Bia Khánh Khê bị đục dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược”
Courtesy Báo Thanh Niên
Nhiều người hẳn đã quen thuộc với hình ảnh cột bia Khánh Khê ở Lạng Sơn dưới đây [ghi nhận sự hi sinh của 650 chiến sĩ thuộc sư đoàn 337 trên biên giới phía Bắc cản bước quân thù năm 1979] cách đây vài năm được báo chí phát hiện là đã bị đục bỏ dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược” – một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.
Và, trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ.
Hôm nay tình cờ thấy người bạn đăng bài thơ ‘Gửi em ở cuối sông Hồng’ như bên dưới:
“Anh ở Lào Cai Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt Tháng Hai, mùa này con nước Lắng phù sa in bóng đôi bờ
Biết em năm ngóng, tháng chờ Cứ chiều chiều ra sông gánh nước Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong
Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?
Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng… Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy Em ra sông chắc em sẽ thấy Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông. … Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ Là niềm thương anh gửi về em đó Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.” (Dương Soái)
Đây là phiên bản phổ biến của bài thơ hiện nay, được báo chí nhà nước sử dụng mỗi khi nhắc đến, kèm cả dấu 3 chấm (…) ngay trước khổ cuối cùng. [1]
Chưa bàn đến chuyện hay dở của phiên bản này, nhưng đọc lên thấy ý hiển ngôn của nó như thể tâm sự của một thanh niên đi nghĩa vụ quân sự làm lính biên phòng phía Bắc nhớ thương về người yêu ở vùng quê nào đó ở hạ lưu sông Hồng. Cả bài chỉ nhớ, thương, và kỷ niệm, chứ hoàn toàn vắng bóng sự ác liệt của chiến tranh. Bởi vậy đọc câu cuối nghe rất gượng gạo, vì sao cô gái thấy dòng sông ngàu lên sắc đỏ lại hiểu được chiến công của chàng trai? Chiến công gì ở đây, khi mà những đoạn phía trên thấy chàng trai toàn là ‘lên chốt’, ‘xuống sông thả lá’, ‘gặp rét trên đỉnh đồi cao’? Nghe như một anh chàng tân binh đang ‘nổ’ với người yêu vậy.
Ý tứ bài thơ như thế, do đó, vừa rất thường, vừa kém tự nhiên.
Nhưng hóa ra không phải vậy, bài thơ đã bị buộc phải trở nên gượng gạo như thế. Những nhát búa của chế độ kiểm duyệt đã đục đi mất phần lịch sử bi hùng được nhắc đến trong bài thơ. Và, trong khi dấu tích cột bia Khánh Khê bị đục dễ dàng nhận ra bằng mắt thường, thì với bài thơ của Dương Soái ở trên dấu vết ấy chỉ còn lại ba chấm (…).
Mời đọc lại phiên bản đầy đủ của bài thơ ‘Gửi em ở cuối sông Hồng’ dưới đây, hôm nay, 17-2, không chỉ để hiểu vì sao cô gái nhìn sông Hồng ngàu lên sắc đỏ lại có thể hiểu được chiến công của chàng trai (ấy là vì nghìn xác giặc Trung Quốc đã bị hạ gục máu loang ố nơi đầu nguồn), mà còn là để nhớ tới những gì không được phép quên, dẫu bất kỳ ai, quyền cao chức trọng tới đâu, phương cách thô lậu tệ hại thế nào, luôn muốn chúng ta quên.
Gửi em ở cuối sông Hồng (Dương Soái)
“Anh ở Lào Cai Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt Tháng Hai, mùa này con nước Lắng phù sa in bóng đôi bờ
Biết em năm ngóng, tháng chờ Cứ chiều chiều ra sông gánh nước Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong
Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?
Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng… Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy Em ra sông chắc em sẽ thấy Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.
Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông
Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong
Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục Máu giặc loang ố cả một vùng
Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ Là niềm thương anh gửi về em đó Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.
Nếu những người cầm đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân 1968 không quá tồi, nếu Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt. Chỉ cần một trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn.
50 năm sau cuộc tổng tấn công đẫm máu của quân đội công sản vào các thành phố và thị xã miền Nam Việt Nam một câu hỏi dần dần lấn át tất cả những câu hỏi khác :
Tại sao một thảm bại quân sự cho Đảng cộng sản Việt Nam đã có thể biến thành một thắng lợi chính trị quyết định cho họ ?
Câu hỏi này chứng tỏ rằng ngày nay người ta đã biết khá rõ nhiều sự thực về biến cố lịch sử này và càng biết nhiều hơn càng thấy nó khó hiểu.
Tại sao một thảm bại quân sự cho Đảng cộng sản Việt Nam đã có thể biến thành một thắng lợi chính trị quyết định cho họ ?
Một thảm bại quân sự
Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 nhiều khi được mô tả là gồm ba đợt : đợt 1 vào dịp Tết Mậu Thân, đợt 2 vào tháng 5 và đợt 3 vào tháng 8. Tuy vậy người dân miền Nam vẫn gọi chung biến cố này là “cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân” bởi vì nó đã chủ yếu diễn ra trong dịp Tết. Đợt 2 yếu hơn hẳn và đợt 3 không đáng kể.
Ngày nay ít ai còn ngờ vực rằng nó đã là một thất bại quân sự thê thảm cho phe cộng sản. Các số liệu mà chính quyền cộng sản đưa ra chẳng có gì đáng tin khi có hại cho họ.
Thí dụ như cuộc Cải Cách Ruộng Đất năm 1955 tại miền Bắc. Chính quyền cộng sản, khi nhìn nhận sai lầm, đã đưa ra những con số nạn nhân 10.000 hay 15.000 để rồi hơn một nửa thế kỷ sau cố giáo sư Đặng Phong sau một khảo cứu công phu đã tìm ra con số nạn nhân chính xác 172.008 người.
Trong trận Mậu Thân 1968, Đảng cộng sản, một năm sau, đưa ra con số “43.000 chiến sĩ hy sinh”, một con số vớ vẩn vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã thu lượm được 75.000 xác chết cộng quân bị bỏ lại trên chiến trường, còn quân đội Mỹ cũng cho biết đã đếm được 58.000 xác.
Vào khoảng năm 1970 (hay 1971 ?) tôi có gặp ông Mai Văn Sổ, một cán bộ hậu cần của quân đội cộng sản trong trận chiến này. Ông là em song thai của ông Mai Văn Bộ, đại sứ của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Pháp vào lúc đó. Hình như ông mang quân hàm thượng tá lúc ra đầu thú và được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa sang Paris trong mục đích giải độc tuyên truyền của phe cộng sản. Ông Mai Văn Sổ đã gây tiếng vang lớn trong làng báo Pháp giữa lúc hội nghị Paris đang diễn ra và người anh song thai của ông đang vừa là đại sứ vừa là thành viên phái đoàn Hà Nội. Trong trao đổi riêng tư với anh em chúng tôi, ông Sổ nói một cách vắn tắt : “quân đội cộng sản đã tan tành”. Ông cho biết hầu hết các tiểu đoàn hay trung đoàn chỉ còn lại vài người. Ông cũng nói thêm rằng số người thiệt mạng trên chiến trường chỉ là thiểu số, đa số đã chết vì thương tích sau đó.
Cũng lớn không kém là số người ra đầu thú mà chính quyền miền Nam, gọi là “hồi chính” (trở về với chính nghĩa), nhiều đến nỗi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải lập một bộ mang tên Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi. Năm 1995 chính quyền cộng sản đã điều chỉnh lại con số thương vong của họ trong dịp Tết Mâu Thân : 111.306 người. Con số này coi có vẻ chính xác như là kết quả của một nghiên cứu nghiêm chỉnh nhưng nó cũng vẫn rất xa sự thực.
Các tài liệu của Đảng cộng sản cũng như của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ cho thấy là Hà Nội đã gửi vào miền Nam cho chiến dịch này hơn 200.000 quân chính quy và gần 300.000 tấn vũ khí và dạn dược, chủ yếu bằng đường biển, qua cảng Sihanoukville của Campuchia. Phối hợp với quân có sẵn tại miền Nam, lực lượng cộng sản vào thời điểm Tết Mậu Thân là trên 500.000 người. Một tài liệu của cơ quan tình báo CIA Mỹ ước lượng tổng số quân cộng sản lúc đó là khoảng 600.000 người. Cuối năm 1968 lực lượng này sau những thương vong và hồi chính chỉ còn lại khoảng 200.000 với hàng ngũ rã rượi và tinh thần suy sụp.
Sau này, từ năm 1979 đến cuối năm 1982, sau khi đi tù về và trước khi đi Pháp, tôi đã có dịp trao đổi với nhiều người cộng sản có vai trò chỉ huy trong chiến dịch này, tất cả đều nói là thiệt hại rất nặng, một số còn nói thẳng rằng lực lượng cộng sản “không còn gì”.
Thiệt hại về phía Việt Nam Cộng Hòa trong trận đánh vào vào dịp Tết là gần 5.000 người (con số chính xác là 4.954) và gần 16.000 người bị thương. Phía quân đội Mỹ có 3.895 người thiệt mạng và khoảng 19.000 người bị thương. Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa hình như chỉ coi trận Tết Mậu Thân là vào dịp Tết nên không có những con số cho đợt 2 và đợt 3, chỉ có thống kê thiệt hại cho cả năm 1968 theo đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã có 28.800 người thiệt mạng, quân đội Mỹ và đồng minh 16.000 người.
So sánh những thiệt hại của đôi bên và nhìn vào tình trạng kiệt quệ của quân cộng sản sau năm 1968 thỉ phải nói trận Tết Mâu Thân đã là một thảm bại cho phe cộng sản. Mặc dù phía Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh hoàn toàn bị bất ngờ, nhưng lực lượng hai bên quá chênh lệch. 500.000 quân cộng sản phải đương đầu với gần 800.000 quân Việt Nam Cộng Hòa, 500.000 quân Mỹ và 50.000 quân Hàn Quốc. Hơn nữa các đội quân cộng sản đến từ miền Bắc lại không biết địa hình, nhiều khi đi lạc rồi bị tiêu diệt.
Quân cộng sản bị bắt giữ cùng những vũ khí mới : pháo cầm tay B40, trung liên cá nhân AK47 và đạn dược trong trận Tết Mậu Thân Sài Gòn tháng Giêng 1968
Bộ chỉ huy cộng sản hy vọng rất nhiều ở hai vũ khí mới : khẩu pháo cầm tay B40 và nhất là khẩu trung liên cá nhân AK47. Quả nhiên hai vũ khí này đã gây bất ngờ rất lớn nhưng sau phút bỡ ngỡ ban đầu chúng đã bất lực trước các trực thăng và xe bọc thép. Hy vọng nhân dân sẽ nổi dậy ủng hộ lực lượng cộng sản lại càng não nề. Nhân dân miền Nam đã không hưởng ứng mà còn thù ghét, nhất là khi họ được biết những vụ tàn sát dã man người dân vô tội, đặc biệt và vụ thảm sát tại Huế trong đó khoảng 6.000 người, kể cả phụ nữ và trẻ em, đã bị giết, nhiều khi bằng cách chôn sống. Ngày nay khi nhìn lại biến cố Tết Mâu Thân không ai có thể chối cãi rằng đó đã là một thảm bại cho phe cộng sản cả về quân sự lẫn nhân tâm. Khách quan mà nói đây là một hành động tự sát.
Lý do của một liều lĩnh tự sát
Tại sao ban lãnh đạo cộng sản lại lấy quyết định tự sát này ?
