Hai ông Tiến Sĩ Xuân: Một nấm mồ lạnh và một vòng hoa đỏ – Đoàn Xuân Thu

LƯƠNG VĂN CAN K 76.- Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu –

25 tháng 8, 2025

Ông Nguyễn Duy Xuân (trái) (Hình: vietnamvanhien.org) và ông Võ Tòng Xuân (Hình: VnExpress).

Người Việt mình hay tin chuyện trùng tên. Nào là “trùng tên dễ trùng số phận,” nào là “đồng âm ắt đồng mệnh.” Nhưng coi bộ… cũng chưa chắc đâu.

Thí dụ, hai ông Xuân – một ông Nguyễn Duy Xuân, một ông Võ Tòng Xuân. Cùng học cao hiểu rộng, cùng từng đứng bục giảng Viện Đại Học Cần Thơ, cùng đeo cái mác “tiến sĩ – giáo sư” sáng loáng, Nhưng trời đất xoay vần, một ông thì chết tức tưởi trong trại cải tạo, lạnh lẽo dưới mưa phùn miền Bắc. Còn một ông lúc sinh thời sống khỏe re, áo mão cân đai, nụ cười đỏ chói dưới lá cờ sao vàng.

“Đốc tờ Lúa và người trí thức chết trong tù”

Thế mới thấy: tài chưa đủ, phải thêm “hên” và… biết nịnh.

Từ tiếng cười đến tiếng khóc

Ngày trước 1975, ai ở miền Nam hẳn còn nhớ chương trình “Gia đình Bác Tám” trên Đài phát thanh Sài Gòn. Một thứ kịch truyền thanh bình dân, có tiếng gà gáy, chó sủa, ếch nhái kêu, xen lẫn chuyện đời thường. Đạo diễn, theo nhiều tài liệu, là nghệ sĩ Năm Châu, bậc thầy sân khấu cải lương. Dân quê nghe để cười, dân tỉnh nghe để quên mệt, dân Sài Gòn nghe để thấy chút hồn Miền Tây giữa lòng phố thị.

Rồi một sáng Tháng Tư, “giải phóng” tràn vô, chương trình dẹp cái rụp. Thay tiếng cười là tiếng loa phường rè rè kể chuyện “anh A hợp tác xã nuôi heo” hay “chị B thi đua may mặc vượt chỉ tiêu.”

Kết quả, làng quê Nam Bộ từ đó vang nhiều hơn tiếng chửi thề, tiếng thở dài. Thay cho tiếng cười Bác Tám là những câu chuyện bi hài: anh em chém nhau giành đất, chồng giết vợ vì cái đói, thanh niên bỏ xứ làm cu li, thiếu nữ lấy chồng Đài Loan kiếm tiền báo hiếu, tạ cái ơn sanh thành cùa má dưỡng dục của ba. Văn nghệ cách mạng làm dân chỉ biết khóc, khóc ròng.

Võ Tòng Xuân – “người đâu cũng có mặt”

Ấy vậy mà sau này, ông Võ Tòng Xuân xuất hiện và… giành luôn bản quyền! Ông nói như đinh đóng cột rằng chính mình mới là tác giả “Gia đình Bác Tám.” Ông bảo mình viết kịch bản, kiêm diễn viên, và chương trình “hấp dẫn tới mức mấy chú, như chú Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt, trùm VC giải phóng trong mật khu, cũng khoái nghe.” Nghe mà cười té ghế! Đài phát thanh Sài Gòn, “sản phẩm Mỹ – Ngụy,” mà giải phóng trong bưng bật radio nghe khoái trá? Nếu có thiệt, chắc mấy ổng nghe để… rút kinh nghiệm tuyên truyền thì có.

Chưa hết, ông Xuân còn kể lể: nào là Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) từng mê Bác Tám, nào là khi tiếp quản Đại Học Cần Thơ, ông Phạm Sơn Khai, tức đồng chí Bảy Khai hỏi ngay: “Giáo sư Võ Tòng Xuân Gia đình Bác Tám còn đây không?” Nghe thiệt oai, nhưng thử hỏi: một ông tập kết ra Bắc, sống mấy chục năm với báo Nhân Dân và “Văn nghệ Quân đội” thì biết quái gì “Gia đình Bác Tám” mà quan tâm? Chuyện nầy nghe giống… “Bác Tám” kể hơn là lịch sử.

Tóm lại, cái tài của ông Võ Tòng Xuân không phải ở nông học, mà ở cái miệng: mâm nào cũng có ổng. Nông nghiệp có, kịch nghệ có, tuyên truyền cũng có. “Trí thức cách mạng” mẫu mực!

Nguyễn Duy Xuân – trí thức bị CS bức tử

Trái lại, ông Nguyễn Duy Xuân (1925–1986) mới đúng là trí thức Nam Bộ thứ thiệt. Ông sinh ở Ô Môn, học Collège de Cần Thơ, rồi sang Pháp lấy cử nhân Kinh tế, sang Anh lấy cao học, qua Mỹ lấy tiến sĩ ở Vanderbilt. Về nước, ông làm tổng trưởng kinh tế, cố vấn Tổng Thống Thiệu, rồi viện trưởng Viện Đại Học Cần Thơ.

Ông xây dựng đại học theo mô hình tín chỉ của Mỹ, gửi giảng viên đi du học, mở ngành nông nghiệp, sư phạm, đào tạo cả một thế hệ trí thức miền Tây. Và chính ông – chứ không ai khác – đã mời Võ Tòng Xuân từ Viện Lúa quốc tế Los Baños về giảng dạy năm 1972. Nghĩa là thầy mời trò về, chứ không phải trò tự “vác lúa giống IRI” về như báo chí sau này khoe.

Đến Tháng Tư, 1975, ông Nguyễn Duy Xuân chọn ở lại, tham gia nội các Vũ Văn Mẫu. Và như một lẽ “cách mạng” phải có, ông bị tống đi cải tạo tận miền Bắc. Sau 11 năm giam cầm, ông chết tức tưởi ở trại Ba Sao, Hà Nam. Mộ phần heo hút, không vòng hoa, không điếu văn. Cái chết của một trí thức lớn chỉ còn lại tiếng khóc lặng lẽ của gia đình. Một nấm mồ lạnh.

Võ Tòng Xuân – “đốc tờ Lúa” khéo xu thời

Trong khi đó, ông Võ Tòng Xuân (1940–2024) lại lên như diều gặp gió. Ông nhanh chóng thành “đốc tờ Lúa” của chế độ, là “cha đẻ nhiều giống lúa mới,” là “người hùng cách mạng xanh.” Báo chí quốc doanh thi nhau ca tụng: nào là Anh Hùng Lao Động, Nhà Giáo Nhân Dân, giải thưởng VinFuture. Khi ông mất, tang lễ đầy vòng hoa đỏ, huân chương lấp lánh, lãnh đạo xếp hàng chia buồn. Một vòng hoa đỏ rực rỡ tiễn đưa.

Ai từng tiếp xúc đều thấy: cái tài thật sự của ông Xuân là biết nói vừa tai lãnh đạo CS. Khi thì kể chuyện “Gia đình Bác Tám” như công trình cách mạng, khi thì khéo gắn mình với Sáu Dân, Bảy Khai để chứng minh “có công với cách mạng.” Cái tài nông học có, nhưng cái tài nịnh thì vượt xa. Đúng nghĩa “người biết xu thời sống thảnh thơi.”

Hai ông Xuân – hai con đường

Nguyễn Duy Xuân: trí thức chính danh, học cao hiểu rộng, tận tụy cho đại học, cuối cùng chết thảm trong tù. Một nấm mồ lạnh. Võ Tòng Xuân: biết nịnh, biết khéo, mượn gió bẻ măng, cuối cùng sống an nhàn, chết trong vinh quang đỏ chói. Một vòng hoa đỏ. Cùng tên Xuân, nhưng một ông tàn tạ như cây khô mùa bấc, một ông được ca tụng như cành đào ngày Tết. Đó chính là bi kịch trí thức Việt Nam sau 1975.

