Rồi xong Đức đã cắt hết từ ngoại giao đến kinh tế lẫn quân sự !

Thuong Phan and 2 others shared a link.
Ngoại trừ những dự án cũ và những hợp đồng cũ, Bộ Quốc phòng Đức đã đình chỉ tất cả, không thỏa thuận một dự án nào mới, không ký kết bất cứ một hợp đồng nào mới với …
 
THOIBAO.DE
 
 
  • Thuong Phan shared Son Dang‘s post.
     

    Rồi xong Đức đã cắt hết từ ngoại giao đến kinh tế lẫn quân sự !
    ——————

    Hôm 20.12.2017, tại Berlin. Người Phát ngôn Bộ Quốc phòng Đức đã cho thoibao.de biết ´´Ngày 22/9/2017, Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Đức ra thông báo về việc Chính phủ CHLB Đức đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Quyết định này tác động tới Bộ Quốc phòng Đức, liên quan tới các cuộc hội đàm và chuyến thăm từ cấp vụ trưởng, cục trưởng trở lên và kể từ đó cho tới thời gian tiếp theo, các cuộc hội đàm và chuyến thăm như vậy cũng bị đình chỉ“.
    Sĩ quan cấp cao của Bộ Quốc phòng Đức cũng cho biết thêm ´´Những biện pháp đã được thỏa thuận từ trước trong khuôn khổ chương trình song phương mỗi năm vẫn được tiếp tục tiến hành ở cấp chuyên viên làm việc“ .
    Điều này có nghĩa rằng, ngoại trừ những dự án cũ và những hợp đồng cũ, Bộ Quốc phòng Đức đã đình chỉ tất cả, không thỏa thuận một dự án nào mới, không ký kết bất cứ một hợp đồng nào mới với Việt Nam.
    Được biết, từ nhiều năm nay giữa Đức và Việt Nam đang tích cực hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, đặc biệt là về lãnh vực hải quân nhằm giúp Việt Nam bớt phụ thuộc dần vào các phương tiện vũ khí từ Nga, củng cố khả năng bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước này tại Biển Đông.

    Việc Bộ Quốc phòng Đức đình chỉ các tiếp xúc với Quân đội Việt Nam từ cấp Cục, Vụ trở lên sẽ làm suy yếu tiến trình từng bước tự hiện đại hóa và duy trì hiện diện của lực lượng hải quân nước này trong việc để bảo vệ chủ quyền trên Biển, vốn đang bị Trung Quốc xâm chiếm từ những năm 1974 cho đến nay.

    Nếu Quân đội Nhân dân Việt Nam không kịp thời ngăn chặn các hành động bắt người vô pháp của kẻ chủ mưu, dẫn tới sự hỗn loạn nội bộ cũng như làm mất lòng tin với các đối tác quốc tế, sẽ còn xẩy ra nhiều diễn biến khó lường, gây ra lỗ hổng lớn cho việc bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam.
    Nguy cơ khủng hoảng về an ninh quốc phòng có lẽ sẽ là một món quà mà ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng thời là Bí thư Quân ủy Trung ương dâng tặng người bạn “ 4 tốt “ phương Bắc đang chiếm đóng và liên tục xây lấn tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam

Nhà máy soda 2.300 tỉ nguy cơ thành sắt vụn

Trần Bang
Nhà máy soda đầu tư trên 2.300 tỉ đồng đặt tại Chu Lai, Quảng Nam đã phải trùm mền sau ít tháng hoạt động và đứng trước nguy cơ thành đống sắt vụn.

Lý do là : “một trong những mục đích làm nhà máy soda là có ý đồ để bán thiết bị công nghệ từ Trung Quốc”

“Đã cản nhưng không được”

Một nguyên lãnh đạo Sở Tài nguyên – Môi trường tỉnh Quảng Nam nói rằng thời điểm đặt vấn đề làm nhà máy soda ở Chu Lai, ông đã có góp ý với lãnh đạo tỉnh là không nên chấp thuận bởi sẽ có nhiều hệ luỵ về sau.

Theo vị này, chủ đầu tư đã đi tới ba tỉnh khác xin làm soda nhưng không được rồi mới vào Quảng Nam.

Chất thải của nhà máy soda rất độc hại, trong khi đó vị trí làm nhà máy lại trên hướng các hồ nuôi tôm của dân.

Hơn nữa, thời điểm nhà máy khởi công thì hệ thống xử lý thải tập trung của Khu kinh tế Chu Lai chưa động thổ, trong khi đó lượng thải của riêng nhà máy soda đã gấp nhiều lần năng lực xử lý.

“Vì những lẽ đó, tôi đã góp ý là không nên cho triển khai nhưng lãnh đạo tỉnh vẫn quyết”, vị này nói.

Ông cũng khẳng định rằng “một trong những mục đích làm nhà máy soda là có ý đồ để bán thiết bị công nghệ từ Trung Quốc”.

TTO – Nhà máy soda đầu tư trên 2.300 tỉ đồng đặt tại Chu Lai, Quảng Nam đã phải trùm mền sau ít tháng hoạt động và đứng trước nguy cơ thành đống sắt vụn.
TUOITRE.VN
 

Đỗ Ngà: TRÊN NĂM CAM

From:   Hoa Kim Ngo
 

Đỗ Ngà: TRÊN NĂM CAM

Ngày trước, khi mà chính quyền bắt băng nhóm Năm Cam, dân Sài Gòn háo hức reo mừng vì chính quyền đã trừng trị thích đáng một trùm xã hội đen. Các cuộc vây bắt được dân chào đón vỗ tay reo mừng. Cho đến nay, nhân vật Năm Cam đã thành một huyền thoại.

Nhớ cách đây khoảng 10 năm, có lần cao hứng tôi nói “Năm Cam là một trùm xã hội đen, chính quyền tiêu diệt hắn là đáng”. Lúc đó có một anh lớn tuổi đã đáp lại “Theo chú em thì Năm Cam hại được được bao nhiêu người trong gần 90 triệu dân Việt Nam? Cùng lắm hắn chỉ hại được những kẻ dây mơ rễ má má với hắn, tức là những kẻ ít nhiều có dính đến xã hội đen. Thực ra chưa có bằng chứng nào để kết luận Năm Cam hại người lương thiện. Ông ta đã hạ xác Dung Hà, chuyện đó là chuyện trong giới giang hồ của họ với nhau chẳng liên quan gì đến người lương thiện”. Anh ta lại nói tiếp “Thực ra kẻ nhân danh công lý ở xứ này mới đáng sợ chứ kẻ tội phạm chưa chắc gì đáng sợ với dân lương thiện”. Thật sự câu nói của anh ta đã đã làm tôi nghĩ lại, kẻ nhân danh công lý ở Việt Nam đã bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của mọi người dân.

Thực ra để bắt được Năm Cam thì phải có thời gian dài trước đó chính quyền nuôi lớn ông này thành trùm. Chính những kẻ cầm trong tay quyền lực nhà nước đã nuôi Năm Cam chứ không ai khác. Người ta nói Năm Cam mua được cả công an và các uỷ viên Trung ương, nhưng theo tôi, những tên này tham lam nuôi Năm Cam lớn mạnh để Năm Cam mang lại tiền tài cho chúng. Khi đó chưa có những dự án ngàn tỷ, trăm triệu đô hay tỷ đô thì phải nuôi xã hội đen để chúng mang tiền đến cung phụng.

Ngày nay vốn ODA rót vào tay nhiều, đám uỷ viên Trung ương và uỷ viên BCT có nhiều lựa chọn hơn, mốt nuôi xã hội đen không còn hợp thời nữa, thay vào đó là lợi ích nhóm hình thành để tham nhũng chính sách, quyền làm chính sách, tiền dựa quyền để cướp rồi chia nhau sự giàu có, tất cả đều được bao che lẫn nhau rất an toàn. Thực ra những con người CS luôn có lòng tham và dã tâm tà ác nên khi có điều kiện thích hợp thì chúng hình thành ngay các dạng liên minh để làm giàu.

Khi báo chí đồng loạt thông báo và cả truyền hình trực tiếp chiến dịch đánh Năm Cam thì lúc đó dân Việt Nam mới biết đến Năm Cam nhờ truyền thông nhà nước. Nghĩa là chỉ một tỉ lệ rất ít người biết Năm Cam, và đa phần dân Việt Nam cũng chẳng nghèo đi khi Năm Cam bị bắt và cũng chẳng giàu lên khi Năm Cam bị bắt. Nói thế không có nghĩa là ủng hộ tội ác Năm Cam mà tôi chỉ muốn nói một điều rằng, xã hội đen hay mafia ảnh hưởng đến dân sinh không lớn bằng sự bất chính của một chính quyền. Năm Cam bị bắt, chẳng ai bênh vực cho hắn, nhưng khi các quan chức bị dân phanh phui thì cả hệ thống báo chí hùa nhau bảo vệ dù tội rành rành ra đó.

Nay Nguyễn Phú Trọng bắt hàng loạt người của nhóm chính trị đối thủ để cố mà sờ được cái gáy của Nguyễn Tấn Dũng. Đây là màn đấu đá quyền lực, tên nào bị bắt và bị trừng trị thì cũng chả sạch được bộ máy chính quyền này. Cứ trừng trị được đứa nào hay đứa đấy, việc này cũng xem như làm cho dân phấn khích một chút vì sự khổ bị đè nén quá lâu mà thôi.

Nguyễn Phú Trọng đang lấy mục đích biện minh cho phương tiện. Ông ta làm việc này vì mục đích chống tham nhũng? Không sai, vì những tên bị bắt đều là những tên tham nhũng gộc. Nhưng nghĩ đi cũng phải nghĩ lại, khi người CS ra tay một vấn đề gì họ cũng nhân danh một điều tốt đẹp để thi hành một âm mưu, CS luôn là vậy. Cải Cách Ruộng Đất, nghe tiêu đề như là vì nhân dân, nhưng kỳ thực đấy là mục đích ảo để biện minh cho phương tiện hành động thi hành tội ác trên đồng bào vô tội để biến Việt Nam thành đất nước không còn trí lực nhằm dễ cai trị. Hay họ dùng chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” để biện minh cho cuộc chiến tương tàn đồng bào mà chính họ là nguyên nhân. Hay chính Lenin cũng đã lấy mục đích XHCN “cao đẹp” để biện minh cho công cụ bạo lực cách mạng rất tàn khốc của ông ta.

