VỀ GIÀ

 Xuyên Sơn

Về già, là khi ta có một đôi mắt mờ đi nhưng lại nhìn cuộc đời rõ hơn trước.

Vì có những thứ không thể nhìn bằng mắt thịt, và cũng có những điều không thể nghe bằng tai trần.

Về già, là khi đôi chân mỏi mệt khi đã bị kéo lê gần hết quãng đường đời nhưng khi ngoái đầu lại ta dường như mới là đứa trẻ ngày hôm qua.

Bây giờ ta bước chậm hơn trước, chắc hơn trước và cũng trân trọng hơn từng cái chạm đất, vì có thể ngày mai ta không còn bước đi được nữa.

Về già, là khi ta dùng đôi tai điếc của mình để nghe thiên hạ đang xôn xao về chuyện đời và ta biết rằng hơn một nửa trong số ấy không là thật.

Bây giờ, âm thanh êm dịu duy nhất chỉ có tiếng chim tiếng gió và những âm thanh còn đọng lại trong lòng ta, của những người ta từng trân quý nhưng bây giờ không còn thể gặp lại nữa.

Về già, là khi ta nhận ra rằng ta đã may mắn như thế nào khi từng được hít thở không khí một cách thoải mái, vì bây giờ, mỗi hơi thở là một thước đo của sự sống.

Ta thở ra nhưng ta không thể biết có thể hít vào một lần nữa được hay không?

Về già, là khi những người tri kỷ ta còn ngồi lại cùng ta hoài niệm về một thời xa xưa, tuy là không nhiều.

Âu đó cũng là quy luật tự nhiên, khi ta không còn giá trị, những bằng hữu sẽ rời xa ta, người còn ở lại nhất định ta phải trân quý.

Về già, là khi ta nếm đủ ngọt bùi đắng cay của cuộc đời.

Những thứ làm ta say đắm ngẫm lại vui sướng không là bao nhưng đau khổ lại rất nhiều.

Có những thứ ta cứ tưởng nắm chặt trong tay rồi thì ngày mai lại trôi đi mất.

Cuộc đời như một trò đùa mộng mị mà người chơi phải trả bằng cả tuổi thanh xuân của mình, bây giờ ngẫm lại chỉ toàn là hối tiếc…

Suốt đời quý nhất cũng chỉ là hai tiếng bình yên.

Hạnh phúc cũng không phải là điều gì quá xa vời, nhưng có những người gần lúc cuối đời mới nhận ra được điều đó.

(sưu tầm)


 

Câu chuyện: Già “khú đế” – BS Đỗ Hồng Ngọc

Những Câu Chuyện Thú Vị – Nguyen Minh

  Ngạc nhiên vì bài viết của BS Đỗ Hồng Ngọc được nhiều người tán thưởng…ngẫm ra độc giả …đa số đều già nên thấm thía những gì ông viết…

Mời các bạn đọc tiếp nhé :

Câu chuyện: Già “khú đế”

BS Đỗ Hồng Ngọc

  1. “Già khú” là giai đoạn một, thêm một bước nữa thì gọi là “già khú… đế”. Khú, Từ diển tiếng Việt bảo là “để thâm lại và có mùi hôi”, thí dụ dưa khú, tức là một thứ dưa để lâu quá, sắp hư. Khú đế là “vua” của khú, hơn hẳn các khú!

Thật là một sai lầm lớn khi ta nghĩ rằng già sẽ đến từ từ, cứ từ từ mà thích nghi, mà giải quyết mọi chuyện lần lượt. Không đâu. Già nó xồng xộc trên trời rơi xuống, dưới đất vọt lên. Không những xồng xộc nó còn gia tốc, tàn bạo như cơn sóng vỗ vào bờ đá, vội vã để mau chóng nhập vào dòng nước cuồn cuộn đuổi theo sau. Nó mạnh mẽ và tàn nhẫn, tung tóe, tan tác, lắng chìm, không một chút xót thương. Nó lãnh đạm bởi nhiệm vụ nó phải thế. Nó thú vị bởi nó không phân biệt. Giàu nghèo sang hèn, da trắng, da đen… Còn ta, ta chần chờ, chểnh mãng, làm ngơ… Hãy đợi đấy. Đi đâu mà vội… Không đâu! Một hôm già bỗng chuyển hệ sang già…khú, rồi khú đế đột ngột làm đảo lộn mọi thứ tính toan. Quên tuốt những ký ức, lẫn lộn điều nọ với điều kia, thứ này với thứ khác, tai không nghe rõ, nói không trôi chảy, mắt không nhìn tinh… như làn sóng đã bắt đầu tung tóe!

Già đến đột ngột và tàn bạo. Như một cơn động đất, không cần phải hỏi han, không cần báo trước. Như một cơn bão dữ, thổi ào qua, cuốn tất cả không thương tiếc. Khi nó khú đế, nó sẵn sàng làm ta trở nên lố bịch, buồn cười, ngớ ngẩn, đáng thương. Khi nhìn quanh những người già khú đế mà… còn khỏe, ta nghĩ ta chắc cũng sẽ như họ. Còn lâu. Số người như vậy rất hiếm.

Nhưng, như vậy phải chăng làm ta sẽ nhìn đời bi quan ? Không đâu. Trái lại. Nó làm cho cuộc sống của ta có chất lượng hơn, có ý nghĩa hơn. Người ta không cảm nhận được thời gian vì thực ra chẳng có thời gian.

  1. Thỉnh thoảng gặp người bạn thân lâu ngày chưa gặp lại, thấy bạn sao mà nhăn nheo, già khú, hỏi mới biết còn nhỏ hơn mình vài tuổi! Bạn kể cho nghe chuyện đôi khi gặp lại « người xưa » của bạn, tưởng tình ngỡ đã quên đi như lòng cố lạnh lùng, người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Ai dè không vậy. Đôi mắt huyền xưa, chiếc mũi dọc dừa… bây giờ khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang; vai gầy guộc nhỏ, từng ngón xuân nồng bây giờ chuối ngự…. Còn ta thì sao? Nguyên Sa bảo ta chỉ có thể đo đếm tuổi mình qua ánh mắt cố nhân. Thử nhìn vào gương. Có gì khác lạ đâu nào? Ấy là bởi mình quen nhau quá rồi nên chẳng kịp thấy đổi thay. Thế nhưng, đã không còn những dấu chân chim ở khóe mắt mà hằn sâu như vạn lý trường thành… Khóe miệng thì nặng nề trễ xuống như bị sức hút của quả đất. Ở một nơi không có trọng lực chắc không đến nỗi?

Bạn nhắc toàn chuyện nửa thế kỷ trước… Nào đi cắm trại Suối Lồ Ồ với Nguiễn Ngu Í, Lê Phương Chi, Hồ Xích Tú, Nguyễn Công Thuần, Quách Giao…, nào lang thang chợ sách vỉa hè Saigon, “truy lùng” sách quý, nào cà phê chiều tím, chiều nhớ thương ai… Mấy đứa cháu nội mười bảy mười tám ra vòng tay chào bác, chào bác… Bạn quắc mắt: “Ông” chớ sao lại bác! Thấy chưa, tụi nó gọi ông bằng ông nội mà gọi tui bằng bác, thấy chưa?

Bạn có khoảng đất rộng chơi cây kiểng một thời. Cả một vườn mai vàng rực cho những ngày Tết nay đà xơ xác. Căn nhà rộng đã nhường cho các con, cất một mái nho nhỏ bên cạnh như một cái am cốc, một tủ sách, một cái TV, và nhất định không xài điện thoại di động, vi tính… Đủ rồi đó, nay mai, sẽ dọn dần về những căn nhà nhỏ hơn, nhỏ hơn nữa. Rồi cùng mà cười. Bạn nói đã làm xong di chúc. Và cũng đã căn dặn, rải xuống sông Soài Rạp, quê nhà.

Phone cho người bạn ở tận miền Trung xem bạn đã khú ra sao. Bạn đi vắng. Không biết đi đâu. Chị càu nhàu. Hỏi “tình hình” sao rồi? Chịu hổng nổi ổng. Chị nói. Tôi chỉ muốn “cắn” ổng mấy cái! Ấy, chớ, đừng. Đừng cắn. Chị mà cắn ổng người ta tưởng chị “mê” ổng lắm đó. Tục ngữ có câu: “Yêu nhau lắm cắn nhau đau” mà, nhớ không? Hồi xưa hai ông bà mê nhau như điếu đổ! Anh bạn làm thầy giáo, một nhà thơ rất dễ thương, lấy bút hiệu con gái để dễ đăng những bài thơ mượt mà trên các báo thời đó. Giờ anh đi lai rai chỗ bạn bè, em cháu, những chốn chùa chiền…

  1. Nhân có bác sĩ Thịnh ở Mỹ về, chúng tôi ơi ới gọi nhau rôm rả ở một quán hải sản thành phố. Theo lời một anh bạn, quán hải sản có cấu trúc mỗi phòng như một khoang thuyền để mọi người lắc lư cùng sóng gió.

Thiệt là tay bắt mặt mừng. Nhiều khi ngớ ra. Biết mặt mà quên tên. Biết tên mà quên mặt. Học chung với nhau dưới mái trường y khoa Saigon đằng đẵng bảy năm trời, không thể không quen, vậy mà đôi lúc cũng ngỡ ngàng, chưng hửng! Người thì hom hem… người thì béo ị… người bạc trắng, người cà khêu… Ôi cái thời sinh viên y khoa hào hoa phong nhã, tếu táo vung trời! Có lẽ do cái sự học y dài lâu và nghiệt ngã, tiếp cận bao nỗi con người… nên bọn y khoa nổi tiếng là tiếu lâm hạng nhứt, mặc dù học hành nghiêm túc chẳng ai bằng!

Nhớ thời đó, ai vào y khoa cũng bị đặt cho một cái “biệt danh”, cái “hỗn danh”, cái “tục danh” chịu hổng nổi, rồi chết cứng với tên gọi đó suốt đời. Bạn bè gặp nhau chỉ cần kêu một tiếng thì cả một dĩ vãng ùa về…! Tên có thể quên chớ tục danh thì khó mà không nhớ. Thịnh, là Thịnh Văn Chương, “Chương còm”. Qua Mỹ mất tên, còn họ, “Doctor Thịnh”! Tại sao còm? Bởi còn có Chương “chuột”, rồi Cầm “chim”, Sơn “gà”…Tại sao chuột? Nhìn nó… chuột, thế thôi. Còm nay đã hết còm, chuột nay không còn chuột. Thế mà cái “tục danh” còn đeo đẳng mãi làm nhớ cái anh ốm nhom, lòm còm mà nhanh nhẹn, cái anh thấp lùn mà lém lĩnh, thông minh…. Còn anh bạn Mai cao nhòng, ngất ngưỡng, hình như có lúc làm ban đại diện lớp, được gọi là “Mai vói” (phát âm theo giọng Nam bộ!), bởi ai muốn nói chuyện với anh cũng phải vói lên một chút!. Rồi bạn C – có lẽ vì nghiêm trang, ít khi đùa giỡn – nên được gọi là “ C bặt”. Nhưng chuyện của anh bây giờ là một tấm gương luôn được bạn bè nhắc tới. Anh bị đủ thứ bệnh, toàn bệnh nặng, biến chứng tùm lum, mấy phen tưởng đã xong, thế rồi anh quyết định tự xây cho mình một cái kim tĩnh… Từ đó anh khỏe hẳn ra, không thèm bệnh, không thèm chết nữa!

Bỗng có bạn hỏi, Lộc bây giờ ở đâu? Lộc nào? Lộc nào? Nhao nhao lên. Lộc “tr” hả? Đang ở Úc, rồi Q heo, rồi H “nám”, để khác với H “Rhade”, H “mù”, H “con”… Rồi Cường “sùi”, Thăng “lùn”, Bá… kẻ còn người mất. Cả đám bác sĩ vào trường y nửa thế kỷ trước bây giờ đều trên dưới bảy mươi không mấy ai là không bệnh tật! Đã bệnh thì toàn thứ dữ. Bác sĩ mà! Nhồi máu cơ tim, nong, stent, by pass… tai biến mạch máu não, tiểu đường, thận, khớp,…

Nhưng thật lạ lùng, bạn bè cũ cứ ngồi với nhau một lúc nhắc những chuyện xưa bỗng dưng ai nấy đều trẻ lại không ngờ. Trẻ như không hề có thời gian.

Muốn tìm lại tuổi trẻ,

Cứ đi kiếm bạn già!

Chuyện xưa như pháo nổ,

Tuổi trẻ về tà tà

Thân người dùng quá đát,

Bệnh tật tới phà phà!!!

Chữa đây, nẩy ra đó?

Bực mình cười ha ha.

Chẳng chữa, xây kim tĩnh!

Quên quá, thì cứ khà,

Tụ tập khú và đế,


 

 Bhutan

  Bhutan

Bhutan là đất nước nhỏ nhắn nằm cheo leo trên những triền núi của dãy Hymalayas hùng vĩ. Được mệnh danh là đất nước hạnh phúc nhất thế giới, ở Bhutan không có sự phân biệt giàu nghèo, họ không coi trọng vật chất mà lấy thước đo tinh thần làm chỉ số đánh giá hạnh phúc trong cuộc sống. Người Bhutan luôn duy trì niềm vui trong cuộc sống và nụ cười mãn nguyện luôn nở trên môi.

Ở Bhutan, trẻ con không được hỏi rằng “Hôm nay con được mấy điểm?”, mà là “Hôm nay con có khiến ai mỉm cười không?”

Người Bhutan dạy con không phải bắt đầu từ những bài học về toán hay tiếng Anh, mà bắt đầu từ việc cúi đầu chào một cụ già, chia đôi bánh với bạn và buông tha cho một con kiến đang tìm đường về tổ.

Trong mỗi bữa ăn, họ nhắc con thầm cảm ơn người đã nấu, người đã gieo trồng, người đã gánh gạo qua núi rừng…

Lòng biết ơn ấy thấm dần thành sự tử tế không cần điều kiện.

Họ không trừng phạt khi con nổi giận, họ ngồi bên và nói:

“Con buồn phải không? Mình cùng thở nhé.”

Chỉ vậy thôi, cơn giận bé lại như một đám mây tan trên đỉnh núi.

Ở nơi ấy, lòng từ bi không phải điều cần dạy, mà là điều cần sống cùng mỗi ngày.

Từng cái nắm tay, từng cái ôm, từng lời nói dịu dàng – chính là mảnh đất để hạt giống yêu thương lớn lên trong con trẻ.

Có lẽ, ta không cần dạy con trở thành người giỏi nhất lớp.

Chỉ cần con biết không giẫm lên hoa, không cười khi bạn khóc, và biết xin lỗi khi lỡ làm ai buồn.

(Theo Những Câu Chuyện Nhân Văn)

 From: haiphuoc47 & NguyenNThu

Sách cũ miền nam 1954 -1975- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

03/10/2025

Đã định tâm như thế rồi. Cho nên, khoảng 6 tháng trước khi về Sàigòn để thăm lại bạn bè, bà con mình, tôi đã nhờ bạn bè bên ấy tìm cho tôi những sách mà tôi muốn tìm. Thật ra ít có ai có thì giờ và có lòng để đi làm một công việc vô bổ như thế. Biết bao nhiêu phần đời tôi, biết tìm cái gì, biết mua ra sao…

…Rất may là tôi còn những người bạn có lòng để tâm giúp đỡ, tên anh là Hồ Công Danh. Đó không phải là đi mua sách cũ mà là một việc truy lùng, sục sạo, mò mẫm đầy bất trắc và may rủi, nhưng cũng đầy thú vị và mủi lòng.

