Lại suy nghĩ về sự chết – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đầu tháng 05 năm 2025, tin tức từ Việt Nam, ở quê nhà cho biết anh Tr mất, thọ 95, 96 tuổi. Nhưng khi nói đến anh Tr. chết, cháu trong nhà liền nói “đừng nói đến chuyện mất, chuyện chết, không tốt”. Cháu cũng đã 58 tuổi rồi nhưng vẫn sợ nói đến sự chết “vì cho rằng, nhắc đến sự chết là xui xẻo”. Không muốn nói, không muốn nghe nói đến sự CHẾT. Cháu không dám nghĩ rằng làm người ai ai cũng phải chết vì đó là qui luật của tạo hóa: Sinh Lão Bịnh Tử”. Không có ai thoát khỏi qui luật này.

Tần Thủy Hoàng (259 TCN-210 TCN) đã ra lịnh tìm thuốc trường sinh nhưng Tần Thủy Hoàng cũng phải chết.

******

Tôi đã in tất cả 15 tờ giấy có ghi chữ “Suy Ngẫm: Làm Sao Vui Để Đợi Chết”, tôi đã dán trong phòng ngủ cũng là phòng làm việc của tôi.

Ngồi đâu cũng thấy câu này, sáng thức dậy nhìn lên tường là thấy câu này để nhắc nhở tôi về SỰ CHẾT. Làm người ai cũng phải ra đi, sẽ CHẾT, nhưng làm sao trong lúc đang sống cho đến lúc chết, có cuộc sống VUI hơn là sống với tâm trạng buồn rầu.

Thánh Vịnh 90 câu 10 có viết: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”.

1-      Nhờ thường xuyên suy niệm về sự CHẾT, nên khi bị người khác mắng chửi, khinh chê, nói xấu, bịa đặt, vu khống làm ta tổn thương, ta ít bị ảnh hưởng hơn, ít tức giận hơn?

2-      Nếu bị cự nự, công kích ta xem như không có và nên tội nghiệp, thương xót người đó vì phải có lý do nào đó họ mới chửi bới, nói xấu mình.

3-      Cầu nguyện cho họ vì họ đã hiểu lầm. Tại sao phải cầu nguyện cho họ? Nếu ta bỏ qua, đừng để ý đến, đó chỉ là hình thức tiêu cực mà thôi. Còn tích cực ta phải thương xót họ, phải cầu nguyện cho họ để cho họ sáng suốt, để họ phân định đúng, sai và có hành động đúng đắn hơn. Nhờ đó ta không bị ảnh hưởng bởi lời phê bình, chỉ trích vô lý của người khác.

4-       Sự giận hờn làm tim ta đau nhói, làm cho ta mất bình an, làm cho ta khó ngủ. Vậy ta có nên giận hờn không?

Vài suy nghĩ lan man:

-Nếu đau bịnh nặng không tự ăn uống, tắm rửa được thì làm sao?

-Vào sống ở Nursing home; thường có hai ý kiến trái ngược:

  1. a) không thích vì buồn, nhớ nhà, không quen, lạ chỗ
  2. b) đầy đủ tiện nghi có bác sĩ, y tá lo về sức khoẻ.

Vài tháng sau khi ta mất chẳng có ai còn nhớ đến ta. Những người bà con xa gần, thân nhân, con cháu có nhớ đến ta chỉ vài năm mà thôi. Mười năm, hai mươi năm chẳng còn ai biết đến ta chứ đừng nói cả trăm năm sau.

 Kết:

Đến tuổi này rồi, tuổi 83, tôi đã soát xét lại đời mình, thăng trầm quá nhiều, tù cải tạo, lăn lộn làm nhiều nghề khác nhau để sống.

Cho nên tôi luôn tự nhắc nhở cho chính mình:

Tạ ơn Trời mỗi sớm mai thức dậy,

Cho con còn ngày nữa để yêu thương.

Và làm sao phải “Yêu Mến Sự Chết” như lời nói của cố Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận?

Tháng 05 năm 2025

*****

Xin được bổ túc nhân ngày sinh nhật 11 tháng 07

Có sinh thì phải có tử.

Sinh Lão Bịnh Tử đó là quy luật tất yếu ai cũng biết.

Mỗi một ngày trôi qua, ta gần đến cái chết nhiều hơn. Còn trẻ 50 tuổi trở xuống, không thấy hay không nghĩ đến sự chết, nhưng những người đã trên 60 tuổi rồi thường suy nghĩ về sự ra đi của mình.

Tuy nhiên, sự việc 8 người đã chết vì hoả hoạn tại khu cư xá Độc Lập, thuộc quận Tân Phú, Sài Gòn, sáng ngày 07 tháng 07 năm 2025, trong đó có gia đình 4 người, chồng 41 tuổi, vợ 39 tuổi và hai đứa con 11 tuổi và 8 tuổi.

Hàng trăm người đã chết vì lũ lụt ở Kerrville, Texas ngày 08 tháng 07 năm 2025 trong số đó có nhiều trẻ em từ 10 đến 14 tuổi.

Do đó, không ai có thể dám quả quyết rằng “ta hoàn toàn bình an vô sự” cho đến ngoài 90 tuổi??? 

Hôm nay, ngày 11 tháng 07, tôi bước vào đúng tuổi 83, quá thọ rồi phải không? Bây giờ nếu viết cáo phó mới được ghi là Hưởng Thọ 83 tuổi.

Tôi viết để tự nhắc nhở mình một lần nữa thân phận mỏng dòn, yếu đuối của bản thân mình.

Ngày 11 tháng 07 năm 2025

Phùng Văn Phụng

 


 

Duyên nợ với Bạc Liêu – Đoàn xuân Thu

 Đoàn xuân Thu

Chùa Quan Vân Trường của người Hoa tại Bạc Liêu xưa – Nghe cái tên thôi là đã thấy… nghèo! Một chữ “bạc” là đã lạt lẽo, nhạt nhẽo, lại thêm “liêu” nghe buồn hiu như quán rượu đầu sông vắng khách. Nói gì thì nói, ai đặt tên cho xứ này chắc lúc đó chưa trúng số. Ấy vậy mà lạ nha! Ở đời, có những cái tên nghe nghèo nhưng ở bên trong… giàu hết biết. Và Bạc Liêu chính là một trong những cái “giả bộ nghèo ”như vậy đó

  1. Cái tên nghe buồn… nhưng đầy duyên nợ.

Ai từng nghe câu này thì biết:

“Bạc Liêu là xứ quê mùa.

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.”

Nghe qua tưởng người Bạc Liêu tự chê mình quê mùa, nghèo xơ xác. Nhưng nếu bạn tin vậy, thì bạn bị người ta “gài độ” rồi đó nghen!

Câu này không phải tự ti, mà là một đòn “tự trào”, kiểu “giả ngu để thiên hạ tưởng thiệt”. Chứ thực ra, cái quê mùa đó là quê mùa sang chảnh, quê mùa có phong cách, quê mùa mà ăn cơm có người bưng, nước mắm riêng từng dĩa nhỏ

Bạc Liêu

2. Bạc Liêu – cái tên không có trong từ điển… tiếng Việt!

Nhiều người tưởng “Bạc Liêu” là chữ Hán Việt, kiểu như “Bạc” là bạc tiền, “Liêu” là nhà lều – nghĩa là nhà nghèo. Tưởng vậy thì… trật lất!

Sự thật là “Bạc Liêu” không có nghĩa gì trong tiếng Việt cả, mà là âm Việt hóa của tiếng Triều Châu (Chaozhou – người Hoa gốc ở miền Nam Trung Quốc). Gốc từ này là “Po-Liêu”, có nghĩa là dòng nước lớn, chảy xiết. Người Hoa đọc “Po-liêu”, người Việt nghe quen tai, đọc chệch thành… “Bạc Liêu”.

Chuyện đơn giản như đang giỡn vậy đó. Như kiểu ông Sáu nói “sà lang” thành “xà lạng”, hay bà Bảy gọi “champagne” là “chàm panh”. Miễn hiểu nhau là được.

 3. Dưới sông cá chốt.

Cá chốt – nhỏ xíu, mình tròn, da trơn, nhưng kho lên thì ngon bá chấy bù chét

Ở Bạc Liêu, cá chốt không chỉ là cá để ăn mà là ký ức, là chất mặn mòi của đồng, của ruộng!

Hồi đó, mưa xuống là cá chốt bầy kéo nhau lên đồng, bắt bằng tay không cũng được tuốt. Kho với me, kho tiêu, nấu canh chua, nướng mọi – ăn riết mà nhớ đời.

Vậy nên “dưới sông cá chốt” không phải chê nghèo, mà là tuyên ngôn mộc mạc của sự sống ngon, sống thật. Không cần yến sào, vi cá mập, tôm hùm gì ráo. Cá chốt kho tiêu ăn cơm nguội thôi cũng quá đã trong một buổi chiều mưa.

Bạc Liêu xưa.

4.Trên bờ Triều Châu.

Bạc Liêu là đất của người Triều Châu – dân buôn bán, làm ăn siêng năng, thức dậy lúc gà chưa gáy, đóng cửa lúc trăng đã nghiêng. Từ tiệm vàng đến quán tàu hủ, từ rạp chiếu bóng tới xưởng nước đá, đâu đâu cũng có người Triều Châu góp mặt.

Nhưng cái hay là họ giàu mà không khoe, ở nhà gạch bông, đội mũ cối, đi xe đạp sơn lại hai màu, nhưng trong túi có thể rút ra tờ giấy bộ lư như chơi.

Nói “trên bờ Triều Châu”! Tiều trên bờ đâu mà đông như cá chốt dưới sông vậy?

Có người còn nói giỡn “Bạc Liêu không có Triều Châu là… không còn Bạc!” Bạc là kim loại quý sau vàng.

5.Mưa, lý, và sự lâm râm của tâm hồn phương Nam**

Ở Bạc Liêu, trời mưa không phải để lạnh, mà để buồn. Mưa ở đây gọi bằng nhiều tên lắm: mưa lâm râm, mưa bong bóng, mưa dầm, mưa thúi đất, mưa gió chướng, mưa đầu mùa, mưa trái mùa… Nhưng dù tên gì thì mưa cũng ướt lòng chứ không chỉ là ướt áo.

Và mỗi lần mưa, người ta hát lý.

“Lý Con Sáo Bạc Liêu” bay ngang đồng vắng.”Lý Chiều Chiều” rớt vô quán cà phê đầu xóm. “Lý Bạc Liêu” ngân nga trong cải lương “Dạ cổ hoài lang”.

Mỗi điệu lý là một cách người ta nói chuyện tình mà không bị vợ ghen bóng, ghen gió. Vừa hát vừa tự nhiên như ngưòi “Hà Lội” ngó qua nhà vợ thằng hàng xóm. Gặp ai biết đàn guitar phím lõm cỡ con của Văn Vĩ thì thôi rồi Lượm ơi– lý tới sáng, lý tới khi trời mưa ngừng mà tim còn lâm râm không cho ai ngủ nghê gì hết ráo hè!

Bạc Liêu ngày nay không còn quê mùa như xưa cách nay nửa thế kỷ nữa, (dĩ nhiên). Đèn đường sáng, cầu bê tông bắc tới ruộng, công viên có nhạc nước, quán nhậu mở tới 2 giờ sáng cho mày xỉn chết cha mày luôn. Nhưng cái tình của đất, cái lý của người, cái duyên của giọng nói, cái âm của con sáo thì vẫn còn nguyên.

Tên gọi “Bạc Liêu” là một minh chứng tuyệt vời cho triết lý sống của người miền Tây:

**Nghe thì tưởng nghèo, nhưng chơi thì hết biết. Thấy thì tưởng lạt, nhưng ăn thì đậm đà. Nói thì tưởng chơi, nhưng nghe kỹ… là triết lý.

Cuối cùng bạn hỏi tui: “Bạc Liêu là gì?”

Tui trả lời: “Bạc Liêu là một cái tên không có nghĩa rõ ràng, nhưng nghĩa tình thì rõ ràng quá chừng.”

Bạn muốn tìm nghĩa? Mời xuống miền Tây một bữa, đứng dưới mưa ướt dầm bông sói, nghe con sáo nó lý thử coi!

“Lý con sáo bay xa, lý con sáo bay về…”*

Còn tui xa Bạc Liêu đã 30 năm và tui xin bắt chước nhà thơ Nguyễn Bính:

Nói ra sợ mất lòng em,

Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.

