Hãy Cho Một Nụ Cười

     Hãy Cho Một Nụ Cười  

                                                                                                 trích Lẽ Sống

     Một bệnh nhân nọ được đưa vào một bệnh viện do các tu sĩ điều khiển. Người ta không để cho anh nằm điều trị trong một căn phòng riêng rẽ mà lại đặt anh nằm chung với các bệnh nhân khác trong một phòng lớn. Vừa mới được khiêng vào căn phòng, người đàn ông đã bị các bệnh nhân khác tuôn đến bao xung quanh. Người thì kéo chăn, kẻ nắm áo, kẻ bứt tóc. Không mấy chốc, anh bị quăng xuống khỏi giường giữa những tiếng cười đùa của các bệnh nhân khác.

     Không chịu đựng nổi trò chơi quái ác của các bệnh nhân, người đàn ông mới la hét để kêu cầu vị phụ trách. Anh trình như sau: “Tại sao ông lại đưa tôi vào đây. Tất cả các bệnh nhân xung quanh tôi đều cười đùa, nghịch ngợm như một đám con nít. Hẳn họ không đau yếu như tôi”.

     Vị phụ trách mỉm cười đáp: “Họ còn đau yếu hơn cả anh. Nhưng tất cả đều khám phá ra một bí quyết, một bí quyết mà ít người ngày nay biết đến hoặc có biết đến, họ cũng không tin”.

     Người đàn ông muốn biết bí quyết ấy. Vị phụ trách bệnh viện mới lấy một cái cân có hai đĩa ở hai đầu. Ngài lấy một hòn đá đặt vào một đĩa cân, đĩa cân ở đầu bên kia liền được nhắc lên… Ngài giải thích như sau: Tôi vừa trình bày cho ông một bí quyết của các bệnh nhân ở đây. Chiếc cân này là biểu trưng của tình liên đới giữa con người với nhau. Hòn đá biểu hiện cho nỗi đau khổ của ông. Khi đau khổ đè nặng trên ông, thì ở đầu cân bên kia, niềm vui có thể đến với một người nào đó. Niềm vui và nỗi khổ thường sánh vai với nhau. Nhưng nỗi khổ cần phải được đón nhận và dâng hiến, chứ không phải để giữ riêng cho mình. Hãy làm cho những người khác trở thành trẻ thơ, hãy làm cho nụ cười được chớm nở trên môi của người khác cho dẫu ta đang hấp hối”.

     Cái chết của Ðức Kitô là cái chết của một người cho tất cả mọi người. Ðó là Tình Yêu được dâng hiến cho tất cả mọi người. Ðó là Hy Sinh cho tất cả mọi người. Ðó là Lý Tưởng của một người sống và chết cho mọi người.

     Nhìn ngắm Ðức Kitô trên thập giá, chúng ta thấy được định nghĩa đích thực về con người: con người chỉ có thể thể hiện được trọn vẹn tính người khi sống cho người khác. Càng sống cho tha nhân, con người càng tìm lại được chính bản thân. Càng chia sẻ với người khác, con người càng trở nên phong phú…

     Có của cải, có thì giờ, có niềm vui để chia sẻ đã đành, nhưng con người còn có cả một kho tàng khác để chia sẻ cho người khác: đó là nỗi đau khổ, sự bất hạnh, những hy sinh âm thầm của mình.

     Âm thầm đón nhận một đau khổ mà không than trách, không phàn nàn, nhưng luôn để lộ trên khuôn mặt sự vui tươi, tinh thần lạc quan: đó là một trong những chia sẻ cao độ nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.

     Vác lấy khổ đau để trở thành gánh nặng cho người khác: đó là một trong những chia sẻ cao quý nhất mà chúng ta có thể dành cho người khác.

     Dâng từng khổ đau, hy sinh và âm thầm phục vụ từng ngày để cầu nguyện cho tha nhân: đó là một trong những chia sẻ cao đẹp nhất, bởi vì chỉ có Chúa mới thấy được giá trị của sự chia sẻ ấy

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Chúa Là Nơi Con Nương Tựa

Chúa Là Nơi Con Nương Tựa

                                                                                    trích Lẽ Sống

     Dạo tháng 6 năm 1985, những người theo dõi truyền hình bên Tây phương vẫn còn nhớ mãi hình ảnh chiếc máy bay đang đậu ở phi trường, với viên phi công trong buồng lái ngó ra ngoài nói chuyện với một số phóng viên, trong khi có một người đứng bên cạnh, cầm súng dí sát vào đầu viên phi công. Ðó là hình ảnh của viên phi công John Testrake trên chiếc máy bay của hãng hàm không TA, bị không tặc uy hiếp trên đường bay từ thủ đô Hên của Hy Lạp về La Mã. Trong suốt 17 ngày, không tặc đã dùng lựu đạn và súng uy hiếp viên phi công, buộc ông phải bay từ Bút qua Alger rồi bay về Bút cả thảy bốn lần. Họ cũng đã bắn chết một hành khách, đánh đập một số hành khách khác. Cuối cùng họ đã để cho 39 con tin trên máy bay được đem đến một căn nhà ở Bút rồi được chở về Ðoác trước khi được trả tự do. Mặc dù không phải là con tin trên chiếc máy bay đó, nhiều người cũng thấy căng thẳng hồi hộp chỉ vì theo dõi tin tức trên truyền hình hay truyền thanh…

     Mới đây, viên phi công John Testrake có thuật lại kinh nghiệm hi hữu của mình. Anh nói như sau: “Lúc đó, tôi biết chắc chắn là có Chúa ở với tôi, nên tôi không những không sợ hãi mà còn tràn ngập bình an tin tưởng là khác”. Anh cũng nói thêm rằng anh đã theo đạo năm lên 25 tuổi, nhưng lúc bấy giờ anh chưa thật sự thức tỉnh, bắt đầu đọc Kinh Thánh và cầu nguyện một cách đều đặn. Nhờ có Kinh Thánh mang trong mình, cho nên trong suốt 17 ngày bị uy hiếp, anh vẫn không tỏ ra nao núng vì tin chắc có Chúa đang phù trợ anh…

     Cách đây hai năm, John Testrake đã xin thôi không làm việc cho háng hàng không TWA để tập trung vào các công việc từ thiện và để lái máy bay đưa các nhà truyền giáo đến các vùng xa xôi hẻo lánh. Ði đến đâu, anh cũng thuật lại việc Chúa đã giải cứu anh, nhất là việc Ngài đã ban cho anh bình an tin tưởng khi phải chạm trán với tử thần.

     Ai trong chúng ta có lẽ cũng hơn một lần chạm trán với tử thần hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống… Những người không có niềm tin thường sợ hãi bối rối vì không biết những gì đang chờ đợi mình bên kia cuộc sống. Những người có niềm tin hẳn không là những con người không biết sợ hãi, nhưng họ tin rằng bên cạnh họ luôn có Ðấng che chở phù trợ họ.

     Chúng ta có thái độ nào khi đứng trước những giờ phút nguy ngập, những thử thách trong cuộc sống? Chúng ta có tin tưởng rằng có Ðấng luôn ở bên cạnh chúng ta, để giữ gìn, phù hô chúng ta không? Với niềm tin vững vào Tình Yêu của Ðấng luôn có mặt bên cạnh chúng ta, chắc chắn chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống, chúng ta sẽ đối đầu với những khó khăn và thử thách với bình thản và vui tươi.

 nguồn: Maria Thanh Mai gởi

ĐẼO CHÂN THEO GIÀY

ĐẼO CHÂN THEO GIÀY

Giám Mục Giuse Vũ Văn Thiên

 Nguồn: http://hdgmvietnam.org/deo-chan-theo-giay/3946.95.5.aspx

nguồn:          conggiaovietnam.net

Một câu chuyện ngụ ngôn kể về người thợ đóng giày. Vì tay nghề của ông quá kém, nên khi đóng một đôi giày, khách hàng thường phải yêu cầu ông sửa đi sửa lại nhiều lần. Có một khách hàng đến khiếu nại vì giày của ông quá chật. Đáng lẽ phải nới rộng giày cho vừa với chân thì ông thợ kia lại đề nghị khách hãy “đẽo bớt chân cho vừa giày”.

Ý tưởng của người thợ giày ngược đời và không có tính khả thi. Tác giả muốn qua câu chuyện này cho thấy xung quanh ta vẫn có những hành động phi lý, gượng ép và không mang lại hiệu quả. Trong đời sống đức tin cũng như đời sống xã hội, vẫn còn đó nhan nhản những khuynh hướng theo kiểu “đẽo chân theo giày”.

Khuynh hướng thứ nhất là tự dựng nên một hình ảnh Thiên Chúa theo ý kiến chủ quan

Nếu tác giả sách Sáng thế viết: “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh mình…” (St 1,27), thì nay nơi nhiều người đang có khuynh hướng làm ngược lại: “Con người tạo dựng Thiên Chúa theo hình ảnh của họ (!)”. Thật thế, để tạo nên một thứ tôn giáo đáp ứng được đam mê và sở thích cá nhân, người ta tự xây dựng một hình ảnh Thiên Chúa nhằm thỏa mãn tự do của mình. Các môn đệ xưa kia cũng không thoát khỏi lối suy nghĩ nguy hiểm này. Họ mang một quan niệm sai lệch về sứ mạng thiên sai của Đức Giêsu. Tư tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ” cũng thúc bách bà mẹ của hai người con ông Giêbêđê. Bà xin Đức Giêsu cho hai con trai mình, một bên tả, một bên hữu Chúa. Hai chàng thanh niên này cùng đi với mẹ và hăng hái sẵn sàng chấp nhận chén đắng miễn là được hai vị trí quan trọng hai anh đang mong chờ (x. Mt 20,21-22). Ngay cả khi Người vừa loan báo: “Nhưng này bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy…” (Lc 22,21) thì liền sau đó, các môn đệ vẫn sôi nổi tranh luận xem ai trong nhóm được coi là lớn nhất (x.Lc 22,24). Thậm chí sau khi Đức Giêsu đã trỗi dậy từ cõi chết, một vài người trong họ vẫn còn giữ khái niệm thuần túy nhân loại về sứ mạng của Người. Tác giả sách Công vụ Tông đồ chắc đã mỉm cười hài hước khi ông ghi lại câu hỏi của một số người có mặt: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1,6). Thật là khó hiểu, vì các môn đệ là những người bỏ mọi sự mà theo Thầy, đã được thụ giáo trong suốt ba năm có lẻ, mà vẫn bị những tham vọng trần thế làm mờ con mắt. Các ông muốn xây dựng hình ảnh một đấng Messia theo nhãn giới trần thế của các ông, với hy vọng được thăng quan tiến chức và hưởng phú quý vinh hoa.

Trong thời buổi kinh tế thị trường, tôn giáo cũng có thể biến thành một thứ hàng hóa bát nháo như một cái chợ. Người ta viện cớ “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”, “bên cha cũng kính mà bên mẹ cũng vái”, để duy trì một thứ tôn giáo hỗn tạp. Thiên Chúa bị đặt để ngang hàng với các loại ngẫu thần và các hình thức mê tín dị đoan. Trong cách nghĩ của nhiều tín hữu, Thiên Chúa là người quản lý giàu có và hào phóng, giống như Bà Chúa Kho, khi cần thì đến khấn vái để được những lợi lộc, may mắn. Đây là một quan niệm làm biến dạng đức tin vào Thiên Chúa, rất nguy hiểm. Bởi lẽ khi người ta tin vào Chúa thế nào thì người ta thực hành đức tin như vậy. Một Thiên Chúa để ban ơn lợi lộc thì chỉ được kêu cầu để buôn may bán đắt. Người ta khấn vái Ngài để thực hiện những “phi vụ” làm ăn, bất chấp những điều phi pháp và trái đạo lý con người. Chẳng bao giờ người ta nghĩ đến việc lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Tạo nên hình ảnh Thiên Chúa cho mình, đó chính là một hình thức “đẽo chân theo giày” của khá nhiều người thời nay.

Khuynh hướng thứ hai là thực hành đức tin tự do, theo những tham vọng cá nhân

Tại một số nước Âu Mỹ, xuất hiện một cách thức sống đức tin mà người Pháp gọi là “à la carte”. “Carte” là bản thực đơn trong nhà hàng. Mỗi khi khách đến, nhân viên đưa ra một thực đơn để khách hàng chọn những món ăn mình thích. Thành ngữ trên đây muốn diễn tả một cách sống đức tin có chọn lựa, giống như chọn lựa món ăn. Món nào ngon, hợp khẩu vị thì chọn, món nào không hợp thì thôi. Vì vậy, có những người tín hữu chủ trương “Tin Chúa Kitô nhưng không chấp nhận Giáo Hội” hoặc ngược lại. Họ chấp nhận đi nhà thờ, nhưng không lãnh nhận bí tích. Họ nhận mình là người công giáo, nhưng vẫn ly dị hoặc sống chung ngoài hôn nhân. Họ chấp nhận kết hôn, nhưng không sinh con cái. Họ nổi loạn và phản đối từ Đức Giáo Hoàng cho đến mọi phẩm chức trong Giáo Hội, khi họ không được đáp ứng những yêu sách chủ quan của họ. Nói tóm lại, họ chỉ chọn lựa những gì dễ dãi cho bản thân, mà không chấp nhận bất kỳ sự ràng buộc nào do Luật của Thiên Chúa và Luật của Giáo Hội quy định.

Quan niệm sống đức tin theo kiểu “hiện đại” trên đây cũng đã bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Nhiều người, nhất là các bạn trẻ, dựa vào lý luận “Thiên Chúa nhân từ” để dễ dàng vượt qua những quy định của Giáo Hội. Họ coi nhẹ những ràng buộc hôn nhân và sự chung thủy vợ chồng. Họ quan niệm quá tự do về tính dục. Đời sống cầu nguyện nội tâm và việc học giáo lý bị coi thường. Nhiều bạn trẻ vẫn nhận mình là Kitô hữu, nhưng lại không thực hành đức tin. Họ dễ dàng từ bỏ danh nghĩa là người công giáo để có thể thăng tiến trong xã hội. Họ muốn thay ngôi đổi vị trong mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa, biến Ngài thành một Thiên Chúa phụng sự con người hơn là con người phụng sự Thiên Chúa. Bắt Thiên Chúa chiều theo con người, chỉ chấp nhận những gì dễ dãi, đây là một kiểu “đẽo chân theo giày” trong việc sống đức tin.

Khuynh hướng thứ ba là hành động vô trách nhiệm

“Mình vì mọi người và mọi người vì mình”, “Lợi ích tập thể phải đặt ưu tiên trên lợi ích cá nhân”… Những câu châm ngôn này xem ra nay đã lỗi thời. Xã hội ngày càng rối ren do con người thiếu trách nhiệm trong cách hành xử, từ lãnh vực cá nhân đến lãnh vực tập thể. Trong lãnh vực cá nhân, người ta nói và làm theo nhận định chủ quan của mình mà không quan tâm đến ích lợi của người khác. Trong lãnh vực tập thể, những người có trách nhiệm chỉ để ý tới lợi nhuận trước mắt mà quên những lích lợi lâu dài.

Những người công bộc của dân được đặt lên để phục vụ và làm cho ích nước lợi nhà, nhưng xem ra phần “ích nước” luôn bị coi nhẹ và phần “lợi nhà” lại là chính. Ấy vậy nên mới có những vị “đầy tớ nhân dân” mà gia tài của họ được so sánh như những đại gia, thậm chí còn giống như vua chúa thời phong kiến, có vườn thượng uyển, có dinh thự xa hoa. Một điều lạ lùng là những vị lãnh đạo kém khả năng và thiếu tư cách, lẽ ra phải cho nghỉ việc thì lại được đề bạt lên cấp cao hơn, đến lúc bị phát hiện thì mọi người tá hỏa vì tổn thất quá lớn và thủ phạm đã cao chạy xa bay. Nhiều người phỏng đoán nếu có bắt được thủ phạm thì cũng “hòa cả làng”. Những cách hành động trên đây đang làm cho đất nước và dân tộc nghèo đi, không chỉ về kinh tế, mà còn nghèo về tình người và nguy hiểm nhất là nghèo về niềm tin.

Trong đời sống xứ đạo, những chia rẽ, cạnh tranh theo kiểu “con gà tức nhau tiếng gáy” vẫn tồn tại. Nhiều khi người ta quên điều cốt lõi của đức tin mà quá nặng về hình thức. Giữa một thời kỳ “trăm hoa đua nở” về xây cất và lễ lạc, việc thực thi công bằng, tôn trọng lương tâm và đời sống cầu nguyện dễ bị coi nhẹ.

Trong lãnh vực gia đình cũng vậy. Nếu ngày xưa các cụ dạy: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, thì hiện nay đang phổ biến tình trạng ngược lại: “Con đặt đâu cha mẹ ngồi đấy”. Nhiều bạn trẻ tự do và quyết đoán trong việc trăm năm, đưa cha mẹ vào thế “đã rồi” và cha mẹ chỉ còn mỗi việc là làm theo những gì con cái muốn. Họ tự do yêu nhau, tự do quyết định hôn lễ và cũng tự do trong những quyết định hệ trọng của cả một đời người.

Kết luận: “Đẽo chân theo giày” là một lối hành xử trái với tự nhiên hoặc cẩu thả, vô trách nhiệm, nên gây ra những hậu quả vô cùng tai hại. Con người có khả năng và trí thông minh để điều khiển vũ trụ, nhưng họ cũng cần phải lắng nghe sứ điệp của Tạo Hóa để tôn trọng các nguyên tắc mà Ngài đã quy định. Hành động với lương tâm ngay chính, tôn trọng phẩm giá và ích lợi tha nhân, đó chính là bí quyết của thành công trong mọi lãnh vực của cuộc sống chúng ta.

Gm Giuse  Vũ Văn Thiên

******

ĐÓN NHẬN CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ RAO TRUYỀN CHÚA KITÔ

ĐÓN NHẬN CHÚA THÁNH THẦN ĐỂ RAO TRUYỀN CHÚA KITÔ

  + Hồng-y L. J. Suenens

Người dịch  Nguyễn đăng Trúc        nguồn: conggiaovietnam.net

 “ Thiên Chúa không có lời nói nào khác, tay chân nào      

 khác ngoài lời nói, tay chân của bạn

 để mang Phúc-âm đến cho thế gian”.

Frank Duff

 

 1- Mỗi một Kitô-hữu đều được mời gọi để trở thành nhân chứng của Phúc-âm    

Chúa gọi mỗi Kitô-hữu tham gia vào công cuộc truyền bá Phúc-âm mới qua chính phép rửa tội mà họ đã nhận lãnh, chứ không phải là một ơn gọi nào khác thêm vào. Công-đồng đã nhắc kỹ điều ấy.

Không một Kitô-hữu nào được miễn trừ bổn phận làm chứng về đức tin của mình. Những hình thức truyền giáo thay đổi tùy hoàn cảnh sống cụ thể, nhưng bổn phận truyền giáo là bổn phận nền tảng của từng người không trừ ai.

Phải thành thực thú nhận rằng đa số Kitô-hữu ngay cả những người thường xuyên hành đạo, vẫn chưa hiểu là mọi Kitô-hữu phải rao truyền Chúa Kitô, mọi người đã được tiếp nhận Tin-mừng đều có sứ mệnh rao truyền Tin Mừng ấy lại cho kẻ khác.

Giáo-hội còn chưa thực thi đầy đủ “bản chất truyền giáo” của mình; bây giờ là lúc cần phải giải tỏa những lý do giả tạo cố dồn Kitô hữu vào tình trạng ù lì, ngậm miệng làm thinh hay dững dưng.

Chúng ta phải can đảm tố giác cám dỗ của thái độ câm nín âm hiểm nầy, và đuổi ngay con quỉ câm và những lý do giả tạo ra khỏi cuộc sống chúng ta.

 1-  Hai bổn phận cơ bản 

Thường người ta nại lý do là cuộc sống hằng ngày chiếm hết thì giờ và sức lực nên không thể chu toàn bổn phận làm tông đồ. Lối khước từ đó gợi nhớ lại câu truyện trong Phúc-âm, khi những người được mời đến dự tiệc cưới đã thoái thác nại lý do quá bận rộn về những công việc khẩn thiết phải ưu tiên: Tôi đã mua một đám đất và tôi phải đi xem; tôi đã mua năm cặp bò và tôi phải đi thử; tôi mới cưới vợ nên bận rộn quá.

Bổn phận làm tông đồ gắn liền với bổn phận Kitô hữu, chúng ta không nhất thiết là phải tham gia phong trào sinh hoạt nào đó. Có nhiều phương thức làm tông đồ khác nhau, nhưng không thể nại đến sự kiện nầy để xóa bỏ bổn phận hàng đầu của chúng ta, tức là bổn phận làm người đã chịu phép rửa. Có bổn phận làm người và còn bổn phận làm Kitô hữu, ta cần biết phối hợp. Chúng ta đã không biết chu toàn đồng thời các bổn phận khác nhau trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta sao?: bổn phận gia đình, nghề nghiệp, công dân. Đối với Kitô-hữu biết ý thức về phép rửa của mình, bổn phận căn bản gắn liền với thân phận họ là yêu mến và phục vụ Chúa với cả sức lực mình và yêu thương kẻ khác như chính mình. Bổn phận nầy rất cao cả, đòi hỏi những chọn lựa khó khăn và nhiều hy sinh: nếu tôi chấp nhận dành một số thì giờ phục vụ không công cho người bên cạnh tôi cách nầy hay cách khác, hẳn nhiên công tác ấy đòi hỏi tôi phải trả một giá nào đó. Phục vụ không công có nghĩa là từ khước nhận tiền hoặc hy sinh một lối sống thoải mái… 

2-  Hai hình thức nghèo đói 

Nếu có hai bổn phận căn bản, tự nhiên và siêu nhiên, thì cũng có hai hình thức nghèo đói để cứu giúp. Có tình trạng nghèo đói trong cuộc sống vật chất con người dưới nhiều dạng ngặt nghèo cần được cứu tế (đói rách, thiên tai, dịch bệnh…).  Hình thức nghèo đói nầy dễ làm ta xúc động vì dễ thấy, dễ nhận ra hơn là hình thức thứ hai. 

Nghèo đói làm cho con người khốn đốn một cách thâm cay, mặc dù có tràn đầy của cải vật chất, đó là cảnh cùng khổ về mặt siêu nhiên, tinh thần, đặc biệt là tình cảnh bơ vơ hoặc chán nản nơi những người trẻ; họ đi tìm một trong những ảo tưởng để sống vất vưởng qua nghiện ngập hoặc thác loạn tính dục. Khi chúng ta nói đến những chứng nhân của Chúa Kitô, hẳn chúng ta nghĩ ngay đến cánh đồng bao la trước mắt chờ đón chúng ta. 

3-  Hai hình thức làm chứng 

Cuối cùng cần phân biệt hai loại làm chứng: làm chứng khách quan và làm chứng qua con người cụ thể của mình, hai lối nầy cần bổ túc nhau.

 Việc làm chứng của các người dạy giáo lý, các giáo sư về tôn giáo, các nhà giảng thuyết, là làm chứng khách quan : ở đây mục tiêu ưu tiên nhắm đến là dạy và đào tạo tôn giáo; nhưng nếu “người hướng dẫn” vừa là người làm chứng thì dễ thuyết phục người ta hơn.

Không phải ai cũng được gọi để chu toàn sứ mệnh rao truyền Phúc-âm theo hình thức nầy, nhưng mọi người đều được gọi để trở thành chứng nhân qua cuộc sống cụ thể của mình, như thánh Phêrô dạy rằng phải làm cho kẻ khác thấy được “niềm hy vọng nằm nơi con người mình”. Làm chứng do chính cuộc sống mình có thể giúp mọi người biết Phúc-âm một cách thiết thực và sống động, “mọi nơi và mọi lúc”, trong những hoàn cảnh bình dị hoặc phi thường.

Khung cảnh xã hội chung quanh như cám dỗ Kitô-hữu đừng nên quấy rầy, mà phải theo nếp sống trần tục của thời đại, phải tỏ ra nhún nhường và tôn trọng bất cứ dư luận nào, chạy theo quan điểm chung, chứ đừng nêu lên một tiêu chuẩn chân lý khách quan nào! Nhất là đừng bao giờ nói đến “tội lỗi”, vì nói đến “tội lỗi” làm chói tai thiên hạ vô cùng! Trong một khung cảnh như thế, làm sao diễn đạt và tuyên xưng đức tin mình?  Người ta còn nêu lên nhiều lý chứng đặc biệt khác nữa để huyết phục Kitô-hữu nên giữ thái độ im lặng! 

4-  Thế giới không sẵn sàng để nghe Phúc-âm! 

Người ta xin chúng ta đừng nói, đừng tuyên xưng Phúc-âm trong thế giới ngày nay vì người ta cho rằng thế giới chúng ta không sẵn sàng để nghe sứ điệp ấy.

Với lối luận chứng đó, trước hết phải trả lời rằng sứ điệp Phúc-âm là một sứ điệp mà thực ra không bao giờ có ai tự nhận là sẵn sàng để nghe cả; sứ điệp ấy phát sinh ơn cứu độ của Con một Thiên Chúa và đưa ta lên hàng thần thánh, một sứ điệp như vậy vượt lên trên tất cả những gì mắt đã thấy và tai đã nghe, vượt lên trên tất cả những gì có thể làm cho những mơ ước táo bạo nhất của chúng ta trở thành vô nghĩa.

Hơn nữa, Lời Phúc-âm khó nghe, sự kiện đó không phải là hiện tượng riêng của thời đại chúng ta. Nhưng người đương thời của Chúa Giêsu có sẵn sàng nghe Ngài không? Hãy nhìn thập giá Chúa để hiểu việc nầy. Và nếu muốn biết phản ứng của quần chúng khi Phaolô loan báo việc Chúa Phục-sinh, ở sân vận động Nhã Điển, thì chỉ cần đọc trong sách Tông-đồ Công-vụ: “Vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói: “Để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói vấn đề ấy” (Cv. 17, 32). 

5-  Tôi cảm thấy không đủ sức nói! 

Kitô-hữu lại thấy tự nơi lòng mình cơn cám dỗ trái ngược lại, cho rằng việc rao giảng Phúc âm chỉ dành cho các thánh, các nhà thông thái đầy bằng cấp mà thôi!

Trước hết có thật là việc rao truyền Phúc-âm chỉ là đặc ân của các thánh hay không? Sự thánh thiện của người làm chứng hẳn nhiên là một ơn riêng ban cho Giáo-hội; ta có thể nêu lên nhiều tên tuổi mà mọi người đều đồng ý là thánh, hoặc đáng được nể vì, yêu mến và có sức thuyết phục.  Danh sách ấy qua lịch sử Giáo-hội rất dài. Lâu lâu chúng ta có dịp mừng việc tôn phong các thánh mới, đúng là cảnh vui mừng trên trời cũng như dưới đất. Nhưng sự kiện đó không miễn cho bất cứ Kitô hữu bình thường nào bổn phận “minh chứng niềm hy vọng nơi mình”, như lời thánh Phêrô đã đòi hỏi Kitô-hữu thời Giáo-hội sơ khai, những Kitô-hữu ấy cũng là những người bình thường như chúng ta.

Để thực hiện công cuộc của Chúa (-đừng lẫn lộn với ý nghĩ là làm cho Chúa -) trước hết chúng ta trao thiện chí của ta cho Ngài. Chúa dùng mỗi người chúng ta, và ơn của Ngài sẽ dư tràn cho chúng ta. Khi kết hợp với Ngài, thì chúng ta sẽ vượt lên trên sức lực của mình. Thần học còn nói đến những ân sủng Chúa ban nhưng không để làm lợi cho Cộng-đồng, mà không nhất thiết thánh hoá những người hành xử. Những ơn đoàn sủng của thời nguyên sơ và những ơn đoàn sủng hôm nay chứng thực sự tự do hoàn toàn của Chúa, và cấm không ai được nêu lên đặc quyền ấy cho riêng mình.

Còn về sự hiểu biết sâu xa, chúng ta cám ơn Chúa đã cho chúng ta nhiều vị thần học gia đáp trả ơn gọi của họ làm “người tín hữu truy tìm sự khôn ngoan nơi đức tin”. Công-đồng Vatiacanô II mang ơn họ rất nhiều; họ đã chuẩn bị Công-đồng, đã làm phong phú cho Công-đồng, nên khó lòng phủ nhận tầm quan trọng và vai trò của họ. Nhưng chúng ta cũng phải biết rằng Chúa không gắn chặt bổn phận làm tông đồ với mấy bằng cấp đại học. Việc Chúa chọn “mười hai người” xứ Galilêa chắc chắn cho thấy rằng thông minh tuyệt trần không phải là tiêu chuẩn để xây dựng Nước Chúa.

  2- Chúa kêu gọi mỗi người rao truyên Phúc-âm 

Phúc-âm cho chúng ta thấy phương cách Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên như thế nào: Chúa nói: “hãy theo Thầy”, và họ bỏ lại cha họ, thuyền họ, bàn thu thuế của họ.

Một lời mời hơn là một mệnh lệnh: “nếu người muốn lên trọn lành…hãy bán hết của cải để theo thầy”.

Chúa Giêsu kêu mời người ta theo Ngài, tiếp bước theo chân Ngài, và không hề hứa là đường đi sẽ dễ dàng, nhưng chỉ nói là Ngài sẽ ở với họ không bao giờ xa.

Chúa gọi chúng ta, mỗi người chúng ta, mỗi người mỗi cách, nhưng phương cách nào đi nữa cũng rất triệt để. Trước khi chấp nhận dấn thân vào tình yêu thương Chúa, chúng ta thử xem lời gọi của Ngài đã được Phúc-âm diễn tả thế nào. 

 Lời mời gọi của Chúa, theo lối nhìn của Chúa 

Việc Chúa mời gọi ta sống cuộc sống Kitô giáo toàn diện là một lối tỏ bày tình yêu thương đặc biệt, một lối chọn lựa riêng của Chúa. Ngài đã gọi mười hai vị, rồi ngày kia, vị thứ mười ba là thánh Phaolô. Lúc đầu, Ngài không gọi cả đám đông. Đến sau Ngày Hiện Xuống, chúng ta chứng kiến một trăm hai mươi vị trong ngày khai sinh Giáo-hội. Đấy là điểm khởi phát, là men để làm dẫy bột, nhưng trước hết phải làm men.  Yêu thương đặc biệt, tuyển chọn riêng, ở đây còn có nghĩa là gửi đi truyền bá Phúc-âm. “Thầy đã chọn các con…để các con lên đường và mang lại hoa trái”. Được chọn để lên đường, được chọn để toả lan ánh sáng. Sự chọn lựa ấy tự nó là một “lệnh xuất quân”.

“Hãy đến và rồi hãy ra đi”. Đây là một cử chỉ mời gọi của người tình, nhưng đồng thời, để quay về với dân chúng.

Tình yêu đặc biệt, yêu riêng nhưng là yêu trong tự do. Ngay khi thánh sử chỉ ghi lại câu Chúa Giêsu nói ”hãy theo Thầy”, mà không nói thêm có trao đổi gì trước đó, thì kỳ thực đã có môt cuộc đối thoại bên trong, dù rất ngắn, một lời mời tùy thuộc vào sự tự do trả lời của người nghe, một lời đề nghị tôn trọng hoàn toàn người đối diện.  Chúa Giêsu không hề tuyển chọn theo lối ép buộc, như tuyển lính ngày xưa. Nhưng, “Ngài biết điều gì xảy ra trong con người”, và đáp ứng những ước vọng thầm kín, không nói ra, hoặc có thể không nhận ra của chính người Ngài kêu gọi.

 Tình yêu ấy là tình yêu dâng hiến, dấy lên một lời kêu mời, muốn nối kết một giao ước. Và ở đây ta còn thấy Chúa xúc động nữa. Thường thì Chúa thức suốt đêm cầu nguyện trước khi chọn lựa như thế. Đến đây chúng ta đi vào khung trời thần thánh. Thi sĩ có lần nói: “có nhiều điều thần thánh người ta chỉ nghe được một lần thôi”.  Trường hợp từ chối, như người thanh niên giàu có trong Phúc-âm “đã bỏ đi vì anh ấy có nhiều của cải”, Chúa Giêsu không cố ép và để cho đi.

 Người ấy sau nầy có tìm đến Chúa không? Hoàn toàn bí mật.

Nhưng, đoạn Phúc-âm nhắc nhở chúng ta rằng lúc Chúa gọi thì đừng mặc cả, quay lưng hoặc kiểm lại sổ sách ngân hàng, bàn hỏi bạn bè “khôn ngoan”, bảo hiểm sức khoẻ và nhân mạng…Chúa Giêsu gọi mình theo Ngài, là gọi đi vào con đường phiêu lưu của tình yêu. Con đường đi ấy qua nhiều nẻo gập ghềnh và đôi khi phải sống nhiều đêm ở vườn Cây-dầu, như để làm quen với giây phút của Chúa trong đêm khổ nạn.

 Đó là những gì bao hàm nơi ơn gọi theo cái nhìn của Chúa.

 1- Chương trình sống của Kitô-hữu bình thường trong cuộc sống hằng ngày  

Cần thấm nhập cuộc sống của Chúa (ad intra) để cho Chúa gửi mình lên đường (ad extra). Hai nhịp thở đó kết dệt nên đời sống Phúc-âm, cần thiết phải bổ túc cho nhau. 

Ad intra 

Trên bình diện cuộc sống cá nhân, Kitô-hữu phải tài bồi và củng cố cuộc sống siêu nhiên của mình bằng bí tích Thánh-thể và bí tích chữa lành tâm hồn đó là bí tích Hòa-giải. Phải nuôi sống cuộc sống siêu nhiên linh hoạt, bằng việc đọc sách thiêng liêng vào một buổi nhất định, và ưu tiên là sách Kinh-thánh, đặc biệt nên đọc và suy gẫm các bản văn mục vụ trong ngày, là của ăn được Mẹ chúng ta là Hội-thánh dọn sẵn. Một cách cụ thể ta nên có một cuốn sách lễ trong tuần, ngoài cuốn sách lễ các ngày chủ nhật trong năm.  Đức Gioan-Phaolô II không ngừng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của Thánh-thể, là trung tâm điểm của cuộc sống Kitô-hữu. Trong một bài diễn văn gửi cho những người hướng dẫn Phong trào Canh tân đoàn sủng, ngài nói:

“Theo ý niệm mà Công-đồng Vaticanô II đã ghi sâu nơi cuộc sống chúng ta : Thánh-thể đúng là nguồn suối và đỉnh cao của mọi công cuộc rao truyền Phúc-âm…Kitô hữu, đã mặc lấy ơn ích của Phép rửa tội và Thêm-sức, khi rước Thánh thể, sẽ sát nhập toàn cuộc sống mình với thân thể Chúa Kitô”. 

Để cho việc cử hành Thánh-thể có thể thức tỉnh và nuôi dưỡng cuộc sống đức tin chúng ta, Giáo-hội đưa vào mỗi thánh lễ đoạn văn Thánh kinh, được chọn lựa theo diển tiến của năm phụng vụ, để chúng ta lắng nghe được lời Chúa. 

Trong tinh thần của đức tin, khi chúng ta mở các trang sách lễ là chúng ta đến điểm hẹn gặp Thánh Thần; những bản văn được Giáo-hội chọn sẵn cho chúng ta là ưu tiên, nếu chúng ta thực sự muốn thở đồng nhịp thở của Giáo-hội, ngày ngày thấm nhập “chính những tình cảm trước đây của Chúa Giêsu”. Tôi cần tiếp nhận các trang ấy như tiếp nhận bức thư của một người bạn chia sẻ các ưu tư, các mối lo âu sợ hãi, các niềm mong ước với tôi, muốn đồng hành với tôi, chỉ đường cho tôi.

Tôi muốn dùng kinh nghiêm của tiên tri Isaia để nói lên rằng: “lời Chúa thức tỉnh tôi mỗi sáng; mỗi sáng lời Chúa đánh thức tôi dậy để tôi lằng nghe như một người học trò ngoan ngoãn học hỏi…” (Is. 50, 4).

Nếu như tôi không có cách nào để đi dự lễ được thì tôi cũng cầm lấy sách lễ để đọc và hiệp thông với Giáo-hội, nói chuyện với Chúa và thấm nhập sứ điệp của Ngài vào cuộc sống trong ngày của tôi.

Mỗi ngày, chúng ta cần để lời Chúa xây dựng, uốn nắn đời mình, như đất sét trong tay người thợ gốm.

Để hiểu được tầm mức cao cả của Thánh lễ và Thánh-thể, chỉ cần suy nghĩ kỹ về các lời chúng ta hát trong kinh Vinh-danh Thiên Chúa trên các tầng trời

“ Chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa. Chúa xóa tội trần gian, xin nhận lời chúng con cầu khẩn”. 

Thánh thể là bí tích thờ phương, tạ ơn, chữa lành và tha thứ. Nhờ Chúa Kitô, Chúa chúng ta, chúng ta đến với Chúa Cha, hướng về Tòa Chúa.  Và chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài mà Chúa đáp trả lời cầu khẩn của chúng ta; không bao giờ lời kinh ấy không được nhận lời. Nếu chúng ta tìm lại được ý nghĩa của Thánh lễ, các cộng đoàn Kitô-hữu sẽ hồi sinh; Thánh lễ chủ nhật là lễ Phục sinh hằng tuần, đúng là trắc nghiệm về sự trung tín của chúng ta đối với Thầy: “Anh em hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy” cho đến khi Ngài lại đến trong vinh quang.

 Thánh thể cũng là của ăn và thức uống.  Nhưng đặc điểm kỳ bí, mầu nhiệm ở đây là trong hiệp lễ, không phải chúng ta biến của ăn làm đồ nuôi dưỡng cuộc sống mình, nhưng chính của ăn biến đổi chúng ta để chúng ta thành sự sống trong Ngài.

Cuối cùng, Thánh-thể không chỉ là hiệp lễ, sự hiện diện thật sự luôn ở ngay trong Thánh-thể : chúng ta có thể tôn kính Thánh-thể ấy, thờ lạy âm hầm dưới chân của Thầy, trước Nhà tạm.

Trong những ngày tháng dành riêng cho cuộc sống siêu nhiên, chúng ta cần lưu ý đến tầm quan trọng của những kỳ tĩnh tâm; cuộc tĩnh tâm kiểu mẫu luôn vẫn là Phòng-Cao ở Giêrusalem khi các môn đệ, cùng với Mẹ Maria, đã cầu nguyện và đã sống “Bí-tích Thánh-tẩy trong Thánh Thần”; cuộc tĩnh tâm ấy đã chuyển đổi con người họ.  Những cuộc tĩnh tâm như thế thường có thể giúp nhiều Kitô-hữu bấy lâu ơ hờ, thụ động trong việc hành đạo, chấp nhận dấn thân cụ thể. Nên tham dự và cổ động người tham dự; các cuộc tĩnh tâm nầy thực sự là việc làm hết sức hữu ích. 

Ad extra 

Trên bình diện làm công tác tông đồ, Kitôhữu phải là “nhân chứng của Chuá Kitô, bằng lời nói và việc làm, mọi nơi và mọi lúc”. Đừng đợi mọi yếu tố phải có sẵn, xét về khía cạnh con người. Châm ngôn thường được người ta nêu lên : “trước hết phải nhân bản hóa, sau đó rồi Phúc-âm hóa” đã thường làm cho hứng khởi truyền giáo khựng lại, và làm tổn thương cả nỗ lực nhân bản hóa chân thực, mà đỉnh cao lại chính là Đức Kitô.  Đừng sợ phải làm chứng về đức tin mình. Đức Gioan-Phaolô II đã nhắc lại bổn phận ấy trong một sứ điệp:

“Nhân danh Chúa Kitô tôi xin anh chị em phải làm người loan truyền Phúc-âm…Là thành phần làm nên Giáo-hội, mỗi người phải hoàn thành phần trách nhiệm của mình…mỗi người hãy làm cho người gần mình, trong gia đình, trường học, trong giới văn hoá, nơi làm việc hiểu rằng Chúa Kitô là Đường, là Sự-thật, là Sự-sống” (22.10.1985).

Để nâng đỡ nhau làm tông đồ, Kitô-hữu cần sự trợ giúp của anh chị em đồng đạo. Nếu không gia nhập một nhóm tông đồ nào, thì cố tìm một sinh hoạt tông đồ thích hợp với ước vọng của mình.

Nếu không tìm thấy, thì nên cổ động trong môi trường sinh hoạt giáo xứ những nhóm nhỏ sống Phúc-âm, chia sẻ cuộc sống Kitô giáo trong hai chiều kích cá nhân cũng như làm công tác tông đồ. 

2- Ứng dụng trước mắt 

Một khi nhận ra được chiều sâu và sự ưu tiên nơi “thân phận Kitô-hữu của mình”, các hệ quả thực tiễn sẽ phong phú vô cùng. Trong trường hợp tôi chẳng hạn, tôi tức khắc bị chất vấn và phải trả lời: “Trước hết tôi là một giám mục Kitô-hữu hay là một Kitô-hữu làm giám mục?” . Hỏi như thế buộc tôi phải xét mình, và mỗi lần bị chất vấn là mỗi lần tôi phải giật mình. Hoặc trong dân chúng: Quí vị trước hết là một ông chủ Kitô-hữu hay một Kitô-hữu làm ông chủ? Trước hết là một nhà giáo Kitô-hữu hoặc một Kitô-hữu làm nghề dạy học? Trước hết làm một bà mẹ Kitô-hữu hay một nữ Kitô-hữu làm mẹ gia đình?…”. Và câu hỏi ấy được giải thích thêm: Hai cái, cái nào là gốc, là cốt lõi, và cái nào là tĩnh từ, phụ thuộc trong cuộc sống của bạn?

Một thí dụ khác: trong cuộc sống lứa đôi Kitô-giáo, cái gì được đề cao, lưu ý hơn để thực sự phát huy cuộc sống Kitô-hữu của vợ chồng: trước hế họ là vợ chồng, được kêu mời để sống bổ sung cho nhau? Hoặc trước hết họ cảm nhận nhau sâu xa hơn nữa như là anh em trong Chúa Giêsu-Kitô, được gọi để sống Phúc-âm trong cuộc sống hằng ngày, yêu nhau trong tình yêu thương của Chúa, quên mình, tha thứ cho nhau, trung tín với nhau thể hiện chính giáo ước của Chúa Kitô và Giáo-hội Ngài?

Thêm một thí dụ nữa trên bình diện mục vụ: chúng ta thường áp dụng đường lối hoạt động quen thuộc đó là: thấy, xét rồi hành động. Luật ấy có ý nghĩa chính xác trên bình diện xã hội học; nhưng theo nhãn quan Kitô giáo, còn phải bổ túc như sau:

– thấy, vâng đúng vậy, nhưng với con mắt Chúa Kitô

suy xét, đúng rồi, nhưng với ánh sáng toàn diện của Phúc-âm

– hành động, vâng, nhưng trong đường hướng và sức mạnh của đức tin. Mọi điều ấy không thể tùy nghi.

 3- Một vài thái độ căn bản của một Kitô-hữu chân thật 

Để nối kết giữa thần học và mục vụ, tôi muốn trích dẫn một vài đoạn trong một bài báo của Đức Hồng-y Danneels.

  Chúng ta còn can đảm loan truyền Chúa Kitô hay không? 

Về đề tài nầy tôi muốn thử kiểm thảo để truy tìm lại thực chất nền tảng của đức tin chúng ta.  Thông điệp Redemptoris Missio đã đề cập đến vấn đề nền tảng của công tác rao truyền Phúc âm. Tôi nghĩ rằng những vấn đề đã nêu lên trong thông điệp nầy có giá trị cho công cuộc truyền bá Tin-mừng ở xứ chúng ta, cũng như ở các nơi xa xôi khác.

Các vấn đề đặt ra là: Còn cần phải truyền giáo, rao giảng Tin-mừng nữa không? Không thể thay thế truyền giáo bằng đối thoại giữa các tôn giáo hay sao? Phát huy con người qua nỗ lực phát triển chưa đủ sao? Không phải là cần tôn trọng niềm tin kẻ khác, tự do lương tâm của người ta hay sao? Và tất cả các tôn giáo không phải là có giá trị như nhau hay sao?

Chúng ta không phủ nhận những nội dung nầy, vì những căn rễ của chúng rất tốt lành: như tự do lương tâm, dân chủ hóa, tôn trọng đời tư, tôn trọng các tôn giáo khác, và ý nghĩa của đối thoại. Vaticanô II đã nhấn mạnh đến các giá trị nầy. Các quan niệm ấy không phát xuất từ những kẻ xấu bụng, nhưng bởi một tâm hồn ngay thực và tốt lành. Tuy vậy chúng vẫn nêu lên cho chúng ta nhiều vấn nạn.

  Chỉ có một Đấng Cứu độ 

Chối bỏ Chúa Kitô là Đấng Cứu độ duy nhất của mọi người là buộc chúng ta phải xóa đi ba phần tư Tân-ước. Vì Phêrô và mười hai tông đồ, Phaolô và Gioan, đã mạnh mẽ nêu lên tính cách duy nhất nơi Chúa Kitô Đấng Cứu độ.

  Xác tín sâu xa của những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu là xác tín về Ngài là Đấng Cứu độ duy nhất. Đó là một đìểm nền tảng quyết định tất cả.

Nếu Chúa Kitô không phải duy nhất, thì đức tin trở thành tùy nghi. Không thể nào bảo chứng cho công cuộc truyền giáo: người ta dựa vào uy quyền nào để nói về Đấng Kitô cho các dân tộc khi Đức Kitô chỉ là một trong các vị cứu độ khác?  Không chấp nhận Chúa Kitô là duy nhất, thì mọi công cuộc truyền giáo chỉ là cao vọng mơ hồ.

 Người ta không còn cách nào khác để được cứu độ sao? Nhiều người đương thời với chúng ta còn sống Phúc-âm hơn là người Kitô hữu. Có những “hạt mầm Ngôi Lời” (semina Verbi) ở ngoài vòng vi của Giáo-hội hữu hình chúng ta, ở ngoài sợi giây liên lạc hữu hình với Chúa Kitô.  Nhưng chúng ta phải xác quyết là mọi dấu vết cứu độ đều liên kết với Chúa Kitô duy nhất. Vì giai đoạn chuyển từ mối liên kết mặc nhiên đến mối liên kết minh nhiên, nhờ việc rao giảng, tùy thuộc vào ý Chúa: Anh em hãy ra đi, hãy rao giảng cho tất cả các dân tộc và rửa tội cho họ.

Thánh Phanxicô Assisi đến sống với người Hồi giáo và vị giáo trưởng của họ. Ngài vừa loan báo Chúa Giêsu vừa tôn trọng vị thủ trưởng và các tín đồ hồi giáo đến nỗi sau sáu thế kỷ người ta còn nhớ đến ngài. Tôi nghĩ đây là một thái độ chúng ta phải noi theo.

 Không được phân tách Nước-Trời với Chúa Kitô 

Điểm căn bản thứ hai: mối liên kết giữa con người Chúa Giêsu và Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ấy gồm những giá trị như: bao dung, liên đới, bác ái, hòa bình, chia sẻ, dấn thân xây dựng trật tự thế giới công bằng….Các giá trị ấy do Chúa Giêsu cổ súy và gắn liền với Con Người của Ngài.

Người ta có khuynh hướng tách rời các giá trị Nước Chúa khỏi Con Người Giêsu. Chúng ta phải thú thực là nhiều hội đoàn và phong trào chúng ta đã đi đến mức đó. Cũng không phải vậy để có dịp lên án hay phạt vạ họ. Chúng ta nhận thấy nhiều người hát ca tôn vinh những giá trị nước Chúa và cổ súy các giá trị nầy. Được như vậy là quý hóa; tôi không hề cầm đá ném vào họ.  Nhưng xin hỏi họ có chắc là các giá trị nầy, một khi bị tách ra khỏi Đức Kitô, liệu còn tồn tại lâu dài không?

Nhiều hội đoàn của chúng ta cảm ứng tinh thần Kitô giáo đang nỗ lực cổ súy các giá trị Kitô giáo, tôi ủng hộ các cố gắng ấy, đó là một thiện ích cho nhân loại và văn minh; nhưng cũng phải lưu ý là khi các giá trị nầy bị tách ra khỏi toàn bộ cuộc sống cụ thể của Kitô-hữu, thì thường sẽ teo tóp dần. Nên việc cổ võ các giá trị ấy cần được nuôi dưỡng bằng cuộc sống chiêm niệm, đức tin, bí tích và phụng vụ.

 Đừng tách rời một bên là Thiên Chúa, bên kia là Đức Kitô

Thứ ba: đừng chủ trương một ý niệm mơ hồ về Thiên Chúa tách khỏi Đức Kitô. Mặc khải Kitô giáo không hướng đến một loại thờ trời nào đó một cách mơ hồ. Nó diễn tiến cụ thể từ Giavê, Thiên Chúa của Cựu-ước và Chúa chúng ta, nhờ bởi Chúa Kitô đã chết và đã sống lại mà đi đến một sự nhận biết đầy đủ về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Việc nhận biết Chúa Ba Ngôi liên kết chặt chẽ với mặc khải của Chúa Kitô.

Mục đích của rao truyền Phúc-âm không phải là đưa người ta trở thành những người tin vào Chúa nào đó, nhưng là những người tin vào một Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Đấng duy nhất có thể dẫn đưa chúng ta vào đức tin nầy trong Chúa Ba Ngôi là Con Thiên Chúa làm người. Ngài là Đấng duy nhất đã thấy Chúa Cha, là Đấng duy nhất có thể ban Thánh Thần cho chúng ta. Những yếu tố khác trong việc làm của chúng ta không phải là sai trái, đáng lên án, nhưng phải đặt vào vị thế thích đáng của chúng.

Nhưng dựa vào cao vọng nào mà chúng ta nói mình nói được chân lý? Đó là câu nói làm tắt nghẽn hứng khởi truyền giáo: “Quí vị là ai mà dám cao ngạo nói mình có chân lý?” Câu nói nầy người ta thường lặp đi lặp lại với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận sứ mạng của Chúa Kitô, nếu không phải chính Ngài đã đặt để lời Ngài trong miệng chúng ta, mọi lời nói về Phúc-âm của chúng ta chỉ là cao vọng hão huyền. Nhưng ai chỉ nói điều mình đã nhận trong đức tin không thể bị kết án là cao vọng được.

Chúa Giêsu đã từng gặp những khó khăn như thế; cũng như các tông đồ tiếp theo Ngài, khi họ chỉ muốn vâng lời Thiên Chúa hơn là nghe theo con người. Nếu chúng ta không vâng lời Chúa là Đấng sai gửi chúng ta, thì rõ ràng là chúng ta không có quyền lên tiếng. Những lời chống đối như thế buộc chúng ta quay nhìn về Chúa Kitô.  Chúng vẩn lợi ích cho chúng ta, đừng ngại gì. Can đảm lên!

 Tác giả:  Gs. Nguyễn ĐăngTrúc

THẦN TÌNH YÊU

THẦN TÌNH YÊU

tác giả:  M. Hoàng Thị Thùy Trang.


 Ngôi Ba Thiên Chúa, thuật ngữ xem thường rất gần gũi trên môi miệng người tín hữu nhưng dường như hơi xa lạ trong não trạng mỗi người. Người ta dễ gần với Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu và không mấy thường xuyên cầu nguyện cùng Chúa Thánh Linh. Như một thói quen đạo đức tốt, mở đầu những giờ cầu nguyện, các việc làm… người tín hữu luôn cầu xin Chúa Thánh Linh soi lòng mở trí, chúc phúc cho mọi công việc của họ, nhưng lại rất dễ mau quên Ngài.

 Quả thật, ngôi vị Thánh Linh là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Thánh Thần tình yêu, là mối dây thông hiệp, bác ái, là sức mạnh, là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ở đâu có tình yêu, hiệp nhất, ở đó có sự hiện diện của Ngôi Ba.

 Nói đến từng ngôi vị Thiên Chúa, là nói đến sự mầu nhiệm không thể lý giải được, chỉ còn lấy đức tin mà bù lại. Ngôi Ba Thánh Linh được sinh ra từ tình yêu của Thiên Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu là Con Một yêu dấu của Thiên Chúa Cha. Chúa Cha tạo dựng, Chúa Con cứu chuộc, Chúa Thánh Thần thánh hóa. Đó là sự thật về Thiên Chúa. Ba ngôi vị nhưng là một Thiên Chúa. Mỗi ngôi vị có một sứ mệnh riêng biệt tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa nhưng đều mang tình yêu, ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu cho nhân loại.

 Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa hay bị lãng quên. Người ta ít nhớ đến Ngài vì sự hiện diện vô hình của Ngài? Nhưng nhân loại quên một điều cố yếu rằng, từ khi chưa có đất trời, từ khi có sự hiện hữu của Thiên Chúa, là Ngài đã hiện diện, vì Ngài cũng chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa của sự thinh lặng, Thiên Chúa của sức mạnh và quyền năng.

 Chúa Thánh Thần ban đủ bảy ơn xuống trên tất cả những người tin, hầu giúp họ vượt thắng mọi cám dỗ và sự dữ mà trung thành với Thiên Chúa. Ai sống no đầy ơn nghĩa với Chúa Thánh Thần, người ấy thủ đắc được ân sủng thần linh. Thế giới được sinh ra từ Thần Khí, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, nặn con người bằng bùn đất, Ngài đã thổi sinh khí Ngài để trao ban sự sống. Và sự sống vĩnh cửu đời sau cũng vậy, chỉ có ở những ai lãnh nhận được sức mạnh linh thiêng của Ngài.

 Trong những ngày phục sinh sống lại, Đức Giêsu đã hiện ra với các tông đồ, thổi hơi vào các ông để trao ban Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha, anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Thần khí ngày phục sinh các tông đồ lãnh nhận từ Đức Giêsu, cũng chính là Thánh Thần chúng ta lãnh nhận trong ngày đầu tạo dựng và là Thánh Thần khi ta chịu phép rửa. Thánh Thần là dấu chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa.

 Về trời, Thiên Chúa Cha và Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho nhân loại. Sức mạnh và quyền năng của Thánh Thần từ nay hiện hữu trên hoàn vũ. Thời đại của Thánh Thần đã đến. Thánh Thần sẽ thánh hóa, kiện toàn sứ mạng cứu chuộc của Đức Giêsu trên trần gian.

 Người ta nói nhiều đến chiến tranh và hận thù. Thế giới luôn tìm mọi cách để phá vỡ chiến tranh, kêu gọi hòa bình. Nhưng bao nhiêu thiên niên kỉ qua rồi, nhà nhà vẫn chiến tranh, người người vẫn chiến tranh, nước nước vẫn chiến tranh. Nếu như không có Thần Khí trong mình, nếu như không có Thánh Thần ngự trị, tất cả mọi lời kêu gọi, mọi hoài bão cũng trở nên vô hiệu. Chỉ khi nào, chỉ những ai có Thánh Thần, lúc ấy, người ấy, mới đích thực là khí cụ chứng nhân của Thiên Chúa.

 Lạy Chúa, sự sống của con là của Thần Khí và thuộc về Thần Khí. Thế giới này đang được điều khiển dưới sức mạnh của Thần Khí. Đấng là Tình yêu, là mối dây liên kết, là sự thông hiệp và là hơi thở, sự sống của Ba Ngôi vĩnh cửu. Nguyện xin Chúa Thánh Linh luôn ở trong con, hoạt động nơi con, cho con sự khôn ngoan và tình yêu của Chúa, hầu con có đủ sức mạnh, loan truyền tin vui cứu độ bằng chính đời mình. Có Thánh Thần Chúa bên con, là có tất cả. Cho dù thế lực sự ác đang tràn ngập thế gian, bóng tối tội lỗi có che kín bầu trời, thì con vẫn luôn có sức mạnh bất diệt của Thánh Linh Chúa, kiên cường vượt qua mọi gian nan, thử thách. Vì con luôn có Thần Tình Yêu ở bên mình…

 M. Hoàng Thị Thùy Trang.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

ĐẠO THA THỨ

ĐẠO THA THỨ

Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn                 nguồn: conggiaovietnam.net

  Các nền luân lý của các tôn giáo đều đề cập đến việc yêu người, tương thân tương ái. Phật giáo dạy về đức từ bi. Tiến xa hơn Chúa Giêsu dạy chúng ta tha thứ và yêu thương cả kẻ thù. Đó mới là giáo lý lạ lùng, mới mẻ nhất từ xưa đến nay.

Luật đạo cũ thời cựu ước cho phép ‘ăn miếng trả miếng’, ‘mắt đền mắt, răng đền răng’, ‘mạng đền mạng’. Chúa Giêsu không chấp nhận như thế. Lời Chúa dạy rõ về tấm lòng của Thiên Chúa và tâm địa của con người qua câu chuyện một người đầy tớ mắc nợ chủ. Theo một tác giả tưởng tượng món nợ 100 quan tiền có thể mang trong túi áo hoặc túi quần ; còn 10.000 yến(nén) vàng phải cần đội quân 8600 người mang mỗi người một túi nặng khoảng 27kg, nếu họ đứng sắp hàng mỗi người cách nhau chừng 80cm sẽ thành hàng dài 5 dặm, tương đương 8km ! Một món nợ khổng lồ không thể trả nổi (x. Mt 18, 21-35).

Câu chuyện diễn tả tình yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa là vô bờ bến; sự quảng đại tha thứ của Thiên Chúa là vô hạn định. Như đông đoài cách xa nhau vạn dặm, tội của ta Chúa cũng ném thật xa (Tv 102). Câu chuyện cũng diễn tả sự độc ác, tàn nhẫn của con người với nhau ngang qua hành động được nói tới là : túm lấy, bóp cổ, đánh đập và bỏ tù người bạn. Oâng chủ phải quát mắng là : hỡi tên độc ác kia! Quả vậy, con người không thể chấp nhận tha thứ cho nhau thì họ sẽ diễn tả tới cùng sự độc ác dã man của họ đối với người khác như thế đó. Chẳng thế mà hai triết gia Jean Paul Sartre và Plaute đã nói một câu mỉa mai: “tha nhân là địa ngục”; “người với người như chó sói”.

Ngày 11/9/2001 đã xảy ra trận khủng bố kinh hoàng thế giới tại trung tâm thương mại Mỹ, biết bao người đã chết. Sau đó, ngày tưởng niệm các nạn nhân, ĐTC Gioan Phaolô 2 đã lên tiếng nói tại Mỹ rằng: “thế giới không thể có hoà bình nếu thiếu sự tha thứ”. Còn giới lãnh đạo và hai dân tộc ấy đã sôi sục căm thù muốn trả đũa, đối với họ là không thể tha thứ được. Hôm nay, giữa trăm ngàn thù hận như càng chất cao đã có không ít người kêu gào sự trả thù không khoan nhượng. Lời Chúa dạy phải tha thứ vô hạn định. Giáo hội nhắc lại cho cả thế giới : hãy cứ tha thứ không kể bao nhiêu lần, tha thứ một cách vui lòng. Như Chúa Giêsu đã tha thứ cho Mátthêu, Giakêu, Mađalêna, người phụ nữ ngoại tình, tên trộm cướp trên thánh giá và cả nhân loại chúng ta :”Lạy Cha, xin tha cho chọ vì họ không biết việc họ làm”.

Người ta vẫn đang xúc phạm, chống đối, loại trừ Chúa. Chúa vẫn tha thứ và mời gọi chúng ta hãy sám hối ăn năn. Các thánh đã tiếp tục con đường này. Thánh Têphanô lúc bị ném đá đã xin Chúa đừng chấp tội họ. Oâng Grandhi vị thánh của nước Ấn độ sau bao nỗ lực hoà giải dân tộc đã bị một người đồng bào bắn chết, trước khi chết ông đã giơ tay làm một cử chỉ tha thứ. ĐTC Gioan Phaolô II đã tha thứ cho Ali Agca kẻ ám sát ngài. Thầy Roger sáng lập cộng  đoàn Taizé suốt đời nuôi dưỡng trong trái tim và trong lời cầu nguyện một ước muốn sâu xa đến sự hoà giải và gặp gỡ. Ngày 17/8/2005 lúc đang hát kinh chiều ở nhà thờ hoà giải đã bị một phụ nữ đâm 3 nhát vào cổ. Thầy đã qua đời lúc 90 tuổi. Dường như tất cả những con người sống yêu thương và tha thứ hết mình lại hay gặp khó khăn, bách hại đủ cách đủ kiểu. Đó là thân phận của Đức Giêsu, của giáo hội và của từng người kitô hữu chúng ta.  

Chúng ta thường khó quên tội người khác và khó tha thứ cho nhau. Kể cả trong mối tương quan gần gũi nhất giữa cha mẹ với con cái, vợ chồng, anh chị chị ruột thịt trong nhà. Chúa luôn quên tội chúng ta. ngài không để bụng để dạ như chúng ta. sự tha thứ phản ánh đời sống ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa. Sự tha thứ là vẻ đẹp của những tâm hồn cao thượng, những con người nhân bản, của con cái Thiên Chúa. Bí tích hoà giải nơi toà giải tội thể hiện cụ thể lòng tha thứ của Thiên Chúa và lòng thống hối ăn năn của ta về những lỗi lầm với Chúa và sự hẹp hòi với tha nhân. Chúng ta đừng dại dột bỏ mất cơ hội tha món nợ nhỏ để được Chúa tha món nợ kếch xù. Điều mà chúng ta vẫn xin hằng ngày khi đọc kinh lạy Cha “xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”. Nếu xét kỹ trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu xót thì chẳng có tội nào chúng ta không phạm đến Chúa, nhưng Chúa vẫn tha thứ cho ta 70 lần 7.

Muốn làm con Chúa và môn đệ của Chúa chúng ta không thể làm khác điều Chúa dạy dù khó đến mấy. Chúa không nghe lời và không chấp nhận một tâm hồn đầy thù hận, hờn căm, vì đạo của Ngài là đạo yêu thương, tha thứ.

Tha thứ mãi không phải là hèn nhát, đồng loã với cái xấu, ‘vẽ đường cho hươu chạy’ nhưng là trở nên cao thượng, giống Thiên Chúa. Kẻ tha và người được tha thứ sẽ cảm thấy bình an, phấn khởi ngược lại với sự không tha thứ. Tha thứ cần hơn của lễ, nên Chúa dạy ta “nếu ngươi đi dâng của lễ mà chợt nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với ngươi thì hãy để của lễ đó đi làm hoà với người anh em đã rỗi hãy đến dâng lễ sau”. Nếu tha thứ thì tâm tình tạ ơn sẽ được đón nhận. Đỉnh cao của sự tha thứ nơi Thiên Chúa là cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá.

Con cái Chúa hãy trở thành chứng nhân, sứ giả cho Chúa về sự tha thứ cho nhau ở mọi nơi mọi lúc với mọi người để được Chúa thứ tha.

 Lm. Pet. Bùi Trọng Khẩn

Tác Động Của Chúa Thánh Thần

Tác Động Của Chúa Thánh Thần
(Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống)

                                                          tác giả: Tuyết Mai

“Trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể”.

Anh em thân mến, không ai có thể nói: “Đức Giêsu là Chúa” mà lại không do Thánh Thần.  Vậy có nhiều thứ ân sủng, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều thứ chức vụ, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều thứ công việc, nhưng chỉ có một Thiên Chúa là Đấng làm mọi sự trong mọi người. Sự xuất hiện của Thánh Thần được ban cho từng người, tuỳ theo lợi ích. Cũng như chỉ có một thân thể, nhưng có nhiều chi thể, mà các chi thể tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Vì chưng trong một Thánh Thần, tất cả chúng ta được thanh tẩy để làm nên một thân thể, cho dù là Do-thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do: tất cả chúng ta đã uống trong một Thánh Thần. (1 Cr 12, 3b-7. 12-13).

Tôi thiết tưởng những điều Thánh Phaolô nói trên khi ngài gởi thư đến cho tất cả anh em ở Côrintô, quả thực là quá đủ khi ngài nói về ân sủng của Chúa Thánh Thần. Khi Chúa Giêsu đã hoàn tất công trình Cứu Độ của Ngài trên trần gian, và phải về Trời đoàn tụ cùng Chúa Cha trên Thiên Quốc, Nơi mà Ngài đã hằng có từ muôn thuở muôn đời, Ngài đã vì thương yêu hết thảy nhân loại, nên đã xin cùng với Thiên Chúa Cha, cho Đấng Phù Trợ đến, để ở lại trong từng người một, từng ngày, cho đến tận thế.

 Chúa Thánh Thần được trao phó trách nhiệm mới là hướng dẫn, chỉ bảo, mạc khải, khuyên dụ, khuyến khích, ban thêm sức mạnh, ban thêm cho ơn trí tri, nói tiếng lạ, chữa bệnh, chịu đựng, và tất cả những ơn cần thiết khác, mà một người bình thường với khả năng khiêm nhường Chúa ban, sẽ có thể đạt được tất cả, nếu người ấy một lòng ao ước được sống liên kết và mật thiết với Ba Ngôi Thiên Chúa.

Vâng, tôi chỉ có thể làm chứng nhân cho Thiên Chúa những gì tôi nhận được từ nơi Chúa Thánh Thần, và Ngài tác động trên tôi như thế nào và ra làm sao!? Bởi ơn Chúa ban cho mỗi người mỗi khác, và tôi tin rằng, mỗi người đều có một sứ vụ riêng, trách nhiệm riêng, khả năng riêng, mà Chúa sẽ dùng chúng ta để làm cho Thiên Chúa Cha được nên vinh hiển muôn đời, trên tất cả con cái của Ngài. Vâng, chẳng phải chúng ta đã làm nên được tích sự gì cho Chúa đâu, bởi có phải tất cả chúng ta đều là những con người vô dụng, trước nhan Thánh Chúa? Và có phải Chúa phải cần đến chúng ta thì Ngài mới thấy rằng Ngài là Đấng quyền năng?.   Bởi có phải bao nhiêu lâu Chúa tác tạo nên chúng ta, Chúa vẫn luôn bảo bọc, thương yêu, dậy dỗ, và nuôi cho chúng ta miếng ăn, miếng uống, từ tâm hồn, đến thể xác, và tâm linh của chúng ta hay không?.

Khả năng của chúng ta Chúa ban phát cho, cũng y như những nén bạc mà Chúa đã ban cho từng người chúng ta vậy!.   Tùy theo khả năng riêng cá biệt mà Ngài trao cho chúng ta, người thì 2 nén, người thì 5 nén, người thì 10 nén. Và có phải những ai Chúa trao cho nhiều nén bạc thì Chúa đòi hỏi huê lợi nhiều trên người ấy không?.   Nên sự khôn ngoan nhất là chúng ta hãy chấp nhận và chớ nên so sánh giữa ta với người. Hãy nghĩ rằng hạnh phúc là những gì Chúa ban cho, chứ không phải hạnh phúc là những gì chúng ta mong cho có và phải trông đợi cho có giống như những người khác.   

 Giả dụ thôi nhé! Tôi biết tôi xinh đẹp hơn những người con gái khác thì cái lợi của tôi sẽ sinh hoa lợi gì trên cái đẹp của tôi?.   Cái xinh xắn duyên dáng mà Chúa ban cho tôi, tôi sẽ giúp ích gì cho anh chị em của tôi?.   Tôi sẽ làm được gì để đáp trả tình yêu của Chúa khi biết bao nhiêu bạn gái cùng trang lứa phải bỏ biết bao nhiêu tiền bạc để mới được giống một phần như tôi?.

 Hoặc giả Chúa ban cho tôi có được nhan sắc của một cô gái chỉ trung bình, nhưng được cái hàm răng và nụ cười rất xinh xắn, và rất bắt mắt mọi người chung quanh tôi. Tôi biết chứ, và tôi sẽ làm gì được cho Chúa hay cho tha nhân, những gì mà Chúa ban tặng cho tôi?.   Xinh xắn duyên dáng có phải là sự thuận lợi tốt đẹp nhất của người con gái, nhất là khi cô rao chào hàng, thì bảo đảm quán cơm của cô phải là đông nhất và ai ai cũng phải ghen!??.

 Hoặc có nhiều cô con gái hay than phiền rằng mình là phận gái chẳng những vô duyên mà trời lại còn bắt xấu, thì những cô con gái này, cả đời không làm gì lợi ích cho chính bản thân mình, gia đình, xã hội, hay tổ quốc, mà vùi đầu vào gối, khóc lóc tối ngày, rồi giam mình vào trong bốn bức tường, không làm ăn gì hay sao? Trong khi Thiên Chúa ban cho cô mọi sự khôn ngoan trên đời mà cô có thể đem lại cho cô một mái ấm gia đình và là hoa quả tốt đẹp giúp đồng loại và làm đẹp nòi giống của cô.

Còn những chàng thanh niên trai trẻ thì sao? Có phải tình cảnh gia đình của mỗi người mỗi khác hay không.   Đàn ông con trai đâu có phải ganh đua lẫn nhau ở cái đẹp bề ngoài phải không thưa quý anh chị em?.   Quả đàn ông ở trong thời buổi nào cũng được quý trọng, thưa là vì sao?.   Hầu như ở cái thời nào thì chúng ta cũng thấy cái cảnh âm thịnh mà dương suy cả! Bởi đàn ông thời xưa thì luôn luôn tới tuổi thì bắt đi quân dịch. Số lính ra đi thì nhiều, nhưng số trở về thì chẳng là bao nhiêu.   Rồi thì một số bỏ đi qua nước ngoài sinh sống và đã lấy người ngoại quốc, cho nên số đàn ông trong nước lại càng thiếu kém. Chưa kể một số nam nhi đã đi theo tiếng gọi của Chúa. Một số không chịu lấy vợ vì nhiều lý do. … nhất là trong thời buổi sống cuộc sống rất tự do của ngày nay. Và đặc biệt nhất là ở trung quốc và hàn quốc hiện nay là trai thừa mà gái thiếu, nên cũng cho chúng ta những mẩu chuyện thật là thương tâm, trong vấn đề buôn bán gái một cách lộ liễu trên đất nước VN.   Vì nghèo mà mang tấm thân ngà ngọc làm món hàng cho thiên hạ nước ngoài họ mua với giá thật rẻ mạt.

Sở dĩ tôi đi vòng vo tứ hướng là vì dù sao đi chăng nữa! Chẳng phải chúng ta tự trong người mà sinh ra những bản ngã xấu cả đâu.   Nhưng âu cũng là do hoàn cảnh sống của mỗi người và vì tìm sự sống quá khó khăn trong từng ngày một, đã vô tình biến đổi chúng ta trở nên xấu, và đã trở nên hư hỏng. Lỗi không phải tại ở cái gốc của chúng ta đâu! Bởi Thiên Chúa đều thương yêu chúng ta như nhau, nên Thiên Chúa Cha mới tạo dựng chúng ta nên giống hình ảnh của Ngài. Nhưng thực sự có ai trong chúng ta có thời giờ để chất vấn mình rằng Chúa sinh ra mình trên trần gian này để làm gì không, thưa anh chị em?.

 Anh chị em có bao giờ nghĩ rằng, Chúa tạo ra mình đặt để cho sống cả một cuộc đời khốn khổ không cha không mẹ từ tấm bé, lớn lên thất bại rất là nhiều lần trên con đường đi tìm tình yêu?.   Thất bại liên miên trong vấn đề công ăn việc làm, không bao giờ cảm thấy thỏa mãn trong công việc nào mà mình đã làm cả!.   Có vợ thì vợ chê vợ bỏ. Có con thì chúng hỗn láo xấc xược không vâng lời. Nợ nần thì chồng chất ngổn ngang. Học hành thì không có gì là đáng kể từ thuở bé cho đến giờ, cho nên tìm việc làm quả là khó khăn và khổ sở. Ấy vậy! Ai trong chúng ta có bao giờ để ý rằng, người nghèo ít có thấy ai lại đi kết liễu cuộc đời mình, mà chỉ là những anh chị lắm tiền nhiều của không biết làm gì hữu ích cho cuộc đời của mình hay không?.

Tôi nghiệm thấy rằng, suốt quãng thời gian từ khi tôi còn rất bé cho đến nay, vâng tất cả những gì tôi từng trải qua, đã tạo cho con người của tôi những thất vọng ê chề, những mong ước chỉ là mong ước, những buồn phiền chất chứa như núi cao, những than thân trách phận không giúp tôi được gì!?.   Và cuộc sống từng ngày trải qua thật nhạt nhẽo như nước ốc, nhưng không gì khác hơn là biết nhạt nhẽo nhưng vẫn phải húp cho qua ngày đoạn tháng. … cho đến khi. Vô tình tôi đã được gia nhập vào nhóm Canh Tân Đặc Sủng của hai ông bà bác sĩ mà trước đây tôi đã làm việc cho họ. Chúa Thánh Linh đã xuống trên tôi, và tôi đã khóc một trận như mưa lũ, và hình như đây là dấu hiệu mà bất cứ ai được ơn Chúa Thánh Linh thì phải. Cái khóc thay cho sự tha thứ của Chúa như gội rửa bao nhiêu tội nhơ, bất luận tội lỗi đến đâu. Sau khi đó, tôi vẫn tiếp tục theo hai ông bà đọc kinh mỗi tối thứ sáu và tìm hiểu Phúc Âm của Chúa.

Kế đến, tôi đã phải rất ngạc nhiên vì Chúa Thánh Linh đã đến trong tôi và cho tôi nhiều hứng khởi để làm nhạc, tuy dù tôi đã chẳng biết tí ti gì về âm nhạc. Tôi chẳng biết nốt nhạc là gì, trừ những lời lẽ Chúa Thánh Linh đã giúp tôi, và tôi đã dùng máy cassett để thâu âm điệu lên xuống ra sao mà thôi!.   Những bài hát Ngài ban tặng cho tôi đến hôm nay tôi mới có cơ hội để thực hiện, vì tôi tin rằng điều gì Chúa muốn, thì Chúa sẽ làm, tôi thật tình không ao ước gì hơn là để Danh Chúa được tôn vinh và Ca Ngợi.

 Trước đây tôi cũng rất ao ước phải chăng mình được thực hành ít nhất một cái CD nhỉ? Nhưng nào tôi có tiền, nay mọi thứ tôi đều hiểu rằng việc của Chúa, thì Chúa sẽ có cách và tôi chẳng tốn một đồng xu. Nhạc thì Chúa ban cho con gái của tôi, tuy cháu học ít, nhưng Chúa lại ban cho cháu cái tài riêng, nên bây giờ thì hai mẹ con, tha hồ mang những bản nhạc của Chúa lên “YouTube”. Song song với những bài hát Chúa ban tặng riêng cho tôi là những bài viết tôi đã được các Trang Web lớn đăng dùm cho tôi, quả tình không gì sung sướng cho tôi bằng tôi đã có dịp mà cảm Tạ ơn Thiên Chúa ban thật nhiều trên tôi và gia đình.

Để nhận được nhiều hồng ân và ơn của Chúa, chỉ qua là tôi chịu khó dành nhiều thời giờ cho Chúa tôi, nhất cử nhất động, tôi đều chạy đến Ngài như Người Cha, Người Anh, và Người Bạn. Tôi tâm sự cùng Ngài.  Tôi than thở cùng Ngài và sau cùng tôi dâng lên tất cả mọi khó khăn và thử thách của tôi trong tay quan phòng của Ngài. Thế là tôi có được tất cả!.   Thế là tôi có được hạnh phúc và sự bình an của Ngài!.   Thế là tôi cứ bình chân như vại tuy dù bao nhiêu sóng gió, phong ba, bão táp, có làm con thuyền gia đình của chúng tôi chòng chành, chóng vánh, trồi lên, lượn xuống, có đôi khi tôi cứ ngỡ rằng con thuyền nó sẽ chìm, nhưng không. .. bởi vì sự bám chặt vào Chúa, mà gia đình chúng tôi luôn luôn được Chúa che chở và đỡ nâng. À tiện tôi cũng muốn chia sẻ cùng anh chị em, là tất cả bài viết của tôi, không bài nào mà tự tôi có thể viết được cả! Mà là nhờ ơn Chúa Thánh Linh đã giúp tôi, vì tôi chỉ là cây viết vô dụng của Ngài không hơn không kém.

Lậy Chúa Thánh Thần! Cảm tạ Ngài đã giúp cho chúng con có cơ hội để tán tụng Ngài và vinh danh Ngài, vì không có Ngài chúng con chỉ là những con người vô dụng. Lậy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến. ….. trên tất cả chúng con. Xin cho chúng con luôn được ở trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

 ** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

      http://www.youtube.com/watch?v=RfQ1h3a6FUQ

     (Tình Yêu Chúa Thánh Thần)

     http://www.youtube.com/watch?v=ulCimejZysU

    (Chúa Thánh Thần Tình Yêu Muôn Đời)

 Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

CÙNG LÊN TRỜI VỚI CHÚA

CÙNG LÊN TRỜI VỚI CHÚA                       Lm Nguyễn Nguyên

 Nếu cuộc đời này sinh ra lớn lên rồi chết đi thì cuộc đời chẳng còn ý nghĩa gì. Con người sinh ra để được sống mãi chứ không phải để nhào lộn trong bể khổ và chết là hết kiếp người. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải tìm ra lẽ sống, và cùng đích đời người là gì? Sống để làm gì? Và chết rồi đi đâu? Đó là những vấn đề làm nên nhân cách con người. Chúng ta chọn cách sống nào cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta hiểu ý nghĩa và cùng đích đời người ra sao?

 Hôm nay, chúng ta cùng với giáo hội mừng lễ Chúa lên trời. Điều đó dạy cho chúng ta biết rằng ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Chúa lên trời để cho chúng ta thấy rằng: Định mệnh của loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần linh. Số phận của con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi đi theo quy luật của vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Đó mới là cùng đích của đời người, đó mới là quê hương vĩnh viễn của chúng ta.

 Thế nhưng, muốn tới được trời, muốn lên thiên đàng thì trước hết chúng ta phải đi hết con đường dương thế này bằng cách chu toàn những nhiệm vụ của mình ở đời này. Một trong những nhiệm vụ chính yếu chúng ta vừa nghe trong tin mừng hôm nay: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Đây là một nhiệm vụ cao cả mà Chúa đã trao cho chúng ta khi Ngài về trời. Chúa về trời, Ngài không còn xác thịt trên thế gian này nữa. Ngài không còn đôi tay nữa, chỉ có đôi tay của chúng ta, để làm công việc ngày hôm nay của Ngài. Ngài không còn đôi chân, chỉ có đôi chân của chúng ta để dẫn người ta theo đường lối của Ngài. Ngài không còn tiếng nói, chỉ có tiếng nói của chúng ta để nói với loài người rằng Ngài đã yêu thương, đã chịu chết như thế nào. Ngài không còn cách giúp đỡ nào khác ngoài sự giúp đỡ của chúng ta để đưa tha nhân đến bên cạnh Ngài.

 Vì thế, một cuộc đời loan báo tin mừng cho Chúa trên cõi trần này không nhất thiết phải đổ máu nhưng thiết yếu là phải thể hiện bằng những nghĩa cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm, là biết thực hành những lời Chúa dạy, không gian dối, lừa đảo, không tham lam bất chính, luôn chung thuỷ trong đời sống gia đình. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải có một bản án để người ta thoá mạ, tẩy chay, nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Một cuộc đời loan báo tin mừng không nhất thiết phải đi đây đi đó rao giảng những lời hay ý đẹp mà là sống trong cùng một khu xóm, nhưng quý ông không nhậu nhẹt say sưa, không cờ bạc, không la vợ, đánh con, nhưng biết chăm sóc gia đình chu đáo, đồng thời còn dành thời giờ để đến an ủi, giúp đỡ, chia sẻ với những người già yếu bệnh tật, cô đơn ; còn quý bà thì không ngồi lê đôi mách, nói hành nói xấu, nhưng biết lo lắng tần tảo, yêu thương chồng con, vui vẻ với làng xóm; và các bạn trẻ trong giáo xứ thì sống lành mạnh, biết kính trên nhường dưới, không đua đòi, không ăn nói tục tằn, nhưng chăm chỉ nhiệt thành với công việc chung… Sống được như vậy là chúng ta đang làm chứng cho Chúa một cách tuyệt vời nhất, sống được như vậy là chúng ta đang xây nên con đường dẫn về Trời cho mình, đang làm cho gia đình chúng ta, giáo xứ chúng ta thành nơi Chúa hiện diện và biến đổi thế giới này thành thiên đàng. 

 Nguyện xin Chúa giúp chúng ta sống cho thật tốt, thật tròn đầy những bổn phận hằng ngày để rồi một khi chu toàn bổn phận của mình nơi trần gian, chúng ta cũng sẽ trở về Trời với Chúa mà hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.

  Lm Nguyễn Nguyên                         nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Sự chết, chuyển hóa nhờ Ơn Ban

 

Sự chết, chuyển hóa nhờ Ơn Ban

                                                       Lòng anh em đừng xao xuyến,

                                             Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.

                                                                                          ( Ga 14, 1 )

             Người Việt Nam chúng ta thường nói: “ Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” để chỉ những người thiển cận, chậm hiểu, chậm tin. Nói đến quan tài là nói đến cái chết, điều mà mỗi người đều phải qua. Có sanh, có tử, vậy mà sự chết luôn luôn là một hình ảnh kinh hoàng cho con người, không ai muốn nghĩ tới, đừng nói chi muốn nhìn thấy trong cuộc đời mình.

            Nhưng trước sự chết, Chúa Giêsu đã có thái độ thật rõ ràng: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết:Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được.” ( Lc 12, 4 ). Đối với Ngài, cái chết của thân xác không chấm dứt được Sự Sống lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho loài người, chỉ có Thần Khí mới dẫn con người vào được con đường của Sự Sống vô biên nơi Thiên Chúa. Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng ích lợi gì ( Ga 6, 63 ). Chúa Giêsu đã muốn bày tỏ cho con người biết có một đời sống khác lớn lao hơn đời sống của xác thân: Đời sống tinh thần, đời sống siêu việt của con người bất tử nhờ Ơn Ban của Thiên Chúa. Ngài muốn nói cho nhân loại biết qua cái chết và Phục Sinh của Ngài.

             Ngày chồng tôi còn trên giường bệnh, bác sĩ báo cho biết anh ấy phải qua lần giải phẩu thứ tư khi cơ thể đã hoàn toàn suy nhược, tôi thật sự lo âu vì nghĩ rằng chồng tôi khó qua khỏi lần giải phẩu nữa. Biết những lo lắng của tôi, bạn tôi khuyên: Chị ơi, ngày anh lên bàn mổ, chị đừng phí thì giờ ngồi chờ đợi trong bệnh viện, thay vào đó chị hãy đi chầu Thánh Thể, tham dự Thánh Lễ cầu nguyện cho anh thì hay hơn. Nghe lời khuyên của bạn, tôi đã đến quì hằng giờ thinh lặng trong nhà chầu trước Mình Thánh Chúa, và sau đó tham dự Thánh Lễ trước khi vào bệnh viện với chồng. Tâm hồn tôi xao xuyến gần như bấn loạn trước những biến cố dồn dập xãy đến cho gia đình tôi. Lúc hiệp dâng Thánh Lễ, tự dưng một tiếng nhẹ nhàng cất lên trong thâm tâm: “ Sao không để Cha chiếm hữu tâm hồn con ?” Tiếng nói lập lại lần nữa khi rước lễ giúp tôi bình tỉnh lại, mọi lo âu lắng xuống dần không còn khuấy động tâm hồn tôi. Trong lời nguyện thì thầm với Chúa Giêsu Thánh Thể vừa đón nhận, tôi hoàn toàn phó thác chồng tôi cho Chúa. Tôi xin Chúa đến và ở lại với chúng tôi, chiếm hữu tâm hồn tôi, để từ đây chúng tôi hoàn toàn thuộc về Chúa. Chồng tôi đã qua lần giải phẩu đó thật dễ dàng hơn tôi tưởng, khi bước vào phòng hồi sinh, tôi đã nhìn thấy anh tỉnh táo trên giường bệnh. Và những tháng ngày sau đó, dù trải qua thời gian rất nặng nề của thử thách, chúng tôi đã đi qua cuộc chiến đấu sau cùng với Ơn Chúa vì Ngài vẫn hiện diện với chúng tôi.

           Rồi chồng tôi cũng qua đời, nhưng câu hỏi: “ Sao không để Cha chiếm hữu tâm hồn con ?” vẫn tồn tại, như dấu ấn Chúa đặt vào tâm hồn thành chìa khóa giúp tôi mở toang cánh cửa linh hồn cho Chúa vào ngự trị, duy có Chúa chiếm hữu tâm hồn tôi. Với Chúa trong tâm, tôi trải qua những ngày sóng gió thật bình yên vì biết có Người luôn kề cận. Bình an của Thầy không giống bình an của thế gian, tôi đã hiểu và cảm nếm được bình an ấy. Chính với Bình An của Thầy, tôi nhận ra sự sống đời đời mà cái chết của thể xác không làm mất đi.

             Có lẻ, người ta quá chú trọng đến thân xác nên không nhìn thấy một đời sống lớn lao hơn, vượt ra khỏi biên giới của sự chết xác thân: đời sống tinh thần. Chính tinh thần sẽ hướng dẫn sự sống con người qua bao thời đại. 2000 năm trước, Chúa Giêsu nhận xét cách ăn nếp ở của người thời đó, và Ngài đã nhìn thấy sự diệt vong của loài người khi con người vẫn bước đi trên đường lối thế gian. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: Hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hỏa ngục ( Lc 12, 5 ). Tôi tin có thiên đàng, có hỏa ngục; cũng như niềm xác tín: có Thiên Chúa và có ma quỉ, kẻ đối nghịch cùng Thiên Chúa. Nhưng nếu đóng khung thiên đàng hay hỏa ngục trong những hình ảnh mà chúng ta được nghe từ nhỏ thì thật là những thiếu sót dẫn đến mặc cả : Tôi giữ đạo đúng từng lề luật để chết được lên thiên đàng thì, quả thật, tôi dùng đời sống đạo để chỉ mong mua lấy thiên đàng mà hưởng phước đời đời, chứ không phải tôi sống đạo vì lòng yêu mến Thiên Chúa bằng tình yêu mãnh liệt hơn sự chết như Đức Giêsu.

             Với tình yêu mãnh liệt dành cho Thiên Chúa và con người, 2000 năm trước Chúa Giêsu đã tuyên chiến với tên thủ lãnh thế gian để cứu con người, không phải chỉ đem con người lên thiên đàng, nhưng để khai mở triều đại Thiên Chúa ngay tại trần gian, trong vương quốc của Ngài con người được sống đời đời. Cuộc chiến thật cam go giữa tinh thần và vật chất, giữa tinh thần và tinh thần – giữa tinh thần Đức Kitô và tinh thần thế tục – vẫn đang tiếp diễn để quyết định sự tồn vong của nhân loại.

             Nhìn vào thời đại, chưa bao giờ tinh thần con người bị tấn công mạnh mẽ như thời nay. Tại các nước cộng sản, chủ nghĩa duy vật được thực hiện triệt để để hủy diệt tinh thần con người. Tại các nước tư bản, được mệnh danh là các quốc gia tự do, không khác gì hơn khi tiện nghi vật chất đã trở thành nhu cầu hàng đầu mà con người không muốn thiếu trong đời sống, đang dần dà điều khiển nếp sống con người. Tất cả chỉ làm cho con người trở thành nô lệ cho vật chất, cho thế gian, xa dần Thiên Chúa là nguồn cội Sự Sống toàn vẹn, vô biên.

             Trong thư thứ hai gỡi cho ông Ti-mô-thê, Thánh Phaolô viết thật rõ về những dấu hiệu của thời sau cùng, khi người ta sẽ ra ích kỷ và ham mê bất chính. Họ chạy theo hình thức bên ngoài, nhưng chối bỏ những ích lợi của tinh thần cốt lỏi bên trong. Họ yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa, bị đủ thứ đam mê lôi cuốn, nên học mãi chẳng bao giờ nhận biết Chân Lý. ( x.2Tm 3, 1-9). Đầu óc lệch lạc nên đường đi hoài mà chẳng tìm thấy Chúa đâu vì tâm trí họ không có Chúa chiếm hữu, thay vào đó là những đam mê dục vọng thấp hèn, quyền lực và những quyến rũ của vật chất thế gian.

            Ngày nay người ta xem dâm ô là chuyện bình thường, là trò giải trí, và ngay cả là sinh lý cần thiết cho đời sống con người. Dâm ô, không chỉ tà dâm bất chính mà ngay cả chính dâm vô độ, làm tâm trí con người nên mù quáng không còn nhận được ánh sáng Chân Lý. Ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối thì tồi biết chừng nào! ( Mt 6, 23 ). Dâm ô không phải chỉ là tội phạm đến thân xác mà, trước tiên, dâm ô làm tổn hại tinh thần nặng nề nhứt. Con người ham mê dâm ô nhục dục không còn nhìn thấy Thiên Chúa vẫn đang hiện diện, nên tội dâm ô là tội làm con người xa Chúa, mất Ơn Chúa nhanh chóng. Thần Khí Thiên Chúa không thể chiếm hữu những tâm hồn ô nhơ vì nó đã thành nô lệ cho thần ô uế, cũng như những tâm hồn chứa đầy tham vọng vật chất thì làm nô lệ cho tên thủ lãnh thế gian, lạc xa đường lối Chúa. Phúc thay ai có lòng trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa ( Mt 5, 8 ), được Thần Khí Thiên Chúa chiếm hữu, ngự trị.

             Người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi sự ( 1 Cr 2, 15 ), họ được ánh sáng Chân Lý dẫn đường, bước đi trong đường lối Thiên Chúa. Ngày nay, người ta lầm lẫn giữa thông minh của con người và khôn ngoan nơi Thiên Chúa. Họ tưởng là với thông minh hiện có, con người không cần Thiên Chúa nữa, mà gạt bỏ Chúa ra khỏi đời sống của họ. Họ không nhìn thấy một quan tài vĩ đại đang chôn vùi con người bằng chính những thành quả phát minh của họ, không có ơn Khôn Ngoan Thiên Chúa làm nền tảng dẫn đưa. Những cuộc khủng hoảng, bạo động mọi nơi và chiến tranh đem kinh hoàng tới cho con người, chỉ vì người ta tự hào về sự thông minh của mình, tìm kiếm quyền lực và giàu sang từ bấy lâu nay.

             Thông minh của thế gian tiêu diệt con người, nhưng khôn ngoan từ Thiên Chúa luôn luôn cứu con người cho được sống và sống dồi dào. Sự sống đời đời của con người nằm trong sự sống trường tồn của nhân loại phát triển nhờ Ơn Ban của Tình Thương Thiên Chúa. Thánh Giá Chúa Kitô là dấu hiệu của sự khôn ngoan Thiên Chúa, phục sinh tinh thần con người, cho nhân loại được sống lại trong đời sống mới phong phú trong tình thương của Thiên Chúa. Sự Phục Sinh của Chúa Kitô minh xác cho tôi về sự sống đời đời trong Ơn Ban của Chúa Cha. Sự chết thể xác chỉ là một chuyển hóa từ đời sống nầy, con người được trở về nguồn cội Sự Sống của mình là Thiên Chúa, mà Chúa Giêsu dạy chúng ta gọi Ngài là Cha, để tiếp tục được sống trong một chương trình mới mà Thiên Chúa sẽ đặt để cho từng người theo lòng tín thác của họ vào Ngài. Lòng tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa là Đức Tin cứu sống con người. Đức tin nông cạn làm cho đời sống tinh thần mau tàn héo; Đức Tin hời hợt sẽ dẫn con người đến mê tín; và Đức Tin ấu trĩ thì giết chết con người. 

             Đức Tin không bao giờ phản khoa học, trái lại Đức Tin làm cho những lợi ích của khoa học thêm phong phú vì những thành quả đạt được của khoa học dựa trên nền tảng  Đức Tin. Lòng tin tưởng mãnh liệt vào Tình Thương của Thiên Chúa dành cho con người, và của con người dành cho nhau trong đường lối công chính của Thiên Chúa, sẽ giúp cho những phát minh khoa học, nhân văn hay thực nghiệm, hỗ trợ và phục vụ con người mạnh mẽ hơn, hữu hiệu hơn. Nếu những người truyền bá Đức Tin nhìn thấy được Sự Sống lớn lao của nhân loại trường tồn trong Tình Thương và Ân Sủng Thiên Chúa, thì những điều gấp trăm của đời nầy trở nên vô nghĩa trước một tương lai nhân loại huy hoàng của con người chuyển hóa nhờ Tình Thương và Ơn Ban từ Thiên Chúa. Ngày nay, thỉnh thoảng người ta loan tin các khoa học gia tìm thấy thêm một hành tinh mới trong vũ trụ. Câu hỏi đầu tiên, người ta thường đặt ra: “ Có sự sống trên hành tinh đó không ? Có con người sinh sống trên đó không? ”. Tới ngày hôm nay, câu trả lời là : Không có, hay không thấy. Nếu đặt lại câu hỏi: “ Bao giờ con người của địa cầu nầy sẽ mang sự sống của chúng ta lên các hành tinh đó ?”, câu trả lời sẽ là : Sẽ có, vì trong Thiên Chúa, Đấng làm cho hư vô thành hiện hữu, điều gì cũng có thể, nếu con người không tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt chính mình, khi  biết nhìn ra đường lối Yêu Thương vô biên của Thiên Chúa là Cha và tín thác vào Ơn Ban chuyển hóa lớn lao của Ngài.

             Trong Thánh Lễ an táng của chồng tôi, khi cô con gái vừa đọc bài đọc đến đoạn Kinh Thánh : “ Ta là Alpha và Omega…”, ngay lúc ấy tự nhiên bên ngoài nắng sáng lên, chiếu tỏa khắp gian cung thánh và phía trên nhà thờ một làn ánh sáng rực rỡ từ những cửa sổ kính màu, cho tôi như nhìn thấy ánh sáng vĩnh cửu diệu huyền tỏa lan và tôi mỉm cười. Đứa em kế bên phải nhắc: Chị ơi, chị đừng cười trong tang lễ của anh ! Sau nầy, tôi nghe có người phàn nàn, sao không thấy tôi khóc nhiều trong tang lễ của chồng tôi (?!). Tại sao tôi phải khóc nhỉ ? Tại sao tôi không được mỉm cười, khi Chúa đã cho tôi nhìn thấy hình ảnh quá đẹp của Tình Thương Thiên Chúa dành cho chúng tôi trong những tháng ngày cuối cùng của chồng tôi. Và giờ đây, ngay trong Thánh Lễ an táng, tôi đã nhìn được ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên quan tài của anh như ánh sáng dẫn đưa linh hồn chồng tôi về cùng Cha, Đấng đã cho anh được sống qua một đời. Chồng tôi trở về trong tay nhân lành của Thiên Chúa, để trong Tình Thương của Ngài, anh sẽ bước vào một đời sống mới, một chương trình mới Cha sẽ dành cho anh trong Ơn Ban chuyển hóa theo ý Ngài.

 Nam Hoa                    ngưồn: Từ Maria Thanh Mai gởi

“Sân Chư dân” có thể được tổ chức tại Jerusalem

 “Sân Chư dân” có thể được tổ chức tại Jerusalem

WHĐ (10.05.2012) / LPJ – Theo tin từ trang web vaticaninsider.it của Italia, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa, Đức hồng y Ravasi nói rằng ngài muốn tổ chức “Sân Chư dân” tại Jerusalem.

Trong một cuộc phỏng vấn đăng trên trang vaticaninsider.it, Đức hồng y Ravasi cho biết ngài muốn tổ chức “Sân Chư dân” tại Jerusalem, vì nơi đây hẳn là “một khởi điểm lý tưởng” cho cuộc đối thoại giữa người tin và người không tin. Đức hồng y nói: “Tôi rất vui mừng tổ chức một cuộc gặp gỡ ở Jerusalem với các nhà trí thức và các nghệ sĩ Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo, vì người Do Thái và người Công giáo cùng chia sẻ nhiều giá trị chung”. Và cả hai tôn giáo này đang phải đối mặt với mối lo về “sự bành trướng của chủ nghĩa thế tục hóa của xã hội”. Thực tế là, như Đức hồng y nhận định, “ngày nay, đối với nhiều người, biết Thiên Chúa hiện hữu hay không cũng chẳng quan trọng”. Đó cũng là khẳng định của cha Pizzabella, Quản thủ Thánh Địa khi được hỏi về điều này. Ngài nói ở Thánh Địa “có ít người vô thần hơn những người không tin”. Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị cho sự kiện này để không rơi vào nguy cơ chỉ là một “cuộc họp mang tính hàn lâm”, cha Pizzabella quả quyết một “Sân Chư dân” tại Jerusalem “có thể là một thúc đẩy rất quan trọng cho việc suy tư và gặp gỡ với những người tin”.

Được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI khởi xướng, “Sân Chư dân” là một cơ cấu của Giáo Hội Công giáo nhằm đối thoại với người không tin. Tên gọi này có liên quan trực tiếp đến Sân Chư dân ở Đền thờ Jerusalem, là một khu vực bên ngoài của Đền thờ cũ dành cho dân ngoại. Dưới sự bảo trợ của Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa do Đức hồng y Ravasi làm Chủ tịch, Giáo Hội muốn qua đó củng cố ý muốn giao tiếp với những người coi tôn giáo là điều xa lạ và với những ai có thể muốn tiếp cận một Đấng mà họ không biết. Được chính thức tổ chức vào tháng Ba 2011, “Sân Chư dân” lần đầu tiên đã diễn ra tại Paris. Ngay sau đó là tại Bucarest, Firenze, Barcelona và Tirana… và lần gần đây nhất tại Palermo, Sicilia. Mỗi lần hoạt động đều quy tụ các danh nhân văn hóa và tôn giáo, người tin và người không tin, nhằm đề cập đến các vấn đề cụ thể của mỗi quốc gia. Đây là một cách truyền thông tốt đẹp của Mẹ-Giáo Hội trước khi diễn ra Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm hóa vào cuối năm nay.

(Amelie La Hougue, lpj.org)

 Nguồn:  WHĐ          Từ Maria Thanh Mai gởi

Ta Không Kết Án Con

   Ta Không Kết Án Con

       Tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg trong miền Baviere, Tây Ðức, có một tượng thánh giá rất nổi tiếng được tạm trổ vào khoảng thế kỷ 14. Trên những tượng thánh giá, thông thường đôi tay Chúa Giêsu giang ra và bị đóng vào gỗ giá. Riêng đôi tay của Chúa Giêsu trên tượng thánh giá tại nhà thờ chánh tòa Wurzburg thì khác hẳn: thay vào bị giang ra và bị đóng vào gỗ giá, hai cánh tay của Chúa lại khoanh trước trái tim như thể đang ôm vào lòng một người nào đó.

     Người dân địa phương truyền tụng rằng trong cuộc chiến tranh tôn giáo giữa tin lành và công giáo vào giữa thế kỷ 17, một người lính chống công giáo đã vào nhà thờ này. Nhìn thấy trên đầu Thiên Chúa có một triều thiên bằng vàng, anh sinh lòng tham, bắc thang leo lên để đánh cắp. Khi anh vừa đưa tay tháo gỡ triều thiên thì đôi cánh tay của Chúa Giêsu bỗng được tháo gỡ. Chúa Giêsu giang tay ôm trọn lấy anh vào lòng, với tất cả trìu mến. Người lính chết lịm trong vòng tay âu yếm của Chúa Giêsu.

     Người ta tìm thấy xác của anh dưới chân thánh giá!

     Kể từ ngày đó, hai cánh tay của Chúa Giêsu không còn giang ra và bị đóng vào lỗ đinh nữa, nhưng được khoanh trước trái tim trong tư thế đang ôm chầm lấy một người nào đó.

     Du khách nhìn lên thập giá đều có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe có tiếng thì thầm: “Ta không hề kết án con”.

     “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài”, đó là chân lý cơ bản nhất trong Kitô giáo. Tất cả cuộc đời của Chúa Giêsu, cái chết của Ngài trên thập giá: đó là ngôn ngữ qua đó muốn nói với chúng ta rằng Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Người Con Một của Ngài chết thay cho chúng ta.

     Thiên Chúa yêu thương con người: điều đó không có nghĩa là Ngài yêu thương con người một cách trừu tượng, yêu thương con người như một đám đông hay như một con số. Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu cá biệt, nghĩa là mỗi người chúng ta đối với Ngài như thể là người duy nhất hiện hữu trên trần gian này. Mỗi người là một lịch sử, mỗi người chiếm trọn tình yêu của Chúa.

     Thiên Chúa yêu thương tôi, nghĩa là Ngài chỉ muốn điều thiện cho tôi. Ðiều thiện ấy có thể vượt khỏi suy tính, đo lường của tôi. Do đó, cho dẫu có gặp trăm nghìn đớn đau, vất vả, chúng ta cũng hãy tin rằng Thiên Chúa đang yêu thương chúng ta. Ngài yêu thương tôi đến độ làm mọi cách để cho mọi sự đều quy về điều thiện hảo cho tôi. Một cơn bệnh, một sự thất bại, một cái chết, một sự mất mát và ngay cả tội lỗi: tất cả đều là những cơ may để Ngài ban cho tôi một ơn phúc cao cả hơn.

 nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Vài chuyện đáng suy gẫm?

                        Vài chuyện đáng suy gẫm?

                 (Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.) 

                                                                                                                             (1 Ga 4,8)

                                                                                                 tác giả: Phùng văn Phụng

  Câu chuyện 1:

 Tuần rồi tôi có nhận được E.mail của người bạn nội dung như sau:

Tin khẩn: Cha qua đời con ở đâu?

Hải quân Trung tá Nguyễn thiện Nhựt (Noel) khóa 3 sĩ quan hải quân (Đệ Nhị Bắc Giải) từ trần tại bịnh viện Corner Stone (Houston) hơn hai tuần lễ nhưng không có thân nhân đến nhận xác. Được biết Niên Trưởng Nguyễn thiện Nhật có hai người con ở Cali nhưng không ai biết địa chỉ..

Xin Quý vị, Quý Niên trưởng và Chiến Hữu vui lòng giúp đỡ tìm kiếm…

 Trước năm 1975 Trung tá Nhựt đã phục vụ trong binh chủng hải quân của quân lực Việt nam cộng hòa. Tôi không biết Trung tá Nhựt có đi “cải tạo” không hay là ông đã di tản qua Mỹ trong những ngày cuối tháng tư năm 1975.Tại sao có những người cao niên sống ở nước Mỹ gặp nhiều chuyện buồn đến như vậy?. Con cái không thường xuyên thăm hỏi cha mình, cha bịnh, cha mất mà không hay biết.? Đạo làm người bình thường thăm hỏi cha mẹ khi ốm đau cũng không có. Nếu là người công giáo, chắc là người con đã quên điều răn thứ tư trong 10 điều răn của đạo Chúa là “Thảo kính cha mẹ” cũng như quên lời thánh Phao lô đã dạy: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ … để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này”. (Ep 6:1-3)

 Câu chuyện 2:

 Tự tử tập thể ngay tại truờng.

 *Ba em nữ sinh Nguyễn thị Mỹ Hạnh, Lê thị Bích Loan, Nguyễn thị Cẩm Nhung học cùng lớp 7A trường trung học cơ sở (THCS) Phan Chu Trinh, xã Đắk Sắk, huyện Đắc Mil, tỉnh Đắc Nông. Cả ba là bạn thân nhau cùng học khá, giỏi. Ba em này rủ nhau tự tử vào sáng ngày 17 tháng 3 năm 2012 vừa qua ngay tại trường.

 *Trong năm nay, cuối tháng 2 vừa qua, một nữ sinh lớp 12 Trường Trung học phổ thông Lê Hồng Phong (Nam Định) bất ngờ thắt cổ tự tử tại khu ký túc xá của trường. Cũng cùng thời gian ấy một học sinh có học lực khá của trường THPT bán công Đông Hưng (nay là trung học phổ thông Đông Quan, Thái Bình) đã nhảy từ lầu 2 xuống sân trường tự tử chỉ vì lý do rất bình thường là bị cô giáo môn toán mắng.

 *Ngày 9-2 em H. học sinh lớp 9 trường THCS xã Cẩm Đền huyện Cẩm Giang 2 Hải Dương chỉ vì lén lấy trộm chiếc quần jean của cửa hàng bán quần áo. Khi bị bắt quả tang, cửa hàng gọi gia đình đòi  300,000 đồng. Thế là em H. nhảy sông tự tử.

 *Khoa cấp cứu bịnh viện Nhi đồng 2 ở Sài gòn ngày 29 tháng 2 đã cứu sống một nữ sinh lớp 8 trong tình trạng nguy kịch vì uống  hai vĩ thuốc panadol 500mg (20 viên) để tự tử. Lý do em buồn vì  cô giáo đối xử với em không công bằng, gia đình không cho em xài điện thoai di động.

 *Em L.T.D. học sinh lớp 11 trường Dân tộc nội trú, huyện Điện Biên Đông, ăn lá ngón chết chỉ vì hờn mát trước câu nói của bố “Con dùng điện thoại phải giữ cẩn thận nếu làm hỏng bố không có tiền sửa cho con đâu!”… (Trong bài Hội chứng chán sống và hội chúng khỏa thân của Văn Quang, Thời báo số 281 ngày 30-03-2012)

 *Theo nhà báo Bùi Tín trong bài “Người khổng lồ bệnh hoạn đăng trong đài VOA ngày 02-4-2012,  thì mỗi năm Trung Quốc có 287.000 người tự tử (thống kê năm 2000). Mỗi ngày Trung Quốc có 3.500 vụ phá thai.

 Hiện tượng tự tử của các em, các cháu còn nhỏ tuổi đã làm cho ông bà, cha mẹ phải suy nghĩ, do tình trạng tâm lý ích kỷ, chỉ nghĩ đến cá nhân, chỉ nghĩ về mình, do gia đình và xã hội đã dạy dỗ như thế nào đối với các em?. Chắc chắn là các em thiếu một đời sống tinh thần, thiếu một đời sống tâm linh, thiếu mục đích sống, không biết sống để làm gì? Các em không được dạy cần biết sống yêu thương, bác ái, sống vì người khác mà người gần gủi nhất là cha mẹ và bà con chòm xóm vv.. Nếu các em được dạy dỗ biết sống bác ái, biết sống cho tha nhân, có lẽ các em chắc đã không có hành động nông nổi như vậy.

Còn con số tự tử đáng báo động ở Trung Quốc đủ cho chúng ta thấy khủng hoảng niềm tin nơi con người thời nay. Thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng, vào đời sau vĩnh cửu con người mất phương hướng, không biết sống để làm gì, do đó tình trạng bơ vơ, chán sống thúc đẩy con người tự tử chăng?

 Truyện thánh Gióp trong Cựu Ước

 Truyện thánh Gióp kể rằng ông là người kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều ác. Ông có 7 người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn gia súc gồm 7 ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò….

Vậy mà một ngày kia … trong lúc bò của ông cày ruộng, lừa cái ăn cỏ bên cạnh. Dân Sơva đã xông vào cướp lấy chúng, dùng gươm giết chết hết các đầy tớ…

Người Can đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà chúng dùng gươm cũng giết hết các đầy tớ của ông. 

Rồi có một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà, nhà sập xuống đè trên đám trẻ, các con của ông, họ đang ăn uống chết hết…

Bấy giờ ông Gióp trỗi dậy xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:

“ Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. ĐỨC CHÚA đã ban cho,

ĐỨC CHÚA lại lấy đi: Xin chúc tụng danh ĐỨC CHÚA!” . Satan hành hạ ông Gióp khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho đến đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro lấy mảnh sành mà gãi. Khi bà vợ ông trách móc ông và nói với ông : “Ông hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi.:” Nhưng ông Gióp đáp lại: …”Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?” Ông Gióp không buông một lời nào trách móc phạm đến Thiên Chúa.

Nếu tin vào Thiên Chúa như thánh Gióp thì con người sẽ có thể chịu đựng được những khó khăn vui vẻ chấp nhận những thử thách trong đời sống hàng ngày.

 Câu chuyện 3:

 Chưa đầy 16 tuổi đã quay phim sex với người tình.

 Cô giáo của trường THPT Ngô Gia Tự (Vĩnh Phúc) nghi ngờ khi thấy các học sinh lớp 10 của trường chuyền tay nhau chiếc điện thoại trong giờ học, cô giáo đã thu giữ chiếc điện thoại này.

Kiểm soát chiếc điện thoại trong giờ học cô giáo mới tá hoả khi nhìn thấy trong điện thoại cảnh “nóng” dài 30 phút của một nữ sinh chưa đủ 16 tuổi với bạn trai. Nhân vật nữ trong clip là em N.T.A. (sinh năm 1996) học sinh lớp 10 của trường Ngô Gia Tự này.

Người tình, nhân vật nam trong clip sex này là P.V.C. sinh năm 1991 ở tại xã Xuân Lộc, huyện Lâp Thạch.

.. Điều đáng nói clip quay cảnh nóng trên đã nhanh chóng được chia sẻ qua con đường điện thoại với tốc độ kinh hoàng. Rất nhiều học sinh của trường đã lưu lại trong điện thoại để chụm đầu xem, bàn tán…thú vị!!!

Một chuyện khác khó tin và khôi hài hơn là em Chu Thị D…học lớp 12, trường THPT Diễn Châu 2 (Nghệ An) đang ngồi học trong lớp bất ngờ kêu đau bụng và được mọi người đưa đi bịnh viện: 15 phút sau nữ sinh dưới sự giúp đỡ của các bác sĩ  đã sinh hạ một bé gái. Sự việc xảy ra sáng ngày 11 tháng 3 vừa qua.(trong bài báo Hội chứng chán sống…đã dẫn)

 Trách nhiệm cho những việc làm đáng tiếc trên thuộc về ai? Gia đình (ông bà cha mẹ) hay xã hội (bà con chòm xóm, thầy cô giáo dạy học các em) hay nhà cầm quyền (có quan tâm lo lắng, làm gương mẫu trong đời sống hằng ngày) để các em bắt chước noi theo.

  Các em không biết Thiên Chúa là ai, không còn biết kính sợ Thiên Chúa nữa thì điều gì các em cũng có thể làm được cả. Còn cha mẹ chỉ lo làm ăn kiếm tiền, không quan tâm đến đời sống tâm linh cho chính mình và cho con cái vì “không ai vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được”. Khi cha mẹ chỉ biết lo kiếm tiền, bỏ bê con cái, không lo dạy dỗ chúng sống có lý tưởng, biết yêu thương cha mẹ, anh chị em, biết yêu mến tha nhân, người đồng loại thì những vấn nạn trên càng xảy ra nhiều hơn nữa..

 Tôn giáo, tình yêu thương lẫn nhau… đã vắng bóng trong các gia đình này chăng?

 Những vấn nạn này làm cho những ai quan tâm đến giáo dục giới trẻ, đạo đức xã hội, tương lai dân tộc đáng suy gẫm?

 Phùng văn Phụng