Bởi vì sách vở thời ấy, số phận nó như số phận người. Nó cũng phải trốn chạy, chui rúc, ẩn náu. Chúng cũng rơi vào cảnh mồ côi cha mẹ, cảnh lạc đàn, cảnh tan nát, cảnh tan hoang mất còn. Vận người dân miền Nam thế nào, vận chúng như thế. Đứa may trốn thoát. Tôi có đứa cháu trai, hồi đó, 6, 7 tuổi. Khi đi di tản năm 1975, cháu chỉ mang cặp sách của cháu và nhặt một cuốn sách giáo khoa tâm lý học tôi viết thời đó. Sang sau vài năm, cháu đưa lại cho tôi. Kể cũng mừng và cũng buồn cười. Đứa yểu tử thì làm mồi cho cuộc phần thư. Đứa không may làm giấy gói xôi buổi sáng. Đứa bất hạnh làm giấy chùi đít. Đó là cuộc trốn chạy vô tiền khoáng hậu mà những kẻ đi truy lùng chỉ là các trẻ con lên 12, 13 tuổi. Các cháu ngoan bác Hồ. Họ xô những đứa trẻ con vô tội đó ra đường. Chúng quàng khăn đỏ hô hoán, reo hò như trong một vụ đi bắt trộm, hay đi bắt kẻ gian. Chúng lục soát tận tình, chúng đánh trống, chúng hát hò như một cuộc ra quân của một đoàn quân chiến thắng.

Gia đình nào cũng sợ hãi cái quang cảnh đó nên kẻ mà phải hy sinh đầu tiên chính là sách vở.

Sách vở gì cũng sợ nên sách gì cũng phải tẩu tán. Sách vở bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, mặc dầu chúng là người ngoại quốc, mặc dầu chả dính dáng gì đến chuyện chính trị hay chiến tranh Việt nam, chúng cũng chịu chung số phận. Tôi cũng có khá nhiều sách vở bằng tiếng Pháp, nhưng tôi biết rằng, trước sau gì tôi sẽ không bao giờ dùng đến chúng nó nên lôi ra bán ve chai mà không thương tiếc. Sách nhỏ bán trước, sách lớn bán sau, cuối cùng là bộ Bách Khoa tự điển bằng tiếng Anh tuần tự rơi vào tay các ông bà bán ve chai. Ở nơi ấy, chẳng mấy khi mà Aristote gặp được Kant. Cũng chẳng ai ngờ được Bùi Giáng gặp mặt được Heideigger.

Sách cũ đối với tôi là một ám ảnh mời gọi tìm về. Trong đó đặc biệt có truyện sưu tập tài liệu triết cũ. Cũng từ những sách cũ đó mà trước đây tôi lớn lên, được nuôi dưỡng và phát triển về trí năng mỗi ngày. Nếu cơm gạo miền Nam cho tôi lớn lên thì sách miền Nam nuôi dưỡng tôi thành người thông tuệ.

Đi truy lùng lại sách cũ là tìm lại một phần bản thân tôi vậy.

Nhưng khi tôi nói sách cũ thì không có nghĩa là sách cổ, mà là sách của miền Nam xuất bản trước 1975. Sách mà theo báo cáo của Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng tại kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội, ngày 26 tháng 6, năm 1976 là: “Việc xây dựng nền Văn Hóa mới đuợc tiến hành trong cuộc đấu tranh quét sạch những tàn dư mà Mỹ đã gieo rắc ở miền Nam. Đó là thứ Văn Hóa ‘nô dịch’, lai căng, đồi trụy, cực kỳ phản động..” [I].

Để thực hiện nghị quyết trên, họ đã làm mọi cách: tịch thu, tàng trữ và đốt sách và coi sách vở báo chí miền Nam chỉ là thứ rác rưởi. Phần tôi, tôi dám gọi đó là đống rác tinh thần, tài sản của tất cả trí thức, nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà phê bình, nhà khoa học miền Nam trong vòng hai mươi năm đã bị đốt. Tóm lại, đó là đống rác thân yêu của miền Nam, cho người miền Nam gìn giữ lấy.

A.- Tình hình sách cũ hồi 1975.

Cộng chung số sách đã bị tịch thâu, hay bị đốt theo là bao nhiêu. Hình như chưa có ai hỏi câu hỏi đó và cũng chưa bao giờ có câu trả lời. Có thể chẳng ai biết được. Chỉ tính theo đầu sách thôi, các số liệu cũ của Bộ Thông Tin cho thấy, vào tháng 9-1972, theo Ủy Hội Quốc Gia Unesco, Việt Nam Cộng Hòa trung bình đã cấp giấy phép cho 3000 đầu sách được xuất bản một năm. Cộng chung từ năm 1954 đến 1975, đã có khoảng từ 50.000 – 60.000 đầu sách đủ loại được xuất bản, thêm vào đó 200.018 đầu sách ngoại quốc được nhập cảng. Giả dụ mỗi đầu sách in tối thiểu 3000 cuốn. Sẽ có 180 triệu cuốn sách tiếng Việt bị tiêu hủy. Đây chỉ là một lối tính ước chừng. Và như vậy số sách bị tịch thâu, bị đốt, bị bán ra vỉa hè hay ve chai là khoảng 180 triệu cuốn trên khắp miền Nam. Miền Nam theo nghĩa từ Bến Hải vào đến Cà Mâu.

Con số này đã không còn đúng nữa khi ta đọc một bài viết của ông Vũ Hạnh, một nhà văn thời VNCH và là một đảng viên cộng sản trong bài: “Mấy ý nghĩ về Văn Nghệ thực dân mới đăng trong tuần báo Đại Đoàn kết: Từ 1954 đến 1972, có 271 ngàn loại sách lưu hành tại miền Nam, với số bản là 800 triệu bản.” Trong khi đó sách của ông Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra con số 357 ngàn loại. Và ông Đàn dám cả gan nói: Như vậy là con số của Vũ Hạnh gần như khớp với con số chúng tôi tìm được. Thưa ông Trần Trọng Đăng Đàn, con số cách nhau gần một trăm ngàn mà ông dám bảo là khớp thì tôi chịu ông. Các ông đã bao giờ biết nói thật chưa.

Cũng vậy, tờ Tin Sáng số ra ngày 1 tháng 8, năm 1976 tính rằng: Từ năm 1962 về sau, tại Nam Việt Nam đã xuất bản 208 bộ sách chưởng, gồm 850 quyển, con số phát hành này ước tính 5 triệu bản, bằng số sách giáo khoa trung học xuất bản cùng thời gian. [ii]

Con số này, xin nhờ những vị chuyên gia về Kim Dung cho biết xem thực hư ra sao. [iii]

Độc giả thân mến, xin ghi nhận những thống kê của Ủy Hội Quốc Gia Unesco VN là tài liệu đáng tin cẩn. Tôi chỉ xin nói một điều, nước Pháp hiện nay mỗi năm xuất bản khoảng 1000 đầu sách tiểu thuyết mới. Làm sao VNCH có thể xuất bản mỗi năm hơn 20 chục ngàn đầu sách một năm. Những con số của ông Vũ Hạnh hay gì khác là một thổi phồng đến phi sự thực. Tôi không dám bảo là ông ấy nói láo khoét. Hãy trả lại các ông ấy những gì các ông ấy viết. Chỉ cần so sánh con số dự đoán giữa ông và Trần Trọng Đăng Đàn đưa ra cũng cách nhau cả gần một trăm ngàn đầu sách. Điều đó muốn nói với chúng ta điều gì.

Nay tất cả những sách đó đều ra tro. Đây là một chính sách man rợ và xuẩn động của nhà cầm quyền Hà Nội. Dĩ nhiên, người ta đã không đốt hết mà mang bán, chính vì thế nay còn rơi rớt lại một số nhỏ nơi các tiệm bán sách.

Vì sợ hãi nên người ta mang sách vở tài liệu ra chợ bán ký, đó là thứ hàng vô dụng và nguy hiểm nhất trong lúc ấy. Người ta đốt những sách nào liên quan đến chính trị, nhất là sách vở chống Cộng. Người ta đốt những nhà văn nào liên quan đến chính trị như Nguyễn Mạnh Côn. Nhã Ca, Phan Nhật Nam v.v… Người ta cũng đốt tài liệu, hình ảnh cũ, giấy tờ, huân chương, bằng khen. Đó cũng là thứ mà những người chủ mới không muốn nó có mặt.

Người ta đốt tất cả những kỷ niệm, dù đẹp nhất của đời mình.

Mọi người phải tự hiểu rằng, phải đốt tất cả những gì cần đốt, không phải chỉ đốt những kỷ niệm mà tất cả những gì liên quan đến đời sống đó. Một đời sống mà tự nó đã là một điều xấu, một bản án.

Muốn sống yên, người ta phải đốt tất cả quá khứ đời một người cùng với những kỷ niệm, những sự nghiệp từ quá khứ đó mà ra.

Sách không đốt thì được bày bán lén hoặc công khai. Sự bầy bán sách vở như thế coi như dân chúng bắt mạch được thâm ý người chủ mới muốn gì. Nhưng trong số vạn người bán, vạn người mua, vẫn có những người nhà buôn bất đắc dĩ mà đặc loại là một số nhà văn, nhà giáo chế độ cũ nắm được cái chìa khóa của nhu cầu và ý nuốn của người đọc. Họ tìm ra giữa những kẽ hở để thấy được trong hàng tấn sách báo thải loại, cái nào là thứ hàng có giá trị, có giá đối với người chủ mới. Nạn chợ đen, nạn săn tìm sách cũ cho một thị trường mới nhờ thế càng phát triển.

Một cách nào đó, chính những nhà giáo, nhà văn, những kẻ bán sách lề đường, những tên lái sách trở thành những người bảo tồn Văn hóa miền Nam.

Sách phản động càng cấm, càng có giá. Đó là phản ứng ngược chiều ở thời điểm đó. Trên báo Đại Ðoàn Kết, ngày 10-11-1982, Đinh Trần Phương Nam thú nhận một thực tế phũ phàng như sau: “Các hoạt động của chúng ta vừa qua thật rầm rộ, thật phong phú và đa dạng, song các loại sách báo phản động đồi trụy, đã bị quét hết chưa. Xin thưa ngay là chưa.” Số Tiền Phong ngày 23-9-1985 cũng than thở “Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều đợt bài trừ sách báo xấu, nhưng hiện nay hiện tượng mua bán và cho thuê các loại sách báo xấu vẫn còn tồn tại.” [iv]

Những sách càng bị cấm lại càng có giá trên thị trường đen. Trên vỉa hè phố, những sách từ ngoài đó được phép bầy bán nằm chống mốc, cong queo ít được ai ngó tới. Người ta bầy những sách trên để che mắt mà thôi. Người mua sách sành điệu chỉ cần hỏi tên một tác giả nhà văn Ngụy. Năm phút sau, chạy đi một lúc có liền.

Lại một thách đố nữa cho người chủ nhân ông mới.

Sách Ngụy trở thành một thách đố chính quyền mới, thách đố ai hơn ai chứ không phải ai thắng ai.

Thách đố mang tầm vóc văn học, giá trị nghệ thuật dựa trên nhu cầu người đọc. Sách hay thì tìm đọc, sách tuyên truyền thì không đọc.

Đài phát thanh thành phố ra lệnh phải thu nộp tất cả các sách vở, báo chí, phim ảnh, tài liệu in ấn trước ngày 30 tháng tư được coi là đồi trụy. Nhiều người tiếc rẻ đem bán kilô. Các gói xôi bán buổi sáng, nay có tên Nguyễn Thụy Long, Nhã Ca, Thanh Tâm Tuyền. Vừa ăn, vừa đọc kể cũng vui. Nhiều chỗ mang sách vở cũ ra đốt. Mà phải đốt lén vào ban đêm.

Nhưng sau đó ai cũng thấy đốt là phí phạm. Không đốt thì sách vở đó đi đâu? Không ai biết nữa. Nhiều người nhắc nhở đến tên Tần Thủy Hoàng. Nhưng chẳng ai để ý đến có mối liên hệ gì giữa chuyện xưa và chuyện nay.

Tại sao lại dị ứng với văn học như thế? Không lẽ tất cả đều là phế liệu, tàn dư Mỹ Ngụy hết sao?

Sách nào là phản động, đồi trụy?

Vì thế sách cũ ở đây được đồng hóa với sách cực kỳ phản động, không phản động thì đồi trụy, không đồi trụy thì lai căng. Mấy chữ trên như những khẩu lệnh bao trùm và truy chụp hầu như bất cứ tác giả nào và bất cứ quyển sách nào.

  • Trước hết, các nhà xuất bản sách thiếu nhi bị cấm toàn bộ.

Đó là các nhà xuất bản như Tuổi Thơ, Nắng Sớm, Tuổi Hoa Niên, Sách Đẹp, Viễn Du, Hùng Dũng, Hoa Hồng, Hoa Hướng Dương, Hoa Mai.

  • Các dịch giả Kiếm Hiệp sau đây cũng bị cấm: Kim Dung, Cổ Long, Trần Thanh Vân, Nam Kim Thạch, Từ Khánh Phụng, Phan Cảnh Trung, Long Đức Nhân.
  • Các tác giả có sách bị cấm toàn bộ như: Bùi Giáng, Chu Tử, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Hải Thủy, Lệ Hằng, Mai Thảo, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Toàn, Thế Uyên, Thanh Nam, Võ Phiến, Văn Quang, Vũ Hoàng Chương, Vũ Tài Lực, Nguyễn Mộng Giác, Thảo Trường, Nguyễn Thị Hoàng..

Nhận xét:

– Những nhà xuất bản sách thiếu nhi này ấn hành đặc biệt các truyện dành cho thiếu nhi. Những sách đó có tính cách giáo dục, giải trí, hay nêu gương tốt cho các em thiếu nhi. Nội dung lành mạnh và có chất lượng giáo dục. Những nhà xuất bản này thường bất vụ lợi, có sự tài trợ đằng sau của những tổ chức tôn giáo, hay những nhà xuất bản có lòng như trường hợp ông Khai Trí. Vậy mà tội tình gì cũng bị cấm. Cứ cấm là cấm, cấm một cách trùy dập vô tội vạ và vô ý thức.

Các trẻ em miền nam tự nhiên mù chữ vì không có sách đọc.

Về các dịch giả truyện Kiếm Hiệp cho thấy đây là những sách dịch vô tội vạ, vô thưởng vô phạt xét về mặt luân lý, giáo dục. Chủ đích của người dịch trước hết có thể là giải trí người đọc. Ai đọc truyện kiếm hiệp chả thấy hấp dẫn và hay, đọc để giải trí. Sau đó mới nói tới những chủ đề tình yêu, y học, võ thuật, nhân vật truyện, chất hài, chất ghen tuông, chất giang hồ, kiếm pháp trong các truyện kiếm hiệp ấy. Sách phải được coi là bổ ích và nó là bộ phận không nhỏ trong sinh hoạt Văn học miền Nam.

Trẻ đọc, già đọc, bình dân đọc, trí thức đọc… Mỗi người tìm ra được cái thích thú cho riêng mình.