 Tác giả: Đoàn Xuân Thu 

From: Tu- Phung

Châu Mỹ và Christopher Columbus – Trần Lý Lê

Trần Lý Lê

Christopher Columbus. (Hình: Wikipedia.org)

13 Tháng Mười năm nay, niên lịch không còn ghi nhận ngày Columbus và không còn là một dịp “nghỉ lễ” nữa.

Người địa phương (ngày trước bị miệt thị là “thổ dân da đỏ”) phản đối suốt mấy chục năm mới thành công. Tôn vinh ông Columbus và cuộc xâm lăng châu Mỹ là một sự sỉ nhục cho tổ tiên họ. Đang sinh sống trên đất nước thì bị đám người tay súng tay dao kéo đến tàn sát và tròng lên cổ người địa phương [thua trận] cái ách nô lệ. Họ phản đối vì lịch sử méo mó “làm đẹp” cho chuyện ngày xưa dù biết bao nhiêu chi tiết về cuộc xâm lăng [của người châu Âu] vẫn còn rành rành chưa mất hết dấu vết. Vì “yếu sức” nên “yểu mạng.” Người địa phương thủa ấy sống phây phây, đâu cần ai khai phá, dạy dỗ nếp sống văn minh kiểu Âu Châu!

Chuyện ông Columbus “khám phá” ra châu Mỹ là chuyện khá cũ, lịch sử viết bởi kẻ chiếm đất. Ông ấy được xem như nhà thám hiểm hàng đầu trong sách vở Âu Mỹ. Thế rồi người đời sau cũng tìm ra ít nhiều chi tiết về chuyến vượt biển lạc đường của ông ấy và con cháu kẻ chiếm đất cũng phải nhìn nhận việc làm [bất nhân] của ông cha mà tạ lỗi với người địa phương. Đầu tiên là chấm dứt việc vinh danh kẻ dẫn đầu [dù hoàng gia Tây Ban Nha đứng sau tài trợ, cung cấp tiền bạc, binh lính, thuyền bè…] chuyến “thám hiểm.” Mãi đến năm nay, niên lịch Huê Kỳ mới vắng bóng chữ “Columbus Day” và một vài cuốn lịch đã dùng “Native American Day” để ghi nhận sự hiện diện của “chủ đất” dù rất muộn màng.

Tất nhiên tại quê nhà xứ Tây Ban Nha bên kia biển rộng, xứ sở ấy vẫn vinh danh ông Columbus. Ông qua đời năm 1506 tại Valladolid, Tây Ban Nha nhưng lại dặn dò con cháu là rinh hài cốt qua đảo Hispaniola, ngày nay là lãnh thổ chung của hai quốc gia Dominican Republic và Haiti.

Đến năm 1542 thì ông được như ý nguyện, nhưng rồi không hiểu tại sao mồ mả lại bị đào lên để chuyển sang Cuba năm 1975 và sau cùng năm 1898, lại đưa về Seville, Tây Ban Nha đặt trong nhà thờ chính tòa của thành phố. Có lẽ đây là thành phố đẹp nhất của Tây Ban Nha theo ý riêng, còn giữ được đầy đủ dấu vết của người xưa kể cả kẻ đã một thời chiếm giữ vùng đất ấy.

Hồi nẳm phe ta ghé qua Seville có đến nhà thờ và nhìn ngắm mộ nổi của Columbus, lần đầu thì vô cửa tự do nhưng lần thứ nhì ghé nhà thờ sau thánh lễ thì phải mua vé đàng hoàng!

Lăng mộ đặt trên bệ cao có những bức tượng “canh gác” chung quanh, cung cách lưu trữ hài cốt ngang hàng với vua chúa thì ta hiểu rằng người Tây Ban Nha nhớ công ơn ông.

Là người dẫn đầu các cuộc khám phá châu Mỹ của người Âu Châu nên cư dân ở bển có khuynh hướng nhận người sang làm họ. Kẻ nói rằng ông Columbus gốc gác từ Genoa, Ý; người lại cãi là ông là người Hy Lạp, Tây Ban Nha gốc Do Thái, gốc Bồ Đào Nha, hoặc gốc Anh?

Tranh luận mãi nên sau cùng, người ta lấy ra một mảnh xương từ quan tài tại Seville đem đi thử nghiệm di tính, DNS. Theo truyền thống Á Châu, ông Columbus là người bất hạnh, thân xác cứ bị đào xới, cắt cứa lu bù cả mấy trăm năm sau ngày qua đời. Mãi không yên. Nổi danh quá cũng … khổ?

Nhóm chuyên viên Tây Ban Nha, sau 22 năm nghiên cứu, Miguel Lorente, người dẫn đầu chương trình tìm kiếm, so sánh DNA từ hậu duệ, mới công bố kết quả qua chương trình truyền hình “Columbus DNA: The true origin.” Qua DNA của người con trai, ông  Hernando Colón, các di tính của họ tương đồng với nguồn gốc Do Thái.

Trong thế kỷ XV, khoảng 300,000 người Do Thái sinh sống tại Tây Ban Nha cho đến khi triều đại Isabella & Ferdinand ép buộc di dân Do Thái và tín đồ Hồi giáo cải đạo, phải theo Thiên Chúa giáo bằng không chịu trục xuất. Nhóm người “tân tòng” này được gọi “Reyes Catolicos.” Những người Do Thái [từ Tây Ban Nha] tản mát khắp nơi để duy trì đức tin và giòng dõi có tên “Sefarad” (Spain theo Hebrew); gốc của chữ “Sephardic,” Sephardic Jews.

Ông Lorente còn nói thêm rằng sau khi thẩm định kỹ lưỡng các chi tiết về nơi ra đời, khoảng 25 địa phương được cho là nơi sinh của nhà hàng hải, và cuối cùng, vùng Tây Âu được chọn, nghĩa là không gọi đích danh một nơi nào.

Sự say mê (hay tò mò?) về nhà thám hiểm không ngừng ở nơi sinh, gốc gác mà còn kéo theo nhiều thứ khác như thư từ của ông ấy cũng được sưu tầm, lưu trữ và buôn bán.

Năm 2020, cơ quan di trú và quan thuế (Immigration and Customs Enforcement – ICE) và bộ Tư Pháp Huê Kỳ công bố đã tịch thu được một lá thư (bản in) của ông Columbus gửi cho các chức sắc Ý trong thế kỷ XV. Lá thư này nằm trong bộ sưu tập của Biblioteca Nazionale Marciana tại Venice, Italy; bị đánh cắp trong thập niên 80 của thế kỷ trước. Lá thư qua tay nhiều người sưu tầm và cuối cùng trong tay của một nhà sưu tầm cổ thư tại Hoa Kỳ. Ông này mua lại lá thư vào năm 2003.

Tháng Bảy năm 2023, giám đốc ICE, ông Patrick J. Lechleitner, “khiêng” lá thư qua Rome, hoàn trả chính phủ Ý theo thỏa thuận quốc tế, không giữ vật bị đánh cắp. Của Cesar trở về với Cesar. Theo ông Lechleitner, trong mấy chục năm qua, đây là lần thứ tư Hoa Kỳ tịch thu được các bản in của lá thư đã bị đánh cắp. Các bản in khác đã được hoàn trả thư khố Vatican City năm 2018, thư viện của thành phố Florence, Ý và Library of Catalonia, Tây Ban Nha.

Lá thư viết bằng chữ La Tinh năm 1493, là một trong 30 lá thư còn sót lại của ông Columbus gửi vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella (hoàng gia Tây Ban Nha) kể chuyện khám phá đất mới. Đây là bản in Plannck I edition, theo tên gọi của nhà in nổi danh Stephan Plannck người đã phát hành hai bản in của lá thư [gốc] trên 500 năm về trước. Cổ thư và phó bản rất quý hiếm, được sử gia và những người sưu tầm tìm kiếm nên thường bị đánh cắp [để bán buôn]. Bản in kể trên trị giá khoảng $1.3 triệu.

Những “cái quạt” xem ra bị thu hút mạnh mẽ bởi người nổi tiếng, bất kể tiếng thơm hay tiếng không thơm, rồi mày mò tìm kiếm cũng như thu nhặt di vật liên quan đến người nổi tiếng nọ. Ông cụ Columbus cũng không ngoại lệ, mồ mả bị đào xới, di hài bị cưa cắt săm soi, vật dụng cá nhân bị (được) truyền tay, con cháu được phỏng vấn (hay bị căn vặn?) đến nơi đến chốn để tìm ngọn ngành mà viết thành lịch sử và những câu chuyện bên lề.

Phe ta cũng là người khá tò mò, khách hàng của những câu chuyện lịch sử, đã tiếp tay phần nào cho những… đào xới kể trên nên có chút áy náy. Các câu chuyện lịch sử về thổ dân châu Mỹ từ những chuyến đi Peru, Guatemala, El Salvador, Berlitz, Honduras xem ra vẫn chưa đủ… cân bằng.

Trần Lý Lê

 – 21 tháng 9, 2025

From: taberd & NguyenNThu

Tiểu Tử, những giọt nước mắt, những tiếng thở dài

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Từ Thức

26/09/2025

Nhà văn Tiểu Tử Võ Hoài Nam (1930-2025)

 LTG: Nhà văn Tiểu Tử, 95 tuổi, vừa từ trần tại Noisy le Grand, ngoại ô Paris, ngày 18/9/2025, sau nhiều năm chống chọi với bệnh tật.

Với lối hành văn ‘’miệt vườn’’, đặc biệt miền Nam, ông ghi lại một cách sống động những màn kịch vừa bi thảm vừa khôi hài ở miền Nam sau 1975. Ông nói thay hàng triệu người cái u uất, cái đau buồn một buổi sáng thấy mình mất quê hương, mất dĩ vãng.

Để tưởng niệm tác giả, xin gởi lại dưới đây bản ghi lại bài nói chuyện nhân dịp ra mắt sách Tiểu Tử trước đây tại Paris, Pháp

 *****

André Gide nói ‘’ Cest avec les beaux sentiments quon fait de la mauvaise littérature ‘’ (Với những tình cảm tốt, người ta làm văn chương dở) (1).

Tiểu Tử là một nhà văn đã chứng minh ngược lại, có thể viết hay với những tình cảm tốt. Trong tác phẩm của ông, hầu như chỉ có những tình cảm tốt , chỉ có tình người.

Một nhân vật nói về một nhân vật khác trong truyện ngắn ‘’Made in Vietnam’’ : người chi mà tình nghiã quá héng ? ‘’ . Độc giả nghĩ tới câu đó mỗi lần đối diện với những nhân vật của Tiểu Tử. Người chi mà tình nghiã quá héng.

Độc giả chai đá tới đâu , đọc Tiểu Tử cũng không cầm được nước mắt. Người ta khóc, nhưng sau đó thấy ấm lòng, vì thấy trong một xã hội đảo lộn, vẫn còn đầy tình người, vẫn còn đầy thương yêu, vẫn còn nghiã đồng bào, vẫn còn những người tử tế . Và thấy đời còn đáng sống.

Một nhà văn Pháp nói văn chương, trước hết là xúc động. Trong truyện ngắn của Tiểu Tử, sự xúc động hầu như thường trực, chan chứa.

MIỆT VƯỜN

Tiểu Tử là một nhà văn miền Nam điển hình, con đường nối dài của những Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.

Văn của ông là lối kể chuyện của người miền Nam, bình dị nhưng duyên dáng, duyên dáng bởi vì bình dị, tự nhiên.

Tiểu Tử không ‘’ làm văn ‘’.

Không có chữ thật kêu, không có những câu chải chuốt. Với cách viết, với ngôn ngữ chỉ có những tác giả miền Nam mới viết được. Không hề có cường điệu, không hề có làm dáng. Người đọc đôi khi có cảm tưởng tác giả không mấy ưu tư về kỹ thuật viết lách. Ông viết với tấm lòng. Không có ưu tư văn chương, đó là một nhận xét gây tranh cãi sôi nổi về các nhà văn miền Nam trên một tờ báo văn học Sài Gòn trước 75. Nhưng nếu Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết như kể chuyện, Sơn Nam – với Hương Rừng Cà Mâu- và sau này, Nguyễn Ngọc Tư- với Cánh Đồng Bất Tận –có văn phong riêng, độc đáo.

Văn chương, trước hết là ‘’ style ‘’. Toni Morrison, nhà văn nữ Hoa Kỳ, Nobel văn chương, nói: nếu tôi đánh rơi vài tờ bản thảo, người lượm được sẽ nói: đây làn ăn thảo của Toni Morrison.

