MẶC CHO ĐỜI BIẾN ĐỔI

MẶC CHO ĐỜI BIẾN ĐỔI

Tác giả: M. Hoàng T Thùy Trang

nguồn:thanhlinh.net

Sự kiện Đức Giêsu biến hình là một trong những dấu lạ Ngài tỏ hiện quyền năng cho các tông đồ thấy mà tin, nhằm củng cố niềm xác tín của các ông. Chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, các tông đồ hết sức ngạc nhiên và vui mừng vì vinh quang sáng lạn của Ngài: “…Y phục Người trở nên trắng xóa chói lòa. Và kìa, có hai nhân vật đàm đạo với Người, đó là ông Môsê và ông Êlia.” (Lc 9,29-30) Như không muốn giây phút vinh quang ấy mất đi, ông Phê rô đã thốt lên: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cái cho Thầy, một cái cho ông Môsê và một cái cho ông Êlia.” (Lc 9,33). Tin mừng ghi rõ, ông Phêrô nói nhưng không biết mình đang nói gì. Có lẽ trong phút ngây ngất trước vinh quang tột bậc của Đức Giêsu, ông Phêrô không muốn khoảnh khắc hạnh phúc ấy bị mất đi, cho nên mới thốt lên lời đề nghị như vậy. Đang khi chưa bừng tỉnh, các tông đồ còn bị cuốn vào trong đám mây, khiến các ông hoảng sợ. Và từ trong đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9, 35)

Đức Giêsu đang cầu nguyện với Thiên Chúa Cha, thì dung mạo Người biến đổi. Điều kiền cần để được biến đổi, đó chính là cầu nguyện, đó chính là sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Chúng ta chỉ có thể thay đổi khi được Thiên Chúa biến đổi. Muốn được biến đổi, cần phải có ơn Chúa, cần nhờ đến quyền năng của Ngài và cần có sự kết hiệp với Ngài.

Khi được biến đổi, con người thường hay có xu hướng muốn ở lại trong vinh quang, trốn tránh sự thật, không muốn đối diện với thực tế cuộc sống. Khi cầu nguyện được ơn sốt sắng, con người thường hay có hoài bão được ở mãi trong hạnh phúc, lầm tưởng mình đã thánh thiện đủ, đã hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và sống cho một mình Ngài, nhưng khi trở về với cuộc sống thường nhật, đối diện với những thách đố của cuộc sống, con người lại trở về với bộ mặt thật của mình, đầy dẫy những yếu đuối, tội lỗi và tham vọng.

Thế nên, chúng ta cần phải thường xuyên gặp gỡ kết hiệp với Thiên Chúa, để kín múc tình yêu và sự thánh hóa của Ngài, khi đã được quyền năng và ân sủng Thiên Chúa biến đổi, con người có thêm sức mạnh và động lực mà đối diện với cuộc sống đầy khó khăn, thử thách. Một khi đã được ơn Chúa nâng đỡ, con người can đảm đối diện với thách đố của cuộc sống với lòng tin yêu vững vàng vào vinh quang Thiên Chúa.

Nhân loại thường hay mơ ước, được trở nên xinh đẹp, thông minh, tài giỏi. Nhìn vào những mẫu người là chuẩn mực cho cái đẹp, họ khao khát được giống với thần tượng của mình. Chính vì mục đích ấy, mà nhân loại không loại trừ bất cứ hình thức nào để có thể làm cho mình đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Người ta có thể bỏ ra hàng triệu đô để đổi lấy sắc đẹp. Người ta cũng không hề ngần ngại cướp đi hạnh phúc, ngay cả mạng sống của người khác để đổi lấy tấm áo danh dự, địa vị, quyền lực… Nhưng chả mấy ai dám từ bỏ tất cả để được mặc tấm áo linh hồn tinh tuyền, thánh thiện.