***

Câu hỏi để lại cho hậu thế: trí thức Việt Nam nên chọn con đường nào? Giữ nhân cách để chết lặng lẽ trong tù? Hay cúi mình nịnh bợ để sống khỏe, để được gọi “anh hùng lao động?”

Lịch sử rồi sẽ phán xét. Nhưng dân gian thì khỏi cần chờ: một nấm mồ lạnh đã đủ làm chứng, và một vòng hoa đỏ đã đủ để cười chê: “Trí thức gì mà kỳ vậy chớ?”

(Melbourne)


 

  CHO ĐI THÌ ĐƯỢC GÌ ?-Têrêsa NgọcNga (st)

 Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào

Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào”. Và bà ta xoa tay vui sướng.

 Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:

– Đó là nhà của bà.

 Người nhà giàu hoảng hốt, choáng váng đầu óc:

– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được!

Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt.

 – Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi

 Têrêsa NgọcNga (st)

  From: ngocnga_12 & NguyenNThu

 Ba nhân đức đối với Thiên Chúa là những nhân đức nào?- Cha Vương

Ngày Thứ 2 đầu tuần zui zẻ và thật mạnh mẽ trong đức Tin, Cậy, Mến nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 25/8/2025   n26-24

GIÁO LÝ:  Ba nhân đức đối với Thiên Chúa là những nhân đức nào? Là đức tin, đức cậy, đức mến. Chúng được gọi là “đối thần”, vì chúng có nền tảng trong Thiên Chúa, và trực tiếp hướng về Thiên Chúa. Ta có thể nhờ 3 đức này như con đường trực tiếp đạt tới Thiên Chúa. (YouCat, số 305) 

SUY NIỆM: Tại sao tin, cậy, mến là nhân đức? Vì là những sức mạnh thực sự được Chúa ban, và nhờ ơn Chúa giúp, ta có thể gia tăng và củng cố để đạt được sự sống sung mãn (Ga 10:10). Thiên Chúa là tình yêu: ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ.—1 Ga 4:16(YouCat, số 305)

   Có một gia đình nọ sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.

Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi quá nên lại chạy trở lên lầu.

Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa cao ngút tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:

– Con nhảy xuống đây!

Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu mình, liền trả lời:

– Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!

Người cha trả lời giọng cương quyết:

– Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi!

Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.

         Bạn có một người Cha còn yêu thương bạn hơn mọi người cha trần thế. Đó là chính Thiên Chúa. Để giúp bạn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, Thiên Chúa ban cho bạn một số nhân đức đặc biệt. Những nhân đức này quy hướng chúng ta về Thiên Chúa, nên được gọi là các nhân đức đối thần. Đó là các nhân đức Tin, Cậy, Mến. Vậy bạn hãy để mình rơi vào vòng tay từ bi và nhân lành của Chúa đi nhé.

LẮNG NGHE: Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. (1 Cr. 13:13)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã ban cho con các nhân đức—Tin, Cậy, Mến, xin giúp con luôn luôn hướng về tình thương Chúa mà kiên trì học hỏi cầu nguyện để có được đời sống tốt tràn ngập bình an và hạnh phúc. 

THỰC HÀNH: Để tỏ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Chúa, bạn hãy quyết tâm trong tuần này luôn nhớ tới Chúa và xin Ngài chúc lành cho công ăn việc làm của bạn và những khó khăn bạn gặp trong ngày.

From: Do Dzung

*************************

Con Tin Chúa Ơi | Sáng Tác: Lm. Duy Thiên | Trình Bày: Gia Ân

Từ Lenin đến Mao, Hồ,… chết cũng không yên!

Ba’o Nguoi-Viet

August 24, 2025

Trúc Phương

Ngày 19 Tháng Tám, trên trang Facebook cá nhân, ông Nguyễn Đình Bin, cựu thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại Giao Việt Nam, một lần nữa nhắc lại việc cần phải hỏa táng thi hài ông Hồ Chí Minh. Trong thực tế, cái gọi là “di thể” hoặc “thi hài” không hề tồn tại. Những gì được thấy trong lăng Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, hay Kim Nhật Thành chỉ là những phần rất ít còn sót lại của một thi thể và được chắp vá chằng chịt để tạo nên hình tượng giống thật nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền.

Tổng Thống Emmanuel Macron của Pháp đặt vòng hoa tại lăng ông Hồ Chí Minh hôm 26 Tháng Năm. (Hình minh họa: Ludovic Marin/AFP via Getty Images)

Muốn… “đầu thai” cũng không thể!

Nằm đó, trong lăng, những Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, hay Kim Nhật Thành trở thành biểu tượng bất tử của chế độ. Xác không còn là… “xác” theo nghĩa đen của từ này mà trở thành công cụ tuyên truyền, tạo cảm giác rằng lãnh tụ “vẫn sống,” và người dân bị buộc phải chiêm ngưỡng như thần như thánh. Xác lãnh tụ trở thành công cụ kiểm soát ký ức và lịch sử. Bằng cách duy trì sự “hiện diện” của người quá cố, chế độ định hình cách thế hệ sau nhìn nhận về lãnh tụ, nhấn mạnh sự trường tồn của tư tưởng lãnh tụ, tạo ra một dạng tín ngưỡng dân gian.

Điều mâu thuẫn trớ trêu nhất là trong khi cố “bảo quản” di thể lẫn di sản của “Người,” hậu thế của “Người” lại cực kỳ tàn bạo trong việc đối xử với xác của “Người.” Bằng nhiều kỹ thuật “hành xác,” vật lên vật xuống, nhào nặn, tiêm chích đủ kiểu với vô vàn phương pháp can thiệp trong quá trình bảo quản, người ta đã làm điều mà tâm linh người Á Đông luôn kiêng kỵ: Tránh tối đa việc đụng đến thi thể người quá cố. “Người” đã không thể yên nghỉ nơi “chín suối.” Trong Phật Giáo hay nhiều tín ngưỡng truyền thống, việc “hành xác” người chết có thể bị coi là ngăn cản luân hồi, hay nói theo ngôn ngữ bình dân là “chết không đầu thai.”

Việc giữ lại xác của những Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, hay Kim Nhật Thành không phải là cách ướp xác như Ai Cập cổ đại. Trong trường hợp đang nói, việc giữ lại xác được thực hiện theo cách sao cho toàn bộ thi thể phải “nguyên vẹn,” chứ không phải là cái xác khô, với hình dong và nhất là khuôn mặt phải nguyên vẹn y như lúc sinh tiền. Để làm được điều đó, gần như toàn bộ thi thể phải bị phá tan nát, theo cách rất man rợ và rùng rợn.

Thi thể Lenin, Mao, Hồ… đã “bị” làm gì?

Trong trường hợp Lenin, nhóm chuyên gia giải phẫu và nhà sinh hóa trực thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học và Phương Pháp Giảng Dạy Công Nghệ Sinh Hóa Moscow được giao nhiệm vụ bảo quản thi thể “Người.” Từ thập niên 1920 cho đến 1991, việc bảo quản thi hài Lenin là ưu tiên khoa học hàng đầu của Liên Xô. Ông Alexei Yurchak, giáo sư nhân chủng học đại học UC Berkeley, Hoa Kỳ, đã viết nhiều về quy trình này trong đó có công trình nghiên cứu “Bodies of Lenin: The hidden science of communist sovereignty” phát hành năm 2015 (nguồn: “How the quest to preserve Lenin’s body helps the living,” PBS).