Có hai loại nhà văn : có văn phong hay không . Tiểu Tử thuộc loại nhà văn thứ nhất. Đọc vài câu, người ta biết là văn Tiểu Tử.

Ngay cả tên những nhân vật cũng đặc miền Nam, không có Lan, Cúc, Hồ Điệp , Giáng Hương, như trong tiểu thuyết miền Bắc, không có Nga My, Diễm My , Công Tằng Tôn Nữ như Huế, chỉ có những con Huê, con Nhàn, con Lúa, thằng Rớt, thầy Năm Chén, thằng Lượm , bà Năm Chiên, bà Năm Cháo lòng…

Các địa danh cũng đặc Nam kỳ, không có Cổ Ngư, Vỹ Dạ, Thăng Long, chỉ có những Nhơn Hoà, Cồn Cỏ, Bò Keo, Bình Quới, những tên, những địa danh rất ‘’miệt vườn’’, chỉ đọc cũng đã thấy dễ thương, lạ tai, ngồ ngộ. Âm thanh như câu vọng cổ ai ca bên bờ rạch.

Tiểu Tử , 88 tuổi, kỹ sư dầu khí, tác giả nhiều tập truyện ngắn ( Những Mảnh Vụn, Bài ca Vọng Cổ, Chuyện Thuở Giao Thời ) học ở Marseille, hiện sống ở ngoại ô Paris, nhưng văn của ông không lai Tây một chút nào. Rất Việt nam, đúng ra rất Nam Việt, với lối viết như người ta kể chuyện bên ly la de, bên tô hủ tíu, với những chữ nghen, chữ héng, chữ nghe..’’. ‘’ Cần gì cứ nói nghe cô Hai, đừng ngại. Mình với nhau mà ..’’.

Dưới ngòi bút của một tác giả người Bắc, người Trung, gọi người đàn bà là con Huê, con Nhàn có vẻ hỗn, ở Tiểu Tử, nó chỉ có sự thân ái. Ở ngoài đời cũng vậy, nghe ông gọi ‘’ con nhỏ ” này, con nhỏ kia, người nghe chỉ thấy chỗ thân tình

Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Tiểu Tử đã chứng tỏ ngôn ngữ địa phương, cách diễn tả địa phương làm giầu cho văn hoá dân tộc. Cố gắng bắt chước lối diễn tả Hà Nội là một lầm lỗi, nó chỉ làm cái vốn văn hoá của ta nghèo đi. ( Và đó là nói về Hà Nội ngày xưa, HN của ngàn năm văn vật. Hà Nội ngày nay không còn gì là nơi văn vật, cái gì cũng ‘’ đéo ‘’, như câu đối thoại ở một sạp báo, không biết có thực hay chỉ là chuyện tếu: ”Còn báo Nhân Dân không ? – Đéo còn nhân dân, chỉ còn Người Hà Lội ” )

NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT

Văn chương là hư cấu, nhưng đọc Tiểu tử, người ta thấy cái chân thực, có cảm tưởng không có chi tiết nào là kết quả của tưởng tượng.

Tất cả đều là những chuyện tác giả đã sống, hay đã nghe kể lại . Vả lại, ở Việt Nam, thực tế vượt xa tưởng tượng. Cái đau đớn, cái thảm kịch mỗi người Việt Nam đã, đang sống, không có người viết văn nào, giầu óc tưởng tượng tới đâu, có thể bịa ra. Orwell, Kafka sống dậy cũng chào thua, thấy óc tưởng tượng của mình có hạn.

Trong ‘’ Thầy Năm Chén ‘’, ông thầy thuốc, suốt đời làm việc nghiã, bị cách mạnh hành hạ, chuẩn bị cho con vượt biên. Khi giã từ con, ông đưa cho con, thằng Kiệt, ‘’ một cái gói mầu đỏ đã phai màu, cột làm nhiều gút’’ , nói : ‘’cho con cái ni. (ông già người gốc Huế ). Con giữ trong người để hộ thân.’’ Kiệt đến Cannada an toàn, một ngày dở cái gói của cha cho ngày vượt biển. Trong đó có … ba cái răng vàng. Thầy Năm Chén, nhờ ơn cách mạng, trở thành vô sản, đã cạy ba cái răng vàng cho con làm của hộ thân đi tìm đường sống ở xứ người. Độc giả hiểu tại sao từ ngày con đi, ông Năm Chén chỉ húp cháo.

‘’ Chiếc Khăn Mùi Xoa ‘’ có thể coi là điển hình cho truyện ngắn Tiểu Tử , trong đó có sự xúc động cao độ, đẫm nước mắt, với những nhân vật nhân hậu, giầu tình nghiã, những chi tiết éo le như một cuốn phim tình lãng mạn, nhưng đơn giản, chân thực.

Một người Việt tị nạn ở Pháp về thăm nhà, gặp những người bạn học cũ, trong đó có nhân vật chính, ‘’ con Huê ‘’, sự thực là một người đàn bà đã đứng tuổi. Ông ta kể lại : ‘’Con Huê tiễn tao ra cổng, đứng ngập ngừng một lát rồi bỗng nói một mạch, là lạ, như tụi mình trả bài thuộc lòng thuở nhỏ : Anh qua bên Tây , gặp anh Cương nói em gởi lời thăm ảnh . Nó nói rồi bỏ chạy vội vào trong, tao thấy nó đưa tay quệt nước mắt mấy lần. Tao đứng chết trân, nhớ lại lời con Nhàn, em con Huê, nói với tao : Anh biết không, chị Huê thương anh Cương từ hồi còn nhỏ lận . Người con gái ở quê mình nó thật thà, trung hậu đến mức độ mà khi trót thương ai thì thương cho đến chết. Họ coi đó là tự nhiên , phải có nước lớn nước ròng ‘’.

Tiểu Tử viết chuyện tình âm thầm của người đàn bà từ ngày còn đi học, tới ngày nay đã bạc đầu, với người bạn trai ngày xưa tên là Cương, nhưng sóng gíó 75 đã khiến người đàn ông bỏ nước đi lánh nạn. Người con gái của ông Cương, đang sống ở Bruxelles, đọc truyện, cho tác giả hay bố mẹ đều đã qua đời. Trước khi chết, Cương dặn con gái : ‘’ Con ráng tìm cách về Nhơn Hoà, Cầu Cỏ, trao cái này cho cô Hai Huê, nói ba không quên ai hết ‘’. Chữ ” ai ”, đặc Nam kỳ, dễ thương chi lạ. ‘’Cái này ‘’ là một bao thư, trong đó có chiếc khăn mùi xoa cô Huê đã tặng Cương thời trẻ. Người con gái thấy thương bố , thương cô Hai Huê không cùng. Cô gái đi Việt Nam, một xứ xa lạ, tìm về Nhơn Hoà, Cầu cỏ, tìm người đàn bà tên Huê để trao lại kỷ vật của người đã qua đời. Cô Hai Huê xỉu đi khi nghe tin người bạn xưa đã chết. Hai người đàn bà, một già, một trẻ ôm nhau khóc. Cô gái mang cô Hai Huê sang Bỉ, sống với nhau như mẹ con. Người chi mà…

Nếu bạn là người tưởng mình có tâm hồn sỏi đá vì đã sống, đã chứng kiến đủ mọi thảm kịch của đời sống, nhất là đời sống của một người Việt Nam, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình đang lau nước mắt.

KHÔNG ĐIÊN CŨNG KHÙNG

Thế giới truyện ngắn của Tiểu Tử xoay quanh hai đề tài chính: những kỷ niệm về một Miền Nam hiền hoà, chất phác, nhân hậu ngày xưa, với những trò vui đùa, nghịch ngợm của đám bạn bè trẻ, những mối tình mộc mạc của những người dân quê và, sau đó, những đảo lộn sau 75, khi tai họa trên trời giáng xuống. ‘’ Tất cả đều bị xáo trộn, bị nghịch lý đến nỗi tao sống trong đó mà lắm khi phải tự hỏi : làm sao có thể như vậy được ‘’. Một xã hội vô tư, kể cả vùng quê, hiền hòa, trở thành địa ngục. Chỉ còn hận thù, phản trắc, gian sảo, cướp đoạt, dối trá.

Những nhân vật của Tiểu Tử không còn cười đuà, vui chơi, dễ dãi nữa. Đó là những nhân vật đầy ưu phiền như ông Tư, như bà Hai, như thầy Năm Chén, như anh Bẩy, như bà Năm Cháo lòng. Một xã hội đổ nát, rách bươm. ‘’Những người ‘’cách mạng’’ xông vào nhà, ngang nhiên hùng hổ, như một bọn cướp. Họ ‘’bươi ‘’ từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ sau ra trước…giống như gà bươi đống rác.Gặp gì kiểm tra nấy. Vậy rồi…hốt hết. ‘’

Sau 75 , người ta truyền nhau một câu ca dao mới : Thằng khôn thì đã vượt biên. Những thằng ở lại không điên cũng khùng.

Các nhân vật của Tiểu Tử, vốn là những người miền Nam hiền lành, dễ tin, yêu đời, nhiều người đã hết lòng với ‘’kháng chiến ‘’, sau ”cách mạng’’, đều bị đàn áp, gia sản bị cướp đoạt trắng trợn trong những chiến dịch ‘’ đánh tư sản mại bản ‘’ trở thành không điên cũng khùng.

Ông Tư ( trong IM LẶNG ) là người có gia sản ở Saìgòn, đã bí mật đóng góp tài chánh cho ‘’Giải Phóng’’. Khi Cộng Sản chiếm miền Nam, không những không được trả ơn, mà bị hành hạ, gia sản bị cướp sạch. ‘’ Bỗng nhiên ông Tư nhận thức rằng tất cả những gì thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ cuả ông đang chờ đợi ông ở nhà ‘’. Nhưng bà vợ tiếc cuả, uất hận vì bị cách mạng lưà gạt, suốt ngày đay nghiến, trách móc chồng. Rốt cuộc hai vợ chồng tìm được cách chạy sang Pháp, nơi con trai ông đã được bố mẹ gởi đi du học, đã thành đạt, có nhà cưả sang trọng. Ông con hỏi bố ở chơi bao nhiêu ngày. Ông Tư nói ở lại luôn. Ông con nói, giọng đặc ‘’Việt kiều yêu nước’’ : ‘’ Ủa, sao lại ở luôn. Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên cổ mình hết; vậy mà ba má bỏ qua đây luôn. Thiệt là vô lý ‘’. Ông Tư trở thành một người câm, không nói gì với ai nưã. Cho đến một hôm ông lầm lũi lội xuống biển cho nước cuốn đi. Ông Tư là một ‘’ thằng khôn’’ đã vượt biên, nhưng cái đau đớn bám ông già cho dù có trốn ở cuối chân trời, cuối cùng chỉ có nước biển mới rửa sạch.

Bà Hai ( trong Thằng Đi Mất Biệt ), con cái chết, gia tình tan nát, suốt ngày ngồi chờ đưá con trai còn lại bị đưa đi cải tạo. ‘’ Khi trời nắng ráo, bà đi tuốt ra ngoài vàm rạch, lên ngồi trên môi đất có thể nhìn thẳng qua bên kia sông. Như vậy, khi nào thằng nhỏ nó về, mình thấy nó từ đằng xa, nó có đi đò, trong đám đông, mình cũng nhìn ra đươc nó liền hà ‘’.

Thầy Năm Chén, phòng mạch bị chiếm, con trai phải bỏ đi vượt biển. ‘’Chia tay nhau mà hai cha con không dám ôm nhau. Sợ người ta để ý. Thầy không đưa con ra cổng nghiã trang. Sợ người ta để ý. Thầy không dám để rơi một giọt nước mắt. Sợ người ta để ý. Thầy chỉ thở dài. Thời buổi bây giờ chỉ thở dài là không ai để ý. Bởi vì ai cũng thở dài hết ‘’.

