡ lầm hoặc sai trái.
Có lẽ khi viết lên dụ ngôn này, thánh sử Matthêu đã mang trong đầu ý tưởng về hai nhóm người Do thái khá quan trọng, vào thời ấy, nếu đem so với nhóm thứ ba. Hai nhóm đầu, là những người đại diện cho cộng đoàn Qumran. Nhóm thứ ba tượng trưng cho đám Biệt Phái, rất Pharisêu.
Qumran là nơi ta tìm ra Cảo Bản Biển Chết. Ở nơi đó, thấy có cộng đoàn sống chia cách/tách rời xã hội mình đang sống. Tách và rời, khỏi đền Giêrusalem để rồi đi vào chốn sa mạc lặng lẽ, trong hang động. Hang động họ sống, quanh Qumran, bị người La Mã phá huỷ vào thời chinh chiến suốt từ năm 68 đến 70 sau Công nguyên. Nên, cũng chẳng tồn tại khi thánh Matthêu viết lên Tin Mừng của thánh nhân vào niên biểu thứ 85. Và, thánh nhân cũng thừa biết là nhóm người này từng chôn giấu yến bạc đạo đức ở đâu đó, trong hầm tối của chính mình.
Pharisêu là nhóm người có mặt nhiều hồi thánh Mat-thêu còn sống. Họ là những đối tác chuyên kình chống lại thánh nhân. Vào dạo trước, Đức Giêsu cũng có cảm tình với những người này. Và ngược lại, họ cũng biết điều với Ngài trong nhiều chuyện.
Nhưng 40, 50 năm về sau, thế giới của họ đã biến đổi một cách khác hẳn. Sau ngày đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ, đám Pharisêu lại trổi lên thành nhóm lãnh đạo dân Do Thái quyết tập hợp lại với cuộc sống ở ngoài đời. Trước thời thánh Matthêu sống, đám Pharisêu đã củng cố chỗ đứng của họ và phô trương cho mọi người thấy cung cách chỉ biết sống theo luật và luật.
Và từ đó, họ tìm cách rút khỏi tầm ảnh hưởng của người La Mã để còn áp đặt mọi chuyện lên dân con của chính mình. Nói theo ngôn từ đạo đức, thì thời đó, đám Pharisêu là nhóm hướng dẫn việc đạo hạnh quyết đưa mọi người rời thế giới thực tại thời bấy giờ. Họ chính là những người cột chặt tinh thần câu nệ lề luật sau hàng rào bảo vệ của Torah.
Thánh Matthêu chẳng ưa gì nhóm người này. Thánh nhân chỉ muốn sống theo tinh thần của Đức Giêsu chủ trương bằng vào tương quan cởi mở, gọn gàng và nhẹ nhàng hơn. Thánh nhân chủ trương tinh thần biết sử dụng các “nén bạc” do Đức Giêsu và Thần Khí Ngài tặng ban. “Nén bạc” nói ở dụ ngôn hôm nay, không chỉ mang nghĩa kim tiền/của cải thôi; nhưng, còn biểu trưng quà tặng về năng khiếu như khi ta đề cập đến kỹ năng âm nhạc, ngôn ngữ, toán học hoặc những thứ khác.
Thông điệp thánh Mátthêu gửi mọi người bằng dụ ngôn hôm nay, luôn mang tính giản đơn, thẳng thắn, trực tiếp. Ý thánh sử muốn nói, là: ân huệ Chúa ban cho mọi người vẫn thừa thãi, tràn đầy, không cạn tiệt. Nếu ta lại đem chôn ân huệ Ngài ban xuống đất, khác nào người đầy tớ vô tích sự, kể ở trên.
Truyện dụ ngôn hôm nay còn làm người đọc liên tưởng đến chuyện “Trân Châu Cảng”. Ở cảng này, tầu thuyền neo đậu đâu nào có nghĩa mình sẽ an toàn thoải mái mãi suốt đời? Chỉ hiện diện sống ở đó thôi, đâu có nghĩa mình sẽ được an toàn cả phần linh thánh lẫn mặt đời.