Đến có thể nói, một trong những nét đặc thù trong sinh hoạt Văn Học miền Nam là sách của Kim Dung.

Kim Dung tên thật là Trà Lương Dung. Truyện võ hiệp đầu tay là Thư Kiếm Ân Cừu, xuất bản ở Hương Cảng, từ đó có bút danh Kim Dung. Năm 1957 ra bộ Anh Hùng Xạ Điêu, 1969 ra Lộc Đỉnh Ký. Cho mãi đến 1978 Đài Loan mới rút lệnh cấm tác phẩm Kim Dung và 1986, sau khi tiến lên 4 Hiện Ðại Hóa ở Trung Quốc mới xuất hiện Kim Dung. Truyện chưởng Kim Dung “độc bá quần hùng” trong sinh hoạt văn học ở miền Nam thời ấy. Vào năm 1968, khi xuất hiện Tiếu Ngạo Giang Hồ trên tờ Minh Báo thì có đến 44 nhật báo ở Sàigòn đều tranh nhau dịch và đăng lại. Tình trạng mê Kim Dung đến như thế, và kéo dài cho đến 1972-1974 khi bộ Lộc Đỉnh Ký ra đời. Và đây là lời Vũ Đức Sao Biển, tốt nghiệp Đại học Văn Khoa, Sàigòn, ban Hán Văn: “Tôi học cách làm người, cách đối xử nhân thế, đắc thủ được những kiến thức hoàn toàn không có trong giáo trình đại học từ các tác phẩm của một nhà văn nước ngoài chưa hề biết mặt.”

Với lượng tác phẩm đồ sộ như thế, với số người đọc đông như thế, không thể không tìm hiểu văn học miền Nam nhất là văn học dịch mà bỏ qua tác giả Kim Dung. Người ta có thể bàn về bất cứ vấn đề nào của con người, của xã hội. Có thể từ tình yêu, bạo lực, đạo đức, tâm lý hay sự đánh tụt giá của chủ nghĩa bạo lực trong truyện Kim Dung. Từ vấn đề nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật tiểu thuyết, chất thơ, chất hài… đến chứng cứ kiếm pháp, Võ và Hiệp, cho đến những vấn đề có thể trở thành tranh luận văn học như hư cấu nhân vật, hư cấu lịch sử. Kim Dung đã hư cấu lịch sử Trung Hoa cách đấy ba thế kỷ mà vẫn hay với cấu trúc tiểu thuyết liên hoàn. Vương Sóc, nhà văn-nhà phê bình Trung Hoa (mà nghĩ đến ông tôi bắt nghĩ đến Trần Trọng Đăng Đàn của Việt Nam), đã gọi tiểu thuyết Kim Dung là một trong “tứ đại tục” bởi đã hư cấu méo mó hình tượng người Trung Hoa. Từ đó đã gây thành những tranh luận lớn khắp Hoa Lục. Lại còn vấn đề tôn giáo, giáo phái trong tiểu thuyết. Luận về anh hùng và những nhân vật biểu tượng như Kiều Phong, một đại trí, đại dũng lại rất giầu tình cảm và lòng nhân ái vời vợi? Trương Vô Kỵ, Lệnh Hồ Xung, tài trí hơn người, hành xử quang minh lỗi lạc, tốt bụng hơn người? Dương Quá, Địch Vân, Hồ Phỉ… Rồi còn nhân vật nữ, những mỹ nhân như Hân Tố Tố, Nhậm Doanh Doanh, Triệu Minh, Tiểu Siêu, Song Nhi, v.v… mỗi người mỗi vẻ, mỗi người một thông điệp. Không có những nhân vật nữ đó, tiểu thuyết Kim Dung còn gì?

Vấn đề tâm đắc đối với tôi: Vấn đề chính hay tà, vấn đề thị phi trong cuộc đời, giữa Hiệp nghĩa và xã hội đen, giữa danh môn chính phái và ma giáo. Ai chính, ai tà. Tà chính khác nhau chỗ nào? Đọc Kim Dung sẽ thấy sự phân biệt Chính và Tà là vô thực. Trong Kim Dung, có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là Chính Nghĩa, và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Sự sa đọa xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử phái Toàn Chân thì còn ai tin gì ở Chính Nghĩa?

Chuyện đã hay, cơ man nào nhân vật, cơ man nào tình tiết chòng chéo lôi kéo người đọc. Kim Dung phải là người kiến thức rộng, đọc nhiều, dùng Quan Thoại, một thứ ngôn ngữ trong sáng, lại kế thừa truyền thống của những nhà văn như Lâm Ngữ Đường, Tào Ngu, Lỗ Tấn… đã biến những chuyện võ hiệp tầm thường thành những tác phẩm để đời. Đã vậy, có những dịch giả như Hàn Giang Nhạn chuyển ngữ tài tình làm say mê độc giả VN.

Hễ hay thì người đọc, dở thì bị người bỏ quên.

– Về các tác giả, các nhà văn bị xóa sổ cho thấy tính cách tổng quát hóa và khái quát hóa đồng loạt. Tỉ dụ thơ của Vũ Hoàng Chương như Hoa Đăng, Thơ Say, Tâm Sự Kẻ Sang Tần thì tại sao cấm. Gìn Vàng Giữ Ngọc và Giòng Sông Định Mệnh của Doãn Quốc Sỹ thì chỗ nào là phản động, chỗ nào là đồi trụy. Duyên Anh với Hoa Thiên Lý, Sa Mạc Tuổi Trẻ, Ngựa Chứng Trong Sân Trường, Dấu Chân Sỏi Ðá thì chẳng những không đồi trụy mà còn có tác dụng giáo dục nữa. Thơ Nguyên Sa, Gõ Ðầu Trẻ, Một Bông Hồng Cho Văn Nghệ thì hoặc là có tác dụng giáo dục, hoặc đặt ra những vấn đề tranh luận trong văn học. Hầu hết người ta không biết hoặc quên rằng Nguyên Sa còn có tập thơ “Những năm 1960”, trong đó là thứ thơ dấn thân, nhập cuộc. Thảo Trường với Người Ðàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp thì có giá trị tố cáo sự tàn bạo của chiến tranh. Bùi Giáng với Mưa Nguồn, Đi Vào Cõi Thơ là những chất ngọc nào phải thứ đồi trụy rẻ tiền.

Có vẻ nhà cầm quyền lúc đó muốn truy chụp tác giả hơn là tác phẩm. Vũ Hoàng Chương, Mai Thảo, Duyên Anh, Đinh Hùng, Hoàng Hải Thủy, Nguyên Sa, Chu Tử, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Võ Phiến, Văn Quang, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mạnh Côn, Tạ Tỵ có viết gì cũng vẫn bị coi là thứ biệt kích văn nghệ.

Xin lấy trường hợp Vũ Hoàng Chương làm điển hình. Ai đã gặp Vũ Hoàng Chương rồi thì đều thấy đó là một thi sĩ gầy ốm tong teo, nói năng nhỏ nhẹ, lúc nào cũng ăn mặc rất chải chuốt, tươm tất, đầu chải mượt với cà rà vạt. Tác phẩm thì tóm gọn trong hai chữ mà thôi: Thơ Tình. Cả đời chỉ biết làm thơ. Và chỉ biết có thơ. Nhưng dù chỉ làm thơ cũng bị coi là người bội phản. Ông đã đi tù như một số nhà văn khác như trường hợp Hồ Hữu Tường. Khi ra khỏi tù được vài ngày thì ông chết.

Mai Thảo dù chỉ viết truyện thuần túy văn chương như Người Thầy Cũ, Mười Ðêm Ngà Ngọc, Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay Bầy Thỏ Ngày Sinh Nhật cũng vẫn bị coi là tên biệt kích văn nghệ hàng đầu của miền Nam. Thanh Tâm Tuyền dù siêu thực hay lãng đãng bí hiểm như Tôi Không Còn Cô Ðộc, Bếp Lửa, Cát Lầy cũng là kẻ cấy mầm độc tư tưởng ngoại lai thoái hóa. Hủy diệt các niềm tin thì đã có Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện. Duyên Anh có viết Dấu Chân Sỏi Ðá, Hoa Thiên Lý, Thằng Khoa, Gấu Rừng, Giặc Ô Kê cho trẻ con cũng vẫn là tên đầu sỏ văn nghệ nguy hiểm.

Người ta nhắm đánh vào người, nhắm thái độ lập trường chính trị để đánh giá tác phẩm của tác giả. Vì nhắm tác giả nên có nhiều nhà văn tự nhiên được sót tên một cách cố ý. Đó là những nhà văn một mặt nào đó có thể không chịu xếp hàng trong xã hội miền Nam cho dù thực sự họ cũng xếp hàng như mọi người. Có nghĩa là xét về mặt tác phẩm thì những nhà văn này cũng chẳng khác gì các nhà văn vừa kể ở trên. Có gì phân biệt được về phong cách viết giữa Bình Nguyên Lộc với Lê Xuyên hay với Võ Phiến. Nhưng Bình Nguyên Lộc được tha. Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung mà đôi khi ta tưởng hai người có cùng một lập trường, cùng một quan điểm và cùng một đường lối. Nhưng sách vở thì lại bị phân biệt đối xử khác nhau.

Trong số những người sót tên trong sổ đen phải kể đến Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Vũ Hạnh, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Trọng Văn, Thích Nhất Hạnh.

Sự đánh phá và truy chụp đó nói cho cùng là một sự muốn xóa trắng Văn học miền Nam. Xin trích dẫn vài tư liệu làm bằng cớ trong sách Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 200: “Theo Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, trong Nhà Văn VN, từ 1954-1975 có 286 bài viết nhằm vu khống, xuyên tạc văn học miền Nam. Chỉ thị của Lê Duẩn sau giải phóng, kỳ họp Quốc Hội khóa 5: Sau ngày giải phóng nhân dân ta đã làm rất nhiều việc nhằm quét sạch những dấu vết và di hại của thứ văn hóa ấy. Công việc này cần được tiếp tục một cách kiên trì, tích cực và triệt để.”

Về những bài viết, xin kể vài bài: Tiếp tục đấu tranh xóa bỏ tàn dư văn hóa mới. Nọc độc văn hóa nô dịch. Những tên biệt kích cầm bút. Lại bàn về nọc độc văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954-75.

Tên những người viết đó là: Trần Trọng Đăng Đàn, Lê Đình Ky, Trần Văn Giàu, Nguyễn Huy Khánh, Thạch Phương, Phan Đắc Lập, Bùi Công Hùng và cả Lữ Phương.

Miền Nam có thể thua cuộc. Nhưng cái văn học đó không có lý do gì bị xóa trắng oan uổng như thế. Bởi vì trong 20 năm sinh hoạt văn học đó, nó xác định cho thấy chỗ đứng của nó với sắc thái và cá tính của một nền Văn học đích thực. Một nền văn học mà sản phẩm của nó là kết quả của tự do suy nghĩ, tự do sáng tác. Đấy là cái ưu vượt của sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam mà trong suốt mấy chục năm chia cắt và cả sau mấy chục năm thống nhất đất nước rồi, người ta vẫn chưa thực hiện nổi một điều đơn giản đó.

Đặc biệt các giáo sư Triết, dù bị phê phán vì rao truyền chủ nghĩa Hiện Sinh, nhưng sách vở của họ lại không bị cấm lưu hành toàn bộ như Lê Tôn Nghiêm, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung và các lớp giáo sư trẻ như Đặng Phùng Quân, Nguyễn Trọng Văn. Trừ một trường hợp đặc biệt, dù là giáo sư triết, nhưng viết văn nên cấm lưu hành toàn bộ như sách của Huỳnh Phan Anh và Nguyễn Xuân Hoàng.

Phần tôi nghĩ rằng, thời kỳ sau 1975, đó là thời kỳ Văn Học bất hạnh cho toàn miền Nam

Bất hạnh vì sách bị tịch thu, bị thiêu hủy. Bất hạnh vì hơn 200 nhà văn, nghệ sĩ bị đưa đi cải tạo. Bất hạnh theo suốt cả đời họ. Vì kể từ đó, họ bị khước từ là nhà văn, bản án tù cứ thế kéo dài mãi mãi vì họ không bao giờ còn có cơ hội để viết. Và kể từ đó đến sau này, ta không còn bắt gặp lại mảnh đất miền Nam với những cây trái văn học nữa, cùng lắm có những cây trái đau khổ, đọa đầy và hủy diệt.

Và cái người bất hạnh nhất, tiêu biểu nhất có lẽ là nhà văn Nguyễn Thụy Long mà người ta quen gọi là nhà văn ‘Loan mắt nhung’. Sau 1975, ông lê kiếp số phận nhà văn như một con chó đói, một loài chuột chui nhúc để kiếm sống.

Hãy nghe ông kể: “Tôi về sống với mẹ già ở Ấp Đông Ba Gia Định sau ngày ‘giải phóng’, bên này Cầu Bông, sau khi bị phía nhà vợ thuộc gia đình Cách mạng đuổi ra khỏi nhà… Tôi ngậm đắng nuốt cay bước ra khỏi nhà sau khi bị vu bao nhiêu là thứ tội, kể cả tội ăn cắp tài sản của chính mình, suốt nhiều năm cầm bút tạo thành… Mất nhà, mất vợ chẳng nói làm gì, vì đã cạn tầu ráo máng rồi, nhưng mất con tôi mới đau.” Sau khi hồ Con Rùa trên đường Duy Tân bị nổ, ông cùng nhiều trí thức, văn nghệ sĩ bị bắt vì vụ này. Xin đọc tiếp: “Những câu chuyện vặt trong phòng giam bỗng im bặt, khi tiếng nói thật lớn thật to ở phòng giam tử tội cuối hành lang cất lên: Chào tất cả các anh em bạn tù, chúng tôi ba người mang án tử hình, sẽ bị xử bắn vào sáng sớm ngày mai, chúng tôi có lời chào vĩnh biệt tất cả các anh em còn ở lại. Tôi là Nguyễn Xuân Hùng, tự Ali Hùng, hai người bạn tôi, một là linh mục, một là chiến sĩ. Tôi là một người Việt Nam lai da đen, xứ Phi Châu Sénégalais, mẹ tôi là người Việt Nam, vậy tôi xin nhận nơi này làm quê hương, vì mẹ Việt Nam của tôi đã nuôi tôi khôn lớn và thành người. Trong phòng giam của tôi, vị linh mục đang quỳ dâng mình cho Chúa, người bạn chiến sĩ thì đang huấn nhục. Tôi có giọng khỏe, xin được hát thân tặng lại tất cả những anh em còn ở lại. Những bài hát thấm đượm tình quê hương của Phạm Duy mà tôi rất ngưỡng mộ.”

Chúng tôi đã mất Sàigòn thật rồi. [v]

Sau này, theo bs Trần Ngọc Ninh viết lại trên tờ Khởi Hành, tháng 9-2005, ông từ chối không cho nhà xuất bản sửa dù một chữ những tác phẩm của ông: “Tôi còn gì để mất ngoài liêm sỉ, thà chết đói chứ tôi không sửa văn tôi viết trước kia được.”

Chính ông cũng kể lại về trường hợp có nhà xuất bản cho người đến đề nghị in lại cuốn Kinh Nước Ðen với điều kiện nó phải được sửa chữa lại. Ông đã từ chối không chịu.Nay thì tờ Khởi Hành đang tiến hành giải văn chương năm nay dành cho ông. Thực tế trước mắt là ông sẽ nhận được một số tiền để sinh sống ra khỏi kiếp chó đọa đầy.