Từ sau hội nghị Genève chia cắt đất nước, Đảng cộng sản vì nhiều lý do vẫn cho rằng họ đương nhiên phải thôn tính miền Nam. Họ hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử được lập lờ dự trù năm 1956 trong bản tuyên bố chung cùng với hiệp định Genève. Nhưng khi chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra sáu điều kiện để đảm bảo cuộc tuyển cử sẽ được thực hiện một cách lương thiện và được đa số các quốc gia trên thế giới ủng hộ thì họ thất vọng. Thất vọng trở thành tuyệt vọng khi, năm 1957, chính Liên Xô đề nghị hoãn vô hạn định cuộc tổng tuyển cử này và cho cả hai nhà nước Nam và Bắc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử tiêu tan, chỉ còn lại giải pháp chiến tranh. Không phải cấp lãnh đạo cộng sản nào cũng nhiệt tình với giải pháp này nhưng không ai dám công khai chống lại bởi vì đồng thuận chính thức trong Đảng cộng sản lúc đó là phải thống nhất đất nước bằng mọi giá.
Hậu quả của chọn lựa chiến tranh là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nắm được thế áp đảo vì là hai người hiểu biết nhất về miền Nam và từng chỉ huy lực lượng cộng sản tại đây trong cuộc chiến 1945 – 1954. Cặp bài trùng này kết nạp được Nguyễn Chí Thanh và dần dần gạt ra ngoài lề Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan và một phần nào đó cả Hồ Chí Minh. Chiến tranh càng khốc liệt thì thế lực của họ càng mạnh và sau cuộc thanh trừng nhóm bị gọi là “bọn xét lại chống đảng” thì quyền lực của họ trở thành tuyệt đối. Lê Duẩn trở thành bí thư thứ nhất và cùng với Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức và xây dựng đảng, kiểm soát quyền lực trung ương trong khi Nguyễn Chí Thanh chỉ huy cuộc chiến trong Nam.
Tuy nhiên sau khi Mỹ ào ạt đổ quân vào miền Nam, oanh tạc miền Bắc và gây thiệt hại nặng nề cho quân cộng sản trong nhiều trận đánh lớn thì hy vọng chiến thắng tiêu tan và quyền lực của bộ ba Duẩn, Thọ, Thanh bị đe dọa. Xuống thang trong chiến tranh đồng nghĩa với sự đào thải của họ. Bộ ba này vì vậy phải tìm một giải pháp để tự cứu. Giải pháp đó chính là cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Mục đích của chiến dịch này là đổ toàn lực để đánh một trận liều lĩnh, chấp nhận những thiệt hại lớn hầu gây một chấn động thật lớn buộc Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận thương thuyết rồi từ đó chuyển sang chiến lược “vừa đánh vừa đàm” dựa vào dư luận thế giới đang khá thuận lợi lúc đó để hy vọng một lối thoát ít nhất không quá bẽ bàng. Nói chung chiến dịch này trước hết nhắm cứu nguy quyền lực đang bị đe dọa của bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh.
Tháng 6/1967 Nguyễn Chí Thanh ra Bắc họp để bàn kế hoạch nhưng đến nơi không bao lâu thì bất ngờ bị đột quỵ và chết. Cuộc họp vẫn tiếp tục, kế hoạch tổng tấn công trong dịp Tết Mậu Thân vẫn được duy trì với Khe Sanh, một huyện lỵ thuộc Quảng Trị nằm sát biên giới Lào, được chọn làm điểm tấn công đầu tiên với mục đích đánh lạc sự chú ý, làm cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tưởng rằng Hà Nội chỉ tập trung đánh Khe Sanh và muốn biến Khe Sanh thành một trận Điện Biên Phủ mới. Về điểm này thì Hà Nội đã thành công, Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa quả nhiên đã tin là Hà Nội đã tập trung toàn lực vào Khe Sanh và vì thế càng tin tưởng phần còn lại của miền Nam, nhất là các tỉnh phía Nam có thể yên tâm đón Tết Mậu Thân, vả lại hai bên lại đã có thỏa thuận hưu chiến trong dịp Tết.
Đối với Việt Nam Cộng Hòa bất ngờ đã hoàn toàn. Cũng bất ngờ không kém là số quân cộng sản được tung vào trận đánh, gần như toàn bộ lực lượng hơn 500.000 người với hai vũ khí lần đầu tiên xuất hiện B40 và AK47. Tuy vậy Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cũng phải biết trước rằng cuộc tổng tấn công này sẽ thất bại bởi vì muốn tấn công, dù là tấn công bất ngờ, phải có lực lượng mạnh hơn hẳn đối phương, trong khi lực lượng hai bên quá chênh lệch theo thế bất lợi cho họ. Điều cũng làm họ hoàn toàn thất vọng là nhân dân miền Nam đã không hề hưởng ứng lời kêu gọi nổi dậy của họ. Sau một tháng, lực lượng cộng sản không chỉ bị đẩy lui mà còn bị đánh tan tành, với những tổn thất kinh khủng. Sau khi thu thập tàn quân họ đã cố gắng mở một đợt tấn công thứ hai vào tháng 5 nhưng chỉ chịu thêm những thiệt hại vì lần này yếu tố bất ngờ không còn nữa.
Tóm lại, vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân chỉ là một hành động tuyệt vọng của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ trong thế nguy ngập. Họ chấp nhận để quân cộng sản trả giá rất đắt với hy vọng là nhờ đó có thể giữ được quyền lực. Chính họ cũng không ngờ tình hình lại diễn biến một cách khác hẳn.
Giữa lúc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang tan nát
Cuộc tổng tấn công Tết Mâu Thân đã là một khúc quanh lịch sử đưa đến sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và thắng lợi của Đảng cộng sản Việt Nam. Câu hỏi vẫn còn nhức nhối cho nhiều người là :
“Tại sao đối với Đảng cộng sản một thảm bại về quân sự lại có thể biến thành một thắng lợi quyết định về chính trị ?”.
Hay
“Tại sao chế độ Việt Nam Cộng Hòa lại có thể để một thảm bại của đối phương biến thành một đòn chí mạng cho chính mình ?”.
Phải nói rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào lúc đó đang ở trong một tình trạng cực kỳ tồi tệ. Sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm, tháng 11/1963, đã mở ra một giai đoạn hỗn loạn trong đó các tướng tá bất tài, vô học và vô trách nhiệm thi nhau tranh giành quyền lực trong lúc các sư sãi, mà thành phần chủ động là những cán bộ cộng sản trá hình, xuống đường hàng ngày gây rối loạn.
Một nhân vật nói lên tình trạng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó : Nguyễn Khánh. Ông này là một sĩ quan của quân đội Pháp để lại –như tất cả các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa- đã đảo chính lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của nhóm Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính ba tháng sau khi họ lật đổ Ngô Đình Diệm. Ông Khánh hành động như một kịch sĩ, liên tục đưa ra những lời tuyên bố và sáng kiến nhảm nhí chỉ có tác dụng là làm cho tình hình rối loạn thêm. Sau này vào tuổi gần 80, tại Mỹ, ông còn nhận lời làm “quốc trưởng” cho trò hề chính phủ lưu vong của Nguyễn Hữu Chánh. Sự kiện một con người như vậy mà đã có thể thao túng chính trường miền Nam trong hơn một năm chứng tỏ chính quyền miền Nam lúc đó tan nát đến mức nào.
Từ tháng 6/1965 tình hình tương đối ổn định hơn với Hội Đồng Quân Lực cầm quyền trong đó tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (quốc trưởng) và Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (thủ tướng), nhưng vì cả hai người này đều không có uy tín nên bộ máy chính quyền vẫn chao đảo, miền Trung gần như bất phục tùng trung ương trong gần nửa năm trời. Ngay sau đó lại xẩy ra sự đấu đá ngay giữa Thiệu và Kỳ để tranh nhau ứng cử tổng thống cuối năm 1967. Kết quả là Nguyễn Cao Kỳ, mầu mè và phô trương, dù nhiều quyền hơn và phe đảng đông hơn phải nhượng bộ, nhận ứng cử phó tổng thống cho Nguyễn Văn Thiệu, mờ nhạt và thiển cận nhưng ít tai tiếng và được lòng Mỹ hơn. Tuy vậy, vào thời điểm Tết Mậu Thân quyền hành của Kỳ vẫn còn mạnh hơn Thiệu, hai người chia đôi Dinh Độc Lập với mỗi người một bộ tham mưu riêng.
Một hậu quả của sự tan nát của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là bộ máy an ninh tình báo bị tê liệt. Sự kiện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không hề biết tới cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân chỉ giản dị là không tưởng tượng nổi. Nó đã được chuẩn bị từ hơn nửa năm trước, Hà Nội đã gửi vào Nam hơn 200.000 quân chính quy và hơn 300.000 tấn vũ khí, hơn nữa còn dàn quân chung quanh, thậm chí xâm nhập, gần như tất cả các thành phố và thị xã trên khắp lãnh thổ. Vào lúc súng bắt đầu nổ, Nguyễn Văn Thiệu đang về quê ăn Tết, còn Nguyễn Cao Kỳ đang đánh bài. Tất cả những điều này đều khó tưởng tượng, nhưng điều còn khó tưởng tượng hơn là những gì xẩy ra sau đó.
Nha Trang và sau đó Đà Nẵng bị tấn công đầu tiên. Sài Gòn chỉ bị tấn công một ngày sau nhưng vẫn không chuẩn bị gì cả. Huế còn chỉ bị tấn công sau Sài Gòn 4 giờ nhưng cũng không đề phòng và quân cộng sản đã chiếm được thành phố mà không găp một chống cự nào.
Trong lịch sử cận đại không có trận chiến nào diễn ra một cách kỳ cục như vậy. Càng khó tưởng tượng khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là một chính quyền quân đội đặt an ninh lên trên hết và có đầy đủ phương tiện truyền thông hiện đại. Nếu có một chút danh dự của một người làm tướng thì cả Thiệu lẫn Kỳ đều phải tự xử sau sự kiện ô nhục này, nhưng họ chỉ biết tự mãn chứ không có danh dự. Các cấp lãnh đạo và tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa cũng không khác họ bao nhiêu, không thấy ai tỏ ra xấu hổ. Không phải là phe cộng sản đã hành quân khéo và giữ bí mật giỏi, họ hành quân rất luộm thuộm, sai cả giờ phát động vì lẫn lộn lịch tầu và lịch ta. Vấn đề chỉ là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó quá tồi dở. Bộ máy hành chính cũng như quân sự có nhiều người rất tốt, rất dũng cảm và rất giỏi nhưng lãnh đạo quá tồi nên cũng giống như cơ thể cường tráng nhưng cái đầu không hoạt động.
Điều cũng tai hại không kém sự kiện để bị đánh bất ngờ là không khai thác được sự thảm bại về mặt quân sự cũng như dân vận, và nhất là những tội ác của quân cộng sản như cuộc thảm sát tại Huế. Lúc đó mọi đèn chiếu và mọi con mắt của thế giới hướng về Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được một dịp ngàn năm một thuở để chinh phục cảm tình và hậu thuẫn của thế giới nhưng lại không có gì để nói, không những thế còn nói ngu, như Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố coi Hitler là thần tượng.
Lý do chính là Lyndon Johnson
Sự tồi dở của chính quyền Thiệu Kỳ quả là đã vượt mọi tưởng, nhưng nếu chỉ có thế thì biến cố Tết Mậu Thân cũng sẽ chỉ là một tai họa cho cặp Lê Duẩn – Lê Đức Thọ và chính quyền Hà Nội.