Tình tự chuyên lo sống an toàn, được ghi rõ ở nhiều thông điệp được Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI tỏ cho giới trẻ biết trên báo đài lẫn Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne, Sydney lẫn Madrid. Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đạo Chúa như tình yêu cao cả, và mặc khải quý hiếm.
Đối với ngài, làm tín hữu Đức Kitô là nhận lãnh ân huệ cao cả và quý hiếm Chúa vẫn ban. Ân huệ Ngài ban cho mọi người, sẽ là đôi cánh tiên để ta bay cao vút, lên cõi tiên. Ân huệ Chúa ban, còn là sứ mạng gửi đến mọi tín hữu. Sứ mạng ấy, là dự án để ta thực hiện vào mai ngày. Là, đem chân, thiện, mỹ vào cuộc sống rất thực để rồi ta tập trung đời mình vào những gì quan yếu, thiết thực thôi.
Đức Giáo Hoàng từng bảo: giả như Hội thánh mình biết sống thực như thế, ắt hẳn cuộc sống của mình sẽ mãi mãi trẻ trung, suốt mọi thời. Có sống như thế, thánh hội của Chúa sẽ không bao giờ trở nên chai lì, cằn cỗi. Bởi, Hội thánh là hội của các thánh biết kết hiệp với Chúa, tức cội nguồn tuổi trẻ, rất sống động.
Nay, điều cần là mỗi người và mọi người nên để cho qua đi tâm tư mỏi mệt và tâm tình nhiều huỷhoại. Để rồi, sẽ hướng nhìn về phía về nơi có sự cao cả đích thực là di sản của Đạo Chúa. Đó, còn là “nén bạc” mà Chủ Tể vũ trụ đã trao cho mỗi một người, trong cuộc đời. Đó, là sứ mệnh khiến ta chọn lựa. Chấp nhận. Sứ mệnh, là: sử-dụng nén bạc Ngài trao hầu xây dựng tương lai mai ngày cho thế giới mình chung sống. Thế nên, hãy dấn bước thâm trầm mà tiến tới. Tiến về phía trước mặt, dù đời người muôn mặt, để còn sinh lợi “nén bạc’ hiếm quý Chúa trao ban, cho ta và cho mỗi người.
Trong tâm tình cảm kích chấp nhận nén bạc Ngài ban, ta lại sẽ ngâm nga lời ca, còn đậm nét:
“Xa tít tắp từ rừng xưa cổ tích,
Cỏ xanh mềm ảo hoá giấc phù vân.
Mùa thu ấy đôi mắt buồn man mác,
Ngong ngóng chờ hoài niệm hoá rêu xanh.”
(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)
Nguyệt Quỳnh đây, có thể không là “nén bạc” quý hiếm Chúa gửi gắm. Nhưng, vẫn là huệ ân/ân huệ mọi người trông ngóng biến thành những gì có lợi cho mình, cho mọi người, ở đời.
Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –
Mai Tá lược dịch.
Anh không chết đâu em,
Chuyện Phiếm đọc trong tuần 33 thường niên năm A 19/11/2017
“Anh không chết đâu em,”
anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang,
trong lòng muôn người biết thương đời lính.”
(Trần Thiện Thanh – Anh Không Chết Đâu Anh)
(Rôma 12: 10-13)
Ấy chết! Đang sống đành rành như người thường là những người sẽ chết bất cứ lúc nào, mà sao anh cứ hát những lời thế? Hát thế, thật như “trù ẻo” tôi và bạn, vẫn từng muốn sống hết đời mình, cho trọn vẹn.
Thôi thì, anh muốn hát thế nào thì hát, nhưng cứ hát chữ “chết chóc” hoặc “chết bất đắc kỳ tử” là tôi đây thấy rợn xương với xương sườn rồi đấy anh ạ, hỡi Trần Thiện Thanh, rất lành của tôi và của bạn.
Thôi thì, anh đã hát rồi, thì tôi nay nghe tiếp những lời lẽ khác, như sau:
“Anh không chết đâu anh, người anh hùng mủ đỏ tên Đương,
Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu.