B.- Tình hình sách cũ hiện nay.

Về Sàigòn hôm nay, chỉ ở Sàigòn thôi mà không ở Hànội, tôi tìm lại xem trong đống tro tàn đó còn lại được gì. Không còn bao nhiêu. Tôi thấy họa hiếm mới còn sót lại một vài cuốn truyện. Và càng ngày, số lượng nó càng ít đi, vì mua vào mà không bán ra hoặc theo thời gian bị tiêu ma vì không có thư viện bảo quản. Chỉ còn lại một số rất ít mà trên lý thuyết vẫn là sách cấm lưu hành, bất hợp pháp, nhưng lại được bày bán công khai như thể hợp pháp. Hơn thế nữa, các loại ‘sách cũ’ thuộc loại sách chưởng, kiếm hiệp, mặc dầu vẫn là sách cấm lưu hành lại được in lại, sách cũ trở thành ‘sách mới’, bày bán công khai và hợp pháp. Chẳng hạn những sách của Vũ Đức Sao Biển như Kim Dung Giữa Ðời Tôi gồm các quyển Kiều Phong, Khát Vọng Tự Do, quyển thượng, Thiên Hạ Ðệ Nhất Mỹ Nhân, quyển trung, Từ AQ Ðến Vi Tiểu Bảo, quyển hạ và Thanh Kiếm Và Cây Ðàn, quyển kết thì đã được Nhà xuất bản Trẻ in ấn và phát hành đoàng hoàng. Gần như toàn bộ các loại sách kiếm hiệp được in lại. Sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cũng vậy. Sách Triết cũng được in lại rất nhiều với các tác giả Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm.

Thế thì những bá cáo chính trị suốt bao nhiêu năm cũng như những văn kiện, nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung Ương Ðảng Cộng sản phải chăng chỉ còn có giá trị như những tấm giấy lộn.

Để hiểu rõ thêm về phần sách cũ này, tôi có một nhận xét như sau: Kể từ 1975 đến 1985, Sàigòn hay miền Nam có hai bộ mặt sinh hoạt văn học: Mặt nổi và mặt chìm. Mặt nổi bao gồm những sách báo in ấn chính thức từ miền Bắc gửi vào. Đó là một thứ văn học Cộng Sản mà tự nó mang tính chất đồng phục, tính chất hợp pháp và giáo điều buồn nản và tầm thường. Tôi còn nhớ trên vỉa hè phố Sàigòn những cuốn sách dịch in trên giấy xấu đến khó coi cả từ bề ngoài đến tựa đề. Đọc lên nghe tức anh ách như: Mười Ngày Của Bôcaxiô. 10 ngày gì mới được chứ. Thằng Cười, dịch V.Hugô. Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà của E. Zôla… Dịch lạ quá, tôi đi tìm sách của nhà văn này, nhưng đành chịu không kiếm ra cái tựa đề Cửa Hàng Vì Hạnh Phúc Các Bà ở đâu. Trăm Năm Cô Ðơn của G. Market. Tuổi Thơ Mãi Mãi Cùng Ta của M. Karim, Đất Vỡ Hoang của M. Sôlôkhốp, Thời Gian Ðể Sống Và Ðể chết của E. Rơmacơ. Ông Già Và Biển Cả của E. Hemingway, Đồi Gió Hú của E. pônti. Cả ba cuốn này đều đã được dịch ở trong Nam trước đó rồi. Đốt Đỉnh Gió Hú, đốt Lão Ngư Ông Và Biển Cả, đốt Thời Gian Ðể Sống Và Ðể Chết của miền Nam mà chất lượng dịch đã hẳn là bảo đảm hơn miền Bắc để mang nguyên con những thứ đó vào miền Nam với phẩm chất không bảo đảm và giấy thì thật xấu. Để làm gì?

Vì thế dân chúng trong Nam vẫn chịu khó tốn công, tốn tiền đi tìm sách báo cũ để đọc, chuyền tay nhau để đọc. Bởi vì, chính những sản phẩm văn hóa đó đã làm nên họ, là của họ, là bản thân họ và trở thành biểu tượng của những giá trị quá khứ cần được nâng niu giữ gìn. Và như thể, nếu không có những thứ văn hóa phẩm đó được nuôi dưỡng thì họ không còn là họ nữa, khô chồi và thui chột.

Nhưng một phần thì sinh hoạt văn học miền Nam dừng lại ở đó, bằng lòng với tất cả những thứ đến từ dĩ vãng, quá khứ và trong tương lai sẽ mỗi ngày mỗi thưa vắng đi, bởi vì không có người làm công việc sáng tác nữa. Đó là thứ văn học không có tương lai mà chỉ còn mở ra một sinh lộ: Quay lại quá khứ của chính mình để nhớ, để thương và để sống lại. Nếu ở Hải ngoại thời đó người ta gọi VHHN là thời kỳ văn học lưu vong. Trong nước phải gọi là thời kỳ văn học của quá khứ, vang bóng một thời.

Từ một nền văn học đồng phục, bị động, nghèo nàn với những sách vở lưa thưa và chưa định hình. Sách báo miền Nam cũ vẫn có mặt mà chưa có kế thừa và thay thế. Kể từ đó, sau ngày 30-4, sách báo miền Nam vỉa hè, giống như số phận của chính nền văn học ấy, thực sự trở thành sinh động chỉ nhờ vào sách báo cũ. “Điều đáng chú ý là đa số chủ nhân các tụ điểm văn hóa này là những người có học. Không thể nói là họ không am hiểu nội dung và tác hại của thử sách ra. Lạ một điều là bất chấp mọi hậu quả, họ cứ thản nhiên bày bán, những thứ rác rưởi văn hóa đó, ngày này qua ngày khác. Cứ mỗi độ chiều về, ở những điểm này, người bán kẻ mua tấp nập.” [vi]

Không có gì lạ. Cái lạ là các ông không hiểu gì về nếp sống, nếp nghĩ, sinh hoạt văn học miền Nam cả. Những thứ mà quý ông gọi là rác rưởi thì dân miền Nam lại coi là thứ rác quý, rác hiếm.

Sau 30-4, miền Nam có nhiều thứ rác lắm. Những thứ rác có thể đốt. Nhưng đốt thứ rác sách vở, báo chí văn học nghệ thuật miền Nam, các ông đã đụng chạm đến tinh thần và niềm tự hào của cả một miền đất nước thân yêu của họ. Điều đó khó mà tha thứ được.

C.- Những người có công với sách cũ của Sàigòn.

Sách vở, báo chí miền Nam trở thành món ăn tinh thần là do công sức của các nhà văn, nhà phê bình, giáo sư đến các học giả. Điều hiển nhiên là thế. Nhưng sức bật, sự tác động để phổ biến những văn hóa phẩm ấy là nhờ vào một số lớn nhà xuất bản có công với Văn Học. Họ là những nhà xuất bản như Trình Bày, Nam Sơn, Nguyễn Đình Vượng, Văn Hóa Á Châu, Diên Hồng, Xưa nay, Khai Trí, Lá Bối, An Tiêm. Những nhà xuất bản này đã đóng góp vào việc xuất bản 200 triệu cuốn sách trong 20 năm. Con số thật không nhỏ.

1.- Ông Khai Trí:

Chẳng mấy ai biết tên thật của ông, thành ra thương hiệu nhà sách KT, 62 Lê Lợi được đồng hóa vào tên ông. Thật ra tên ông là Nguyễn Hùng Trương, với hai tay trắng làm nên sự nghiệp. Ông vừa là một doanh gia, vừa là người làm văn hóa. Ông biên soạn khoảng 15 cuốn sách như Thơ Tình Việt Nam và Thế Giới Chọn Lọc, Chánh Tả Cho Người Miền Nam… và chủ trương tuần báo Thiếu Nhi cùng với Nhật Tiến.

Sau giải phóng, nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá. Sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường. Tôi đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực, bất lực của một người tự xếp hàng vào người thua cuộc. Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu. Đứng ở đâu thì cũng cùng tâm cảnh đau xót đó thôi. Khi đã chứng kiến cảnh này rồi thì đừng bảo tôi có thể nghĩ hay cho những người mới đến. Họ không hiểu được điều đó vì quá hăng say trong men chiến thắng hay họ chưa bao giờ biết nghĩ tới người dân muốn gì, nghĩ gì. Tiếp theo đó là hai kho sách lớn cũng bi trưng thâu. Hằng vài trăm ngàn cuốn sách ra khỏi kho, rồi biến mất dạng.

Ông trắng tay sau bao nhiêu năm tốn công gây dựng.

Sau này, ông ở Mỹ về VN một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2000 đầu sách để tiếp tục làm Văn hóa. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Theo Nguyễn Thụy Long, phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền, sách tốt cả. Mà dại gì ông mang sách dữ, mà làm gì kiếm ra đâu được sách dữ. Nó chỉ có một cái tội: Tội đã in trước 1975.

Trước 75 là xấu, vi phạm luật. Sau 75 là tốt.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu.

Trước khi ông mất, người ta đã không quên đặt tên ông cho một con phố nhỏ. Đúng như ông thày TQ nhận xét: Hôm qua nó giết mình, hôm sau nó mang vòng hoa đến phúng điếu.

…Ông ra đi lúc 5h15 ngày 11/3/2005, linh cữu quàn tại nhà riêng (237 Điện Biên Phủ, quận 3, TP HCM), lễ động quan lúc 6h ngày 14/3, hỏa táng tại Bình Dương. Nguyện vọng của gia đình là gửi tiền phúng điếu vào quỹ từ thiện thành phố.

Cụ Toan Ánh, năm đó 91 tuổi, trong bữa đưa đám ma ông Khai Trí than thở: tại sao mình sống lâu như thế, ông Khai Trí mới có 80 tuổi.

2.- Nhà Lá Bối:

Nhà Lá Bối do nguyên Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết trông nom. Sau ông hoàn tục. Ông là người có lòng, để việc phụng sự văn học nghệ thuật lên trên tiền bạc. Từ Mẫn đã giúp các nhà văn có nơi xuất bản những đầu sách có giá trị và người đọc có cơ hội đọc những cuốn sách trang nhã, chăm sóc từng chút trong việc trình bầy ấn loát và cả đến nội dung sách. Tất cả sách của Nhất Hạnh đều từ đây mà ra. Nếu không có Lá Bối, những Chiến Tranh và Hòa Bình, Chiến Quốc Sách, Sử Ký Tư Mã Thiên, Kiếp Người của Sommerset Maugham, Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay và Lối Thoát Cuối Cùng của V. Georghiu sẽ nằm ở đâu? Nếu không có Lá Bối, nhiều sách chắc gì đã có cơ hội ra mắt bạn đọc. Nhất là bộ Chiến Tranh và Hòa Bình của Léon Tolstoi. Sách in tốn vài ba triệu thời bấy giờ, bao giờ lấy lại vốn. Sau này, ở hải ngoại, ông tiếp tục làm công tác văn học với nhà xuất bản Văn Nghệ. Nếu cần một vinh danh gì cho 20 năm Văn học dịch nói riêng và Văn học nói chung, có cần nên nhắc đến Võ Thắng Tiết không? Kẻ lót đường cho Văn học miền Nam.

3.- An Tiêm Thanh Tuệ:

Tôi chỉ xin trích dẫn hai bài viết lúc mà Thanh Tuệ nằm xuống để thấy được rằng nhà xuất bản An Tiêm với Thanh Tuệ có lòng với văn chương như thế nào.

– Tiếc Văn Chương, thương chữ nghĩa, Trần Thị Lai Hồng.

Biết là vô thường, nhưng vẫn không khỏi tiếc thương. Tôi tiếc thương người An Tiêm Thanh Tuệ hiền hòa đã đành, mà nỗi tiếc Thương Văn Chương chữ nghĩa còn trĩu quá nặng.

Thôi từ nay, còn ai khổ công lặn lội tìm tòi đãi lọc để phổ biến văn chương như đã từng với Tuệ Sĩ, Bùi Giáng, Sao Trên Rừng, Nguyễn Đức Sơn. Thôi từ nay còn ai trân quý nâng niu bảo trọng chữ nghĩa như đã từng với Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột, Mười Hai con Mắt… Đêm Nguyệt Động, Cái Chuồng Khỉ và còn nhiều, rất nhiều công lao với văn học đã, đang và chưa thực hiện được.

– Với nhà văn Lê Thị Huệ:

Rồi bỗng nhiên nghe tin Ông chết. Đặng Ngọc Loan hôm trước rủ đi uống cà phê với Ông một lần, gọi điện thoại nói với tôi: Tin gì kỳ cục. Sao người vậy mà chết nghe kỳ cục quá.

4.- Doanh nghiệp sách Thành Nghĩa, Sàigòn:

Có lẽ phải nói đây là một ông Khai Trí thứ hai. Trong một dịp đi dự một buổi phát giải thưởng, do cái TTNCBTVPHVHDT. Viết tắt thế để quý vị khỏi mất thời giờ với cái Trung Tâm đó. Tôi có gặp anh Võ Thành Tân, Tổng giám đốc nhà sách Thành Nghĩa và nhất là anh Vũ Quang Trình, trợ lý TGĐ trong bữa ăn trưa đó. Gốc gác các anh đều là dân Quảng Nam, Quảng Ngãi mà người dân gọi đùa là: Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Quảng Nam, Đà Nẵng. Gọi như thế để thấy cái dân ngoài đó đi theo đảng nhà nước tận tình. Nay sau 30 tháng tư, họ, những người dân miền ấy có mặt khắp nơi, nhất là trong ngành báo chí, xuất bản. Các báo lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên v.v… đều có người của họ. Chẳng hạn báo Thanh Niên có Nguyễn Công Khế, Tuổi Trẻ có Hùng Sơn Phước, Công An thành phố Trần Trữ Loang, Sàgòn Time có Võ Như Lanh, Kinh Tế VN có Cung Văn, Nhất Ánh..

Võ Thành Tân, sau 75 đang còn học Văn Khoa. Với cái vốn liếng ấy đâm ra hữu dụng, anh làm nghề mua bán sách cũ. Biết sách nào quý, biết sách nào giá trị là sở trường của một người mua bán sách cũ. Có tý vốn rồi, anh mua lại một cái ki ốt bán sách lẻ ở đường An Dương Vương. Kịp đến thời mở cửa, 1986… Theo lời anh Trình, các anh liên kết với các nxb của nhà nước để in sách. Họ đứng tên, cho giấy phép rồi họ mặc cho mình muốn làm gì thì làm. Một cuốn sách mới đầu ít vốn in 1000 cuốn thăm dò. Bán chạy thì in lại, bán tiếp. Một năm mới đầu xuất bản 4, 5 đầu sách, rồi cứ thế tăng dần. Đến năm 2004 thì đã cho xuất bản đến 3000 đầu sách đủ loại. 2005 tăng lên 3500 đầu sách một năm.

Nay thì các anh trở thành tỉ tỉ phú trong ngành xuất bản. Ngoài ra, các anh còn mở ra 18 cửa hàng bán sách với 2000 nhân viên. Hỏi sao có nhiều nhân viên như thế. Trả lời là để trông chừng những khách hàng ăn trộm đồ trong tiệm sách.

Có những tiệm sách lớn có đến 40 chục ngàn đầu sách đủ loại.