Dù gia đình và vợ Lenin (bà Nadezhda Krupskaya) muốn an táng ông nhưng lãnh tụ Joseph Stalin quyết định xây lăng mộ và giữ lại vĩnh viễn thi thể Lenin. Tháng Ba, 1924, Bác Sĩ Vladimir Vorob’ev và nhà sinh hóa Boris Zbarskii thuộc Viện Y Moscow được yêu cầu áp dụng phương pháp ướp xác của họ cho thi thể Lenin. Tháng Bảy, họ báo cáo rằng thi thể có thể giữ nguyên trạng vô thời hạn, miễn là được tái ướp và chăm sóc định kỳ. Tuy nhiên, toàn bộ hệ thống động mạch và tĩnh mạch của thi thể phải bị tách cắt bỏ. Tất cả những gì còn sót lại của cơ thể Lenin là bộ xương, da, mô cơ và “hình dáng” bên ngoài. Toàn bộ nội tạng và não cũng bị lấy ra.

Do không thể tiêm hóa chất qua mạch máu như thông thường, người ta sử dụng kỹ thuật vi tiêm (micro-injection) để bơm dung dịch bảo quản vào từng phần cơ thể. Nhóm kỹ thuật cũng phát minh bộ đồ cao su hai lớp phủ lên thi thể để duy trì lớp dung dịch hóa chất lưu thông bên dưới. Bộ vest đen như thấy hiện nay mà ông Lenin “mặc” là nhằm phủ che lên bộ đồ cao su đó. Hai năm một lần, toàn bộ thi hài được tái ướp bằng cách ngâm trong nhiều dung dịch khác nhau: glycerol, formaldehyde, potassium acetate, alcohol, hydrogen peroxide, acetic acid, và acetic sodium. Mỗi lần ngâm kéo dài khoảng sáu tuần.

Thi hài Lenin luôn được theo dõi để phát hiện và xử lý ngay lập tức các dấu hiệu xuống cấp. Đặc biệt diện mạo bên ngoài. Theo Giáo Sư Alexei Yurchak, “Lenin” hiện được gắn lông mi giả. Mũi, khuôn mặt, hốc mắt, và nhiều phần khác cũng được “tạo hình lại” bằng hỗn hợp paraffin, glycerin và carotene… Nói cách khác, có thể thấy rằng “người nằm đó” có vẻ là… Lenin nhưng chẳng phải là “nguyên bản” Lenin.

Tất cả là “đồ giả”

Tương tự là trường hợp Mao Trạch Đông. Bản thân ông Mao từng yêu cầu được hỏa táng sau khi chết, nhưng Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đặc biệt bà vợ Giang Thanh của ông, quyết định rằng ông Mao phải tiếp tục “sống mãi.” Trong bài báo “Preserving Chairman Mao: embalming a body to maintain a legacy” tờ The Guardian cho biết, trước khi xác Mao trương sình phân hủy, ông Tạ Phiêu (Xie Piao), một viên chức phụ trách dự án thử nghiệm làm mát bằng nhiệt điện, bị triệu tập giữa đêm và được giao nhiệm vụ làm lạnh thi thể Mao.

Khi đến Đại Lễ Đường Nhân Dân, ông Tạ Phiêu thấy thi thể “người cầm lái vĩ đại” nằm trong một quan tài gỗ trong căn phòng nóng rực vì ánh đèn điện. Nhóm ông Tạ Phiêu tìm cách đưa nhiệt độ phòng xuống còn 4-5 độ C. Họ không được phép làm đông lạnh thi thể. Chỉ trong vài giờ, khí nitơ bao quanh thi thể được làm lạnh xuống 8 độ C.

Tám ngày sau khi kết thúc công việc ở Đại Lễ Đường, ông Tạ được yêu cầu rời đi. Ông không biết nhiều về việc ướp xác, trong đó có việc hút sạch dịch trong cơ thể rồi bơm formaldehyde vào. Sau này, trong hồi ký, ông Lý Chí Thỏa (Li Zhisui), bác sĩ riêng của ông Mao, kể rằng, khi bơm formaldehyde vào, đầu của ông Mao “sưng phù lên như trái banh.” Cần nói thêm, Tháng Tám, 2016, khi tạp chí trí thức tự do Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu) đăng bài thuật những gì ông Tạ Phiêu kể, họ liền bị đóng cửa.

Bất luận phương pháp gì, để giữ xác “tươi mới,” và trông “Người như đang ngủ,” thật ra chỉ bộ xương là phần duy nhất còn thuộc về xác của “Người.” Mắt giả, lông mi giả, móng tay móng chân giả, tóc cũng giả tất… Thậm chí da cũng giả vì không có da thật nào có thể tồn tại vĩnh viễn, bất luận nó được ngâm trong dung dịch bảo quản. Hơn nữa, sau nhiều lần thi thể bị lật qua lật lại trong quá trình thực hiện ngâm dung dịch, da bị bong tróc gần như hoàn toàn. “Người” nào cũng thế cả – từ Lenin đến Kim Nhật Thành (Kim Il-sung), Kim Chính Nhật (Kim Jong-il); từ Mao Trạch Đông đến Hồ Chí Minh…

Để lại, để làm gì?

Hồ Chí Minh chỉ khác những người kia là… “lận đận” hơn nhiều. Sau khi chết, Hồ Chí Minh còn trải qua nhiều “kiếp nạn.” Như được thuật trong bài “50 năm gìn giữ thi hài Bác Hồ và những chuyện bây giờ mới được kể” (báo Tuổi Trẻ), thì “trong sáu năm kể từ khi Người qua đời năm 1969 đến 1975, thi hài của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được di chuyển tổng cộng sáu lần do nhiều nguyên nhân, điều kiện khác nhau…” Theo đúng nghĩa đen, Hồ Chí Minh khi chết cũng không yên, dù những ngày trước khi chết, ông bị “hành” lên “hạ” xuống liên tục, bị “phong tỏa” quyền lực, trở thành lãnh tụ bù nhìn trước sự thao túng của bộ đôi Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.

Bất luận thi thể trong Lăng Hồ Chí Minh có là tượng sáp hay không, và dĩ nhiên là… “không” (như được khẳng định trong bài báo “Lời giải cho thắc mắc ‘thi hài Bác’ là thật hay tượng sáp,” báo Pháp Luật Việt Nam) thì chắc chắn cái gọi là thi thể Hồ Chí Minh, tương tự Mao hoặc Lenin, đã không còn lại nhiều vết tích DNA của “nguyên bản” Hồ Chí Minh. Xác của ông chẳng khác gì là hình người “nhân tạo.” Hơn nữa, phương pháp ướp xác tất cả họ, về căn bản, đều giống nhau, đều xuất phát từ “lò” Liên Xô.

“Về cơ bản, nguyên tắc ướp xác giống như ngâm thực phẩm. Để bảo quản lâu dài, người ta cần tạo ra môi trường vô trùng,” theo Giáo Sư Sue Black thuộc Trung Tâm Giải Phẫu và Nhận Dạng Con Người, đại học University of Dundee, Anh (Nguồn: “Who, What, Why: How do you embalm a leader?” BBC), người ta phải thay đổi hoàn toàn thành phần hóa học của mô và loại bỏ mọi vi khuẩn, để nấm mốc không thể phát triển. Một lượng lớn cồn, glycerol (giúp cơ thể không bị mất nước) và formalin (hóa chất giúp diệt vi sinh vật) được bơm vào cơ thể. Người ta thậm chí pha sắc hồng (pinkish tint) vào formalin để cơ thể có màu “tươi tự nhiên,” rồi còn cấy tóc, gắn mi…

Dù thế nào, những Vladimir Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành… cũng gần như rất giống nhau. Họ là lãnh tụ sống mãi với lịch sử của đảng họ nhưng họ là những kẻ tội đồ dân tộc đối với không ít người dân của họ.