Nghe trong đêm kêu gào từng tiếng súng pháo đếm mau.
Và tiếng súng tiếng súng hay nhạc chiêu hồn đưa anh đi anh đi.
Anh, anh không chết đâu em, anh chỉ về với mẹ mong con.
Anh vẫn sống thênh thang trong lòng muôn người biết thương đời lính.
Trong tim cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công.
Chuyện nước mắt ướt sân trường đại học chuyện anh riêng anh riêng anh.
(Trần Thiện Thanh – bđd)
Về nỗi chết, hôm nay bạn và tôi, lại có những giòng chảy ý-tưởng cứ chảy mãi không ngừng, một thần học. Thần học đây, là môn học về thần linh, thánh ái có những điều rất cần để ý. Hệt như tác-giả ở bên dưới từng biện luận. Thế nhưng, trước khi đi vào luận-giải những tư-tưởng và/hoặc tâm-tư rất tưởng-tượng, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm những lời sau đây:
“Ôi đất mát trên đồi xanh tình yêu khóc ngất bên cỏ tranh
Đâu cánh dù ôm gió, đây cánh dù ôm kín đời anh
Trong những tiếng reo hò kia lẻ loi tiếng súng anh nhiệm màu
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh
Không, anh không, anh không chết đâu em anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân
Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh cho anh …”
(Trần Thiện Thanh – bđd)
Và thêm vào đó, là những giòng kể lể rất chuyện đời của con người, mà rằng:
“Sáu giờ sáng. Bà lão bảy mươi tuổi , loắt choắt như chim sẻ ngồi ở bậc thềm ngắm bình minh. Có đôi chim nào dậy sớm đang ríu rít trên ngọn cây gần đó. Nhưng bà còn dậy sớm hơn chúng dù luôn thức tới khuya lơ để săn sóc cho chồng. Nhiều năm rồi, kể từ khi chồng bà bị tai biến. Cũng nhiều năm rồi, sử dụng đồ vật hay máy móc trong các phòng, xê dịch từ góc này sang góc khác lúc làm việc nhà, tất cả bà đều thao tác thành thục và chính xác bằng quán tính chứ không cần nhìn rõ qua cặp kính dày cộm.
Bẩy giờ bà trở vào phòng ngủ, Ông đang thở đều, lồng ngực nhẹ nhàng nhấp nhô lên xuống, đôi mắt nhắm kín. Nhưng một giọng nói thốt ra rõ ràng: “Anh thức rồi, mình à”. Bà mỉm cười: “Để em lấy khăn và thuốc nhỏ mắt cho mình.”
Ông dùng tay phải lau kỹ mặt với chiếc khăn ướt âm ấm. Cách nay nhiều năm cánh tay trái bị hỏng vì tai nạn lao động, thế rồi sáu tháng trước, chân phải bị tổn thương, ông đành để bác sĩ tháo khớp. Ông chỉ còn sử dụng được một cánh tay. Có lần ông bảo bà: “Anh chẳng còn gì cả,mình nhỉ?” Bà vỗ vỗ lên ngực ông: “Còn nhiều chứ và phần tốt nhất ở đây này”.
Khi ông đã sẵn sàng, bà nhấn nút điều khiển nâng chiếc giường dựng lên để ông dễ ngồi dậy, rồi giúp ông ngồi vào xe lăn. Trong phòng tắm bà giúp ông cạo mặt, làm vệ sinh cá nhân buổi sáng, thay áo quần…Đã lâu rồi, mọi việc lớn nhỏ hàng ngày ông đều phải nhờ đến bà. Có lần ông hỏi: “Mình chưa bỏ anh chứ?” Và bà lắc đầu, cười: “Đời nào! Đã ngần ấy năm mà…”
Hai người vào bếp ăn sáng. Trên bàn, các món đã bày biện sẵn sàng, hai ông bà ngồi đối diện nhau, hai bàn tay phải vói qua mặt bàn và mười ngón tay lồng vào nhau, nắm chặt. Họ cùng nhau cầu nguyện… Trong lúc cầu nguyện, nước mắt ông lặng lẽ lăn dài xuống đôi má nhăn nheo. Uống xong tách cà phê, ông bảo bà: “Giá mà biết có ngày sẽ như thế này, mình chẳng đời nào chịu ra nhà thờ với anh, mình nhĩ?”