Thực ra hôm nay dân cũng ít ngu hơn thời bắt Năm Cam, rất nhiều người hiểu ra bản chất vấn đề nên họ cũng chẳng háo hức gì mấy. Họ biết đánh Đinh La Thăng này thì sẽ mọc ra một La Thăng khác mà thôi. Ngày trước vụ án Minh Phụng – Epco trị giá đến 300 triệu USD lớn nhất thời đó, rồi sau đó mấy năm vụ án Tân Trường Sanh cũng gần trăm triệu USD, những quan chức hải quan TP. HCM cũng dính, nhưng nay đến uỷ viên BCT Đinh La Thăng cũng nhúng tay vào những vụ nếu cộng lại hàng tỷ USD chứ không ít, đấy là sự “phát triển” mạnh nhất của chính quyền này mà ta có thể thấy được. Đinh La Thăng được sinh ra từ thể chế này thì không lý do gì thể chế này lại không sinh ra vô số Đinh La Thăng khác. Đối với tôi, trừng trị Thăng chỉ là một tin thời sự chứ chẳng làm sạch được tí gì cái bộ máy chính quyền vốn vô cùng thối nát như thế này. Vậy thôi.
Đỗ Ngà.

Image may contain: 5 people, people smiling, people standing

TRẦN THỊ NGA 9 NĂM TÙ, 5 NĂM QUẢN CHẾ

Hoa Kim Ngo shared Từ Thức‘s post.
 

Từ Thức· 

Hôm nay, cái gọi là tòa án lại lôi TRẦN THỊ NGA ra xử. Hôm trước 5 người trẻ ( 2 người mới 23 tuổi ) lãnh tổng cộng 19 năm tù về tội chống phá nhà nước. Phường chèo lố lăng, trò hề rẻ tiền ( đúng ra là miễn phí ) nhưng không cười được, vì đằng sau là những phụ nữ, những người trẻ sẽ bỏ cả tuổi thanh xuân trong tù. Vì tội không muốn đất nước rơi vào tay Trung Quốc
‘’Nhà nước ’’ ( tao là nhà nước, nhà nước là tao ) chùi chân lên nhân quyền, tát vào mặt dân. Đa số dân Việt thờ ơ, để sống qua ngày. Nhưng chúng tát vào mặt mỗi ngày, đến một lúc nào đó cũng phải tỉnh, không lẽ tiếp tục nhìn nơi khác ?

 
Image may contain: 4 people, people standing, hat and outdoor
Từ Thức

 

TRẦN THỊ NGA 9 NĂM TÙ, 5 NĂM QUẢN CHẾ 
Hôm nay, cái gọi là tòa án lại lôi TRẦN THỊ NGA ra xử. 9 NĂM TÙ + 5 năm quản chế. Hôm trước 5 người trẻ ( 2 người mới 23 tuổi ) lãnh tổng cộng 19 năm tù về tội chống phá nhà nước.

Phường chèo lố lăng, trò hề rẻ tiền ( đúng ra là miễn phí ) nhưng không cười được, vì đằng sau là những phụ nữ, những người trẻ sẽ bỏ cả tuổi thanh xuân trong tù. Vì tội không muốn đất nước rơi vào tay Trung Quốc
‘’Nhà nước ’’ ( tao là nhà nước, nhà nước là tao ) chùi chân lên nhân quyền, tát vào mặt dân. Đa số dân Việt thờ ơ, để sống qua ngày. Nhưng chúng tát vào mặt mỗi ngày, đến một lúc nào đó cũng phải tỉnh, không lẽ tiếp tục nhìn nơi khác ?

Mỹ chế tài những đối tượng vi phạm nhân quyền, tham nhũng

Mỹ chế tài những đối tượng vi phạm nhân quyền, tham nhũng


Tướng Maung Maung Soe cầm đầu cuộc đàn áp tàn bạo trong năm nay nhắm vào người thiểu số Hồi giáo Rohingya ở bang Rakhine của Myanmar.

Tướng Maung Maung Soe cầm đầu cuộc đàn áp tàn bạo trong năm nay nhắm vào người thiểu số Hồi giáo Rohingya ở bang Rakhine của Myanmar.

Chính phủ Mỹ, áp dụng những hình phạt này lần đầu tiên theo một luật thông qua vào năm ngoái, cũng nhắm mục tiêu vào 39 cá nhân và thực thể khác bằng những chế tài phong tỏa tài sản của họ thuộc thẩm quyền pháp lý của Mỹ, cấm hầu hết người Mỹ giao dịch với họ và phần lớn cô lập họ khỏi hệ thống tài chính toàn cầu.

Bộ Tài chính Mỹ cho biết những người bị chế tài bao gồm Benjamin Bol Mel, người từng làm cố vấn cho Tổng thống Nam Sudan Salva Kiir và bị nghi là được biệt đãi trong các hợp đồng chính phủ. Danh sách này cũng bao gồm cựu lãnh đạo Gambia Yahya Jammeh, bị cáo buộc vi phạm nhân quyền và tham nhũng, và tỉ phú Israel Dan Gertler, bị cáo buộc sử dụng mối quan hệ bằng hữu của ông ta với Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo Joseph Kabila để giành những những thỏa thuận khai khoáng được ưu đãi.

“Chúng ta phải lãnh đạo bằng hành động của chính mình, và loan báo chế tài hôm nay chứng tỏ Mỹ sẽ tiếp tục theo đuổi những hậu quả hữu hình và đáng kể đối với những người vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và dính líu tới tham nhũng,” Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson nói trong một tuyên bố.

Đây là những chế tài đầu tiên được áp đặt theo luật của Mỹ gọi là Đạo luật Giải trình Trách nhiệm Nhân quyền Magnitsky Toàn cầu.

Reuters cho biết phát ngôn viên của chính phủ Myanmar không hồi đáp ngay lập tức yêu cầu bình luận về chế tài của Mỹ nhắm vào ông Maung Maung Soe.

Quân đội Myanmar trấn áp người Hồi giáo Rohingya ở bang Rakhine sau những vụ tấn công ngày 25 tháng 8 của những phần tử chủ chiến người Rohingya nhắm vào một căn cứ quân sự và các đồn cảnh sát. Ông Maung Maung Soe phụ trách một chiến dịch quân sự đã khiến hơn 650.000 người Rohingya tháo chạy sang Bangladesh.

Ngày 22 tháng 11, Mỹ gọi chiến dịch quân sự của Myanmar nhắm vào người Rohingya là “thanh lọc sắc tộc” và đe dọa áp đặt những chế tài nhắm mục tiêu vào những người chịu trách nhiệm.

Bộ Ngoại giao Mỹ nói Mỹ đã “kiểm tra các bằng chứng đáng tin cậy về các hoạt động của Maung Maung Soe, bao gồm các cáo buộc đối với lực lượng an ninh Miến Điện về các vụ giết người ngoài vòng pháp luật, bạo lực tình dục và bắt giữ tùy tiện cũng như việc phóng hỏa làng mạc ở khắp nơi.”

Quân đội Myanmar tháng trước công bố một báo cáo phủ nhận mọi cáo buộc hãm hiếp và giết người do lực lượng an ninh gây ra. Ông Maung Maung Soe được thuyên chuyển công tác vài ngày trước đó và không có lý do nào được đưa ra.

Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót,

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017

Tin Mừng (Mc 1: 26-38)

Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Bấy giờ bà Maria nói:”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

&  &  &

“Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót,”

“Chợt thoáng hiện về, dấu yêu ơi.”

(dẫn từ thơ Miên Thuỵ)

Chợt thoáng hiện về”, là lời thơ cho thấy một “hiện về” cũng rất thoáng như sứ thần Gabriel đã hiện về với Đức Maria để báo cho Mẹ biết tin vui ngày Chúa đến. Với mọi người.

Tin vui ngày Chúa về đến, là tin rất sớm về ơn cứu độ đã mạc khải cho Maria, người nữ trẻ ở Trung Đông, để Mẹ sẵn sàng mà nhận lãnh. Là thiếu nữ Trung Đông còn rất trẻ, nên trông Mẹ không giống hình hài mà mọi người Công giáo có trong đầu, từ thơ ấu. Hình hài ấy, là hình rất tưởng tượng về một Maria có dáng dấp của thiếu nữ rất Châu Âu. Thành thử ra, phần đông giáo dân ở trời Tây lâu nay không mấy thích khi thấy Mẹ chẳng giống họ, về hình hài. Tuy là thế, Mẹ vẫn mang bản chất Trung Đông chân phương, hiền hoà, dễ mến.  

Tính chân chất hài hoà của thiếu nữ Trung Đông trong đó có Maria rất thiếu nữ, là sự rất thật về tính khiêm nhu, độ lượng của dân làng Nadarét. Mẹ không thuộc hoàng phái hoặc giòng dõi quý tộc nhưng Mẹ vẫn nhu mì, hiền dịu quyết chấp nhận bất cứ điều gì Chúa bảo ban. Bằng vào tính ngoan hiền và kiên định, Mẹ có khả năng thực hiện điều mình chọn để sẽ sống hết mình, với lựa chọn ấy.

Mang thai Đức Giêsu, vào lúc có thể Mẹ chỉ mới 13 tuổi đời, tức ở tuổi còn rất trẻ, lại nhỏ bé nhưng Maria vẫn có dáng dấp dẻo dai, bước đi thoăn thoắt theo tư thái của người cao ráo biết học cách bưng vại nước hoặc các bó đồ ở trên đầu. Mẹ phục sức tựa các thiếu nữ khác, cũng áo thụng đen vào buổi đầu, sau đổi sang thành mầu xám nhẹ. Tên của Mẹ theo tiếng Aram, là Maryam. Nhưng lại chuyển sang thành Myriam theo tiếng Hipri Do thái, là quốc ngữ mà Mẹ không hề sử dụng. Maryam còn là tên của một trong ba nữ phụ ở trong làng, người người đều biết đến.

Tin Mừng, nay thánh sử vẽ lên bối cảnh của sứ vụ “truyền tin”. Ở đây, thấy rõ văn phong sáng tạo của thánh Luca rất thi sĩ khi thánh nhân viết đối thoại giữa Đức Maryam và thần sứ Gabriel qua đó khi Mẹ đáp trả sứ mệnh Chúa giao phó. Bối cảnh “truyền tin”, tuy không xác thực như sử học nhất là khi thần sứ dùng ngôn từ khá lạ kỳ đối với Mẹ. Thần sứ Gabriel cũng đâu có mang tính xác thực một bản thể, để có thể nói tiếng Aram như ai khác. Thế nên, ngôn từ ở trình thuật là ngôn và từ của thánh sử. Và, kinh nghiệm ở trình thuật, là kinh nghiệm từng trải của Maria, rất thiếu nữ.