Mặt trái của sự bất tử hóa ký ức Mao hay bất tử hóa ký ức Hồ Chí Minh, hóa ra, một cách ngoài ý muốn, lại đồng nghĩa với việc những gì họ mang đến cho dân tộc họ vẫn tiếp tục được nhắc nhớ, bằng cái nhìn gay gắt và đầy phán xét. Chẳng có nhân vật lịch sử nào không được hậu thế đánh giá lại. Thi thể trong lồng kính không biết nói và không thể biện hộ cho tội ác của mình, nhưng, càng chậm chôn cái xác giả của họ thì tội ác thật của họ sẽ còn tiếp tục “tươi mới” với thời gian. [đ.d.]


 

MỞ TRỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúc anh em được ân sủng và bình an!”.

Hải ly, động vật có vú, sống lưỡng cư – nửa nước nửa cạn – có tài đắp đập, tạo những con đê kiên cố khống chế mực nước. Nguyên liệu là cành cây và sỏi đá; chỗ có kẽ hở, hải ly dùng đuôi đập nát đất rồi trát kín. Những con đê này thường rất kiên cố, 5-6 người có thể đi qua mà không sập; đôi khi, những đập chắn của hải ly dài hơn cả 100 mét.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không nói đến việc đóng mở ‘đê điều’ của hải ly, nhưng nói đến việc ‘mở trời’ hay ‘khép trời’ của con người. Việc ‘mở đóng’ cửa thiên đàng – một phần – tuỳ thuộc việc chúng ta ‘đóng’ hay ‘mở’ những dòng chảy ân sủng và bình an của Chúa!

Khởi đầu thư Thessalonica, Phaolô viết, “Chúc anh em được ân sủng và bình an!”; tiếp đến, Phaolô dâng lời tạ ơn về những việc làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc vì lòng mến, và những gì kiên nhẫn họ chịu đựng. “Người ta nhận ra một cộng đoàn sống động ở chỗ họ không giữ lại cho mình, nhưng để tình yêu Chúa tuôn chảy như dòng sông!” – Jean Vanier. Đó là một giáo đoàn đã ‘mở’ cho dòng chảy ân điển Chúa trào tràn không chỉ trên họ, nhưng trên cả các giáo đoàn non trẻ khác, vì “Chúa mến chuộng dân Người!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Tương phản với các tín hữu tốt lành của Phaolô là những lãnh đạo không mấy tốt lành thời Chúa Giêsu. Ngài gọi họ là những kẻ ‘đóng trời’, khiến ân sủng và bình an của Chúa tắc nghẽn không chỉ với họ mà còn với những người khác. Họ khác nào những con hải ly ngăn chận suối ân phúc, “Khốn cho các người!”; “Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Chính các người không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào!”. “Kẻ giả hình khoá cửa trời đối với tha nhân bằng sự thánh thiện giả hiệu của mình!” – Fulton Sheen.

Sao Chúa Giêsu nặng lời đến thế? Ngài nặng lời, vì họ nhân danh Thiên Chúa mà lôi kéo người khác đi vào con đường lầm lạc; không nhận biết Ngài, chối nhận Ngài, họ còn làm cho những người khác mê lầm. “Con người làm ác hăng hái nhất khi nhân danh Thiên Chúa!” – Blaise Pascal. Vậy mà những lời quở trách của Chúa Giêsu không hàm ý một sự tức giận; đúng hơn, đầy xót thương và đợi chờ. Ngài hy vọng sự thật trần trụi này sẽ chìm sâu vào trong, giúp họ ăn năn; nhờ đó, ân sủng và bình an của Chúa lại có thể đổ xuống trên họ và qua họ, đến với người khác.

Anh Chị em,

“Chúc anh em được ân sủng và bình an!”. Ước gì bạn và tôi trở nên những máng tuôn chảy ân sủng cho mình và cho tha nhân; mở ra niềm vui, hạnh phúc, hy vọng… bắt đầu với những người gần nhất trong gia đình, trong cộng đoàn. Và khi nhìn lại, chúng ta không ngại thống hối ăn năn vì không ít lần, chúng ta đã hành động như loài hải ly đóng đập; để từ nay, quyết tâm đứng lên, cởi mở cho dòng ân sủng của Chúa tự do tuôn chảy qua cuộc đời mình và đến muôn người. “Chỉ con tim biết sám hối mới trở nên chiếc máng thông ơn để ân sủng tuôn chảy tự do!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con xác tín, chỉ khi con tim sám hối, nó mới trở nên máng chảy để ân sủng Chúa tự do tuôn trào!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXI Thường Niên, Năm Lẻ

Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng !

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 23,13.15-22

13 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rằng : “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Chính các người không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.

15 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo ; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.

16 “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng ! Các người bảo : ‘Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không ; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.’ 17 Đồ ngu si mù quáng ! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn ? 18 Các người còn nói : ‘Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không ; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.’ 19 Đồ mù quáng ! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn ? 20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. 21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. 22 Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.”


 

KHI KHÔNG CÒN GÌ CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC – Rev. Ron Rolheiser, OMI

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 Bạn sẽ làm gì khi một vết thương hay một mất mát khiến bạn tuyệt vọng đến tê liệt, và không có điều gì bạn có thể làm để thay đổi tình huống ấy?

 Bạn sẽ nói gì hay làm gì khi cố gắng an ủi một người đang bị tê liệt vì đau buồn?

Chẳng hạn, bạn sẽ nói gì với ai đó đang túc trực bên giường bệnh của người thân sắp qua đời khi tuổi đời còn quá trẻ?  Bạn sẽ nói gì với một người vừa mất người thân vì tự tử?

 Bạn sẽ làm gì hay nói gì khi bản thân hoàn toàn bất lực trong việc sửa chữa một tình huống đã đổ vỡ?

 Nhà thơ Rainer Maria Rilke từng nhận được một bức thư từ một người đàn ông vừa mất người thân, đang chiến đấu với tuyệt vọng, và tuyệt vọng tìm kiếm điều gì đó để trái tim mình khỏi tan vỡ.

 Rilke đã gửi lại cho ông những lời này: “Đừng sợ đau khổ — hãy lấy nỗi nặng trĩu trong lòng bạn mà trao lại cho sức nặng của trái đất; núi non thì nặng, đại dương cũng nặng.” (Sonnets to Orpheus).  Những lời này như vang vọng lời trong Sách Ai Ca (3,29), nơi tác giả linh hứng viết: “Có lúc tất cả những gì ta có thể làm là úp miệng mình xuống bụi đất mà chờ đợi.”

 Đúng vậy, đôi khi tất cả những gì ta có thể làm là úp miệng mình xuống đất mà chờ đợi.  Đôi khi, ta cần trao trả nỗi đau trĩu nặng của mình cho chính mặt đất.

 Thật kỳ lạ, chúng ta có thể chấp nhận những lời mời gọi này – và sự kiên nhẫn mà chúng đòi hỏi – khi nỗi đau chúng ta chịu là thể lý, chứ không phải tinh thần hay tâm lý.  Thí dụ, nếu bị tai nạn và gãy chân nặng, ta sẽ đành chấp nhận, dù khó chịu đến đâu, rằng mình sẽ phải nằm một chỗ trong vài tuần hay vài tháng, và chẳng có cách nào khác ngoài việc để thời gian và tự nhiên chữa lành.  Nhưng thật đáng tiếc là chúng ta không thường áp dụng được sự chấp nhận đó khi vết thương là trong tâm hồn.  Khi trái tim tan vỡ, chúng ta muốn có giải pháp ngay tức thì.  Ta không muốn con tim mình phải “chống nạng” hay “ngồi xe lăn” suốt nhiều tuần hay nhiều tháng.