Bà nhìn thẳng vào mắt ông, nhỏ nhẹ: “Mình biết không, chỉ cần thấy mình cười, thấy ánh mắt mình nhìn em, thế là quá đủ rồi. Em chẳng còn mongmuốn thay đổi gì hết, ngoại trừ một điều. Đó là, nếu như mỗi năm, giá như em có thể thế chỗ mình một nửa thời gian, để mình lại được chăm sóc em”. (Truyện kể trích từ điện thư trên mạng)
Truyện kể ở trên, bạn và tôi có trích-dẫn từ điện-thư hoặc thư tay gửi từ đâu, dù là bưu điện hay vi-tính cũng không thành vấn-đề. Chỉ thành như thế, khi tôi và bạn, ta cứ đinh ninh rằng: truyện ở đây không phải để kể qua loa cho xong chuyện rồi thôi; nhưng còn là bài học để đời giúp ta sống vui, quên chết, mỗi thế thôi.
Truyện, có kể ra đây lại cũng chỉ để làm bàn đạp ngon trớn giúp bạn và tôi ta cứ thế tiếp tục bàn về những chuyện “không vui” cứ xảy đến mỗi ngày ở huyện dân gian hay trong khuôn viên nhà Đạo, cho mọi người lưu tâm, mà nhận xét. Những câu chuyện không vui, nhưng vẫn thành chuyện, hệt như chuyện an-tử lại khiến tôi và khiến bạn lưu-tâm thêm lần nữa, qua mục hỏi đáp, rất như sau:
“Thưa cha,
Con đây muốn viết cho vị dân biểu đại diện cử tri trong vùng về dự luật “an-tử” sẽ được thông qua ở Quốc hội tiểu bang New South Wales những ngày gần đây. Nhưng trước khi làm thế, con muốn hội ý với cha đôi ba sự việc để có được một số ý-kiến mà biện luận. Vậy bằng thư này, xin cha phúc-đáp cho vài ý-tưởng để khỏi trông ngóng. Cảm ơn cha rất nhiều. Xin cho được giữ kín tên tuổi.”
Giữ kín tên tuổi, vẫn là việc của “chàng”, những chàng trai hay con gái ở huyện nhà rất quan tâm đến chuyện nhà Đạo đang diễn ra ở đây và ở đó, cũng rất nhiều. Chính vì thế, nên cha/cố đã săn sang giấy bút để trả lời/trả vốn cho đàn con nhỏ như sau:
“Việc cần-thiết, là tất cả mọi người chúng ta quyết phải làm để tránh “an-tử” tức: hành động giúp người khác tự sát đang được chính quyền hợp thức hoá, tại nước này. Những điều ẩn-hàm trong đó xem ra rất lớn. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị có bàn đến an-tử trong tông-thư mang tựa đề “Đời sống Phúc Âm” có bảo rằng: “Nay, ta đang giáp mặt một trong các triệu-chứng rất báo-động của “văn-hoá sự chết” đang tiến mạnh trong các xã-hội trù phú, được đánh dấu bằng thái-độ đối với mối bận tâm về hiệu-năng và thấy con số người già và người khuyết tật đang gia tăng đến mức độ khó lòng chịu đựng được là gánh nặng đối với nhiều người.” (X. Đời sống Phúc Âm đoạn 64)
Ở đây, tôi sẽ đưa ra sáu luận cứ để trả lời cho câu hỏi của anh/chị. Trước nhất, dự-luật đưa ra với quốc hội tiểu-bang New South Wales cho phép bất cứ ai trên 25 tuổi đang chịu đau đớn đến cùng cực được giúp đỡ để kết thúc sự sống của họ nều như có hai bác-sĩ chứng-thực rằng người ấy đang bị bệnh nặng hoặc ở trong tình trang sẽ phải chết trong không đầy một năm.