Làm gì còn có những Thanh Tuệ, những Từ mẫn nữa. Làm gì còn có Lá Bối, An Tiêm, Nam Sơn nữa. Làm gì còn có ‘Loan Mắt Nhung’ nữa.

Thôi chào vĩnh biệt sách cũ Sàigòn. Chào những đứa con tinh thần sinh trước 1975 còn sót lại.

Và như trong một số bài viết của tôi, tôi luôn luôn đòi hỏi nhà cầm quyền đương thời một điều, một điều thôi. Trước khi nói hoà giải, trước khi nói tình nghĩa, trước khi kêu gọi Việt kiều về nước, trước khi nói đến khúc ruột ngàn dặm v.v. và v.v… Yêu cầu các ông một lời xin lỗi chúng tôi, xin lỗi những người lính VN Cộng Hòa, xin lỗi các nhà văn, nhà trí thức, xin lỗi các bà vợ, xin lỗi người mẹ, xin lỗi trẻ con miền Nam và cuối cùng xin lỗi sách vở miền Nam. Xin lỗi tất cả.

Không làm thì hãy khoan nói đến truyện gì khác.

Nguyễn Văn Lục

_____________________

[i] Trích Văn Hoá, Văn Nghệ. Nam Việt Nam 1954-1975, Trần Trọng Đăng Đàn, trang 779, nxb Văn Hóa Thông Tin Hànội- 2000.
[ii] Trích lại trong Văn Hóa Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Dàn, trang 502, nxb Văn Hóa Thông tin.
[iii] Trích lại trong Văn Hoá, Văn Nghệ, Nam Việt Nam 1954-1975 của Trần Trọng Đăng Đàn. Nxb Văn Hóa Thông tin. Trang 502.
[iv] Trích Văn Học Việt Nam dưới chế độ Cộng Sản, Nguyễn Hưng Quốc, trang 226, nxb Văn Nghệ, 1991
[v] Trích Ký ức về tiếng hát của người tử tù, Nguyễn Thụy Long, tạp chí Khởi Hành số tháng 9-2005, trang 23.
[vi] Trích SGGP, ngày 15-2-1987. Trong Văn Học VN dưới chế độ Cộng Sản của Nguyễn Hưng Quốc, trang 228. nxb Văn Nghệ.


 

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

Nhật Ký Yêu Nước

Sự cáo chung của chế độ cộng sản và lựa chọn sinh tồn

(Trần Khánh Ân-Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên)

Từ một cá nhân đến sự cáo chung của cả chế độ

Mỗi chế độ độc tài thường sản sinh ra những gương mặt biểu tượng cho sự tha hóa và mục ruỗng của chính nó. Tô Lâm, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay, là một gương mặt như thế. Ông ta không nổi bật bởi tài năng chính trị, cũng không nổi bật bởi tầm vóc trí tuệ, mà trái lại, nổi bật bởi sự thô kệch, tầm thường và sự khôn ngoan của một công an khét tiếng với những hồ sơ tham nhũng và khủng bố tinh thần trong tay.

Quyền lực của Tô Lâm không đến từ sự tín nhiệm của đồng chí, cũng không đến từ sự kính trọng của dân chúng. Nó đến từ sự thối nát triền miên của một chế độ đã tự biến mình thành một tổ chức tội phạm có vỏ bọc chính đảng. Ở đó, mỗi ủy viên trung ương, mỗi bộ trưởng, mỗi cán bộ cao cấp đều đã nhúng chàm tham nhũng, đều có những hồ sơ bất minh mà chỉ cần bị khui ra là có thể đi tù. Trong cái nhà tù tập thể ấy, kẻ nào nắm chìa khóa điều tra, kẻ đó trở thành “chúa tể”. Và Tô Lâm chính là chúa tể kiểu đó.

Nhưng Tô Lâm không chỉ là một cá nhân. Ông ta là tấm gương phản chiếu của cả một chế độ đang thối rữa từ gốc rễ, nơi mà quyền lực được duy trì bằng sợ hãi, nơi mà tư tưởng đã bị quăng vào sọt rác, và nơi mà kinh tế thì chìm trong những dự án thất bại, còn ngoại giao thì chỉ biết bám víu vào hai chế độ độc tài khác, cũng đang hấp hối : Trung Quốc và Nga.

Từ một cá nhân, chúng ta có thể nhìn thấy sự cáo chung không thể đảo ngược của cả chế độ.

Ở một xã hội bình thường, quyền lực chính trị dựa trên sự tín nhiệm dân chúng, dựa trên năng lực điều hành, và dựa trên những dự án chính trị thuyết phục. Ở Việt Nam, quyền lực lại nằm trong tay kẻ nào nắm được hồ sơ tham nhũng của người khác. Cái gọi là “phòng chống tham nhũng, tiêu cực” thực chất chỉ là công cụ để thanh toán phe phái. Khi trở thành Phó trưởng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, Tô Lâm bỗng nhiên có thể quyết định số phận của tất cả những ủy viên Bộ Chính trị khác. Bởi lẽ, tất cả họ đều tham nhũng, đều có những khối tài sản bất minh không thể giải thích. Một người chỉ với mức lương 1.000 đô la mỗi tháng lại có thể ngồi trong nhà hàng ăn bò dát vàng giá 2.000 đô la một miếng, uống rượu 15.000 đô la một chai, thì cái gọi là trong sạch chỉ còn là chuyện hoang đường.

Tô Lâm không mạnh, mà những kẻ khác quá yếu. Ông ta không có tầm vóc trí tuệ, nhưng có quyền lực trong tay. Ông ta không có lý tưởng, ông ta sống bằng nỗi sợ hãi của các đồng chí. Và trong một tập thể đã mục ruỗng đến tận cùng, thì nỗi sợ hãi trở thành đồng tiền giao dịch duy nhất. Đó cũng chính là bằng chứng sống động nhất cho thấy Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay không còn là một chính đảng, mà là một tập đoàn tội phạm, vận hành bằng sự trao đổi hồ sơ và sợ hãi.

Tham nhũng và tội phạm hóa của cả bộ máy

Điều hiển nhiên mà Tô Lâm đã phơi bày, chính là mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng đều phạm pháp. Trong một đất nước mà tài sản khổng lồ của quan chức không thể nào giải thích bằng lương, thì tham nhũng không còn là hiện tượng cá biệt, mà là bản chất của chế độ. Mỗi vụ án tham nhũng chỉ là bề nổi. Phần chìm là cả một hệ thống đã biến tham nhũng thành điều kiện sống còn. Chế độ này giống như một căn phòng khóa kín, nơi tất cả các thành viên đều bị trói trên ghế bằng dây xích tham nhũng. Ai cũng có tội, ai cũng sợ bị lôi ra ánh sáng. Và trong cái căn phòng ấy, kẻ nào giữ chìa khóa, kẻ đó trở thành ông chủ. Đây là điều giải thích vì sao Tô Lâm có thể thanh toán những nhân vật tưởng chừng có uy tín hơn, như Vương Đình Huệ hay Võ Văn Thưởng. Và vì sao Bộ Chính trị rốt cuộc chỉ còn lại những gương mặt phục tùng ông ta một cách vô điều kiện.

Một chính đảng nếu thực sự lành mạnh thì phải là nơi tập hợp những con người có phẩm chất, có lý tưởng, có kiến thức để cùng nhau bàn bạc, thảo luận và xây dựng dự án cho đất nước. Nhưng ở đây, cái gọi là “Bộ Chính trị” chỉ là một phòng họp tội phạm, nơi những kẻ đồng lõa phải im lặng vì sợ bị xử lý thì làm sao có thể dám suy nghĩ chứ chưa nói tới việc sản xuất ra được một ý kiến đúng đắn ?

Ý thức hệ là một xác chết chưa được chôn

Có một điều đáng chú ý : từ khi Tô Lâm lên nắm quyền, những khẩu hiệu về “chủ nghĩa Marx Lenin” hay “tư tưởng Hồ Chí Minh” gần như biến mất. Tô Lâm không còn nhắc đến những thứ ấy. Nhưng không phải vì ông ta tiến bộ hơn, mà vì ông ta biết rằng đó chỉ là xác chết. Thực ra, ý thức hệ của Đảng cộng sản đã chết từ lâu. Nó chết từ khi chính quyền buộc phải quay lại với kinh tế thị trường, từ khi chủ nghĩa xã hội chỉ còn tồn tại trên giấy tờ. Nó chết từ khi chính những người lãnh đạo cao nhất xây dựng biệt phủ, gửi con cái ra nước ngoài, và tiêu xài bằng đồng đô la chứ không bằng đồng tiền Việt Nam.

Nhưng Tô Lâm là người đã công khai xác nhận cái chết ấy, bằng cách lặng lẽ trục xuất Marx – Lenin và Hồ Chí Minh ra khỏi mọi diễn ngôn chính trị. Không còn nền tảng tư tưởng, chế độ này chỉ còn lại sự trống rỗng. Một chính đảng nếu không dựa trên tư tưởng, không dựa trên dự án chính trị, thì không còn là chính đảng nữa. Nó chỉ còn là một tập đoàn quyền lực, một nhóm lợi ích.

Đó là điều mà Tô Lâm đã chứng minh một cách rõ ràng rằng Đảng cộng sản không còn sức sống, không thể tự tái tạo, và không còn lý do tồn tại.

Từ thiên đường hứa hẹn đến địa ngục thực tế của nền kinh tế và sự bất mãn trong dân chúng

Nếu một chính quyền có thể biện minh cho sự tồn tại của mình, thì lý do cuối cùng thường là kinh tế. Dân chúng có thể tha thứ cho độc tài, nhưng không thể tha thứ cho sự nghèo đói, thất nghiệp và bất công. Tô Lâm hứa hẹn một “kỷ nguyên vươn mình”, hứa hẹn tăng trưởng 8% vào năm 2025 và hai con số sau đó. Nhưng thực tế là nền kinh tế đang khốn đốn hơn bao giờ hết. Chiến dịch “tinh gọn bộ máy” tiêu tốn 170.000 tỷ đồng để rồi chỉ cắt giảm được chưa đến 3% biên chế. Những người có năng lực đã bỏ đi, những kẻ bất tài thì ở lại. Bộ máy vốn đã trì trệ nay càng thêm vô dụng. Chiến dịch “tái tổ chức hành chính” thì gây ra những vết thương tinh thần cho dân chúng. Việc sáp nhập các xã, phường, huyện, tỉnh đã chạm vào mối dây tình cảm của người dân đối với nơi chôn nhau cắt rốn, tạo ra oán thù và bất mãn vì cảm giác bị tước đoạt quê hương.

Trong lĩnh vực kinh tế tư nhân, thay vì khuyến khích một môi trường cạnh tranh bình đẳng, Tô Lâm và chế độ chỉ tập trung ưu đãi cho VinGroup đứa “con cưng” của chế độ. Nhưng “con cưng” này không thể nào tồn tại nếu không được bơm vốn vô tội vạ. Và cái gọi là “tư nhân” thực chất chỉ là tay sai của Đảng. Dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam với chi phí 62 tỷ đô la, tương đương 15% GDP, lại được giao cho một công ty không hề có một kinh nghiệm nào. Đó không phải là phát triển, mà là một canh bạc bằng máu và mồ hôi của cả dân tộc.

Kinh tế Việt Nam đang lộ ra những con số bệnh hoạn : ngành xây dựng chiếm tới 30% GDP, gấp ba lần ngưỡng báo động. Xuất nhập khẩu chiếm gần 200% GDP, nghĩa là đất nước này lệ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường bên ngoài, không còn khả năng tự chủ. Đồng tiền mất giá, thị trường bất động sản lao dốc, ngân hàng ngập trong nợ xấu.

Từ “thiên đường hứa hẹn”, người dân đang bước thẳng vào “địa ngục thực tế”. Và sự phẫn nộ đang dâng lên, vượt qua cả nỗi sợ hãi.

Ngày nay, đi đến bất cứ vùng quê nào cũng nghe người dân than thở về đất đai bị thu hồi, về nhà cửa bị cướp trắng, về nợ nần chồng chất. Ở các thành phố, giới trẻ thất nghiệp, giới trung lưu bị lừa bởi những căn hộ không sổ đỏ, những lời hứa viển vông từ các tập đoàn bất động sản. Biểu tình đất đai đã nổ ra khắp nơi. Trên mạng xã hội, người dân không ngần ngại nguyền rủa Tô Lâm, thậm chí công khai mong ông ta chết đi.

Đây là dấu hiệu của một bước ngoặt : nỗi sợ hãi đang nhường chỗ cho sự phẫn nộ. Và khi sự phẫn nộ đã vượt qua nỗi sợ, thì chế độ không còn chỗ dựa. Chỉ cần một mồi lửa, một sự kiện bùng phát, thì đám cháy có thể lan rộng không ai kiểm soát nổi.

Sự bất mãn trong nội bộ Đảng

Nếu sự phẫn nộ trong dân chúng ngày càng lộ rõ, thì sự bất mãn trong nội bộ Đảng lại âm ỉ nhưng nguy hiểm hơn nhiều. Đó là một ngòi nổ ngầm có thể làm chế độ nổ tung từ bên trong.

Việc sáp nhập các xã, huyện, tỉnh đã khiến hàng ngàn cán bộ cấp cơ sở mất chức hoặc bị tinh giản sau khi đã bỏ tiền ra chạy chọt. Họ mất tiền, mất ghế, và mất cả tương lai chính trị. Đó không chỉ còn là bất mãn, mà là hận thù.

Ở cấp cao hơn, Tô Lâm đã triệt hạ những người từng được xem là có tư cách tối thiểu. Những cú đánh không chỉ nhằm loại bỏ đối thủ, mà còn làm nhục họ, khiến cả hệ thống cảm thấy bị đe dọa. Trong một đảng có năm triệu đảng viên, con số những người oán hận Tô Lâm đã chiếm đa số.

Đặc biệt, việc triệt hạ bộ máy chính quyền ở Thanh Hóa, quê hương chính trị của Phạm Minh Chính, với hơn một ngàn vụ khởi tố, hàng loạt cán bộ bị bắt, cho thấy sự thù địch đã biến thành hành động. Đó là một cuộc chiến phe phái công khai. Và lịch sử cho thấy, khi một chính đảng đã tan rã thành các phe phái thù địch, thì ngày sụp đổ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Sự cô lập quốc tế và bế tắc ngoại giao

Một chính quyền dù mục ruỗng đến đâu, vẫn có thể kéo dài sự tồn tại nếu còn được quốc tế nâng đỡ. Nhưng chính sách đối ngoại hiện tại của Việt Nam lại đưa đất nước vào thế cô lập chưa từng có. Các lễ kỷ niệm lớn của chế độ không có sự hiện diện của lãnh đạo các nước dân chủ. Liên minh duy nhất mà chính quyền bám víu là Trung Quốc và Nga, hai quốc gia đang suy yếu, một bên thì sa lầy ở Ukraine, một bên thì khủng hoảng kinh tế trầm trọng.

Hình ảnh quốc tế của Việt Nam ngày càng xấu đi. Một buổi duyệt binh Quốc khánh mà Chủ tịch nước chỉ đứng như thuộc cấp bên cạnh Tổng bí thư Đảng đã nói lên tất cả : thế giới nhìn Việt Nam như một chế độ côn đồ, không có tư thế của một quốc gia bình thường.