 Dĩ nhiên, không phải mất mát nào hay nỗi đau nào cũng giống nhau.  Có những mất mát tuy đau đớn nhưng không khiến ta hoàn toàn tê liệt, vì trong đó đã có sẵn yếu tố của sự an ủi và chữa lành.  Chúng ta từng trải qua điều này khi dự tang lễ của một người thân yêu đã sống và ra đi trong bình an – dù đau lòng, sâu thẳm trong tâm hồn, ta vẫn cảm thấy sự thanh thản nào đó trong chia ly.

 Nhưng cũng có những mất mát mà trong một khoảng thời gian sau đó, không có lời an ủi nào – dù là lời đầy đức tin – có thể xoa dịu được nỗi đắng cay và đau đớn trong tim.  Chẳng hạn, tôi đã từng thấy điều này tại tang lễ của những người qua đời vì tự tử.  Trong giây phút tột cùng của đau thương, không có lời nào – dù đúng đắn, dù đầy niềm tin – có thể vực dậy trái tim tan vỡ của những người ở lại.

 Tôi nhớ một tang lễ mà tôi từng tham dự vài năm trước.  Người phụ nữ mà chúng tôi tiễn đưa vừa qua đời vì ung thư, còn khá trẻ, mới ngoài năm mươi.  Chồng cô, dĩ nhiên, vô cùng đau đớn.  Tại buổi tiếp khách sau Thánh lễ, một người bạn thân cố gắng an ủi anh bằng cách nói: “Cô ấy đang ở với Chúa, ở một nơi tốt đẹp hơn.”  Dù là một người có đức tin, và vừa bước ra khỏi nhà thờ nơi niềm tin ấy được cử hành cách công khai, anh chỉ đáp lại: “Tôi biết anh có ý tốt; nhưng đó là điều cuối cùng tôi muốn nghe hôm nay.”

 Những lời nói đầy đức tin mà chúng ta trao nhau trong lúc tang thương là những lời chân thật.  Người phụ nữ ấy, chắc chắn, đang ở một nơi tốt đẹp hơn.  Nhưng trong khoảnh khắc đau buồn tột cùng, những lời ấy không mang lại hiệu quả cảm xúc hay tâm lý như ta mong.

 Vậy, trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta có thể trao nhau điều gì?  Người khác có thể trao gì cho ta khi chúng ta tê liệt vì đau buồn?

 Ta có thể trao cho nhau chính sự bất lực của mình – sự thinh lặng, sự không thể làm gì hay nói gì có thể cất đi nỗi nặng trĩu.  Và có lẽ không điều gì có sức an ủi hơn trong những thảm kịch ngoài sự cảm thông phát xuất từ chính sự bất lực chung ấy.  Ta vẫn có thể thầm thĩ những lời của đức tin, nhưng cũng cần chấp nhận rằng hoa trái từ những lời ấy chỉ chín muồi sau này.

 Khi ta hiện diện với nhau trong thinh lặng, trong sự bất lực trước nỗi đau, chính sự hiện diện ấy đang nói lên điều mà cả Sách Ai Ca lẫn nhà thơ Rilke đã nói: Đôi khi tất cả những gì ta có thể làm là úp miệng mình xuống đất mà chờ đợi – và bằng cách đó, ta đang trao lại sức nặng của mình cho trái đất.  Một cách nghịch lý, chính việc chấp nhận nỗi nặng ấy lại có thể là điều duy nhất nâng đỡ được tâm hồn ta.

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From: Langthangchieutim

Trái với quyết tâm của Tập Cận Bình, Trung Cộng không trở thành quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh

Bài của  AI và báo Thị Trường Ngày Nay  

Giấc mơ “Trung Cộng hùng mạnh nhất thế giới” của Tập Cận Bình (中国梦), là kim chỉ nam cho chiến lược phát triển quốc gia đến năm 2049. Nhưng hiện tại, giấc mơ ấy đang đối mặt với nhiều thách thức nội tại và phản ứng quốc tế gay gắt. 

 

không xác định

Khẩu hiệu “Giấc mơ Trung Hoa” với nội dung “đất nước hùng cường, dân tộc hưng thịnh, nhân dân hạnh phúc” tại Công viên Nam Hồ, Phan Châu, Quý Châu , tháng 11 năm 2019

Giấc mơ Trung Cộng của Tập Cận Bình đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể, đặc biệt về kinh tế và quân sự, đưa Trung Cộng tiến gần hơn đến vị thế siêu cường. Tuy nhiên, những thách thức về kinh tế, ngoại giao, và nội bộ cho thấy giấc mơ này không dễ dàng trở thành hiện thực. Sự quyết đoán trong chính sách đối ngoại và kiểm soát trong nước có thể vừa là động lực vừa là trở ngại, tùy thuộc vào cách Trung Cộng cân bằng giữa tham vọng bá quyền và hình ảnh một quốc gia “hòa bình, văn minh” như Tập Cận Bình từng tuyên bố.

Cha đẻ của “Giấc Mơ Trung Cộng”, Tập Cận Bình

không xác định

  • Tập bị suy giảm súc khỏe, đột quỵ vào năm 2024 và có thể đang bị bệnh già Parkinson. Chưa hết, tay chân của Tập trong Quân Ủy Trung Ương bị loại trừ và Tập không chuẩn bị người thừa kế trách nhiệm bí thư của mình sẽ  làm cho Tập bị cô lập chính trị trong Đảng. 
📈 Thành tựu nổi bật dưới thời Tập
  • Đầu tư mạnh vào R&D: Tăng từ 1.2% GDP năm 2010 lên 2.4% năm 2023.

  • Dẫn đầu trong công nghệ cao: AI, 5G, năng lượng sạch, bán dẫn.

  • Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI): Mở rộng ảnh hưởng toàn cầu qua hạ tầng và thương mại.

  • Chống tham nhũng và củng cố quyền lực: Tập trung quyền lực vào trung ương, loại bỏ các phe phái.

⚠️ Các Thách thức nghiêm trọng
  • Khủng hoảng bất động sản: Evergrande và các tập đoàn khác chìm trong nợ.

  • Tiêu dùng nội địa suy giảm: Dân chúng thắt chặt chi tiêu, niềm tin kinh tế giảm.

  • Dân số già hóa nhanh chóng: Tác động đến lực lượng lao động và tăng trưởng dài hạn.

  • Bất bình đẳng xã hội và ô nhiễm môi trường: Gây bất mãn trong dân chúng

Bò đực Trung Quốc

Nếu nền kinh tế Trung Quốc duy trì

Quy mô hiện tại so với Mỹ (ở mức GPD 64%), nó sẽ cần phải vượt qua hiệu ứng thay đổi dân số -1,5% mỗi năm thông qua tăng trưởng GDP bình quân đầu người nhanh hơn. Để đạt được tổng GDP của Mỹ vào năm 2100, nó sẽ cần đạt được mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người nhanh hơn Mỹ  khoảng 2,1% mỗi năm.

Hậu quả của sự thống trị của Tập

Đã khiến hệ thống kém khả năng phục hồi trước những cú sốc , không ai khác có thẩm quyền hoặc tính hợp pháp tương đương

Nguồn gốc của sự khủng hoảng đang tiềm tàng, sau khi Tập ra đi  sẽ có tranh giành quyền lực giữa các phe phái đối địch.

 

Image result for Xi jin ping china dream cảtoon

Nếu Trung Cộng biết nắm bắt nhiều định hướng thị trường và dân chủ hơn trong những thập kỷ tới, thúc đẩy tăng trưởng. Khi dân số thu hẹp, sẽ có một giai đoạn mà dân số đó đạt được về mặt kinh tế thông qua việc sử dụng cơ sở hạ tầng dành cho dân số lớn hơn và không cần sử dụng quá nhiều nguồn lực để duy trì. Ngược lại, có lẽ Mỹ sẽ trở nên cô lập và bảo hộ hơn, cắt đứt nền kinh tế ngày càng nhiều khỏi thế giới, khiến tăng trưởng của nước này liên tục chậm lại.