Tất cả chúng ta thừa biết là mọi người khi trước đều nói rằng: bệnh nhân này chỉ sống được vài tháng nữa là cùng, thì nay người này lại hoàn toàn mạnh khoẻ trở lại, thế mới lạ. Giả như những người chọn kết liễu đời mình khi cảm thấy đau đớn quá sức mình, thì đó là mất mát lớn đối với chính họ, với bạn bè người thân trong gia đình! Người ta cũng phạm phải sai lầm khi nghĩ đến tuổi thọ. Hợp-thức-hoá an-tử chỉ tổ gia tăng vấn đề ấy mà thôi.
Thứ hai là, cho phép được an-tử là dựng ra tiêu-chuẩn kép về tình-trạng xã-hội đặt giá-trị lên sự sống như thế nào. Một đằng, ta có lý để ân-hận chuyện chấm dứt sự sống bằng việc tự sát, chí ít là khi việc ấy do người trẻ tuổi nào đó thực-hiện và ta đang cố gắng ngăn chặn mọi người chớ có tự sát.
Thế nhưng, đằng khác, ta lại hợp-thức-hoá an-tử đến độ có thể giúp đỡ người chấm dứt sự sống của họ nữa. Vậy thì, ta gửi cho những người muốn tự sát thứ thông-điệp nào đây? Ta có còn đặt giá-trị lên cuộc sống và xót xa/ân-hận khi có người tự sát hay không?
Thứ ba là, việc hợp-thức-hoá việc giúp đỡ người khác tự sát có lẽ sẽ làm gia-tăng tỷ-lệ tự sát, nói chung. Một khi việc giúp đỡ người khác tự sát được xã-hội chấp-thuận theo luật pháp có thể dẫn mọi người đến tình-trạng không còn đau đớn vì các bệnh nan-y bằng cách chấm dứt sự sống của họ.
Chuyện này đầu tiên xảy ra ở bên Mỹ, tiểu bang Oregon là tiểu bang đầu tiên hợp-thức-hoá an-tử, thì tại đây việc tự sát nói chung lên đến 40% nhiều hơn con số bình quân trên toàn nước Mỹ. Vậy, ta có muốn tình-trạng ấy xảy ra ở nước mình không?
Thứ tư là, tiếp theo chuyện đang bàn, thì: giả như ta mở rộng cửa cho việc hợp-thức-hoá việc giết chóc thì việc đẩy mạnh nói đây còn mở rộng hơn nữa. Lấy ví dụ, tại sao người trẻ 25 tuổi kia đang đau đớn vì bệnh ung-thư lại có thể kiếm được bác-sĩ giúp anh đi đến chỗ chết; trong khi đó, một thanh-niên 25 tuổi khác đau đớn vị bệnh trầm thống khập khễnh vì bệnh xốp xương lại không thể làm thế được?
Nói cho cùng, thì cái đau của người bị ung-thư sẽ chấm dứt trong vòng một năm vì căn bệnh ở vào giai đoạn cuối, trong khi cơn đau của người bị trầm-thống hoặc xốp xương lại cứ tiếp diễn trong nhiều năm tới. Xem thế thì, luật-pháp quả là có kỳ-thị bệnh tật. Bởi thế nên, ta không thể mở rộng cửa cho việc này được.
Thứ năm nữa, trợ tử hoặc giúp người khác chết cho xong không có nghĩa là công việc đầy lòng thương xót chút nào hết. Như thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ Nhị từng viết trong tông-thư Đời sống Phúc Âm có bảo rằng: Cả vào khi không do động cơ ích-kỷ thúc đẩy vì phải chịu gánh nặng sự sống của người khác đang đau đớn đi nữa, phải gọi an-tử là lòng xót thương tầm bậy và đích thực là lòng thương người một cách méo mó gây bất an.