Kinh tế phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu, nhưng Mỹ và Châu Âu đã bắt đầu siết chặt thương mại. Những ưu đãi thuế quan không còn nữa, trong khi thuế nhập khẩu vào Mỹ đã tăng lên 25%, gấp đôi so với hàng hóa từ Châu Âu. Những cú đòn này có thể làm tê liệt các tập đoàn xuất khẩu của Việt Nam, đẩy hàng triệu công nhân vào thất nghiệp.

Tất cả những điều này cho thấy con đường của chế độ đã tận. Nó không còn chỗ dựa quốc tế, không còn sức sống kinh tế, và không còn chút niềm tin nào trong dân chúng.

Việt Nam trước ngưỡng cửa của một khúc quanh lịch sử

Trong bối cảnh này, câu hỏi không còn là chế độ cộng sản có sụp đổ hay không, mà là sụp đổ như thế nào và sau đó sẽ là gì ?

Lịch sử thế giới cho thấy hai kịch bản. Một là sự sụp đổ trong hỗn loạn và bạo lực. Hai là sự sụp đổ trong trật tự và hòa giải. Việt Nam sẽ đi theo con đường nào ? Điều đó tùy thuộc vào việc có hay không một tổ chức chính trị lành mạnh sẵn sàng thay thế, với lý tưởng và dự án rõ ràng. Nếu không có, thì sự sụp đổ của sẽ chỉ mở ra một chu kỳ hỗn loạn, phe phái trong Đảng thanh toán nhau, quân đội chia rẽ, quần chúng nổi dậy bạo lực. Một đất nước đã chịu quá nhiều đau khổ như Việt Nam không thể lại tiếp tục đi vào con đường đó.

Việt Nam cần một tổ chức chính trị có lý tưởng hòa giải

Đây chính là lúc cần khẳng định một sự thật, chỉ có một tổ chức chính trị lành mạnh, có đội ngũ, có kiến thức chính trị, và có lý tưởng hòa giải dân tộc mới có thể đưa Việt Nam ra khỏi bế tắc. Một tổ chức như thế không lo lật đổ chế độ hiện tại, mà lo chuẩn bị cho ngày mai, giữ cho đất nước không rơi vào bạo loạn.

Tinh thần cốt lõi của tổ chức này phải là hòa giải. Không một chế độ dân chủ nào có thể ổn vững nếu các vết thương lịch sử tiếp tục bị khoét sâu. Chúng ta phải nhìn nhận rằng tất cả từ cán bộ cộng sản đến những người đối lập, từ công an đến dân oan, từ Nam ra Bắc đều là nạn nhân của cùng một chế độ. Hòa giải không phải là quên đi tội ác, mà là để chấm dứt vòng luẩn quẩn của hận thù, mở ra một khởi đầu mới. Một tổ chức như thế không thể ra đời trong ngày một ngày hai. Nó đòi hỏi sự chuẩn bị, sự kiên nhẫn, và sự gắn bó bền bỉ với một dự án lâu dài. Đó chính là điều duy nhất có thể cứu đất nước này khỏi tai họa.

Bước vào kỷ nguyên mới

Chúng ta đang đứng trước một khúc quanh lịch sử trọng đại. Đảng cộng sản đã tự chứng minh sự cáo chung của nó bằng sự thối nát, sự tê liệt, và sự thất bại toàn diện. Tô Lâm, bằng quyền lực của mình, đã vô tình làm lộ ra tất cả những điều mà chế độ muốn che giấu : sự tham nhũng, sự vô dụng, sự trống rỗng tư tưởng, và sự cô lập quốc tế. Nhưng sự sụp đổ của một chế độ không tự động mang lại dân chủ. Nó có thể mang đến hỗn loạn, bạo lực, thậm chí một hình thức độc tài mới. Chính vì vậy, lựa chọn của chúng ta hôm nay sẽ quyết định vận mệnh của dân tộc. Chúng ta cần một tổ chức chính trị trưởng thành để mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc.

Đây không phải chỉ là một cảnh báo. Đây là một lựa sinh tồn. Thời gian không chờ đợi để tiếp tục chứng minh những sai lầm. Và lịch sử sẽ không tha thứ nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội này, ngày hôm nay !

Trần Khánh Ân

(26/09/2025)


 

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

ĐỨC MẸ NÚI CÚI CẦU CHO CHÚNG CON

Joseph Võ Đình Thuần

 Thánh Phanxicô Assisi – Người nghèo của Thiên Chúa.

Có những vị thánh được gọi bằng nhiều tước hiệu cao sang, nhưng Phanxicô Assisi chỉ cần một tên gọi giản dị: Người nghèo của Thiên Chúa. Danh xưng ấy không phải là sự thiếu thốn, mà là lời tôn vinh cao quý nhất dành cho một tâm hồn đã biết trút bỏ tất cả, để chỉ còn lại duy một điều: tình yêu dành cho Thiên Chúa.

Ngày còn trẻ, Phanxicô là chàng trai hào hoa, mơ ước công danh và vinh quang. Nhưng khi gặp được ánh sáng của Đấng Tình Yêu, ngài đã chọn một lối đi ngược lại: rũ bỏ giàu sang, ôm lấy nghèo khó. Trước mặt mọi người, ngài cởi bỏ cả áo quần quý giá, đứng trần trụi như một trẻ thơ, để khởi đầu một cuộc đời mới – cuộc đời thuộc trọn về Thiên Chúa.

Từ ngày ấy, Phanxicô đi khắp các nẻo đường Assisi, tay không nhưng lòng tràn đầy bình an. Ngài gọi chim muông là anh em, gọi trăng sao là chị em, và coi cả vũ trụ như một gia đình. Trong cái nhìn trong veo của ngài, mọi sự đều chan chứa tình yêu, bởi tất cả được sáng tạo từ bàn tay Thiên Chúa. Chính sự nghèo khó đã làm trái tim ngài mở rộng, để yêu thương tuôn trào không biên giới.

Ngài nghèo không vì thiếu thốn, mà vì chọn nghèo như một lối sống, một lời đáp trả. Nghèo để được tự do, để trái tim không còn vướng bận bởi phù hoa chóng qua, mà hoàn toàn mở ra cho Đấng Vĩnh Cửu. Cái nghèo ấy không phải là trống rỗng, mà là viên mãn; không phải là từ khước sự sống, mà là gặp được mạch nguồn sự sống đích thực. Ngài bỏ tất cả để có thể ôm trọn bầu trời. Ngài tìm thấy kho báu trong từng giọt sương, tiếng chim, và cả những giọt lệ đau khổ của con người.

Nhìn vào gương mặt hiền hòa của Người nghèo Assisi, tôi tự hỏi: trái tim tôi đang thuộc về ai? Có phải danh vọng, tiền tài, lạc thú, hay cái tôi kiêu hãnh đang chiếm hữu tôi? Và tôi hiểu: chỉ khi biết “nghèo đi” – nghèo đi lòng ích kỷ, nghèo đi tham vọng, nghèo đi nỗi sợ mất mát – tôi mới có thể trở nên giàu có trong Thiên Chúa như Thánh Phanxicô.

Người nghèo của Thiên Chúa đã để lại cho nhân loại không chỉ một linh đạo, mà còn một bài ca sống động về tình yêu: bài ca của tự do, của đơn sơ, của hòa bình. Bài ca chan chứa ánh sáng ấy vẫn vang vọng qua nhiều thế kỷ, mời gọi ta cùng thưa lên một lời:

“Lạy Chúa, xin cho con biết chọn Ngài làm gia nghiệp, để trong sự nghèo khó, con tìm thấy kho tàng vô tận nơi tình yêu của Ngài.” Amen


 

VỀ VIỆT NAM KHI  TIẾP CHUYỆN NÊN GIẢ NGU CHO NÓ LÀNH

Phaolô Hiển NguyễnNguyễn Doãn Đôn

Tôi về phép VN khi ngồi nói chuyện với nhiều vị là tôi chỉ nghe là chính, để dò xem họ nhận thức ra sao. Thường thì tôi cứ giả vờ gật đầu, chứ rất ít khi phản bác lại họ, mặc dù mình muốn lắm và “điên” trong cái đầu lắm! Nghĩa là ừ ừ;  cạc cạc cho xong con mẹ nó đi; chứ cãi với người tăm tối là mình cũng vô tình mà thành ngu như họ. Rồi họ ghét mình và vu cho là thằng phản động…

Tốt nhất là cứ cười trừ cho qua ngày phép mà đi cho đỡ ấm ức. Đàn gẩy tai trâu phỏng có ích gì.

Cụ Nguyễn Du khi tả về tâm trạng này, thì cụ lấy tích ngày xưa viết ra  hai câu thơ lục bát trong Truyện Kiều rất tài tình là:

“Giường kia treo những hững hờ

Đàn kia ai gẩy ngẩn ngơ tiếng đàn”

Ví dụ người Dân ở quê họ khoe con cháu họ học giỏi, thế nọ,thế kia; Nhưng họ chả hiểu gì khi các cháu học xong Đại học có việc làm đâu. Họ đâu có biết rằng, như ở Đức này con cháu chúng ta chưa tốt nghiệp Đại học đã có bao Hãng họ sẵn sàng nhận vào làm rồi, mà không cần chạy chọt hay “phong bì”.

Rồi họ khoe là  làng xóm bây giờ so với ngày xửa, ngày xưa một trời, một vực; không phải thắp đèn dầu ma rút, không còn đường đất, bùn ngập đến cổ chân, xe ô tô vào được  tận sân v.v… Và họ cho rằng đó là nhờ ơn Đảng và Bác.

Họ không hiểu rằng đó là quy luật phát triển tất yếu, kể cả ở cả các nước chậm tiến và lạc hậu bên Châu Phi. Ở đây  không hề có yếu tố  Đảng và Bác đóng vai trò trong đó.

Họ không hiểu rằng với tốc độ phát triển bằng ấy năm trời thì ở các nước Tư bản dân chủ thì còn nhanh gấp 10 lần so với ở VN. Chúng ta cứ lấy ví dụ sự phát triển của cái Iphone nó nhanh như thế nào; Nó đâu có cần nhờ Bác và Đảng cài cấy co chíp lưu manh gái gú tùm lum, ăn cướp Chính quyền và tham nhũng vào để có Iphone 17 như bây giờ?

Họ không hiểu rằng lẽ ra một Đất nước như VN là bây giờ không những phải đảm bảo cho người Dân trong nước có đời sống sung túc ; mà còn phải có nguồn tiền của dồi dào gần như các nước G 7 để dang tay cứu giúp,  ủng hộ ra các nước ngoài nữa, để giúp họ khi họ gặp  chiến tranh, tai họa, hay vùng xích đạo không có thổ nhưỡng,khí hậu, tài  nguyên, khoáng sản phong phú như mình…  

Lẽ ra họ  phải nghĩ ngược lại mới đúng. Rằng, nếu Đảng và Bác không bảo thủ, không ngu dốt,  không độc tài toàn trị mà theo đường lối Dân chủ văn minh tiến bộ như Nhật, Nam Hàn, Singaphore hay Đài Loan thì bây giờ Dân Việt mình còn có đời sống rất có thể là hơn cả các nước kia.

Tại sao hơn?  Vì thổ nhưỡng, khí hậu, tài nguyên, vị trí địa lý của nước ta hơn hẳn họ. Thêm vào đó lại không có động đất và núi lửa thường xuyên đe dọa như ở Nhật.

Cái ấu trĩ của nhiều người Việt  chúng ta ở trong nước là cứ so sánh  thấy bây giờ hơn cách đây vài chục năm là họ sung sướng và ngạo nghễ.   Họ cho rằng được như thế là phải biết ơn Đảng và Bác.

Tôi sống ở Đức đã lâu thì thấy dân Đức họ không có cách nghĩ vớ vẩn nhố nhăng và u minh như thế. Họ chỉ nghĩ là họ bầu lãnh đạo lên làm việc là những người này phải có trách nhiệm và bổn phận làm việc cho nghiêm túc. Nếu không thì dân họ đòi phải từ chức, không bầu nữa.

Dân Đức quan niệm người lãnh đạo hay Nguyên thủ Quốc gia cũng hệt như họ  đi làm trong các hãng vậy.  Họ làm mà không tốt, thì sẽ bị chủ hãng cho nghỉ việc.

Cũng chính vì vậy mà nước Đức thiếu gì Nguyên thủ và lãnh đạo tài và có đạo đức tốt; nhưng họ không không có kiểu tôn sùng như nhà mình cho lên bàn thờ và xây lăng. Họ có bao nhiêu là đảng phái lãnh đạo, Nguyên thủ của họ tài hơn và có đạo đức hơn ông Hồ nhiều, nhưng họ đâu có cần phải há miệng ra cảm ơn và xây lăng cho ai.

Làm sao người dân VN phải nhận ra được rằng vì Đảng CS và ông Hồ đã mắc sai lầm  nghiêm trọng, khi tìm con đường cho Dân tộc theo đi, lại lạc vào con đường tăm tối – Con đường ngu ngốc, lỗi thời mà Nhân loại đã bỏ đi lâu rồi,  nên bây giờ Dân tộc  chúng ta mới ì ạch; ra nước ngoài lãnh đạo cũng hệt như dân, đi đâu để lại tiếng xấu đó;  thua chị, kém em đủ điều.

Nhân tài ở VN có quá ít ỏi, chỉ vì Thể chế kìm hãm, chứ không phải là do  dân mình ngu. Cũng là người Việt, nhưng họ sang Mỹ thì thành Tướng giỏi, thành các Nhà khoa học nổi tiếng; nhưng những người này mà ở VN chắc gì đã làm nên công trạng.

Cũng như cây cam sành trồng đất xứ Đoài thì cho ra trái ngọt, nhưng đem nó sang trồng nơi xứ Đông thì cho ra trái chua. Thể chế chính là mảnh đất, mà mỗi người Dân là một loài cây.

Chính vì thể chế ờ VN không chính danh và tăm tối đó, đã độc tài lại bất tài;  mà Dân ta nghèo khổ. Họ phải ra đi làm cu li khắp Năm châu, Bốn biển.

Nguyễn Doãn Đôn


 

Hội nghị về khí hậu ở Vatican quy tụ 1000 nhà hoạt động

Tổng hợp của Copilot

Tòa thánh Vatican đã mời Arnold Schwarzenegger giúp tăng cường các nỗ lực vận động về khí hậu trong hội nghị “Nuôi dưỡng hy vọng cho công lý khí hậu ”

Schwarzenegger thách thức Trump, ủng hộ sáng kiến ​​môi trường của Vatican

Arnold Schwarzenegger đang ủng hộ sáng kiến ​​môi trường của Vatican

Hội nghị được tổ chức tại Castel Gandolfo để kỷ niệm 10 năm thông điệp về môi trường Laudato Si’ của Đức Giáo hoàng Francis

Catholics Divided Over Global Warming | Pew Research Center

U.S. Catholics’ views on climate change and the environment | Pew ...

Earth May Have Already Surpassed 1.5°C Warming Threshold

Arnold là một người Công giáo và là người ủng hộ môi trường lâu năm , Schwarzenegger mang đến sự công nhận toàn cầu về biến đổi khí hậu và thông điệp của cộng đồng.

Effects | Facts – Climate Change: Vital Signs of the Planet

Các chủ trương của Giáo Hội Công Giáo bao gồm

  • Huy động mạng lưới rộng lớn của Giáo hội với 400.000 linh mục và 1,4 tỷ người Công giáo để hành động vì môi trường khí hậu.

  • Khuyến khích giáo sĩ lồng ghép các nguyên tắc của Laudato Si vào bài giảng thánh lễ.

  • Nêu bật mục tiêu của Vatican là trở thành quốc gia không phát thải vào năm 2050.

  • Chuẩn bị cho hội nghị thượng đỉnh COP30 sắp tới tại Brazil

Sự hợp tác này nhấn mạnh sự chuyển hướng chiến lược của Vatican sang truyền thông tác động mạnh mẽ và huy động cộng đồng vào việc bảo vệ môi trường khỏi biến động do khí hậu tạo ra.

Global Warming VS Climate Change. Planet earth ,ecology concept, global ...

Hàng chục nhà khoa học, nhà kinh tế và nhà thần học đã thảo luận về phát triển bền vững tại <a href="//www.casinapioiv.va/content/accademia/en/events/2014/sustainable.html">một hội thảo kéo dài bốn ngày tại Vatican.</a>

Cách nay 10 năm cũng đã có các hoạt động, Hàng chục nhà khoa học, nhà kinh tế và nhà thần học đã thảo luận về phát triển bền vững tại hội thảo kéo dài bốn ngày ở Vatican. Ảnh của Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng (15-5-2015)

Hội thảo này đáng chú ý vì đây chỉ là cuộc họp chung thứ hai của Viện Hàn lâm Khoa học và Khoa học Xã hội Giáo hoàng và vì sự đa dạng của những người tham gia: từ Tổng giám mục Roland Minnerath (Dijon, Pháp) đến nhà hải dương học 96 tuổi Walter Munk của Viện Scripps và Paulus Zulu , một nhà xã hội học người Nam Phi.

Tuyên bố này phân chia nhiệm vụ của nhân loại, một cách phù hợp, thành nhiệm vụ kỹ thuật và khoa học nhằm nuôi dưỡng xã hội loài người bằng các nguồn năng lượng sạch và thực phẩm bền vững — mà những người tham gia cho là “có sẵn hoặc trong tầm tay”, và thách thức lớn hơn nhiều là xây dựng cam kết đạo đức và các cấu trúc chính phủ và tài chính có thể giảm bất bình đẳng, đầu cơ trục lợi và các tệ nạn xã hội khác. Tuyên bố này gợi lại những bài viết của Đức Giáo hoàng Phanxicô:

Hành động của con người không tôn trọng thiên nhiên sẽ trở thành đòn phản công đối với con người, tạo ra bất bình đẳng và mở rộng cái mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là “sự toàn cầu hóa của sự thờ ơ” và “nền kinh tế loại trừ” ( Evangelii Gaudium ), bản thân chúng gây nguy hiểm cho tình đoàn kết với các thế hệ hiện tại và tương lai.

Hãnh diện là người vượt biển bất hợp pháp! – Đoàn Xuân Thu

Kimtrong Lam                                                   

Đoàn Xuân Thu –

26 tháng 9, 2025

Tháng Tư năm 1975, Sài Gòn thất thủ, và một cơn sóng di tản chưa từng có trong lịch sử dân tộc ập đến.

Những chiếc trực thăng Huey rung rinh hạ cánh trên boong các hàng không mẫu hạm Mỹ ngoài khơi; những tàu hải quân chở đầy người Việt chạy trốn CS. Cùng lúc, hàng nghìn người dấn thân vượt sóng biển bằng những chiếc thuyền nhỏ, liều mạng đối mặt với bão tố và hải tặc. Họ ra đi với một tâm thế chung: tìm tự do, tìm quyền sống còn, bất chấp mọi nguy hiểm.

Những người lên trực thăng và đáp xuống boong tàu Mỹ, theo luật quốc tế, đã tạm thời bước vào lãnh thổ Mỹ. Một chiếc tàu mang cờ Mỹ, theo nguyên tắc “extraterritorial jurisdiction,” được coi như mở rộng lãnh thổ quốc gia. Nhờ sự cho phép trực tiếp của thuyền trưởng, họ nhập cảnh một cách hợp pháp, mặc dù chưa có passport hay visa. Những giấy tờ này sau đó mới được các cơ quan di trú Mỹ cấp khi họ được ghi nhận là người tị nạn.

Trong khi đó, những người vượt biển bằng thuyền nhỏ, đối diện nguy cơ sinh tử, phải trôi dạt trên biển cả hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Khi cập bến các nước Đông Nam Á, họ mới được xem xét tình trạng tị nạn, chưa có sự hợp pháp ngay từ đầu.

Cuộc hành trình của họ là hành trình phi thường của ý chí sống, một minh chứng sống động cho sự liều mạng tìm tự do. Không ít người gọi họ là “stateless” – không quốc tịch. Thực ra, họ vẫn là công dân VNCH, nhưng sau 30 Tháng Tư 1975, VNCH đã sụp đổ, lãnh thổ bị Cộng sản tiếp quản, nên họ không còn nơi nào để thực hiện quyền công dân. Đây là một trạng thái tạm thời, mang tính pháp lý thực dụng, giúp các quốc gia tiếp nhận bảo đảm quyền tị nạn.

Từ góc độ chính quyền CS, họ vượt biển bất hợp pháp, nhưng chính điều này lại trở thành niềm hãnh diện là di dân bất hơp pháp, vì họ liều mạng tìm tự do, vượt qua chế độ đàn áp và nguy cơ sinh tử.

Họ ra đi mà không có hộ chiếu hợp lệ, visa, hay giấy phép xuất cảnh chính thức.

Những người lên trực thăng, đáp tàu Mỹ, tạm thời được thuyền trưởng cấp quyền cư trú.

Những người vượt biển thì phải xin tị nạn tại trại hoặc cảng tiếp nhận. Trong mọi trường hợp, họ vượt ngoài mọi quy chuẩn giấy tờ, nhưng theo luật quốc tế họ là người tị nạn.

Đây là một thực tế khiến thế giới phải nhìn bằng sự ngưỡng mộ, bởi không phải ai cũng dám liều mạng để bảo vệ mạng sống và quyền tự do của mình.

Điểm đáng chú ý là hai nhóm người ra đi:

1.Nhóm trực thăng/đáp tàu: nhập cảnh hợp pháp nhờ sự cho phép đặc biệt của thuyền trưởng; giấy tờ tạm thời được cấp sau đó; dễ dàng hơn trong quá trình di trú.

2.Nhóm vượt biển bằng thuyền: sống trong nguy cơ cao, tạm thời chưa hợp pháp; khi đến bến, phải xin tị nạn, trải qua quy trình xét duyệt; sự sống và quyền tự do hoàn toàn phụ thuộc vào lòng can đảm và may mắn.

Xin nhấn mạnh. Còn đi có hộ chiếu của CS cấp, có chiếu khán nhập cảnh Hoa Ky sau tháng 9 năm 1995 lúc CS và Hoa Kỳ bình thường hoá bang giao thì trong trường hợp nầy họ là di dân hợp pháp họ được CS cho đi! Hợp pháp kiểu nầy hay ho gì đó mà khoe mà tự nhận chớ?

Tóm lại những chuyến đi vượt biển này không chỉ là sự liều mạng, mà còn là biểu tượng hùng tráng của quyền sống và quyền tự do.

Chính vì thế, dù bất hợp pháp với chính quyền CS, họ vẫn hãnh diện với lựa chọn của mình.

Họ không trốn tránh trách nhiệm hay chạy trốn khỏi lịch sử; họ đang viết lại lịch sử của chính mình bằng máu, mồ hôi và quyết tâm sống còn.

Với các nước tiếp nhận, họ được xem là người tị nạn, nhưng cũng không hoàn toàn hợp pháp theo nghĩa thông thường, vì không có thông hành (passport) hay visa khi rời Việt Nam.

Tuy nhiên, luật quốc tế và chính sách nhân đạo ưu tiên bảo vệ tính mạng con người, vì vậy họ được cấp tình trạng tị nạn, giấy tờ tạm thời, và dần trở thành công dân hợp pháp của nước tiếp nhận. Đây là sự hợp pháp mang tính nhân đạo, khác hẳn với khái niệm hợp pháp thông thường về giấy tờ xuất nhập cảnh.

Nhìn lại, người Việt 1975 ra đi bằng trực thăng, tàu hải quân hay vượt biển là một thế hệ phi thường, không giống bất kỳ hình thức di cư nào thông thường. Họ đã biến nguy cơ thành niềm hãnh diện, biến tình thế sống còn thành hành trình tìm tự do.

Họ bất hợp pháp với CS nhưng hợp pháp với đạo lý sống còn; họ không có passport hay visa nhưng hợp pháp theo luật tị nạn; họ liều mạng trên biển nhưng trở thành biểu tượng sinh động của ý chí sống.

Ra đi năm 1975 là một minh chứng lịch sử rõ ràng rằng quyền sống còn, sự liều mạng và tinh thần tìm tự do có giá trị pháp lý, đạo đức và tinh thần cao hơn bất cứ giấy tờ nào.

Chính nhờ lòng can đảm và quyết tâm ấy mà người Việt 1975 đã viết nên một trang sử hùng tráng, làm rạng rỡ niềm hãnh diện của dân tộc, bất chấp mọi chế độ, luật lệ hay hiểm nguy.

(Melbourne)


 

Lại suy nghĩ về sự chết – Phùng Văn Phụng

Phùng Văn Phụng

Đầu tháng 05 năm 2025, tin tức từ Việt Nam, ở quê nhà cho biết anh Tr mất, thọ 95, 96 tuổi. Nhưng khi nói đến anh Tr. chết, cháu trong nhà liền nói “đừng nói đến chuyện mất, chuyện chết, không tốt”. Cháu cũng đã 58 tuổi rồi nhưng vẫn sợ nói đến sự chết “vì cho rằng, nhắc đến sự chết là xui xẻo”. Không muốn nói, không muốn nghe nói đến sự CHẾT. Cháu không dám nghĩ rằng làm người ai ai cũng phải chết vì đó là qui luật của tạo hóa: Sinh Lão Bịnh Tử”. Không có ai thoát khỏi qui luật này.

Tần Thủy Hoàng (259 TCN-210 TCN) đã ra lịnh tìm thuốc trường sinh nhưng Tần Thủy Hoàng cũng phải chết.

******

Tôi đã in tất cả 15 tờ giấy có ghi chữ “Suy Ngẫm: Làm Sao Vui Để Đợi Chết”, tôi đã dán trong phòng ngủ cũng là phòng làm việc của tôi.

Ngồi đâu cũng thấy câu này, sáng thức dậy nhìn lên tường là thấy câu này để nhắc nhở tôi về SỰ CHẾT. Làm người ai cũng phải ra đi, sẽ CHẾT, nhưng làm sao trong lúc đang sống cho đến lúc chết, có cuộc sống VUI hơn là sống với tâm trạng buồn rầu.

Thánh Vịnh 90 câu 10 có viết: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”.

1-      Nhờ thường xuyên suy niệm về sự CHẾT, nên khi bị người khác mắng chửi, khinh chê, nói xấu, bịa đặt, vu khống làm ta tổn thương, ta ít bị ảnh hưởng hơn, ít tức giận hơn?

2-      Nếu bị cự nự, công kích ta xem như không có và nên tội nghiệp, thương xót người đó vì phải có lý do nào đó họ mới chửi bới, nói xấu mình.

3-      Cầu nguyện cho họ vì họ đã hiểu lầm. Tại sao phải cầu nguyện cho họ? Nếu ta bỏ qua, đừng để ý đến, đó chỉ là hình thức tiêu cực mà thôi. Còn tích cực ta phải thương xót họ, phải cầu nguyện cho họ để cho họ sáng suốt, để họ phân định đúng, sai và có hành động đúng đắn hơn. Nhờ đó ta không bị ảnh hưởng bởi lời phê bình, chỉ trích vô lý của người khác.

4-       Sự giận hờn làm tim ta đau nhói, làm cho ta mất bình an, làm cho ta khó ngủ. Vậy ta có nên giận hờn không?

Vài suy nghĩ lan man:

-Nếu đau bịnh nặng không tự ăn uống, tắm rửa được thì làm sao?

-Vào sống ở Nursing home; thường có hai ý kiến trái ngược:

  1. a) không thích vì buồn, nhớ nhà, không quen, lạ chỗ
  2. b) đầy đủ tiện nghi có bác sĩ, y tá lo về sức khoẻ.

Vài tháng sau khi ta mất chẳng có ai còn nhớ đến ta. Những người bà con xa gần, thân nhân, con cháu có nhớ đến ta chỉ vài năm mà thôi. Mười năm, hai mươi năm chẳng còn ai biết đến ta chứ đừng nói cả trăm năm sau.

 Kết:

Đến tuổi này rồi, tuổi 83, tôi đã soát xét lại đời mình, thăng trầm quá nhiều, tù cải tạo, lăn lộn làm nhiều nghề khác nhau để sống.

Cho nên tôi luôn tự nhắc nhở cho chính mình:

Tạ ơn Trời mỗi sớm mai thức dậy,

Cho con còn ngày nữa để yêu thương.

Và làm sao phải “Yêu Mến Sự Chết” như lời nói của cố Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận?

Tháng 05 năm 2025

*****

Xin được bổ túc nhân ngày sinh nhật 11 tháng 07

Có sinh thì phải có tử.

Sinh Lão Bịnh Tử đó là quy luật tất yếu ai cũng biết.

Mỗi một ngày trôi qua, ta gần đến cái chết nhiều hơn. Còn trẻ 50 tuổi trở xuống, không thấy hay không nghĩ đến sự chết, nhưng những người đã trên 60 tuổi rồi thường suy nghĩ về sự ra đi của mình.

Tuy nhiên, sự việc 8 người đã chết vì hoả hoạn tại khu cư xá Độc Lập, thuộc quận Tân Phú, Sài Gòn, sáng ngày 07 tháng 07 năm 2025, trong đó có gia đình 4 người, chồng 41 tuổi, vợ 39 tuổi và hai đứa con 11 tuổi và 8 tuổi.

Hàng trăm người đã chết vì lũ lụt ở Kerrville, Texas ngày 08 tháng 07 năm 2025 trong số đó có nhiều trẻ em từ 10 đến 14 tuổi.

Do đó, không ai có thể dám quả quyết rằng “ta hoàn toàn bình an vô sự” cho đến ngoài 90 tuổi??? 

Hôm nay, ngày 11 tháng 07, tôi bước vào đúng tuổi 83, quá thọ rồi phải không? Bây giờ nếu viết cáo phó mới được ghi là Hưởng Thọ 83 tuổi.

Tôi viết để tự nhắc nhở mình một lần nữa thân phận mỏng dòn, yếu đuối của bản thân mình.

Ngày 11 tháng 07 năm 2025

Phùng Văn Phụng

 


 

Duyên nợ với Bạc Liêu – Đoàn xuân Thu

 Đoàn xuân Thu

Chùa Quan Vân Trường của người Hoa tại Bạc Liêu xưa – Nghe cái tên thôi là đã thấy… nghèo! Một chữ “bạc” là đã lạt lẽo, nhạt nhẽo, lại thêm “liêu” nghe buồn hiu như quán rượu đầu sông vắng khách. Nói gì thì nói, ai đặt tên cho xứ này chắc lúc đó chưa trúng số. Ấy vậy mà lạ nha! Ở đời, có những cái tên nghe nghèo nhưng ở bên trong… giàu hết biết. Và Bạc Liêu chính là một trong những cái “giả bộ nghèo ”như vậy đó

  1. Cái tên nghe buồn… nhưng đầy duyên nợ.

Ai từng nghe câu này thì biết:

“Bạc Liêu là xứ quê mùa.

Dưới sông cá chốt, trên bờ Triều Châu.”

Nghe qua tưởng người Bạc Liêu tự chê mình quê mùa, nghèo xơ xác. Nhưng nếu bạn tin vậy, thì bạn bị người ta “gài độ” rồi đó nghen!

Câu này không phải tự ti, mà là một đòn “tự trào”, kiểu “giả ngu để thiên hạ tưởng thiệt”. Chứ thực ra, cái quê mùa đó là quê mùa sang chảnh, quê mùa có phong cách, quê mùa mà ăn cơm có người bưng, nước mắm riêng từng dĩa nhỏ

Bạc Liêu

2. Bạc Liêu – cái tên không có trong từ điển… tiếng Việt!

Nhiều người tưởng “Bạc Liêu” là chữ Hán Việt, kiểu như “Bạc” là bạc tiền, “Liêu” là nhà lều – nghĩa là nhà nghèo. Tưởng vậy thì… trật lất!

Sự thật là “Bạc Liêu” không có nghĩa gì trong tiếng Việt cả, mà là âm Việt hóa của tiếng Triều Châu (Chaozhou – người Hoa gốc ở miền Nam Trung Quốc). Gốc từ này là “Po-Liêu”, có nghĩa là dòng nước lớn, chảy xiết. Người Hoa đọc “Po-liêu”, người Việt nghe quen tai, đọc chệch thành… “Bạc Liêu”.

Chuyện đơn giản như đang giỡn vậy đó. Như kiểu ông Sáu nói “sà lang” thành “xà lạng”, hay bà Bảy gọi “champagne” là “chàm panh”. Miễn hiểu nhau là được.

 3. Dưới sông cá chốt.

Cá chốt – nhỏ xíu, mình tròn, da trơn, nhưng kho lên thì ngon bá chấy bù chét

Ở Bạc Liêu, cá chốt không chỉ là cá để ăn mà là ký ức, là chất mặn mòi của đồng, của ruộng!

Hồi đó, mưa xuống là cá chốt bầy kéo nhau lên đồng, bắt bằng tay không cũng được tuốt. Kho với me, kho tiêu, nấu canh chua, nướng mọi – ăn riết mà nhớ đời.

Vậy nên “dưới sông cá chốt” không phải chê nghèo, mà là tuyên ngôn mộc mạc của sự sống ngon, sống thật. Không cần yến sào, vi cá mập, tôm hùm gì ráo. Cá chốt kho tiêu ăn cơm nguội thôi cũng quá đã trong một buổi chiều mưa.

Bạc Liêu xưa.

4.Trên bờ Triều Châu.

Bạc Liêu là đất của người Triều Châu – dân buôn bán, làm ăn siêng năng, thức dậy lúc gà chưa gáy, đóng cửa lúc trăng đã nghiêng. Từ tiệm vàng đến quán tàu hủ, từ rạp chiếu bóng tới xưởng nước đá, đâu đâu cũng có người Triều Châu góp mặt.

Nhưng cái hay là họ giàu mà không khoe, ở nhà gạch bông, đội mũ cối, đi xe đạp sơn lại hai màu, nhưng trong túi có thể rút ra tờ giấy bộ lư như chơi.

Nói “trên bờ Triều Châu”! Tiều trên bờ đâu mà đông như cá chốt dưới sông vậy?

Có người còn nói giỡn “Bạc Liêu không có Triều Châu là… không còn Bạc!” Bạc là kim loại quý sau vàng.

5.Mưa, lý, và sự lâm râm của tâm hồn phương Nam**

Ở Bạc Liêu, trời mưa không phải để lạnh, mà để buồn. Mưa ở đây gọi bằng nhiều tên lắm: mưa lâm râm, mưa bong bóng, mưa dầm, mưa thúi đất, mưa gió chướng, mưa đầu mùa, mưa trái mùa… Nhưng dù tên gì thì mưa cũng ướt lòng chứ không chỉ là ướt áo.

Và mỗi lần mưa, người ta hát lý.

“Lý Con Sáo Bạc Liêu” bay ngang đồng vắng.”Lý Chiều Chiều” rớt vô quán cà phê đầu xóm. “Lý Bạc Liêu” ngân nga trong cải lương “Dạ cổ hoài lang”.

Mỗi điệu lý là một cách người ta nói chuyện tình mà không bị vợ ghen bóng, ghen gió. Vừa hát vừa tự nhiên như ngưòi “Hà Lội” ngó qua nhà vợ thằng hàng xóm. Gặp ai biết đàn guitar phím lõm cỡ con của Văn Vĩ thì thôi rồi Lượm ơi– lý tới sáng, lý tới khi trời mưa ngừng mà tim còn lâm râm không cho ai ngủ nghê gì hết ráo hè!

Bạc Liêu ngày nay không còn quê mùa như xưa cách nay nửa thế kỷ nữa, (dĩ nhiên). Đèn đường sáng, cầu bê tông bắc tới ruộng, công viên có nhạc nước, quán nhậu mở tới 2 giờ sáng cho mày xỉn chết cha mày luôn. Nhưng cái tình của đất, cái lý của người, cái duyên của giọng nói, cái âm của con sáo thì vẫn còn nguyên.

Tên gọi “Bạc Liêu” là một minh chứng tuyệt vời cho triết lý sống của người miền Tây:

**Nghe thì tưởng nghèo, nhưng chơi thì hết biết. Thấy thì tưởng lạt, nhưng ăn thì đậm đà. Nói thì tưởng chơi, nhưng nghe kỹ… là triết lý.

Cuối cùng bạn hỏi tui: “Bạc Liêu là gì?”

Tui trả lời: “Bạc Liêu là một cái tên không có nghĩa rõ ràng, nhưng nghĩa tình thì rõ ràng quá chừng.”

Bạn muốn tìm nghĩa? Mời xuống miền Tây một bữa, đứng dưới mưa ướt dầm bông sói, nghe con sáo nó lý thử coi!

“Lý con sáo bay xa, lý con sáo bay về…”*

Còn tui xa Bạc Liêu đã 30 năm và tui xin bắt chước nhà thơ Nguyễn Bính:

Nói ra sợ mất lòng em,

Van em! Em hãy giữ nguyên quê mùa.

 Tác giả: Đoàn Xuân Thu 

From: Tu- Phung

Châu Mỹ và Christopher Columbus – Trần Lý Lê

Trần Lý Lê

Christopher Columbus. (Hình: Wikipedia.org)

13 Tháng Mười năm nay, niên lịch không còn ghi nhận ngày Columbus và không còn là một dịp “nghỉ lễ” nữa.

Người địa phương (ngày trước bị miệt thị là “thổ dân da đỏ”) phản đối suốt mấy chục năm mới thành công. Tôn vinh ông Columbus và cuộc xâm lăng châu Mỹ là một sự sỉ nhục cho tổ tiên họ. Đang sinh sống trên đất nước thì bị đám người tay súng tay dao kéo đến tàn sát và tròng lên cổ người địa phương [thua trận] cái ách nô lệ. Họ phản đối vì lịch sử méo mó “làm đẹp” cho chuyện ngày xưa dù biết bao nhiêu chi tiết về cuộc xâm lăng [của người châu Âu] vẫn còn rành rành chưa mất hết dấu vết. Vì “yếu sức” nên “yểu mạng.” Người địa phương thủa ấy sống phây phây, đâu cần ai khai phá, dạy dỗ nếp sống văn minh kiểu Âu Châu!

Chuyện ông Columbus “khám phá” ra châu Mỹ là chuyện khá cũ, lịch sử viết bởi kẻ chiếm đất. Ông ấy được xem như nhà thám hiểm hàng đầu trong sách vở Âu Mỹ. Thế rồi người đời sau cũng tìm ra ít nhiều chi tiết về chuyến vượt biển lạc đường của ông ấy và con cháu kẻ chiếm đất cũng phải nhìn nhận việc làm [bất nhân] của ông cha mà tạ lỗi với người địa phương. Đầu tiên là chấm dứt việc vinh danh kẻ dẫn đầu [dù hoàng gia Tây Ban Nha đứng sau tài trợ, cung cấp tiền bạc, binh lính, thuyền bè…] chuyến “thám hiểm.” Mãi đến năm nay, niên lịch Huê Kỳ mới vắng bóng chữ “Columbus Day” và một vài cuốn lịch đã dùng “Native American Day” để ghi nhận sự hiện diện của “chủ đất” dù rất muộn màng.

Tất nhiên tại quê nhà xứ Tây Ban Nha bên kia biển rộng, xứ sở ấy vẫn vinh danh ông Columbus. Ông qua đời năm 1506 tại Valladolid, Tây Ban Nha nhưng lại dặn dò con cháu là rinh hài cốt qua đảo Hispaniola, ngày nay là lãnh thổ chung của hai quốc gia Dominican Republic và Haiti.

Đến năm 1542 thì ông được như ý nguyện, nhưng rồi không hiểu tại sao mồ mả lại bị đào lên để chuyển sang Cuba năm 1975 và sau cùng năm 1898, lại đưa về Seville, Tây Ban Nha đặt trong nhà thờ chính tòa của thành phố. Có lẽ đây là thành phố đẹp nhất của Tây Ban Nha theo ý riêng, còn giữ được đầy đủ dấu vết của người xưa kể cả kẻ đã một thời chiếm giữ vùng đất ấy.

Hồi nẳm phe ta ghé qua Seville có đến nhà thờ và nhìn ngắm mộ nổi của Columbus, lần đầu thì vô cửa tự do nhưng lần thứ nhì ghé nhà thờ sau thánh lễ thì phải mua vé đàng hoàng!

Lăng mộ đặt trên bệ cao có những bức tượng “canh gác” chung quanh, cung cách lưu trữ hài cốt ngang hàng với vua chúa thì ta hiểu rằng người Tây Ban Nha nhớ công ơn ông.

Là người dẫn đầu các cuộc khám phá châu Mỹ của người Âu Châu nên cư dân ở bển có khuynh hướng nhận người sang làm họ. Kẻ nói rằng ông Columbus gốc gác từ Genoa, Ý; người lại cãi là ông là người Hy Lạp, Tây Ban Nha gốc Do Thái, gốc Bồ Đào Nha, hoặc gốc Anh?

Tranh luận mãi nên sau cùng, người ta lấy ra một mảnh xương từ quan tài tại Seville đem đi thử nghiệm di tính, DNS. Theo truyền thống Á Châu, ông Columbus là người bất hạnh, thân xác cứ bị đào xới, cắt cứa lu bù cả mấy trăm năm sau ngày qua đời. Mãi không yên. Nổi danh quá cũng … khổ?

Nhóm chuyên viên Tây Ban Nha, sau 22 năm nghiên cứu, Miguel Lorente, người dẫn đầu chương trình tìm kiếm, so sánh DNA từ hậu duệ, mới công bố kết quả qua chương trình truyền hình “Columbus DNA: The true origin.” Qua DNA của người con trai, ông  Hernando Colón, các di tính của họ tương đồng với nguồn gốc Do Thái.

Trong thế kỷ XV, khoảng 300,000 người Do Thái sinh sống tại Tây Ban Nha cho đến khi triều đại Isabella & Ferdinand ép buộc di dân Do Thái và tín đồ Hồi giáo cải đạo, phải theo Thiên Chúa giáo bằng không chịu trục xuất. Nhóm người “tân tòng” này được gọi “Reyes Catolicos.” Những người Do Thái [từ Tây Ban Nha] tản mát khắp nơi để duy trì đức tin và giòng dõi có tên “Sefarad” (Spain theo Hebrew); gốc của chữ “Sephardic,” Sephardic Jews.

Ông Lorente còn nói thêm rằng sau khi thẩm định kỹ lưỡng các chi tiết về nơi ra đời, khoảng 25 địa phương được cho là nơi sinh của nhà hàng hải, và cuối cùng, vùng Tây Âu được chọn, nghĩa là không gọi đích danh một nơi nào.

Sự say mê (hay tò mò?) về nhà thám hiểm không ngừng ở nơi sinh, gốc gác mà còn kéo theo nhiều thứ khác như thư từ của ông ấy cũng được sưu tầm, lưu trữ và buôn bán.

Năm 2020, cơ quan di trú và quan thuế (Immigration and Customs Enforcement – ICE) và bộ Tư Pháp Huê Kỳ công bố đã tịch thu được một lá thư (bản in) của ông Columbus gửi cho các chức sắc Ý trong thế kỷ XV. Lá thư này nằm trong bộ sưu tập của Biblioteca Nazionale Marciana tại Venice, Italy; bị đánh cắp trong thập niên 80 của thế kỷ trước. Lá thư qua tay nhiều người sưu tầm và cuối cùng trong tay của một nhà sưu tầm cổ thư tại Hoa Kỳ. Ông này mua lại lá thư vào năm 2003.

Tháng Bảy năm 2023, giám đốc ICE, ông Patrick J. Lechleitner, “khiêng” lá thư qua Rome, hoàn trả chính phủ Ý theo thỏa thuận quốc tế, không giữ vật bị đánh cắp. Của Cesar trở về với Cesar. Theo ông Lechleitner, trong mấy chục năm qua, đây là lần thứ tư Hoa Kỳ tịch thu được các bản in của lá thư đã bị đánh cắp. Các bản in khác đã được hoàn trả thư khố Vatican City năm 2018, thư viện của thành phố Florence, Ý và Library of Catalonia, Tây Ban Nha.

Lá thư viết bằng chữ La Tinh năm 1493, là một trong 30 lá thư còn sót lại của ông Columbus gửi vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella (hoàng gia Tây Ban Nha) kể chuyện khám phá đất mới. Đây là bản in Plannck I edition, theo tên gọi của nhà in nổi danh Stephan Plannck người đã phát hành hai bản in của lá thư [gốc] trên 500 năm về trước. Cổ thư và phó bản rất quý hiếm, được sử gia và những người sưu tầm tìm kiếm nên thường bị đánh cắp [để bán buôn]. Bản in kể trên trị giá khoảng $1.3 triệu.

Những “cái quạt” xem ra bị thu hút mạnh mẽ bởi người nổi tiếng, bất kể tiếng thơm hay tiếng không thơm, rồi mày mò tìm kiếm cũng như thu nhặt di vật liên quan đến người nổi tiếng nọ. Ông cụ Columbus cũng không ngoại lệ, mồ mả bị đào xới, di hài bị cưa cắt săm soi, vật dụng cá nhân bị (được) truyền tay, con cháu được phỏng vấn (hay bị căn vặn?) đến nơi đến chốn để tìm ngọn ngành mà viết thành lịch sử và những câu chuyện bên lề.

Phe ta cũng là người khá tò mò, khách hàng của những câu chuyện lịch sử, đã tiếp tay phần nào cho những… đào xới kể trên nên có chút áy náy. Các câu chuyện lịch sử về thổ dân châu Mỹ từ những chuyến đi Peru, Guatemala, El Salvador, Berlitz, Honduras xem ra vẫn chưa đủ… cân bằng.

Trần Lý Lê

 – 21 tháng 9, 2025

From: taberd & NguyenNThu