Tuy nhiên, kết quả có khả năng xảy ra nhiều nhất, đó là hy vọng của Trung Quốc về việc phát triển vượt qua Mỹ đủ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới, với những tác động quân sự và ngoại giao, giờ đây khó có thể thực hiện được.

 BÂY GIỜ KHÔNG THỂ TRỐN KHỎI BẮC TRIỀU TIÊN, TẠI SAO?

Thao Teresa

 

Bắc Triều Tiên là quốc gia duy nhất trên thế giới hiện nay cấm công dân rời khỏi đất nước mà không có sự cho phép trước từ nhà nước, và hành động này bị coi là phản quốc. Nếu bị bắt, người đó có thể bị phạt tù dài hạn trong trại lao động khổ sai hoặc thậm chí bị tử hình. Việc di chuyển trong nội bộ Bắc Triều Tiên cũng khó khăn và bị kiểm soát chặt chẽ, cần giấy phép chính thức để đi từ tỉnh này sang tỉnh khác. Bắc Triều Tiên được hầu hết các tổ chức trên thế giới coi là có hồ sơ nhân quyền tồi tệ nhất, không có quốc gia nào sánh bằng. Tất cả nam giới phải phục vụ ít nhất 10 năm trong quân đội, tự do ngôn luận không tồn tại, và mọi phương tiện truyền thông đều do nhà nước sở hữu. Theo Amnesty International, năm 2017, khoảng 200.000 tù nhân chính trị bị giam trong các trại, thường chịu lao động nô lệ, tra tấn và xử tử không qua xét xử. Ngoài ra, còn có các tù nhân vì tội không liên quan đến chính trị. Một người có thể bị tù chung thân chỉ vì liên quan đến người phạm tội, như trường hợp một đứa trẻ 2 tuổi bị kết án tù chung thân năm 2009 vì cha mẹ sở hữu một cuốn Kinh Thánh nhập lậu.

Mọi phương tiện truyền thông và nội dung nước ngoài bị cấm hàng thập kỷ, với hình phạt từ tù chung thân đến tử hình cho những ai bị bắt quả tang buôn lậu, phân phối hoặc tiêu thụ. Bắc Triều Tiên là một trong bốn quốc gia còn duy trì hành quyết công khai, cùng với Iran, Ả Rập Saudi và Somalia. Người nước ngoài rất khó được phép vào nước này, và khi được phép, họ bị giám sát chặt chẽ và chỉ được tham quan theo lộ trình do chế độ sắp đặt. Đôi khi, người nước ngoài vi phạm luật tùy tiện của chế độ còn bị giết, như trường hợp Otto Warmbier, một người Mỹ bị bắt năm 2016 vì cố lấy trộm áp phích tuyên truyền, bị kết án 15 năm lao động khổ sai, và được thả về Mỹ trong tình trạng hôn mê, qua đời ngay sau đó.

Do đó, Bắc Triều Tiên được coi là quốc gia cô lập và bí mật nhất thế giới hiện nay, khó khăn nhất để đưa người hay vật vào hoặc ra. Địa hình đặc biệt của Bắc Triều Tiên, với biển Nhật Bản và Hoàng Hải ở phía đông và tây, khiến việc vượt biên qua biển gần như không thể do thiếu thuyền và hải quân tuần tra liên tục. Biên giới phía nam với Hàn Quốc, khu phi quân sự (DMZ), là biên giới quân sự hóa nặng nề nhất thế giới, với hàng chục ngàn binh sĩ, hàng rào, dây thép gai và khoảng 2 triệu mìn. Lệnh bắn chết được áp dụng cho bất kỳ ai cố vượt biên. Với 750.000 binh sĩ Bắc Triều Tiên và 450.000 binh sĩ Hàn Quốc cùng 20.000 lính Mỹ gần biên giới, việc vượt qua DMZ để đến Hàn Quốc cực kỳ nguy hiểm.

Lịch sử cho thấy, con đường dễ hơn nhưng vẫn rất khó là vượt biên phía bắc vào Trung Quốc hoặc Nga. Biên giới với Trung Quốc dài hơn 1.300 km, đi qua sông Áp Lục và Đồ Môn, qua núi và rừng thưa thớt dân cư, trước đây tương đối dễ thâm nhập. Vào mùa đông, sông đóng băng, hoặc mùa hè, mực nước thấp, giúp người đào tẩu và buôn lậu dễ dàng vượt qua. Tuy nhiên, cả Trung Quốc và Nga đều có hiệp định dẫn độ với Bắc Triều Tiên, coi người đào tẩu là nhập cư bất hợp pháp và trục xuất về, nơi họ đối mặt với tù đày hoặc tử hình. Vì vậy, mục tiêu của người đào tẩu là đến các nước an toàn như Mông Cổ, Thái Lan hoặc Việt Nam, nơi họ sẽ được trục xuất đến Hàn Quốc, quốc gia coi tất cả người Triều Tiên là công dân của mình.

Từ những năm 1990, sau khi Liên Xô sụp đổ, kinh tế Bắc Triều Tiên suy sụp, nạn đói nghiêm trọng từ 1994-1998 khiến hàng trăm ngàn đến hàng triệu người chết. Điều này dẫn đến làn sóng đào tẩu tăng vọt, chủ yếu qua biên giới phía bắc vào Trung Quốc, rồi đến Thái Lan, Việt Nam hoặc Mông Cổ. Đỉnh điểm năm 2009, 2.914 người đào tẩu thành công đến Hàn Quốc. Tuy nhiên, sau khi Kim Jong-un lên nắm quyền năm 2011, ông siết chặt kiểm soát biên giới và buôn lậu. Thiết bị gây nhiễu tín hiệu, hàng rào, và tuần tra tăng cường ở biên giới phía bắc. Trung Quốc cũng tăng cường giám sát với hơn 620 triệu camera vào năm 2020, khiến việc đào tẩu qua Trung Quốc nguy hiểm hơn. Giá dịch vụ của các “môi giới” giúp đào tẩu tăng từ 2.000 USD năm 2007 lên 21.000 USD năm 2021.

Từ năm 2020, Bắc Triều Tiên đóng cửa hoàn toàn biên giới vì Covid-19, hủy mọi chuyến bay quốc tế và gần như toàn bộ thương mại. Với 42% dân số suy dinh dưỡng, quốc gia này lo ngại dịch bệnh, chỉ báo cáo 74 ca tử vong do Covid, nhưng ước tính thực tế có thể lên đến 45.000. Chế độ tận dụng đại dịch để củng cố cô lập, xây dựng vùng đệm và ra lệnh bắn chết bất kỳ ai vượt biên. Luật “Phản đối tư tưởng và văn hóa phản động” năm 2020 hình sự hóa việc sở hữu thông tin hoặc vật phẩm nước ngoài, với hình phạt tử hình công khai cho buôn lậu và 10 năm tù cho xem phim nước ngoài. Kết quả, đào tẩu giảm mạnh: chỉ 229 người năm 2020, 63 người năm 2021, và 67 người năm 2022 – mức thấp nhất trong lịch sử.