Lời nói đầu của thần sứ chỉ mỗi chữ: “Mừng vui lên!” bên tiếng Hy Lạp, người ta chào hỏi nhau bằng chữ “chaire”. Trong khi đó, người Do thái chào nhau lại dùng cụm từ “rani” hoặc “gili” rút từ lời ngôn sứ Sôphônia khi nói với dân con Israel: “Vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Sô 3: 14). Cụm từ “Vui lên” không giống lời chào buổi sáng ở tiếng Anh/tiếng Pháp, nhưng tiếng Hip-ri mang ý nghĩa: “Hãy vui mừng trổi dậy mà nhẩy múa”. Đây là lời chúc bất thường. Bởi, đó là lời Chúa mời Maria hãy cùng Ngài múa nhảy vũ điệu trọng đại.

“Hỡi Đấng đầy ơn phúc!” tiếng Hy Lạp là checharitomene”, đại ý chỉ người nữ duyên dáng và đầy phúc lành vì được quà tặng biến đổi mà Chúa đặc biệt phú ban cho riêng Maria. Hiểu theo ý chữ thì điều này có nghĩa là: Maria được Chúa công nhận là người khiêu vũ có duyên, và rất diễm tuyệt. Duyên dáng và diễm tuyệt, là bởi Maria biết chuyển động nhanh vòng quanh với niềm vui cao độ của Chúa, Đấng từng nhẩy múa với Mẹ. Và, Mẹ biết thêm thắt vào với vẻ đẹp của vũ điệu mà Chúa nhảy múa bằng cung cách Mẹ đảm trách khi cùng nhảy điệu vũ của công cuộc cứu rỗi.  

“Chúa ở cùng người”, là chỉ về bạn nhảy hiện diện nơi bản ngã rất xác thể mà ngôn sứ Sôphônia diễn tả qua cụm từ “nức lòng”. Lúc ấy, là lúc Đức Maria được đề nghị nên có động thái của ngôn sứ, như lời khuyên: “Maria đừng sợ! vì người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa.” Thật ra, Maria là Mẹ đâu có gì phải hãi sợ khi đón nhận thông điệp do thần sứ mang đến, bởi đó chính là niềm vui trọn vẹn. Và, Mẹ vui với niềm vui của thiếu nữ đoan trang, mạnh mẽ, tự do. Tự do, biết rằng mình sẽ có em bé, là Con Chúa.

Và tiếp đến, là câu hỏi mang dáng vẻ trần thế: “Điều ấy sẽ làm sao được?”Tức: làm sao có thể ra như thế? Bởi, tôi đây đâu tính chuyện xác thịt. Hoặc, nói như bản dịch kinh thánh nào khác: “Tôi nào biết đến nam nhân”, tức có nghĩa: “tôi, một thiếu nữ trinh trong”. Câu này không thấy ghi ở bản Kinh thánh gốc Aram, mà chỉ là thuật ngữ để nói lên rằng: Maria chưa từng nghĩ chuyện ăn nằm xác thịt, vì tuổi của Mẹ còn quá nhỏ để được phép.

Kinh thánh không ám chỉ việc Mẹ quyết ở độc thân, mà chỉ mô tả cảnh tình của Mẹ vào lúc đó, thôi. Sử học Do thái cũng không đưa ra nền tảng nào để ta có thể nghĩ rằng Đức Nữ Trinh Maria đã thành thân với thánh Giuse với ý định sẽ lập “con đàn cháu đống”, tức: cũng sẽ ăn nằm xác thịt hầu có con, như mọi gia đình ở Do thái. Độc thân, theo người Do thái, là chuyện hãn hữu chẳng bao giờ được đề cao, ngoại trừ trường hợp rất hi hữu. Chí ít, là với thiếu nữ trẻ sống ở thôn làng thuộc đất miền rất Galilê.

“Thánh Thần sẽ đến trên người”, điều này cốt ý nói sự việc sẽ nên hiện thực. Thánh Thần nói ở đây, khi ấy không hẳn là Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa, mà chỉ là nhiệm tích thánh thiêng của “Thần Khí” (Ruah). “Và, Quyền năng (dynamis) Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên ngườiVà, trẻ sắp sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa”. Lời đối đáp ở đây mang tính cách mật thiết với Chúa.

Đáp lại, là câu nói của Maria rất thiếu nữ: “Này đây!” Với Kinh thánh, cụm từ “Này đây!” cho người đọc thấy: ta sắp được Chúa mạc khải một điều hệ trọng. Mạc khải, là công thức biểu lộ điều gì đó ta chưa hề biết đến. “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài.” (Lc 1: 38). Câu nói của Maria thiếu nữ nghe vừa nhu mì, hiền dịu, lại rất ngoan. Vừa cung kính, dễ bảo, lại mang tính thụ động như ở phần đông các bản dịch ta nghe biết. Như từ lâu, truyền thống tu đức Giáo hội vẫn hiểu theo nghĩa này. Để rồi sẽ cho rằng: điều Maria nói có nghĩa: Mẹ là thiếu nữ trinh trong, hiểu theo nghĩa thụ động, thuần thục. Không hề biết đến “dục vọng”.

Nhưng bản Kinh Hy Lạp lại khác. Bản này không bao hàm ý nghĩa như thế. “Xin hãy thành sự cho tôi”, là dịch từ tiếng Hy Lạp “genoito”, như chọn lựa sâu sắc. Thánh Luca là người rất giỏi tiếng Hy Lạp, nên khi thánh nhân dùng cụm từ “genoito” là có ý bảo: “Vâng! Xin vâng. Vì đây là ý tưởng tuyệt vời mà mọi người đợi mong”. Tuyệt vời, còn là ngôn từ chỉ sự mừng vui trên mức trọn hảo. Và như thế, thần sứ chúc mừng Maria thiếu nữ bằng cách mời Mẹ “hãy đứng lên mà múa nhảy và ăn mừng” với Chúa. Và, lời Mẹ đáp trả cho thấy là Mẹ đang làm điều đó.

Các nhà chú giải kinh thánh, chuyên gia tiếng Hy-Lạp, như Ignace de la Potterie năm 1988 và Christopher Evans năm 1990 suy tư nhiều về sắc thái này nên cho rằng các nhà chú giải xưa như thánh Bernard thành Clairvaus cũng đã hiểu điều đó.

Quả thật cũng buồn, khi một số các dịch giả đã thay đổi ý nghĩa của điều mà Đức Maria từng nói đến. Các vị vẫn nghĩ rằng lời đáp trả của Mẹ đượm tính cách từ tốn và nguyện cầu nên đã chấp nhận sự việc xảy đến, như cụm từ “fiat” tiếng La-tinh có nghĩa là: “Cứ để việc ấy xảy đến với tôi, nếu như thế”.

Giả như người đọc sách thánh là giáo dân nữ có lòng đạo hạnh từng coi Đức Maria như thần tượng của mình, chắc chắn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khi được biết là thánh Luca viết ra trình thuật này là để diễn tả kinh nghiệm riêng của Đức Mẹ “xin vâng” trong tình huống xảy đến vào lúc ấy.

Hiểu đúng nghĩa câu Mẹ nói, hẳn rằng người người sẽ thấy bản năng mình cảm nhận về nỗi mừng vui cũng đúng và thực tiễn. Với Hội thánh, có lẽ cũng nên tìm hiểu và liên tưởng đến các hành xử khác biệt. Hiểu theo nghĩa đích thực của lời Mẹ đáp thay cho thánh hội, thì Hội thánh ắt sẽ tung tăng mừng vui mà nhảy múa với mọi người.                  

Trong tinh thần mừng vui cảm kích, cũng nên ngâm tiếp cũng một lời thơ, mà rằng: 

                        “Con đường Phượng tím chiều nay đổ,

Bóng lá che nghiêng một góc đời.

                        Nghe trong cõi nhớ niềm xa xót,

                        Chợt thoáng hiện về, “dấu yêu ơi”.

                        (Miên Thuỵ – Con Đường Phượng Tím

Phượng tím, có là con đường của đợi chờ cũng vẫn là “cõi nhớ”, nhiều yêu dấu. Nhưng dấu yêu chợt về chào mời mọi người hãy vui lên mà nhảy múa. Nhảy và múa, hầu chào đón Đấng Cứu Tinh nay lại về. Ngài về đến trong mừng vui hoan lạc, đầy nhung nhớ. Ở mọi thời. Rất con người. 

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch. 

From Vuisongtrendoi

Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên

Một Mình: Hồng Nhung  Sáng tác: Thanh Tùng

httpv://www.youtube.com/watch?v=A69ZUnHlB4I

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017

“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên”

Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên

Bao đêm tôi đã một mình nhớ em

Ðêm nay tôi lại một mình.”

(Thanh Tùng – Một Mình)

(Mt 14: 26)  

Có lẽ, chính vì bạn cứ hát những câu như: “Bao đêm tôi đã một mình”, rồi còn thêm: “Đêm nay tôi lại một mình”, thế nên mới xảy ra những cảnh tượng một mình ngồi thấy ghê ghê, đến rợn người.

Thế đó, là tâm-trạng của rất nhiều người từng thắc mắc và hỏi han đấng bậc nhà Đạo những chuyện tréo cẳng ngỗng như sau, thì làm sao cố Đạo biết đâu mà trả lời/trả vốn cho ra nhẽ. Quả là, cố Đạo người Tây ở Sydney cũng từng nghe hỏi rất nhiều những câu hỏi khá là vẩn vơ, khiến đức ngài ơ thờ bèn trả lời/trả vốn rất huề vốn như câu chuyện hỏi đáp. Thế nhưng, trước khi nghe kể, tưởng cũng nên nghe người nghệ-sĩ hát thêm đôi ca-từ thấm-thía, như sau:

“Nhớ em vội vàng trong nắng trưa.

Áo phơi trời đổ cơn mưa.

Bâng khuâng khi con đang còn nhỏ.

Tan ca bố có đón đưa.

Nhớ em giọt mồ hôi tóc mai.

Gió sương mòn cả hai vai.

Ðôi chân chênh vênh con đường nhỏ.

Nghiêng nghiêng bóng em gầy.

Vắng em còn lại tôi với tôi.

Lá khô mùa này lại rơi.

Thương em mênh mông chân trời lạ.

Bơ vơ chốn xa xôi.

Vắng em đời còn ai với ai.

Ngất ngây men rượu say.

Ðêm đêm liêu xiêu con đường nhỏ.

Cô đơn, cùng với tôi về…..”

(Thanh Tùng – bđd)

“Cô đơn”, nhung nhớ và gì gì nữa, vẫn là và sẽ là những tình-tự ở đời, còn nhớ mãi khôn nguôi. Nói về chuyện “nhớ”, thì bần đạo bầy tôi đây là cũng nhớ đôi giòng hỏi đáp giữa thày/trò, cha/con trong Đạo có nhiều nỗi nhớ, rất như sau:

“Thưa Cha,

Nhiều năm qua, con đây vẫn thường nghe nhiều truyện kể về những người từng thấy “ma”, và có cả những vị bảo rằng mình từng nghe nhiều âm-thanh “lạ tai” thậm chí còn nói: họ thấy cả đồ vật di-chuyển tuỳ hứng mà chẳng có duyên-do, cớ sự gì hết. Vậy, người Công giáo nhìn sự việc này như thế nào? (câu hỏi nghe quen quen từ một giáo-dân ở huyện nhà, là giáo-xứ).