Người đã góp phần quyết định chuyển bại thành thắng cho Đảng cộng sản Việt Nam là Lyndon Johnson. Ông này là một tay hoạt đầu chính trị địa phương với kiến thức hạn hẹp, hoàn toàn không có một tư tưởng chính trị và một tầm vóc chính trị nào. Ông thăng tiến nhờ tính thực thà tận tụy và nhờ may mắn, sau cùng trở thành tổng thống vì một sự tình cờ : tổng thống Kennedy bị ám sát. Do bản chất của chế độ tổng thống trong đó các chính đảng không đủ mạnh để đảm nhiệm vai trò của một lò sản xuất ý kiến và đào tạo nhân tài, sau những tổng thống kiệt xuất đầu tiên, các tổng thống Mỹ thường không phải là những người có bản lãnh chính trị, nhưng Lyndon Johnson là một trong những tổng thống kém nhất.
Sau vụ Tết Mậu Thân, thái độ của Lyndon Johnson là thái độ của một người hoảng hốt bỏ chạy. Ngày 31/3, ngay khi cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của quân cộng sản còn đang gây sôi nổi trên khắp thế giới, ông tuyên bố chấp nhận thương tuyết song phương với Hà Nội và chỉ cho Việt Nam Cộng Hòa tham dự với tư cách quan sát viên đúng như đòi hỏi của Hà Nội. Ông cũng tuyên bố sẽ không ra ứng cử tổng thống nữa. Quyết định này tương đương với một lời thú nhận đã sai lầm và thất bại bởi vì mới một năm trước tại Hội Nghị Quân Sự Tối Cao tại Guam với hai tướng Thiệu và Kỳ, ông đã dõng dạc tuyên bố cương quyết giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cuộc xâm lược của cộng sản và ông không ngừng nhắc lại cam kết này cho đến ngay trước Tết Mậu Thân. Chính Hà Nội cũng không thể ngờ tổng thống Mỹ có thể hốt hoảng như thế ngay cả nếu cuộc tổng tấn công không thất bại thê thảm như nó đã thực sự diễn ra.
Thái độ hoảng hốt bỏ chạy của Johnson đã có ảnh hưởng tức khắc trên quần chúng Mỹ. Ngay sau đó, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy 80% người Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam. Các nghị sĩ và dân biểu Mỹ trong tuyệt đại đa số là những người chạy theo chứ không thách thức dư luận. Họ còn một lý do khác để không thách thức dư luận. Quan tâm hàng đầu của Mỹ khi can thiệp vào Việt Nam là bảo vệ lưu thông qua eo biển Malacca giữa Malaysia, Singapore và Indonésia nơi quá phân nửa hàng hóa của thương mại quốc tế được chuyển qua, nhưng từ năm 1965 Indonesia đã tiêu diệt hết lực lượng cộng sản trong khi an ninh của Malaysia và Singapore cũng không còn bị đe dọa nữa. Như thế số phận của Việt Nam Cộng Hòa đã được quyết định.
Westmoreland đã làm Johnson hoảng hốt
Nhưng tại sao Johnson lại hốt hoảng đến như thế ?
Lý do đầu tiên là cách ứng xử của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Johnson không phải là một chính trị gia có bản lãnh và hiểu biết rất ít về thế giới nói chung và Châu Á nói riêng, ông chỉ phán đoán như một người Mỹ bình thường qua những sự kiện khách quan, và sự kiện khách quan không thể tưởng tượng được là chính quyền Thiệu Kỳ lại có thể không biết gì về một cuộc tổng tấn công lớn như vậy. Trong thâm tâm ông phải nghĩ rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là một bọn vô dụng không đáng giúp đỡ và có giúp cũng vô ích. Cũng đừng nên quên rằng từ sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, các tướng tá Việt Nam Cộng Hòa đã làm tất cả để dư luận thế giới khinh thường. Tuy vậy, Việt Nam Cộng Hòa không phải là lý do chính.
Lý do chính là Westmoreland, tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam. Westmoreland đã tỏ ra rất dở trong biến cố Tết Mậu Thân. Trước hết ông mắc lừa trận đánh hỏa mù Khe Sanh. Westmoreland thực sự tin là Hà Nội chỉ muốn đánh lớn ở Khe Sanh. Sau khi cuộc tổng tấn công nổ ra, ông vẫn tuyên bố rằng đó chỉ là một cố gắng để lôi kéo sự chú ý của Mỹ và Đồng Minh khỏi Khe Sanh. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng nơi một vị tướng chỉ huy 500.000 quân. Nhưng sai lầm lớn hơn nhiều của Westmoreland là đã xin tổng thống Johnson viện trợ thêm 206.000 quân sau đó. Ông không thấy rằng quân cộng sản đã thảm bại. Đối với Johnson, việc Westmoreland xin viện binh là bằng cớ rằng Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại. Và Johnson hốt hoảng bỏ chạy.
Thử tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra nếu thay vì xin thêm tiếp viện 206.000 quân Westmoreland báo cáo với tổng thống Mỹ rằng quân cộng sản vừa làm hành động tự sát, lực lượng của họ đã tan tành và Mỹ có thể rút bớt 200.000 quân, lực lượng còn lại cũng thừa sức giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cộng sản. Đây không phải là chính trị giả tưởng mà là sự thực bởi vì ngay sau đó Nixon liên tục rút quân, nhưng vào tháng 01/1973 khi hiệp định Paris được ký kết quân cộng sản chỉ giữ được một huyện Sa Huỳnh trên tổng số 245 quận huyện của miền Nam, dù lúc đó quân Mỹ đã rút gần hết. Nhưng lúc đó quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa không đảo ngược được nữa, như cựu ngoại trưởng John Kerry sau này từng tuyên bố.
Cũng thử tưởng tượng nếu, thay vì về quê ăn Tết như ông Thiệu hay đánh bài như ông Kỳ, các cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa lập tức có mặt chỉ huy cuộc phản công và đến hiện trường thăm hỏi dân chúng và khích lệ quân lính. Hay ngay cả có lỡ để bị bất ngờ -điều cần nhắc lại là không thể tha thứ được- sau có thái độ xứng đáng, có lập luận thuyết phục để khẳng định lòng tin và lên án những tội ác của quân cộng sản tại Huế và nhiều nơi khác. Nếu như thế thì Lyndon Johnson đã không quá hốt hoảng.
Nhưng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và những người cầm đầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chỉ là chính họ. Đã chỉ có Nguyễn Ngọc Loan làm cử chỉ côn đồ tự tay bắn chết một du kích vừa bị bắt ngay trước ống kính của một ký giả nước ngoài. Hình này được trưng ra trước cả thế giới và làm xấu thêm hình ảnh vốn đã xấu của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng cần nói thêm là Nguyễn Văn Thiệu chắc chắn không ý thức được sự nguy ngập của chế độ sau biến cố Mậu Thân, vì sau đó ông còn giở trò độc diễn trong cuộc bầu cử tổng thống 1971 làm danh nghĩa dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa mất hết nội dung. Không những thế, năm 1973, hai năm trước khi bỏ chạy, ông còn sửa đổi hiến pháp để có thể ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.
Hậu quả đã có thể rất khác
Nếu những người cầm đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân không quá tồi, nếu Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt. Chỉ cần một trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn.
Thực tế là, về phía Hà Nội, một chọn lựa liều lĩnh ngu xuẩn đã đưa đến một thảm bại quân sự làm hàng trăm ngàn người chết nhưng rồi lại biến thành một thắng lợi chính trị và sau cùng một thắng lợi toàn diện. Ngược lại, về phía Sài Gòn, một thắng lợi quân sự lớn đã biến thành một thảm bại chính trị và sau cùng một thất bại hoàn toàn. Kẻ thắng không xứng đáng để thắng nhưng kẻ thua lại rất xứng đáng để thua. Và Việt Nam đã là Việt Nam hiện nay. Số phận nước ta thật hẩm hiu.
Bài học nào ?
Người Việt Nam không chọn được Johnson và Westmoreland, nhưng còn hai chế độ cộng sản và Việt Nam Cộng Hòa ? Những người miền Bắc đã để cho Đảng cộng sản thống trị và Đảng cộng sản đã để cho một nhóm người thiển cận và độc hại chung quanh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thống trị, trong khi những người miền Nam đã để cho những người chẳng ra gì như Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ dẫn vào vực thẳm. Khi một dân tộc không có một lớp trí thức chính trị thì tất cả đều có thể xẩy ra. Đó là bài học lớn nhất của biến cố Mậu Thân 1968 và của giai đoạn lịch sử gần đây.
Một lời sau cùng cho bên thắng cuộc.
Chiến thắng 30/4/1975, hậu quả của biến cố Mậu Thân 1968, đã làm cho nhóm Lê Duẩn – Lê Đức Thọ say sưa đến mất trí. Họ tưởng họ là thiên tài và anh hùng dân tộc. Họ nghĩ họ đã rất may mắn. Nhưng lịch sử có logic của nó. Họ đã chỉ được một cơ hội để chứng tỏ sự tồi dở và sẽ mãi mãi được các thế hệ mai sau nhớ đến như những tai họa. Sau cùng chính họ mới là những người không may nhất.
Sáng nay (17/02/2018), tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ, dù mới là mồng 2 Tết Mậu Tuất và trời còn lạnh, nhưng chính quyền công an đã chuẩn bị sẵn sàng biện pháp ngăn chặn những người dân đến tượng đài Lý Thái Tổ thắp hương tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Quốc, bằng cách xua một loạt “quần chúng” cao tuổi vào khu vực, ôm eo nhau nhảy múa, khiêu vũ.
Hồi 17/02/2013 thì nhà cầm quyền bố trí quần chúng, gồm cả bà già mặc áo hai dây, ra chân tượng đài múa điệu “Con bướm xinh”.
Đợt 19/01/2014 (tưởng niệm 40 năm Hải chiến Hoàng Sa) thì công an, dân phòng cải trang làm thợ đá đến cưa đá, tạo tiếng ồn và bụi mù mịt, cũng ở khu vực này.
Đó là các biện pháp ngăn chặn có tính chất ngắn hạn. Còn về dài hạn thì chính sách của Hà Nội còn thâm hiểm hơn nữa.
Chẳng hạn, nhà cầm quyền cho xoá bỏ tên các đường phố đặt theo tên liệt sĩ chống Tàu cộng. Sau năm 1975, phố phường ở các đô thị lớn, nhất là Sài Gòn, dày đặc tên các thể loại anh hùng, liệt sĩ, dân quân, du kích, biệt động trong chiến tranh chống Pháp hay Mỹ. Lắm người mà đại đa số dân chúng có khi chẳng biết là ai, đúng là xứ sở “ra ngõ gặp anh hùng” có khác. Nhưng chắc chắn là trong số đó, chẳng có tên một liệt sĩ chống Trung Quốc nào.
Nhà cầm quyền cũng chủ trương không nhắc tới các liệt sĩ hy sinh trong Chiến tranh Biên giới 1979, rút tên họ khỏi sách lịch sử, thu hồi, không lưu hành các văn hoá phẩm (sách báo, bài hát…, nếu còn) viết về họ. Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng Chiêm… tới nay không chỉ là những liệt sĩ mà còn là nạn nhân của một chính sách xoá bỏ lịch sử, cố gắng làm các thế hệ sau quên lãng một cuộc chiến đẫm máu do nhà cầm quyền bạo ngược của hai nước cộng sản gây nên.