Bắc Triều Tiên trở thành “nhà tù” thành công nhất trong lịch sử nhân loại, với công nghệ số và luật khắc nghiệt cô lập hoàn toàn đất nước. Điện thoại do nhà nước cung cấp không kết nối internet, không gọi quốc tế, cài phần mềm giám sát không thể gỡ, tự động chụp màn hình, và bị cảnh sát kiểm tra bắt buộc. Điện thoại nước ngoài, từng là cách liên lạc với bên ngoài, giờ gần như không còn do biên giới bị khóa chặt. Hiện có khoảng 1.000 người đào tẩu bị giam ở Trung Quốc, chờ trục xuất về Bắc Triều Tiên, nơi họ có thể bị tù hoặc tử hình. Bắc Triều Tiên giờ như một “hố đen” trên bản đồ thế giới, gần như không ai ra vào được, nhờ địa hình, luật lệ tàn nhẫn, và công nghệ giám sát của chế độ Kim.

(Fb Chau Doan)


 

TÀU GIÊSU – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”.

“Sự cứu rỗi tựa hồ việc Nôe mời một người ngoại giáo thời của ông – đặt niềm tin vào Lời của Chúa – đến và lên tàu. Vậy mà, sự cứu rỗi không phụ thuộc vào việc chúng ta ‘ghi tên’ lên tàu hoặc ngay cả việc ‘bám’ vào Chúa, nhưng tuỳ thuộc việc chúng ta được nắm lấy, ôm lấy bởi Chúa Kitô và trong Chúa Kitô!” – Harry Ironside.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng của Ironside được gặp lại qua Lời Chúa hôm nay. Cứu rỗi không phải là chuyện số lượng, nhưng là đi đúng hướng, đúng cách, đúng lối. Lối ấy hẹp – lối Giêsu – lối tình yêu. Nói cách khác, cứu rỗi không nằm ở một “xa lộ” rộng thênh, nhưng ở việc được bước lên ‘Tàu Giêsu’, để được chính Ngài nắm lấy mà đi qua cửa hẹp để vào cõi sống.

Chúa Giêsu không ‘chào hàng’ với những hứa hão, “Vâng, đừng lo! Cứu rỗi? Thật dễ, một xa lộ đẹp với cánh cổng rộng cuối chân trời!”. Ngài nói đúng như thực tế của nó, rất hẹp! Theo nghĩa nào? Theo nghĩa, để tự cứu mình, người ta phải tin vào Ngài, sống lời Ngài, ‘được nắm lấy, ôm lấy’ bởi Ngài. “Cửa hẹp không nói về sự loại trừ, nhưng về lòng tận hiến – chỉ ai được Đức Kitô ‘nắm lấy’ mới đi qua được!” – John Stott. Cửa hẹp mở ra cho ai thực sự để Chúa Kitô chiếm hữu đời mình.

Nói về ‘lối hẹp’, Chúa Giêsu chỉ ra rằng, cứu rỗi cũng không là chuyện thừa kế hay một bảo đảm như đã có bảo hiểm; đúng hơn, là sự hợp tác tích cực của mỗi người với ân sủng, đó là nỗ lực để lên ‘Tàu Giêsu’ – yêu mến và làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Làm theo ý Chúa là bảo đảm tốt nhất để chuẩn bị cho sự cứu rỗi. Là tin vào Đấng Chúa Cha sai đến. Và gì nữa? Là làm cho Danh Cha cả sáng! “Cửa hẹp dành cho ai để ân sủng uốn nắn thành chứng nhân sống động của Danh Chúa giữa đời!” – Henri Nouwen.

Thánh Vịnh đáp ca nhắc lại điều này với lệnh truyền, “Hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, mà loan báo Tin Mừng!”; “Chúng sẽ rao giảng cho các dân biết vinh quang của Ta” – bài đọc một. Đúng thế, việc yêu thương tha nhân ý nghĩa nhất vẫn là trao tặng Giêsu và Tin Mừng Ngài. “Hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ!” – bài đọc hai. “Loan báo Tin Mừng chính là một kẻ ăn mày chỉ cho một kẻ ăn mày khác biết nơi có bánh!” – D.T. Niles. Chia sẻ Tin Mừng đơn giản là trao sự sống mình đã lãnh nhận.

Anh Chị em,

“Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào!”. Chiến đấu cho sự cứu rỗi chỉ bằng cách bước vào ‘Tàu Giêsu’, ‘được nắm lấy, ôm lấy’ bởi Ngài, đi vào ‘lối hẹp’ tình yêu Ngài đã đi. Không đạt được sự cứu rỗi vĩnh cửu, chúng ta trắng tay! “Hãy lo cho sự cứu rỗi của anh em trong sợ hãi và run rẩy” – Phaolô. Đó là điều bạn và tôi cần thực hiện với sự nghiêm túc tối đa; mỗi ngày, hãy xin cho được ơn bền đỗ đến cùng. “Ơn cứu rỗi là nhưng không, nhưng không hề rẻ – nó đòi ta dâng chính mạng sống để bước vào lối hẹp của Đức Kitô!” – Dietrich Bonhoeffer.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, khi con lạc lối, những muốn tìm thuyền khác, cho con nhớ, chỉ con ‘Tàu Giêsu’ mới chở nổi sự mong manh của con đến bến bờ vĩnh cửu!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************************

LỜI CHÚA CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 13,22-30

22 Khi ấy, trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. 23 Có kẻ hỏi Người : “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không ?” Người bảo họ : 24 “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết : có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

25 “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói : ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào !’, thì ông sẽ bảo anh em : ‘Các anh đấy ư ? Ta không biết các anh từ đâu đến !’ 26 Bấy giờ anh em mới nói : ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’ 27 Nhưng ông sẽ đáp lại : ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !’

28 “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29 Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.

30 “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”


 

ĐỪNG CHỈ TRÍCH – HÃY CẢM THÔNG

Tu Le

Trong cuộc sống, thật dễ để ta nhìn thấy lỗi lầm của người khác. Một câu nói vụng về, một việc làm chưa trọn vẹn, một quyết định sai lầm – tất cả đều khiến ta muốn thốt lên: “Anh sai rồi”, “Em không biết làm gì cả”. Nhưng bạn có nhận ra không, càng chỉ trích, ta càng đẩy người kia rời xa mình.

Người bị chỉ trích hiếm khi thay đổi. Họ chỉ dựng lên bức tường phòng thủ, tìm cách biện minh, hoặc thu mình lại trong im lặng tổn thương. Còn ta, ngỡ rằng đã “nói thẳng để họ tốt hơn”, nhưng thực ra chỉ gieo thêm một khoảng cách lạnh lùng.

Chỉ trích không phải là chiếc gương soi sáng, mà là mảnh thủy tinh làm rách da thịt. Nó có thể làm người ta nhớ lâu, nhưng nhớ bằng nỗi đau chứ không phải bằng lòng biết ơn.

Ngược lại, một chút cảm thông có thể làm mềm trái tim. Khi ta chịu khó đặt mình vào vị trí của họ, ta mới thấy: ai cũng có lý do để hành xử như vậy. Người vội vã có thể vì áp lực, người nóng nảy có thể vì bất an, người vụng về có thể vì chưa từng được chỉ dẫn. Và ta sẽ bớt đi một câu trách móc, thay bằng một lời động viên:

– “Tôi nghĩ có cách này tốt hơn, bạn thử xem nhé.”

Một lời khen đúng lúc, một câu khích lệ chân thành có sức mạnh hơn mười lời phê bình. Nó làm người ta tự tin hơn để bước tiếp, và cũng khiến họ mở lòng hơn với ta.

Thay vì chỉ trích, hãy tìm điều tốt để khen ngợi. Thay vì oán trách, hãy chọn cảm thông. Thay vì than phiền, hãy bắt đầu bằng một nụ cười.

Ứng xử, rốt cuộc, không phải là tranh thắng – thua. Mà là cùng nhau giữ được tình cảm. Người khôn ngoan không phải là người luôn đúng, mà là người biết cách làm cho người khác cảm thấy mình quan trọng.

