Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: chứng nhân tình yêu và hi vọng

 

 Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: chứng nhân tình yêu và hi vọng

 July 20, 2012

                                                                                            Thiên Triệu giới thiệu

 

WHĐ (19.07.2012) – Hãng thông tấn Zenit đã có cuộc trò chuyện với tiến sĩ Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên trong tiến trình phong chân phước cho Đức Cố hồng y Phanxicô Xaviê. Khi được hỏi về điều gì gây chú ý nhất trong cuộc đời của ngài, ông nói: “Điều đánh động tôi trong linh đạo của ngài là tình yêu liên lỉ đối với tha nhân. Ngài bị cầm tù và khi ở trong tù, ngài vẫn không ngừng yêu thương những người bách hại ngài, từ những viên chức cao nhất của chế độ đến anh lính canh thấp bé nhất”.

Đức hồng y Văn Thuận là Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn khi thành phố này bị cộng sản kiểm soát năm 1975. Không lâu sau đó, ngài bị giam giữ trong trại cải tạo suốt 13 năm. Theo tiến sĩ Hilgeman, ngài là một tù nhân phải chịu sự bất công, “theo nghĩa là đã không có sự tố cáo thực sự, cũng không có xử án, kể cả bản án. Do đó có thể nói rằng đối với chúng tôi, ngay cả việc ngài bị tố cáo về tội gì cũng là một vấn đề. Trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, có nhiều khía cạnh dẫn đến việc coi vị giám mục này là người nguy hiểm cho chế độ, một chế độ trống rỗng như chế độ cộng sản. Tuy nhiên đã không có sự tố cáo chính thức nào.”

Trong thời gian bị giam cầm, ngài đã bí mật viết những sứ điệp cho các tín hữu, nhiều năm sau này được gom góp lại và xuất bản. Trong những sứ điệp này, Đức hồng y Văn Thuận nhận ra ngay từ đầu rằng “Thiên Chúa đòi hỏi ngài hiến dâng tất cả cho Chúa, từ bỏ mọi sự và sống cho Chúa”. Hilgeman nói: “Vì Đức hồng y đã hiểu được rất mạnh mẽ điều này – đặc biệt trong giai đoạn bị cầm tù – là: công việc của Chúa là chính Chúa. Là tổng giám mục phó, ngài đã sống cho những công việc của Chúa. Và ngài nhận ra rằng khi bị cầm tù, Chúa đòi hỏi ngài rời bỏ công việc để chỉ sống cho Chúa mà thôi”.

Về những giai thoại trong thời gian Đức hồng y bị cầm tù, tiến sĩ Hilgeman nhắc lại sự hoán cải của nhiều lính cai tù. Ông nói: “Bằng tình yêu hoàn toàn cho họ, Đức hồng y đã cho thấy thế nào là tình yêu của Đức Kitô. Không được giảng, không thể trực tiếp nói với những người này về Đức Kitô, nhưng bằng mẫu gương của Đức Kitô nhập thể, ngài đã có thể hoán cải họ, đây là điều rất độc đáo”. Do bối cảnh chính trị của Việt Nam, thật khó để phỏng vấn những người lính canh này, nhưng vị cáo thỉnh viên cho biết chứng từ của những người này có thể được đưa vào tiến trình điều tra.

Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận được ra khỏi trại giam năm 1988 mặc dù vẫn bị quản thúc tại gia. Ngài được phép đi Rôma năm 1991 nhưng không được trở lại Việt Nam cho đến năm 2001 khi ngài được vinh thăng hồng y. Nói về những đóng góp của Đức hồng y trong tư cách là Chủ tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, tiến sĩ Hilgeman cho rằng Chúa đã chuẩn bị cho Đức hồng y vào tác vụ của ngài tại giáo triều Rôma. “Có thể nói rằng với việc ngài đến Rôma, chúng ta hiểu rõ hơn những biến cố trong đời ngài. Vai trò của Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình là vai trò cực kỳ nhạy cảm, vì phải quan tâm nhiều đến kinh tế, công lý, nạn đói trên thế giới, hòa bình, tình liên đới và những điều tương tự; nghĩa là bao hàm toàn bộ giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Do đó, một giám mục đến từ một xã hội rất nghèo như Việt Nam lúc đó, và là người đã từng bị cầm tù, đã trải nghiệm nơi chính bản thân sự bất công của thế gian chỉ vì mình là người công giáo. Chắc chắn là Chúa Giêsu đã chuẩn bị cho Đức hồng y rất tốt để ngài làm nhiệm vụ tại Rôma”.

Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận đã qua đời tại Rôma vào tháng 9 năm 2002 vì bệnh ung thư. Nói về tiến trình phong chân phước, tiến sĩ Hilgeman cho biết đã phỏng vấn trên 130 nhân chứng, từ các hồng y và giám mục cho đến tu sĩ và giáo dân. Theo ông, tiến trình đang diễn ra rất tốt.

Về việc nhiều tín hữu đạo đức hi vọng Đức hồng y Nguyễn Văn Thuận sẽ được phong thánh, vị cáo thỉnh viên suy nghĩ những lời Đức hồng y nói về hi vọng: “Trong các tác phẩm và bài viết của ngài, có một từ mà ngài thường xuyên nhắc đến, và xem ra những chứng nhân cũng nói như thế khi đến trước Tòa án Rôma, đó là Hi Vọng, đừng đánh mất hi vọng vào Chúa. Và có lẽ ngài sẽ được gọi là vị thánh của hi vọng

nguồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

Khoa học làm sáng tỏ bí mật Đức Mẹ Guadalupe sau hơn 400 năm

Khoa học làm sáng tỏ bí mật Đức Mẹ Guadalupe sau hơn 400 năm

Đăng bởi cheoreo1 lúc 3:30 Sáng 17/07/12

                                                                                               nguồn: chuacuuthe.com 

 

 

VRNs (17.07.2012) – all-about-the-virgin-mary  – Một ngày đẹp trời 12-12-1531, Juan Diego – một trong những người gia nhập Công giáo sớm nhất ở Mexico – không thể mơ có một ngày ông lại có thể được đặt trên bàn thờ cho Giáo Hội hoàn vũ tôn kính.

Juan Diego trên đường tới nhà thờ sáng sớm hôm đó thì ông lại nghe tiếng nói ngọt ngào của một Phụ Nữ Đẹp hiện thực trước mắt mình tại chân đồi Tepeyac ở ngoại ô TP Mexico vào hai ngày trước.

Phụ Nữ Đẹp ấy lặp lại ước muốn của Bà là có một teocali (nhà nguyện) được xây nơi Bà hiện ra. Juan Diego nói với Phụ Nữ Đẹp rằng ĐGM Juan Zumarraga đòi bằng chứng xác thức về yêu cầu này. Đức Mẹ đã bắt buộc. Theo hướng dẫn của Đức Mẹ, Juan Diego lấy một bó hoa hồng Castilian mà Đức Mẹ xếp trên tilma (khăn choàng) của Người. Ông sẽ đưa bó hoa hồng đó cho ĐGM. Những đóa hồng Castilian lạ lùng nở vào mùa Đông! Juan Diego vội vã đến gặp ĐGM. ĐGM và mọi người có mặt đều sửng sốt trước những đóa hồng thơm ngát khi Juan Diego mở khăn choàng ra và có hình vẽ một Phụ Nữ Đẹp cao 143 cm với nước da hơi sẫm.

Đó là câu chuyện hay về Đức Mẹ Guadalupe. Hình ảnh Đức Mẹ được bao quanh bằng những tia nắng, dưới chân Đức Mẹ có vầng trăng lưỡi liềm và một thiên thần nâng Đức Mẹ lên. Đức Mẹ mặc áo choàng màu xanh có những ánh sao vàng, bên trong là áo dài hồng kết những nụ hồng viền vàng. Chiếc đai lưng màu đỏ tía thắt quanh eo như các thai phụ Aztec vẫn sử dụng.

Đức Mẹ yêu cầu Juan Diego gọi Đức Mẹ là coatloxopeuh (theo tiếng Aztec Ấn độ ở vùng Nahuatl nghĩa là “người đạp rắn”). Về lịch sử, đó là một phần văn hóa Aztec thời đó, hàng năm có ít nhất 20.000 đàn ông, phụ nữ và trẻ em làm vật hy sinh tế thần. Nhờ Đức Mẹ Guadalupe hiện ra với Juan Diego, hàng triệu người đã trở lại Kitô giáo, như vậy việc đạp con rắn là sự sùng bái thần tượng (idolatry). Khăn choàng đầu của Juan Diego được làm bằng sợi thô, không hoàn toàn thích hợp để vẽ. Nghiên cứu khoa học đã tìm hiểu khăn choàng đó từ năm 1666 với các họa sĩ, bác sĩ và khoa học gia. Các phát hiện của họ cho thấy như sau: Các đặc điểm lạ lùng của hình ảnh đó vượt ngoài tầm hiểu biết của khoa học; hình ảnh đó không thể do con người vẽ; màu sắc “kết hợp chặt chẽ” vào thớ vải; chất màu được dùng không rõ nguồn gốc. Hơn nữa, tấm khăn choàng đó làm bằng sợi đặc biệt, chỉ có loại đó còn sau 476 năm.

Renzo Allegri, trong bài viết Messenger of Saint Anthony (Sứ giả của Thánh Antôn), cho biết rằng hiện tượng gây ngạc nhiên nhất đã gợi sự tò mò khoa học quan tâm hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe, quan tâm cái gì đã được phát hiện trong đồng tử mắt của Đức Mẹ. Năm 1929, Alfonso Gonzales, nhiếp ảnh gia của Đền thờ Guadalupe, sau khi nghiên cứu âm bản phim, thấy rằng cái có vẻ là hình ảnh rõ nét một đàn ông có râu phản ánh ở mắt bên phải. Sau hơn 20 năm, một nhiếp ảnh gia khác của Đền thờ Guadalupe là Carlos Chavez đã tuyên bố rằng ông thấy một hình người trong mắt bên trái và mắt bên phải của Đức Mẹ Guadalupe. Từ năm 1956 tới 1958, Rafael Torija Lavoigner thực hiện 5 cuộc nghiên cứu, dùng các loại kính lúp và kính soi đáy mắt (ophthalmoscopes), ông xác nhận có hình người trong hai mắt của Đức Mẹ.

Hiện tượng lạ như vạy trở nên “giật gân” hơn khi mắt Đức Mẹ được nghiên cứu khi dùng các kỹ thuật tinh vi hơn có nối kết với máy vi tính.

Năm 1979, TS Jose Aste Tousman, một kỹ sư giỏi chuyên ngành vi tính ở Hoa Kỳ, đã đến Mexico. Ông là một trong các nhà nghiên cứu hàng đầu về mắt của Đức Mẹ Guadalupe. Allegri viết rằng công việc của TS Tousman làm trong 23 năm là điều khác thường; ông đã dùng các thiết bị cập nhật hóa và tinh vi nhất, các loại mà NASA vẫn dùng để giải mã hình ảnh chụp qua vệ tinh. TS Tousman phóng to hình ảnh mắt của Đức Mẹ Guadalupe tới 2.500 lần, dùng 25.000 màu để minh họa cho mỗi mm vuông.

Sau khi chọn lọc và xử lý hình ảnh kỹ thuật số, TS Tousman phát hiện toàn cảnh được “chụp” trong mắt của Đức Mẹ Guadalupe. Trong đó có khoảng 11 người. Có một người Mexico ngồi xếp hai chân và tóc dài được tết thành đuôi sam. Kế ông là một người đàn ông lớn tuổi, hói đầu, râu trắng, mũi thẳng, lông mày rậm và dài xuống hai má. Đặc điểm này được xác định là ĐGM Juan Zumarraga. Bên trái là người phiên dịch, tức là Juan Gonzales. Có một ông già có râu và ria, mũi to kiểu người La Mã, gò má cao, mắt sâu và môi nửa khép nửa mở – rõ ràng là người Ấn Độ bản xứ – đang mở khăn choàng khi ông quay mặt về phía ông già. Rõ ràng là Juan Diego, đam những đóa hồng trong khăn choàng cho ĐGM. Cũng có những người khác không xác định gồm cha mẹ, ông bà, và 3 đứa trẻ.

Mắt Đức Mẹ đã “chụp” lại tất cả, vì Đức Mẹ biết sự hạn chế của khoa học kỹ thuật thời đó. Đức Mẹ biết điều này sẽ được phát hiện vài trăm năm sau, khi con người có thể sáng chế các thiết bị tiến bộ.

Sứ điệp của Đức Mẹ Guadalupe là gì qua các phát hiện khoa học kỹ thuật? TS Aste Tousman có phản ánh này. Sự hiện diện của những người không xác định kia có thể là sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng của gia đình và các giá trị gia đình. Hai người đàn ông da trắng và những người Ấn Độ là sự hiện diện của các dân tộc, có thể đó là việc cảnh báo về việc chống phân biệt chủng tộc và là lời kêu gọi tình huynh đệ. Phát hiện này là lời mời gọi dùng kỹ thuật để phát triển Lời của Đức Kitô.

Juan Diego đã được chân phước Gioan Phaolô II phong thánh tại Mexico. Con người Ấn Độ khiêm nhường và giản dị này không thể nghĩ rằng Phụ Nữ Đẹp Guadalupe mà ông đã nói chuyện ở đồi Tepayac sẽ có nhiều bí mật khác được phát hiện như ngày nay, dự trữ cho các thế hệ tương lai. Trong cách nghĩ đơn giản của ông, ông không thể hiểu thấu điều này. Đủ để nói rằng ông đã vâng lời và yêu mến Đức Mẹ, Đức Mẹ cũng yêu ông vì ông có tâm hồn giản dị và thanh khiết.

Điều này có thể lạ đới với một khoa học gia, nhưng với tôi, bức ảnh gốc thật kỳ lạ. Nghiên cứu hình ảnh là công việc thú vị của đời tôi. Càng nghiên cứu tôi càng có cảm giác lạ như khi nghiên cứu Khăn liệm Turin. Tôi tin cách giải thích hợp lý tới một mức nào đó. Nhưng không có cách giải thích hợp lý đối với cuộc sống. Người ta có thể chia sự sống thành các nguyên tử, nhưng sau đó thì sao? Ngay cả bác học Einstein cũng chân nhận là CÓ THIÊN CHÚA.

PHILIP CALLAHAN (*)

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

(*) Giáo sư Philip Callahan là khoa học gia xuất chúng, ĐH Florida.

SỰ CHẾT – CUỘC NHẬP TỊCH SAU CÙNG.

SỰ CHẾT – CUỘC NHẬP TỊCH SAU CÙNG.

                                                                                    Lm Bùi Trọng Khẩn

                                                                                  nguồn:thanhlinh.net

Sự định cư của con người trên trần gian giống như hành trình của người du mục. Họ được sống trong thời đại và muốn nên giống thời đại qua những phương diện nổi bật nhất.

Nhưng họ chỉ được phép nhập tịch vào một thời đại nào đó mà không có thể định cư trong mọi thời đại.  Chính yếu tố không gian và thời gian quyết định cho họ phải như thế.

Người ta thường dễ dàng sống cho một lý tưởng, một cuộc sống hiện thực như ng ít ai dám sống vì lý tưởng chết! Mặc dù trong lý thuyết của niềm tin dạy họ sống vì cái chết sau cùng.

Sự chết là một hành trình đưa người ta vào một cuộc nhập tịch trong một “thời đại” mới mà nơi ấy họ sẽ định cư vĩnh viễn chứ không phải như  người du mục. “Thời đại” ấy chính là một thế giới khác mầu nhiệm đã được chuẩn bị cho con người trước khi tạo dựng vũ trụ. Cũng như  đời sống con người phải nhập tịch vào một thời đại rõ ràng thì sự chết cũng bắt người ta phải nhập tịch theo một kế hoạch đã được Thiên Chúa an bài trong trật tự của Ngài . Đây là điều giúp cho con người tin tưởng vào thế giới mới không là một huyền thoại, không là một ảo ảnh, không là một sự ru ngủ nhau! “Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu thương Con trước khi thế gian được tạo thành”(Ga 17, 24) là một lời mạc khải đầy vui mừng và hy vọng của Đức Giêsu cho chúng ta về hành trình con người sẽ đi tới.

Chết chính là lúc được sinh ra và nhập tịch vào thế giới mới. Như nước trở về nguồn để hòa tan trong một khối mênh mông nơi nó được xuất ra thì con người ta cũng thế, tất cả phải đi đến và trở về với vĩnh cửu. Vĩnh cửu là cha của mọi loài thọ sinh.  “Thầy từ Chúa Cha mà đến  và Thầy đã đến thế gian. Thầy lại bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha” (Ga 17, 28).

Cuộc nhập tịch của Đức Giêsu qua cái chết đã kéo theo một cuộc nhập tịch của tất cả mọi loài thọ tạo, đấy là một ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người” (Cl 1, 19). Hiện diện thế nào được nếu không có sự nhập tịch. Viên mãn thế nào được nếu không có ơn cứu rỗi. Trở về thế nào được nếu không có người mở đường cho mà đi. Như thế Đức Giêsu muốn bày tỏ cho thế giới thụ tạo thấy một con đường đẹp mà chính Người là đường là sự thật và là sự sống (Ga 14, 6) được minh chứng trong cuộc vượt qua của Người. Người giúp thụ tạo khám phá ra bản chất thực của mình, đồng thời cũng giúp ta hiểu rằng không một sức mạnh, không một sự xấu xa nào có thể phá vỡ chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.

Cuộc nhập tịch sau cùng của con người là một hành trình đi với Thiên Chúa trên con đường mang tên là Giêsu . Con đường Giêsu đã cắm những mốc trên lộ trình trần gian qua cuộc sống 33 năm trời với những “đèn xanh”, “đèn đỏ” ở những giao lộ để hướng dẫn cho người ta một lối đi có chọn lựa. Người ta sẽ được trở nên chính mình trong con đường của Đức Giêsu và được sống sự sống của Ngài khi được nhập tịch trong thế giới mà Đức Giêsu đã đi vào. Thế giới của thần linh là đích điểm mà con người hằng khao khát và đạt tới sẽ diễn ra trong niềm tin của họ như một “tấm thẻ” để bảo đảm cho thủ tục của cuộc nhập tịch sau cùng được trọn vẹn.
 

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

www.trongkhan.net

BỐN KHÔNG Ở SINGAPORE

BỐN KHÔNG Ở SINGAPORE

                                                                                     trích Ephata số 518

Singapore là thành viên của Hiệp Hội các nước ASEAN không chỉ được ca ngợi là quốc gia có nền kinh tế phát triển mà còn được đánh giá có một Chính Phủ trong sạch. Singapore có bốn kinh nghiệm chống tham nhũng có hiệu quả. Tamnhin.net xin giới thiệu đến độc giả bốn kinh nghiệm của Singapore trong chống tham nhũng.

1. Làm cho quan chức không dám tham nhũng

Ở Singapore khi một người được tuyển vào làm c  ông chức, quan chức Chính Phủ thì hằng tháng phải trích một phần tiền lương để gửi tiết kiệm. Thoạt đầu trích 5%, sau tăng dần. Người có chức vụ càng cao, thì phần trăm trích ra gửi tiết kiệm càng lớn, có thể lên tới vài chục phần trăm lương tháng. Số tiền này do Nhà Nước quản lý. Bất kỳ công chức, quan chức nào phạm tội tham nhũng dù nhẹ ở mức xử phạt ra khỏi ngạch công chức thì toàn bộ số tiền gửi tiết kiệm bị trưng thu. Quan chức càng to thì số tiền bị trưng thu càng lớn. Vì vậy, mỗi quan chức khi nảy ý định tham nhũng đều phải tính toán: Nếu tham nhũng, nhận hối lộ mấy trăm, thậm chí cả ngàn đô mà bị tịch thu hàng chục ngàn đô, bị sống trong hoàn cảnh không lương bổng cho đến lúc chết thì mất lại nhiều hơn được. Vì thế, đại đa số chọn giải pháp không tham nhũng; quan chức cấp càng cao, lương càng nhiều càng sợ không dám tham nhũng.

2. Làm cho quan chức không thể tham nhũng

Chính Phủ Singapore quy định và thực hiện mỗi năm công chức, viên chức, quan chức phải khai báo một lần với Nhà Nước về tài sản của bản thân hoặc của vợ ( chồng ) bao gồm: Tiền thu nhập, tiền gửi tiết kiệm, tiền cổ phiếu, đồ trang sức, ô tô, nhà cửa… Những tài sản tăng lên phải khai rõ nguồn gốc, cái gì không rõ nguồn gốc có thể coi là tham ô, tham nhũng. Nhà Nước còn quy định: Quan chức Chính Phủ không được phép nợ nần; không được vay một khoản tiền lớn vượt quá tổng ba tháng lương. Singapore có thị trường mua bán cổ phiếu, nhưng quan chức Chính Phủ muốn mua cổ phiếu phải được lãnh đạo cơ quan chủ quản đồng ý và chỉ được phép mua cổ phiếu của công ty trong nước. Với cổ phiếu của các công ty nước ngoài đang kinh doanh ở Singapore cũng được phép mua, nhưng với điều kiện các công ty đó không có quan hệ lợi ích với Chính Phủ. Công chức và quan chức Chính Phủ không được phép đến các sòng bạc, nhà chứa.

Luật Báo Chí Singapore quy định những điều khoản nhằm chống tham nhũng trong lĩnh vực này. Theo đó, các nhà báo, ký giả muốn gửi bài viết của mình ra nước ngoài phải qua tổng biên tập xem xét. Khi được trả tiền nhuận bút, nhà báo đó phải báo cáo với cơ quan chức năng của Chính Phủ trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận được tiền v.v…

3. Làm cho quan chức không cần tham nhũng

Singapore có chế độ trả lương chênh lệch khá cao giữa quan chức cấp cao với cấp thấp, với công chức và giữa công chức với nhân viên, công nhân. Thu nhập thấp nhất là người bảo mẫu mỗi tháng 400 đô la ( Singapore ). Nữ công nhân lắp ráp điện tử mỗi tháng từ 600 đến 900 đô la. Công chức cơ quan Chính Phủ tất cả đều tốt nghiệp đại học, lương khởi điểm khoảng 1.300 đô la. Cấp thứ trưởng lương tháng từ 10.000 đô la đến 20.000 đô la. Thủ Tướng lương tháng hơn 40.000 đô la ( Thời điểm năm 2000. Với mức lương như vậy, quan chức đủ sống và chu cấp cho gia đình mà không cần tham nhũng. Hơn nữa cách trả lương như vậy công chức và quan chức Chính Phủ luôn có sự so sánh: Mình được trả lương cao hơn người lao động bình thường rất nhiều. Nếu mình tham ô, tham nhũng nữa thì là kẻ vô đạo lý, mất hết liêm, sỉ. Sự so sánh và tự vấn đó đã làm cho quan chức tự tiêu huỷ những tham vọng không trong sáng của mình.

4. Làm cho quan chức không muốn tham nhũng

ở Singapore muốn tham nhũng một thứ gì đó, dù nhỏ cũng rất phiền hà. Ví dụ, khi khách nước ngoài đến Singapore, nếu họ muốn tặng các quan chức nước chủ nhà một món quà để cảm ơn về sự đón tiếp và thắt chặt mối quan hệ thì món quà đó phải mang ý nghĩa văn hoá với giá trị tiền không nhiều. Món quà nào có giá trị 100 đô la Singapore trở lên là họ từ chối hoặc phải xin phép lãnh đạo cơ quan, nếu đồng ý mới được nhận. Nhưng khi nhận rồi lại phải báo cáo với lãnh đạo cơ quan xem xét. Nếu món quà đó có giá trị tiền quá mức quy định và quan chức đó vẫn muốn nhận thì phải nộp tiền. Số tiền nộp thêm đưa vào tài khoản quỹ “nộp phạt” của Chính Phủ.

Chuyện kể rằng, một phái đoàn quan chức của Chính Phủ Singapore được cử sang một nước nọ để ký một hiệp định liên doanh sản xuất. Nhận thấy hiệp định này đem lại nhiều lợi ích cho mình, giới chức nước chủ nhà đã tặng những món quà lưu niệm có giá trị cao cho quan chức đoàn Singapore. Bởi sự quá nhiệt thành của chủ nhà, họ không sao từ chối được. Nhưng cứ nghĩ đến việc khi về nước lại mang quà biếu này đến cơ quan khai báo, phải mua lại và chuyển tiền vào tài khoản quỹ “nộp phạt” thì quả là phiền toái. Cả đoàn đều phải “đành lòng” viết thư cảm ơn và gửi lại quà ở sân bay trước khi trở về Singapore.

Trích bài viết của Ts. PHAN HUY TÍCH

Lương Y Mất Lương Tri

Lương Y Mất Lương Tri    

                                                                                       trích: Vietbao.com

(07/12/2012)

                                                                               Tác giả : Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức

 

Cuối tháng 5, 2012 vừa qua, Hiệp hội Y sĩ nước Đức đã có một hành động đầy nhân tính và  ngoạn mục. Họ đã công khai xin lỗi về những thử nghiệm mà các bác sĩ Đức quốc xã đã thực hiện với dân Do Thái trong các trại tập trung vào thời kỳ Hitler nắm quyền từ năm 1933-1945.

Theo Hội, đây không phải là hành động riêng rẽ của cá nhân y sĩ, mà liên quan tới các cấp đầu não của tập thể y sĩ thời đó. Trái với thiên chức cứu chữa bệnh tật thì các y sĩ này đã vi phạm quyền làm người của nạn nhân với nhiều thử nghiệm giả nhân giả nghĩa khoa học. Hội Cầu xin sự tha thứ của các nạn nhân còn sống hoặc đã mệnh một cũng như xin lỗi con cháu của những nạn nhân này.

Hậu quả của các Holocaust là 5 triệu người Do Thái bị tiêu diệt bằng  nhiều phương thức tàn nhẫn vô nhân đạo.

Một trại tập trung bị lây bệnh chấy rận ư? Thì viên y sĩ bèn giải quyết bằng cách ra lệnh xịt hơi ngạt, để 700 nữ nạn nhân chết cùng với bọ hút máu.

Viên y sĩ riêng của Hitler thực hiện chương trình gây chết không đau cho người già, người bệnh bất khả trị, người mất trí, trẻ em tàn tật tại nhà dưỡng lão, bệnh viện, nhà tế bần bằng cách chích độc chất. Họ bị coi như  ăn không ngồi rồi, vô dụng cho quân đội.

Một nữ bác sĩ chà đinh sét rỉ, mảnh vụn thủy tinh sắc bén lên vết thương của nạn nhân để đo lường sức chịu đựng với đau đớn.

Để tìm phương thức điều trị cóng giá, nạn nhân bị ngâm trong bể nước đá cả 3 giờ hoặc phơi trần ngoài trời trong thời tiết dưới không độ, rồi sưởi ấm nạn nhân với nhiều cách để so sánh hiệu quả.

Muốn tìm thuốc diệt trừ sốt rét thì bác sĩ chích vi khuẩn  cho nạn nhân rồi dùng nhiều hóa chất khác nhau, tìm thuốc chữa bệnh.

Muốn biến nước biển thành nước uống được, bác sĩ bỏ đói nạn nhân, chỉ cho uống nước biển, gây thương tích rồi quan sát phản ứng.

Độc chất được bác sĩ chộn trong thức ăn của nạn nhân nhân rồi mổ cơ thể để so sánh tác hại, tìm độc chất mạnh dùng sau này.

Và nhiều thử nghiệm dã man khác.

Hành động của Hội Y Sĩ Đức được dư luận rất tán thưởng.

Phải chi những người gây ra đấu tố giết hại địa chủ, lập ra những trại tập trung tù đầy hành xác tại quê hương trước đây cũng có những lời SORRY tương tự thì lòng người chắc sẽ thuận hòa hơn, để cùng nhau góp phần xây dựng đất nước.

MỘT NGÔN SỨ ĐANG Ở GIỮA CHÚNG.

MỘT NGÔN SỨ ĐANG Ở GIỮA CHÚNG.

(Ed 2, 2 – 5)   nguồn: conggiaovietnam.net

“Chúng vốn là loài phản loạn,

chúng có thể nghe hoặc không nghe,

nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (c.5).

“Chúng vốn là loài phản loạn,”

Lạy Chúa, bản chất chúng là loài phản loạn,

chống lại Chúa và chống lại tình thương,

gieo rắc bạo tàn, gây ra bao đổ vỡ,

coi thường Chúa và xúc phạm thánh danh.

“chúng có thể nghe hoặc không nghe”,

Chúng có thể nghe hoặc có thể không nghe,

có thể thấy hoặc có thể không thấy,

biết hay không, ai hiểu được lòng chúng,

chúng muốn gì, chỉ có bóng tối hay.

“nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.”

Có phải câu này Chúa dành cho con,

như đã nói với Edzekiel năm trước,

con phải chọn cho mình một con đường,

buộc con phải bước, dẫu phía trước hiểm nguy.

Con phải làm sao để họ biết Chúa đang ở giữa họ ?

Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, dcct.

Chúa nhật 14 TN. B

08/07/2012

Hiệp thông cùng giáo điểm Con Cuông – Vinh

******

Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Lời tâm sự

Lời tâm sự

Thân gởi quý bạn đọc xa gần,

“Kẻ đi tìm” đến ngày hôm nay, 07 tháng 07 năm 2012, đã được tròn ba tháng. Là trang “Web” điện tử nghiệp dư mới thành lập nên còn lượm thượm, tài liệu không có nhiều nhưng lòng  mong ước của người sáng lập là chuyển chở, gởi gắm thông tin, suy nghĩ, góp nhặt, sưu tầm bài vở có ý nghĩa hay những chuyện vui, bài thơ hay để cùng nhau là “Kẻ đi tìm”. Đi tìm gì đây? Tình yêu? Giàu sang? Danh vọng? Địa vị xã hội? Hay tìm “Hạnh phúc, vui vẻ” trong đời này, đời chúng ta đang sống và hy vọng sẽ có được “hạnh phúc, vui vẻ” trong đời sau, sau khi chúng ta mất.

Xin cám ơn tất cả tác giả có bài vở được trích vào “Web” này nhất là nhiều tài liệu từ Maria Thanh Mai gởi.

Tên “Kẻ đi tìm” là tên của một trong những tác phẩm của Linh mục Nguyễn tầm Thường suy niệm viết trên đường đi Hành Hương Đất Thánh, Giêrusalem.

“Kẻ đi tìm” đến ngày hôm nay đã có được 5900 lượt người vào đọc. Rất cám ơn các bạn đã đến với “Kẻ đi tìm” và xin các bạn đóng góp thêm ý kiến để “Kẻ đi tìm” càng ngày càng phong phú và có ý nghĩa hơn.

Người sáng lập

10 cách để sống hạnh phúc

                                            10 cách để sống hạnh phúc 

1. Hãy mỉm cười với mọi người xung quanh
Đó là cách gây mối quan hệ thiện cảm dễ dàng nhất trong cuộc sống, và nó cũng cho ta một cảm giác dễ chịu hơn là cau có, gắt gỏng.

2. Hãy quan tâm nuôi dưỡng tình thân đối với mọi người
Luôn biết quan tâm và chia xẻ tình cảm với những người xung quanh, nhất là những người thân gần gũi với ta. Đó là cách giảm stress tốt nhất cho cả tinh thần lẫn thể xác. Ngay cả những lúc bận rộn nhất ta cũng không nên quên đi những người xung quanh ta. Một lời hỏi thăm, một cánh thư, một tấm card luôn giữ mãi mối thân tình nồng thắm. Hãy tập thói quen làm điều tốt cho mọi người, rồi ta sẽ cảm thấy hạnh phúc hẳn lên.

3. Hãy vượt qua nỗi buồn của bản thân
Đừng để những nổi buồn gậm nhấm ta. Cố gắng dành thời gian cho công tác thiện nguyện xã hội, chẳng hạn thăm viếng nhà dưỡng lão hay bệnh nhân tàn tật.  

Thay vì ngồi một chỗ rầu rĩ, bạn hãy xăn tay áo đứng dậy.Tặng niềm vui cho người khác bằng những công việc thật ý nghĩa là một hạnh phúc.

4. Hãy khởi động cơ thể
“Một bộ óc minh mẫn nằm trong một cơ thể tráng kiện”
Thường xuyên luyện tập thể dục sẽ rất tốt cho tim mạch, nó là liều thuốc giải độc cho chứng trầm cảm và phiền muộn. Hãy chạy, nhảy, bơi lội, đạp xe hay đi bộ, luyện tập thành thói quen hằng ngày và đều đặn.

5. Hãy theo đuổi một công việc ưa thích nhất
Theo đuổi một công việc ưa thích là cách giúp ta quên đi những buồn chán một các hữu hiệu nhất. Chăm sóc vườn tược, đi dạo chơi ngoài trời, chơi đàn guitar, piano, thổi sáo… hay sưu tầm tem, thơ…

Hãy kiểm lại xem ta thích cái gì, có “hoa tay” với việc gì, và hãy bắt tay vào thực hiện điều đó ngay.

6. Ngủ đủ giấc
Giấc ngủ đầy đủ sẽ làm hồi sinh sự tươi trẻ cho cơ thể và trí não. Nếu bị thiếu ngủ, ta sẽ mệt mỏi, ù lì và cáu gắt. Không nên thức quá khuya. Hãy nhớ rằng từ 11g30 tối cho đến 2g sáng là khoảng thời gian cần thiết cho việc tái tạo tế bào và năng lực cho cơ thể.
Một đêm ngủ đủ giấc sẽ cho ta một trạng thái tươi trẻ, khoan khoái và hạnh phúc vào buổi sáng hôm sau.

7. Hãy ghi lại những điều hay vào “nhật ký”
Cứ cuối mỗi ngày, hãy ghi vào cuốn nhật ký tổng kết toàn bộ những điều hay đẹp, vui tươi đã xảy đến cho ta, dù là những điều tưởng như nhỏ bé, vụn vặt nhất. Hãy tập thói quen tìm thấy những điều hay tốt đẹp, dù một ngày trôi qua không êm ả lắm. Làm như vậy ta sẽ luôn luôn có một thái độ tích cực, biết ơn cuộc sống.

8. Hãy tập tha thứ và quên
Đừng để tâm hồn và thể xác ta mãi bị dày vò trong nỗi oán hận, giận dữ và thương tổn bởi người khác gây ra cho ta. Hãy tập tha thứ ngay từ trong tim, ta sẽ thấy thanh thản hơn. Hãy chủ động viết một lá thư cho chính người đã làm ta đau lòng và diễn tả những cảm xúc của mình. Hay gởi một bức email, hoặc một cú phone để hâm nóng lại tình bạn đã băng giá.

9. Tìm sự thanh thản trong nghệ thuật hay môi trường thiên nhiên
Hãy tận dụng thời gian nhàn rỗi để đọc một tập thơ hay một tác phẩm văn học cổ điển. Hãy đi thăm một viện bảo tàng nghệ thuật hoặc đắm mình trong suối nhạc của Mozart, Bach hay Vivaldi. Hãy tận dụng ngày nghỉ đi ngắm cảnh thiên nhiên, ngồi bên bờ hồ trên vạt cỏ tươi xanh, hít thở không khí trong lành… Hãy tìm mọi cách để đón nhận, và tận hưởng thiên nhiên ta sẽ thấy đời vui khác hẳn lên.

10. Nuôi dưỡng tâm hồn
Thiền tịnh, cầu nguyện, tĩnh tâm, niềm tin sẽ mang lại cho ta một tâm trạng thư thái êm ả. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy người có niềm tin luôn luôn sống hạnh phúc hơn, và dễ dàng vượt qua mọi trở ngại trong cuộc sống hơn.

SUY NGẪM VỀ CUỘC SỐNG

Ngày tuyệt vời nhất chính là

NGÀY HÔM NAY

Điều dễ làm nhất chính là

BỚI MÓC LỖI LẦM CỦA NGƯỜI KHÁC

Điều xấu hổ nhất chính là

TỰ MÃN QUÁ ĐÁNG

Trở ngại lớn nhất của cuộc đời chính là

NỖI LO SỢ

Sai lầm lớn nhất chính là

TỪ BỎ MỤC ĐÍCH CAO ĐẸP CỦA MÌNH

Chướng ngại lớn nhất ngăn cản bạn đến thành công là

CÁI TÔI ÍCH KỶ

Cảm giác mãn nguyện nhất là khi

LÀM HẾT LÒNG VỚI CÔNG VIỆC CỦA MÌNH

Người hay bất hòa nhất là

NGƯỜI HAY PHÀN NÀN,

Sự vỡ nợ tồi tệ nhất là

ĐÁNH MẤT NHIỆT HUYẾT, NIỀM TIN CỦA MÌNH

Nhu cầu lớn nhất của con người là

CẢM NHẬN CUỘC SỐNG

Qùa tặng quý giá nhất bạn có thể trao tặng cho mọi người chính là

LÒNG KHOAN DUNG


Điều vô giá mà bạn cần và có thể chia sẻ là

TÌNH THUONG


Điều đáng để bạn phải suy nghĩ nhiều nhất bây giờ

không phải CÁI CHẾT,

mà là SỐNG NHƯ THẾ NÀO?

sống như thế nào để

LỢI MÌNH + LỢI NGƯỜI

TÂM TRÍ ĐƯỢC AN TĨNH VƯỢT THOÁT MỌI ƯU PHIỀN

 Trung H. Ly
trungly3@aol.com

Bí quyết hạnh phúc của Đức Kitô

Bí quyết hạnh phúc của Đức Kitô 

                                                                                              TRẦM THIÊN THU 

 

 Đức Kitô có một số bí quyết tuyệt vời để sống hạnh phúc mà Ngài đã chia sẻ trong “Bài Giảng Trên Núi”, trong đó bao gồm “Bát Phúc” (Tám Mối Phúc Thật). Chúa Giêsu nói rất rõ đến từng chi tiết về những điều xem chừng rất “ngược đời”, rất “khó lọt tai”, nhưng lại rất hợp lý và thú vị.

1. Về giận ghét. 

Luật Cựu ước: “Không được giết người. Chớ giết người vô tội và người công chính” (Đn 5:17; Đn 13:53). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:22-26; Lc 12:57-59). Như vậy, tội giận ghét người khác cũng giống như tội sát nhân, giết người không cần gươm giáo!

2. Về ngoại tình. 

Luật Cựu ước: “Chớ ngoại tình” (Xh 20:14; Đnl 5:18). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5:28-30).

3. Về ly dị. 

Luật Cựu ước: “Ai rẫy vợ thì phải cho vợ chứng thư ly dị” (Đnl 24:1). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mt 5:31-32; Mt 19:9; Mc 10:11-12; Lc 16:18).

4. Về nhân chứng. 

Luật Cựu ước: “Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa” (). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5:34-37).

5. Về thù hận.

 

 Luật Cựu ước: “Mắt đền mắt, răng đền răng, mạng đền mạng” (Xh 21:24; Lv 24:20; Đnl 19:21). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin thì hãy cho; ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5:39-42; Lc 62:9-30).

Luật Cựu ước: “Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù” (Lv 19:18). Còn Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:4348; Lc 6:27-28, 32-36).

6. Về nhịn nhục.

 

 Chúa Giêsu dạy: “Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài” (Mt 5:40), “Ai vả anh má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa” (Lc 6:29).

7. Về lề luật. 

Chúa Giêsu xác định: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20), rồi Ngài vừa dặn dò vừa cảnh báo: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5:17-19).

8. Về công chính. 

 

Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5:20). Thiên Chúa xác định: “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9:13). Như vậy, ai cảm thấy mình đạo đức thì đừng vội “chảnh”, và ai cảm thấy mình tội lỗi thì cũng đừng nản chí sờn lòng.

9. Về công lý. 

Luật Cựu ước: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng” (Xh 23:1-3). Chúa Giêsu giải thích: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23:23). Công lý là 1 trong 3 điều quan trọng nhất trong luật pháp.

Chúa Giêsu nói với mỗi chúng ta: “Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi. Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5:13-16).

Ngài bảo chúng ta là Muối mặn, là đèn sáng, đồng thời cũng phải là “hạt lúa mì thối trong đất” (Ga 12:24) và là Men giữa đời, nhưng Ngài cũng cảnh báo: “Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men Hêrôđê!” (Mc 8:15). Và Thánh Phêrô căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1 Pr 5:8).

Lạy Thiên Chúa, kẻ thù con đang rình sẵn, xin lấy đức công chính của Ngài mà hướng dẫn con, xin san phẳng lối của Ngài để con tiến bước (Tv 5:9).

TRẦM THIÊN THU

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Đừng ngại kêu “ THẦY ƠI, XIN CỨU CON”

Đừng ngại kêu “ THẦY ƠI, XIN CỨU CON”

 

 Một người bạn làm nghề kinh doanh vui miệng hỏi: “Slogan,  Logo của đạo Công giáo là gì?”, “Tình yêu và cây Thánh giá”, tôi trả lời bạn như thế. Và thánh Phêrô  là người đi đầu để tô đậm cho Logo đó khi chọn lựa cái chết bằng thập tự nhưng ở tư thế ngược vì nghĩ rằng mình còn nhiều bất xứng với Thầy Giêsu. Ấn tượng mà 12 Thánh tông đồ để lại cho hậu thế rất khác nhau, có Thánh quá thầm lặng đến mức khi kể tên các vị có nhiều người không thể nhớ như: Simon thuộc nhóm quá khích, nhưng có Thánh mà khi nhắc đến thường được nhiều người đề cập đầu tiên như  Phêrô. Chính ngài đã tạo cho chúng ta sự xao xuyến đến nhói tim khi thốt lên câu ”Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai” (Ga 6,68) hoặc “Thầy ơi, xin cứu con”

 Cánh chim đầu đàn

 Đọc trọn bộ Tin Mừng sẽ phát hiện, trong số 12 tông đồ thì Thánh Phêrô xuất hiện với tần số vượt trội so với các Vị còn lại. Ngài để lại nhiều ấn tượng qua 13  đoạn Tin mừng sau

 1. Nằm trong 4 môn đệ đầu tiên được gọi và được chọn (Mt 4, 18).

 2. Xin Chúa được đi trên mặt nước để đến với Ngài (Mt 14, 22).

 3. Tuyên xưng đức tin thay các anh em “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”(Mt  16, 16).

 4. Xin Chúa Cha xót thương không để  Chúa Giêsu chịu nạn (Mt 16, 22).

 5. Được Chúa Giêsu cho chứng kiến việc biến hình trên núi cao ( Mt 17, 1).

 6. Hỏi Chúa Giêsu về số lần cần khi tha thứ cho anh em khi bị xúc phạm (Mt 18, 22).

 7. Hỏi Chúa Giêsu về phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự để theo Ngài (Mt 19, 27).

 8. Tuyên hứa theo Thầy “bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai” (Ga 6, 68).

 9. Chúa Giêsu tiên báo cho thánh Phêrô sẽ chối Thầy (Mt 26, 30).

 10. Rút gươm chém đứt tai 1 kẻ bắt Chúa (Ga 18, 10).

 11. Thánh Phêrô chối Thầy 3 lần và ăn năn (Mt 26, 69).

 12. Chạy ra mộ Chúa và thấy ngôi mộ trống (Ga 20, 3).

 13. Được Chúa hỏi 3 lần “Này anh Simon, anh có mến Thầy không” trong lần hiện ra sau ngày Ngài phục sinh.

 Các bài học từ Thánh Phêrô

 Suy tư về các Thánh Tông đồ, chúng ta sẽ thấy những yếu tố sau nổi trội từ thánh Phêrô

 Thường xuyên tu tập

 Thánh Phêrô không chỉ chối Chúa 3 lần, mà còn bị Chúa khiển trách thêm 2 lần khác, thậm chí còn bị Chúa gọi là Xatan. Trong (Mt 16, 23) Đức Giêsu bảo Phêrô: Xatan, lui lại đàng sau Thầy. Đoạn (Mt 14, 31) Đức Giêsu nắm lấy tay ông mà nói “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi.” Sau những lần nghe Thầy nói thế, tin mừng không mô tả  phản ứng của Phêrô, nhưng theo dõi cả quá trình của ngài chúng ta suy đoán: thánh Phêrô suy niệm, tiêu hóa từ từ các lời dạy, mắng của Chúa Giêsu dành cho mình và từ đó đức tin của ngài lớn mạnh theo năm tháng.

 Tranh thủ học khi còn có Thầy

 Bất cứ lúc nào có thể, chúng ta đều thấy Thánh Phêrô rất tích cực trả lời các câu hỏi của Chúa hoặc đặt ra các vấn nạn để nhờ Thầy tư vấn. Đây là một đức tính khôn ngoan mà vẫn khiêm nhường. Ngài hấp thụ tinh hoa bằng con đường ngắn nhất, chính xác nhất.

 Các website của giáo hội Việt Nam, nếu thuận lợi nên có một ban tư vấn trực tuyến nhằm tăng cường sự hiểu biết, học hỏi của các Kitô hữu (và cả những anh em tôn giáo bạn)  tương tự tổng đài 1080. Hình thức mới này thể hiện ý tưởng “Các con hãy đi rao giảng khắp muôn dân” (Mt 28, 19) thể hiện một cách sâu rộng hơn nhờ tính mọi nơi, mọi lúc của công nghệ hiện đại. Ngoài ra, nó còn biểu đạt sự gần gủi, ân cần của các mục tử đối với các con chiên, nghĩa là mở rộng khái niệm khung viên mềm của Nhà Tạm.

 Lòng mến lớn lao

 Lòng mến từ nội tâm bên trong của các môn đệ dành cho Chúa thì khó đo lường để so sánh. Nhưng lòng mến được tính từ các lời nói, cử chỉ bên ngoài của Thánh Phêrô rất lớn. Đọc lại 13 đoạn tin mừng ở phần trên chúng ta sẽ thấy rõ ràng. Chúng ta đã theo Ngài 40, 50, thậm chí 70 năm,  có thể so sánh lòng mến của chúng ta dành cho Chúa so với Thánh Phêrô mới đi theo Chúa khoảng 3 năm, thì sẽ tự ngộ ra vài vấn đề. Hai đoạn Tin Mừng sau là điển hình. 1. Rút gươm chém đứt tai một trong những kẻ bắt Chúa (Ga 18, 10). 2. Người môn đệ được Chúa thương mến nói với Phêrô Chúa đó. Vừa nghe nói Chúa đó, ông Phêrô vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển” (Ga 21,7).  

 Nhờ lòng mến  này mà Thánh Phêrô, Tôma vẫn nhận nhiều ân sủng của Thiên Chúa dù đức tin, đức cậy của các ngài có những thời điểm chao đảo, yếu đuối. Thánh Phaolô trong Corintô 13, 13 khẳng định “Vậy nay còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả!”

 Biết kêu cứu đúng lúc

 Bàn về chủ đề Thánh Phêrô, chúng ta dễ xúc động nhất ở đoạn (Mt 14, 22). Khi xin  được đi trên mặt nước để đến với Chúa, lúc bị chao đảo, Thánh Phêrô kêu lên “Thầy ơi xin cứu con”. Trong chúng ta có mấy ai đã sử dùng cụm từ này trong cuộc đời đầy sóng gió, mặc dù chính mình đã đôi lần cũng rơi vào các tình huống sống chết như thế.

 Lạy Thánh Phêrô xin cho chúng con thêm lòng cậy để biết kêu cứu trước những thử thách quá sức mình,  thêm  lòng tin để đủ can đảm trỗi dậy sau các lần vấp ngã, thêm lòng mến để  biết trung kiên theo Chúa từng phút giây cho tới cuối con đường vì hằng nhớ câu nói của vị Giáo hoàng đầu tiên “Bỏ Thầy con biết theo ai”.

 G. Tuấn Anh

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi 

BÍ QUYẾT THẦN DIỆU ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC ĐIỀU MONG ƯỚC

BÍ QUYẾT THẦN DIỆU ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC ĐIỀU MONG ƯỚC

                                                                               Lm Inhatio Trần Ngà

                                                          nguồn: conggiaovietnam.net

(Suy niệm Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43) trích đọc vào Chúa Nhật 13 thường niên)

 Có một ông vua rất đỗi giàu sang và vô cùng quảng đại. Nhà vua có một kho tàng đầy ắp những báu vật mọi người hằng mơ ước. Nhà vua tuyên bố với thần dân rằng bất cứ ai muốn lấy bất cứ thứ gì trong kho tàng vô tận của vua thì cứ lấy, miễn là phải dùng một loại chìa khoá rất đặc biệt mới mở được kho tàng. Chìa khoá ấy, vua cũng chỉ cho biết là đang nằm trong tầm tay mọi người. Tiếc thay, người ta không biết đó là chìa khoá thần kỳ và chưa mấy ai đem ra sử dụng.

Khi nghe tin nầy, nhiều người nao nức hỏi: Vị vua đại lượng đó là  ai? Kho tàng nằm ở đâu? Chìa khoá nào mở được kho tàng, xin mau mau cho biết.

Đức vua đó chính là Thiên Chúa quyền năng. Kho tàng của Người là vô vàn phúc lộc không bao giờ vơi cạn. Chìa khoá để mở kho tàng ấy là lòng tin. Ai có lòng tin mạnh mẽ, người đó có thể mở được cửa kho tàng và chiếm lấy những gì mình muốn. Ai không  có lòng tin, thì đành bó tay và chẳng thu lượm được gì.

Hai sự kiện thánh sử Mác-cô thuật lại trong Tin Mừng hôm nay minh chứng cho chân lý nầy: 

Trường hợp người phụ nữ bị bệnh băng huyết.

Một người phụ nữ bị băng huyết đã mười hai năm, đã lắm phen tìm thầy chạy thuốc nhưng bệnh của bà vẫn vô phương cứu chữa. Nay gặp Chúa Giê-su, bà mừng như người sắp chết đuối vớ được tấm phao. 

Vì luật cấm những người mang thứ bệnh nhơ uế như bà tiếp cận với người khác (Lv 15, 25) nên bà không dám công khai gặp Chúa Giê-su, chỉ len lén tiến lại phía sau lưng Người, tự nhủ lòng rằng: “Mình chỉ cần sờ được vào áo Người thôi là sẽ được cứu.” Và điều nhiệm mầu đã xảy ra: bà vừa đụng vào áo Chúa Giê-su thì tức khắc huyết cầm lại và bà được chữa lành.

Chúa Giê-su biết có một năng lượng từ mình xuất ra nên quay lại tìm hiểu và khi người phụ nữ  thú nhận việc bà vừa làm, Chúa Giê-su bảo:  “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

Chính Chúa Giê-su xác nhận lòng tin là chìa khoá thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y. 

Trường hợp ông trưởng hội đường.

Đang cùng Chúa Giê-su tiến vội về nhà để nhờ Chúa cứu chữa đứa con gái đang hấp hối,  thì người nhà của ông trưởng hội đường chạy đến báo cho ông biết rằng con gái ông chết rồi, đừng phiền Chúa đến nhà làm gì mất công.

Nghe vậy, Chúa Giê-su động viên ông ta: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi. Tin là được. Thế rồi, nhờ lòng tin, con gái ông đã được cứu sống.

Một lần nữa, Tin Mừng chứng tỏ cho thấy lòng tin là chìa khoá đem lại ân sủng nhiệm mầu: đứa con gái thân yêu chết rồi nay được cứu sống!

Còn nhiều sự kiện khác được ghi lại trong Tin Mừng chứng tỏ cho thấy phải có lòng tin  thì mới đạt được điều mong muốn và không có lòng tin thì chẳng được gì (Mt 13, 58). Lòng tin có thể chuyển núi dời non. Với lòng tin, người ta làm được tất cả như lời Chúa Giê-su dạy: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi nầy: “rời khỏi đây, qua bên kia!” nó cũng  sẽ chuyển qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (xem thêm: Mt 17, 19-20; Mt 15, 28; Mt 21, 21-22) 

Quả vậy, điểm lại những khuôn mặt đạt được thành công lớn lao trên thế giới, ta thấy rằng nguyên nhân chính giúp họ thành đạt là nhờ mạnh tin. Vững tin rằng mình sẽ làm được thì sẽ được như ý.

Như thế, lòng tin là bí quyết để thành công trên đường đời, và cũng là chìa khoá mở vào kho tàng ân sủng của Thiên Chúa.

 Lạy Chúa, lòng tin của chúng con còn yếu kém nên chẳng thu hoạch được gì. Xin ban thêm lòng tin để chúng con có thể mở được kho tàng ân sủng của Chúa. 

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Tin Mừng Mác-cô (5, 21-43)

21 Đức Giê-su xuống thuyền, lại trở sang bờ bên kia. Một đám rất đông tụ lại quanh Người. Lúc đó, Người đang ở trên bờ Biển Hồ.22 Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giê-su, ông ta sụp xuống dưới chân Người,23 và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống.”24 Người liền ra đi với ông. Một đám rất đông đi theo và chen lấn Người.
25 Có một bà kia bị băng huyết đã mười hai năm,26 bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản, mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác.27 Được nghe đồn về Đức Giê-su, bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người, và sờ vào áo của Người.28 Vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Người thôi, là sẽ được cứu.”29 Tức khắc, máu cầm lại, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh.30 Ngay lúc đó, Đức Giê-su thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Người liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi? “31 Các môn đệ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: ÀAi đã sờ vào tôi? “32 Đức Giê-su ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó.33 Bà này sợ phát run lên, vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Bà đến phủ phục trước mặt Người, và nói hết sự thật với Người.34 Người nói với bà ta: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Con hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh.”

35 Đức Giê-su còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? “36 Nhưng Đức Giê-su nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi.”37 Rồi Người không cho ai đi theo mình, trừ ông Phê-rô, ông Gia-cô-bê và em ông này là ông Gio-an.38 Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Đức Giê-su thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ.39 Người bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy! “40 Họ chế nhạo Người. Nhưng Người bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Người, vào nơi nó đang nằm.41 Người cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! “42 Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được, vì nó đã mười hai tuổi. Và lập tức, người ta kinh ngạc sững sờ.43 Đức Giê-su nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy, và bảo họ cho con bé ăn.

 Tác giả:  Lm Inhatio Trần Ngà

Đàn gảy tai trâu !

Đàn gảy tai trâu !

                                                              nguồn: baomai.blogspot.com

 image

 Vào một buổi sáng lạnh mùa đông năm 2007, tại một ga metro ở Washington DC, một thanh niên với chiếc đàn vĩ cầm, đứng chơi những bài nhạc nổi tiếng của Bach, Schubert, Massenet… trong vòng 45 phút.

 image

 Trong khoảng thời gian ấy có khoảng chừng 2 ngàn người đi ngang qua, đa số đang trên đường đến sở làm của họ. Dường như không một ai có vẽ chú ý đến sự có mặt của anh.
Sau khoảng 3 phút, một người đàn ông đứng tuổi đi qua và nhận thấy có một nhạc sĩ đang đứng đó chơi vĩ cầm. Ông đi chầm chậm, dừng lại chừng vài giây, và rồi lại vội vã đi tiếp cho kịp giờ của mình.

4 phút sau:

Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy nhận được đồng đô la đầu tiên: một người đàn bà ném tiền vào thùng đàn của anh và không hề dừng lại, tiếp tục bước đi.

6 phút:

Một người thanh niên trẻ đứng dựa vào tường lắng nghe anh, nhìn đồng hồ đeo tay của mình và rồi lại tiếp tục bước đi.

10 phút: 

Một đứa bé dừng lại nghe, nhưng mẹ của em vội vàng lôi em đi tiếp. Ðứa bé tiếp tục dừng lại nhìn anh nhạc sĩ vĩ cầm, nhưng mẹ của em đẩy mạnh, và em lại phải tiếp tục bước đi, nhưng em vẫn cứ ngoái đầu quay nhìn lại. Và điều này đã cũng xảy ra với nhiều những đứa bé khác. Và cha mẹ nào cũng đều lôi kéo các em, bắt các em phải đi nhanh lên.

45 phút:

Người nhạc sĩ vĩ cầm ấy vẫn tiếp tục chơi nhạc không ngừng. Chỉ có 6 người dừng lại và lắng nghe trong vài ba phút rồi bỏ đi. Khoảng chừng 20 người cho anh tiền, trong khi vẫn tiếp tục bước đi bình thường, và không hề dừng lại. Chàng nhạc sĩ ấy thâu được tổng cộng là 32 đô la.

1 giờ sau:

Anh ta ngừng chơi, không gian im lặng trở lại. Không ai chú ý đến anh. Không một tiếng vỗ tay, và cũng không một lời tán thưởng.

image 

 Không ai biết người ấy chính là Joshua Bell, một trong những nhạc sĩ vĩ cầm nổi danh nhất trên thế giới. Trong hơn 45 phút qua anh đã chơi những bài phức tạp nhất trong các bài nhạc trình tấu, và cây đàn vĩ cầm mà anh chơi trị giá khoảng 3.5 triệu đô la. Hai ngày trước đó, Joshua Bell đã trình diễn tại một nhà hát ở thành phố Boston, vé bán hết không còn chỗ ngồi, giá của mỗi vé là 100 đô la. Và ban tổ chức sẵn sàng trả 1000 đô la mỗi phút cho tài năng của anh!

Ðây là kết quả của một cuộc thử nghiệm do báo The Washington Post tổ chức. Trong cuộc thử nghiệm này, Joshua Bell phải ăn mặc thật bình thường, quần jean, áo thun, mũ kết, và chơi đàn trong giờ cao điểm, 7:45am. Họ chọn nơi biểu diễn là trạm ga L’Enfant Plaza, vì nơi đây những người khách metro đi ngang qua đa số là thuộc tầng lớp trung lưu, chuyên nghiệp, trí thức, phần lớn làm việc với chính phủ liên bang.

 image

 Trước khi tổ chức, các nhà thử nghiệm nghĩ rằng tại Washington DC, một trong những đô thị phát triển nhất nước Mỹ về classical music, nhạc giao hưởng, Joshua Bell có thể sẽ thu hút một số lượng lớn khán thính giả dừng lại nghe, và họ có lẽ sẽ phải nhờ cảnh sát đến để giữ trật tự. 

Nhưng chỉ có một người duy nhất nhận ra Joshua Bell, vì trước đó ba tuần cô ta có đi xem anh trình diễn ở Library of Congress, nên nhận ra anh ngay. Cô ta đã bỏ vào hộp đàn của Joshua Bell 20 đô la và tự giới thiệu mình khi anh ngưng chơi đàn. 

image 

Tờ Washington Post viết, mục đích của cuộc thử nghiệm này để xem rằng: chúng ta có thể nhận diện, ý thức được những gì hay và đẹp đang có mặt giữa cuộc sống bận rộn của mình, và trong những hoàn cảnh bình thường hằng ngày không?

Và nếu như trong cuộc sống chúng ta không thể dừng lại trong giây lát để lắng nghe một nhạc sĩ lừng danh nhất trên thế giới, chơi những giai điệu hay nhất từng được sáng tác, với một nhạc cụ tốt đẹp nhất, và nếu như cuộc sống quá bận rộn đến nỗi chúng ta không còn có thời gian để dừng lại, khiến ta trở nên lãng quên trước những điều hay và đẹp, thì trên con đường ta đi mình còn vô tình bỏ qua và đánh mất bao nhiêu những điều đáng quý nào khác nữa chăng? 

 image

 Trong thời đại ngày nay, dường như đa số chúng ta có khá đầy đủ, nhưng duy có một điều mà chắc chắn trong chúng ta ai cũng đều rất thiếu thốn là thời giờ của mình, phải thế không bạn?
Trên con đường chúng ta đi, có lẽ ta cũng sẽ có dịp nghe được tiếng đàn vĩ cầm của Joshua Bell, và bao nhiêu những điều hay đẹp khác chung quanh ta, nâng cao tâm hồn mình, giữa những bận rộn và ngay trong hoàn cảnh bình thường nhất, nếu chúng ta biết tập bước chậm lại một chút…