Sự “khoan-dung” đích-thực đưa ta đến việc sẻ san cơn đau của người khác; nó không giết chết người đang đau mà ta không thể chịu nổi. Hơn nữa, hành-động trợ-tử hay an-tử hiện rõ bên ngoài càng quái ác hơn nếu nó lại do những người như thế thực-hiện, chí ít là bà con, thân thuộc là những người đáng lẽ phải cư xử với người trong gia đình bằng sự kiên-nhẫn và tình thương yêu, hoặc từ những người như bác sĩ/y tá là những người theo định nghĩa phải là những người chăm sóc người bệnh cả vào giai-đoạn đau đớn đi đến chỗ chết.(X. Tông thư Đời sống Phúc Âm đoạn 66)
Thứ sáu là, các chuyên gia y-tế được huấn luyện để chữa lành và cứu sống người bệnh, chứ không phải giúp họ mau đi đến chỗ chết. Lời thể Hippôcrát ở thế kỷ thứ tư hoặc thứ năm trước Công nguyên, mà các y- sĩ/bác sĩ buộc phải tuyên hứa có ghi như sau: “Tôi nguyện sẽ sử-dụng việc chữa-trị để giúp đỡ người bệnh thể theo khả năng và suy-xét của tôi, nhưng tôi không bao giờ có lập trường làm thương-tổn và hành-xử sai trái bao giờ hết.”
Và lời cuối cùng thường là lời khuyên ngắn gọn bảo rằng: “Trước tiên, không bao giờ được làm hại ai hết.” An-tử gây tại hại lớn lao đến chết người. Nó dẫn đưa y sĩ và bác sĩ đi ngược lại những gì đi ngược lại mục tiêu mà họ nhắm đến.
Ta không nên trông chờ các bác sĩ sử-dụng kỹ năng của họ để chấm dứt sự sống của bệnh nhân mà họ đang chữ trị. Nói chung, ta phải làm bất cứ thứ gì để chống-cự lại việc hợp-thức-hoá hành động tự sát có trợ giúp.” (X. Lm John Flader, Euthanasia is atrocious: let me count the ways, The Catholic Weekly 29/10/2017, Question Tỉme tr. 29)
Nói cho cùng, là người đi Đạo chỉ quan-tâm đến việc thương yêu giúp đỡ hết mọi người, dù họ đang trong tình trạng đau yếu, bệnh tật hoặc mạnh khoẻ. Bằng không đi Đạo, chỉ là đi đứng mà không theo Đạo làm người biết yêu thương, giùm giúp một ai hết.
Nói cho cùng, an-tử hay trợ-tử phải là vấn đề đặt ra cho ta và cho người suốt mọi thời, ở mọi nơi, mới được. Để có được một quyết tâm sống chính-đáng cho phải phép, với mọi người, có lẽ cũng nên quay về với lời khuyên từ bậc thánh-hiền trong Đạo, khi xưa vẫn bảo:
“Anh em hãy gớm ghét điều dữ,
tha thiết với điều lành;
thương mến nhau với tình huynh đệ,
coi người khác trọng hơn mình;
nhiệt thành, không trễ nải;
lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa.
Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,
cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,
và chuyên cần cầu nguyện.
Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn,
và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”
(Rôma 12: 10-13)
Xem thế thì, nay đề nghị với bạn và với tôi, ta cùng nhau thực hiện ý-hướng ở trên qua lời lẽ gặp được trong ca-từ đầy “chết chóc” mà người xưa từng hát:
“Không, anh không, anh không chết đâu em,
anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua!
Tôi thấy mắt anh bên ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ.
Trên khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân.
Giọt nước mắt nóng bây giờ
và còn hằng đêm cho anh cho anh …”
(Trần Thiện Thanh – bđd)
Nước mắt nóng, hay nến vàng hắt hiu niềm nhớ, không là “nỗi chết: của ai đó, nhưng sẽ là lời cảnh tỉnh từ ca, nhạc sĩ vẫn gửi đến với tôi và với bạn, để sống hùng sống mạnh, sống đẹp đẽ trong đời người đầy chết chóc.
Trần Ngọc Mười Hai
Và những tự nhủ như thế
suốt chuỗi ngày còn lại
trong đời mình.