Và đây, lại một trả lời cũng rất quen từ một đấng bậc cũng quen thuộc ở Sydney, như sau:

“Cả tôi nữa, cũng nghe nhiều truyện từ những người tôi quen biết lại là những người từng nhất quyết bảo rằng họ đã thấy “ma” ở đây đó; hoặc từng nghe nhiều âm thanh lạ, kể cả giọng nói của những người không xuất hiện vào lúc ấy. Hiện tượng về những “căn nhà ma” vì thế có lẽ cũng có một vài nền-tảng, trên thực-tế. Đây thực sự là vụ/việc khi hơn một người đều thấy hoặc nghe/biết cùng một chuyện.

Hỏi rằng: từ câu chuyện ấy ta làm được điều gì? Thì, theo thiển ý, Giáo-hội ta cũng từng có những tuyên-bố chính-thức về vấn-đề này, nên tôi cũng chẳng thấy cần để đưa ra câu trả lời dứt khoát cho vấn đề này. Ta cũng từ đó nên rút ra điều mà mọi người biết được do kinh-nghiệm và do từ niềm tin của người Công-giáo.

Tác giả Peter Kreedt có viết trong cuốn sách có nhan-đề là “Tất cả những gì mọi người cần biết về thiên-dàng, lại đã đề-cập đến chuyện “ma quái” rất kinh-hoàng. Ông công-nhận rằng có ba chứng cứ đáng kể về ma quái gặp thấy trong hầu hết mọi nền văn-hoá. Ông phân-biệt ba loại ma từng xứng-hợp với kinh-nghiệm chung của nhiều người mà tôi từng nói đến.

Thứ nhất, có loại ma được qui về câu hỏi mà anh/chị đưa ra, đó là: các hồn ma thấy được nhưng khá mờ mịt lại không có thân-xác thể-chất đột nhiên xuất-hiện hoặc biến mất. Có lúc, hồn ma ấy được bảo là có dáng dấp đàn ông hoặc phụ nữ, và có độ tuổi nào đó khá đặc biệt, kể cả con nít.

Tác giả Kreeft nghĩ rằng: có thể là, thần-hồn của người phàm xác thịt vẫn còn tồn tại nơi luyện ngục và vẫn còn một số công việc chưa hoàn tất trên trái đất. Có thể là, những thần hồn ấy đã sống hoặc chết ngay tại địa-điểm chúng xuất-hiện. Chẳng có gì gọi được là ác-thần/sự dữ khi ta nói về các “thần hồn” ấy, dù có làm cho người chứng kiến cảnh-tượng này, thấy hãi sợ.

Thật ta không thể cắt-nghĩa được tại sao các “hồn” ấy lại được phép xuất-hiện trên cõi trần này, nhưng có quá nhiều truyện kể để xua đuổi chúng để đầu óc con người khỏi bận tâm. Cũng có thể, Thiên-Chúa có lý do nào đó cho phép các “thần hồn” này được xuất-hiện. Một trong các lý-do có thể hiểu được, đó là: việc cho phép như thế cố để làm người bắt gặp thấy mủi lòng rồi còn biết đường mà cầu-nguyện cho họ, hoặc dạy cho họ một vài bài học.

Thứ hai nữa, là: các hồn ma mang dáng dữ-tợn có thể xuất tự hoả-ngục, cũng không chừng. Tôi có nghe một số người bảo rằng họ từng thấy đám quỉ dữ mang hình-hài rất khác biệt và tôi không có lý-do gì để nghi ngờ sự thật mà nói ra.

Cùng một loại như thế, có thể gộp chung vào đó các thần hồn được hiện lên trong các buổi lễ hoặc nghi-thức nào khác rất ngoại thường. Bởi, Satan có thể dính-dự vào các buổi ấy, nên Giáo-hội từng dựa vào Kinh thánh (như ở sách Đệ Nhị Luật đoạn 18 câu 9-13) từng cảnh giác các tín-hữu mình đừng nên dính-dấp vào buổi ấy.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có dạy rằng: “Mọi hình-thức bói toán nói tiên-tri đều phải được loại bỏ: chạy đến với Satan hoặc ma quái, quỉ thần để nhờ cậy, hoặc gọi hồn người chết hoặc “cầu cơ” này khác để bảo rằng “sức mạnh thần-kỳ ấy có phép thần thông đoán được tương lai con người” luôn là chuyện sai trái, đầy dối trá.

Lại nữa, tra-cứu, đoán ý tử vi đẩu số, chiêm-tinh, coi chỉ tay, giải-đoán điềm thiêng dấu lạ, cùng các hiện-tượng giải-đoán tương lai mai ngày, rồi chạy đến với môi-giới tất cả đều che đậy một khát-vọng có quyền-phép trên cả thời-gian, lịch-sử để phân tách kết cuộc những người khác, cùng thu-phục các quyền-uy thế-lực tiềm ẩm ở bên dưới. Tất cả những thứ như thế đều trái với niềm vinh-dự, sự tôn-trọng và kính sợ những gì ta mắc nợ chỉ mình Thiên-Chúa, thôi.” (X. GLHTCG đoạn 2116)

Trường hợp có sự việc các đồ vật di chuyển gây tiếng động hoặc tiếng ồn lạ lùng mà không có nguyên nhân rõ ràng dứt khoát do hồn ma phối hợp với Satan tạo ra. Thánh Gioan Vianney, Cha xứ họ Ars, thường nghe thấy tiếng động của tủ giường/bàn ghế và tiếng động lạ kỳ trong nhà về đêm, và thánh-nhân biết chắc chắn rằng quỉ dữ đang làm việc để ngài lo ra chia trí trong công-cuộc thừa-tác đầy kết quả ở toà giải tội.

Nếu ai trải-nghiệm cũng một hiện-tượng như thế trong nhà mình, thì tốt nhất nên tìm một linh-mục hoặc ngay đến đấng trừ tà ở giáo-phận mình mà xin chúc lành hoặc làm phép trừ tà cho căn nhà của mình.

Thứ ba là, có những truyện kể về sự xuất-hiện của các bậc hiển-thánh hoặc người thân đã chết, thông thường là các thành-viên trong gia-đình mình từng được công-nhận là các vị này có biệt-tài như thế. Nhưng, các ngài không làm ai hãi sợ, đúng ra là tạo sự ủi-an và hy-vọng cho người thân của mình, thôi. Đôi lúc, thành-viên gia-đình đã quá cố, các thiên thần hoặc các bậc hiển-thánh có thể cũng xuất-hiện khi có người thân yêu khác trong gia đình đang đi dần vào chỗ chết, có lẽ để an ủi người sắp chết hoặc tháp-tùng họ đi vào cuộc sống đời sau. Đây, lại là vấn-đề của linh-hồn hoặc những vị đang ở chốn thiên cung.

Nói chung thì, khi các trải-nghiệm của con người đưa ra quá nhiều truyện kể về bóng mờ của các bản-thể linh-thiêng xuất-hiện, một số trong đó được gọi là “hồn ma”, thì cũng không có lý-do gì để ngờ-vực tính chân-thực của các vị này.

Do bởi các sự việc như thế thỉnh thoảng mới xảy ra, thì cũng không nên sợ họ. Giả như có ai trong chúng ta lần đầu thấy loại “hồn ma” nói trên xuất-hiện, thì cũng nên cầu-nguyện cho linh-hồn của người vừa hiện hình và cũng lẽ cũng nên lấy nước thánh rảy lên nơi chỗ vị ấy xuất hiện, thật mới đúng.” (X. Lm John Flader, Church and ghosts, The Catholic Weekly 18/01/2009, Question Time, tr.10)

“Thần hồn” hiện ra, lại cũng giông giống lời ca hôm nào, những hát rằng: “Cô đơn, cùng với tôi về”, và cũng có thể là lời đề-nghị tôi và bạn, ta quay về với vùng trời câu truyện kể khá đáng kể về tâm-trạng cô đơn nhưng không diệu vợi của cuộc đời, cũng rất người.

“Cô đơn, cùng với tôi về” còn gợi nhớ câu truyện kể về “Ông Lão Kỳ Lạ” đọc được ở trên mạng thấy có nghĩa, bèn trích lại đây để bạn và tôi cùng thưởng-thức rồi sẽ tính. Câu truyện được kể như sau:

“Lần đầu tiên tôi nghe về lão là mùa Giáng Sinh 1990. Chiều 24 tháng 12 năm ấy, tôi lên thăm bạn ở thành phố Lausanne. Chúng tôi rủ nhau đi phố sắm sửa vài món quà cho bữa tiệc thân hữu gặp nhau. Phố xá lạnh lẽo và vắng lặng lắm vì đa số mọi người đã đều đi về đoàn tụ với gia đình. Trời lất phất đổ tuyết, gợi cho lữ khách, tùy tâm trạng, mà cảm thấy lãng mạn hay cô đơn kinh khiếp.

Với tôi, năm ấy thật buồn, vì ba mẹ tôi đi Hoa Kỳ thăm bạn, còn tôi vì phải lo học thi cho học kỳ mùa Đông, nên không đi theo được. Ở lại xứ cao nguyên sương mù, gió lạnh trong mùa Giáng Sinh lê thê quả là một chuyện cô đơn khó chịu. May mà còn có bạn bè dễ thương. Họ làm tiệc mời tôi và qua đó cũng ấm lòng người viễn xứ! 

Khi ở phố về, chúng tôi chọn đường tắt nên đi ngang qua một chiếc cầu rất dài, bắc lắt lẻo trên ghềnh đá, đứng trên thành cầu nhìn xuống dưới người yếu bóng vía dễ bị xây xẩm vì chiều sâu hun hút hiểm trở. Người bạn đi chung chợt giật tay tôi chỉ một túp lều vải được dựng ngay bên cạnh đầu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên, vì mùa này không phải là mùa để người ta cắm trại nơi đây! Bạn tôi kể rằng từ 20 năm nay, mỗi năm cứ đến mùa Giáng Sinh lại có ông già đến đây cắm trại.

Tôi ngạc nhiên hỏi lý do. Bạn tôi cho biết chiếc cầu này là nơi quyến rũ nhiều người cứ đến mùa Giáng Sinh ra nhảy cầu tự tử. Vì mùa Giáng Sinh ở Thụy Sĩ buồn quá, những người sống cô đơn thường bị cơn trầm cảm (Depression) hành hạ nên dễ tìm cái chết. 20 năm qua, người đàn ông đã cắm trại ở đầu cầu, nếu thấy ai một mình đứng trên cầu, lập tức ông bước tới nói chuyện khuyên nhủ. Trong lều của ông thường có rượu chát, chocolade và vài món quà nho nhỏ. Người có ý định tự tử thường được ông mời vào lều cho uống rượu tâm tình, cho đến khi người đó bỏ ý định quyên sinh.