Thâm hiểm hơn nữa là việc cấm biểu diễn, lưu hành các nhạc phẩm, ca khúc chống Tàu, ví dụ như “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên (hay còn được nhiều người gọi là bài “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”), “Lời tạm biệt lúc lên đường” của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối, “Lena Belicova” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ…
Ca khúc hoặc tác phẩm văn học nào nổi tiếng quá và lời lẽ không chống Tàu lộ quá thì có thể vẫn được “chiếu cố”, nhưng cũng bị sửa đi nhiều so với bản gốc. Còn lại, hầu hết các ca khúc liên quan tới cuộc chiến năm 1979 đều biến mất, nghĩa là không còn được biểu diễn trên các sân khấu lớn, trên sóng truyền hình, hay ghi âm, in ra sách… Việc không lưu hành những bài này là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước, từ sau năm 1991. Truyện ngắn “Mặt trời bé con của tôi” của nhà văn Thuỳ Linh bị rút khỏi sách giáo khoa một cách không thương tiếc, hẳn là vì nhân vật chính của truyện là một liệt sĩ trẻ chống Tàu.
Ôi, giá mà các chính sách vì quốc kế, dân sinh của Hà Nội đều “có hệ thống”, có “tầm nhìn xa” như vậy!
Đến đây chắc các dư luận viên hoặc những thành phần có não trạng dư luận viên sẽ lại rống lên: Quá khứ khép lại, tương lai mở ra, sao chúng mày cứ bàn mãi về chuyện đã qua thế, sao cứ khoét mãi vào giai đoạn quan hệ hai nước Việt-Trung gặp trục trặc thế, muốn gieo rắc thù hận à?
Tất nhiên, họ có quyền hỏi, kể cả quyền rống lên như vậy. Nhưng họ thật là mặt dày khi không bao giờ đặt câu hỏi: Vì sao lại không cấm luôn cả “Nguyễn Viết Xuân”, “Bế Văn Đàn sống mãi”, “Cô gái vót chông”, nhất là “Cô gái vót chông” với những ca từ như: “Mỗi mũi chông nhọn sắc căm thù, xiên thây quân cướp nào vô đây”, “Còn giặc Mỹ cọp beo, khi còn giặc Mỹ cọp beo, em chưa ngừng tay vót chông”…
Và mới đây thôi, sát giao thừa rồi, nhà nước vẫn còn hân hoan kỷ niệm “chiến thắng” Mậu Thân 1968…
TINH THẦN CẦU NGUYỆN VÀ SỐNG TIN MỪNG CỦA ĐỘI BÓNG VÔ ĐỊCH SUPER BOWL 2018
CÁC CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN – Phần 3.
Đội bóng chuyên nghiệp Philadelphia Eagles đã hạ đội bóng lừng danh New England Patriot đương kim vô địch với tỉ số 41-33 vào ngày Chúa Nhật mùng 4 tháng 2, 2018 . Patriot là đội quán quân với 5 lần đoạt chức vô địch giải Siêu Cúp Super Bowl kể từ năm 2002 cho đến nay. Đội Eagles tầm thường vốn chưa có đến một lần đoạt giải Siêu Cúp, trong suốt 57 năm qua, lần này Eagles đã làm nên thành tích lớn, đội làm được điều mà không ai có thể ngờ. Người ta ví von Eagles thắng Patriot giống như “David tí hon chiến thắng người khổng lồ Goliat”.
Tinh thần của đội Eagles xem ra cũng giống như chàng thanh niên David, thành tích vô địch của Eagles vốn bắt nguồn từ một tinh thần đức tin mạnh mẽ rất dễ thương và dễ nể. Tinh thần mến chuộng Tin mừng của Eagles đã được hầu hết các Fan hâm mộ cũng như báo chí biết đến.
Sau khi chiến thắng đội Minnesota Vikings với tỷ số áp đảo 38-7 ở một giải khác, giải vô địch NFL , Cầu thủ tiền vệ, (quarterback) Nick Foles chia sẻ, trong lúc các hâm mộ viên hát bài ca “Phượng hoàng chiến đấu” trong lúc các cầu thủ Eagles đang cảm ơn Đấng bề trên quyền năng đã ban cho họ niềm vui chiến thắng của các thể thao gia :
Tất cả vinh quang thuộc về Chúa. Trong thời khắc này, sự kiện khó tin, làm ta khiêm nhường.
Thực ra, từ những năm 1977 họ đã có tinh thần cầu nguyện rồi, trong trận đấu với đội New York Giant, cầu thủ Lusk nhận được đường chuyền từ tiền vệ Ron Jaworski và phóng chạy một mạch 63 mét về đích, anh nói:
Tôi lách qua bên trái và thấy có nguồn ánh sáng ban ngày xuyên qua bóng các hậu vệ đối thủ, tôi cứ theo luồng sáng đó mà chạy về “đất hứa”.
Khi đã vượt làn ranh cầu môn, về đích, anh quỳ xuống và trở thành cầu thủ NFL đầu tiên cầu nguyện tạ ơn khi ghi bàn thắng. Ngày nay, Lusk trở thành tuyên úy chánh của đội, hướng dẫn mọi người học Kinh Thánh và lo phụng vụ.
Sinh hoạt tinh thần của đội Eagles tốt lành ngoài sức tưởng tượng của Bạn và Tôi, chúng ta hãy nghe đội trưởng và cũng là cầu thủ tiền vệ làm bàn nhiều nhất , Carson Wentz tâm sự:
Chúng tôi cùng học Kinh Thánh vào tối thứ hai và thứ năm, tối thứ bẩy chúng tôi cầu nguyện theo Lời Chúa chung với nhau, chia sẻ tỏ bày các khó khăn trong đời sống trước khi ra sân tập. Chúng tôi sống chân thực với nhau, thực sự có nhau, thật là đặc biệt khi sự kiện này diễn ra trong khu huấn luyện, làm việc của NFL.
Điều cao cả nhất đó là, chúng tôi thách đố nhau, nhắc nhau đừng quên giải thướng lớn nhất, chung cuộc, vì trong các trận đấu được thua, giao tranh cao thấp cầu thủ rất dễ quên đi đích nhắm tối thượng, là sống cho Chúa, trở nên một con người mà mình muốn đạt đến.
Làm sao điều kỳ diệu này xảy ra được, hãy nghe các cầu thủ khác giải thích,
Anh Torrey Smith nói.:
Bất kể khó khăn là gì , cho dù là sự yếu đuối của mình, hay các tương quan rạn nứt trong gia đình, hôn nhân, … chúng tôi có thể nói ra hết, thổ lộ hết ngay trong vòng những người anh em của đội, như là trong một gia đình, rồi cùng nhau, chúng tôi tìm ra giải pháp bằng cách áp dụng các nguyên tắc của Kinh Thánh,
Hầu hết những người lãnh đạo nhóm vốn xuất phát với một đức tin bình thường cho đến khi họ được ơn đổi mới qua phép rửa trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là ăn năn sám hối và đàu phục Chúa Giê Su cách trọn vẹn, để cho Chúa làm chủ cuộc đời mình. Chúa Thánh Thần làm cho các anh luôn khao khát được nói về Chúa Giê Su. Các anh không chỉ cầu nguyện với nhau mà còn cùng cầu nguyện tạ ơn với các đội khác sau một trận thi đấu trong tinh thần giao hữu.
Anh Carson nhận xét:
Chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau vượt qua các khó khăn, trên sân tập, trong cuộc đời. Chúng tôi gắn kết với nhau, Chúng tôi kính trọng lẫn nhau, không để các ý kiến khác biệt về tôn giáo làm chia rẽ. Có đức tin hay không chúng tôi cư xử tận tình như nhau, cố gắng sống thực tinh thần đồng đội, huynh đệ bằng tình yêu của Chúa Giê Su cho đến khi được có cơ hội trình bày về Ngài.
Ngay trong giải vô địch lần thứ 52 này, các cầu thủ Eagles được dịp làm chứng cho Chúa Kitô GiêSu một cách sống động khi thể hiện lòng tin, niềm hy vọng của mình, thể hiện đời sống cầu nguyện và cung cách sống hết lòng với nhau của các thành viên. Đã có hàng triệu người biết đến các lời chứng, đời chứng, và niềm vui sống theo sự hướng dẫn của Lời Chúa với sức mạnh của Thần Khí từ những thành viên của đội vô địch Super Bowl 2018. Ngay cả một cầu thủ của đội New England Patriots, anh Matthew Slater, cựu sinh viên của đại học nổi tiếng UCLA, cũng đã mục kích và suy xét về đối thủ của mình:
Tôi thực sự biết ơn Carson về sự gắn bó với Tin Mừng, cách anh thể hiện hình ảnh của Chúa Kitô từ ngày nọ đến ngày kia. Không chỉ có mình Anh mà cả Nick cũng làm như vậy. Rồi Chris Maragos, Người anh Burton, có thật nhiều các anh em ở bên đó họ đứng vững ở điều mình tin tưởng, họ thể hiện Tin Mừng trong một cung cách quá lớn lao, mạnh mẽ.
Chung cuộc, cả họ và tôi biết rằng, điều thực sự đáng kể là sự trường tồn vĩnh cữu vượt ngoài các trận đấu bóng chày. Họ sẽ là Anh Em trong Chúa với tôi trong thời gian lâu dài rồi sẽ đến. Tuy nhiên, vào Chúa Nhật chung kết giải sắp đến, đương nhiên chúng tôi sẽ cạnh tranh nhau.
Vào năm ngoái, chính anh, cầu thủ Slater đội Patriot, cũng có dịp làm chứng cho Chúa khi đội của anh đoạt giải vô địch Siêu Cúp 2017. Anh đã có cơ hội nói về Chúa với các ký giả truyền thông. Anh tâm sự:
Cách tôi nhìn nhận bóng chày như một cơ hội bao la không chỉ để chơi thi đấu môn thể thao yêu thích và nuôi sống gia đình. Nó cho tôi một nền tảng cuả niềm tin vào những điều quan trọng nhất và để đi ra tiếp cận mọi người, liên lạc với họ, xây dựng tình thân, và cố gắng trình bày cho họ về tình yêu của Chúa Kito. Tôi luôn nhìn bóng chày như là một ơn, nó là phương tiện Chúa cho tôi để đến được với mọi người.
Còn tôi và bạn thì sao, có lẽ chúng mình sẽ cùng có một cảm nhận và lóe ra chút hy vọng rằng
Nước Mỹ có những người con dân với tinh thần đức tin thật là sống động vì Lời Chúa đã ăn sâu vào đến xương tủy của họ. Hy vọng rằng Nước Mỹ dù sa đọa nhưng sẽ vươn lên trong ánh sáng Tin Mừng cứu rỗi, trong sự lãnh đạo thế giới hướng tới Chân Thiện Mỹ. Hy vọng vẫn còn.
Còn có nhiều những câu chuyện độc đáo tương tự mà Chúa ưu ái cho Hoa Kỳ, những câu chuyện làm cho ta thêm hy vọng ở tương lai của quốc gia cưu mang người Việt tỵ nạn, quê hương thứ hai của Người Việt Tự Do. Hẹn sẽ trò chuyện, tương trình cùng bạn hữu trong các dịp khác.