Ông già bới rác ( truyện cùng tên ) là một ông già có công với ‘’cách mạng’’, bi cách mạng cướp hết không còn manh giáp, trở thành khùng, suốt ngày lang thang ngoài đường bới rác, ‘’ tao bới rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng tao đã nuôi trong nhà ‘’

Trong Những Mảnh Vụn , người yêu ‘’ đi chui bán chánh thức ‘’, nghiã là đi vượt biển do cán bộ tổ chức, biệt tăm, chắc mất xác vì tầu quá cũ bị chìm , anh Bâỷ suốt ngày, như một người mất hồn, đi qua lại tất cả những nơi ngày xưa hai người vẫn hẹn hò. ‘’ Bẩy không biết mình đang đi lượm những những mảnh vụn của cuộc tình. Nếu không có cái ‘’ngày cách mạng thành công ‘’ đã thật sự thành công trong nhiệm vụ đập nát tất cả những gì của miền Nam, kể cả những gì nhỏ bé nhứt, tầm thường nhứt như tình yêu của chàng trai và cô gái đó ‘’.

Bà Năm cháo lòng ‘’ vẫn bán cháo lòng, lâu lâu vẫn chửi thằng con mà giống như bà chửi cả nước ‘’

Mỗi truyên ngắn Tiểu Tử thể hiện sống động một giai đoạn lịch sử, tóm tắt trong câu thơ mà người ta gán cho Bùi Giáng, vì trong cái điên loạn của xã hội, người điên tỉnh hơn cả người tỉnh : Đánh cho Mỹ cút, Ngụy nhào. Đánh cho chết mẹ đồng bào miền Nam.

NHỮNG NỤ CƯỜI

Đọc Tiểu Tử, người ta không thể không xúc động. Nhưng văn Tiểu Tử cũng đầy nét khôi hài, những nhận xét ngộ nghĩnh. Phòng mạch của Thầy Năm Chén ‘’bịnh nhơn cũng vắng. Làm như người ta sợ quá rồi…quên bịnh. Trái lại, bên phía chùa thì lại đông người lui tới và ngày nào cũng có người. Làm như người ta chỉ còn biết …dựa vào Phật ‘’.

Qua vài nét chấm phá, ông ghi lại những cảnh trái tai gai mắt, những cảnh lố bịch của những người thắng trận. Những cảnh không biết nên cười hay nên khóc diễn ra trước mắt, mỗi ngày, chỉ cần ghi lại, không cần thêm thắt, bình luận. André Gide : Plus un humouriste est intelligent, moins il a besoin de déformer la réalité pour le rendre significative ( Một nhà khôi hài càng thông minh, càng không cần bóp méo sự thực để làm cho nó có ý nghiã ).

Tiểu Tử không cần bóp méo sự thực, chỉ việc cúi xuống lượm, ghi lại những cái lố lăng, đảo lộn luân thường diễn ra mỗi ngày, trước mắt. Nói như vậy, sự thực không dễ. Phải tinh tế, nhạy cảm mới biết ‘’ lựa ‘’ cái gì, trong một cửa hàng ê hề là xã hội VN những năm sau 75.

Muốn hiểu lịch sử, hay xã hội trong một giai đoạn lịch sử, không gì hơn là đọc các nhà văn. Hơn là những sử gia, những nhà biên khảo, nhà văn, trong vài chữ, vài nét, cho thấy mặt thực của xã hội.

Salman Rusdhie nói ông viết văn, bởi vì đó là cách hay nhất ông tìm thấy để hiểu thế giới chung quanh.

Văn chương đi vào trái tim, trong khi biên khảo chỉ đi vào trí óc. Không có xúc động, rất khó có cảm thông. Không có cảm thông, không sống với người trong cuôc, làm sao hiểu được ?. Staline : ‘’ một người chết là một bi kịch, một triệu người chết chỉ là một con số thống kê ‘’.

Nhà văn không làm thống kê, chỉ ghi lại bi kịch của mỗi nhân vật, của tôi, của anh, của mỗi người. Mỗi câu chuyện là một bi kịch ; hay bi hài kịch – farces tragiques-của một thời đảo điên.

KÝ ỨC CỦA MỘT XÃ HỘI TỬ TẾ

Truyện ngắn Tiểu Tử, với lối hành văn bình dị, linh động là một cuốn tự điển sống của ngôn ngữ miền Nam thời chưa loạn. Đó là kho tàng quý; trong khi ở hải ngoại, chữ Việt càng ngày càng lai Tây, lai Mỹ; trong nước càng ngày càng lai Tầu, với những chữ, những lối nói ngớ ngẩn, đôi khi kỳ quái, khiến tiếng Việt không còn là tiếng Việt, báo hiệu một ngày người Việt không còn là người Việt. Và, từ đó, nước Việt không còn là nước Việt. Nguyễn Văn Vĩnh : tiếng Việt còn, nước Việt còn.

Truyện ngắn Tiểu Tử là những giọt nước mắt, những tiếng thở dài, nụ cười đùa cợt trong những ngày bình an và ngay cả, nhất là, trong cơn đớn đau cùng cực. Ông là một nhân chứng quý báu của một giai đoạn bi thảm của một thuở giao thời. ‘’Chuyện Thuở Giao Thời ‘’ là tựa một tập truyện của tác giả. Nhưng chữ thuở giao thời còn nhẹ quá. Phải nói là một cuộc đổi đời ghê rợn nhất trong lịch sử dân tộc Việt, một dân tộc vốn đã quen ăn nằm với máu và nước mắt .

Độc giả trân trọng với truyện ngắn Tiểu Tử , có lẽ bởi vì đó là một tài liệu quý . Một cuốn phim sống động về một xã hội tử tế đang phá sản, đặc biệt là phá sản về luân lý , về tình người.

Cái xã hội tử tế tử tế đó càng xa dần, càng biệt tăm, rã rời, và biến mất, người ta càng xúc động, như một chiều rảnh rỗi, không cầm được nưóc mắt khi coi lại những tấm hình cũ, thật đẹp, thật thơ mộng, của chính mình ngày xưa.

TƯ THỨC. Paris

1 . A.Gide muốn nói viết văn, phải đi vào tận cùng tâm khảm của con người. Và nếu đi tới cùng, sẽ thấy nhiều cái xấu, cái lở lói. Bản chất con người phức tạp, đời sống phức tạp, cái xấu cái tốt lẫn lộn. Văn chương phải lột trần được cái sự thực đó.

  1. Trên đây là bài nói chuyện của tác giả nhân dịp ra mắt sách của Tiểu Tử ở Paris, ngày 03/01/2015 . Những đoạn văn được trích dẫn từ ba tuyển tập truyện ngắn : Những Mảnh Vụn , Tiếng Ca Vọng Cổ, ChuyệnThuở Giao Thời.

 

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Nguyễn Hoành 

 Bài viết hơi dài “đụng chạm đến nhiều người” xin mọi người hãy chịu khó đọc hết nhé!

BÀ TIẾN HAY ÔNG LÙI CŨNG RỨA THÔI.

Câu chuyện như sau:

Năm 2008 tôi về Quảng Ngãi tìm tư liệu và chuẩn bị làm phim về cụ Huỳnh Thúc Kháng. Khi đang chụp ảnh phần mộ của cụ trên núi Thiên Ấn thì một bác già khả kính đến nói với tôi:

– Anh làm ơn chụp cho đoàn bác vài kiểu ảnh kỷ niệm. Máy bác hết phim ( hồi đó còn chụp bằng phim).

Nói rồi ông gửi tôi cái danh thiếp và hẹn gặp lại ở nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi gần đường Hùng Vương.

Nhìn tấm danh thiếp tôi khoái ngay và chỉ sau một giờ tôi đã đem đến nhà khách biếu quý khách một bộ ảnh rất đẹp, không lấy tiền.

Cảm kích vì nghĩa cử đó và nhận ra mình là đồng hương, quê tôi ở Cẩm Khê, nhà ông ở Xuân Huy, Lâm Thao một làng nhiều Tiến sỹ nhất Việt Nam từ năm …1970 chỉ cách nhau hơn chục cây số, ông tiếp tôi rất nồng hậu.

Khi tôi khéo léo hỏi ông (có ghi âm) về chuyện Y đức thì vị giáo sư bạc đầu này nhận ra ngay.

Ông nói:

-Tôi không trả lời anh đâu, nhưng tôi kể cho anh nghe câu chuyện của chính gia đình tôi, rồi anh làm gì thì làm.

Tôi nghe xong câu chuyện mà xúc động. Câu chuyện này có lẽ đủ tư cách giải thích tất thảy những chuyện vui buồn của ngành y tế, từ chuyện tiêm vacxin chết người đến chuyện Cát Tường, chuyện dịch sởi v.v…

Dưới đây là câu chuyện của GS Võ Như Lành.

-Một lần tôi về phép đúng vào dịp người em tôi bị đau vùng bụng cấp, rất nguy kịch, phải đi bệnh viện ngay ban đêm.

Là nhà nghề tôi leo lên xe đi cùng. Vào khu vực phòng cấp cứu, tôi vui mừng nhận ra vị trưởng phòng cấp cứu là BS Huy, một học trò giỏi của tôi trong trường y.

Khi khiêng băng ca vào phòng, hai lần tôi giáp mặt với BS Huy nhưng tôi chợt nhận thấy hình như anh ta không muốn chào tôi.

Anh đeo khẩu trang nhưng làm sao tôi quên được vầng trán, ánh mắt, dáng đi của một SV đặc biệt đã học tôi 6 năm trời.

Và đêm ấy, theo gợi ý của cô y tá và sự chỉ dẫn của một người lạ, người nhà tôi phải chi ra 2 triệu bôi trơn cho kíp mổ.

Một tuần sau em tôi ra viện.

Tôi cầm tiền lên thanh toán viện phí và chủ trương đối diện với tay sinh viên xưa, nay đã trở thành kẻ bất trị này.

Khi tôi vào phòng y vụ, vừa chìa giấy tờ ra thì cô nhân viên chừng 30 tuổi đứng bật dậy, giọng nói trầm ấm, thân tình:

-Mời thầy đi theo em.

Mặc dù tôi chưa dậy cô này ngày nào nhưng nghe giọng nói thân thiện, tác phong rất chân tình, tôi vô thức bước theo cô.

Cô đưa tôi lên thẳng phòng …cấp cứu. Đến cửa, cô nói:

-Mời thầy vào, Xếp em đang chờ thầy!.

Cô mở cửa ấn tôi vào căn phòng mát rượi và đi ra.

Khi chỉ còn hai người, BS Huy ôm chầm lấy tôi. Anh nói ngay:

-Thầy ngồi đi, em biết là thầy giận em lắm. Rồi em sẽ giải thích ngay đểthầy hiểu.

Tôi lắng nghe.

Vẫn con người ấy, thông minh, lanh lợi, tin cậy và thân tình.. Anh ta nói:

…………..

“ Và nếu hôm đó, thầy trò mình nhận nhau, tay bắt mặt mừng thì có thể, người nhà thầy…chết!.

Nếu kíp mổ nhận thấy họ đang phải thức ba tiếng đồng hồ giữa đêm khuya để mổ một ca không – phong – bì thì chất lượng chuyên môn, các biện pháp hỗ trợ sẽ chạy theo kiểu không – phong – bì thầy ạ.

Bởi vậy, khi gặp thầy, em làm lơ, tính sau kíp mổ sẽ gặp lại thì Thầy đã về nhà rồi.

Hôm nay, em xin tạ tội cùng thầy và em phải nói rằng, em có được như ngày hôm nay là nhờ thầy, Xin thầy đừng từ chối món quà này của em, coi như vài thang thuốc bổ để chăm sóc thầy khi không được gần thầy” .

Huy nói rồi lấy một gói giấy mỏng, gói ghém chu đáo sẵn nhanh tay nhét vào túi trong áo veston của tôi.

Tôi hoàn toàn mất tự chủ.

Sự thể diễn ra hoàn toàn ngoài suy đoán, dự cảm của tôi. Huy vẫn như cậu sinh viên hiếu hạnh, chu đáo và giỏi giang năm xưa.

Cuối cùng, tôi hỏi:

– Tôi có dạy các anh làm thế không?.

– Dạ, thưa thầy, cái lỗi chính nằm ở chỗ ấy ạ. Cái chính là vì các thầy đã không dạy những cái đó, những cái cần – phải – dạy.

Tôi ớ ra, hỏi cho rõ thì BS Huy nhẹ nhàng:

-Ngày làm luận văn tốt nghiệp, các thầy cho một câu hỏi: Người BS chế độXHCN khác với người BS tư bản ở chỗ nào? Nếu ai trả lời rằng, điểm khác biệt đó là người BS XHCN không cần tiền bạc vẫn làm tốt chức phận của mình thì được điểm cao.

Thực tế không phải thế!

Tôi bắt đầu hiểu ra vấn đề. Hình như toàn bộ bi kịch là ở đây. Hình nhưchúng tôi có lỗi. Không có BS nào là không cần tiền cả. Tôi ngậm ngùi thăm hỏi hoàn cảnh BS Huy. Anh nói:

“ Sau khi ra trường, con về phục vụ tại một bệnh viện chuyên ngành chăm sóc cán bộ tại Hà Nội. Bệnh nhân của BV này toàn loại VIP.

Đến bữa trưa, con đem cặp lồng cơm đã nguội hắt có vài cọng rau muống đen xì và nửa quả trứng kho mặn vợ chuẩn bị ra ăn trong khi những bệnh nhân kia chơi gà luộc nửa con, giò chả ngập chân răng và họ luôn có quyền bắt ne bắt nét chúng con.

Đến một lúc, con nghĩ: tại sao cùng là người sao họ sướng thế. Sao mình ra sức phục vụ, ăn học từng ấy năm, tận tụy, hiểm nguy mà khổ thế. Phải “chặt”!.

Lần đầu con chặt, cầm cái phong bì hơi cũng run tay nhưng về sau quen dần, càng chặt càng bén, chặt nhát nào ra nhát ấy.

Về sau con cũng đứng lớp, cũng dạy học trò nghề y cao quý này, ra trường chúng cũng biết chặt, chúng chặt giỏi hơn con, chặt nhát nào ra nhát ấy”.

Tôi không biết nói gì lúc này nữa.

Trong không gian này, tôi không biết ai là thầy, ai là trò nữa. Hình như BS Huy đang dạy cho tôi bài học vỡ lòng về sự bất hợp lý trong những vận động xã hội đã xảy ra, đang xảy ra.

Trên đường về, tôi giở phong bì ra, đếm được mười triệu. Tôi lẩm cẩm nghĩ: Lãi 8 triệu và một bài học quý từ cuộc sống, thôi thì….

Câu chuyện của GS Lành đến đây là hết. Không gian nhà khách UBND tỉnh Quảng Ngãi trầm hẳn xuống. Tôi cũng chẳng biết bình luận gì thêm.

Phải chăng, chúng ta đã tạo ra một không gian để phát triển một loại mâu thuẫn xã hội đằng đẵng dăm chục năm và rồi hôm nay ta đắm mình trong bi kịch đó, bi kịch mà một nhà văn đã nói:

Cái lò xo bị nén xuống ba tấc, khi bật lên, nó sẽ bật lên chín tấc.

Những tiêu cực trong ngành y tế sẽ còn dài chứ không dừng lại ở đây kể cảkhi thay ba bộ trưởng.

Bao giờ cái thiết chế y tế, từ đào tạo đến các nguyên tắc về phúc lợi, nhân đạo, chính trị thay đổi theo hướng tích cực, có lý có tình thì tình hình sẽ tựnó tốt lên, các bạn ạ.

st có chỉnh sửa

Cóp từ FB Nguyễn Khang


Khi nào bong bóng AI sẽ vỡ

Theo báo WSJ và AI

Chi tiêu cho AI đang ở mức kỷ lục. Liệu nó có bao giờ mang lại hiệu quả như ý không?

Các công ty công nghệ đổ hàng trăm tỷ vào các trung tâm dữ liệu, gánh khoản nợ lớn, nhưng doanh thu hiện tại tương đối nhỏ; gợi nhớ đến bong bóng dot-com vào những năm 1990-2000

Những người theo dõi hoạt động của Thung lũng Silicon lo ngại rằng sự nhiệt tình với AI đã trở thành một bong bóng , tiếng cảnh báo ngày càng lớn về  một cơn sốt xây dựng cơ sở hạ tầng giống như thời kỳ bong bóng internet vào cuối những năm 1990. 

Hồi đó, các công ty viễn thông đã chi hơn 100 tỷ đô la để phủ kín cả nước bằng cáp quang với niềm tin rằng sự phát triển của internet sẽ bùng nổ đến mức hầu hết mọi khoản đầu tư đều hợp lý. Kết quả là một cuộc xây dựng ồ ạt, khiến viễn thông trở thành ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất trong cuộc khủng hoảng dot-com. Các gã khổng lồ trong ngành sụp đổ như chuỗi cờ domino, bao gồm các hãng,  Global Crossing, WorldCom và 360Networks.

Ngày nay, trong thế giới chip, các trung tâm dữ liệu vốn tẻ nhạt đã trở thành chiến trường khốc liệt trị giá hàng trăm tỷ đô la, nơi những gã khổng lồ ở Thung lũng Silicon cạnh tranh nhau về các cam kết chi tiêu và xướng lên những danh xưng của khoa học viễn tưởng chẳng hạn như cổng sao – stargate của hãng OpenAI và Oracle. 

Ảnh chụp từ trên cao trung tâm dữ liệu Wisconsin của Microsoft đang được xây dựng.

Microsoft cho biết trung tâm dữ liệu Wisconsin trị giá 3,3 tỷ đô la của họ sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 2026 và ban đầu được sử dụng để đào tạo các mô hình OpenAI. Ảnh: Microsoft

Trong chuyến tham quan cùng các phóng viên báo chí hôm thứ Ba, các giám đốc điều hành của Oracle và OpenAI đã giới thiệu khu phức hợp rộng 1.100 mẫu Anh (khoảng 450 ha), gọi đây là tổ hợp siêu máy tính AI lớn nhất thế giới. Bên ngoài, các công nhân đeo khẩu trang chống bụi và kính râm di chuyển trên những chiếc xe đẩy, cố gắng che chắn bản thân khỏi cái nóng 38 độ C. Một trong những chiếc xe đẩy treo một lá cờ có dòng chữ “Jesus Is the Answer” (Chúa Jesus là Câu trả lời).

Anuj Saharan, người làm việc trong nhóm máy tính OpenAI, cho biết: “Cách đây một năm, nơi đây thực sự chẳng có gì cả”. 

Ảnh chụp từ trên không về quá trình xây dựng đang diễn ra tại một cơ sở hạ tầng AI.

Công ty OpenAI hiện đang hợp tác với các đối tác để xây dựng một khu phức hợp điện toán rộng lớn ở phía tây Dallas. Ảnh: daniel cole/Reuters

OpenAI cũng công bố kế hoạch cho năm trung tâm dữ liệu mới trên khắp Hoa Kỳ

Chúng sẽ được xây dựng cùng với công ty Oracle và tập đoàn công nghệ Nhật Bản SoftBank. Các cơ sở mới này sẽ giúp đưa gần 7 gigawatt điện vào hoạt động, lượng điện này tương đương với khả năng cung cấp năng lượng cho gần tám triệu hộ gia đình.

Các giám đốc điều hành công ty khẳng định rõ ràng rằng cơ sở Abilene chỉ là bước khởi đầu, lưu ý rằng theo tính toán, họ sẽ cần có tới hơn 20 gigawatt năng lực tính toán để đáp ứng nhu cầu bùng nổ của ChatGPT, hiện có hơn 700 triệu người dùng hàng tuần.

Mỗi gigawatt công suất dự kiến ​​sẽ tiêu tốn khoảng 50 tỷ đô la, nghĩa là công ty đang đặt nền móng cho ít nhất 1 nghìn tỷ đô la chi tiêu cho cơ sở hạ tầng. Một giám đốc điều hành của công ty cho biết nhu cầu cuối cùng có thể đạt gần 100 gigawatt, tương đương 5 nghìn tỷ đô la. Con số này vượt quá GDP hàng năm của Nhật Bản hoặc Đức.

Các tòa nhà trung tâm dữ liệu đang được xây dựng tại trung tâm dữ liệu của OpenAI ở Abilene, Texas.

Trong khi các trung tâm dữ liệu cung cấp nhiều việc làm xây dựng (ngắn hạn), thì nhu cầu về nhân lực lại giảm đi rất nhiều sau khi chúng được xây dựng xong. Ảnh: shelby tauber/Reuters

 Một giám đốc điều hành của Oracle cho biết sẽ có khoảng 1.700 việc làm cố định tại chỗ sau khi việc xây dựng kết thúc. Khu phức hợp trung tâm dữ liệu này  nằm cách trung tâm thành phố Abilene gần 6 dặm.

Cơn sốt xây dựng thực chất là một canh bạc đầu cơ lớn, với hy vọng rằng công nghệ sẽ nhanh chóng được cải thiện, chuyển đổi nền kinh tế và bắt đầu tạo ra lợi nhuận ổn định. “Tôi hy vọng chúng ta sẽ không mất đến 50 năm”, CEO Microsoft Satya Nadella phát biểu tại một hội nghị hồi tháng 5 với CEO Meta Mark Zuckerberg , “Đúng vậy, chúng ta đều đang đầu tư như thể việc này sẽ không mất đến 50 năm”, Zuckerberg trả lời.


20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY

Gieo Mầm Ơn Gọi

20 VIỆC ĐƠN GIẢN TÍCH PHÚC LÀNH MỖI NGÀY (Càng âm thầm, càng chân thành phúc càng lớn)

  1. Mỉm cười với người khác – gieo năng lượng tích cực.
  2. Nói lời tử tế, chân thật – lời lành chữa lành tâm hồn.
  3. Giúp đỡ người gặp khó khăn – dù là việc nhỏ.
  4. Đừng vứt rác bừa bãi – bảo vệ môi trường là giữ phúc cho đời sau.
  5. Chăm sóc cha mẹ, người thân – hiếu đạo là gốc phúc đức.
  6. Không sân si, nói xấu người khác – giữ miệng là giữ phúc.
  7. Đọc sách thiện lành, truyền cảm hứng – nuôi dưỡng tâm hồn trong sạch.
  8. Chia sẻ thức ăn cho người thiếu thốn – bố thí là một hình thức bác ái.
  9. Tha thứ cho người làm mình tổn thương – buông bỏ là một cách nhẹ lòng.
  10. Thành tâm cầu nguyện, hướng thiện – tâm sáng thì đường đi cũng sáng.
  11. Tôn trọng mọi người, không phân biệt giàu nghèo.
  12. Không sát sinh, ăn chay khi có thể – gieo lòng từ, nhận bình an.
  13. Tình nguyện, giúp đỡ cộng đồng – góp sức nhỏ, mang ý nghĩa lớn.
  14. Giữ lời hứa, sống có uy tín – một chữ “tín” giữ ngàn phúc lành.
  15. Chăm sóc động vật, không hành hạ chúng.
  16. Biết ơn những gì mình đang có – người biết đủ là người hạnh phúc.
  17. Không tham lam, không chiếm đoạt của người khác.
  18. Khuyên người khác sống thiện, sống đúng – truyền phúc cho người lành.
  19. Tránh tranh cãi vô ích, giữ tâm an tịnh.
  20. Làm việc bằng cả cái tâm, không gian dối – mỗi việc làm đều ghi dấu phúc lành.

Phúc lành không đến từ việc lớn, mà đến từ cái tâm khi làm việc nhỏ. Bạn có thể chọn 1–2 việc mỗi ngày, lặp lại với tâm chân thành, thời gian sẽ chứng minh mọi điều. Chúc bạn một đời an vui – trong tâm có phúc, ngoài đời có may

ST


 

“GIÁO DỤC LÒNG CĂM THÙ” – MỘT BI KỊCH CỦA NỀN GIÁO DỤC HẬU CHIẾN

Nguyễn Quốc Chính

                              ———-*¥¥. Gã Khờ

CỤM TỪ NGHẸN NGÀO..

Tôi đã từng uất nghẹn khi bắt gặp trong văn kiện, trong sách giáo khoa, thậm chí trong khẩu hiệu, cụm từ: “giáo dục lòng căm thù”.

Nghe qua, tưởng như đó là một mệnh lệnh mang tính “cách mạng”, như một thứ ngọn lửa để khích lệ chiến đấu. Nhưng càng nghiền ngẫm, càng thấy đau: căm thù vốn là phi giáo dục. Giáo dục là gieo hạt, là nuôi dưỡng, là khai mở nhân tính. Lòng căm thù chỉ làm chai sạn tâm hồn, làm con người thu hẹp vào hố sâu chia rẽ.

Đất nước ta từng trải qua hàng ngàn năm chống ngoại xâm. Nhưng chưa bao giờ tổ tiên dạy con cháu “căm thù”. Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo từng viết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.”

Sau chiến thắng, cha ông còn cấp thuyền, ngựa, lương thực cho quân giặc về nước. Đó là minh triết của kẻ chiến thắng: chiến đấu để giành độc lập, nhưng không gieo thêm hận thù. Vậy mà, thời hậu chiến, chúng ta lại biến “căm thù” thành một nội dung giáo dục. Ấy là một trượt dài – và cần phải nhìn thẳng.

TRUYỀN THỐNG NHÂN BẢN CỦA DÂN TỘC

Không phải ngẫu nhiên mà sử Việt luôn toát lên tinh thần khoan hòa sau chiến tranh.Thời Trần, sau khi đánh tan Nguyên Mông, thay vì tận diệt, triều đình mở hội nghị Diên Hồng, lo chuyện phục hồi đất nước, và còn cấp ngựa, lương thực cho tàn quân rút về.Nguyễn Trãi soạn văn kiện để tuyên bố với thiên hạ rằng người Việt “lấy nhân nghĩa làm gốc”, không lấy hận thù làm kim chỉ nam.Nguyễn Huệ sau khi đại phá quân Thanh ở Đống Đa, không đem xác thù ra phơi thây, mà cho chôn cất tử tế, rồi gửi biểu cầu hòa.

Từ cổ chí kim, dân tộc này đánh giặc không phải để nuôi căm thù, mà để giành lại sự sống cho mình. Đánh giặc xong, việc cấp thiết nhất là hàn gắn vết thương, chứ không phải truyền đời sự hận hằn.

Ấy vậy, truyền thống nhân bản ấy đã bị bóp méo trong một giai đoạn.

KHI GIÁO DỤC TRƯỢT KHỎI BẢN CHẤT

Sau 1975, trong khí thế toàn thắng, đất nước thống nhất, những tưởng giáo dục sẽ lấy yêu nước, yêu người, khoan dung, sáng tạo làm gốc. Nhưng không, một đường ray khác đã được dựng nên: giáo dục lòng căm thù giai cấp, căm thù “kẻ thù dân tộc”.

Trong sách giáo khoa, học sinh phải thuộc lòng những bài văn, bài thơ gieo mầm thù hận. Trong trường học, nhiều phong trào, khẩu hiệu vang lên với âm hưởng: “Nhớ ơn căm thù…”, “Đời đời căm thù đế quốc…”.

Câu hỏi đặt ra: lòng căm thù có nuôi dưỡng nhân cách không?

Không. Nó chỉ nuôi dưỡng sự đối lập và nghi kỵ. Thay vì giúp thế hệ trẻ hiểu quá khứ, để trân trọng hòa bình, nó lại biến quá khứ thành vết thương chưa khép.

Ở mức chính sách, “căm thù” còn được sử dụng như một thứ công cụ chính trị – để duy trì kỷ luật tư tưởng, để buộc người trẻ phải đi theo một “đường thẳng” có sẵn. Nhưng giáo dục mà thành công cụ, thì đã mất đi bản chất.

HỆ LỤY XÃ HỘI

Hãy nhìn những hệ quả:Chia cắt tâm thức dân tộc: “căm thù” khiến thế hệ trẻ nhìn đồng bào miền Nam, kiều bào hải ngoại bằng ánh mắt nghi kỵ. Thay vì hòa hợp, lại đào sâu hố ngăn cách.Nghi kỵ lẫn nhau: hận thù giai cấp khiến xã hội thiếu niềm tin. Người ta dè chừng nhau theo “lý lịch”, thay vì đánh giá bằng năng lực.Kìm hãm sáng tạo: căm thù nuôi dưỡng sự tiêu cực, không giúp con người cởi mở. Trong khi sáng tạo cần khoan dung, cần thấu hiểu.Làm nghèo đi tình người: khi “căm thù” trở thành giáo điều, thì lòng nhân ái, sự bao dung – vốn là phẩm chất cốt lõi của người Việt – bị lu mờ.

Nói một cách cay đắng: chúng ta đã trồng căm thù, và gặt cô đơn, chia rẽ, hoang mang.

SO SÁNH QUỐC TẾ – BÀI HỌC CẦN NHÌN

Thế giới không thiếu những dân tộc từng trải qua chiến tranh. Nhưng cách họ giáo dục thế hệ trẻ sau chiến tranh khác ta rất nhiều.Đức sau Thế chiến II: không dạy học sinh “căm thù” ai cả. Họ đưa trẻ em đến trại Auschwitz để hiểu bi kịch chiến tranh, để từ đó nuôi dưỡng tinh thần hòa bình, nhân bản, trách nhiệm. Họ nói: “Không bao giờ nữa” – chứ không gieo hận thù.Nhật Bản: sau Hiroshima, Nagasaki, trẻ em được dạy về hậu quả của bom nguyên tử, về giá trị hòa bình, chứ không phải “căm thù nước Mỹ”. Kết quả là Nhật trở thành quốc gia sáng tạo, vươn lên bằng tri thức, chứ không bị nhấn chìm trong oán hận.

Nếu Đức và Nhật gieo căm thù, liệu họ có thể hòa giải, có thể trở thành cường quốc kinh tế, có thể là bạn với cả thế giới?

TRÁCH NHIỆM VÀ NGUYÊN NHÂN

Ai phải chịu trách nhiệm về sự trượt dài ấy?Nhà hoạch định chính sách: đã chọn cách dễ nhất để duy trì sự trung thành – gieo hận thù, thay vì nuôi dưỡng trí tuệ.Người làm giáo dục: không dám phản biện, buộc phải “soạn bài giảng căm thù” như một bổn phận.Xã hội: thụ động chấp nhận, coi đó là lẽ thường.

Nguyên nhân sâu xa chính là tư duy chính trị hóa giáo dục. Khi giáo dục bị biến thành công cụ chính trị, thì mục tiêu “trồng người” bị lấn át bởi mục tiêu “củng cố chế độ”.

ĐIỀU CẦN SỬA SAI

Đã đến lúc cần dũng cảm sửa sai.Xóa bỏ khái niệm “giáo dục lòng căm thù” khỏi mọi văn bản, sách giáo khoa.Thay thế bằng “giáo dục lòng nhân ái, khoan dung, yêu nước, yêu hòa bình”.Học theo Đức, Nhật: dạy trẻ em nhìn thẳng vào bi kịch chiến tranh để rút ra bài học nhân bản, chứ không để nuôi hận thù.Trả giáo dục về đúng bản chất: dạy trẻ làm người tử tế, có trách nhiệm, biết tôn trọng sự khác biệt.

Quan trọng hơn: cần một sự thành thật trong chính sách. Đừng dùng giáo dục để duy trì hận thù. Hãy dùng giáo dục để tạo nên những thế hệ công dân biết xây dựng.

VÌ TƯƠNG LAI CON EM CHÚNG TA

Một dân tộc không thể mãi sống trong bóng tối của căm thù. Thế hệ cha ông đã trả giá bằng máu để đất nước được độc lập. Thế hệ hôm nay phải có trách nhiệm trả lại cho con trẻ một nền giáo dục nhân bản – chứ không phải giáo dục căm thù.

Nếu không, chúng ta sẽ tạo ra những con người mang nặng quá khứ nhưng hụt hẫng với tương lai.

Giáo dục là gieo trồng. Xin hãy trả lại cho giáo dục Việt Nam hạt giống yêu thương, nhân ái, sáng tạo và trách nhiệm. Đó mới là con đường để dân tộc đi xa.

Đã đến lúc phải thẳng thắn nói ra: “Giáo dục lòng căm thù” là một sai lầm. Và sai lầm ấy cần được sửa ngay – để chúng ta có thể ngẩng cao đầu trước thế hệ mai sau.

⏤ Gã Khờ


 

Tự sướng với lòng yêu nước?- Nguyễn Hoàng Văn

Ba’o Tieng Dan

19/09/2025

Nguyễn Hoàng Văn

Tìm kiếm tài liệu liên quan đến “diễn ngôn Đoàn Hương”, tôi bắt gặp một clip của nhà khoa bảng gây tranh cãi này trên trang Youtube: “Hiếm có dân tộc nào mang tinh thần yêu nước trong GEN như người Việt Nam!” [1]

YouTube player

Nghĩa là, không chỉ yêu nước hạng nhất, nhì nhân loại, người Việt còn hơn hẳn những dân tộc khác với tình yêu nước bẩm sinh, yêu ngay từ… đại phân tử DNA chứa mật mã di truyền chứ không tầm thường như thứ tình yêu… nhân tạo, chỉ yêu do bị nhồi sọ, do tác động của bộ máy tuyên truyền. Lời bà này làm tôi nghĩ ngay đến câu thơ của Bảo Sinh:

Tự do là sướng nhất đời

Tự lừa còn sướng bằng mười tự do

Tự lừa để sướng thì cũng có nghĩa là “tự sướng”, nên nói theo Nguyễn Huy Thiệp, đó cũng chẳng khác nào một hình thức “thủ dâm chính trị”, hệ quả từ một cái nhìn hẹp hòi, thiển cận [2].

Để hiểu sự hẹp hòi này thì tốt nhất, hãy lắng nghe ông Václav Havel (1936-2011), một trí thức khả kính, từng là Tổng thống Tiệp Khắc rồi Tổng thống Tiệp, xuất thân là một nhà thơ, nhà soạn kịch và là nhà bất đồng chính kiến kiên cường. Trong cuộc phỏng vấn đăng tải trên báo New York Times vào ngày 30/12/1989, chỉ một ngày sau khi trở thành Tổng thống Tiệp Khắc, ông bày tỏ:

Tôi là người Tiệp. Đây không phải là chọn lựa mà là số phận của tôi. Cả đời tôi sống trên đất nước này. Đây là ngôn ngữ, là nhà của tôi. Tôi sống ở đây như bất cứ ai khác. Tôi không cảm thấy tôi là người ái quốc bởi vì tôi không cảm thấy rằng làm người Tiệp là cái gì đó hơn hẳn người Pháp hay người Anh, người Âu hay bất cứ ai khác. Tôi không hiểu tại sao Thương Đế lại muốn tôi làm người Tiệp. Đó không phải là chọn lựa của tôi. Nhưng tôi chấp nhận điều đó và vì tôi đang sống ở đây, tôi phải cố làm điều gì đó cho đất nước tôi” [3].

Ông Havel không huênh hoang là mình yêu nước. Ông cũng không ưỡn ngực “tự hào quá Tiệp ơi” với ngụ ý rằng làm người Tiệp thì cao quý hơn là làm người Anh, người Pháp người Đức hay người Nhật v.v… Tuy nhiên, với tư cách là một nhà cầm bút sống giữa sức ép của chế độ toàn trị mà không hề thỏa hiệp, không bán rẻ lương tâm mà, hơn thế nữa, còn ngẩng cao đầu như một nhà bất đồng chính kiến quả cảm, ai cũng phải thừa nhận rằng ông, như một cá nhân, đã thể hiện một nhân cách cực kỳ cao quý và với những gì đã “cố làm cho đất nước” thì lại là một nhà ái quốc vĩ đại.

Từ một nhân cách cao quý nhưng hết sức khiêm cung như thế mà quay trở lại với trò tự sướng trong clip nói trên, sẽ thấy có cái gì đó kỳ kỳ, lố bịch, sống sượng. Nhưng lố bịch hay sống sượng đến mấy thì cũng không có gì là lạ bởi, ít nhất, đó là cách mà bộ máy giáo dục của chúng ta dạy dỗ cho bao nhiêu thế hệ, theo đó thì lòng yêu nước là một “bản sắc” của người Việt Nam.

Tôi thử Google ý niệm “bản sắc dân tộc” và tìm ra ngay một định nghĩa ngắn gọn, chắc nịch như đinh đóng cột:

“Nền văn hóa Việt Nam mang những bản sắc dân tộc đặc trưng: Yêu nước, tự cường, đoàn kết, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị” [4].

Bao nhiêu năm qua, chúng ta rót vào tai nhau, dạy đi dạy lại cho bao thế hệ trẻ về “bản sắc dân tộc” những điều như thế, nhưng nếu nhìn lại để đặt nó trong mối quan hệ tương liên với các dân tộc khác thì, thực tình mà nói, chúng ta chẳng khác nào hạng trẻ con, mà cũng chẳng khác lũ ếch ngồi sâu trong đáy giếng.

Nếu “yêu nước” là “bản sắc” của dân tộc Việt Nam thì hóa ra người Nga, người Pháp, người Anh, người Trung Hoa hay người Lào, người Nhật không hề yêu nước của mình?

Và nếu “tự cường” là bản sắc dân tộc thì tại sao chúng ta vẫn lẹt đẹt, thua xa những láng giềng hay những nước Á châu khác từng ngang hàng hay kém xa mình?

Mà không chỉ là lòng “yêu nước”, là tính “tự cường”, toàn bộ những yếu tố kể trên đều cần phải xem lại [5].

Đã gọi là “bản sắc” thì đó phải là những đặc điểm khiến mình khác biệt so với người khác, không phải là những yếu tố chung chung mà hầu như dân tộc nào cũng có. Để tiện, thử so sánh với “bản sắc Úc” mà giới nghiên cứu nước này đã đưa ra vào thập niên 1990, với bốn đặc điểm: Lười biếng, kỳ thị, thế tục và nam tính.

Về sự lười biếng thì, trên thực tế, người Úc không hề lười biếng, họ lao tâm lao lực ra trò. Vấn đề là sự “lười biếng” này được ghi nhận qua một mô thức kinh tế… lười biếng. Úc là một quốc gia phát triển nhưng hoạt động kinh tế, phần lớn, chỉ ở mức… đang phát triển, chỉ đào quặng mỏ lên bán cùng với các sản phẩm canh nông, chẳng khác gì mấy các quốc gia đang phát triển Á, Phi. Nếu Úc không “lười biếng” thì các quặng mỏ và sản phẩm canh nông kia phải được chế biến mà ngôn ngữ kinh tế gọi là thêm phần “giá trị gia tăng”.

Thứ hai là sự kỳ thị. Dù đang theo đuổi chính sách đa nguyên, Úc vẫn bị mang tiếng là kỳ thị do chính sách “White Australia” áp dụng từ năm 1901, theo đó chỉ nhận di dân da trắng. Dẫu chính sách này đã bị bãi bỏ từ năm 1966 nhưng người Úc vẫn ghi nhận là “ấn tượng” về sự kỳ thị vẫn còn đó nên, trong bang giao quốc tế, cần phải “ý tứ” đến yếu tố này.

Thứ ba là chủ nghĩa thế tục, secularism, thể hiện rất rõ ở các chính trị gia Úc nếu so với Mỹ. Ra ứng cử, bất cứ ứng cử viên nào ở Mỹ – từ cấp dân biểu, nghị sĩ đến tổng thống – ai cũng cố bày tỏ lòng mộ đạo, ngọt xớt dẫn chứng Thượng Đế và, khi kết thúc bài diễn văn, luôn luôn lập lại câu kinh nhật tụng “God bless America”. Nhưng các chính trị gia Úc không hề đếm xỉa đến chuyện này và, trên phương diện xã hội, những lãnh tụ tôn giáo thường bị báo chí mang ra nhạo bang, không chút nể nang!

Thứ tư là chủ nghĩa nam tính, masculinism, thể hiện qua sự tôn sùng cũng như đòi hỏi cao ở nam giới. Có thể thấy điều này trong môn thể thao bóng bầu dục, khi các cầu thủ Úc chỉ trang bị duy nhất dụng cụ bảo vệ ở bộ răng, khác với các các cầu thủ bóng bầu dục Mỹ bảo vệ hầu như toàn thân. Hay thói tục trọng thể thao: Dàn nhạc giao hưởng trẻ của Úc trình diễn tại Âu châu đạt thành tích vang dội nhưng truyền thông hầu như chẳng để ý, trong khi đó một cầu thủ quần vợt, một tay bơi đạt giải nào đó là được tán dương tận mây xanh.

Những điều này được phân tích trong môn học mang tính địa lý – chính trị tại các đại học Úc vào thập niên 1990, chuyên về quan hệ giữa Úc và Á châu. Đó là thời điểm mà Úc đang cố gắng hội nhập vào Á châu và “bản sắc” này không chỉ là nỗ lực tự phán, mà còn được đúc kết từ cảm nhận của các láng giềng Á châu về Úc: Muốn hội nhập vào Á châu thì nước Úc phải hiểu rõ Á châu nhìn mình và hiểu về mình như thế nào.

Đó, có lẽ cũng là điều mà đất nước chúng ta phải áp dụng trong nỗ lực gọi là “Tiến ra biển lớn”. Nếu những thế hệ đi trước như Nguyễn Văn Vĩnh từng “xét tật mình” như một cách tự phán thì thế hệ hiện tại phải làm hơn thế nữa: Ngoài việc tự phán còn phải lắng nghe và ghi nhận những phán xét chẳng mấy hay ho và, thậm chí, cực kỳ tồi tệ của người khác về mình.

Trong Chuyện Tử Tế, đạo diễn Trần Văn Thủy đã dựng hai cảnh trái ngược. Một là cảnh một lớp học rách nát tại Việt Nam và những học trò suy dinh dưỡng quàng khăn đỏ trên cổ, trên bục cô giáo giảng bài về niềm tự hào của một đất nước anh hùng, rừng vàng biển bạc v.v… Một là cảnh một lớp học hiện đại tại Nhật nhưng bài học lại là sự bất hạnh của một đất nước nghèo tài nguyên lại bị thua trận trong chiến tranh: Tương lai của đất nước hoàn toàn phụ thuộc vào nỗ lực học hành của các em.

Để “tự cường” thì cần phải dạy sao cho thế hệ trẻ biết nhục về những cái yếu kém của mình, thay vì ê a những bài học vinh quang và tự hào, mà nói theo Vũ Trọng Phụng, là “Biết rồi, khổ quá, nói mãi”. Hãy dạy để học trò biết đau trước những tấm biển “Cấm vào đây ăn trộm” bằng tiếng Việt tại các siêu thị ở Thái Lan, ở Nhật, ở Úc hay lời tuyên bố lạnh tanh “Không được đến đây làm đĩ” tại Singapore [6].

Đừng nên dạy chúng tự sướng, đẩy chúng lên những đám mây xanh tự hào, huênh hoang rằng, chỉ có người Việt mới yêu nước như thế, hay yêu nước nhất nhì thế giới.

Mà không chỉ dạy cho thế hệ trẻ. Phải nhồi vào tai, phải nhét vào đầu của người lớn, cả những kẻ đầu đã hai thứ tóc, rằng nếu thực sự yêu nước thì đừng có làm nhục đất nước mình, đừng có biến đất nước mình thành trò cười của nhân loại.

__________

Chú thích:

  1. https://www.youtube.com/watch?v=eAYsm6xq2rI
  1. “Bệnh nhược tiểu, thói hủ nho và thủ dâm chính trị”: https://vanviet.info/van-de-hom-nay/benh-nhuoc-tieu-thi-hu-nho-v-thu-dm-chnh-tri/
  2. I am Czech. ‘This was not my choice, it was fate. I’ve lived my whole life in this country. This is my language, this is my home. I live here like everyone else. I don’t feel myself to be patriotic, because I don’t feel that to be Czech is to be something more than French, or English, or European, or anybody else. ‘God – I don’t know why – wanted me to be a Czech. It was not my choice. But I accept it, and I try to do something for my country because I live here.”

http://www.nytimes.com/1989/12/30/world/upheaval-east-new-president-man-master-irony-humor-vaclav-havel.html

  1. “Những giá trị bền vững của văn hóa Việt Nam”: https://baodongnai.com.vn/vanhoa/202001/ban-sac-van-hoa-nam-bo-nhung-gia-tri-ben-vung-cua-van-hoa-viet-nam-2984578/
  2. Thí dụ như “đoàn kết”, ngay trong truyền thuyết “trăm trứng trăm con” đã thấy sự chia rẽ rồi: Sau khi đã có một trăm mặt con, Lạc Long Quân phải thú nhận với Âu Cơ là không thể tiếp tục ăn ở, phải cắt đôi gia đình, năm mươi về núi, năm mươi về xuôi. Và càng phải xem lại những “bản sắc” như “lòng nhân ái, khoan dung, trọng đạo lý, trọng tình nghĩa, cần cù, sáng tạo, ứng xử tinh tế và giản dị”.

Lấy thí dụ yếu tố “ứng xử tinh tế và giản dị”. “Tinh tế” là ý niệm phải đặc biệt chú ý trong quan hệ ngoại giao nhưng cứ xem cách bà Nguyễn Thị Kim Ngân, khi còn là chủ tịch quốc hội, “tinh tế” như thế nào khi cùng cho cá ăn với nguyên Tổng thống Mỹ Barrack Obama, khiến ông này, một người rất tinh tế, cũng phải cũng phải bộc lộ ra ánh mắt ngỡ ngàng!

Hay cảnh các quan chức chúng ta tán gẫu như thể là đang uống trà đá vỉa hè, giữa lúc đang chờ làm việc chính thức với Bộ Ngoại giao Mỹ, với câu chốt khét tiếng “Rõ ràng, sòng phẳng. Mẹ nó, có sợ gì đâu!”

Về giản dị thì từ “văn hóa cổng chào” cho đến “lễ” nhậm chức, có thể nói là người Việt Nam hiện tại tỏ ra rườm rà và lãng phí vào hạng nhất nhì thế giới. Tại Úc, mỗi lần thay đổi nội các, chính phủ chỉ đơn giản đến Dinh Tổng Toàn Quyền làm lễ tuyên thệ nhưng tại Việt Nam chỉ quyết định bổ nhiệm một quan chức cấp tỉnh thôi cũng rềnh rang ban bệ từ trung ương về, treo băng rôn, cờ, hoa v.v… lãng phí bao nhiêu thời gian, công sức, tiền bạc.

  1. Khoảng mười năm trước, một tiệm sách tại một trung tâm thương mại ở Sydney treo bảng bằng tiếng Việt: “Ăn trộm là tội phạm, sẽ bị truy tố theo luật hình sự”. Tôi thắc mắc thì người quản lý, một phụ nữ rất cởi mở, giải thích là thời gian qua tiệm bị mất khá nhiều sách và đã theo dõi, sau đó đã bắt quả tang một số sinh viên Việt Nam “không có quốc tịch Úc” trộm sách, đã giao cho cảnh sát. Trung bình mỗi học kỳ một sinh viên tại Úc theo học bốn môn và ít nhất mỗi môn phải mua một cuốn sách tham khảo chính, có môn phải mua đến ba cuốn, mỗi cuốn như vậy, vào thời điểm đó, có giá từ $70 đến $120.

 

Nghĩ về sự liêm sỉ của người cầm bút – Lê Nguyễn

Ba’o Tieng Dan

Lê Nguyễn

16-9-2025

Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, sự xung đột giữa tài năng và nhân cách, sự song hành giữa công và tội là cả một bi kịch.

Trong lịch sử thời Pháp thuộc, đó là những Hoàng Cao Khải, Cao Xuân Dục ở miền Bắc, là Đỗ Hữu Phương, Trần Bá Lộc ở miền Nam. Hai vị trước vừa tích cực ra tay đàn áp, sát hại nghĩa quân kháng chiến chống Pháp, vừa để lại cho đời nhiều công trình văn hóa lịch sử quan trọng còn lưu giá trị đến ngày nay. Hai ông sau cũng lập nhiều “đại công” với Pháp, trong đàn áp các cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân, Mai Xuân Thưởng, được thăng đến hàm Tổng đốc, đến cuối đời cũng làm được đôi điều ích nước lợi dân.

Ông họ Trần ra sức huy động người đào con kênh Tổng đốc Lộc, giúp mở mang sự vận chuyển của cả một vùng rộng lớn, ông họ Đỗ ra sức mở cuộc lạc quyên để xây dựng cho thành phố Sài Gòn ngôi trường Con gái bản xứ (École des filles indigènes), sau là trường Áo tím, trường Gia Long, nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai.

Đến giữa thế kỷ XX, bên cạnh những tác phẩm của Tự lực văn đoàn, cả một thế hệ học sinh, sinh viên miền Nam còn khao khát nền văn học tiền chiến với những Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư…, mà vì lý do chia cách hai miền, tác phẩm của họ không được phép xuất bản ở miền Nam. Bản thân người viết bài này khi cầm được những Thơ Thơ, Gửi Hương Cho Gió của Xuân Diệu, Lửa Thiêng của Huy Cận, Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân từ một ông “Bắc kỳ di cư” chuyên cho thuê sách cũ, lòng rưng rưng xúc động như bắt gặp của quý tự nghìn đời.

Thế rồi, sau năm 1954, sự kiện Nhân văn – Giai phẩm như một quả bom nổ giữa trời quang, lột trần trụi nhiều sự thật, làm sụp đổ những thần tượng của thế hệ chúng tôi. Bi kịch đó đeo đẳng cuộc đời mỗi nhà văn, nhà thơ cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay, đồng thời cũng tạo nên một bài học về liêm sỉ của người cầm bút.

Những năm trước 1975, cuộc chiến khốc liệt giữa hai miền Nam-Bắc biến tuyên truyền thành vũ khí sắc bén nhất để giành lấy thắng lợi về các mặt tinh thần, tâm lý, kể cả mặt ngoại giao. Đó là thời kỳ hoàng kim của Hòn Đất (Anh Đức), Người Mẹ Cầm Súng (Nguyễn Thi), thơ Tố Hữu …, những “tác phẩm” vẽ lên hình tượng những người cầm súng bảo vệ mảnh đất mình đang sống không còn là những con người, mà là một loài ngạ quỷ hút máu người, ăn thịt người, lấy sự chém giết làm lẽ sống.

Sau tháng 4.1975, tưởng như với sự thống nhất về địa lý, giang sơn thu về một mối, một quá khứ với bao nhiêu “sự thật” bị vẽ vời, phóng đại sẽ được xếp vào tàng cổ viện, không ngờ nó vẫn tiếp diễn với quán tính cũ, với một thế hệ nhà văn kế thừa sự bịa đặt của lớp đàn anh.

Lần này, văn chương còn được sự chắp cánh của phim, kịch, tạo nên những Ván Bài Lật Ngửa, Ông Cố vấn, Biệt Động Sài Gòn,… và nhiều lúc hình ảnh những kẻ bại trận còn được miêu tả ghê rợn hơn, như cảnh người lính miền Nam moi tim gan đối phương, nướng ăn và còn chia nhau hai hạt… tinh hoàn. Sự tưởng tượng cao siêu đến mức ghê tởm!

Xét cho cùng, so với Hòn Đất của Anh Đức, Người Mẹ Cầm Súng của Nguyễn Thi và “tác phẩm” của nhiều người cùng thời khác, thì Mưa Đỏ của Chu Lai chẳng là cái đinh gì. Không may cho ông, quyển tiểu thuyết được chuyển thể thành phim trong một thời điểm mà lương tri con người và tinh thần yêu chuộng sự trung thực và công bằng đang được mạng xã hội dành cho những điều kiện tốt nhất để phát huy. Vì thế, thay vì phùng mang trợn mắt, cãi chầy, cãi cối như nhiều người khác, sự bối rối của ông Chu Lai cũng còn ẩn chứa một chút liêm sỉ của người cầm bút, ta nên thông cảm phần nào với ông để nhà văn còn có dịp ngẫm lại mình.

Nhà văn Chu Lai và tiểu thuyết Mưa Đỏ của ông đang gây tranh cãi. Nguồn: CAND

Thân phận một nhà văn quốc doanh lắm trái ngang, không dễ gì nói được hết những suy nghĩ của mình. Đến như Phùng Quán, vang danh một thời với Lời Mẹ Dặn, mà còn có lúc tự thú rằng ông đã ngồi ở Hà Nội để tưởng tượng nên một Vượt Côn Đảo “địa ngục trần gian”.

Cũng xin đừng như ai kia, đánh tráo khái niệm bằng cách so sánh tính hư cấu của bộ phim lừng danh Titanic với phim Mưa Đỏ, qua cảnh mô tả anh lính miền Nam thiêu sống anh tù binh phương Bắc. Sao nỡ lòng so sánh như vậy? Trong Titanic, sự hư cấu nâng giá trị nghệ thuật lên một tầm cao mới, còn trong Mưa Đỏ, sự hư cấu mang tính bịa đặt nhằm vùi lấp danh dự của người bại trận xuống bùn đen, và ghi đậm trong tâm hồn thế hệ trẻ sự ngộ nhận và thù hận đối với thế hệ cha anh của họ.

Ngày nay, nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, đã là xa xỉ chưa? Mình nghĩ là chưa. Vẫn còn đó những tiếng nói của lương tri đang ngày càng nở rộ trên mạng xã hội, đặc biệt của những người từng lớn lên dưới mái trường XHCN, nay vừa qua một thời tuổi trẻ và đang nhìn lại xã hội mình đang sống với cái nhìn trung thực, thẳng thắn và nhân văn. Đọc bài viết và bình luận của những bạn đó, mình rưng rưng xúc động, hy vọng vào một thế hệ kế thừa đang ngày càng sáng suốt, nhiều tình người hơn.

Nói đến sự liêm sỉ của người cầm bút, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu chúng ta không nhắc đến nhà thơ Hữu Loan, con người đã coi khinh nghịch cảnh, đạp bằng trở lực, dành quãng đời còn lại đi đập đá và thồ đá để nuôi sống gia đình. Con người đó xứng đáng được tạc thành một tượng đài bất tử, và tên được đặt cho nhiều con đường để vinh danh cho tiết tháo và liêm sỉ ở đời.

Chừng nào xã hội chưa làm được điều đó, nhiều người trong chúng ta vẫn còn bất an cho tương lai của những thế hệ đến sau mình.


 

HẬN THÙ KHÔNG TỰ SINH RA

Lê Thọ Bình 

Khi cảnh sát Mỹ gõ cửa nhà Robinson ở Utah, người cha, một cựu sĩ quan cảnh sát trưởng, đã lặng lẽ đưa con trai mình ra đầu thú. Chỉ vài giờ trước đó, chàng trai 22 tuổi ấy thú nhận đã nổ súng vào Charlie Kirk, kết thúc cuộc đời một con người và khởi đầu cho bi kịch của cả gia đình.

Khoảnh khắc người cha nắm tay đứa con trai trẻ bước ra, có lẽ là khoảnh khắc đớn đau nhất. Đó vừa là sự tố cáo, vừa là tình yêu thương bất lực. Ông biết con mình phạm tội, và ông cũng biết, đằng sau tội ấy còn có một sự thật khác: một thanh niên non trẻ đã để hận thù chiếm lĩnh tâm hồn.

Trước đây, Thomas Matthew Crooks, 20 tuổi, đã nổ súng vào cựu Tổng thống Donald Trump, khiến ông bị thương. Hung thủ bị hạ gục ngay sau đó. Hôm nay, Tyler Robinson, 22 tuổi, bắn chết Charlie Kirk.

Tại sao những vụ việc ấy không đến từ các sát thủ chuyên nghiệp, mà lại từ những gương mặt “mặt búng ra sữa”, vẫn còn nguyên sự ngây thơ của tuổi đôi mươi?

Câu trả lời nằm ở chỗ: hận thù không tự sinh ra. Nó được gieo, được nuôi, được dẫn dắt. Và chính những người trẻ, dễ tổn thương, dễ bị dắt mũi, trở thành mảnh đất màu mỡ nhất cho hạt giống ấy nảy mầm.

Trong giảng đường Mỹ hôm nay, nhiều ý thức hệ chính trị được đưa vào như một phần của giáo dục. Một số câu chuyện được kể một chiều, nhấn mạnh vào sự bất công và nạn nhân, bỏ qua bối cảnh phức tạp.

Người trẻ, vốn sống bằng cảm xúc nhiều hơn lý trí, dễ bị cuốn vào những diễn ngôn ấy. Từ đồng cảm đến phẫn nộ, từ phẫn nộ đến căm ghét, chỉ là một sợi dây mong manh. Và khi căm ghét trở thành lăng kính để nhìn thế giới, một viên đạn có thể được bóp cò dễ dàng.

Cha của Robinson là một người nghiêm khắc, có trách nhiệm. Mẹ từng làm việc trong trung tâm hỗ trợ người khuyết tật. Gia đình không tan vỡ, không có bi kịch bạo lực. Nhưng cũng giống như hàng triệu gia đình khác, họ bận rộn với công việc và đời sống riêng, trong khi con cái lớn lên cùng nỗi cô đơn.

Khi những câu hỏi sâu thẳm của tuổi trẻ không tìm được câu trả lời trong gia đình, chúng sẽ tìm đến cộng đồng khác, trên mạng xã hội, trong các nhóm kín, nơi đầy rẫy ngôn ngữ cực đoan. Và ở đó, những tâm hồn non trẻ được “chăm bón” bằng hận thù, ngày qua ngày.

Mỹ là quốc gia tôn thờ tự do, nhưng cũng chính vì thế mà hận thù có đất sống. Súng dễ mua, ngôn từ cực đoan dễ phát tán. Một bình luận kích động có thể đến với hàng triệu người chỉ sau vài giây.

Những thanh niên chưa đủ chín chắn để phân biệt đúng sai trở thành nạn nhân. Họ không sinh ra để giết người. Họ chỉ bị cuốn đi trong một cơn lốc, cho đến khi chính mình cũng không còn làm chủ được bàn tay siết cò súng.

Nhìn vào những vụ việc này, điều quan trọng là dám đối diện: những kẻ gây án không chỉ là thủ phạm, họ còn là nạn nhân. Nạn nhân của một hệ thống giáo dục thiên lệch, của một gia đình lỏng lẻo, của một xã hội dung dưỡng cực đoan, của một mạng xã hội đầy kích động.

Hận thù không tự sinh ra, và cũng không tự mất đi. Nó là kết quả của những gieo mầm liên tục, âm thầm nhưng bền bỉ. Khi đủ điều kiện, nó nảy mầm và nổ tung.

Phật giáo gọi đó là nghiệp. Thiên Chúa giáo gọi đó là tội lỗi. Nhưng trước khi phán xét bằng ngôn ngữ tôn giáo, ta phải nhìn thấy sự thật trần trụi: nếu xã hội không thay đổi, nếu gia đình không gắn kết, nếu giáo dục không cân bằng, thì những viên đạn ngày mai sẽ vẫn được bóp cò bởi những gương mặt sáng sủa hôm nay.

Có người nghĩ rằng đây chỉ là chuyện của nước Mỹ. Nhưng ở bất kỳ quốc gia nào, nơi nào mạng xã hội tràn ngập ngôn ngữ thù ghét, nơi ấy đều có thể sản sinh bi kịch.

Ở Việt Nam, từng có những nhóm thanh niên trẻ nhân danh yêu nước, công kích, chửi bới, gieo rắc cực đoan trên mạng. Họ không cầm súng, nhưng ngôn từ của họ cũng có thể làm tổn thương, chia rẽ, hủy hoại một cộng đồng.

Điểm chung vẫn vậy: tuổi trẻ dễ tổn thương, dễ bị dắt mũi. Và hận thù, dù bằng súng hay bằng lời, đều gieo thêm khổ đau.

Khi một viên đạn rời khỏi nòng, nó không chỉ giết chết một con người, mà còn giết đi cả niềm tin, tình yêu, hy vọng của bao người xung quanh. Nó giết đi tuổi trẻ của chính kẻ bóp cò. Và nó nhắc nhở xã hội: không thể coi những vụ bạo lực ấy chỉ là “tai nạn” cá nhân.

Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật: hận thù không tự sinh ra, nó được gieo, được nuôi, được dẫn dắt. Nếu không chịu trách nhiệm, bi kịch sẽ cứ lặp lại, ở Mỹ, hay ở bất kỳ đâu trên thế giới.

Chú thích ảnh:

-Hung thủ 22 tuổi- nghi can giết Krisk cùng cha;

– Hung thủ 20 tuổi bắn ông Trump nhiều phát suýt chết, đã bị cảnh sát bắn chết.


 

Người tử tế không phải là người dễ bắt nạt

Gieo Mầm Ơn Gọi

 Người tử tế không phải là người dễ bắt nạt. Họ thường chịu thiệt thòi, vì họ không nỡ làm tổn thương ai. Họ lựa lời để nói, họ đặt lòng tốt làm chuẩn mực.

Nhưng có những kẻ nhầm lẫn sự tử tế với sự yếu đuối. Tưởng rằng người tử tế là kẻ dễ lợi dụng, dễ thao túng, dễ bị đè đầu cưỡi cổ.

Họ nhầm rồi.

Người tử tế có giới hạn. Họ chịu đựng, họ nhẫn nhịn nhưng khi giới hạn đó bị vượt qua, họ sẽ lạnh lùng quay lưng, không cần cảnh cáo. Họ không trả thù, họ chỉ biến mất khỏi cuộc đời của bạn.

Tử tế không phải là ngu ngốc. Tử tế là một dạng sức mạnh, một trái tim biết yêu thương, nhưng cũng biết buông bỏ.

Nếu bạn gặp một người tử tế, hãy trân trọng họ.

Đừng để mất rồi mới nhận ra: không phải ai cũng đủ tử tế để ở lại trong cuộc đời mình.

St