Trước khi rời khỏi lều, thể nào họ cũng được ông cho món quà có ý nghĩa, với số điện thoại để sau đó cần người nói chuyện thì tìm ông. Ông làm việc âm thầm và không nhờ bất cứ hội đoàn nào giúp sức. Nghe lời kể của bạn tôi, tôi xúc động lắm, thật không ngờ giữa cuộc sống có quá nhiều bon chen, tranh giật lại có Tâm Bồ Tát hiện hành. Tôi kéo bạn tôi đi về phía lều của ông lão và tỏ ý muốn nói chuyện. Ông lão mở cửa lều, mời chúng tôi vào. Đó là một người đàn ông có dáng người khắc khổ, tuổi khoảng trên dưới 70 tuổi, gương mặt đầy từ ái. Trong căn lều thiết trí rất đơn giản, có tấm thảm trải cho ấm và một lò than nho nhỏ bên cạnh để sưởi, nấu trà, cafê và thức ăn. 

Ông lão hỏi chúng tôi sao lại đứng trên cầu bàn luận lâu vậy, giữa thời tiết giá lạnh trong buổi chiều Noël? Tôi kể ông nghe về cảm nhận của mình khi biết chuyện và vô cùng tán thán hạnh nguyện của ông. Ông lão mỉm cười:

-Thì sống trong đời, ta có thể làm được việc gì tốt cho người khác thì phải cố gắng thôi!“ Ông cũng cho biết thêm: có nhiều người oán trách tôi vì tôi bắt họ tiếp tục sống để chịu khổ!

Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng 1 giờ đồng hồ về nhiều đề tài rất tương đắc, ông lão rất thông thái, rất tế nhị và khi nói chuyện có sức thuyết phục rất cao. Sau đó chúng tôi từ giã ông để trở về lo bữa tiệc buổi tối.

Từ đó, thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại nói chuyện với ông. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở và trở nên thân thiết. Ông tên Peter Dupont, tuổi đã 72 và sống một mình cô độc. Tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao ông không có gia đình. Ông bảo:

-Khi trước tôi cũng có bà mẹ nữa, vì phụng dưỡng mẹ nên tôi chẳng lập gia đình, ngày tháng qua đi, trở thành người già khi nào không biết.”

Ông làm việc tại ngân hàng X với nhiệm vụ chuyển thư từ tài liệu từ văn phòng này tới văn phòng khác. Ông không bao giờ nghỉ, trong suốt 40 năm làm việc tại đây. Khi mẹ ông qua đời trong đêm, ông đến xin phép ban giám đốc cho ông được nghỉ nửa ngày. Ông giám đốc ngạc nhiên thấy ông xin nghỉ, hỏi lý do mới biết đêm qua mẹ ông qua đời. Ông giám đốc kêu trời và bắt ông nghỉ 1 tuần ở nhà lo mọi chuyện. Sau 3 ngày, ông gọi điện thoại xin cho ông đi làm lại kẻo không ông cũng sẽ „chết“ như bà mẹ của ông mất, nếu người ta còn bắt ông ở nhà! 

Quả thật tôi không thể hiểu được tại sao có người ham mê công việc đến thế, ông lão trả lời những thắc mắc của tôi rằng:

-Ta được sống trong xã hội đầy đủ thế này, ta nợ biết bao nhiêu người, nếu không làm việc để trả lại những ân nghĩa ta vay, thời ta nợ đến bao giờ mới trả nổi!?“ Tôi giật mình vì lý luận của ông rất gần với tư tưởng Bồ Tát Đạo của Phật Giáo đại thừa, trong khi ông là KiTô-Hữu.

Với thời gian, chúng tôi khám phá ra ông Dupont cũng chính là khách hàng ở nhà bank nơi bạn tôi làm việc, mặc dù cũng làm việc cho nhà bank, song nhà bank nơi ông làm việc thuộc nhà ngành quản trị gia tài, trong khi ông chưa giàu có để có trương mục tại ngân hàng đó. 

Ông biết bạn tôi và rất tin tưởng khi có chuyện gì có liên quan đến ngân hàng tiền bạc. 

Thời gian trôi đi, đã 14 năm kể từ ngày tôi quen ông Dupont. Hàng năm ông vẫn đến cắm trại bên cầu, dù rằng tuổi ông đã quá cao và yếu nhiều. Rất nhiều người biết về ông, có những bài phóng sự hay chương trình truyền hình nói về ông, song chưa bao giờ những thứ ấy khiến ông để ý! Ông thường tỏ ra khó chịu khi người ta tới quay phim, phỏng vấn ông. 

Hôm qua, tôi nhận được điện thoại của bạn tôi, tôi đã lặng người đi khi nghe tin ông đã vừa giã biệt cõi đời! Cảm động nhất là trước ngày ông mất, ông nhờ người đẩy xe lăn cho ông tới ngân hàng gặp bạn tôi (sau cơn bệnh cách đây 3 tháng, ông không đi lại được nữa, mà phải ngồi xe lăn), ông mang tất cả các hoá đơn thuế nhà, thuế đất, bill điện nước theo và yêu cầu bạn tôi thanh toán giúp ông. Ông bảo:

-Ta biết ta sắp ra đi, nay nhờ anh giúp trang trải hết những nợ nần còn sót lại này, ta không muốn còn phải nợ nần gì khi giã biệt cõi trần.”

Ông không có nhiều tiền trong trương mục, nhưng sau khi thanh toán còn lại một chút, bạn tôi hỏi ông muốn làm gì, ông bảo làm gì cũng được, song ông có người cháu họ xa, hiện cũng đã 70 tuổi, nếu số tiền còn lại đó sau khi ông qua đời, được chuyển cho người cháu với lời nhắn nhủ là: “Giáng Sinh năm nay, ráng thay ông, một năm cũng được ra cầu Lausanne cắm trại cứu người, thì ông sẽ mỉm cười thanh thản ở bên kia thế giới“ 

Chỉ vậy, hai ngày sau đó ông ra đi thanh thản tại bệnh viện gần nhà. 

Một vị Bồ Tát bằng xương bằng thịt đã âm thầm đến và đi, không để lại dấu vết! Tôi không đi dự tang lễ của ông được, nhưng nghe đâu rất đông người tham dự! Có nhiều người được ông cứu từ 30 năm về trước cũng mang gia đình con cháu tới tiễn ông. 

Mùa thu … vắng lặng và buồn quá! Chiếc lá vàng rơi để trở về với cát bụi … tăng thêm chất màu mỡ cho đất. Một đóng góp cuối cùng! Ông lão kỳ lạ kia cũng vậy!” (Quảng Diệu Trần Bảo Toàn – Mùa Vu Lan 2548) 

Với tác giả truyện kể, thì: “mùa thu… vắng lặng và buồn quá!…” nhưng như thế vẫn chưa hẳn là chuyện ma quái hay ma quỉ, rất buồn tênh. Lại cũng có những chuyện buồn tênh, nhưng chẳng là ma quỉ hay ma mãnh gì hết, vẫn nên nghe:

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.

Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:

– “Có dư đồng nào không con?”.

Tôi đáp:

– “Còn dư bốn ngàn ba ạ”.

Ba nói tiếp:

– “Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”.

Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.” (Truyện về Ba, do người viết không ký tên là tác giả)

Và một truyện kể khác, về “má” cũng không tên người viết như sau:

“Ba hay má, vẫn cứ là những ma và quái âm thầm sống trong đời người làm gì có ma quỉ. Chi có ma, khi “Ba” và “Má” không chịu sống thân phận của mà, của Ba của con người nhiều phận buồn.

Má hay Ba, vẫn không là “Ma” hay “quái quỉ” gì, chỉ là con người đích-thực sống cuộc đời buồn như “ma” mà thôi.”

Thế đó, là chuyện đời cũng nên phiếm hoài, phiếm mãi để rồi sẽ nhận ra rằng: đời người, chỉ một chuyện phiếm rất sương sương nhưng không “vô thường”, rất xưa nay.

Thế đó, là câu chuyện “phiếm” đời người nói mãi không nguôi. Và không hết. Nói gì thì nói, chớ nên nói chuyện ma quái hoặc quỉ mà để rồi tất cả cũng trở-thành quái quỉ đến độ “trẻ không tha, già không thương”, là như thế.

Nói hoài nói mãi một chuyện phiếm, rồi cũng đến lúc ta nên dừng lại để về với ngôi vườn thượng uyển có những lời vàng rồi theo đó mà sống cùng, sống với nhau, cho nhau hạnh phúc mien trường, không sợ hãi. Lời rằng:

“Vào khoảng canh tư,

Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.

Thấy Ngài đi trên mặt biển,

các ông hoảng hốt bảo nhau:

“Ma đấy!”,

và sợ hãi la lên.

Đức Giêsu liền bảo các ông:

“Hãy yên tâm,

chính Thầy đây,

đừng sợ!”

(Mt 14: 26)  

Thế đấy là Ngài, vậy mà môn đệ cứ tưởng là “Ma!” Thế còn, ma kia, quỉ nọ mà người người lại cứ nghĩ là người. Người hay ma, ma hay người, vẫn chỉ là quan-niệm mà nhiều người còn nghĩ đến, mãi hôm nay.

Và, hôm nay xin trở về với đời thường để còn sống những chuỗi ngày còn lại cũng rất người, như người người, ở trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Chưa từng gặp thứ ma mãnh

hoặc quỉ ma nào hết.

mà chỉ là

những người không thuộc loại

“quỉ tha ma bắt”,

mà thôi. 

From Vuisongtrendoi

TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!

TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!

Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa Vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.  Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh?  Nếu đúng thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?

“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa – Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa.  Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa – Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người.  Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại.  Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.”  (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).

Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin!  Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn].”  Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được “đầy ân sủng” sao?  Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi.  Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi.  Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20).  Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu.  Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giêsu được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhi giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa.”  Đối với Maria trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.  Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Maria tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ… hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55).  Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha.”  Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.”  Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ trấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.”  Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”

Giáng sinh đã gần lắm rồi!  Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Maria đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu.  Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!

Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng.  Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót.  Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này.  Amen!

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

From Langthangchieutim

Việt kiều về nước và nỗi lo quà cáp

Việt kiều về nước và nỗi lo quà cáp

Gần đến ngày về thăm cố hương, tôi bồi hồi nhẩm đếm. Xa nhà đã hơn 4 năm, tưởng tượng đến ngày hội ngộ gần kề, tôi mừng muốn khóc.

Năm 2013, tôi ra đi một mình. Sau 4 năm, tôi trở về với hai nhóc, một trai một gái, thêm ông chồng Đức là tổng cộng bốn người. Kể ra thì mỹ mãn quá còn gì.

Thế nhưng mừng một thì nỗi lo quà cáp đi kèm cũng phải hai. Quà cáp không chỉ liên quan đến chuyện kinh tế mà còn cần tính toán làm sao để dễ dàng vận chuyển và ai cũng có quà. Người nhà, người thân, bạn bè, họ hàng, ai cũng quan trọng, có quà cho người này không thể thiếu được người kia. Chưa kể người này dặn mua hộ cái này, người khác nhờ mua hộ cái kia, tính tôi vốn cả nể nên không thể từ chối.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hành lý cồng kềnh vì phải mang nhiều quà cáp biếu người thân ở quê nhà là nỗi lo ngại của nhiều gia đình Việt kiều mỗi khi về nước. 

Cái tiếng “đi Tây”

Người thân ở nhà luôn mặc định một điều “đi Tây ắt giàu có, tiền bạc, quà cáp mang về phải rủng rỉnh”. Nhiều người tặc lưỡi rằng tiền Việt mất giá, chứ kiếm đồng euro ở bên kia vừa dễ vừa có giá, đổi sang tiền Việt thì dôi ra thỏa sức tiêu pha. Họ đâu biết rằng theo quy luật thị trường, chúng tôi cũng làm đâu tiêu đó. Mức thu nhập bình quân của người lao động ở Đức, tính theo lương bậc 3 của người đã có gia đình, được đóng thuế ít hơn, là khoảng 2.200 – 2.500 euro, ngót nghét sáu bảy chục triệu đồng tiền Việt. Con số quả là trong mơ.

Tuy nhiên, chỉ người trong cuộc mới thấm thía rằng đó chỉ là cách quy đổi phiến diện theo phương thức toán học thông thường, còn theo giá trị đồng tiền tương đương với thị trường mà nó phải chi tiêu thì mức lương đó chỉ đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho một gia đình gồm vợ chồng và hai con nhỏ ở nước sở tại. Việc thanh minh có vẻ khó bởi có một lý do đơn giản không thể làm thay đổi tư duy cố hữu của một lớp người đó là thói sĩ diện của một bộ phận Việt kiều về nước. 

Mang tiếng “đi Tây”, nơi đời sống cao bậc nhất thế giới, mà trở về quê hương kể lể chuyện tiền nong khốn khó nghe chừng mất mặt quá. Thôi thì dăm bảy năm mới có một lần về, nhiều người cố gồng mình thể hiện sao cho oai. Thế là để thực hiện một chuyến về quê, đôi khi người trong cuộc phải tiết kiệm hàng năm trời, phải thực hiện bài toán kinh tế thật chính xác và chi li, sao cho khoản nào ra khoản nấy. Dù chi phí sinh hoạt hằng ngày đắt đỏ, họ quyết không lạm chi vào số tiền để dành cho một lần về Việt Nam.

Ai cũng phải có quà

Khi thấy tôi loay hoay lo quà cáp, chị bạn người Sài Gòn, sống cùng thành phố ở Đức này ngót nghét hai chục năm, liền giới thiệu cho một loại xà bông đang giảm giá, hàng chính hãng Đức.

“Nhỏ mà có võ đó, cục xà bông thơm nức mũi, mang từ bên này về, đảm bảo ai nhận được quà cũng vui mừng”, chị khuyên, rồi lại tiếp lời. “Ấm điện đun nước hàng trôi nổi bên Việt Nam giờ nhiều lắm, có mấy vụ xài ấm điện hàng không đảm bảo, điện giật chết người. Lần này em chịu khó xách mấy cái hàng Đức chính hãng về cho gia đình. Việc này quan trọng lắm, nhất định nên làm”.

Ngẫm thấy việc đó quan trọng thật, mẹ bỉm sữa tôi vội xách hai đứa con thơ ra siêu thị, bưng mấy cái ấm mang về.

Đứa bạn thân biết tôi sắp về Việt Nam liền bỏ nhỏ qua đường Facebook “lần này về mua hộ tớ mấy lọ dưỡng da trẻ em nhé, hai đứa nhỏ nhà tớ mùa đông da khô, nứt nẻ, xót quá”. Ừ việc đó việc nhỏ, mấy lọ kem dưỡng da nhẹ hều. Tôi đi lựa đồ cho con của bạn mới giật nảy nhớ ra nhà mình cũng có mấy đứa cháu nhỏ, không lẽ không mua cho chúng nó. Thế là lúc đầu tôi dự định chỉ mua vài hộp, đến lúc ra quầy thu ngân lại chất đầy đến chục hộp kem dưỡng lớn nhỏ.

Không hiểu tôi mua những gì, mua từ thời điểm nào và cho những ai mà gần đến ngày bay, đồ lớn đồ nhỏ đổ ra đã đầy sàn nhà. Ông chồng Đức nhảy tưng tưng”: “Trời ơi! Em đi du lịch nghỉ dưỡng hay đi buôn và xách đồ hộ mọi người?”. Tôi mếu máo chẳng biết làm sao. 

“Quà đã mua rồi, dù khó khăn thế nào cũng phải mang về cho mọi người. Họ ở nhà đang mong chúng ta lắm”, chồng tôi hạ giọng rồi lật đật đi mua thêm cái balô cỡ lớn loại dã chiến mà khách Tây sang Việt Nam du lịch hay mang theo. Thuở nhỏ, mỗi lần nhìn theo bóng một ông Tây balô đi qua, tôi cứ nghĩ họ mang theo được cả chiếc giường ngủ trong cái túi đó.

Lúc này tôi mới thấy thương chồng làm sao. Thường ngày, những va chạm nhỏ nhặt do khác biệt văn hóa làm tôi đôi lúc thấy ghét anh ấy nhưng giờ tôi chỉ muốn ôm chồng và khóc. Đàn ông sinh ra ở Đức đã khổ rồi, đến tuổi đi làm rồi lấy vợ, đóng thuế ngập đầu ngập cổ, cả đời làm lụng nuôi nấng gia đình, lại còn bị xếp sau…chó (thứ tự ưu tiên ở Đức khi đi tàu xe và trong các lĩnh vực khác của cuộc sống: thứ nhất là người tàn tật và trẻ em rồi đến người già và phụ nữ, xếp thứ ba là chó, cuối cùng mới đến đàn ông). Câu nói vui nhưng chua chát. 

Lần này, chồng tôi tính về quê vợ du lịch để rảnh rang nghỉ dưỡng nhưng rồi cũng phải đèo bồng bao nhiêu thứ. Chồng tôi đi mua túi về, lại xếp cất sao cho phù hợp, rồi đeo thử lên vai, hai tay thì xách hai cái vali cỡ bự. Đi du lịch mà không khác gì cửu vạn. 

Dịch chuyển

Hồi còn ở Việt Nam, có lần tôi nghe một bác tài lái taxi tâm sự rằng nghe khách gọi đi đón ở sân bay, ông cũng phải tính toán xem có nên nhận hay không.

“Nếu là khách Đức hay khách Tây nói chung, tôi biết lần này mình đi khỏe, vì họ đi du lịch gọn nhẹ lắm, chỉ cái balô nhỏ với chút tư trang xách tay là xong”, ông giải thích. “Còn nếu là Việt kiều về nước, kể cả khách đăng ký hai người hai chỗ, tôi toàn kêu hãng điều taxi 7 chỗ để cốp xe rộng và chỗ ngồi trong xe còn thừa nhiều cho khách chất đồ từ bên kia mang về”. 

Không biết gia đình thập cẩm nửa Việt kiều nửa Tây như chúng tôi sẽ được bác tài nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp xếp vào thể loại nào. Tôi chợt nghĩ đến cuộc di cư của những đàn chim tránh rét về nửa bên kia ấm áp của bán cầu. Trong hành trình của hàng ngàn hàng vạn chú chim đó, có con ở lại nhưng cũng có con bị đào thải trên quãng đường đầy gian khó.

Tôi cũng nhớ đến cuộc di cư về quê ăn Tết ở đất nước đông dân nhất hành tinh Trung Quốc. Nhìn những bức ảnh phản ánh lại cuộc dịch chuyển khổng lồ đó, không ai không cảm thấy hốt hoảng vì sự đông đúc và hỗn loạn.

Chúng tôi cũng sắp bước vào lần dịch chuyển lớn trong đời như thế. Không biết nó sẽ xảy ra theo chiều hướng nào khi mà tôi có hai đứa con thơ, đứa lớn mới ba tuổi, đứa nhỏ còn phải địu, cộng thêm đống hành lý khổng lồ và một ông chồng khác biệt văn hóa, hay càu nhàu rằng tại sao đi du lịch là tự thưởng cho bản thân, là chuyện hoàn toàn riêng tư mà phải nghĩ cho nhiều người thế, phải mang nhiều quà đến thế. 

Thôi thì tôi tự bỏ bớt phần của mình đi, tư trang quần áo gói ghém sao cho gọn nhẹ nhất. Quần áo của hai đứa con thì mặc lên người chúng nhiều vào, đỡ phải xách. Phần còn lại của hành lý dôi ra để mang quà cho người thân, bạn bè. Tôi xem như đây cũng là một lần để bớt lo cho bản thân đi và học cách nghĩ cho người khác nhiều hơn.

Khi Việt Nam xuất hiện thêm một tỷ phú mới

Huỳnh Phi Long posted 2 updates.
Image may contain: one or more people and text
Nguyễn Lai  Follow

 

Hoàng Thế Nhân

Khi nước Mỹ có thêm một tỷ phú mới, người dân Mỹ và cả thế giới sẽ có thêm một sản phẩm tiện ích, hiện đại, sành điệu để kết nối yêu thương như Iphone hay Facebook.

Khi nước Nhật có thêm một tỷ phú, người dân Nhật và cả thế giới có thêm những sản phẩm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của họ như Sony, Toshiba hay Lexus.

Nước Mỹ hay Nhật lúc đó sẽ giảm bớt đi tỷ lệ người thất nghiệp, vô gia cư, các quỹ từ thiện vì cộng đồng sẽ được nhiều lên, những nước nghèo đói ở Châu Phi sẽ được giúp đỡ, hỗ trợ.

Khi Việt Nam xuất hiện một tỷ phú mới, rừng sẽ mất đi thêm một ít, tài nguyên sẽ dần cạn kiệt đi, dân oan bị cướp đất cũng sẽ tăng lên, nợ công cũng sẽ phình to sau mỗi nhiệm kỳ, người dân bỏ xứ đi làm culi, làm điếm cũng sẽ ngày càng tăng.

Khi Việt Nam xuất hiện thêm một tỷ phú mới, quốc lộ sẽ có thêm nhiều trạm BOT hơn, thuế phí cũng sẽ tăng thêm vài %, xăng dầu cũng sẽ tăng thêm vài ba nghìn một lít.

Khi Việt Nam xuất hiện thêm một tỷ phú mới, không khí sẽ ngày càng ô nhiễm thêm, bệnh nhân ung thư cũng sẽ tăng thêm, thị trường cũng sẽ nhiều hàng giả – hàng kém chất lượng hơn, con người sẽ LỪA – GIẾT – CHÉM nhau tàn nhẫn hơn, kẹt xe cũng ngày càng trầm trọng.

Thế nên, ở Việt Nam, tỷ phú tăng theo cấp số cộng thì người nghèo sẽ tăng theo cấp số nhân. Vui gì mà reo hò tung hô họ!…

( Hoàng Thế Nhân )

Ngẫm cafe

ĐIỂM MẶT KẺ ĐÁNH BOM TÒA ĐẠI SỨ MỸ SAIGON

From:    Huỳnh Phi Long shared Van Pham‘s post.
 
 
Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: 1 person, sitting and indoor
Image may contain: 1 person

Van Pham added 3 new photos.

 

Những kẻ bán rẻ lương tâm để theo cộng sản gây nên những cảnh tàn sát man rợ, không chút tình người…. kết cuộc đểu thảm thương như thế!!! Quả báo thường kéo dài qua vài kiếp, nhưng đôi khi cũng xảy ra nhãn tiền…!!!!!!!!!!!!!
*******************

ĐIỂM MẶT KẺ ĐÁNH BOM TÒA ĐẠI SỨ MỸ SAIGON

Sau khi đánh bom Tòa Đại sứ Mỹ Ngọc Diệp bí mật đi tu tại chùa Quang Minh Tự (Phú Nhuận)

Bà mẹ anh hùng được Việt cộng phong tặng, nay ra ngồi bên lề đuờng kiếm sống qua ngày với những mảnh giấy Khen…

Rất nhiều ‘chiến sĩ tình báo’ lừng lẫy một thời, nay nếu gặp lại sẽ bắt gặp ở họ chỉ có những giọt nước mắt lăn dài… Người thì đang sống trong tủi nhục, nghèo đói, người may mắn hơn có chức vụ cao trong Chế độ mới, song cũng phải sống trong tâm trạng khắc khoải, phẫn uất, hối tiếc…???

Trường hợp Thượng Tướng Phan Trung Kiên, người đội trưởng Biệt động Sài gòn lừng lẫy năm xưa đã từng được phong tặng danh hiệu anh hùng, cuộc đời đi theo ‘cách mạng’ đã đưa ông lên được đến ‘lon’ Thượng Tướng, vậy mà ngay khi vừa về nghỉ hưu chưa được mấy tháng ông đã phải nằm bất động bởi ‘cơn nhồi máu cơ tim’ do thầy trò Nguyễn Văn Hưởng gây ra bởi đơn giản ông đã nhiều lần lớn tiếng vạch mặt chỉ tên tham nhũng, bởi ông không còn dấu nổi sự hối tiếc để rồi thốt ra miệng không phải chỉ một lần:

“Nếu biết thế này thì trước đây không đủ sức ‘làm cách mạng’….”!

Trường hợp nữ tình báo Đặng Ngọc Ánh – Một Bác sĩ nổi tiếng tốt nghiệp Sorbone – đã ‘lập thành tích’ kinh hoàng ngày 29/6/1965: Đánh sập Tòa Đại sứ Hoa Kỳ! Vậy mà số phận của bà những năm cuối đời đến chính giới truyền thông Lề Đảng hôm nay đã phải đau đớn viết:

“Cả cuộc đời hy sinh, cống hiến cho cách mạng, cuối đời bà phải sống nương tựa vào người con tật nguyền của một nữ đồng đội mà bà hứa nhận nuôi. Để có cái ăn, bà phải tự tay lao động âm thầm ở một bản làng vùng sâu của huyện Đức Trọng (tỉnh Lâm Đồng).”

Cả cuộc đời nữ bác sĩ xinh đẹp này đã hy sinh cho ‘Cách mạng’, đã chối bỏ cả người chồng chính thức của mình, rồi lừa dối một Đại sứ Mỹ lấy làm chồng chì vì để đánh sập Tòa Đại Sứ cướp luôn sinh mệnh của chính ông Đại sứ này…

Có lẽ cuộc đời đều có nhân quả: Từ sau ngày 30-4-1975, cuộc đời của bà Ngọc Ánh là những năm tháng dài tăm tối, tủi nhục, nghèo đói, sống lay lắt ở một vùng đồi núi….

Từ một phụ nữ xinh đẹp, tài ba, bà Ánh đã biến thành thế này đây….Những người gặp bà đời thường đều được nghe những tiếng chặc lưỡi, những giọt nước mắt hối tiếc vì những điều mình đã làm…

Tất cả những người như họ mà Thượng Tướng Phan Trung Kiên, như bà Đặng Ngọc Ánh chỉ là gương mặt điển hình … Họ đều giống nhau ở một điều: Tất cả đều nhận ra mình đã bị lừa dối, đã bị lầm lạc hy sinh cho một thứ không có thật… Đã có những năm tháng họ lầm tưởng rằng mình chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng, vì lòng yêu nước…..

Để rồi sự thật phũ phàng cuộc đời họ là câu trả lời đầy đủ nhất: Họ đã gây tội ác không những đối với đồng loại mà đối với chính những người thân yêu của họ và gây tội ác đối với chính bản thân họ! Họ đã đánh đổi Hạnh phúc có thật của mình cho một chủ thuyết, cho một Đảng mà đến hôm nay đã hiện nguyên hình chính là Đảng X – Đảng tham nhũng, độc tài, phát xít….????

Tinh thần quý tộc biến mất và ý thức lưu manh phát triển

Tinh thần quý tộc biến mất và ý thức lưu manh phát triển

Trong khi trước đây người ta hô hào về việc xóa bỏ địa chủ phú nông, thì phương Tây xóa bỏ bần nông. Trong khi trước đây người ta tự hào về việc xóa bỏ quý tộc thì phương Tây xóa bỏ lưu manh. Đây chính là hai tư tưởng trị quốc hoàn toàn khác nhau, có thể dùng câu nói nổi tiếng để khái quát: một chế độ tốt có thể làm cho người xấu trở thành người tốt, một chế độ xấu có thể làm cho người tốt biến thành kẻ xấu. Phát động lưu manh để tiêu diệt quý tộc, cũng không thể làm cho lưu manh trở thành cao thượng, chỉ có thể làm cho lưu manh càng trở nên lưu manh hơn. Dụ dỗ, đe dọa nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, cuối cùng biến cả xã hội thành lưu manh.

Quý tộc, bình dân và lưu manh

Nhân loại là một quần thể to lớn và phức tạp nhất trên thế giới. Nói về tính chất vốn có của tinh thần và ý thức, có thể phân thành 3 thứ bậc khác nhau: quý tộc, bình dân và lưu manh. Ba thứ bậc này được phân theo dạng hình thoi đứng, ở giữa phình to là tầng lớp bình dân, đầu nhỏ ở trên cùng là tầng lớp quý tộc, còn đầu nhỏ dưới cùng là lưu manh. Từ bình dân tới quý tộc thì không có giới hạn rõ rệt, từ bình dân tới lưu manh cũng không có giới hạn rõ rệt, nhưng lưu manh và quý tộc thì có sự khác biệt một trời một vực.

Sở dĩ được gọi là quý tộc không phải vì có nhiều của cải, cũng không phải vì có nhiều quyền lực, mà là vì họ có một tinh thần cao quý, sử sách gọi đây là tinh thần quý tộc. Người thiếu tinh thần quý tộc, thì dù giàu có không ai sánh bằng cũng chỉ là mang bản tính lưu manh mà giàu có; dù có quyền lực to đến mấy, thì cũng chỉ là kẻ độc tài chuyên chế mang bản tính lưu manh.

Sở dĩ gọi là lưu manh không phải là vì không có gì trong tay, mà là ý thức lưu manh ở bên trong nội tâm. Giai cấp vô sản không đồng nghĩa với lưu manh, giai cấp vô sản đa số là người bình dân an phận thủ thường. Trong quần thể lưu manh, có người giàu, có kẻ nghèo; có bình dân, có quyền quý; có người ngốc nghếch, cũng có kẻ thiên tài.

Tinh thần quý tộc đại diện cho đỉnh cao của văn minh nhân loại, ý thức lưu manh đại diện cho sự thấp kém nhất của nhân loại. Dường như tất cả mọi người đều có suy nghĩ hướng tới sự cao thượng, và cũng có những ham muốn dục vọng thấp kém, đây chính là cuộc chiến giữa nhân tính và thú tính.

 Nhân tính chiến thắng thú tính, thì con người hướng tới sự cao thượng; thú tính chiến thắng nhân tính, con người sẽ hướng tới sự hèn hạ bỉ ổi. Đối với đa số người bình dân, nhân tính và thú tính vẫn đang giằng co chưa có hồi kết, nên nó làm cho cả một đời vẫn cứ loay hoay quanh cao thượng và thấp kém.

 Đa số người dân đều là an phận thủ thường nên cả đời sẽ không có gì nổi bật. Bình dân nếu muốn siêu phàm thoát tục, thì phải hướng tới cao thượng để có hy vọng trở thành quý tộc. Còn nếu hướng tới sự thấp kém hèn mọn thì sẽ trở thành lưu manh. Con người vươn tới sự cao thượng thì rất khó, và để trở thành quý tộc thì lại càng khó hơn; còn hướng tới sự thấp kém hèn mọn thì rất dễ, trở thành lưu manh thì dễ như trở bàn tay. Cũng chính vì nguyên nhân này mà xã hội nhân loại hiện nay quý tộc thì ít mà lưu manh thì nhiều.

Cao thượng và cao quý không khác nhau về bản chất, nhưng cao thượng và cao quý lại có khoảng cách, đó là mức độ khác nhau, trạng thái khác nhau. Bình dân cũng biết cao thượng, nhưng thường chỉ có thể cao thượng trong thuận cảnh, chứ không thể “cố thủ” cao thượng trong nghịch cảnh. Nếu như trong nghịch cảnh mà có thể giữ được cao thượng, thì đó chính là trạng thái cao quý, cũng tức là đã thành quý tộc.

Nếu cao thượng đã  đạt đến trạng thái cao quý, thì tức là “phú quý mà không dâm, dưới áp lực mà không chịu khuất phục”. Đây chính là trạng thái của tinh thần quý tộc. Câu trên có hai tầng ý nghĩa. Tầng thứ nhất là giải thích đối với phú hào quyền quý: Anh giàu có rồi thì không thể dâm đãng, anh có quyền rồi thì anh không thể lấy quyền đấy để bắt người khác khuất phục. Tầng thứ hai là giải thích với tầng lớp bình dân: Anh không giàu có, nhưng anh không thể bị phú quý dụ dỗ mê hoặc để rồi từ bỏ cao thượng; anh không có quyền lực nhưng anh không thể khuất phục trước quyền lực, anh chỉ có thể tâm phục, khẩu phục trước sự công bằng và chân lý. Đạt đến trạng thái này rồi, thì dù có là bình dân nhưng anh vẫn có tinh thần quý tộc.

Tinh thần quý tộc là gì?

Tinh thần quý tộc có 3 nội hàm cao quý đó là: thành tín, đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm.

Thành tín là linh hồn của văn minh nhân loại, không có thành tín, thì không có đạo đức, cũng không có văn minh; thành tín cũng là linh hồn của phẩm cách cá nhân, không có thành tín, thì không thể có phẩm cách cao thượng. Người thiếu sự thành tín, thì hoặc là người vô lại hoặc là kẻ lưu manh. Dân tộc thiếu sự thành tín, thì chắc chắn là dân tộc ngu muội không có văn hóa. Thành tín cũng là gốc rễ của chế độ dân chủ, vì không có thành tín, thì không có dân chủ đúng nghĩa. Cụ thể, dân chủ dựa vào hiến pháp, và hiến pháp chính là khế ước của xã hội. Thành tín chính là gốc rễ của khế ước, không có thành tín thì khế ước cũng chỉ là tờ giấy vứt đi.

Quý tộc sở dĩ là quý tộc, là bởi vì quý tộc coi thành tín quan trọng hơn cả mạng sống, thành tín mang đến sự cao thượng, sự tôn nghiêm và giá trị cao quý của sinh mệnh. Ví dụ, quý tộc châu Âu thà dùng quyết đấu sòng phẳng thẳng thắn để phân thắng thua, chứ  không muốn dùng âm mưu, quỷ kế để tranh cao thấp. Đây thực chất chính là thà chết để giữ lấy giá trị của thành tín. Sử quan thời Trung Quốc cổ đại thà chết chứ không muốn vì đế vương thay đổi lịch sử, cũng chính là thà chết để giữ lấy giá trị của sự thành tín.

Đạo nghĩa bao hàm nhân đạo và công đạo. Nhân đạo là tiền đề của công đạo, chính là sự tôn trọng đối với sinh mệnh của con người. Người ngay cả ý thức nhân đạo cũng không có, thì về cơ bản không thể có công đạo. Tôn thờ bạo lực chính là coi thường nhân đạo. Nhân đạo và công đạo hòa quyện sinh ra chủ nghĩa nhân quyền của nền văn minh hiện đại, sở dĩ châu Âu có thể sinh ra Công ước Nhân quyền, thực chất chính là do sự thúc đẩy của tinh thần quý tộc.

Tinh thần đạo nghĩa mang tới nhân từ, mang tới khoan dung, mang tới sự quan tâm, mang tới sự công chính. Quý tộc quan tâm tới những người yếu, các sự nghiệp từ thiện trên thế giới dường như đều do quý tộc đầu tư xây dựng, và cái mà họ dựa vào chính là tinh thần đạo nghĩa.

Tinh thần trách nhiệm chính là tinh thần dám gánh vác. Chịu trách nhiệm với lương tri của xã hội nhân loại, chịu trách nhiệm với văn hóa truyền thống của nhân loại, bảo vệ đạo đức, duy trì công bằng xã hội, bảo vệ sự phát triển hòa bình của xã hội.

Chính tinh thần trách nhiệm mang tới lòng tin và sức mạnh không gì lay chuyển được của quý tộc, một khi dân tộc rơi vào khủng hoảng, quý tộc sẽ đứng phía trước dân tộc, bảo vệ an toàn cho dân tộc. Chính tinh thần trách nhiệm này mang đến cho họ tinh thần “Prometheus cướp lửa thần trao cho nhân loại”, và tinh thần “ta không vào địa ngục thì còn ai vào nữa”. Cũng chính tinh thần này đã bảo vệ và thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển hơn.

Ba loại tinh thần này đều đến từ tín ngưỡng tôn giáo, chỉ có tín ngưỡng tôn giáo mới có thể chuyển hóa thành sức mạnh tinh thần kiên định và bền bỉ, đạt đến trạng thái cao quý.

Dù cá nhân quý tộc có tồn tại khuyết điểm này khuyết điểm nọ, nhưng quần thể quý tộc vẫn là lực lượng chủ đạo thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển.

Tinh thần quý tộc thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển

Trong mỗi cá nhân đều tồn tại cuộc chiến nhân tính và thú tính, và nó làm cho cả một đời cứ loay hoay giữa cao thượng và thấp kém: thượng đế kêu gọi con người hướng đến cao thượng, ma quỷ dụ dỗ con người hướng đến sự thấp kém; người cao quý cao thượng thì gần quý tộc hơn, người hướng tới thấp kém bỉ ổi thì gần với lưu manh hơn; hoặc có thể nói, người gần với quý tộc thì trở nên cao thượng, kẻ gần với lưu manh thì trở nên thấp kém. Tục ngữ gọi hiện tượng này là “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.

Mở rộng ra, một dân tộc cũng tồn tại cuộc chiến giữa nhân tính và thú tính, điều này thực chất là cuộc chiến giữa văn minh và vô văn hóa, cũng là cuộc chiến giữa quý tộc và lưu manh. Một dân tộc do quý tộc chủ đạo, thì sẽ mang đến sự tiến bộ cho nền văn minh; do lưu manh chủ đạo thì sẽ lùi lại về không có văn minh, đây không phải là sức sản xuất vật chất bị thụt lùi, mà là sự thụt lùi về văn minh tinh thần, về văn hóa, đạo đức. Điều này đã được chứng minh bởi lịch sử.

Lịch sử phát triển của nhân loại là do quý tộc chủ đạo, do đó nhân loại mới từ không văn minh mà hướng đến văn minh, nhưng trong quá trình lịch sử phát triển lâu dài, có lúc cũng bị lưu manh kiểm soát, lưu manh chiếm cứ địa vị chủ đạo, kết quả làm cho văn minh bị thụt lùi, do đó, tiến trình phát triển của văn minh nhân loại mới xuất hiện nhiều khúc khuỷu, tiến lùi.

Ý thức tinh thần của con người là thể đa diện phức tạp, tức có ý thức giữ gìn cao thượng, thì cũng có ham muốn tình cảm thấp kém. Tuy nhiên, con người hướng tới cao thượng lại giống như leo núi, rất khó; còn hướng tới thấp kém lại rất dễ, giống như đang ngồi cầu trượt. Do đó mà xã hội nhân loại từ trước đến nay lưu manh vẫn nhiều hơn quý tộc.

Xã hội nhân loại trước giờ lưu manh vẫn nhiều hơn quý tộc, vậy sao quý tộc có thể chiếm địa vị chủ đạo trong sự phát triển của xã hội? Điều này quyết định bởi thái độ của tầng lớp bình dân: tầng lớp bình dân ủng hộ quý tộc, thì quý tộc chiếm thượng phong, tức chiếm vị trí chủ đạo, và dân tộc này sẽ duy trì nền văn minh cao thượng; tầng lớp bình dân mà ủng hộ lưu manh, lưu manh chiếm thượng phong, tức lưu manh chiếm vị trí chủ đạo, thì dân tộc này sẽ duy trì sự thấp kém không văn minh. Đây chính là nguyên nhân cơ bản các dân tộc khác nhau có tiến trình văn minh và mức độ văn minh khác nhau.

Dân tộc ủng hộ quý tộc, quý tộc dễ chiếm thượng phong; dân tộc ủng hộ lưu manh, lưu manh dễ chiếm thượng phong. Nếu lưu manh chiếm thế thượng phong, chiếm vị trí chủ đạo, thì tất nhiên sẽ mê hoặc và dụ dỗ nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, ép buộc nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, cuối cùng biến thành một đại quốc lưu manh, văn hóa đạo đức sẽ bị thoái lui toàn diện, xã hội sẽ đổ vỡ.

Sáng tạo văn minh và sáng tạo lịch sử

Thành tựu văn minh nhân loại dường như đều là quý tộc sáng tạo, từ tư tưởng triết học thời viễn cổ, tín ngưỡng tôn giáo, lòng tin đạo đức, đến văn hóa nghệ thuật thời trung cổ, đến khoa học tự nhiên thời cận đại, cho đến cơ chế dân chủ thời hiện đại, tư tưởng mở ra thời đại mới của lịch sử nhân loại, dường như đều là quý tộc sáng tạo ra. Có thể nói thế này, không có quý tộc, thì không có văn minh nhân loại. Không cần tìm đâu xa, chỉ cần tìm những nhà triết học, văn học, nghệ thuật, tư tưởng, thần học, khoa học vĩ đại trên thế giới, có ai không phải là quý tộc?

Quý tộc không chỉ sáng tạo văn minh, mà còn sáng tạo ra lịch sử. Những nhà quý tộc thời cận đại của châu Âu, họ đã sáng tạo ra “Quân chủ lập hiến”, sáng tạo “Tuyên ngôn độc lập”, sáng tạo “Tuyên ngôn nhân quyền”, anh hùng  dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi đã sáng tạo ra “Cách mạng phi bạo lực”, Martin Luther King của Mỹ sáng tạo ra “Tôi có một ước mơ”, họ đem những tư tưởng văn minh này vào thực tế, sáng tạo ra lịch sử huy hoàng, trở thành những cột mốc cho nhân loại hướng tới văn minh.

Sáng tạo lịch sử khác sáng tạo văn minh

Từ trước tới nay, lưu manh không biết sáng tạo văn minh, chỉ biết sáng tạo sự ngang tàn bạo ngược. Tuy vậy lưu manh cũng có thể sáng tạo lịch sử, nhưng lưu manh không thể sáng tạo lịch sử của văn minh, chỉ có thể sáng tạo lịch sử của sự phá hoại, sáng tạo lịch sử tàn sát. Lưu manh từ trước giờ chỉ biết sáng tạo bạo lực, sáng tạo chiến tranh, sáng tạo sự hoang đường, sáng tạo tai nạn.

Nếu một dân tộc mà nhóm người lưu manh giữ vai trò chính trong thời gian dài, thì sẽ trở thành dân tộc “ỷ mạnh hiếp yếu”, trở thành một dân tộc hung bạo, trở thành một dân tộc hủ bại biến chất.

Đạo lý như thế này, lẽ nào còn cần ai chứng minh sao?

Hoàng Hà (biên dịch từ 360doc.com)