Tôi xin kết thúc ở đây với câu nói trứ danh của đội trưởng Wentz:
“Đối với tôi, Đức Tin là điều hệ trọng số một trong đời tôi. Nếu không có Chúa Giê Su ở trong sự việc, thì tôi không muốn là một thành phần của nó”
Đừng nghĩ rằng các linh mục thích “đội lốt tôn giáo để làm chính trị”, hay là “ăn tiền hải ngoại” để kích động dân làm loạn. Đẻ ra các luận điệu ấy là những kẻ đê tiện, còn nếu tin vào các luận điệu ấy, thì bạn không chỉ đê tiện mà còn ngu xuẩn; bạn không hiểu gì về tôn giáo và rõ ràng là cũng không có ý định tìm hiểu. Chỉ xin bạn nhớ điều này: Sức mạnh bạo lực của một chính quyền không thể ngăn chặn cái ác, nhưng tôn giáo thì có thể. Chính vì thế, một chính quyền khôn ngoan phải biết khuyến khích tôn giáo hoặc đơn giản là để yên cho tôn giáo chăm sóc đời sống tâm linh và đạo đức của dân chúng. Ngược lại, một nhà nước đàn áp tôn giáo, chia rẽ nhân dân, thì chắc chắn nó sẽ sụp đổ và đội ngũ lãnh đạo của nó phải trả nghiệp rất thảm khốc…
*********
Tôi không phải người Công giáo. Tôi cũng không phải Phật tử. Tóm lại, tôi không có đức tin tôn giáo nào, và tôi biết điều đó chẳng hay ho gì – con người luôn cần có một cõi nào đó trong tinh thần để hướng họ về cái thiện và ngăn họ làm điều xấu. Không có đức tin thật ra cũng là một sự bất hạnh, nhất là ở hoàn cảnh Việt Nam thời loạn như bây giờ.
Nhưng cũng là vì hoàn cảnh Việt Nam, mà việc thực hành một tôn giáo nào đó trở thành… phức tạp. Chùa nào lớn cũng có chi bộ, có an ninh “hướng dẫn” sinh hoạt. Nhà thờ nào lớn cũng vậy thôi: An ninh chìm nổi lảng vảng tối ngày, camera, thiết bị nghe trộm giăng khắp nơi.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến sự hoạt động tích cực của tuyên giáo. Cho đến năm 2003, chính quyền vẫn nhất quán xem tôn giáo như kẻ thù; các sách giáo khoa dạy trong nhà trường đều gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Từ năm 2003, với Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3, đảng Cộng sản mới dịu giọng hơn một chút, bớt hằn thù một chút, chỉ nói “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài”. Ngay cả câu ấy vẫn hàm ý “tôn giáo là vấn đề đấy nhé, mà đã là vấn đề thì trước sau cũng phải xử lý. Chẳng qua là bọn tao buộc phải chấp nhận chúng mày thôi”.
Chế độ cai trị của cộng sản luôn có đóng góp to lớn của đội ngũ tuyên truyền viên, dư luận viên. Trong hàng chục năm qua, đội ngũ này đã lập thành tích đáng kể trong việc phá hoại về căn bản uy tín của tôn giáo và cách ly, cô lập các cộng đồng tôn giáo với xã hội, nhất là các “đạo của Tây”. Bộ máy tuyên truyền luôn tác động, nhào nặn để dân thường nghĩ về Công giáo, Tin Lành như những tôn giáo vọng ngoại, mất gốc, thời xưa là theo chân thực dân đế quốc bán nước, thời nay là cực đoan, ôm chân Vatican, gây rối…
Cho đến bây giờ, bên lương vẫn nhìn vào bên đạo với ánh mắt e dè, kỳ thị, cảnh giác, hoặc đầy ác cảm.
Cuối năm vừa qua, khi chúng tôi vào Kỳ Anh (Hà Tĩnh) để ghi hình một phóng sự về thảm họa Formosa, phỏng vấn bà con xóm đạo thì không sao nhưng hễ hỏi “nhầm” một người dân ở xóm lương thì ngay lập tức sẽ nhận lại những câu hỏi đầy cảnh giác: “Làm gì đấy?”, “Phóng viên báo nào đấy?”, “Thẻ nhà báo đâu?”.
Chúng tôi hiểu ngay là họ đã được chính quyền địa phương ở đây “giáo dục”, “nắm tư tưởng”, quán triệt” kỹ lưỡng từ trước rồi. Hẳn là vẫn luận điệu: Hiện nay thế lực thù địch đang lợi dụng sự cố môi trường ở miền Trung để kích động gây rối, lật đổ chế độ, yêu cầu bà con nâng cao cảnh giác, thấy người lạ phải chủ động điều tra và/hoặc báo cáo ngay…
Đảng Cộng sản vẫn luôn như thế. Cho dù họ cũng phải ăn cá như ai, họ cũng phải hít thở không khí và du lịch biển như ai, chưa nói là ngân sách nhà nước (của họ) còn trông chờ vào kinh tế biển, nhưng họ vẫn không tiếc tiền cho công tác chống phá tôn giáo và tuyên truyền, định hướng dư luận, để dư luận phải nghĩ rằng thảm họa biển miền Trung chỉ là một “sự cố môi trường” mà thôi, và những người đi đấu tranh đuổi Formosa thì chỉ là một bộ phận “dân Công giáo” bất mãn, gây rối.
Bôi nhọ tôn giáo, chia rẽ lòng người, phá hoại xã hội dân sự là nghề của đảng rồi.
Tôi cũng đã từng giữ một cái nhìn không mấy thiện cảm với Công giáo và Tin Lành, như hàng triệu người dân khác bị tuyên truyền. Bên cạnh đó, tôi cũng gặp phải một vài người có đạo mà khá bất dung, khiến tôi đã e ngại càng e ngại hơn.
Nhưng muốn bớt sợ ai đó, ta chỉ có một cách là phải hiểu họ hơn. Sự thấu hiểu sẽ mở đường cho cảm thông.
Sau vài năm, tôi cũng không còn cảm giác e dè, sợ sệt khi tiếp xúc với bà con Công giáo, Tin Lành nói riêng và những người có đức tin nói chung nữa.
Và tôi cũng đã được gặp những người mà sau đó, tôi rất yêu mến họ. Như linh mục Nguyễn Đình Thục.
************
CHA THỤC
Mùa đông năm 2016, khi truyền thông vẫn dồn dập như bão táp với từng sự kiện trôi qua mỗi ngày, và vụ Formosa tưởng như đã chìm xuồng, cha Thục lại một mình lặn lội bên Đài Loan, tìm hiểu về Formosa và vận động giới chức Đài lưu tâm đến thảm họa biển Việt Nam, trong đó Formosa là thủ phạm chính.
Có lần cha gửi cho tôi hình cha chụp một tấm danh thiếp của một quan chức Đài Loan nào đó; cha hỏi tôi chức vụ của ông này là gì, để cha tìm gặp ông ta.
Đó là một nhân vật ở Bộ Ngoại giao Đài Loan. Và cha lúc đó chỉ có một mình ở Đài Bắc, không ai giúp đỡ phiên dịch, mà lại đang cần gấp, nên mới gọi về hỏi tôi.
Tôi thấy muốn khóc: “Trời ơi, xã hội gì mà loạn lạc đến một ông cha xứ cũng phải đi tìm đường cứu dân thế này?”.
Lúc ấy, tự nhiên tôi nhớ đến bác Trần Văn Huỳnh, cha của anh Trần Huỳnh Duy Thức, đi vận động quốc tế cho con trai. Bác mặc áo khoác đen, đi lù rù trong trời tuyết. Tôi không bao giờ quên hình ảnh ông già 77 tuổi loay hoay với chiếc valy, đứng lọt thỏm giữa sân bay rộng mênh mông, sau khi chia tay mọi người ở Mỹ để một mình qua Úc. Trên phi trường nườm nượp người qua lại, trông bác đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé thêm, và cô đơn.
Tôi cũng nhớ đến một nhà sư vừa chạy thoát khỏi vụ Bát Nhã. Tôi nhớ cảnh ông ngồi đệm đàn guitar bài “Đưa em tìm động hoa vàng” cho một nhóm thanh niên hát, trong đó có tôi. Một vị hòa thượng đệm đàn cho thanh niên hát tình ca gần suốt đêm, hết sức giản dị và đời thường, dù chính ông chỉ vừa thoát khỏi bàn tay đàn áp của chính quyền cách đó chưa lâu. Với tôi, hình ảnh ấy quá đẹp và thánh thiện, đủ xóa sạch mọi nghi kỵ của tôi về Phật giáo “Làng Mai”, “Bát Nhã”…
Tôi cũng không bao giờ quên hình ảnh cha Thục, cha Lai, cha Nam, cha Thanh, và nhiều linh mục khác, trong những cuộc trò chuyện, luôn bồn chồn lo nghĩ về thảm họa môi trường, về cuộc sống, sinh kế và cả tinh thần của hàng trăm nghìn người dân “hậu Formosa”.
Tôi như hình dung ra và sẽ không thể quên hình ảnh cha Thục, cha Hùng lặn lội trên xứ người giữa mùa đông giá rét, tìm đủ mọi cách để cảnh báo giới chức Đài Loan về thảm họa mà Formosa đang gây ra ở Việt Nam.
Cũng như hôm nay, là hình ảnh cha Thục mặc áo chức màu đen, dẫn đầu đoàn người tuần hành từ Nghệ An ra Hà Tĩnh. Vẫn là gương mặt hiền khô ấy, cái nhìn đầy ưu tư ấy. Nếu ở một thể chế khác, một xã hội khác, cha đã có thể chỉ lo việc đạo, chăm lo tinh thần cho con dân xứ mình, chứ đâu phải nặng lòng với những vấn đề môi trường, thực phẩm, sinh kế của dân… như thế này.
Đừng nghĩ rằng các linh mục thích “đội lốt tôn giáo để làm chính trị”, hay là “ăn tiền hải ngoại” để kích động dân làm loạn. Đẻ ra các luận điệu ấy là những kẻ đê tiện, còn nếu tin vào các luận điệu ấy, thì bạn không chỉ đê tiện mà còn ngu xuẩn; bạn không hiểu gì về tôn giáo và rõ ràng là cũng không có ý định tìm hiểu.
Chỉ xin bạn nhớ điều này: Sức mạnh bạo lực của một chính quyền không thể ngăn chặn cái ác, nhưng tôn giáo thì có thể. Chính vì thế, một chính quyền khôn ngoan phải biết khuyến khích tôn giáo hoặc đơn giản là để yên cho tôn giáo chăm sóc đời sống tâm linh và đạo đức của dân chúng.
Ngược lại, một nhà nước đàn áp tôn giáo, chia rẽ nhân dân, thì chắc chắn nó sẽ sụp đổ và đội ngũ lãnh đạo của nó phải trả nghiệp rất thảm khốc.
Quốc Hội Hoa Kỳ điều trần về Tù nhân lương tâm Việt Nam.
VOA: Uỷ ban Nhân Quyền Tom Lantos của Quốc Hội Hoa Kỳ hôm 15/2/2018 đã có buổi điều trần về chương trình kết nghĩa với tù nhân lương tâm, trong đó đề cập đến 169 tù nhân lương tâm Việt Nam.
Dân Biểu Randy Hultgren, đồng Chủ Tịch Uỷ ban Nhân quyền Tom Lantos, đã thay mặt Dân biểu Christopher Smith, đọc bức thư của Linh mục Nguyễn Văn Lý gửi cho Dân biểu Smith:
“Hi vọng Quí vị can thiệp mạnh hơn để tất cả 169 Bạn Tù nhân Lương tâm nam nữ được trả tự do. Tôi đại diện cho các tù nhân lương tâm, những người tranh đấu cho nhân quyền, tự do và dân chủ đã bị chính quyền Việt Nam giam cầm. Chỉ riêng từ năm 2015 đến tháng 1/2018 có đến 41 nhà tranh đấu bị giam cầm.”