Hãy thử một ngày không chỉ trích, không oán trách, không than phiền. Bạn sẽ thấy, gương mặt người đối diện sáng hơn, và chính trái tim mình cũng nhẹ nhõm hơn.


TẦU KÉO HAY THUYỀN BUỒM? – Lm. Mark Link, S.J.

 Lm. Mark Link, S.J.

Chủ đề: “Mỗi người chúng ta phải tự quyết định xem mình là loại Kitô Hữu tầu kéo, thuyền buồm hay bè trôi sông”

Một thanh niên viết thư cho một linh mục.  Anh nói vị linh mục có thể tự do xử dụng lá thư của anh. Ngoại trừ một vài sửa đổi, sau đây là nguyên văn lá thư anh viết:

“Con là một trong những tay bơi lội có hạng ở Gia Nã Đại.  Một ngày kia, con để chúng bạn lôi con vào đường ma tuý.

“Con bị nghiện, và không lâu sau đó, sức khỏe tâm trí, thể xác và tinh thần đều xuống dốc cách thảm hại…  Đời con đảo lộn tất cả.  Con trở nên cô đơn và lo sợ khủng khiếp.  Con không thể nói chuyện được với ai.

“Tệ hơn nữa, con vẫn mắc nợ các tay đầu nậu trên $3,000. Con nghĩ, cách duy nhất để thoát khỏi là tự tử, do đó con về nhà và viết lá thư sau:

‘Cha mẹ yêu dấu,

‘Con xin lỗi đã làm cha mẹ đau lòng…  Xin cha mẹ đừng buồn.  Nếu con sống, con sẽ gây thêm nhiều đau buồn hơn là điều con vừa mới thi hành… Con thương cha mẹ và cả gia đình.

[ký tên] Kiệt’

“Con uống rượu để khỏi sợ hãi khi chuẩn bị kết liễu cuộc đời.  Và rồi, vào giây phút sau cùng, điều gì đó đã khiến con ngừng lại.  Con lấy điện thoại và gọi cho trung tâm giúp đỡ khi khủng hoảng.

“Lúc bấy giờ con không biết là mẹ con đã cầu nguyện cho con một cách cuồng nhiệt.  Một vài ngày sau, con nhập viện cai trừ ma tuý.  Không bao lâu con phục hồi sức khỏe thể xác cũng như tâm thần.

“Chính lúc bấy giờ con mới bắt đầu đọc Kinh Thánh.  Càng đọc con càng cảm thấy bình an và niềm vui.  Điều đó khiến con càng tin tưởng vào Chúa hơn nữa.

“Trong khi đó, con càng khao khát được biết Chúa Giêsu hơn.

“Thật buồn cười.  Con từng quỳ gối cầu nguyện tối thiểu trên mười lần – để xin Chúa đến trong đời con – trước khi con nhận ra rằng Người đã ở trong cuộc đời con từ lúc nào…

“Tất cả những điều này xảy ra cách đây chừng năm năm.  Kể từ đó, Thiên Chúa đã chúc phúc nhiều cho con.  Con dạy học trong một trường Công Giáo và tích cực hoạt động trong giáo xứ…

“Con cũng cố gắng mở lòng mình hơn nữa để đón nhận lòng thương xót và tình yêu của Chúa là Cha chúng ta.

Kính chào Cha

Kiệt”

 *******************************

 Lá thư trên cho thấy một trong những điểm của bài phúc âm hôm nay: Cửa vào nước Chúa thì quả thật chật hẹp.

 Trong trường hợp của anh Kiệt, dường như cửa ấy thật là hẹp.  Nhưng điều đó không làm anh nản lòng.  Anh đã cố gắng và cố gắng cho đến khi vào được.

 Tôi tự hỏi, không biết có bao nhiêu người cũng có can đảm để cố gắng như anh Kiệt.

 Có người nói rằng, Kitô Hữu có ba loại người: loại tầu kéo, loại thuyền buồm và loại bè trôi sông.

 Kitô Hữu tầu kéo là những người theo Chúa Giêsu không chỉ khi trời nắng đẹp nhưng cả khi trời giông bão.

 Họ là những người theo Chúa Giêsu không chỉ khi thuận chèo xuôi mái nhưng còn khi gió cả sóng to.

 Họ là những người tham dự Thánh Lễ không vì bó buộc nhưng vì Đức Giêsu đã nói trong bữa Tiệc Ly, “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy.”  Luca 22:19.

 Họ là những người giúp đỡ người khác không chỉ vì cảm tình mà vì Đức Giêsu đã nói, “Hãy thương yêu nhau, cũng như Thầy yêu thương anh em.” Gioan 15:22. 

Nói tóm, họ là loại người mà bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích chúng ta hãy trở thành. 

Kitô Hữu thuyền buồm, ngược lại, là những người theo Chúa Giêsu khi thuận buồm xuôi gió.  Nhưng khi gió ngược họ lại để xuôi theo chiều gió.

 Họ là những người tham dự Thánh Lễ khi gia đình và bạn hữu cùng đi.  Nhưng để họ tự do thì thường họ quên lãng.

 Họ là những người hay thắc mắc, “Tới mức nào thì được coi là tội?” thay vì “Tôi có thể làm gì vì yêu thương Thiên Chúa và tha nhân?”

 Nói tóm, họ là những người theo Chúa Giêsu qua cánh cửa rộng nhưng lại do dự theo Người qua cánh cửa hẹp.  Họ là những người theo đám đông hơn là theo Phúc Âm.

 Sau cùng, có loại Kitô Hữu bè lênh đênh.  Họ là Kitô Hữu chỉ có tên mà thôi.  Họ không thực sự theo Chúa Giêsu, ngay cả khi thuận chèo xuôi mái.  Nếu họ đi theo đường hướng của Người đó là vì có ai lôi kéo hay xô đẩy họ.

 Họ là những người thực hành đạo không phải vì họ muốn mà là vì ép buộc.

Nói tóm lại, họ là Kitô Hữu chỉ có danh mà không có thực.

 Điều này đưa chúng ta về với các bài đọc hôm nay.  Vấn đề được nêu ra cho chúng ta là: Chúng ta là Kitô Hữu tầu kéo, Kitô Hữu thuyền buồm, hay Kitô Hữu bè lênh đênh?

 Có phải chúng ta là Kitô hữu tầu kéo không?  Chúng ta có theo Chúa khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan không?  Chúng ta có đi với Người không chỉ qua cửa rộng mà còn qua cửa hẹp không?  Hay chúng ta là Kitô Hữu thuyền buồm?  Có phải chúng ta chỉ theo Chúa khi thịnh vượng thôi?  Có phải chúng ta chỉ theo Người qua cửa rộng?

 Có những câu hỏi mà các bài đọc hôm nay đặt ra cho chúng ta.  Không ai có thể trả lời thay cho chúng ta mà chúng ta phải tự trả lời.

 Các bài đọc hôm nay mời chúng ta đối diện với các câu hỏi này với cùng một can đảm mà anh Kiệt đã có được khi đối diện với các khó khăn của anh.  Nếu chúng ta đối diện với các vấn đề giống như anh, chắc chắn chúng ta sẽ có sự trợ giúp của Thiên Chúa như anh đã nhận được.

 Hãy chấm dứt với bài thơ của thi sĩ John Oxenham:

 “Mỗi người đều có một con đường trước mặt: đường cao, đường lưng chừng và đường thấp.

 “Một linh hồn cao quý đi theo con đường cao; và linh hồn thấp hèn đi theo con đường thấp; phần còn lại trôi dạt đây đó trên con đường lưng chừng mù mờ.

 “Mỗi một người đều có một con đường trước mặt: đường cao, đường lưng chừng và đường thấp.  Và mỗi một người phải quyết định cho mình một con đường để linh hồn đi theo.”

 Lm. Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim