Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (12)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:24 Sáng 14/12/12

VRNs (14.12.2012) – Sàigòn – Cần Giờ 23/6/1990

Anh Lan mến,

Hôm qua, Công an Tp xuống “làm việc” sáng, chiều, và còn sáng nay. Tóm lại ba buổi
làm việc:

– Sự đóng góp của anh Lan vào ba bài giảng?

– Cho tin về Giáo Hoàng cuối bài 3?

– Soát tài liệu CT trong văn phòng, không có bài giảng, lại thấy trong nhật ký
anh Lan, như thế anh Lan đã góp ý và tài liệu cho bài giảng?

– Đôi khi có nhờ anh ấy tìm cho một tài liệu gì đó, tôi nhớ mà không tìm ra ở
đâu. Đó là bình thường.

– Có tham khảo anh Lan?

-Có đưa cho anh ấy xem. Anh không góp ý vì tôn trọng tôi. Có cho tin tức ngày
Giáo Hoàng ban phép lành cho Roma.

-Về vụ này, anh nói “tia hy vọng” đây là gì?

-Hy vọng giữa Giáo hội và VN có đối thoại trực tiếp không qua trung gian.

-Ai đánh mấy?

-Tôi nhờ cô Diệu, vì là nhân viên của tôi.

-Nhân viên từ hồi nào?

-Đầu tháng 5.

-Cô ấy bảo đã đánh cho anh đã lâu.

-Hồi đó tôi nhờ đôi khi, còn đầu tháng 5, tôi nhận làm nhân viên, nên cô ấy đánh
những gì tôi giao.

-Liên lạc của anh với cô Diệu.

-Câu hỏi kỳ cục. Tôi nhờ đánh máy và liên lạc nhân viên, chớ còn có liên lạc gì
nữa mà hỏi kỳ cục vậy.


Anh biết mẹ cô ta?



Trước cô ta hay sau? Gặp ở đâu?


Sau. Gặp dịp liên hoan tết.


Đánh máy bao nhiêu bản?


Không nhớ.


Đánh để làm gì?


Cho người ta đọc chứ để làm gì?


Cho ai?


Ai cần biết nội dung đích xác.


Ai?


Không nhớ.


Có gửi cho anh Tri bên Pháp?


Không có gửi.


Sao lại có thư cho anh và khen anh? (thư nằm trong hộc).


Thì có ai đó gửi và anh ấy viết về.


Anh quen anh Tri hồi nào?


Năm ngoái.


Bạn của anh Lan?


Vâng.


Thư ấy gửi cho anh Lan hay cho anh?


Tôi không nhớ. Thường gửi cho anh Lan vì hai người ấy bạn thân từ bên Pháp.


Nội dung có hại cho đất nước.


Tôi làm theo lương tâm và vẫn xác tín là tôi làm cho nhân dân và Đất nước. Nếu
Nhà nước cho đó là xấu, thì Nhà nước cứ ra biện pháp, như biện pháp hiện tại.
Vì thế, tôi chấp nhận biện pháp đi đày và chỉ định cư trú. Nhưng không chấp
nhận lý do Nhà nước đưa ra.


Ba bài giảng đó, có ý đồ gì? Sao chỉ nói tiêu cực?


Tôi muốn giúp người dân ý thức tình trạng bi thảm của Đất nước hôm nay để người
dân cùng tôi góp phần vào việc thúc đẩy Nhà nước đổi mới.


Nếu có phần tích cực thêm thì được hoan nghênh.


Tôi không làm việc tổng kết để có cái hay cái dở. Tôi làm công việc bắt mạch
con bệnh để tìm cách chữa trị.


Anh có gửi đi ngoại quốc.


Tôi không gửi đi ngoại quốc.


Sao ông Dominic có thú nhận ở hải quan là anh đưa ba bài giảng khi anh và anh
Lan đến gặp ông ấy ở Phú Nhuận?


Tôi trao cho ông ấy xem ở đây chứ không gửi đi ngoại quốc. Đưa đi là việc của
ông ấy.


Đưa ông ấy để làm gì?


Ông xin tôi cho ông ấy để nghiên cứu.


Sao không nghiên cứu ở Tòa giám mục?


Chắc có. Nghiên cứu thì nghe nhiều tiếng chuông.


Anh biết ông ấy như thế nào?


Tôi biết ông ấy là linh mục dòng Tên đã từng dạy học ở Đà Lạt. Nhưng không quen
ông ấy.


Không quen sao gặp được ông ấy?


Sau mấy bài giảng của tôi, ông có viết vài chữ mời tôi đến.


Gặp mấy lần?


Một lần.


Có đưa cho người ngoại quốc nào nữa không?


Không.


Có gặp ai nữa không?


Có gặp một nhà báo Ý, tờ báo Il Regno.


Có đưa bài giảng?


Không.


Nói gì?


Ông ấy có đọc thư của tôi gửi Hồng y Etchegaray, nên ông muốn hỏi thêm cho rõ.


Tài liệu ngoại quốc do đâu?


Tôi đọc báo ngoại quốc, chỗ này chỗ nọ.


Ông Đỉnh và ông Tri có gửi báo?


Thỉnh thoảng có bài gì liên quan đến Giáo hội VN, các anh ấy có gửi photocopy.


Tri gửi cho anh hay anh Lan?


Nói chung là gửi cho anh Lan vì anh ấy là bạn của anh Lan.


Anh ấy có đưa cho anh xem?


Dĩ nhiên.


Còn anh Đỉnh gửi gì cho anh?


Có gửi thư anh ấy gửi cho CCFD (có trong văn phòng).


Liên hệ với anh Đỉnh như thế nào?


Đỉnh là học trò của tôi. Tôi thấy báo công an bảo Đỉnh là chủ nhiệm Nguyệt san
Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở California là sai bét.


Ai gửi cho anh báo ĐMHCG mà người ta khám phá ra trong văn phòng anh?


Tôi không có liên lạc với báo đó. Nếu có một photocopy bài nào đó, thì do giáo
hữu nhận được từ bên kia rồi cho tôi một bản.


Ai cho?


Làm sao nhớ được. Vả lại nhiều lần họ gửi cho tôi trong lúc không có nhà.


Sau ba bài giảng, ông Trị có nhắn nhủ gì anh?


Ông cho biết Nhà nước không vui và yêu cầu tôi stop


Anh có làm theo?


Không, vì hôm Chúa nhật sau đó tôi còn nói một bài ở nhà thờ để giải đáp thắc
mắc: linh mục có được nói về chính trị không?


Nội dung?


Tôi nói: Giáo hội không làm chính trị, không nói chính trị vì chính trị, vì
đảng phái, nhưng có quyền và bổn phận phê phán chính trị khi chính trị không
phục vụ nhân dân.


Có gặp Dương Thu Hương?


Có.


Mấy lần?


Một lần.


Ở đâu?


Cô ấy đến thăm anh Lan và tôi được mời ăn cơm chung.


Có bàn gì?


Chắc cô nghe người ta bàn tán về bài giảng của tôi, nên có lẽ cô ta muốn biết
mặt tôi. Chứ chả bàn gì. Nói chuyện vui hoặc thời sự.


Có quen Lữ Phương?


Có.


Có gặp? Ở đâu? Quen như thế nào?


Có gặp ở văn phòng tôi. Trước kia anh đấu tranh ở Sài Gòn rồi vào bưng, nên
biết anh ấy hồi đó.


Có quen anh Đoàn Thanh Liêm? Có đến nhà? Có đi ăn đám cưới?


Có quen, vì làm việc với nhau trong công việc quận 3 nhờ làm kiều hối. Nhà,
chưa đến bao giờ. Có mời dự đám cưới, nhưng không đi vì bận.


Biết Cao Lập?


Cao Lập là sinh viên tranh đấu, ở tù, tôi đi nuôi với má anh. Nên anh biết ơn
tôi.


Có đến anh không? Gặp ở đâu?


Anh ấy không đến tôi. Tôi có đến nhà anh xem video.


Dịp phục sinh, anh, anh Lan và Cao Lập làm gì ở nhà anh Lan?


Gặp gỡ thường, ăn cơm chung.


Anh Lan có đọc cái gì về hiện tình đất nước?


Tôi không nhớ.


Anh làm gì trong câu lạc bộ kháng chiến cũ?


Tôi được mời đến tham dự.


Họ có giao công tác gì cho anh?


Anh Tạ Bá Tòng có nhờ tôi mời anh em Công giáo tranh đấu trước 75 gặp gỡ. Chỉ
có một lần rồi thôi, vì hình như Thành Ủy không tán thành.


Tài liệu kháng chiến cũ đâu mà anh có? Ai trao cho anh?


Tôi mua ở Câu lạc bộ.


Anh nghĩ thế nào?


Họ là những người 3, 4 chục tuổi đảng. Họ ao ước đất nước đổi mới.


Có gặp thường anh Tòng?


Không.


Anh tập họp cựu tu sĩ dịp Phục sinh?


Họ mỗi năm tổ chức tĩnh tâm và họ muốn ai thì mời giảng. Năm nay họ mời cha
Đào, nhưng ông ấy bận nên có nhờ tôi giảng.


Tĩnh tâm bao lâu, bao nhiêu người dự, anh giảng bao lâu?


Tĩnh tâm một ngày. Có khoảng 3, 4 chục người. Giảng nửa tiếng.


Nội dung?


Giảng về sám hối cá nhân.


Ai viết thư cho ông Bình và Hội đồng Giám mục?


Anh em bàn bạc trao đổi, rồi nhờ anh Hiên viết cho hàng giám mục, anh Thái viết
cho Đức cha Bình.


Anh có mặt.


Dĩ nhiên.


Các anh họp, anh Tri đến vì được mời?


Tình cờ anh đến từ giã đi Pháp.


Ai trao 2 lá thư cho anh Tri?


Anh em đang ký chưa xong, anh xin một bản. Chả ai trao.


Anh quen anh Điệp như thế nào?


Anh Điệp là học trò của tôi. Sau này, anh Điệp phụ trách dưới này, tôi cũng có
giúp vận động giáo dân đóng góp xây dựng hợp tác xã chế biến hải sản Cần Thạnh.


Anh có đầu tư?


Không. Do tiền mục sư Vinay, tôi có giúp gần một nửa số tiền 11 ngàn đô tôi
nhận được, phần khác giúp cho một trường học trên quận 3.


Anh có nhận viện trợ để giúp học trò nghèo.


Cho đến bây giờ, không. Tôi có nhờ giáo dân trong xóm tôi phụ trách làm một quỹ
nhỏ để giúp người nghèo.


Vụ cháy nhà anh xin viện trợ

-Tôi có gợi ý cho anh Trị và anh ấy đứng xin và họ đã cho như thấy đăng trên
báo.

-Anh quen anh Dong hồi nào?

-Không nhớ. Anh em linh mục quen nhau là sự thường.

-Anh Dong mời anh làm lễ?

-Không, tôi lên chơi thấy đôi khi ông bận hay đau như hồi bị tai nạn xe hơi, tôi
gợi ý giúp. Và anh ấy chấp thuận.

-Có gặp trước khi về Duyên Hải?

-Có, tối trước đó, có hai linh mục ở xa về lãnh tiền Thanh Hương tổ chức buổi
cơm thân mật tại nhà anh Dong.

-Còn mấy ông Ý, Diễm, Định?

-Cũng thỉnh thoảng gặp gỡ, bồi dưỡng, giải trí.

-Tại nhà anh Dong anh có trao đổi cho ông Diễm một tài liệu về sinh viên cựu
kháng chiến?

-Tôi không nhớ.

-Tôi đã theo dõi hoạt động của anh trước 75 và thán phục, nhưng tôi thắc mắc lý
do gì anh thay đổi như vậy?

-Tôi trước sau như một. Tôi không thay đổi. Trước cũng như bây giờ, tôi chỉ nghĩ
đến Đất nước, đến nhân dân. Luôn luôn vì nhân dân mà tôi phấn đấu, bất chấp
nguy hiểm. Nếu tôi muốn hưởng thụ thì quá dễ. Tôi và anh Lan là hai người đã
đấu tranh chống Mỹ, chống Thiệu như anh biết. Sau giải phóng tôi muốn hưởng chế
độ này thì có gì khó. Vì sao đến tuổi 70 này mà còn lên tiếng nói thẳng, nói
thật để phải gặp khó khăn? Vì dân, vì Đất nước.

-Những điều anh nói trong bài sám hối, có khi nào anh nói với cấp lãnh đạo?

-Có. 5 năm ở Mặt trận Trung ương, 4 năm ở Mặt trận Tp và trước Đại Hội Đảng 6,
tôi đã lên tiếng với cấp trên. Nhưng đâu còn đó. Một cây làm chẳng nên non, ba
cây chụm lại nên hòn núi cao. Một mình tôi nói không đến đâu. Tôi phải giúp kẻ
khác ý thức để nhiều người nói để giúp Nhà nước đổi mới. Chính vì lý do đó mà
tôi đánh máy các lời phát biểu, những bài giảng để nhiều người ý thức.

-Khi nghe Trần Xuân Bách bị loại, nhà dòng anh có ý kiến gì không?

-Cũng như tất cả người dân khác, khi nghe tin đó, thì cũng bàn tán qua loa vậy
thôi.

– Anh có gửi ba bài giảng cho anh Phụng mang ra Bắc? bao nhiêu bản?

-Anh Phụng ra Bắc không mang theo. Nhưng vì giáo dân ngoài Bắc xôn xao về ba bài
giảng, anh Phụng xin một bản để cho người ta nắm vấn đề chính xác hơn. Anh
Phụng có gửi thư cho tôi (thư nằm trong ngăn kéo).

-Anh gửi ra, mang đi?

-Anh Phụng có giới thiệu 1, 2 người sắp ra Bắc. Tôi có nhờ người mang đến chứ
tôi không gặp họ, nên không biết ai.

-Các giám mục đọc bài của anh có ý kiến gì không?

-Tôi không rõ, vì không gặp ai.

-Ông Nhật có ý kiến gì?

-Tôi cũng không rõ.

-Anh quen với N.V.Ân như thế nào?

-Anh ấy trước có đấu tranh trong phong trào Thanh Lao Công. Nay là giáo dân họ
đạo chúng tôi.

-Anh có thắc mắc với UBĐK? Vấn đề cá nhân?

-UBĐK là một tổ chức của chính quyền. Tôi không có ý kiến. Nhưng khi Ủy Ban đó
can thiệp vào những vấn đề nội bộ Giáo hội, đứng trên cả giáo quyền để thao
túng và làm trung gian giữa Giáo hội và Nhà nước, một thứ trung gian nịnh thần,
tôi phản đối. Tôi muốn giữa Giáo hội và Nhà nước có một sự trao đổi trực tiếp
để xây dựng Đất nước và giải quyết những trục trặc, những khó khăn.

Làm việc trọn ngày 22 và thêm sáng ngày 23/6/1990. Sau đó, có anh Điệp, phó công an huyện, phó công an xã, đại úy Hoàng và ông Lê Minh Cảnh, trưởng phòng PA 16 của Sở Công an, mời tất cả đứng lên để nghe quyết định của UBND Tp ký ngày 6/7/1990 về việc “quản chế công dân Nguyễn Tín”.

1.Phạt quản chế tại Duyên Hải, xã Cần Thạnh, trong thời gian 3 năm, kể từ ngày
lấy quyết định (7/6/1990).

2.Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định: tuân các quy định địa phương; chỉ đi lại
trong xã Cần Thạnh, muốn ra ngoài xã phải có phép Công an xã, trường hợp đặc
biệt phải có Công an huyện hoặc Công an thành phố; không được hành nghề tôn
giáo; trình diện Công an xã 15 ngày một lần.

3.Mất quyền công dân trong thời gian quản chế.

4.Chính quyền địa phương, đoàn thể tổ chức thi hành quyết định dưới sự điều hành
của Giám Đốc Công an Tp.

5.Những người trách nhiệm thi hành…

Trên đây là nội dung 3 buổi làm việc với trưởng phòng PA 16 của Sở Công an Tp và
quyết định mới của UBND Tp.

Tái bút: Ông Cảnh: Anh đã được ông Thứ trưởng Nội Vụ cảnh cáo, được anh Trị lưu ý, thế mà ngày chủ nhật sau, anh lại nói thêm một bài chính trị. Như vậy là liều thuốc
không còn hiệu nghiệm. Nhà nước đã cho một liều khác mạnh hơn: chỉ định cư trú
và quản chế tại Cần Thạnh.

Chân Tín: Bài sám hối của tôi cũng là liều lượng mạnh cho Nhà nước, khi mà những
điều tôi đã nói với cấp trên từ trước không còn hiệu nghiệm.

(Hai người cùng cười).

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 32-38)

 

Hệ lụy gia đình – nhà trường

Hệ lụy gia đình – nhà trường

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi pleikly lúc 12:07 Sáng 14/12/12
nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (14.12.2012)
– Sài Gòn – Quả là chí lý khi tục ngữ khuyên “dạy con từ thuở còn thơ”. Trước khi viết, vẽ, các nhà văn, nhà thơ và họa sĩ phải “thai nghén” ý tưởng đến chín muồi mới thể hiện ra trên giấy. Nếu sai, dù có tẩy xóa khéo léo cũng không thể hết dấu vết. Nicolas Boileau nói: “Trước khi viết, hãy học suy nghĩ” và chỉ có suy nghĩ người ta mới khả dĩ có được phương thức khả thi và hiệu quả. Thật vậy, “thiếu phương pháp thì người tài cũng lỗi, mà có phương pháp thì người thường cũng làm được điều phi thường”. Huống chi là giáo dục, một công việc và một nghệ thuật, đào tạo một con người ắt là điều tối quan trọng với trang giấy trẻ. Giáo dục không chỉ đơn thuần là nuôi con cái đầy đủ về vật chất, mà giáo dục chủ yếu nhằm giúp con cái trở nên người hữu dụng, một công dân tốt cho gia đình, cho xã hội, đất nước và cho giáo hội (với những
người có tín ngưỡng). Chúng sẽ là những người cha, người mẹ trong tương lai. Vậy
thì về tâm sinh lý, trưởng thành nghĩa là biết dẹp bỏ “cái tôi” để biết vì người khác. Cái Tôi là đáng ghét.

Giáo dục nền tảng là giáo dục gia đình. Nhà giáo dục Mỹ – ông Ragan, đã nói: “Nhà trường đầu tiên là gia đình và người thầy đầu tiên là mẹ”. Như vậy, người mẹ rất quan trọng đối với trẻ, vì vốn dĩ nữ tính là hiền từ và dịu dàng. Phụ nữ nào hay nóng nảy, gắt gỏng, nhỏ mọn,… là thiếu tố chất cần thiết trong thiên chức làm mẹ và làm bà (nội,
ngoại). Giáo dục tốt, cha mẹ sẽ hãnh diện và hạnh phúc thấy con cái ích nước, lới nhà, hiếu thảo. Vâng, giáo dục là một thiên chức, một trọng trách khó khăn nhưng cao cả. Không ai lại không ảnh hưởng và thừa hưởng di sản văn hóa của tiền nhân, dù chỉ là vô thức. Bên cạnh nền giáo dục đó, chúng ta cần cập nhật hóa phương pháp giáo dục cho hợp với hoàn cảnh xã hội của thời đại mới, dù vẫn biết phương pháp nào cũng có ưu và khuyết điểm. Thế nên, chúng ta phải chọn lựa kỹ lưỡng và chính xác các điểm tối ưu khả thi.

Song song, sự ảnh hưởng quan trọng khác nữa là nền giáo dục của xã hội, của người thầy. Cùng lúc, trẻ nhận hai nền giáo dục của gia đình và nhà trường. Cả hai đều hỗ trợ toàn diện cho nhau. Nhờ đó, sau khi xa gia đình, xa trường lớp, con người đủ sức khả thi vai trò một con người bản lĩnh. Con người đó, sau bao năm dùi mài kinh sử, đủ kiến thức cơ bản và đủ tư cách làm người, sau những năm tháng học đạo làm người ở gia đình.  Rồi con người đó lại tạo lập một gia đình mới – tế bảo cơ bản của xã hội và đất nước.

Ngày nay, nhiều khoa học mới lạ được mở ra về khoa học kỹ thuật, tâm lý học, giáo dục học, phấn tâm học, xã hội học, là những khoa học có thành tựu nghiên cứu về giáo dục con người. Do đó, trẻ ngày nay tiếp nhận nền giáo dục theo phương pháp khoa học khác xưa rất nhiều, bớt phần nghiêm khắc. Kiểu “gọi dạ, bảo vâng” hoặc “đặt đâu ngồi đó” không còn thích hợp nữa. Thế nhưng, ngày nay các phụ huynh lại quan
ngại về con cái nhiều hơn, nhất là đến tuổi trưởng thành. Đôi khi phụ huynh như
cảm thấy bất lực trong việc giáo dục con cái. Phải chăng gia đình và nhà trường
có lối giáo dục mâu thuẫn?

Vì “chạy đua” nhà trường đã “nhồi nhét” kiến thức để học sinh chán ngán và đuối sức (tinh thần và thể lý). Nhà trường quá chú trọng vào việc lấp đầy kiến thức mà quên dạy học sinh làm người hữu dụng, môn công dân giáo dục bị mờ nhạt trước các môn khoa học khác. Đồng thời, cha mẹ thiếu quan tâm đầy đủ vì công việc thường nhật, lo kiếm tiền nhiều đến nỗi đuối sức và không còn thời gian dành cho con cái. Rất nhiều học sinh đã than vì sự “khập khiễng” đó. Thật vậy, phương pháp sư phạm và sách giáo khoa cứ thay đổi liên tục, học sinh phải “xoay” theo, còn cha mẹ không có kiến thức phù hợp nữa: quan niệm, phương pháp học và làm bài đều lỗi thời. Hai luồng giáo dục bỗng bị “lệch pha”. Nhiều phụ huynh đã chê trách lối nhồi nhét của nhà trường. Gia đình và nhà trường cứ “khoán trắng” hoặc đổ lỗi cho nhau. Học sinh thì mỏi mệt vì 3 “món” tương tự nhau: học chính khóa, học phụ đạo và học thêm. Việc học kín hết thời gian, không còn giờ giải trí hoặc tự học để “tiêu hoá”. Ngay cả giờ ăn cũng vội vàng. Có học sinh phải “thổi kèn” (ăn bánh mì) cho… kịp giờ!

Việc học biến thành cuộc chạy đua, học sinh buộc phải là “những tay đua” nhưng có thể là “những tay đua… kiệt sức”. Vì thế, học cho qua giáo trình, điều đọng lại không bao nhiêu, tạo ra nhiều lỗ hổng kiến thức. Gia đình càng phải kiếm tiền bằng mọi cách để con cái khả dĩ đi học. Học sinh cứ loay hoay với mớ kiến thức từ chương, hối hả lo lắng học thi, chỉ làm giàu cho một sổ giáo viên cuối cấp và những lò luyện thi. Thật
tức cưới khi họ quảng cáo là “Bảo đảm thi đậu” hoặc “không đậu không nhận học phí”. Chẳng qua là “lừa bịp” những người “nhẹ da cả tin”. Phương pháp học như thế chỉ là vô bổ. Thậm chí, có khi sách giáo khoa còn sai “nghiêm trọng”. Dục Tử nói: “Biết là hay mà không tin, đó là Dại. Biết là dở mà không sửa đó là Mê”. Giáo dục đã bị thương mại hóa!

Trước sức ép tiêu cực của xã hội bằng văn hóa đồi trụy: ma túy, và ma lực vật chất, con cái chúng ta khó đứng vững vì còn trẻ người non dạ, ăn chưa no lo chưa tới. Sự không đồng bộ giữa giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường khiến trẻ mất niềm tin nơi cha mẹ, dễ sống buông thả, đua đòi. Và ngay cả lòng tôn sư trọng đạo đối với người thầy
cũng giảm sút nhiều. Thế nhưng, cha mẹ và người thầy cũng cần xem lại chính mình. Vì người trên dễ dãi quá thì người dưới sẽ coi thường. Thân quá hóa nhờn!

TRẦM THIÊN THU

Phước và Họa

Phước và Họa
***********************

Photo

Quan niệm, nhận thức của con người về phước (phúc) và họa hay may và rủi, được và mất, lợi và hại rất chủ quan. Bản chất của phước, họa cũng như mọi điều khác trong thế giới sự vật, hiện tượng từ vật chất cho đến tinh thần đều là duyên sinh, không có thực thể, thực tướng.
Một người đi trễ chuyến xe, tự cho là mình rủi. Nhưng ngày hôm sau đọc báo, thấy chuyến xe mà mình đi hụt bị rơi xuống vực sâu. Bấy giờ người ấy không còn thấy sự trễ xe hôm trước là rủi nữa, trái lại còn cho đó là may, vì nhờ đi hụt mà còn sống sót.
Thấy một người đàn ông cưới được cô vợ vừa đẹp lại vừa giàu sang, ai cũng trầm trồ khen ngợi, ước ao, cho rằng anh ta có phước. Nhưng chẳng bao lâu người đàn ông nọ và vợ dắt nhau ra tòa ly dị vì cô vợ sinh lòng lang chạ và sa đọa trong ăn chơi trụy lạc. Khi ấy người ta lại tặc lưỡi bảo nhau: Anh này thật vô phước!
Có người trúng vé số độc đắc được mấy tỷ đồng, ai cũng nghĩ rằng phước phần của anh ta đã đến. Không ngờ chính vì có số tiền quá to ấy mà anh ta sinh tật: đua đòi, hưởng thụ, đam mê cờ bạc rượu chè, đi sớm về khuya, vợ bé vợ mọn; vợ chồng anh ta vì tranh chấp tiền bạc mà bất hòa, vì chuyện anh lăng nhăng bên ngoài mà kéo nhau ra tòa ly dị; con cái ỷcó tiền của mà bỏ bê học hành, chỉ lo ăn chơi phóng túng. Còn nhiều trường hợp khác vì trúng số mà anh em, bạn bè trở mặt nhau; vì trúng số
mà bị giết hại do cướp vào nhà, do người tình phản bội…
Vậy người đi hụt chuyến xe kia là rủi hay may? Có được người vợ đẹp và giàu như anh chồng kia là họa hay phước? Và trúng số như những người nói trên là nỗi lo hay điều đáng mừng?
Tùy theo cái thấy, sự nhìn nhận, tùy theo duyên mà người ta cho đó là phước hay họa, nó luôn biến chuyển, thay đổi không ngừng, phước chuyển thành họa, họa chuyển thành phước, vừa là phước lại vừa là họa. Người xưa thường bảo: “Trong họa có phước, trong phước có họa”, nhưng kỳ thực họa phước do duyên, có nghĩa là do điều kiện, do hoàn cảnh, do sựnhìn nhận nó như thế nào, tùy theo duyên mà nó được xem là phước hay họa. Các bậc cha mẹ có con mắt tinh đời khi thấy con mình ra đời lập nghiệp, tuổi còn trẻ mà thành công quá sớm thì vừa mừng vừa lo. Mừng vì con
thành công trong cuộc sống, lo vì con thành công sớm quá sẽ sinh tâm tự phụ,
kiêu căng. Tuổi còn trẻ chưa từng trải, chưa có nhiều kinh nghiệm trong cuộc
sống, chưa hiểu đời nhiều, vì thế nếu thành công quá dễ dàng sẽ sinh tâm chủ
quan khinh suất, như thế sẽ dễ mắc phải sai lầm đưa đến sớm thất bại, dù buổi
đầu có thành công nhưng không thể thành công lâu dài, sự nghiệp khó bền vững.
Hơn nữa vì sớm thành công nên tâm cao khí ngạo, tự phụ kiêu căng, từ đó có thái
độ, hành vi coi thường người khác, dễ va chạm và làm mất lòng mọi người, từ đó
sẽ có nhiều người bất mãn, chống đối, đó cũng là nguyên nhân thất bại.
Có nhiều phụ nữ lấy được chồng đẹp trai lại giàu có, về nhà chồng chỉ việc làm vợ làm mẹ, mọi thứ khỏi cần bận tâm. Bạn bè đồng trang lứa thấy thế cho rằng họ có phước quá, ai cũng ước ao mình được như thế. Nhưng cha mẹ của những cô gái được xem là diễm phúc kia thì có người băn khoăn: “Chồng hào hoa, đẹp trai thì có nhiều người mến mộ. Nếu nó có thêm tánh phong lưu bay bướm, không chung thuỷ thì con gái mình sẽ khổ”, “Ăn ở không, được chồng nuôi chưa hẳn là có phước. Sống lệ thuộc
không làm chủ được bản thân chắc chắn sẽ chịu nhiều thiệt thòi. Thà ra ngoài
làm việc để có cơ hội khẳng định mình, có khả năng tự lập, có điều kiện rèn luyện, trau giồi bản thân, có thêm kiến thức, kinh nghiệm, có thêm niềm vui trong cuộc sống”. Cách nhìn về phước, họa của mỗi người mỗi khác, tùy thuộc điều kiện, hoàn cảnh, tùy thuộc quan niệm, lối sống, kinh nghiệm, hiểu biết v.v…
Một nghệ sĩ nổi tiếng trong làng giải trí nói trên báo rằng, từ khi ông bán đi mấy chiếc xe hơi thì thấy thanh thản, thoải mái hơn. Bây giờ mỗi khi đi đâu chỉ cần gọi taxi hoặc xe ôm là được. Lúc còn mấy chiếc xe hơi phải thuê người lái, đi đến đâu
phải tìm chỗ đậu xe cũng mệt. Thỉnh thoảng bị tài xế làm khó dễ để vòi tiền.
Khi gặp bạn bè hay đi tiệc tùng thì lại nghe những lời bàn tán về xe, họ bình
luận, so sánh, chê khen, nào là xe này đẹp, xe kia không đẹp; xe này sang, đắt
tiền, xe kia thuộc hạng xoàng rẻ tiền; xe này sành điệu, thời thượng, xứng
tầmđại gia, xe kia lỗi thời, cổ lỗ v.v… Nghe những chuyện như thế rất mệt.
Có người nghe ông nghệ sĩ kia nói thế thì cho rằng ông ta “giả bộ”, nói không thật bụng, có xe sướng quá mà làm bộ than phiền. Đâu phải ai muốn có xe hơi cũng được. Người chưa từng có xe hơi thì nghĩ có xe hơi là “ngon lành” lắm, sung sướng lắm, có phương tiện tốt để đi lại, hãnh diện với bạn bè. Nhưng người có rồi thì cảm thấy có xe cũng thêm nhiều phiền phức, cũng vướng bận thêm vì phải lo có chỗ đậu mỗi khi đến
đâu, phải lo giữ gìn, bảo quản, lo chiều lòng tài xế, lo bà con, bạn bè buồn khi hỏi mượn mà mình không cho, mà cho muợn thì không yên tâm lắm (rủi xảy ra tai nạn hoặc hư xe thì cũng khổ)…
Đối với vấn đề họa phước, người trí bình thản, an nhiên, không để nó làm dao
động tâm mình, chỉ xem nó như mây trôi, gió thoảng. Nhìn mây trôi ngang qua
trời, nghe gió thoảng qua bên tai, chỉ thấy thế, chỉ nghe thế, biết thế thôi,
không cần bận tâm, không cần nghĩ ngợi, không vui buồn vì nó. Phải tập như thế,
phải tu sao cho được như thế (dù là pháp môn nào) thì tâm mới được tự tại, an
vui, không buồn không lo, không khổ não.
Tâm bình thản, an nhiên, khôngđiều chi có thể làm bận lòng, như thế không phải là người vô tri, không phải là người vô tâm, vì vẫn hay vẫn biết, vẫn thấy, vẫn sống và hành động dưới sự soi sáng của tuệ giác nhưng tùy duyên, không miễn cưỡng, gượng ép, không vướng mắc, không bị buộc ràng, hệ lụy.
Đức Phật chưa bao giờ cho rằng việc Đề Bà Đạt Đa lăn đá và xua voi dữ giết hại mình là họa. Đức Phật cũng chưa bao giờ cho rằng việc Ngài được vua Bình Sa cúng cho vườn tre Trúc Lâm, được ông trưởng giả Cấp Cô Độc cúng khu đất để xây tinh xá Kỳ Viên, khu đất mà ôngđã mua với số tiền vàng trải đầy trên mặt đất, và được hoàng thân Kỳ Đà cúng cho vườn cây trên mảnh đất này là phước. Tâm Phật không hề dao động trước nhữngđiều xảy ra đó, Ngài không mừng khi được cúng dường, tán dương khen ngợi; không lo không buồn khi bị chống đối, hãm hại, Ngài bình thản, an nhiên, tự tại.
Cũng như trong âm có dương, trong họa có phúc và ngược lại
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có. Nhưng người vô trí thì biến cái mà thế gian cho là phước thành họa. Ví dụ Đức Phật đã biến sự chống đối, dã tâm làm hại Ngài của Đề Bà Đạt Đa thành cơ hội khảo nghiệm, thành thử thách giúp Ngài thành tựuđạo hạnh, viên mãn công đức.
Một người con có tài trí, có nhân phẩm, đạo đức tốt biết tận dụng tài sản do ông cha để lại (phước) để xây dựng hạnh phúc cho mình, phát triển sự nghiệp bản thân, làm ích nước lợi nhà. Nhưng ngược lại, người con bất tài vô trí, nhân phẩm đạo đức kém sẽ ỷ lại vào gia sản của ông cha để lại mà ăn chơi phóng túng, sa đọa trụy lạc, kết cục
anh ta biến cái phước (có nhà cao cửa rộng, có tài sản, sự nghiệp) thành ra cái họa.
Người có tài năng, có đức độ, có chí hướng, biết siêng năng cần mẫn, dù sinh ra trong hoàn cảnh cùng  khổ, khốn đốn (kém phước), họ vẫn vươn lên và đạt nhiều thành công trong cuộc sống. Đó là vì họ biết tận dụng hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt để rèn luyện mình, nuôi dưỡng chí hướng phấn đấu vươn lên. Họ đã chuyển sự không may (hoàn cảnh kém phước) thành điều hạnh phúc. Cũng như người biết xử lý rác thải có khả năng biến đống rác bỏ thành những vật dụng trong nhà, có thể dùng rác để tái chế ra những sản phẩm mới. Nhưng người vô trí, không biết sử dụng thì có thể biến những sản phẩm mới thành ra đống rác.
Họa hay phước là do chúng ta. Bản chất của họa phước vốn không có thực, chúng là pháp duyên sinh, không có thực thể, thực tướng. Cái phước thật sự, lớn nhất là khi làm chủ được tâm mình, không bị những thành bại, được mất, hơn thua làm cho bận lòng, làm cho phiền não.

Hồ Như…

Có đôi lúc ta ngỡ mình ngọn núi

Trên thân đầy cây cỏ với ngàn hoa.
Cũng có khi ta ngỡ mình con suối
Cùng chim rừng hòa âm điệu, hoan ca..
Có đôi khi ta ngỡ mình như đá
Nằm im lìm mặc rêu phủ thời gian.
Một lần kia, thấy phận mình như bụi
Bay trong chiều hồn sa mạc khô khan.
Và có khi ta ngỡ mình hạt nắng
Giữa tim người cổ mộ đóng nghìn năm.
Rồi thi thoảng phiêu du là cơn gió
Hương Từ bi ta quyện đến xa xăm..
Một lần nọ ta thấy mình như biển
Hát ru đời ca khúc Hải Triều Âm.
Rồi lẳng lặng ta làm con sóng nhỏ
Hòa đại dương… thôi chuyển biến, thăng trầm.
Bao la đời…, không còn chút vọng âm.
Bodhgaya chớm Đông 2012

Th Tánh Tuệ

Anh Nguyễn văn Thập gởi

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)

Nói cho con người (Thư Cần Giờ 1990-1993): Lm. Chân Tín (10)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:46 Sáng 12/12/12

nguồn: Chuacuuthe.com

VRNs (12.12.2012) – Sài Gòn – Cần Giờ 15/6/1990

Anh Lan, chị Vân và bé Chi Thương,

Ngày mai, 16/6/1990, chúng ta ăn  mừng “đầy tháng” đó. Phải, chúng ta mừng vì đã sống cho Giáo hội và cho dân tộc, mình được bằng khen do miệng Caipha như anh nói: ngày họ đọc lệnh quản chế và lục soát nhà anh, ngày họ trục xuất tôi ra khỏi “hội đường” Kỳ Đồng, ngày chị Vân được giấy cho nghỉ việc vì lý do những gì xảy ra ngày 16/5, mặc tổ Tin đã nói lên tình thương và cảm phục của tất cả các tổ viên đối với chị Vân. Như vậy, mình không vui sao được, không mừng sao được. ngày mai tôi sẽ đồng tế “chui” với anh Điệp (mình dự lễ như một giáo dân và dâng lễ) để tạ ơn Chúa cho
chúng ta. Và sau đó sẽ mở chai rượu cabernet anh gởi cho hôm nọ, để cụng ly
mừng ngày “đầy tháng”. À rượu cabernet của anh, như vậy chứng minh tôi điều độ
lắm đó: bữa ăn trưa có 3 người mà có 2 lon bia. Bữa ăn tối, một ly nhỏ rượu nếp
than của anh Điền TS Châu gửi biếu. Anh thấy tôi ngoan chưa? Thôi chúng ta trở
về với những chuyện nghiêm túc hơn. Hôm nay, đọc lại không biết lần thứ mấy lá
thư 31/5 và 4/6 anh gửi cho tôi, cũng như lá thư 3/6 anh gửi cho bé Lan Chi.

Trước hết, khi đọc những đoạn nói về những buổi “làm việc” kéo dài ngày này qua ngày khác của bạn hữu ta cũng như việc nhốt cachot “bé bự D.” Trong khi đó không hỏi “thủ phạm” chính một câu nào, thì rõ là giận cá chém thớt, hành hạ những người bạn của ta vô tội như ta. Có người bảo một nhân vật nào đó trong chính quyền nói rằng CT giăng bẫy để nhốt CT mà họ không mắc bẫy, họ chỉ cho về nhà Dòng Chúa Cứu Thế Duyên Hải. Tôi chắc tất cả các bạn đã chấp nhận chia sẻ với anh em ta.

Với ngày 16/5, vị trí của anh em ta trong lòng Giáo hội và dân tộc càng rõ nét đối với mọi người xa gần… Trong nước cũng như nước ngoài, ngoại cũng như đạo, đảng viên cũng như không đảng viên. Tôi tạm gọi anh X, Y, Z người có tên trong thư (cả 3 đảng viên): “Cha ơi biết nói gì đây, khi chúng con để cho cha, một người cha 70 tuổi, suốt đời chỉ vì tình thương đối với con người mà phải sống cảnh đày ải như hôm nay? Anh em luôn luôn nghĩ và hiểu về cha, xem cha là cha của mình. Cha can đảm vì bên cha
còn bao nhiêu tấm lòng, bao trái tim luôn luôn nhớ đến cha. Anh Z đã nói về cha
đã khóc với con, nước mắt của anh Z là nước mắt của chúng con. Không thể nói
nhiều nhưng cha hiểu chúng con luôn luôn nghĩ đến một xã hội có tự do, có hạnh
phúc và phải làm cho bằng được điều đó, nếu không thì có tội với bao thế hệ mai
sau. Cha an tâm và giữ gìn sức khỏe. Ba mẹ và X đòi đi thăm cha, nhưng anh em
không cho. Hôn cha ngàn cái hôn yêu thương và cảm phục.” Y.

Đọc thư trên, tôi không cầm nổi nước mắt. Khóc vì tình thương của con người ngoại đạo dành cho tôi và anh, cho tất cả những ai “thụ nạn” vì nhân dân. Khóc vì mừng có những người thiện tâm như X, Y, Z trong những đảng viên. Có khác với bà giám tỉnh nào đó anh nói trong thư.

Rất hiên ngang và rất thương “người cộng tác đắc lực” của anh và như thế cũng là của tôi. Xin dành sự cảm phục và tình thương có thể có được cho chị Vân. Nhất là dành cho chị nhiều kinh nghiệm để chị cứ công tác đắc lực cho anh và cho tôi. Ngoài kinh Phụng vụ, tôi suy gẫm Lời Chúa (từ ngày về suy niệm Thư Galát và Philip) liên qua đến thánh Phaolô bị đày và tù tội, tôi cầu nguyện cho anh, cho chị Vân, cho bé Chi cũng đang tù tại gia, cũng như cầu cho tôi, người tù tại gia với người “cai tù” nhân hậu là anh Điệp, tương tợ thánh Phaolô ở Rôma. Phaolô ở hai năm như vậy, trước khi bị chém đầu ở Trefontane. Tôi không biết tôi có vượt Phaolô về năm tháng hay không.
Nhưng, như tôi đã viết cho anh: lúc nào họ trả tự do cho người “cộng tác”, “thủ
phạm” chính mới có quyền ra khỏi chốn tù đày.

Thấy anh, “người cộng tác đắc lực” phải đi làm việc mỗi tuần với “bạn dân”, trong khi tôi không ai hỏi một câu, trừ vụ công an đến nhà thờ yêu cầu tôi không được làm lễ và giảng (tôi chủ tế và giảng ngay ngày 16/5, lúc mới xuống Duyên Hải và trong 4 ngày đầu), tôi rõ không muốn bịt miệng tôi và khủng bố bạn bè và “người cộng tác đắc lực”.

Hôm nọ, được thư anh VKP cho biết: “Ở Hà Nội, nói chung là dè dặt kể cả các vị có uy tín như cha Oánh… cho rằng không nên nói mạnh làm gì (điều này trước 16/5). Ở Bắc Ninh và Hải Phòng thì lại có vẻ rất nhiệt tình đối với tôi và anh. Đức cha Cương nhờ VKP chuyển lời với anh: “Tôi không được quen ông, nhưng rất hoan nghênh ông.” (Những vụ  tiếp xúc với BN và HP đều trước 16/5). Đó là phía giáo sĩ. Giáo dân Hà Nội rất nhiệt tình, chuyền tay nhau bản tin của báo nhân dân và xuýt xoa. Đến bây giờ thì có những người lúc thường không mấy để ý đến vấn đề này, nhưng từ nay “cầu nguyện cho cha Chân Tín” đều đều. Có người thuộc thành phần tích cực thì phát biểu:
“Lúc này mà các giám mục không lên tiếng thì chờ lúc nào?”

Nhân đám tang Hồng Y Căn. VKP có gặp Đức Tổng ở Hà Nội. Anh nói với ngài “Mấy hôm nay Đức Cha có điều gì buồn phiền không?”

– Tôi buồn phiền lắm chứ. Giáo dân nó viết thư đến TGM phê bình tôi không lên tiếng như Đức Cha Điền, Đức Cha Thuận, thật các cha Dòng Chúa Cứu Thế làm tôi tổn thọ quá.

– Đức Cha tính lên tiếng như thế nào?

– Tôi biết lên tiếng làm sao bây giờ? Thôi để tôi về Sài Gòn, rồi bàn với mấy cha xem sao.

Đức Cha im tiếng (chắc đã về Sài Gòn bàn với mấy ông Đoàn kết), UBĐKCGYN cũng im tiếng tuyệt đối. Tờ Công giáo và Dân tộc không những im tiếng mà còn đi dự cấm phòng các linh mục ngóng xem cụ Lịch sẽ thông tin như thế nào. Đủ loại tin tức bên Tây, bên Bỉ. Nhưng không có một tiếng về vụ Chân Tín. Cho tới bây giờ chưa có gì mới.

Hôm cha Điện đến cứu đói với quận 10 có ghé nghỉ mưa và có nói: trong buổi họp 50 linh mục, tu sĩ, giáo dân, cụ Lịch có hỏi hai câu: “Ông Lan cộng tác đắc lực có cái gì rõ ràng không? Ông CT thanh minh hôm Chúa nhật về việc ông giảng về sám hối có làm chính trị không?” Điều này không biết cụ Điện có nói đúng hay không? Nhưng thái độ im lặng mà anh P nói là cái im lặng đồng lõa với những ai bắt bớ anh em ta.

Hôm nọ anh Điệp lên Đức Tổng, để yêu cầu ngài can thiệp, lên tiếng. Nhưng tôi cản. Dù vậy, khi anh Điệp lên có việc, thì Đức Tổng hứa sẽ về Duyên Hải thăm tôi. Có đi thì hỏi Ban Tôn Giáo và mấy ông Đoàn kết? Mình cũng không mấy muốn ngài xuống thăm.

Chúc anh chị, cháu Chi bình an trong Chúa.

 

Lm. Chân Tín

(NKNNL 1990-1991, trang 22-24)

 

TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG

TRẢI NGHIỆM DẤN THÂN CỦA MỘT TÂN TÒNG

(Trích tập san GHXHCG số 4)

►Mẩu Bút Chì

nguồn: conggiaovietnam.net

Người ta thường bảo rằng những người tân tòng được Chúa đặc biệt yêu thương. Đó là một màu nhiệm, tôi không hiểu thấu. Nhưng tôi biết chắc một điều: tôi là một tân tòng và tôi được Thiên Chúa yêu thương quá đỗi.

Tôi biết Chúa khi đã trưởng thành, đó là ơn Người ban cho tôi theo nghĩa Người cho tôi có cơ hội trải nghiệm hai trạng thái tâm linh: Sống chưa biết Chúa và sống có Chúa.

Khi chưa biết Chúa, tôi chưa biết khái niệm “dấn thân”, chỉ biết “ở hiền gặp lành”, “làm phước gặp may”, “bố thí’, “từ thiện”…, nghĩa là mở lòng THI ÂN với đời.

Khi đón nhận bí tích thanh tẩy, quả là tình thương và ân sủng Chúa đổ đầy hồn xác tôi. Chúa gần tôi như hơi thở. Người nghe lời thủ thỉ của tôi và tỏ hiện cho tôi biết lòng thương xót của Người. Đã có thời tôi khao khát: nếu chưa lập gia đình, tôi nguyện sẽ
đi tu. Tôi đắm chìm trong nguyện cầu, Thánh Lễ,  Lời Chúa và sự hướng tâm nên Thánh. Tâm hồn tôi tràn ngập bình an, thanh khiết.

Thời ấy, tôi dự lớp Kinh  Thánh mấy khóa liền, nên cầu nguyện rất thạo và Lời Chúa gần như nằm lòng. Ưu tiên số một cho đời sống tâm linh, các thực thể trần gian, các mưu cầu vật chất đối với tôi dường như rất nhẹ. “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình” –  tôi muốn từ bỏ tất cả để đi theo Ngài trọn vẹn. Với lòng sốt sắn ấy, Chúa đã dùng tôi để hoán cải nhiều tâm hồn khô khan nguội lạnh, và đưa nhiều người trở về nhận biết Chúa, trong đó có bà, cha mẹ và một số anh chị em ruột của tôi. Linh hồn tôi chứa chan vui sướng, và không ít lần nước mắt ràn rụa trong niềm cảm tạ.

Nhưng rồi tôi phải đối mặt  với nhiều sự xung đột trong cuộc sống: có người ngưỡng mộ, ước muốn được như tôi, nhưng gánh nặng cơm áo trĩu vai, đầu tắt mặt tối lo không trọn, thời gian đâu nghiền ngẫm Kinh Thánh, tham gia nhóm cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa hay làm công việc bác ái như tôi. Và họ buồn lòng lắm, cứ như là cánh cửa Nước Trời đã đóng lại trước mắt. Nhưng cũng có người diễu cợt rằng tôi sống như “người cõi trên”, xa rời thực tế… Những ý kiến ấy cũng không mấy quan trọng, mà quan trọng là chồng và con tôi dần dà thấy không vui, muộn phiền khi tôi thường
xuyên vắng nhà, đi cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa khi gần khi  xa, bỏ lỡ công ăn việc làm cũng như không thể chu toàn bổn phận gia đình cho tươm tất. Bởi lúc ấy trong nhận thức của tôi, ngoài việc đem lời Chúa đến với mọi người (theo nghĩa đen), tất cả là thứ yếu. Có lẽ tôi đã hiểu quá cạn nghĩa của hai tiếng “từ bỏ”“nên Thánh” trong Lời Chúa.

Lương tâm tôi giằng xé dữ dội. Làm sao cho trọn vẹn? Lời Chúa mời gọi tôi dấn thân, loan báo Tin Mừng, nhưng tôi cũng được dạy rằng gia đình bé nhỏ yêu thương của tôi cũng là một ân huệ của Chúa. Nhưng quả thực tôi không tìm ra con đường để dung hòa giữa sự hướng thượng của tâm linh với những đòi hỏi của thực tại trần thế, giữa
những nhu cầu kinh tế, vật chất và những ước muốn dấn thân phục vụ con người,
phục vụ thiện ích chung. Có lúc tôi đã thật sự lâm vào khủng hoảng – cho đến
lúc tôi học biết GHXHCG.

GHXHCG dạy tôi biết rằng tôi không cần phải đi đâu xa để loan báo Tin Mừng hay dấn thân phục vụ, mà hãy loan báo và dấn thân ngay trong công việc, nghành nghề, gia đình của mình: “Nếu người ta xã thân làm việc với lòng tin, cậy, mến của các môn đệ Đức Kitô, thì ngay cả kinh tế và tiến bộ cũng có thể biến thành những địa điểm cứu độ và thánh hóa” (x. số 326 sách Tóm lược HTXH). Giáo huấn cũng dạy tôi rằng lao động là một phương tiện để nâng cao phẩm giá con người, hãy sử dụng lao động như cách thế diễn tả tình yêu và cộng tác vào ơn cứu độ Thiên
Chúa (Chương VI sách tóm lược HTXH).

Tôi nghiệm ra một điều: chắc chắn Giáo hội và xã hội đang cần tôi chung sức, chung trí, nhưng cũng chắc chắn rằng tôi không thể hướng đến sự nên Thánh trước khi tôi làm một con người tử tế, sống tròn những bổn phận mà Chúa đã trao ban cho tôi. Và tôi không thể nên Thánh, nếu như tôi không tham gia xây dựng xã hội trần thế này cho được ổn định, an sinh hơn. Trước khi Chúa Giêsu đến phán xét lần thứ hai, thì người nghèo  vẫn được ký thác cho tôi. (“Nghèo” ở đây không đơn thuần là nghèo vật
chất mà còn là tình thương, tinh thần, tự do, văn hoá, tín ngưỡng… ) Ngài mời
gọi tôi dấn thân cho những thiện ích giúp người, giúp đời, mà Thiên Chúa là “sự
thiện tối thượng”.

Dấn thân cho công ích không còn đơn thuần là một “việc đạo đức” tuỳ hứng hay một “ước muốn hướng thượng”, mà là sự thúc giục của lương tri, của tình đồng loại trong tôi. Đó còn là một trách nhiệm ràng buộc tôi phải cam kết với Thiên Chúa. Và GHXH chính là phương thế giúp tôi diễn tả, cụ thể hóa Lời Chúa trong đời sống hôm nay, bằng những ngôn từ hiện đại của kinh tế, lao động, môi trường, nhân phẩm, quyền con người.v.v…

Con đường dấn thân của tôi như thế đó, nó gập ghềnh theo từng bước trưởng thành tâm linh và ý thức của tôi.

Xin Chúa nhân từ  luôn ở cùng con, để dù con có xiêu vẹo nghiêng ngả, Ngài cũng sẽ đưa con đến cùng đích cuộc đời.

Tác giả: Mẩu Bút Chì

Nhận và Cho


Nhận và Cho

 

TRẦM THIÊN THU

Cuộc đời là xã hội, là cộng đồng, nghĩa là không ai lại không phải ít nhiều nhờ
vả nhau – dù trực tiếp hay gián tiếp. Không ai có thể sống như một ốc đảo, mà
luôn có những mối quan hệ và những hệ lụy theo một quy luật tất yếu của cuộc
sống.

Trong quan hệ đó, mỗi người có một nhân sinh quan riêng nhưng luôn hợp thành
một tổng thể cộng đồng. Như vậy, cần có tình đồng loại thực sự. Con người vốn
dĩ yếu đuối nên rất cần sự cảm thông và tha thứ không ngừng. Sống chân thành và
hài hòa với nhau là hạnh phúc được nhân đôi: Cho bạn và cho tôi. Mỗi người phải
biết chia sẻ, không thể khư khư giữ “cái tôi” mãi.

Nhưng, để được NHẬN thì phải biết CHO trước. Tất nhiên phải biết mở lòng ra như
cuốn sách để người khác “đọc” mà cùng quan tâm lẫn nhau.

Dĩ nhiên không ai trên đời có thể hiểu hết nhau – dù trong mối quan hệ nào. Có
chăng là hiểu một đôi phần trong lĩnh khía cạnh nào đó. Cố gắng hiểu người chứ
đừng đòi người hiểu mình nhiều quá. Vả lại, ai cũng có “khoảng riêng” bất khả
xâm phạm. Biết vậy để tự trọng và tôn trọng nhau đúng mức. P. Gerandy (Mỹ) phân
tích: “Chỉ cần hơi giống nhau là có thể hiểu nhau,
nhưng cần phải hơi khác nhau để có thể yêu nhau”.

Có những người chê bai, trách cứ mà không chịu “nhìn” để cảm thông. Có những
người chỉ biết đòi hỏi mà không biết trao tặng. Có những người lại quá “hạ
mình” đến mức nhu nhược hoặc hóa kiêu ngạo. Người may mắn có cuộc sống sung túc
từ nhỏ thì không muốn quen thân những người nghèo khó. Người giàu có nhờ “số
hên” thì coi trời bằng… nắp bia.

Biển luôn vỗ sóng vì lòng biển thẳm sâu, chứa nhiều châu báu. Những con người
đau khổ và gian nan là những người đầy kinh nghiệm. Pythagore cảnh báo: “Đừng
thấy bóng mình to lớn mà tưởng mình vĩ đại”. Biết người, biết ta thì không ai
dám “nổ”. Khoác lác là tự phơi bày cái “không tưởng” của mình.

Nhưng thế nào là quan tâm đến nhau? Có thể dùng ngôn ngữ, cử chỉ, động thái,
ánh mắt, nụ cười,… để thể hiện. Quan tâm đến nhau là điều cần thiết trong mọi
mối quan hệ. Thiết tưởng, dưới đây là các “khởi điểm” để tạo mối quan thiết tốt
đẹp và bền vững:

1. Bạn có thể viết thư, gởi thiệp, tặng hoa hoặc quà để chúc mừng vào những dịp
đặc biệt như sinh nhật, lễ, tết, cưới hỏi, thi đậu, thôi nôi, tân gia, ngày
8-3, ngày tình yêu (Valentine’s Day, 14-2),… Trên thế giới còn có những ngày
khác như Ngày Ông Bà (Grandparents’ Day, Chúa nhật thứ nhất sau lễ Lao động),
Ngày Thân Mẫu (Mother’s Day, Chúa nhật thứ nhì của tháng Năm), Ngày Thân Phụ
(Father’s Day, Chúa nhật thứ ba của tháng Sáu) dành cho con cháu tỏ lòng thảo
hiếu đối với Ông Bà và Cha Mẹ mình.

2. Thi thoảng, nếu có thể thì thường xuyên điện đàm, nhắn tin, thăm viếng,… kẻo
“xa mặt cách lòng”.

3. Luôn biết sử dụng tiếng “xin lỗi”, “cảm ơn” và “làm ơn…”, dù bạn đi mua
hàng, hỏi đường, hỏi giờ,…

4. Biết sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần (an ủi, động viên, khen ngợi, chân thành
sửa lỗi…). Một người bạn tốt là người có mặt đúng lúc, và là người dám làm trái
ý cả trăm lần chỉ vì muốn tốt cho chúng ta.

5. Xởi lởi, trung thực, chân thành tâm sự để chia vui sẻ buồn, cả thành công
lẫn thất bại trong cuộc sống để cùng dìu nhau đi.

Nhưng đôi khi cũng cần biết “phớt tỉnh Ăng-lê” (kiểu người Anh) để không “xoi
mói” đời tư người khác.

Sống tốt khó hay dễ tùy mỗi người. Ai có cá tính mạnh là có tính cách đặc biệt
“khác người”. Bạn có thể bị hiểu lầm, nhưng một khi hiểu ra thì người ta càng
nể phục. Hãy sống theo “chiều sâu”, đừng sống theo “chiều dài”, và hãy cứ là
chính mình chứ đừng để tính cách bị “lai căng”.

Biết quan tâm đến người khác là một cách sống tốt, điều mà không ai lại không
muốn, và giúp người khác cùng sống tốt. Đừng “vô tình” biến họ thành Chí Phèo!
Văn hào Victor Hugo nói: “Tôi thích trở thành người nổi tiếng, vì đó là hạnh
phúc. Nhưng tôi muốn trở thành người hữu ích, vì đó là nghĩa vụ”.

Nguyễn văn Thập gởi

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

Bài Thánh ca Giáng Sinh cho thế giới

(“A Christmas Carol for the World” – Per Ola và Emily D’Aulaire)

Mỗi mùa Lễ Giáng Sinh, những giọng hát bằng nhiều ngôn ngữ đã tái tạo một bài hát tuyệt vời ra đời trong hoàn cảnh tầm thường cách đây 194 mùa Giáng Sinh.
“Silent night, Holy night
All is calm, all is bright
Round yon Virgin
Mother and child
Holy infant so tender and mind
Sleep in heavenly peace
Sleep in heavenly peace.”
Tuyết nhẹ rơi trên những ngôi nhà bằng gỗ và đá ở Oberndorf, một ngôi làng Áo gần Salzburg. Trong làng, người dân trang hoàng đèn nến, trái cây và hạt trên những cây vân sam mà họ đã chuẩn bị cho những đêm thánh vô cùng này. Chẳng mấy chốc nữa đây, tiếng chuông từ ngôi nhà thờ cổ kính
của Oberdorf sẽ ngân vang để loan báo Thánh lễ lúc nửa đêm, và giáo dân sẽ tưởng niệm ngày Đức Kitô ra đời với những lời kinh và tiếng hát.
Tuy nhiên, bên trong Nhà thờ Thánh Nicolas  không khí lại nặng nề, ảm đạm vào đêm vọng Giáng Sinh năm 1818. Cha xứ Joseph Mohr, 26 tuổi, vừa nhận ra chiếc phong cầm bị hư hỏng nặng. Cho
dù bàn đạp được bơm cứng hơi thế nào đi nữa, ngài cũng chỉ có thể làm cho cây đàn cũ kỹ ấy phát ra những tiếng khò khè. Cha Morh thất vọng. Đợi đến lúc thợ sửa đàn đến được giáo xứ này chắc Lễ Giáng Sinh đi qua lâu rồi. Đối với một cha xứ trẻ, Lễ Giáng Sinh mà thiếu nhạc là điều không thể tưởng tượng được.
Cha Mohr có một thiên khiếu âm nhạc. Khi còn là một cậu bé, đứa con trai ngoài giá thú của một cô thợ may với một người lính, cậu đã kiếm tiền bằng cách ca hát, chơi đàn violon và ghi-ta nơi công chúng. Ở bậc trung học, rồi lên bậc đại học, cậu đã sống bằng đồng tiền kiếm được khi trình diễn ca nhạc. Làm việc chăm chỉ cùng với tài năng của mình đã gây sự chú ý đến một tu sĩ, người mà đã thuyết phục cậu bước vào nhà dòng. Thụ phong linh mục năm 1815, Cha Mohr được bổ nhiệm đến Oberndorf vào năm 1817. Ở đó, ngài không chỉ truyền giảng ca vịnh, mà còn làm ngạc nhiên một số người trong giáo đoàn của mình với cách chơi ghi-ta, chuyển một cách dễ dàng từ nhạc điệu dân gian sang nhạc điệu thánh ca.
Bây giờ phải đối mặt với với một khủng hoảng xảy ra vào Lễ Giáng Sinh. Vị linh mục trẻ rút về phòng làm việc yên tĩnh của mình. Nhận ra rằng những bài thánh ca Giáng Sinh truyền thống không phù hợp với đàn ghi-ta. Ngài quyết định sáng tác một bài mới. Cúi xuống tờ giấy trắng, với cây bút lông duyên dáng sẵn sàng, ngài nghĩ về một gia đình thuộc giáo xứ mà mới đây ngài đã viếng thăm và làm phép rửa tội cho đứa bé mới chào đời của họ. Ký ức về người mẹ ôm đứa con được ủ ấm để chống lại cái lạnh mùa
đông đã khiến những suy nghĩ của Cha Mohr đến một sự ra đời khác nữa cách đây hơn 2.000 năm.
Ngập ngừng do dự, ngài bắt đầu viết. Cây bút của ngài di chuyển y như thể được hướng dẫn bởi một bàn tay vô hình nào đó. Một điệp khúc được gợi lên, “Stille nacht, heilige nacht!” xuất hiện trên tờ giấy: “Đêm thầm lặng, Đêm thánh!” Bằng những câu giản dị, mộc mạc như một bài thơ dành cho nhi đồng. Vị cha xứ trẻ này nói về phép lạ Lễ Giáng Sinh trong 6 khổ thơ. Tưởng chừng đó là những lời chảy xuống tự thiên đàng.
Khi ngài viết xong, thời gian còn rất ngắn. Những vần thơ này còn phải được phổ nhạc kịp lúc cho Thánh lễ nửa đêm. Cha Mohr quyết định tìm một người bạn thân tên là Franz Xavier Gruber, 31 tuổi, một thầy giáo ở làng Arnsdorf cạnh bên, là người soạn nhạc giỏi hơn ngài.
Không giống như Cha Mohr, Gruber đã phải giấu niềm đam mê âm nhạc của mình. Với người bố khắt khe của ông, một người thợ dệt, âm nhạc không phải là nghề thích hợp để kiếm sống. Nên cứ vào buổi chiều, Franz đã phải lén ra khỏi nhà để đi học lớp nhạc của một thầy giáo địa phương. Ông đã học rất giỏi đến nỗi một ngày nọ khi bố ông nghe ông chơi phong cầm, bố ông đã bớt gay gắt và để cho con trai mình học nhạc.
Franz cũng quyết định trở thành một thầy giáo. Hồi đó người ta muốn thầy giáo còn phải là một người chơi phong cầm và là người điều khiển dàn hợp xướng ở nhà thờ địa phương. Được gửi đến Arndorf
để dạy học, Gruber lại còn được chào đón tại Nhà thờ Thánh Nicholas gần đấy.
Khi Gruber đọc những lời bài hát của Cha Mohr, ông chắc hẳn đã bị tác động mạnh bởi cái đẹp và sự trong sáng của lời bài hát. Ông bước tới chiếc đàn dương cầm của mình và bắt đầu làm việc trong lúc Cha Mohr trở về nhà thờ.
Sử dụng 3 trong số hoà âm cơ bản nhất trong kỹ năng âm nhạc, phong cầm thủ ấy đã tạo nên một giai điệu mộc mạc và gợi cảm sâu sắc. Rồi gần nửa đêm, ông mang bài hát đến cho Cha Mohr. Với thời gian vừa đủ để tập dượt, hai người đồng ý rằng Cha Mohr sẽ chơi ghi-ta và hát bè cao trong lúc ông Gruber hát bè trầm. Sau mỗi phiên khúc, dàn hợp xướng sẽ cùng hát điệp khúc.
Vào lúc nửa đêm, giáo dân xếp hàng một bước vào nhà thờ, có lẽ đang mong đợi chiếc dàn phong cầm sẽ ngân lên khắp nhà thờ âm hưởng của những bài hát mừng Giáng Sinh. Thay vào đó, nhà thờ vẫn im
lặng khi họ ngồi chen chúc trên những hàng ghế dựa hẹp bằng gỗ.
Cha Mohr bước vào gian giữa nhà thờ và ra dấu cho thầy Gruber đến đứng cạnh mình. Cầm chiếc đàn ghi-ta, Cha xứ có lẽ đã giải thích cho con chiên biết rằng, mặc dù chiếc phong cầm bị vỡ, tuy thế, Thánh lễ nửa đêm vẫn có nhạc: ngài và ông Gruber đã chuẩn bị một bài hát Giáng Sinh đặc biệt cho giáo đoàn.
Với Cha Mohr, gảy đàn ghi-ta, hai giọng hát dịu êm chẳng bao lâu đã tràn khắp giáo đường. Dàn hợp xướng hát bản hoà âm gồm 4 đoạn này ở mỗi điệp khúc. Giáo dân lắng nghe với sự ngạc nhiên
trước bài thánh ca tinh khiết và tươi mát như dòng suối ở dãy núi Alps. Sau đó, Cha Mohr cử hành Thánh lễ Misa, và giáo đoàn quỳ xuống cầu nguyện. Ngày trước Lễ Giáng Sinh ở Nhà thờ Thánh Nicholas đã
thành công.
Câu chuyện tưởng như đã kết thúc ở đây. Cha Mohr và ông Gruber sáng tác bài thánh ca của họ như một sự thay thế cho khó khăn tạm thời mà họ gặp phải và có lẽ chẳng bao giờ nghĩ đến việc trình diễn lại bài hát này. Mùa xuân sau đó, một người thợ sửa đàn đã vá lại chiếc phong cầm ấy. Chẳng bao lâu, Cha Mohr được chuyển đến một xứ khác. Mất vài năm, bài thánh ca đó đã rơi vào im lặng như cái đêm mà nó đã đem lại vẻ vang vào năm 1818.
Nhưng may mắn thay cho thế giới,chiếc phong cầm ở Nhà thờ Thánh Nocholas vẫn dở chứng. Vào năm 1824 hay năm 1825 gì đó, giáo xứ này đã thuê một người thợ sửa đàn phong cầm bậc thầy tên là
Carl Mauracher đóng lại nó. Trong lúc làm việc, tình cờ ông Mauracher thấy bài hát của Cha Mohr và ông Gruber sáng tác. Sự giản dị phổ quát của bài hát đã lôi cuốn người thợ sửa phong cầm lớn tuổi này. Trông nom việc sửa lại chiếc đàn phong cầm của Nhà thờ Thánh Nicholas, Gruber đã vui vẻ đồng ý khi ông Mauracher xin bản sao bài “Silent Night”.
Khi rời Oberndorf, Mauracher đã mang theo bài hát này. Những người nghe bài hát qua giọng hát của ông đã say mê vì lời cùng giai điệu của nó. Chẳng mấy chốc, những đoàn dân ca vùng Tyrol, những người thường xuyên toả khắp Âu châu, đã bổ sung bài “Silent Night” vào tiết mục trình diễn của họ.
Trong số những người đưa bài hát này vào tiết mục trình diễn phải nói đến là ban nhạc Gia đình Strasser. Bốn anh chị em trong ban nhạc với những giọng hát thần tiên đã trình diễn tại những hội chợ thương mại trong lúc họ bán bao tay mà gia đình họ làm ra. Vào năm 1831 hay 1832 gì đó, ban nhạc Strasser đã hát bài “Đêm thầm lặng” tại một hội chợ ở Leipzig, nước Đức. Khán giả rất thích bài hát này. Sau đó không lâu, một nhà xuất bản địa phương đã in bài hát này lần đầu tiên, chỉ công nhận nó như bài Tirolerlied hay một bài hát thuộc vùng Tyrol. Không đề cập gì đến Cha Mohr hay ông Franz Gruber gì hết.
Lời hát và điệu nhạc giờ đây đã lan đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu, “Silent Night” đã cùng với ban
nhạc Rainers vượt qua Đại Tây Dương, một gia đình các ca sĩ dân ca trình diễn và chu du khắp Hoa Kỳ. Ở Thành phố New York vào năm 1839 hay 1840 gì đó, ban nhạc Rainers đã gưới thiệu bài hát này với thế giới nói tiếng Anh.
Khán giả khắp mọi nơi bắt đầu tin rằng “Silent Night” vượt lên trên một bài dân ca mộc mạc. Một
số thính giả cho đó là một trong những ca khúc của Haydn. Nhưng ở trong làng của mình, ông Gruber và Cha Mohr vẫn không hay biết gì về những xôn xao mà bài hát của họ gây ra. Cha Mohr đã qua đời vì bệnh viêm phổi, không một xu dính túi, năm 1848 ở tuổi 55. Ngài không bao giờ biết rằng bài hát của ngài đã vươn tới những vùng xa xôi nhất của trái đất.
Mãi đến năm 1854, Gruber mới nghe nói về sự thành công của bài hát, khi người điều khiển buổi hoà nhạc phục vụ vua Frederick William IV của nước Phổ bắt đầu truy tìm nguồn gốc của bài hát
này. Khi lời đồn đại đến tai Gruber, lúc đó ông 67 tuổi, ông đã viết một lá thư tới Berlin kể vế nguồn gốc của bài hát.
Thoạt tiên, ít có học giả nào tin rằng hai con người khiêm tốn ấy lại có thể nghĩ ra một bài Thánh ca Giáng Sinh nổi tiếng như thế. Năm 1863, khi ông Gruber qua đời, quyền tác giả của ông vẫn bị thách thức. Cùng năm ấy, Cha John Freeman Young, người mà sau này trở thành Giám mục Tân giáo ở Florida
đã dịch 3 khổ thơ của bài hát này sang tiếng Anh mà ngày nay chúng ta vẫn hát.
Không còn bất kỳ một tranh cãi nào về tác quyền của nguyên thuỷ bài hát này. Các tượng đài ở Áo đã biểu lộ lòng tôn kính đối với Cha Mohr và ông Gruber, và di sản của họ đã trở thành một phần thiết yếu của Lễ Giáng Sinh khắp mọi nơi. Ông William E. Studwell ở Đại học Northern Illinois, Hoa Kỳ, một chuyên gia Thánh ca Giáng Sinh, đã nói: “Đêm thầm lặng là biểu tượng âm nhạc của Lễ Giáng Sinh.”
Thực ra, bài Thánh ca này giờ đây được hát khắp các lục địa trên thế giới bằng nhiều ngôn ngữ, từ tiếng gốc Đức đến Welsh, từ tiếng Swahili đến tiếng Afrikaans, từ tiếng Nhật đến tiếng Nga, từ tiếng Triều Tiên đến tiếng Việt rồi tiếng Hoa – tất cả cùng diễn tả một cảm giác sâu lắng về sự thanh bình và niềm hân hoan. Nó đã được ghi âm với những giọng ca của những ca sĩ, từ Bing Crosby đến Elvis Presley.
Qua bao năm, bài Thánh ca mộc mạc này đã biểu hiện một quyền lực mạnh mẽ để tạo ra cảnh an bình trên thiên quốc. Chẳng hạn trong thời gian ngưng bắn Lễ Giáng Sinh năm 1914, những người lính
Đức dọc theo phòng tuyến mặt trận phía Tây đã bắt đầu hát bài “Silent Night”. Từ phía bên kia của vùng cấm địa. Những binh sĩ Anh cũng cùng hát bài hát đó.
Trong cùng cuộc chiến ấy, tại trại tù binh Seberi, các tù binh người Đức, Áo và Hungari bỗng cùng đồng thanh hát bài “Silent Night”. Với những giọt nước mắt rưng rưng trong khoé mắt, viên cai tù người Nga nói bằng tiếng Đức bồi: “Đêm nay là lần đầu tiên trong hơn một năm của cuộc chiến mà tôi đã có thể quên giữa các anh và tôi xem nhau như những kẻ thù.”
Ở Tiệp Khắc bị Đức Quốc Xã chiếm đóng vào năm 1944, một sĩ quan Đức thăm một trại mồ côi đã hỏi xem có em nào biết bài “Đêm thầm lặng” bằng tiếng Đức không. Một bé trai và một bé gái ngập
ngừng bước tới, rồi bắt đầu hát “Stille Nacht, heilige Nacht”. Viên sĩ quan nhoẻn miệng cười, nhưng sau đó hai đứa trẻ ngừng hát, như chừng chúng bắt đầu nhớ ra điều gì và trông chúng sợ hãi. Ở vùng đất của quốc gia đó, những người biết tiếng Đức chủ yếu là người Do Thái. Thấy vẻ sợ hãi của chúng, viên
sĩ quan này đã dỗ dành chúng. “Đừng sợ”, ông nói. Ông ta cũng bị xúc động bởi sự kỳ diệu của bài hát.
7 năm sau đó, vào một Lễ Giáng Sinh trong thời chiến tranh Triều Tiên, một người lính Mỹ trẻ tên là John Thorsness, khi đang trong phiên gác, anh nghĩ mình đã nghe thấy tiếng quân địch. Ngón tay
đặt trên cò súng, anh thấy một đám đông người Triều Tiên đi ra từ bóng tối, họ đang mỉm cười. Khi người lính trẻ này đứng sững sờ, nhóm người này đã hát bài “Silent Night” bằng tiếng Triều Tiên, sau đó họ lui dần vào bóng tối.
Bài hát đã được sáng tác rất xa về không gian và rất lâu về thời gian: “Đêm thầm lặng, đêm thánh, tất cả
đều êm đềm, tất cả đều ngời sáng…”
. Những lời hát khó quên giai điệu mộc mạc ấy vẫn lưu lại trong tâm hồn của chúng ta như đã từng lắng đọng trong tâm hồn của mọi người trên khắp thế giới kể từ khi một vị cha trẻ và một người bạn của ngài làm thầy giáo làng đã hát nó lần đầu tiên cách đây 194 năm.
(Mùa Vọng Giáng Sinh 2012)
Jos. Tú Nạc, NMS
Silent Night (with lyrics)

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

LỄ ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI 8/12

TẤM PHÔNG VÀ BỨC TRANH CÓ TÊN GỌI MARIA

 

“ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28)

Tín điều Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội được Giáo Hội chính thức công bố ngày 8/12/1854 dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Piô IX, kế đến, chính môi miệng Mẹ Maria đã xác quyết khi hiện ra với thánh nữ Bernadette tại Lộ Đức vào ngày
25/3/1858. Mẹ đã phán: “Ta Là Đấng Vô Nhiễm Thai”.

Mẹ Maria là một trong muôn vàn thụ tạo do Thiên Chúa sinh dựng, nhưng Thiên Chúa đã ban tặng cho Mẹ nhiều đặc ân: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Nữ Vương Hòa Bình, Mẹ của chúng sinh…Riêng đặc ân Vô nhiễm Thai là đặc ân khởi đầu, nhờ đặc ân Vô Nhiễm Thai mà cung lòng của Mẹ đã trở nên cao sang, thanh khiết, vẹn tuyền, cung lòng của Mẹ đã trở nên ngôi đền thờ Thiên Chúa ngự qua biến cố Truyền Tin và mầu nhiệm Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa.

Đặc ân Vô Nhiễm Thai mà Mẹ Maria lãnh nhận từ Thiên Chúa được nằm trong chương trình cứu độ mà Ngài đã hứa ban sau khi con người nhân loại đầu tiên là ông A-dong và bà E-va lỗi nghịch cùng Thiên Chúa nơi vườn Địa Đàng, trình thuật sách Sáng Thế sau đây đã minh chứng điều ấy: “Đức Chúa phán với con rắn: Ta sẽ gây mối thù giữa ngươi và người phụ nữ, giữa dòng giống  ngươi và dòng giống người ấy, dòng giống người ấy sẽ đạp vào đầu ngươi, cònngươi sẽ tìm cách cắn gót chân  người” (St.3,15). Dòng giống người phụ nữ mà sách Sáng Thế mô tả không ai khác, đó chính là  Đức Trinh Nữ Maria.

Vâng! Khởi đi từ ý muốn và Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa mà Mẹ Maria đã được Thiên Chúa sủng ái và ban tặng nhiều đặc ân, lời chào của Sứ Thần trong ngày Truyền Tin đã minh chứng điều ấy: “ Mừng vui lên, hỡi đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc.1,28), như lời minh định của thánh Phaolô: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn
vàn ơn phúc của Thánh Thần. Trong Đức Kitô, Người đã chọn ta trước cả khi tạo
thành vũ trụ, để trước thánh nhan Người ta trở nên tinh tuyền, thánh thiện…” (Ep.1,3-4).

Có thể nói, cuộc đời của Mẹ Maria được ví như tấm phông tuyệt mỹ. Tấm phông có tên gọi Maria được dệt bằng những sợi tơ vàng, sợi tơ yêu thương dưới bàn tay điêu luyện của người thợ dệt là Thiên Chúa, để rồi từ tấm phông ấy, một lần nữa Thiên Chúa, Người họa sỹ đại tài đã dùng những gam màu sáng tối, đậm lợt, những đường cong và thẳng đan xen nhau, những nét vẽ điêu luyện tạo nên một bức tranh tuyệt đẹp. Bức tranh ấy diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, diễn tả hồng ân Cứu Độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho con cái loài người một cách nhưng không. Vâng! Thiên Chúa, Ngài đã dệt, đã vẽ trên tấm phông có tên gọi là Maria để thực hiện lời hứa của Ngài với toàn thể con cái loài người như ngôn sứ Isaia đã trình thuật: “ Ta đã nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày ta cứu độ. Ta đã gìn giữ ngươi, đặt ngươi làm giao ước giữa ta với dân, để phục hồi xứ sở, để chia lại những gia sản đã bị tàn phá…”(Is.49,8).

Thiên Chúa, Ngài đã phác họa những gì trên tấm phông mang tên Maria? Xin thưa! Thiên Chúa vẽ một Trái Tim thanh khiết, tinh tuyền, không tỳ ố ngay khi tấm phông có tên gọi Maria được hình thành nơi cung lòng của bà An-na; trong ngày Sứ thần Truyền tin, Ngài phác họa những từ Tín Thác, Khiêm Nhường Xin Vâng; Ngài vẽ hai chữ Hạnh phúc Bình An nơi máng cỏ Belem khi Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần; Ngài tô đậm hai chữ Yêu Thương và Phục Vụ nơi nhà bà Êlisabet, nơi tiệc cưới Cana; trên đỉnh đồi Can-vê Ngài vẽ những đường cong và thẳng đan xen nhau kết nên hai chữ Thinh LặngChịu Đựng; qua biến cố Phục Sinh, Ngài vẽ những nét đậm với hai chữ Vui Mừng và Hy Vọng . Cuối cùng, Ngài vẽ hình lưỡi lửa trong ngày lễ ngũ tuần, ngày khai sinh ra Giáo Hội trần thế. Thiên Chúa rất hài lòng sau khi thực hiện nét vẽ cuối cùng trên tấm phông có tên gọi Maria, không những thế, Ngài còn ban tặng bức tranh ấy cho toàn thể nhân loại như một bảo chứng của tình yêu.

Vâng! Dưới bàn tay điêu luyện của Thiên Chúa, tấm phông  có tên gọi Maria giờ trở thành một bức tranh tuyệt tác. Bức tranh ấy được treo một cách trang trọng nơi tòa nhà của Thiên Chúa, trở thành điểm nhấn, trở thành  vườn hoa muôn màu, muôn sắc nơi vườn thượng uyển; trở thành tấm gương phản chiếu hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa một cách rõ nét, là tấm gương soi cho tất cả những ai tin nhận Thiên Chúa, và nhất là trở thành ánh sao dẫn đường cho những ai đang lần mò đi trong đêm tối của niềm tin, những tâm hồn khát khao đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa nơi cuộc sống dương gian.

Hướng về Mẹ Maria với tước hiệu Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, trước tiên ta cảm tạ Thiên Chúa đã ban tặng cho ta một người Mẹ thanh khiết, vẹn toàn, một tấm gương phản chiếu tình yêu của Thiên Chúa, ta cảm tạ Thiên Chúa đã giúp ta cảm nhận được sự hiện diện của Ngài trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống ngang qua Mẹ Maria, ta xin Chúa tháp nhập con người và cuộc đời ta lên tấm phông có tên gọi Maria. Với tấm lòng con thảo, ta xin Mẹ giúp ta trở thành tấm phông để qua tấm phông là chính con người và cuộc đời của ta, Thiên Chúa sẽ vẽ những nét đẫm lợt, sáng tối theo Thánh Ý của Ngài, như Ngài đã thực hiện nơi cuộc đời của Mẹ Maria.

Trên bước đường lữ thứ trần gian, còn đó những cám dỗ, những lời mời gọi ngọt ngào của quyền lực sự dữ; còn đó những thách đố, khổ đau do bệnh tật, đói nghèo, do bất hòa chia rẽ; còn đó những vô cảm đối với Chúa và với nhau, tất cả những điều đó dễ làm trái tim và con người của ta trở nên hoen ố, trở thành những làn roi, thành những gai nhọn và đinh sắt đóng vào thân mình của Đức Kitô, trở thành những vết nhơ trên bức tranh mà Thiên Chúa đã vẽ nơi tấm phông có tên gọi Maria. Với thân phận yếu đuối và mỏng dòn, ta xin Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, để nhờ Mẹ và trong Mẹ ta đón nhận sức mạnh và phúc lành từ nơi Thiên Chúa, nhờ sức mạnh và phúc lành của Thiên Chúa ta mới có thể chống trả chước cám dỗ, ta mới có được sự bình an đích thực và nhất là sự sống bất diệt được khởi đi từ Thiên Chúa.

Giữa mối tương quan gia đình trần thế, ta xin Mẹ Maria giúp ta trở thành những tấm phông, những họa sỹ như lòng Chúa ước mong. Nhờ ơn Chúa tác động và qua sự dẫn dắt của Mẹ Maria, ta cùng vẽ, cùng phác họa cho nhau những nét chữ yêu thương, tha thứ, đồng cảm và sẻ chia, nhờ những gam màu tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, những gam màu hiến thân và phục vụ mà tấm phông là chính cuộc đời của ta và của nhau sẽ trở thành những bức tranh sinh động, bức tranh diễn tả tình yêu của Thiên Chúa, của Mẹ Maria. Qua bức tranh của ta và của nhau mà nhiều người nhận ra khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa, Đấng là Cha, Đấng luôn yêu thương hết thảy mọi người, nhất là những người chưa biết và chưa tin nhận Thiên Chúa. Đặc biệt trong Năm Thánh Đức Tin, ta được mời gọi tuyên xưng, sống và làm chứng cho niềm tin của mình giữa lòng thế giới.

Lạy Mẹ Maria, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội! Xin thương và giúp con biết noi gương Mẹ tận hiến cuộc đời cho Chúa, để nhờ ơn Chúa giúp, con dần trở thành tấm phông mà Thiên Chúa sẽ vẽ, sẽ tạo nên bức tranh như lòng Ngài ước mong. Amen.

Sài Gòn, ngày 07/12/2012

Antôn Lương Văn Liêm

Maria Thanh Mai gởi

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội

Ngày 8/12

Lm. Nguyễn Văn Trinh

Tín điều về “Đức Trinh Nữ Maria ngay từ thuở ban đầu đã được gìn giữ khỏi tội nguyên tổ”, qua thời gian càng ngày càng rõ rệt.

Thánh Kinh không chỗ nào nói rõ điểm này cả, nhưng Hội Thánh qua thời gian (Thánh Truyền) đã hiểu những lời Thánh Kinh và giải thích: Đức Trinh Nữ Maria là thụ tạo trong sạch nhất và có thể nói “thành công” nhất của Thiên Chúa. Đức Trinh Nữ Maria được ví như Eva Mới, không vương nhiễn đến tội và trở thành “Mẹ của chúng sinh”.

Dù vậy chúng ta phải nắm vững :

1. Đức Maria cũng được sinh ra một cách bình thường như mọi người khác.

2. Đức Maria được hưởng hồng ân lớn lao này là nhờ Đức Giêsu Kitô, qua công nghiệp cứu độ của Người là chết trên thập giá.

Về Phụng Vụ, chúng ta đã thấy có những thánh lễ tôn kính Mẹ Vô Nhiễm từ thế kỷ thứ IX, bắt đầu từ Constantinople tràn sang miền Nam Ý và Sicile. Nhưng rõ nét nhất là thánh Anselmô thành Canterburry đã du nhập thánh lễ này vào giáo phận của ngài.

Vào năm 1476 Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, xuất thân từ dòng Anh Em Hèn Mọn, đã đem thánh lễ này vào Giáo Hội La Mã.

Ngày 8.12.1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX trong Thông Điệp “Ineffabilis Deus” đã long trọng công bố tín điều “Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội” cho toàn thể Hội Thánh Công Giáo.

Maria Thanh Mai gởi

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)

Nói cho con người (Ba bài giảng sám hối): Lm Chân Tín (5)

Đăng bởi cheoreo lúc 1:40 Sáng 7/12/12

VRNs (07.12.2012) – Sài Gòn – Bài sám hối thứ ba này sẽ được nhà cầm quyền dùng làm bằng chứng, lên gân nội bộ và ra quân bắt cha Tín đi đầy, nhưng thật ra, bài này, cha Chân Tín vẫn kêu gọi sám hối mà thôi. Cũng có thể, người ta không chịu nổi việc làm xấu của họ bị gọi đích danh.

Ba bài giảng sám hối

(Mùa Chay, tháng 4/1990)

Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp – DCCT

(đường Kỳ Đồng, Sài Gòn)

 

Bài giảng thứ ba

Sám hối tập thể Quốc gia

Trong bài giảng tối qua, tôi nói đến  sám hối của Giáo hội: Giáo hội nhận sứ mạng của Chúa cha trong việc thu họp mọi người trong Chúa Kitô. Tôi đã nhấn mạnh Giáo hội Việt Nam chưa phấn đấu đủ để hoàn thành sứ mạng rao giảng Tin mừng; chưa phấn đấu đủ cho việc đào tạo linh mục, việc các dòng tu được hiện hữu và hoạt động; chưa phấn đấu để người Công giáo khỏi bị chèn ép, khỏi là công dân hạng hại; chưa phấn đấu đủ cho công việc giáo dục, y tế, xã hội của Giáo hội để phục vụ nhân dân, nhất là chưa phấn đấu  đủ cho nhân quyền.

Hôm nay, trong buổi nói chuyện cuối cùng, tôi xin đề cập đến việc sám hối trên khía cạnh tập thể quốc gia.

Tại quốc gia này, trong 15 năm nay, Đảng CSVN đã một mình cai trị toàn cõi Việt nam trong một thời gian lâu dài hơn bất cứ chính phủ nào trước kia trong chế độ cũ: Bảo Đại được 7,8 năm; Ngô Đình Diệm, 9 năm; Dương Văn Minh, Phan Khắc Sửu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu chia nhau chỉ có 12 năm.

Đảng CSVN dính liền với các nước CS khác: trước nhất là Liên Xô, người anh cả; rối các nước Đông và Trung Âu; rồi đến Trung Quốc mà ngày xưa Đảng CSVN gọi là ‘môi hở răng lạnh’: ông Cuba đang gồng mình làm tiền đồn cho CS ở châu Mỹ; ông Bắc Hàn đang dựng một hệ thống độc tài cha truyền con nối.

Khỏi nói đến ông Trung Quốc, Cuba, Bắc Hàn là những chế độ đầy vi phạm đến quyền căn bản con người, mà chưa thấy một chút ân hận nào, thì làm gì có sám hối, có đổi mới.

Các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối, đã vạch những tội ác của các chế độ cộng sản theo đường lối độc tài tàn ác của Staline. Họ đã lên án lãnh tụ bất tài bất tướng của họ và tuyên bố từ nay tôn trọng nhân quyền, tôn trọng tự do tín ngưỡng, trả tự do cho tù chính trị.

Tôi muốn dành thì giờ để nói đến Liên Xô và đất nước chúng ta.

A. SÁM HỐI TẠI LIÊN XÔ:

Trước hết ta nhìn về Liên Xô, đất nước của Lê nin, nơi phát xuất cách mạng xã hội chủ nghĩa trong 73 năm, lãnh đạo cuộc cách mạng XHCN khắp thế giới, đất mẹ của Cách mạng XHCN Việt Nam.

1. Phim “sám hối”

Cách đây trên 20 năm, một cuốn phim Liên Xô tố cáo tội ác của chế độ độc tài của Staline, đã được thực hiện; nhưng chỉ cách đây vài ba năm, cuốn phim mới được xuất xưởng chờ cuộc sám hối của Liên Xô, và trong một thời gian ngắn, cuốn phim đã được thế giới nhìn nhận là kiệt tác: đó là phim ‘sám hối’ của Adbuladze. Cuốn phim mô tả một vụ án một người phụ nữ đã ba lần đào mả ông Varlam, thị trưởng của một thành phố nhỏ ở Liên Xô. Bà này là con của nạn nhân của ông thị trưởng này. Tại tòa, bà tuyên bố bà không thể để tên độc tài đó trong mồ, nếu cần bà còn đào nữa.

Đây là bản án dành cho một cơ chế quyền lực độc đoán, không dựa trên pháp luật, mà dựa trên sự mị dân và đàn áp. Phải giải thoát mọi người khỏi nỗi khiếp sợ và sự tôn kính không tự nguyện đối với ông thị trưởng tác oai tác quái, hình ảnh của Staline và cả một thế hệ lãnh đạo Liên Xô và các nước XHCN trong 73 năm qua. Y muốn trừ tận gốc tất cả những gì là sự sống và tài năng xung quanh y, bất mãn với mọi người, vì thế bỏ tù tất cả. Nhưng tất cả những vụ bắt bớ hành quyết nhục hình, y dùng bàn tay kẻ khác. Niềm khoái lạc thâm độc của y là rình rập một nạn nhân và mào đầu một trò chơi tàn bạo với kẻ thù mới, bằng cách chuẩn bị một màn công lý đẫm máu sẽ được bộ
hạ hoàn tất. Y nói: “Nếu muốn, chúng ta sẽ bắt được mèo trong phòng tối, kể cả
khi không có mèo.” Hoạt động chống lại con người tiêu biểu nhất của y là đã lấy
đền thờ làm chỗ thí nghiệm khoa học, rồi cho nổ tung nhà thờ, y muốn chặt đứt
rễ sống nuôi dưỡng và làm giàu đời sống tinh thần của nhân dân, xóa bỏ truyền
thống văn hóa. Đối với y, bốn người dân là bốn kẻ thù.

Y chết, đám tang lớn, có điếu văn ca ngợi. Một ngày sau, xác y được chôn cất đã bị quật lên đến ba lần do một người đàn bà, con của một nạn nhân. Ra tòa, bà nói còn quật lên nữa. Cuốn phim kết thúc với cuộc tự vẫn của cháu nội của tên độc tài vì nó ‘sám hối’ thay cho ông nội nó; đến lượt con trai cũng ‘sám hối’, bằng cách đào mồ bố và liệm xuống vực thẳm phơi thay cho đàn quạ. Cảnh cuối cùng là một bà cụ già đi ngang qua nhà người phụ nữ đã quật mồ tên độc tài. Người này bây giờ có nghề làm bánh ngọt. Trên mỗi chiệc bánh đều có hình một tháp nhà thờ. Bà cụ hỏi: “Đường này có đưa tới nhà thờ không?” Người bán bánh trả lời: “Không, thưa cụ.” Bà cụ trợn mắt
bảo: “Đường không đưa đến nhà thờ thì để làm gì?”…

Cuốn phim ‘Sám hối’ như thế đó. Hồi ấy cuốn phim chỉ là một ước mơ của nhà soạn phim Adbuladze. Nhưng nay là sự thật: toàn dân Liên Xô đã sám hối, cấp lãnh đạo Liên Xô đã sám hối. Họ đang quật mồ của Staline lên bằng cách tố cáo những tội ác của y và của tay sai y trong nhiều thập niên trước đây. Ta hãy lắng tai nghe họ nói. Ta lần lượt nghe các nhà văn lớn ngày nay của Liên Xô, các nhà trí thức, các Đảng viên cộng sản, các cấp lãnh đạo. Họ tố cáo các tội ác của một chế độ độc tài và họ đưa ra
những đường hướng mới cho cuộc sống lại của những giá trị thiêng liêng: họ đang
sám hối.

2. Các nhà văn Liên Xô

Sau đây là cuộc sám hối của các nhà văn lớn hiện tại của Liên Xô. Các nhà văn lớn của Liên Xô lên tiếng về sự mất mát các giá trị thiêng liêng của xã hội Liên Xô ngày nay.

Các nhà văn Bykov, Astafiev, Aytmatov, tất cả tố cáo sự sa sút luân lý sau 70 năm cách mạng. Nguồn gốc của sự sa sút này là ở trong công cuộc phá hoại tôn giáo. Con đường ra khỏi cuộc khủng hoảng này là làm tôn giáo sống lại.

+ Bykov (một nhà văn lớn) cho rằng không thể có luân lý nếu không có đức tin.

+ Astafiev: “Ai đẩy chúng ta vào vực thẳm của sự dữ và bất hạnh, và vì sao? Ai dập tắt ánh sáng của sự thiện trong tâm hồn chúng ta? Ai đã đẩy lui ngọn đèn của lương tâm chúng ta, đẩy nó vào vực thẳm tăm tối, trong đó chúng ta mò mẫm, cố gắng tìm đáy vực thẳm, tìm một cái gì để dựa và một chút ánh sáng dẫn ta đến tương lai? Ích gì cho chúng ta cái ánh sáng đưa chúng ta đến ngọn lửa của địa ngục? Chúng ta đã từng sống với ánh sáng của tôn giáo trong tâm hồn chúng ta, một ánh sáng đã có từ lâu trước ta… Người ta đã làm mất đi ánh sáng đó và không mang lại gì khác cho ta để thay thế, trái lại họ đem lại cho ta vô tín ngưỡng.”

+ Aytmatov (Hồi giáo)

Được hỏi vì sao ông lại chọn một chủng sinh Kitô giáo làm nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đoạn đầu đài của ông, ông nói: “Kitô giáo đã tạo một thúc đẩy mạnh mẽ trong khuôn mặt Đức Kitô. Đạo Hồi mà tôi là thành phần qua nguồn gốc dân tộc không có một khuôn mặt như vậy. Mahomet không phải là một tử đạo. Ngài có những ngày gian khổ, nhưng bị đóng đinh cho một lý tưởng và tha thứ cho người bách hại mình thì đạo Hồi không có như vậy.”

Rất nhiều nhà văn như thế nghĩ rằng tái lập những giá trị tôn giáo là con đường duy nhất để giải quyết cuộc khủng hoảng thiêng liêng hiện thời. (Chr. Sc. Monitor, 13/10/86).

3. Các nhà trí thức

Trong một cuộc trao đổi bàn tròn, một số nhà trí thức đã tố cáo sự bất khoan dung của chế độ cộng sản và kêu gọi sự bao dung, điều kiện quan trọng để có sự thông cảm giữa người và người.

+ Alexandre Nejny (một nhà báo) nói về sự bất bao dung của Liên Xô: “Chúng ta
khó mà bao dung với những người khác chính kiến, chúng ta phải hiểu vì sao
chúng ta bất bao dung như thế, vì sao ta lại chống đối tôn giáo và Giáo hội.
Chính cái bất bao dung là thủ phạm của bao hy sinh của công dân nước ta vì niềm
tin của họ… Nhiều cán bộ chuyên trách về tôn giáo của Hội đồng Bộ trưởng, với
chức năng làm trung gian giữa Nhà nước với các cộng đoàn tôn giáo, giữa chính
quyền địa phương và các tín đồ, tuy họ còn trẻ, nhưng đã nhiễm tinh thần bất
bao dung truyền lại từ thời Staline và tỏ mình bền chí như những người đi trước
họ, bằng cách bắt bớ Giáo hội và các tín đồ.”

+ Janis Pujato (Giám mục Riga): “trong xã hội ta, tình cảnh người tín hữu
và người vô thần không ngang nhau. Người vô thần có quyền tuyên truyền tư tưởng
của mình, còn tín hữu chỉ được tế tự.”

+ Youri Davidor: “Có câu tục ngữ ‘Nhà thờ không phải là những khúc gỗ, nhưng
là con người’. Người ta sửa sang được nhà thờ là một điều ghê gớm. Nhưng làm
sao cho Giáo hội sống lại trong các tâm hồn là ưu tiên.”

+ Alxandre Nejny: Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm ngày rửa tội nước Nga, ông Nejny
có viết một bài ở báo tin tức Moscova ngày 19/6/1988. Ông nói: “Quan niệm coi
Giáo hội là một tàn dư có hại từ bản chất là một mưu toan xấu nhằm tước mất của
nhân dân cái di sản văn hóa và lịch sử vĩ đại. Chủ nghĩa vô thần bằng bất cứ giá nào là vô ích và tai hại, bởi vì khi thực hiện nguyên tắc đó, họ đã cưỡng bức cả quá khứ lịch sử của Liên Xô lẫn sự tự do lương tâm cả hàng triệu đồng bào của họ. Phải hiểu rằng vô thần cũng như tín hữu, họ cùng thừa hưởng một truyền thống tinh thần lớn lao duy nhất và chính cùng với truyền thống này mà những chân lý về sự thiện, về lòng nhân từ, và về lòng thương yêu đi vào bên trong cuộc sống của họ. Những kẻ tìm cách làm cho Giáo hội mất đi môi trường hoạt động của mình và cắt đứt mọi con đường đưa từ nhà thờ tới trần thế, những kẻ ấy đã phạm một lỗi lầm xã hội và chính trị không thể tha thứ được. người ta lơ là không dám đếm xỉa đến những quyền lợi của các tín hữu và coi các tín hữu này như những công dân hạng hai. Phải tôn trọng vô điều kiện nhân phẩm con người, nhìn nhận con người có những quyền không thể chuyển nhượng. Giáo hội có những đau khổ trong bảy thập niên vừa qua. Sao không tỏ lòng cảm phục hẳn hiên mà tưởng niệm những người đã chết vì đức tin trong các trại tù thời Stanline? Sự nghiêm chỉnh luật pháp trong các quan hệ giữa Nhà nước vô thần và Giáo hội bao hàm khoảng cách giữa đôi bên. Khoảng cách đó có thể tránh cho Giáo hội một nguy cơ trầm trọng: nguy cơ bị nghẹt thở bên trong những vòng tay siết chặt của các nhà cầm quyền và một khi bị tước đoạt sự độc lập tinh thần, nguy cơ trở
thành một bộ phận Nhà nước.”

+ Youri Davydov (nhà văn vô thần): “Nói đến bao dung thì dễ dàng hơn đối với
người của Giáo hội, vì họ có một truyền thống lâu đời hàng thế kỷ về điểm này,
còn những người vô thần như chúng tôi chưa biết đến. chúng tôi cứng cỏi, chúng
tôi đã đưa cái bất bao dung lên hàng đầu trong cuộc sống xã hội. Kết quả: Chúng
tôi không cảm thấy bao dung và thương xót đối với con người, con vật và cả
thiên nhiên. Phần tôi, tôi đã phải học cho biết bao dung trong các trại giam
của Statine. Các bạn ngạc nhiên phải không? Điều đó khó, nhưng nếu không, người
ta không sống sót nổi: thiếu thốn, đói khát, những khó khăn của cuộc sống ấy
nối kết chúng tôi lại.” (Nouvelles de Moscou, 30/10/1988).

+ Averintsev (tiến sĩ ngữ học, Hàn lâm viện Khoa học): “Cách thức tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề giữa những con người với nhau là tranh luận tự do mà không trở thành bất hòa, người ta không nhất thiết phải luôn có cùng một ý kiến với nhau mới tôn trọng nhau được. Cuộc sống xã hội không thể có được nếu không có bao dung. Mỗi người có toàn quyền tự do không những theo một niềm tin mình muốn, mà còn tuyên truyền bất cứ một tôn giáo nào hay đổi niềm tin. Không một cán bộ nào có quyền hỏi một ai về niềm tin của họ, đó là vấn đề lương tâm (Lê nin).”

4. Đảng và Nhà nước

Ông Constatin Katchev (trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ Liên Xô), trong một cuộc phỏng vấn, khi người ta hỏi: Sau 70 năm cách mạng, có gì thay đổi trong một đất nước vô thần như Liên Xô đối với tôn giáo, ông nói: “Có nhiều thay đổi. Thay đổi chính yếu là nay người tín hữu không còn bị coi như công dân hạng hai nữa (năm 1976, tại Mặt trận Trung ương, tôi cũng đã nói người công giáo Việt nam được coi như công dân hạng hai). Điều này tiếc thay vẫn còn xảy ra một cách quá thường xuyên… Việc Hiến pháp Liên Xô kỳ thị tín hữu và ưu đãi người vô thần phải được chấm dứt. Ngày nay, người vô thần được tự do tuyên truyền, còn các tín hữu thì chỉ được nói về đức tin của
họ trong khuôn khổ nhà thờ mà thôi hoặc chỉ được nói trên báo chí với số ấn
hành rất hạn hẹp. Cần phải làm sao để người không tín ngưỡng và người có tín
ngưỡng đều được quyền như nhau.

+ Nhà nước không thể lấy công quỹ để tài trợ việc tuyên truyền vô thần được, vì đây là tiền của mọi người trong có người tín hữu.

+ Luật mới sẽ cho phép ai muốn học tôn giáo một cách cá nhân hay theo nhóm với sự trợ giúp của linh mục và học hỏi bất cứ ở đâu. Đây là chuyện riêng của công dân. Nhà nước không được xen vào.

+ Luật sẽ loại bỏ việc xin phép lập các tổ chức tôn giáo như các hội đoàn. Một tổ chức tôn giáo (họ đạo, họ đoàn) sẽ được tín hữu tự do thành lập mà không cần xin phép.” (La Republica, 4/3/1989).

Ông Gorbatchev, Tổng thống Liên Xô: “các quyền của con người trong chế độ XHCN không phải là quà tặng của Nhà nước, không phải là việc làm từ thiện của ai… Công cuộc cải tổ đã đặt ra vấn đề về các quyền chính trị của con người… Chúng ta không có quyền để cuộc cải tổ vấp phải tảng đá giáo điều và bảo thủ, vấp phải những thành kiến và những tham vọng riêng của ai đó.” (Saigon Giải phóng, 1/7/1988).

“Không có tính công khai, phê và tự phê, không có dân chủ thì quá trình cải tổ không thể tiến triển được. nó sẽ chết yểu và chúng ta có thể chôn nó ngay trong ngày hôm nay.” (Saigon Giải  phóng, 2/7/1988. hội nghị Cộng sản Liên Xô).

“Chúng ta đoạn tuyệt với hệ thống độc đoán quan liêu. Lý tưởng của chúng ta là chủ nghĩa xã hội nhân đạo và nhân chủ. Chúng ta từ bỏ việc Nhà nước hóa một cách độc đoán đời sống xã hội, điều đã dẫn đến sự lộng quyền và bất chấp pháp luật. Đảng Cộng sản không giữ độc quyền, không loại trừ khả năng thành lập các Đảng.” (Sàigon Giải phóng, 14/2/90).

Gorbatchev nói với Gioan Phaolô II: “Chúng tôi cần những giá trị thiêng liêng, cần một cuộc cách mạng tinh thần. Đây là con đường độc nhất đưa đến một nền văn hóa mới và nền chính trị mới… Chúng tôi đã đổi thái độ đối với một số vấn đề, ví như tôn giáo, mà chúng tôi đã cư xử một cách đơn giản. Bây giờ, không những chúng tôi nhận định rằng không một ai có quyền can thiệp vào những vấn đề lương tâm cá nhân, nhưng chúng tôi còn nói rằng những giá trị luân lý mà tôn giáo đã làm nẩy sinh ra và đã đúc kết trong hàng thế kỷ, có thể giúp cho công việc đổi mới Đất nước chúng tôi vậy. Những người thuộc nhiều tôn giáo ở Liên Xô, tất cả điều có quyền thỏa mãn nhu
cầu thiêng liêng của họ.” (Time, 11/12/1989).

Với những lời của Gorbatchev, chúng ta có thể thấy được một phong trào sám hối đang được thúc đẩy mạnh mẽ ở Liên Xô.

B. SÁM HỐI TẠI VIỆT NAM:

Còn ở Việt Nam ta? Việt Nam dĩ nhiên không phải Liên Xô hay các nước Đông Âu. Liên Xô và các nước Đông Âu dĩ nhiên không phải là Việt Nam. Nhưng Việt Nam cũng không sống trên một hành tinh khác. Và con người thì ở đâu cũng như nhau. Con người ở Việt Nam cũng như ở Liên Xô, ở Đông Âu cũng khát vọng sống, cũng khát vọng tự do thực sự, hạnh phúc thực sự, dân chủ thực sự.

Sau đây tôi xin trích những phát biểu, những ý nghĩ của báo chí, các nhân vật của Đảng, Quốc hội, Nhà nước. Quân đội về thực trạng tồi tệ của đất nước và những ưu tư, trăn trở, một ít ân hận, nhưng chưa có sám hối vì chưa thấy có gì đổi mới thực sự.

1. Báo chí Việt Nam và các nhà văn

+ Trước hết báo chí

Tự do báo chí rất giới hạn và như một người làm báo thú nhận trong một cuộc hội thảo về dư luận báo chí, cho đến nay chỉ có những công chức làm báo, chưa có nhà báo thực thụ. Tuy vậy trong mấy năm qua, đã có nhiều lời ‘nói thẳng nói thật’ hơn trước về tình trạng sa sút trên mọi địa hạt đời sống xã hội.

Chỉ trong tháng ba vừa qua, sau khi vụ ‘Đường Sơn Quán’ đổ bể do báo tuổi trẻ nêu lên, nhiều cán bộ cao cấp dính trong vụ ăn chơi trác táng như chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thủ Đức, Trung tá Phan Thanh, Trưởng ban hình sự của TP và nhiều nhân vật khác, một bài của báo Saigon Giải phóng (1/3/1990) đã yêu cầu loại trừ những bướu độc: Đảng và Nhà nước phải kiên quyết loại trừ ngay các cơ quan Đảng, chính quyền mọi cấp, những cán bộ thiếu khả năng, kém phẩm chất đạo đức, đang biến chất, tha hóa, xa rời quần chúng, quan liêu, đứng trên dân. Đây là những cán bộ có chức quyền, và từ những chức, những quyền ấy, họ biến đặc quyền, đặc lợi trở thành hiện tượng nghịch tình nghịch lý trước đời sống của đa số cán bộ công nhân viên chức và nhân dân còn nhiều mặt khó khăn. Mọi người thừa biết, để có được cuộc sống giàu sang một cách phi đạo lý, những cán bộ này đã lấy tiền ở đâu? Đó là kết quả của những
hành động ăn cắp của công, tham nhũng, hối lộ, móc ngoặc, buôn lậu mà họ đã lạm
dụng chức quyền để làm.

Ngay trong tháng giêng 1990, một bài khác cũng của báo Saigon Giải phóng (18/1/1990) cũng đã phơi bày tệ nạn ăn chơi phung phí của cán bộ. Sau khi đề cập đến cuộc sống vất vả của một giáo viên phải đi sửa xe ban đêm, một nữ sinh không dám sinh con thêm vì thiếu sữa, bài báo nói tiếp: “Họ là giáo viện, y tá, kỹ sư, công nhân, bộ đội và những người lao động bình thường khác có cuộc sống thật vất vả. Nhưng bên cạnh đó, cũng trên một đất nước và một thành phố có nhiều lo toan, đã và đang tồn tại một cuộc sống khác, xa hoa và phung phí không thể tưởng tượng nổi. Kiểu ăn chơi bạt mạng, quái đản và trụy lạc của nhóm này đối nghịch một cách mỉa mai với cuộc sống bươn chải và khiêm tốn của đa số còn lại. Dân có tiền đang tạo ra hình ảnh của một thế giới trong một thế giới. Họ là ai? Giai cấp mới, giới thượng lưu mới, hiện nay thẳng tay vung tiền qua cửa sổ, những người dám bỏ ra bạc triệu để mua vui, mà tiền là tiền của Nhà nước, của nhân dân. Bằng những thủ đoạn lừa bịp tinh vi, bằng những sự liên kết và che giấu lẫn nhau trên cơ sở đôi bên đều có lợi, những phần tử xấu trong cán bộ công nhân viên Nhà nước đã lợi dụng những kẻ hở để tha hồ bòn rút đục khoét công quỹ.”

+ Các nhà văn

Nhiều nhà văn như Dương Thu Hương (Những thiên đường mù), Trần Mạnh Hảo (Ly thân) đã tố cáo những vi phạm nhân quyền của chế độ cộng sản Việt Nam.

1. Đảng và Nhà nước

– Ông Trần Bạch Đằng phát biểu: “Kinh nghiệm cay đắng ở từng loạt quốc gia XHCN cho thấy một khi Đảng đã rơi vào bệnh kiêu ngạo tuyệt đối hóa vai trò lãnh đạo
của Đảng, tất cả đều xuất phát từ ‘ơn Đảng’, từ sự minh mẫn đến độ thần thánh
thì cái bờ vực đang chờ một sẩy chân nho nhỏ vùi lấp mọi ánh hào quang…

Đảng chưa dùng sức mạnh quần chúng để chấn chỉnh Đảng, nhất là về tổ chức, nhân sự… đề cương (Trung ương Đảng) chưa thoát khỏi cách hiểu ngầm: quần chúng kém, Đảng phải vận động để nâng tầm quần chúng lên. Tất nhiên điều đó có thật, song nếu đặt mối tương quan một cách biện chứng thì cái mà không ít Đảng viên lạc hậu hơn quần chúng về trí thức, nhiệt tình và phẩm chất giữ vai trò không nhỏ trong hiệu quả của công tác vận động quần chúng…

Về các tổ chức quần chúng Công giáo, có một lầm lẫn đáng tiếc: Ủy ban Đoàn kết Công giáo là một đoàn thể trong khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam (quốc doanh) là một tôn giáo. Đề cương không nêu chính sách đổi mới với các đối tượng này (về quan điểm) mà đi vào các tổ chức quả là không thỏa đáng.

Riêng nhận thức về Mặt trận của đề cương quá lạc hậu với hiện thực…

Đảng CS gồm những người vô thần, trong khi xã hội còn tôn giáo, còn tín ngưỡng và sẽ còn lâu, ngoài việc tìm chỗ có thể thỏa hiệp về chính trị, chúng ta đâu còn con đường nào khác?” (Nhân dân, 5/3/1990).

– Ông Nguyễn Cơ Thạch trả lời tạp chí Quan hệ Quốc tế: “Chế độ XHCN vì dân, đó là mục đích dân chủ nhất, nhưng cách làm tập trung quan liêu bao cấp đã đi ngược
lại mục đích dân chủ và đẻ ra tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lạm dụng quyền
hành, ức hiếp nhân dân lao động. Một chế độ vì nhân dân nhưng nhân dân không có
quyền dân chủ về kinh tế, cơ sở của quyền làm chủ về chính trị… Loài người đã
kéo dài cuộc sống man rợ trong 2 triệu năm với nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự
túc và không có trao đổi. 10 ngàn năm qua loài người đã thực hiện bước nhảy vọt
nhờ nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Nếu nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc đã
kềm hãm sự phát triển của xã hội loài người trong 2 triệu năm thì có thể nói
nền kinh tế tự cấp tự túc cũng đã kìm hãm sự phát triển của các nước xã hội chủ
nghĩa trong hơn 70 năm qua.” (Thanh Niên, 4/2/1980). (Tự túc: chặt cà phê để
trồng lúa, lời thú tội ghê gớm).

– Đại tướng Lê Đức Anh (Bộ Chính trị) đã nói về dân chủ: “hầu như mọi nơi, mọi ngành, mọi cấp, hiện tượng dân chủ hình thức quan liêu, quân phiệt, độc đoán, chuyên quyền, trù dập ức hiếp nhân dân, đặc quyền đặc lợi, không quan tâm đến đời sống tinh thần và vật chất của quần chúng đang còn diễn ra phổ biến. Nhiều tiếng kêu
oan của người dân vẫn chưa được giải quyết. Trong quân đội thì truyền thống tốt
đẹp chính trị, dân chủ có lúc như bị lãng quên. Những hiện tượng mất dân chủ
nghiêm trọng… đương nhiên bị quần chúng phản đối một cách chính đáng, không
nên vội cho là xấu, là địch.” (Tạp chí Quốc phòng).

-Ông Lê Quang Đạo (Chủ tịch Quốc hội) nói đến độc tài: “Thường là Đảng quyết
định mọi cái. Trong thực tế, không phải là Đảng, mà cấp ủy, không phải là cấp
ủy, mà là một nhóm người có khi chỉ có một cá nhân quyết định, dẫn đến độc tài
chuyên chế, đặc quyền đặc lợi, sinh ra một tầng lớp cầm quyền đứng trên nhân
dân, đối lập với nhân dân, tạo ra những bất công xã hội khiến quần chúng chống
lại… Đảng bị quan liêu hóa nhưng bắt dân vẫn tuân theo mình, vì trong tay có
quyền lực, quyền thì có nhiều hơn, nhưng năng lực và đạo đức có khi không bằng
dân.”

– Ông Phạm Văn Đồng (nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng) ngày nhận huân chương Sao Vàng (84 tuổi), ông nói: “cái nhà của chúng tôi hiện nay đang nhiều rác
rưởi và dơ bẩn làm cho quần chúng nhân dân phẫn nộ một cách chính đáng; trong
tình hình như vậy việc chúng ta phải đặt lên hàng đầu công tác quét cái nhà của
chúng ta, quét mọi rác rưởi và dơ bẩn, làm cho nó ngày càng sạch sẽ.” (Nhân
dân, 2/3/1990). (Cột kèo mục nát phải thay?).

– Ông Trần Xuân Bách (Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng) nói về lạm dụng
quyền lực mà thiếu năng lực tại Câu lạc bộ Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ
thuật, ngày 13/12/1989: “Nguyên nhân khủng hoảng là lãnh đạo sai lầm, vi phạm
dân chủ, duy ý chí, bảo thủ trì tuệ, đổi mới lệch lạc, đội ngũ Đảng viên cán bộ
thoái hóa hư hỏng… Đảng phải kết tinh truyền thống dân tộc và trí tuệ thời
đại, không như thế thì không giữ được vai trò lãnh đạo. Không thể dùng quyền
lực thay cho năng lực. Đừng đổ lỗi cho cải tổ, đổi mới, cải cách. Đổi mới là
cái gương để ta soi. Nếu mặt bị nhọ thì phải rửa mặt đi chứ không phải đập vỡ
gương…”

– Ông Nguyễn Văn Linh (Tổng bí thư) nói về sự thiếu quan tâm đến lợi ích quần
chúng: “Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, ngày nay truyền thống tốt đẹp đó (quan
tâm giải quyết các lợi ích thiết thân của quần chúng), đang bị vi phạm nghiêm
trọng và phổ biến. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự vi phạm đó là bệnh
quan liêu của cán bộ và bộ máy, kể cả bộ máy chuyên trách công tác quần
chúng.  Hiện nay, cuộc sống bức bách đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ nguyên
tắc vấn đề mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng, đổi mới căn bản công tác vận
động quần chúng cho phù hợp.” (Diễn văn dịp 60 năm thành lập Đảng).

Ông Nguyễn Văn Linh còn nói về nguy cơ của Đảng cầm quyền. Tại Hội nghị 5 Trung ương Đảng, ông nói: “Lê nin đã dạy chúng ta không biết bao nhiêu lần là phải cảnh giác đề phòng những nguy cơ dễ xảy ra đối với một Đảng cầm quyền. Trước hết đó là bệnh quan liêu bàn giấy, xa rời quần chúng, xa rời thực tế, hống hách với nhân dân, lên mặt là quan cách mạng. Họ chỉ biết suốt ngày thảo hết tờ công văn này đến chỉ thị khác, ngập đầu trong các giấy tờ, hoặc đi từ phòng họp này sang phòng họp khác, ban bố các mệnh lệnh, còn cuộc sống sinh động và sự việc thực tế thì hoàn toàn xa lạ. Họ
chỉ biết huênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về cách mạng,
về lý tưởng cộng sản; nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc cụ
thể nào cho ra hồn. Lê nin đã chế nhạo là sẵn sàng đổi một tá người cộng sản
như vậy để lấy một chuyên gia tư bản…

Một căn bệnh khác: đồng tiền. Khi có quyền lực và nắm của cải trong tay, thèm khát đồng tiền, chiếm công vi tư, đục khoét của cải của nhân dân, xâm phạm tài sản của xã hội chủ nghĩa bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hoặc trắng trợn. Cần cảnh giác với những kẻ cơ hội chủ nghĩa, chỉ biết luồn lọt, nịnh bợ để có danh và có lợi. Lúc thuận lợi thì lao xông vào để kiếm chác, lúc khó khăn thì lảng tránh cốt giữ lấy thân. Họ sống là mặt lá
trái đổi chiều theo hướng gió, miễn là đạt được mục đích vị kỷ cá nhân… Tình
hình mất đoàn kết trong Đảng, kèn cựa địa vị, đầu ốc gia trưởng độc đoán…
Không nghe quần chúng, nhất là khi ý kiến của quần chúng không thuận tai mình,
đặc biệt khi được họ phê bình, chỉ ra những thiếu sót. Từ chỗ thiếu dân chủ đến
dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp gì hơn.” (Saigon Giải phóng,
24/6/1989).

C. NHẬN ĐỊNH:

Nhưng chưa đặt vấn đề căn bản mà Liên Xô và các nước Đông Âu đã đặt thì Việt Nam chưa có sám hối. Cộng sản Việt Nam chỉ nghĩ cách lấy lại lòng dân và củng cố quyền lãnh đạo của Đảng. Chưa đặt vấn đề nhân quyền cũng như vấn đề cơ cấu phải đổi mới.

Trước tiên, chưa đặt vấn đề nhân quyền bị vi phạm trầm trọng và quyết tâm sửa chữa. Đây không phải là vấn đề của cán bộ này, cán bộ khác biến chất, tiêu cực, nhưng là vấn đề chính sách, đường hướng chung. Không phải kêu gọi quét sạch rác rưởi, mà là vấn đề nền tảng, vách tường, cột kèo của ngôi nhà để nhân dân yên tâm sống dưới mái nhà đó.

Vấn đề thứ hai là vấn đề cơ cấu dân chủ. Dân làm chủ, dân kiểm tra, nói để mà nói, chứ thực chất chả có làm chủ kiểm tra gì cả.

Trong một cuộc sống trao đổi với một vị giữ một chức vụ trong Trung ương Đảng, tôi có nói: “Người dân như chúng tôi không đặt vấn đề ý thức hệ. Nhưng đặt vấn đề Đảng và Chính quyền có tôn trọng nhân quyền và dân quyền không. Người dân chỉ ủng hộ Chính quyền nào tôn trọng nhân quyền và dân quyền của họ.”

Cho tới nay, nhân quyền và dân quyền đã bị vi phạm nặng nề tại Việt Nam.

Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc mà tôi đề cập hôm qua đã được Việt Nam chấp nhận. Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng đã nêu lên những quyền căn bản của con người và của công dân: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do biểu tình (đ.67); quyền tự do tín ngưỡng (đ.68); quyền bất khả xâm phạm về thân thể (đ.69); quyền được luật pháp bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm (đ.70); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín được bảo đảm, quyền tự do đi lại và cư trú được tôn trọng (đ.71).

Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Hiến pháp Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như vậy đó, thế mà nhìn vào thực tế, người dân như chúng ta thấy đau xót.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở đâu? Báo chí là ‘công cụ của Đảng’ kể cả một tờ như Công giáo và Dân tộc chẳng hạn. Chỉ có một tiếng nói. Không nói được hết sự thật, có nói được một chút sự thật là bị chặn lại. Có ai nói khác Nhà nước thì bị chụp mũ đủ thứ. Năm 1988, nhân vụ phong thánh 117 vị tử đạo Việt Nam, tôi phải lên làm việc với ông Giám đốc văn hóa và Thông tin vì một bài đánh máy vài ba trang; năm 1989 tôi cũng cùng năm anh em khác, hai linh mục, ba giáo đã phải làm việc với Công an và bị hù dọa đủ thứ chỉ vì hai lá thư góp ý với Hội đồng Giám mục Việt Nam và
với Đức Tổng giám mục giáo phận Sài Gòn.

Tự do hội họp? Tôi cùng sáu anh em gặp nhau trao đổi về đời sống Giáo hội thì bị kết tội hội họp, lập hội mà không xin phép.

Tự do tín ngưỡng? Chỉ có tự do vô tín ngưỡng, tự do viết báo, viết tiểu thuyết rẻ tiền để bêu xấu Giáo hội. Nhiều nơi, việc lễ lạy bị ngăn cản, hạn chế làm khó dễ. Các chủng viện bị hạn chế đủ thứ để Giáo hội không đủ linh mục phục vụ giáo dân. Việc đặt các giám mục gặp bế tắc như vụ Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Việc thuyên chuyển linh mục từ xứ này qua xứ khác không phải dễ dàng. Các linh mục di chuyển gặp khó khăn. Việc giảng dạy giáo lý bị hạn chế. Chỉ có vô tín ngưỡng, vô thần được tự do tuyên truyền, được Nhà nước đài thọ. Tình hình đó đưa tới một thực tế bi thảm: sách báo nhảm nhí, truyện tàu kể cả dâm thư như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng tràn ngập vỉa hè thành phố, trong khi đó, phải mỏi mắt mớ tìm ra một quyển sách đạo in dấm dúi bằng ronéo. Các nữ tu mở lớp mẫu giáo chẳng được bao nhiêu mà còn là lớp chui,
còn các quán bia ôm, cà phê ôm thì tràn ngập thành phố với đèn màu nhạc nổi
tưng bừng.

Tự do tôn giáo là thế đó. Còn quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền được pháp luật bảo vệ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, tất cả những quyền ấy có được tôn trọng không? nhiều vi phạm trắng trợn. Đến đây tôi không thể không nghĩ đến cái đêm rùng rợn (25/1/1978), năm tu viện vùng Thủ Đức đã bị ốp, tất cả các tu sĩ bị trục xuất khỏi nhà, tài sản của Giáo hội bị tịch thu, vì cớ nọ cớ kia không có gì đáng tội, tu sĩ nọ linh mục kia bị bỏ tù. Mà đây chỉ là
một việc điển hình. Biết bao chuyện đau thương khác đã đến với người dân.

Kính thưa anh chị em,

Với cái nhìn tổng quát về cuộc sám hối từ Liên Xô qua CHXHCN Việt Nam, chúng ta thấy Liên Xô và các nước Đông Âu đã ân hận, đã sám hối bằng cách đổi mới. CHXHCN Việt Nam có ân hận đó nhưng còn loay hoay chưa biết phải sám hối bằng cách đổi mới như thế nào, đổi mới dỏm hay đổi mới thật.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho đất nước ta, để một cuộc sám hối thật đến với dân tộc Việt Nam hầu đem lại tự do và hạnh phúc cho toàn dân.

Trên đất nước ta, ‘giữa lòng dân tộc’ này, quả là chưa có sự sám hối thật sự để cho ngày mai trên đất nước, tương lai của dân tộc sáng sủa hơn.

Tuy nhiên, tôi vẫn muốn kết thúc ba ngày tĩnh tâm này bằng một tia hy vọng, bằng một nốt nhạc vui. Chúng ta vẫn đón chờ Chúa sống lại cơ mà.

Nốt nhạc đó, tia hy vọng đó, anh chị em sẽ nhận thấy qua sự khác biệt giữa hai mẩu tin của báo Saigon Giải phóng, báo của Đảng. Một mẩu tin ngày 16/5/1985 đầy ác cảm với Giáo hoàng Gioan Phaolô II và một mẩu tin trên số báo ra đúng ngày hôm nay (11/4/1990) đầy thiện cảm.

Mẩu tin năm 1985 nói đến hàng trăm thanh niên Hòa Lan thuộc nhiều Đảng phái tổ chức biểu tình phản đối Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Nào là ném trứng thối, chai lọ, gạch đá; nào là Ngài có ý đồ xấu trong việc đi thăm một số nước và kết thúc bản tin: “Uy tín của Ông chưa lúc nào tồi tệ đến thế.” Bản tin này đã được tuần báo Công giáo và Dân tộc vui mừng phụ họa và chế diễu những người Công giáo bất bình với bản tin độc nhất xưa nay của báo chí về Giáo hoàng.

Mẩu tin sáng nay về Olimpic ở Roma: “Ban tổ chức (Olimpic) cho biết vào ngày 29/5, lễ bàn giao sân Olimpic sẽ có mặt Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến để ban phép lành cho sân Roma. Lúc còn trẻ, Giáo hoàng từng chơi bóng đá trong vai trò thủ môn. Ngày nay Ông vẫn thường xuyên theo dõi bóng đá qua truyền hình nhất là các trận đấu có đội tuyển Ba Lan quê hương Ông.”

Anh chị em thân mến,

Chúng ta hy vọng nước Việt Nam ta sẽ đổi mới trong tinh thần tôn trọng các quyền căn bản của con người và của người dân, nhất là tôn trọng tự do tôn giáo. Giáo hội toàn cầu cũng như Giáo hội Việt Nam không tranh quyền bính với ai, chỉ muốn phục vụ con người, kể cả phục vụ cho đến hy sinh mạng sống mình, như Đức Kitô.

Lm. Chân Tín

(11.4.1990)

 

BÉ THƠ KHỐN KHỔ

BÉ THƠ KHỐN KHỔ
“Phúc thay ai xót thương người,

vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.

(Mát-thêu 5:7)
Hai em khốn khổ thảm thương
Mồ côi cha mẹ náu nương nơi nào
Nhìn hình xúc động nghẹn ngào
Trần gian cõi tạm bước vào sầu đau
Lệ tuôn buồn tủi ai lau
Tình yêu đồng loại, ta mau mở lòng
Trái tim nhân ái vẫn còn
Bàn tay giang rộng ôm vòng cảm thông
Bé thơ mơ ước ngóng trông
Gia đình ấm áp đêm đông lạnh lùng
Chúa Cha ngự chốn cửu trùng
Khấn xin che chở thấu cùng, Ngài ơi!

* Nguyễn Sông Núi
(Tv Thánh Gioan Neumann, Dallas, TX, Dec. 4, 2012)

[Xin mời xem tấm hình ở bên dưới.]
Chỉ vài ba hàng chữ và một tấm hình…
làm cho lòng người phải tê tái,
xót xa, ngậm ngùi…
MỒ CÔI
Ba mất.

Mẹ nó sợ tuổi xuân trôi qua uổng phí, đi bước nữa.
Nó về ở với Nội.
Nội già. Nó làm tất cả.

Nó giống người Châu Phi – đen trùi trũi!

Có người hỏi: “Mày có buồn không?”.
Nó yên lặng nhìn xa xăm…

Mt chiu, nó dn v mt con bé, nh hơn.

Nội nhìn nó ngc nhiên...

Nó ngậm ngùi: Con còn có Ni – nó chng còn ai…..!