Dân Biểu Alan Lowenthal nêu trường hợp của tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đài:
Chính quyền Việt Nam từ chối luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Văn Đài. Vào tháng 1/2018, lần đầu tiên vợ của ông được gặp mặt ông sau 3 năm bị giam cầm. Dân biểu Alan Lowenthal
“Một tù nhân lương tâm hiện nay là luật sư nhân quyền – blogger Nguyễn Văn Đài. Chính quyền Việt Nam từ chối luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Văn Đài. Vào tháng 1/2018, lần đầu tiên vợ của ông được gặp mặt ông sau 3 năm bị giam cầm. Bà cho biết sức khỏe của chồng bà dường như không được tốt. Ông nói với vợ rằng trong suốt thời gian từ khi bị bắt vào tháng 12/2015 cho đến khi gặp vợ, ông không được ra khỏi nơi buồng giam.”
Luật sư Nhân quyền Nguyễn Văn Đài
Ngoài ra, dân Biểu Alan Lowenthal đã đọc bức thư của Hoà thượng Thích Quảng Độ và của cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Tiến Trung, và nhắc đến trường hợp bị giam cầm của mục sư Nguyễn Công Chính.
Nữ Dân Biểu Sheila Jackson-Lee nêu lên quyết tâm tranh đấu và những hy sinh của cựu tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần, người mà bà đã kết nghĩa.
Các vị dân biểu tham gia chương trình kết nghĩa thường xuyên lên tiếng với chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam nhằm bảo đảm tù nhân lương tâm được kết nghĩa không bị ngược đãi khi còn ở trong nhà tù, và đòi tự do cho họ.
Ba nhà hoạt động Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc
Tính đến nay, 16 tù nhân lương tâm Việt Nam đã được các dân biểu Hạ Viên và một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ kết nghĩa. Trong số tù nhân lương tâm Việt Nam được kết nghĩa, 13 người đã được tự do và 4 người đã đến Hoa Kỳ định cư.
Dịp này tổ chức phi chính phủ BPSOS cũng phổ biến danh sách các tù nhân lương tâm Việt Nam để chuẩn bị cuộc vận động năm 2018 cho chương trình “Tự do cho Tù nhân Lương tâm Việt Nam” mà tổ chức này đã khởi xướng từ năm 2013.
Mục đích của chương trình này là đòi tự do cho tù nhân lương tâm, bảo vệ họ và hỗ trợ cho gia đình của họ trong thời gian họ ở tù, giúp họ phục hồi khả năng sinh hoạt và hoạt động sau khi ra tù, và chấm dứt tình trạng tù nhân lương tâm nói chung ở Việt Nam. https://www.voatiengviet.com/a/quoc-hoi-hoa-ky…/4257636.html
Ngày giáp Tết Mậu Tuất – 2018, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có buổi họp cấp cao đọc một bài dài chúc Tết toàn đảng toàn quân và toàn dân.
Vẫn là một kiểu tuyên truyền, nói lấy được, tự khen đảng và Nhà nước, kiểu « thành tích lịch sử », « lòng dân phấn chấn », lặp lại những khái niệm mơ hồ không ai hiểu rõ như « hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », một khái niệm giáo điều mốc meo không tồn tại ở đâu trên thế giới này.
Ông Tổng còn nói đến thế trận « quốc phòng toàn dân », « an ninh nhân dân » và cao hứng nhấn mạnh « quốc phòng toàn dân theo tinh thần ‘giữ nước từ xa’ và ‘giữ nước từ khi nước chưa nguy!’ ».
Ông Tổng Trọng nói có thật lòng không?
Vì sự thật không ai có tinh thần cảnh giác cao độ với Trung quốc bành trướng xâm lược Trung Cộng, sớm báo động từ xa bằng cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm, cô Bùi Minh Hằng, cô Đoan Trang… và hằng trăm nam nữ công dân khác mang tinh thần « quốc phòng toàn dân » đã lên tiếng ngay sau cuộc mật đàm bán nước Thành Đô mà các tổng bí thư tiền nhiệm của ông Trọng là Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã thực hiện với Giang Trạch Dân và Lý Bằng.
Theo ông tổng Trọng, hiện nay nguy cơ mất nước của nước ta vẫn còn ở xa ư?
Và cũng theo dòng suy nghĩ của ông, hiện nay nền độc lập của ta chưa lâm nguy ư!
Xin lỗi ông giáo sư về Xây dựng đảng, ông lầm to rồi đó!
Chả trách cách đây 7 năm, khi Trung Cộng cho tàu khoan dầu lớn nhập sâu vào vùng biển nước ta, ông đã nhân danh chủ tịch Quốc hội trấn an quốc hội và toàn dân rằng « tình hình biển Đông không có gì mới ».
Với dòng suy nghĩ như thế, tội của ông đối với nhân dân, với quân đội, với Nhà nước, với cái đảng của ông là to lắm, nặng lắm đấy.
Mong ông Trọng giở bản đồ đất nước để xem người Trung Quốc đã hiện diện hàng vạn, hàng chục vạn trên đất nước ta, Từ Bắc chí Nam, thuộc đủ mọi ngành: trồng rừng, khai thác đủ thứ mỏ quặng, đặc biệt là bôxit, nhận thầu các công trình thủy điện, nhiệt điện, phân bón, hóa chất, giao thông vận tải, hàng hóa Tàu – hàng giả, hàng lậu, hàng độc hại… tràn qua biên giới gần như được mở toang, lan ra khắp cả nước, với những thị trấn Tàu, cửa hàng Tàu, quảng cáo Tàu tràn ngập nước ta.
Mới đây, ông còn ký Tuyên bố chung với Tập Cận Bình về 2 bên hợp tác giúp nhau đào tạo cán bộ cấp cao ngành quốc phòng và đối ngọai, các tỉnh biên giới Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh hợp tác về mọi mặt với khu tự trị Choang / tỉnh Quảng Tây, nhất là về đào tạo cán bộ, một kiểu sáp nhập vào nhau như trong một nước thống nhất. Ông Trọng đã kéo nguy cơ mất nước đến gần hơn rất nhiều.
Ông kêu gọi phải giữ nước từ xa, nhưng chính ông lại mở cửa đón mời, rước Trung quốc vào sâu khắp nơi, về mọi mặt, tràn ngập trong nước này.
Vậy mà ông cho rằng đất nước chưa lâm nguy ư? Để chờ đến bao giờ mới là nguy cơ mất nước, mất độc lập, thưa ngài Giáo sư chính trị ?
Rất mong trong những ngày Tết Mậu Tuất này, bà con ta hãy đem bài nói chúc Tết của ông tổng bí thư được đăng trên mọi tờ báo lề phải, bàn tán về lời chúc về « tinh thần giữ nước từ xa » và « giữ nước từ khi nước chưa nguy » để đánh giá xem ông thật lòng ra sao, ông chân thành và sáng suốt ra sao.
Nếu như ông thật lòng với chính mình thì ông hãy cùng Bộ Chính Trị giải oan cho hơn 100 chiến sĩ dân chủ đang nằm trong tù, vì chính họ là những chiến sĩ sáng suốt dũng cảm thật sự có « tinh thần giữ nước từ xa, và giữ nước từ khi nước chưa lâm nguy », theo đúng lời chúc Tết của ông!
Nhân Tết Mậu Tuất, thả ngay hôm nay mọi chiến sĩ dân chủ, đó là nét liêm sĩ và lương thiện nhân văn cả xã hội đang trông.
Nguyễn Ngọc Già (Danlambao) – Bài viết dưới đây, được viết vào ngày 08/2/2010, trên Dân Luận. Lúc bấy giờ, khi nhà báo Đoan Trang vừa chia tay với Vietnamnet. Cô tâm sự: Ngoài công việc viết báo, cô không biết làm nghề gì khác. Đoan Trang ngày đó cũng bộc bạch rằng: cô không thích và không có khả năng làm chính trị. Tám năm! Nhphanh quá Đoan Trang nhỉ! Giờ đây, em “buộc phải” làm chính trị – “Chính Trị Bình Dân”. Anh Nguyễn Ngọc Già xin Dân Làm Báo dành một chỗ cho bài viết “xưa nhưng không cũ”, khi hay tin em đoạt giải Homo Homini do tổ chức People In Need trao tặng. Chúc sức khỏe và bình an đến Đoan Trang – Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.
*
Em đã khóc khi phải chia tay với Vietnamnet. Em không thích và không có khả năng làm chính trị, tôi cũng biết và hoàn toàn tin điều này, mặc dù có một số người họ phải tốn khá nhiều thời gian để tin điều này, bởi niềm tin vào điều tốt đẹp có vẻ xa lạ quá đối với họ.
Em hãy khóc cho những điều có thật mà lại lạc lõng trong xã hội ngày nay.
Của hiếm bao giờ cũng là của quý. Hãy tin tôi, Đoan Trang ạ!
Hãy cho phép tôi được gọi em là EM nhé, Đoan Trang!
Mặc dù em và tôi làm việc ở hai lĩnh vực công việc khác nhau, nhưng tôi cũng đã từng phải chia tay với một nơi mà tôi đã sống, làm việc bằng những gì trong sáng và nhiệt huyết nhất, do đó, tôi tin chắc những giọt nước mắt của em nóng hổi, trong vắt, đau đáu về một nỗi đau – nỗi đau không hề mơ hồ chút nào.
Những bài báo em viết mang hơi thở của thanh niên Việt Nam thời đại, những bài báo mang nặng suy tư, thao thức về thế sự, tôi cảm nhận được tâm hồn thanh khiết của em đã dành cho những bài báo chính luận – mà có thể chúng là một trong những nguyên cớ khiến em buộc phải chia tay cái nghề mà em bảo rằng em yêu nó và nếu rời nó ra em chẳng biết làm nghề gì! Sự thật đó quá đau!
Tôi biết em rất đau như tôi đã từng đau.
Trong tác phẩm Anna Karenina, văn hào Nga Leon Tolstoy đã viết: “Những kẻ có hạnh phúc thường giống nhau, nhưng đau khổ thì mỗi người mỗi khác”, tôi đã từng thấy điều này đúng, nhưng bây giờ có lẽ tôi phải suy nghĩ lại.
Không biết nữa, tôi chỉ nhận rõ một điều: tôi đủ hiểu, đồng cảm và đau với nỗi đau của em. Em hãy khóc đi! Khóc thật nhiều vì em là con gái. Sau khi khóc xong, em hãy lau khô nước mắt và hãy cười thật tươi!
Người đời thường ví von một nhạc phẩm, một kịch bản, một bộ phim, môt bài báo v.v… là đứa con tinh thần mà một tác giả nào đó, đã sinh ra nó. Vậy thì cớ gì em không cười thật tươi vui, khi em đã sinh ra những đứa bé thật kháu khỉnh, khỏe mạnh, thông minh và bao người ngưỡng mộ và xuýt xoa: “Ôi trời! nhìn kìa, những đứa bé trông như những thiên thần!” mà em đã mang lại cho người đời, cho bạn đọc.
Em hãy cười và sung sướng vì những đứa con của em. Em hãy kể với mọi người bằng ánh mắt lấp lánh tự hào về những đứa bé đáng yêu đó. Em hãy vui và hãy háo hức, cũng như em phải có nhiệm vụ nuôi dưỡng những đứa trẻ đó ngày càng lớn lên thành những thanh niên, thiếu nữ với tâm hồn trong sáng. Em hãy đào luyện những đứa trẻ của em thành những anh hùng, anh thư và đưa chúng vào đời, Đoan Trang ạ!
Người ta có thể buộc em ra khỏi nơi em yêu quý nhưng người ta không thể buộc em không sản sinh ra những đứa con tinh thần trong sáng và đầy ắp yêu thương mà tôi tin em vẫn luôn hứng khởi như “bài báo khó nhất năm 2009”.
Em buồn vì cái bị mất là cái mà em yêu quý và em nên vui vì cái em được là cái mà mọi người yêu quý em. Em được cả hai. Em là người hạnh phúc hơn nhiều người rồi. Vui lên, Đoan Trang nhé!
Tôi xin mượn vài lời trong nhạc phẩm “Người con gái Việt Nam da vàng” mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết, để tặng em:
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nên yêu người yếu kém
Người con gái ngồi mơ thanh bình
Yêu quê hương như đã yêu mình
Hãy cho tôi gọi em là – Đoan Trang – Người Con Gái Việt Nam Da Vàng -bình dị như tâm hồn và tấm lòng của em dành cho những bài báo mà em đã viết từ những sự kiện khách quan bằng lối phân tích sâu sắc, thông minh hòa lẫn cảm xúc nhưng tỉnh táo của một nhà báo có nghề (xin lỗi em tôi không thích dùng chữ “Tâm” và “Tầm” vì có lẽ em không cần nhận những điều cao sang bởi vốn dĩ em chỉ là cô nhà báo bình dị).
Mong gặp lại em – Người Con Gái Việt Nam Da Vàng – của tôi – qua những bài viết mới.
Dân Oan Các Tỉnh đến chúc tết từng nhà riêng của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH và 4 cơ quan chính của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH!
12g 30″ mùng 1 tết Mậu Tuất(16-2-2018).Dân Oan Các Tỉnh Đồng Nai, Kiên Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Bình Định, Tây Ninh, Tuyên Quang, Quảng Ninh. Bị Quan tham nhũng chính quyền địa phương cướp “Sạch Sành Sanh” đất đai và đập phá TANH BÀNH nhà cửa. Không đất, không nhà đang chúc tết từng nhà riêng của TỨ TRỤ TRIỀU ĐÌNH:
1/ phó thủ tướng – Trương Hòa Bình. 2/ thủ tướng CP Nguyễn Xuân Phúc . số 11 phố Chùa Một Cột, Ba Đình, Hà Nội.
3/ tổng bí thư ĐCSVN – Nguyễn Phú Trọng.
Và đến 4 Trụ sở chính: Phủ Chủ tịch Nước, Trụ sở TWĐ-CSVN, Phủ Thů Tướng CP và Toà nhà Quốc Hội.
Bước vào Mùa Chay, nghe ca khúc “Thân phận người” của nhạc sĩ Tuấn Kim như một tâm sự để suy niệm. Giai điệu và lời ca thiết tha ngân nga những thao thức, nhắc nhở mỗi người về thân phận của mình, về cõi nhân sinh: “Phù du là phận người, trăm năm như chớp mắt thôi. Công danh như nước trôi qua cầu, đời con trôi về đâu?”
Phù du là phận người. Mọi sự chỉ là phù vân. Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân.” Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.
Phù du, phù vân diễn tả thân phận bụi tro: “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi.” Con người, dù trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù quyền thế hay dân thường, dù tài giỏi hay bình thường… thì một mai cũng lìa khỏi thế gian này trở về cát bụi. Đó là định luật muôn thuở!
Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người.
Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro.” Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.
Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì?
Để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc.
Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!
Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.
Đó là lời mời gọi mà Chúa gởi đến từng người qua nghi thức xức tro rất đơn sơ nhưng giàu ý nghĩa và thật xúc động.
Thứ Tư Lễ Tro mở cửa vào Mùa Chay Thánh 40 ngày. Đây là thời gian giúp chúng ta ý thức về sự mong manh giới hạn của đời người, sống lời mời gọi sám hối và trở về với Tin mừng. 40 ngày Chay Thánh nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết, và mừng ngày Phục sinh của Người.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.
Tiên tri Gioel đã kêu gọi :“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (Ge 2,13). “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo… Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta!” Đó là ý nghĩa cơ bản và sâu xa nhất của sự hoán cải. Cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ thói quen xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái tập thế quân bình giữa hồn và xác.
Thứ Tư Lễ Tro khởi đầu Mùa Chay Thánh, mỗi người cố gắng thực hành những việc đạo đức như Giáo Hội mời gọi.
– Hòa giải với Chúa và với nhau.
Do tội lỗi, con người bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống, và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Thiên Chúa mời gọi con người trở về với Ngài, giao hòa trong tình con thảo và sống trong niềm vui ân sủng.
Sự giao hoà phải là một lời cầu nguyên khiêm tốn : “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa.” Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Theo gương Thánh Giuse sống thinh lặng nội tâm và đón nhận Bí Tích Hòa Giải. Cần rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình. Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay. Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội. Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập viết đầy từ đầu chí cuối. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.
Hòa giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết : “Nếu người dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của người.” Bởi vậy, xin ơn giải hòa với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xóa đi những xích mích, bất hòa hờn giận với người khác.
– Hy sinh hãm mình.
Truyền thống Giáo Hội từ xa xưa giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy, tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ suất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh“. (Tu luật Biển Đức).
Mùa Chay là một thời gian thuận tiện để rèn luyện tâm hồn. Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta chương trình ba điểm để rèn luyện trong Mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.
Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Cầu nguyện càng sâu xa chúng ta càng thân thiết với Chúa, ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Làm việc bác ái, tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại.
Mùa Chay là những ngày thánh: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con trong Mùa Chay Thánh này, biết ý thức thân phận của mình, thực thi việc phải làm là được hòa giải với Thiên Chúa, với chính mình và với anh em.
Xin Thánh Giuse hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình này, để chúng con có thể hoán cải bản thân và nghiệm thấy ân sủng của Thiên Chúa luôn tuôn đổ trên mỗi người chúng con, giúp chúng con được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Amen!
Người dân Huế bị thảm sát trong Tết Mậu Thân. Ảnh: internet
Đảng và Nhà nước Cộng sản Việt Nam đã tự tay bóp cò súng vào đầu khi mở tiệc liên hoan mừng “chiến thắng Mậu Thân 50 năm” mà mồm vẫn bô bô kêu gọi người Việt bỏ nước ra đi từ sau 30/04/1975 hãy “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai vì mục tiêu phát triển chung của cả dân tộc”.
Đây là một bằng chứng nữa chứng minh người Cộng sản luôn luôn nói một đảng làm một nẻo và lươn lẹo có truyền thống.
Họ cũng đã quên lời nói của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 2005 vào dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc chiến tranh: “Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu”. (Phỏng vấn của báo Quốc tế số ra ngày 31/3/2005)
Vậy thì khi có những cái đầu Lãnh đạo “sỏi đá nhiều hơn óc thịt” muốn lấy máu xương Mậu Thân 1968 của đồng bào miền Nam để sắp cỗ mừng Xuân Mậu Tuất 2018 thì họ có mục đích gì ngoài việc “lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu”?
MIỆNG LƯỠI HỔ MANG
Là người Việt Nam, ai cũng nhớ về cội nguồn dân tộc, ông bà, tổ tiên, dòng họ, chòm xóm và bạn bè, thầy cô mỗi khi Tết về. Nhưng ngoài những người còn sống, truyền thống dân tộc còn dạy chúng ta không quên người chết vì trong số họ, có cả những người đã hy sinh cho ta được sống sau 30 năm chiến tranh huynh đệ tương tàn do đảng Cộng sản Việt Nam chủ động và nuôi dưỡng.
Trong số những nạn nhân của cuộc chiến, kinh hoàng, bi thảm và tàn ác nhất là những người bị quân Cộng sản giết không nương tay khi họ tấn công vào cố đô Huế Tết Mậu Thân năm 1968.
Số người này được ước tính từ 5,000 đến 6,000 người chết và mất tích trong 25 ngày đêm thành phố Huế nằm trong tay lực lượng Cộng sản. Họ bị quân đội miền Bắc và tay sai nằm vùng coi là “kẻ thù của cách mạng” và “có nợ máu với nhân dân” nên phải bị tiêu diệt gồm Quân nhân, Cảnh sát, Công chức và đảng viên các đảng chính trị. Số còn lại là các Nhà tu hành, viên chức làng xã, một số Bác sỹ Việt Nam và nước ngoài và dân thường chưa hề ám hại ai.
Tất cả những người này đã bị quân Cộng sản thảm sát bằng nhiều hình thức, kể cả chôn sống hay đập đầu cho chết vì muốn tiết kiệm đạn để chiến đấu.
Phiá Cộng sản miền Bắc chối biến không nhúng tay vào máu người cố Đô Huế mà đổ tội cho máy bay, đại bác và Quân đội Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ.
Bằng chứng trong cuốn phim tài liệu dài 12 tập “Mậu Thân 1968”, được nhà nước đầu tư và đã chiếu trên đài Truyền hình Việt Nam từ ngày 25 tháng 01 năm 2013, Nhà Đạo diễn (Bà) Lê Phong Lan (chủ Hãng phim Bản sắc Việt) đã mồm loa mép giải rằng: “Cái gọi là “cuộc thảm sát đẫm máu” chỉ là đòn tâm lý chiến mà Mỹ dựng lên, thực tế Huế đã bị bom Mỹ phá hủy làm nhiều thường dân chết cùng với quân giải phóng và lính Mỹ”.
Nhưng điêu ngoa cách mấy cũng không thoát được lưới Trời lồng lộng.
Đã có hằng hà sa số nhân chứng và tài liệu chứng minh hành động sát nhân của quân Cộng sản ở Huế Mậu Thân và khắp miền Nam trong chiến tranh. Nhưng Lê Phong Lan và những miệng lưỡi hổ mang của người Cộng sản hãy banh tai ra mà nghe “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn”, của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người Huế có học chạy theo Cộng sản, từng bị nhiều người nguyền rủa vai trò của anh ta trong vụ thảm sát Huế Mậu Thân.
Thư này được Tường nhờ Nhà văn trong nước Nguyễn Quang Lập phổ biến ngày 10/02/2018, trong đó có đọan nói về thảm sát Huế: “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng nhìn nhận đã có những sai lầm khi trả lời Burchett trong cuốn phim “Việt nam một thiên lịch sử truyền hình” (Vietnam: A Television History; Tet, 1968; Interview with Hoang Phu Ngoc Tuong) năm 1981.
Tường nói trong “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn”: “Khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968”. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng là thành viên của Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế đi theo Cộng sản từ trước Mậu Thân. Vào năm 1981, khi cuộc phỏng vấn của Burchett diễn ra là thời gian Tường xin vào đảng CSVN mà chưa được nên đã “hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ “để lấy điểm chăng?
Nghi vấn này được Hoàng Hải Vân, một cựu Bộ đội quân Cộng sản người Huế, viết trên Facebook ngày 11/02/2018.
Nguyên văn thế này: “Tôi không dám suy đoán về những gì mà tôi không biết. Tôi chỉ nhớ lại một chi tiết mà bản thân tôi có “dính” một chút xíu vào thời điểm nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “mạo nhận” và “lỡ lời” trên bộ phim nói trên. Hồi ấy tôi vừa ở bộ đội về. Một hôm nhà thơ Phan Duy Nhân (người bị bắn gãy chân và bị bắt trong sự kiện Mậu Thân ở Đà Nẵng, sau này làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ) mang một tờ giấy đến nhờ tôi đánh máy giúp (vì tôi biết đánh máy chữ và đánh ít khi bị lỗi). Đó là bản Xác nhận quá trình tham gia cách mạng của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, do anh Phan Duy Nhân “lôi kéo” và tổ chức. Tôi hỏi anh Nhân, rằng anh Tường là nhà văn nổi tiếng, đã thoát ly tham gia cách mạng rồi thì cần cái bản xác nhận này để làm gì, anh Nhân nói, ông ấy đang xin vào Đảng, cần cái xác nhận này để bổ sung lý lịch. Tôi thắc mắc, ảnh nổi tiếng thế sao giờ vẫn chưa vào Đảng, anh Nhân nói người ta phải xét tới xét lui rất lằng nhằng”.
Trong cuộc phỏng vấn của Thụy Khuê, Đài Phát thanh Quốc tế Pháp (Radio France International) vào dịp kỷ niệm Mậu Thân 30 năm, Tường còn nhắc lại chuyện ông Lê Minh, một trong số các tư lệnh của quân Cộng sản tại chiến trường Huế Mậu Thân đã nhìn nhận “có sai lầm” và yêu cầu “minh oan” cho những nạn nhân.
Tường nói: “Lê Minh (lúc đó đã nghỉ hưu), còn nhắc nhở rằng, điều quan trọng có thể làm, và phải làm bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”.
“Đồng chí” của Tường là Nguyễn Đắc Xuân, người cũng bị nhiều nhân chứng Huế liệt kê vào hàng ngũ sát nhân cũng nhắc lại chuyện Lê Minh với BBC ngày 12/02/2018: “Năm 1988, tôi giúp Thành Ủy Huế làm một quyển sách về Huế Mậu Thân 1968. Khi đó, ông Lê Minh, người chỉ huy hồi 1968 đó đã yêu cầu những người cách mạng bây giờ là phải tổ chức minh oan cho những người đã chết. Rất tiếc, đến giờ này, chưa ai làm việc minh oan này cả”.
GƯƠNG BÀ NGUYỄN THỊ NĂM
Làm gì có 2 chữ “minh oan” trong từ điển sắt máu của người CSVN, như lịch sử đã chứng minh tội ác của đảng cầm quyền thời ông Hồ Chí Minh trong bi kịch Cải cách Ruộng đất 1953-1956?
Tài liệu chính thức ghi: “Tổng số người bị quy trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người; số người bị oan sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71, 66%”.
“Người đầu tiên bị dân chúng địa phương buộc tội chết trong cải cách ruộng đất là bà Cát Hanh Long, tức Nguyễn Thị Năm ở Thái Nguyên; bà bị người dân địa phương quy tội địa chủ gian ác, bị xử bắn mặc dù trong thời kháng chiến đã có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam”. (theo Bách Khoa Toàn thư mở)
Tài liệu của báo Luật sư Việt Nam (LSVN) ngày 18/09/2017 viết về công lao của bà Năm thế này: “Trước khi thành công, bà Năm đã ủng hộ Việt Minh 20.000 đồng tiền Đông Dương (giá trị bằng 700 lượng vàng) không kể vải vóc, lương thực. Tại “Tuần lễ vàng” ở Hải Phòng theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 9/1945, bà Năm cũng đã ủng hộ 100 lạng vàng nữa. Bà được cử làm Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Thái Nguyên ba năm liền. Các ngôi biệt thự của bà ở Hà Nội, Hải Phòng, ở đồn điền Đồng Bẩm đều là nơi qua lại, ăn ở, địa điểm liên lạc của cán bộ Việt Minh cao cấp. Hai con trai bà là Nguyễn Văn Hanh, Nguyễn Văn Cát đều theo Việt Minh đi bộ đội. Nguyễn Hanh từng tháp tùng đoàn đại biểu Chính phủ do các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận…vào Huế nhận ấn kiếm khi vua Bảo Đại thoái vị”.
Trong số những người được bà Năm nuôi ăn, cho chỗ ở và giúp đỡ trong nhiều năm có Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh v.v…
Người bị lên án vô ơn bạc nghĩa nặng nhất trong vụ án bà Nguyễn Thị Năm là Hồ Chí Minh, người cầm quyền khi thi hành Cải cách Ruộng đất. Ông Hồ đã không dám cứu bà Năm vì nhu nhược trước áp lực của cố vấn Trung Hoa muốn đưa bà Năm ra xử làm gương.
Nhà báo Bùi Tín kể: ““Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức”.
Cũng có lời kể lại: “Hồ Chủ tịch đã nói với nhiều đồng chí Trung ương: “Người ta không nên đánh phụ nữ dù bằng một cánh hoa hồng, huống hồ phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất lại nhằm vào một phụ nữ, mà người ấy lại rất có công với cách mạng”.
Chuyện kể là như thế, nhưng thật hư khó chứng minh. Chỉ có điều chắc chắn là ông Hồ, vì sợ mất lòng cố vấn Tầu Lã Quý Ba nên đã “làm ngơ” để cho Bà Nguyễn Thị Năm bị đưa ra pháp trường thi hành án tử hình tối ngày 29/5 năm Quý Tỵ (ngày 9/7/1953) tại Thái Nguyên khi 47 tuổi. (báo Luật sư Việt Nam (LSVN), ngày 18/09/2017)
PHỤC HỒI DANH DỰ CHO AI?
Vẫn theo báo LSVN, cho đến năm 1987, khi đất nước bắt đầu đổi mới theo Nghị quyết Đại hội 6 của Đảng, bà Nguyễn Thị Năm mới được minh oan, sửa lại thành phần giai cấp sau 1/3 thế kỷ bị oan sai.
“Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Tổ chức Trung ương đã đề nghị Tỉnh ủy Bắc Thái (tháng 4/1987) sửa lại thành phần giai cấp cho bà Năm do hai con trai bà đầu đơn, đến tháng 6/1987 UBND tỉnh Bắc Thái đã quyết định ghi rõ: “Bà Nguyễn Thị Năm, tức Cát Hanh Long trước bị quy là “Tư sản địa chủ cường hào gian ác” nay sửa lại thành phần giai cấp cho bà Năm là: “Tư sản địa chủ kháng chiến”.
Đáng lẽ ra, sau khi đã sửa sai như thế thì bà Năm phải được “Nhà nước khen thưởng (truy tặng) như ngàn, vạn người có công với cách mạng theo Nghị định 28/CP ngày 29/4/1995 của Chính phủ, mặc dầu con bà đã nhiều lần gửi đơn xin các cơ quan cứu xét, nhưng vẫn chưa được một cơ quan nào trả lời” , báo LSVN đặt vấn đề.
Thắc mắc là chuyện của dân nhưng quan tâm hay không là chuyện của đảng và nhà nước. Vì vậy “Dù đã nhiều lần lên tiếng yêu cầu từ năm 1995 đến năm 2014 qua những lá thư gửi lên địa phương và trung ương đòi phục hồi danh dự cho mẹ nhưng gia đình hoàn toàn không được hồi âm”, báo LSVN than vãn thay cho gia đình bà Năm.
VU CÁO MÁU TANH
Ngược dòng thời gian, để bào chữa cho việc xử bắn bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm, báo Nhân Dân của đảng CSVN, vào ngày 21/07/1953 đã bịa đặt ra đủ thứ tội ác để buộc tội bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm. Bài viết ký tên tắt C.B. mà sau này có nhiều người suy đóan là “Của Bác” để ám chỉ Tác gỉa chính là ông Hồ Chí Minh.
Những vu oán cáo vạ đê hèn của bài viết nguyên văn như sau:
“Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
– Giết chết 14 nông dân.
– Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
– Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
– Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
– Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
– Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
– Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
– Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
– Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
– Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
– Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
(21-7-1953)
C.B.
Như vậy thì ông Hồ và nhiều Lãnh đạo đảng CSVN, những người đã được bà Cát Hanh Long Nguyễn Thị Năm cưu mang có “ăn cháo đá bát” không?
Nhắc lại chuyện này để chúng ta thấy chuyện phản bội trắng trợn xấu xa này tưởng như chỉ xẩy ra trong hàng ngũ đầu trộm đuôi cướp vô học, ai ngờ cũng ăn sâu bám rễ ở cung đình đảng Cộng sản Việt Nam.
Đáng chú ý hơn là chuyện gia đình bà Năm “hoàn toàn không được hồi âm” đã xẩy ra trong khỏang thời gian từ 1995 cho đến bây giờ (năm 2018), tổng cộng 23 năm qua 4 đời Tổng Bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng.
Những người này, trong chuỗi thời gian cầm quyền, cũng đã ra rả khua môi gõ lưỡi kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc với những người Việt Nam bỏ nước ra đi trong khi họ vẫn tổ chức liên hoan, ăn mừng và “bới đống tro tàn tìm máu đổ” trước mắt các nạn nhân người miền Nam vào mỗi dịp 30 tháng Tư hàng năm.
TỪ TRỌNG ĐẾN PHÚC
Giờ đây, sau 50 năm chưa nguôi uất hận, tang thương và cay đắng của người dân Huế, đảng và nhà nước CSVN lại bỏ ra ba tháng (từ 12/2017 đến 02/2018) với không biết bao nhiều tiền của để tổ chức tiệc tùng và hội thảo để ca tụng chiến thắng Mậu Thân 1968.
Làm như vậy, không những người CSVN đã che giấu đi tội ác Mậu Thân mà còn “tiếp tục làm nó thêm rỉ máu” như nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã cảnh giác năm 2005.
Vậy mà, tại Trụ sở Trung ương Đảng ngày 07/02 (2018), người cầm đấu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng vẫn có thể hớn hở nói với số Việt kiều thân Đảng từ nước ngoài về ăn Tết rằng: “Đảng và Nhà nước luôn trân trọng những đóng góp, tấm lòng hướng về đất nước của bà con kiều bào ta trên toàn thế giới; Đảng và Nhà nước luôn giang rộng cánh tay đón chào người Việt ở nước ngoài về với quê hương cội nguồn”.
Cũng với giọng lưỡi tát nước theo mưa để nịnh Kiều bào, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nói: “Tổ quốc lắng nghe hơi thở của bà con kiều bào, đặc biệt lắng nghe những nguyện vọng, những ý kiến đóng góp quý báu của bà con dành cho đất nước” và “Chính phủ do dân, vì dân, trong đó có bà con Việt kiều”…..kỳ vọng kiều bào ta cùng người dân trong nước đoàn kết một lòng, xây dựng đất nước ngày một phát triển hơn, thực hiện khát vọng “xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Nhưng những lời đầu môi chót lưỡi này có ý nghĩa gì với những nạn nhân của Huế Mậu Thân khi mà vào ngày 30/01/2018, Nhật báo Nhân Dân của đảng vẫn chạy tội với những lời lẽ trong bài viết tráo trở “Sự dối trá và lừa bịp”.
Bài viết mở đầu bằng câu: “50 năm qua, rất nhiều bài báo, công trình nghiên cứu và cả những người trong cuộc đã chứng minh, khẳng định sự việc “thảm sát ở Huế năm 1968” là sản phẩm của sự dối trá, bịp bợm”.
Ai dối trá và bịp bợp thì người Cộng sản nên hỏi thẳng nằm vủng Hoàng Phủ Ngọc Tường để biết ăn nói ngạo ngược như thế thì hòa hợp-hòa giải dân tộc với ai?