Lời nhắn nhủ của Thiên Chúa Cha là một khẳng định nhắc nhở chúng ta phải tin nhận vào Đức Giêsu và vâng nghe lời Ngài dạy bảo. Tin vào Tin mừng là một trong những điều kiện để được ơn cứu độ. Vì Lời Chúa chính là chân lý, là ánh sáng, là linh dược chữa lành mọi vết thương tội lỗi. Thiên Chúa Cha đã tuyên bố ngôi vị của Đức Giêsu để cho nhân loại nghe biết và tin thờ. Sự kiện hiển dung hôm nay cũng chính là mặc khải của Thiên Chúa về mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Ngôi Cha, Ngôi Con và Chúa Thánh Thần, cùng kết hiệp mật thiết trong chương trình sáng tạo và cứu chuộc.

Lạy Chúa, chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi Tabor, ông Phêrô đã không kìm nổi sự khao khát được sống mãi trong hạnh phúc vinh quang của Ngài, để rồi xin được cắm lều ở lại. Hạnh phúc mà Thiên Chúa tỏ lộ cho các tông đồ cũng chính là hạnh phúc thiên đàng mai sau chúng con được diện kiến. Thế nhưng, đường lên núi xa và cao lắm, đường lên trời lại càng xa hơn. Chỉ khi nào con ở lại trong Chúa, chỉ khi nào có Ngài luôn hiện diện trong con, biến đổi con, thánh hóa con, lúc ấy con mới được diễm phúc hưởng nhờ ân phúc mai hậu. Xin giúp con luôn biết lắng nghe và vâng phục, xin giúp con biết thi hành ý Chúa, can đảm đánh đổi giá trị cuộc sống bằng giá trị thiêng liêng. Mặc cho thời gian, mặc cho sóng gió cuộc đời hay con người có làm con phai tàn, nhưng dung mạo tâm hồn con vẫn được nguyên vẹn, tinh tuyền như thuở ban đầu vì có tình yêu và bàn tay quyền năng Thiên Chúa biến đổi.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Hành trình tha thứ cho người cha của một linh mục

Hành trình tha thứ cho người cha của một linh mục

Tác giả: Thu Linh

19/02/2013

nguồn:thanhlinh.net

Câu chuyện có thật về sự tha thứ tuyệt vời  (Amazing true story of forgiveness)

Vị linh mục do kết quả của cuộc hãm hiếp thuật lại hành trình tha thứ cho người cha

Vị linh mục quá khứ là thai nhi trong một cuộc hãm hiếp, khi mẹ ngài mới chỉ 13 tuổi đã chia sẻ câu chuyện về cuộc gặp gỡ, tha thứ và giải tội cho người cha của mình, người đang sống cuộc đời có đức tin.

Vào ngày 6/2/2013 trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại với thông tấn xã Công Giáo CNA, cha Leon, cha sở của họ đạo Thánh Giuse ở Loja nói rằng, mẹ ngài, bà Maria Eugenia Armijos Romero lúc ấy đang làm việc là người dọn dẹp phụ giúp cha mẹ của bà nuôi 8 người con. Người chủ căn nhà lợi dụng lúc bà làm việc một mình không có ai đã hãm hiếp bà và làm cho bà mang thai”.

Mẹ của ngài luôn bảo vệ mạng sống của ngài, mặc dù bà là thiếu nữ còn rất trẻ và đơn độc, không có sự giúp đỡ của gia đình. Gia đình cố gắng làm cho bị sẩy thai bằng cách cho bà uống thuốc tẩy thai và đấm thình thịch vào bụng bà. Cha Leon nói: “Bà cầu nguyện và cảm nhận rằng Chúa đang nói với bà trong trái tim rằng: hãy bảo vệ đứa bé ở trong con”.

Bà mẹ trẻ mang bầu đã bỏ nhà đi tới thành phố Cuenca, nơi đây bà tự kiếm sống. Ngày 10/10/1961, bà sinh ra cậu bé Luis Alfredo. Một thời gian ngắn sau, với sự giúp đỡ của cha đứa bé, bà trở về lại Loja với cuộc sống là một người mẹ độc thân. Rốt cuộc bà lại được chăm sóc bởi kẻ đã hãm hiếp bà – tức là người bố của linh mục Luis – người đã nhận ra tôi là con của ông và nói rằng ông sẽ chăm sóc cho tôi. Thế nhưng, không có nghĩa là mọi sự giữa họ đều lành mạnh, êm thắm cả.

Cha tiếp tục kể lại rằng, cha của ngài luôn tới thăm viếng nhà của mẹ con chúng tôi và chu toàn bổn phận đối với chúng tôi. Họ có thêm ba người con nữa và mối liên hệ của tôi với người cha tuy là xa cách nhưng vui vẻ. Tôi kính trọng ông nhiều. Ông dần dần tạo nên một cảm giác có uy quyền trong tôi. Ông cứng rắn với tôi và đưa tôi đi làm”.

Lúc 18 tuổi, ngài cảm thấy có ơn gọi làm linh mục và vào dòng tu, cho dù có sự chống đối của cha ngài. Ngài thụ phong linh mục vào năm 23 tuổi với sự cho phép đặc biệt của Đức Giám Mục. Hai năm sau, ngài tham gia tổ chức hình thành người Kitô giáo trưởng thành, và mẹ ngài tiết lộ cho ngài biết về sự ra đời của ngài. Bà đã chấm dứt liên hệ với cha của ngài và điều này đánh dấu sự khởi đầu cuộc hành trình hoà giải cho cả hai người. Cha Leon giúp mẹ của cha hiểu rằng bà không thể ghét người cha của ngài, và cần đáp ứng với nhu cầu của chính ông là được tha thứ.

Cha nói: “Chúa cho tôi là một linh mục không phải để xét đoán mà là tha thứ, là khí cụ của lòng thương xót Chúa, trong khi tôi đã xét đoán cha tôi rất nhiều”.
Nhiều năm sau, cha nhận được cú điện thoại của cha ngài, ông đang sắp sửa phải đi mổ và rất lo sợ. Ông xin con của mình giải tội cho ông và đã trở lại với đức tin của mình sau 30 năm bỏ lễ.

Tôi nói với ông: “Cha ơi, cha đáng được vào thiên đàng, hưởng sự sống đời đời”. Và ngay lúc ấy ông đã trào nước mắt ra.

Khi cha Leon giảng co các người phụ nữ mang thai đang gặp những khó khăn trong cuộc sống, ngài nhắc nhở họ rằng cũng như tiên tri Giêmêria, Chúa cũng tác tạo những trẻ thơ trong bụng người mẹ như vậy.

Cha khuyến khích các trẻ em học nhìn mọi sự theo cái nhìn của tình yêu Thiên Chúa một khi họ biết về câu chuyện đời sống của họ.
Cha nói: “Nếu bạn là một đứa bé hay một người mẹ độc thân, bạn hãy nhận ra cách mà Thiên Chúa, cha của chúng ta đã chăm sóc cho bạn trong đời sống của bạn”.

Thu Linh (dịch từ CNA)

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Giêsu còn hiện diện thật ?

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:13 Sáng 23/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (23.02.2013) – NewTheologicalMovement  – Thánh Thể là Bí tích Yêu thương do chính Chúa Giêsu thiết lập để hằng ngày ở với chúng ta và nuôi dưỡng chúng ta. Hãy cùng nhau tìm hiểu về Thánh Thể để củng cố đức tin Công giáo về Bí tích này, và cũng là để “kiểm điểm” mức độ tin yêu mà chúng ta dành cho Thánh Thể vậy!

Mặc dù có truyền thống phổ biến liên kết việc thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa (Corpus Christi, ngày xưa thường gọi là lễ Săng-ti) với phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, có lẽ có chút liên quan về lịch sử đối với sự xác nhận như vậy. Từ điển Bách khoa Công giáo (Catholic Encyclopedia) nói rằng lễ này không liên quan phép lạ Thánh Thể ở Bolsena-Orvieto, nhưng liên quan thị kiến của thánh Juliana Mont Cornillon, người đã sống tại Bỉ hồi đầu thế kỷ XIII.

Tuy nhiên, mặc dù có thể là thực sự có chút liên quan lịch sử giữa phép lạ Thánh Thể và sự thiết lập lễ Mình Máu Thánh Chúa, lòng sùng kính phổ biến của các tín hữu (nhất là ở Ý) và mừng kính long trọng hàng năm ở 2 thành phố của Ý, gợi chúng ta nhớ tới phép lạ Thánh Thể khi chúng ta mừng kính lễ trọng này ngày nay.

Khi chúng ta cân nhắc sự thật về phép lạ Thánh Thể, chúng ta có thể có một câu hỏi khác: Nếu chúng ta tin sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tính Thánh Thể khi thuộc tính ngẫu nhiên vẫn còn (nghĩa là Chúa Kitô hiện diện khi Thánh Thể vẫn còn hình bánh và rượu), chúng ta sẽ làm Thánh Thể thành gì khi không còn hình bánh và rượu thay vì biến thành thịt và máu? Chúa Kitô có còn trong Thánh Thể sau một phép lạ Thánh Thể? Nếu Ngài vẫn còn đó, chúng ta sẽ kết luận phép lạ Thịt và Máu hữu hình vẫn là thịt và máu được thụ thai và hạ sinh bởi Đức Trinh nữ Maria? Nói cách khác, phép lạ Thánh Thể có giống như thánh tích của Chúa Giêsu?

Trong một câu hỏi phức tạp như vậy, chúng ta hãy trở lại với hướng dẫn của vị Tiến sĩ Thiên thần (Angelic Doctor, tức là thánh Thomas Aquinas, linh mục Dòng Đa Minh, tác giả bộ Tổng luận Thần học). Chúng ta nhớ rằng thánh Thomas Aquinas là “thần học gia vĩ đại nhất và là thi sĩ mãnh liệt nhất của Chúa Kitô về Bí tích Thánh Thể” – summus theologus simulque Christi eucharistici fervidus cantor (CP Gioan-Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 62).

Thánh Thể Chúa Kitô có là thật khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong Bí tích này? (Summa Theologica III, Q. 76, Art.

Khách thể 1: Có vẻ như Thánh Thể Chúa Kitô không thực sự ở đó khi thịt hoặc một em bé hiện ra trong bí tích này. Vì thân thể Ngài ngừng ẩn trong bí tích này khi dạng bí tích ngừng hiện hữu (the sacramental species cease to be present), như đã nói ở trên (A. 6). Nhưng khi thịt hoặc một em bé hiện ra, dạng bí tích ngừng hiện hữu. Do đó thân thể Chúa Kitô không thực sự ở đó.

Khách thể 2: Hơn nữa, dù thân thể Chúa Kitô ở đâu, dưới chính dạng đó hoặc dạng bí tích. Nhưng khi có sự hiện ra, rõ ràng là Chúa Kitô không hiện hữu trong chính dạng của Ngài, vì toàn bộ Chúa Kitô được chứa trong bí tích này, và Ngài vẫn là tổng thể dưới dạng mà Ngài lên trời: nhưng điều xuất hiện mầu nhiệm trong bí tích này đôi khi được thấy là một miếng thịt nhỏ, hoặc đôi khi là một em bé. Rõ ràng là Ngài không ở đó dưới dạng bí tích là bánh hoặc rượu. Do đó, có vẻ như thân thể Chúa Kitô không ở đó bằng bất kỳ cách nào.

Khách thể 3: Hơn nữa, thân thể Chúa Kitô bắt đầu ở trong bí tích này bằng việc thánh hiến và biến chuyển (consecration and conversion), như đã nói ở trên (Q. 75, AA. 2, 3, 4). Nhưng thịt và máu xuất hiện mầu nhiệm bằng phép lạ không được thánh hiến (not consecrated), cũng không được biến chuyển thành Mình Máu thật của Chúa Kitô. Vì thế, Mình Máu Chúa Kitô không ẩn dưới dạng đó.

Ngược lại, khi xảy ra các phép lạ như vậy, sự sùng kính tương tự dành cho Thánh Thể như trước đó, không được sùng kính nếu Chúa Kitô không thực sự ở đó, với Đấng mà chúng ta tôn thờ hết lòng (giáo hội dùng từ “latria”, nghĩa là sự tôn thờ tối thượng chỉ dành cho Thiên Chúa). Do đó, khi có phép lạ như vậy, Chúa Kitô ẩn trong bí tích.

Phép lạ như vậy xảy ra theo 2 cách, đôi khi thấy theo dạng thịt và máu, hoặc một em bé. Đôi khi phép lạ xảy ra tùy người mục kích (beholder), mắt họ ảnh hưởng như họ thấy thịt, máu, hoặc em bé, nhưng trong bí tích không hề thay đổi. Và điều này có vẻ xảy ra khi người này nhìn thấy ở dạng thịt và máu hoặc một em bé, còn người khác lại thấy ở dạng bánh; hoặc cũng người đó thấy ở dạng thịt hoặc em bé suốt cả tiếng đồng hồ, sau đó lại thấy ở dạng bánh. Không hề có mánh khóe lừa dối ở đó, như thấy trong ảo thuật, vì dạng như vậy được hình thành một cách siêu phàm trong mắt nhìn để miêu tả sự thật nào đó, nghĩa là, vì mục đích cho thấy thân thể Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể; y như Chúa Kitô hiện ra với các môn đệ trên đường đi Emmaus mà không hề bị lừa dối hoặc ảo giác.

Thánh Augustinô nói (De Qq. Evang. ii): “Khi sự đòi hỏi của chúng ta được ám chỉ tầm quan trọng nào đó thì đó không là điều dối trá, mà là sự thật”. Và vì thế, theo cách này, không có sự thay đổi nào trong bí tích này, nghĩa là, khi có những phép lạ như vậy, Chúa Kitô không ngừng ở trong bí tích Thánh Thể.

Nhưng đôi khi một phép lạ như vậy xảy ra không chỉ bằng một sự thay đổi ở những người mục kích, mà bằng sự hiện hữu thực sự theo bề ngoài. Và điều này thực sự xảy ra khi được mọi người mục kích phép lạ như vậy, không chỉ kéo dài suốt một giờ mà kéo dài một thời gian đáng kể; trong trường hợp này là dạng đúng của thân thể Chúa Kitô. Đôi khi không là vấn đề dù toàn bộ thân thể Chúa Kitô có được thấy trọn vẹn ở đó hay không, nhưng phần nhục thể, hoặc không được thấy trong dạng trẻ trung, nhưng ở dạng giống như một em bé, vì nhục thể nằm trong một thân thể vinh quang được nhìn thấy qua con mắt không vinh quang – dù toàn bộ hay một phần, và dưới chính dạng giống nhau hoặc dạng lạ, như sẽ được nói sau đây (Suppl., Q. 85, AA. 2, 3).

Nhưng điều này có vẻ không khác. Trước tiên, vì thân thể Chúa Kitô ẩn trong dạng đúng có thể chỉ được thấy ở một nơi, được chứa đựng theo một khía cạnh nào đó. Do đó, vì được nhìn thấy theo dạng đúng, và được tôn thờ trên trời, không được thấy theo dạng đúng trong bí tích. Thứ hai, vì một thân thể vinh quang, hiện ra tùy ý (at will), biến mất tùy ý sau khi xuất hiện; như vậy điều này được Lc 24:31 kể lại rằng “mắt các môn đệ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất”. Nhưng điều đó xảy ra giống như thịt trong bí tích Thánh Thể, tiếp tục một thời gian dài. Thật vậy, theo nhiều giám mục, “phép lạ Thánh Thể” được giữ trong chén thánh (pyx).

Do đó, người ta vẫn nghĩ rằng, khi các chiều kích vẫn giống như trước, có sự thay đổi mầu nhiệm trong các ngẫu nhiên khác – như hình dạng, màu sắc, và phần còn lại, để nhìn thấy thịt, hoặc máu, hoặc một em bé. Và như đã nói, đây không là lừa dối, vì “để giới thiệu sự thật”, nghĩa là, phép lạ chứng tỏ rằng Mình và Máu Chúa Kitô thực sự ở trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, rõ ràng như các chiều kích vẫn còn, là nền tảng của những điều khác, như sẽ thấy sau đây (Q. 77, A. 2), thân thể Chúa Kitô vẫn hiện dian65 trong Bí tích Thánh Thể.

Khách thể hồi đáp 1: Khi phép lạ xảy ra, đôi khi dạng bí tích vẫn tiếp tục hoàn toàn; và đôi khi chỉ là phần chính, như đã nói ở trên.

Khách thể hồi đáp 2: Như đã nói ở trên, khi xảy ra phép lạ, dạng đúng của Chúa Kitô không được nhìn thấy, nhưng dạng mầu nhiệm được thấy theo mắt nhìn của người mục kích, hoặc theo chính chiều kích bí tích.

Khách thể hồi đáp 3: Chiếu kích của bánh rượu được thánh hiến vẫn tiếp tục, trong khi sự thay đổi mầu nhiệm xảy ra ngẫu nhiên, như đã nói ở trên.

Kết luận

Như vậy, thánh Tiến sĩ Thiên thần trả lời “có” và “không” – nghĩa là ngài trả lời tích cực theo câu hỏi thứ nhất, và trả lời tiêu cực theo câu hỏi thứ hai của chúng ta.

Chúa vẫn hiện diện thật sau phép lạ Thánh Thể? Đúng, có 2 vấn đề. Trước tiên, vì số lượng chiều kích tiếp tục tồn tại, “chất liệu” vẫn còn. Hơn nữa, sự thay đổi bề ngoài (bánh biến thành thịt và rượu biến thành máu) là biểu hiện “thực tế thật” (true reality) của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Do đó, trong phép lạ Thánh Thể, sự hiện diện thật của Chúa Kitô vẫn có trong Thánh Thể.

Sau phép lạ Thánh Thể, Chúa Kitô vẫn hiện diện trong Thánh Thể như khi Ngài còn tại thế. Phép lạ Thánh Thể có như thánh tích của Chúa Giêsu? Không, lại có 2 vấn đề. Trước hết, vì vấn đề như vậy nghĩa là Thánh Thể không còn là bí tích. Điều này phân biệt sự hiện diện của Chúa Kitô trong Thánh Thể với sự hiện diện của Chúa Kitô trên trời, Ngài hiện diện ở dạng đúng trên trời trong khi Ngài hiện diện ở dạng bí tích trong Thánh Thể. Hơn nữa, nếu phép lạ Thánh Thể là Mình Máu Chúa Giêsu theo thể lý và ngẫu nhiên, như thế thì phép lạ Thánh Thể sẽ ngừng chứa đựng toàn bộ Chúa Kitô nhưng chỉ là “một phần” (a piece) của Đấng Cứu Độ – như vậy, chúng ta thấy không “ăn khớp” thế nào khi nghĩ về Thánh Thể (ngay cả sau phép lạ Thánh Thể) là thánh tích của Chúa Giêsu; vì thánh tích chỉ là một phần của một vị thánh, nhưng Chúa Kitô hiện diện hoàn toàn và trọn vẹn trong mỗi phần của Bí tích Thánh Thể.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ NewTheologicalMovement.blogspot.com)

Ghi chú: Ecclesia de Eucharistia: Tông thư về Thánh Thể do CP Giáo hoàng Gioan-Phaolô II ban hành ngày 17-4-2003 (Tông thư thứ 14 của ngài trên cương vị Giáo hoàng). Summa Theologica: Bộ Tổng luận Thần học của Thánh Tiến sĩ Thiên Thần Thomas Aquinas, Linh mục Dòng Đa-minh.

Thiên Chúa mời gọi mùa Chay

Thiên Chúa mời gọi mùa Chay

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 2:17 Sáng 22/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (22.02.2013) – onlineministries – Mùa Chay là mùa Thiên Chúa mời gọi riêng từng người: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Chúng ta trả lời: “Chúng con sẽ trở về”, nhưng chúng ta lại chưa sẵn sàng, chúng ta chưa thực sự chuẩn bị tâm hồn, còn nuối tiếc! Chúng ta muốn lòng vòng, lẩn tránh, lần lữa, viện cớ… Tâm hồn chúng ta chưa hoàn hảo. Chúng ta chưa sẵn sàng để Thiên Chúa yêu thương chúng ta!

Đúng vậy, nhưng chúng ta rất muốn quan hệ thân mật với Thiên Chúa, chúng ta nhiệt thành tự nhủ như vậy. Và chúng ta sẽ… Không bao lâu nữa. Chúng ta vẫn trì hoãn. Thiên Chúa lại mời gọi chúng ta: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Vâng, lạy Chúa, con sẽ trở về với Ngài. Con chỉ còn vài việc cần làm nữa thôi. Trước tiên cho con thêm thời gian để cầu nguyện. Rồi con sẽ hòa giải. Xin cho con lau chùi nhà bếp, dọn dẹp nhà cửa, bán bớt mấy thứ lặt vặt, chăm sóc miếng đất con mới mua,… Thiên Chúa nhắc lại: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Đó là lời mời gọi đặc biệt dành cho mỗi chúng ta, theo cách riêng của mỗi người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đừng biện hộ vì điều đó là khoảng cách giữa chúng ta và Thiên Chúa. Những gì Thiên Chúa muốn là chúng ta nhận biết các tiêu chuẩn của mình, cách phê bình và cách yêu thương của chúng ta cũng rất khác cách của Thiên Chúa. Ngài cho chúng ta cả mùa Chay, cả cuộc sống, vì yêu thương chúng ta vô điều kiện, dù chúng ta làm gì hoặc nghĩ gì mà chúng ta giấu giếm Ngài.

Từ thứ Tư lễ Tro, ngày khởi đầu mùa Chay, các bài đọc đều nhắc lại lời Chúa: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Tv 51 cũng nhắc nhở: “Lạy Chúa, xin tạo cho con trái tim trong sạch. Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ”. Đó là chính xác những gì Thiên Chúa muốn trao ban cho chúng ta, đó chính là niềm vui ơn cứu độ.

Ở Bắc Mỹ, mùa Chay rơi vào mùa Đông, những ngày này lạnh lẽo và tối tăm, hoàn toàn phải giấu mình trong nhà, hoàn toàn ẩn mình khỏi Thiên Chúa – chúng ta nghĩ vậy. Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên trì, yêu thương, nhân hậu. Thiên Chúa là Người Cha của Đứa Con Hoang Đàng, nhẫn nại chờ đợi, tha thiết muốn đứa con trở về, chờ suốt ngày thâu đêm. Không hề khép vòng tay, không hề có ánh mắt xét đoán, chỉ có đôi mắt mỏi mòn chờ đứa con trở về. Thiên Chúa khao khát được ôm choàng lấy chúng ta và vui mừng thấy chúng ta trở về.

Nhưng chúng ta vẫn quan ngại tìm cách nào để trở về và đắn đo lời nói, tìm cách để đối thoại. Đó chỉ là lúc chúng ta còn ở xa, lúng túng và lẫn lộn, nhưng chúng ta không cần phải nói chi cả, chúng ta chỉ cần cho Ngài nhìn thấy chúng ta.

Hãy nhìn con đường phía trước: Thiên Chúa yêu thương đang vui mừng khi nhìn thấy chúng ta trở về. Lời mời gọi của Ngài đã được chúng ta nghe thấy và đáp lại: “Chúng ta phải mau về nhà thôi!”.

Nhưng điều gì cản trở chúng ta về đoàn tụ với Cha? Điều gì khiến chúng ta không đáp lại lời mời gọi để trở về sống với Thiên Chúa? Đó là sự trì hoãn, lần lữa, so đo: “Từ từ… Chờ chút… Vì không biết Thiên Chúa có biết mình hay không…”.

Tất cả không thành vấn đề. Chỉ cần biết rằng chúng ta phải trở về với Thiên Chúa, Ngài đang mỏi mòn chờ đợi chúng ta trở về để được ôm hôn mỗi chúng ta. Vậy chúng ta phải mau trở về! Tiếng Chúa vẫn âm vang: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”.

Chấp nhận lời mời gọi này là điều đơn giản nếu chúng ta có thể vượt qua nỗi sợ hãi. Những gì chúng ta cần làm là thưa với Chúa: “Lạy Chúa, con đây. Con phải bắt đầu từ đâu? Vâng, con muốn được ở bên Ngài”. Lòng chúng ta đã mở ra và chúng ta đã bắt đầu bước về phía người cha đang đứng ở phía trước. Không cần giải thích chi hết, chỉ cần vui mừng trong yêu thương mà nhìn vào ánh mắt nhân từ của Thiên Chúa đang nhìn chúng ta.

Bước kế tiếp trên đường về nhà là gì? Chúng ta có thể dùng những giây phút đầu ngày, trước khi ra khỏi giường, để tạ ơn Chúa đã dành cho chúng ta lời mời gọi yêu thương như thế, và xin Ngài mở lòng chúng ta để chúng ta có thể đón nhận. Hãy bắt đầu từ hôm nay, đang là thời gian mùa Chay. Suốt ngày, chúng ta có thể nhớ lời mời gọi của Chúa khiến lòng chúng ta lay động: “Hãy trở về với Ta bằng cả tấm lòng”. Và chúng ta có thể cùng vui mừng với Thiên Chúa.

Đó là lời mời gọi mỗi ngày trong mùa Chay. Hôm nay là ngày chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ onlineministries.creighton.edu)

CHỮ HIẾU – CHỮ TÌNH

CHỮ HIẾU – CHỮ TÌNH

Maria Túc Lynh

Hiếu và Tình bên nào nặng hơn, Hai chữ này viết và nói thì xem ra đơn giản, nhưng để làm cho trọn nghĩa của hai chữ này, theo tôi không đơn giản và nhẹ nhàng chút nào.Nó càng khó khăn ở bất đồng ý kiến của cha mẹ trong vấn đề dựng vợ, gả chồng. Nếu ta yêu phải một người mà cha mẹ hay ông bà không hài lòng, thì chữ đầu tiên mà ta thấy là một chữ “khổ” to đùng nằm chắn ngang trước cửa tình yêu. Tuy nhiên nỗi khổ đó thì ta còn có thể dùng biện pháp lấy lòng từng người, có thể gọi là đánh du kích từng mục tiêu. Cuối cùng thì không nhiều cũng có ít ra vài người, nhìn thấy thiện chí của mình mà khoan nhượng và đồng ý cho ta lấy người ta yêu.

Nhưng vấn đề rắc rối và phức tạp hơn, là phải chọn lựa một tôn giáo cho riêng tình yêu của mình. Là con gái thì có thể theo lề thói xưa là “lấy chồng thì phải theo chồng” nên cho dù có gặp chút trắc trở, nhưng không khó khăn và nặng nề. Chỉ tội nghiệp cho những chàng trai, đặc biệt là những thừa tự, những đích tôn. Ôi thôi, bao nhiêu là rắc rối đến với những cuộc tình này. Một bên thì nếu thương con gái tôi, anh phải chiều theo chúng tôi thì chúng tôi mới gả nó cho anh. Một bên thì con là đứa con gia đình mong mỏi nhiều nhất, giờ chỉ vì đứa con gái mà con lại đành lòng để bàn thờ ông bà lạnh lẽo không hương khói, mà con gái thì trên đời này đâu có thiếu … bao nhiêu hoàn cảnh, bao nhiêu trường hợp éo le để người trong cuộc cười ra nước mắt.

Đã bao nhiêu lần tôi được nghe những bạn đi học giáo lý dự tòng than thở nỗi khổ của mình.Một bên là tình yêu đã chín muồi, không thể sống thiếu nhau nữa. Một bên là chữ hiếu đạo với gia đình rất nặng nề, đặc biệt là những bạn là con duy nhất trong gia đình thì càng khổ sở hơn.

Một lần nữa trong tâm tình của một người con, một tân tòng non trẻ. Tôi xin được chia sẻ một chút, mong làm sao những bậc trưởng bối và những quý vị chưa là Công Giáo nhận ra và xoá đi thành kiến đã có từ rất lâu đời về việc theo Chúa là bỏ hết ông bà, là bất hiếu tử, là bất tùng cuốc xuổng… Bao nhiêu từ ngữ nặng nề phủ lên đầu chúng tôi. Và tôi cũng đã bao nhiêu lần thấy khổ tâm khi phải nghe má tôi cứ gằng giọng, mỗi khi nói tới vấn đề tôi đến với Chúa.

Trong bài viết này, tôi xin đưa ra những nhân chứng là những tân tòng và những chị chỉ đang tìm hiểu về Chúa, đã có những tính cách rất dễ thương và đáng quý.

Người thứ nhất là một chị trung niên, chị tên N. Chị sống ở Saigon, chị là một tân tòng được nhiều người ngưỡng mộ về cách sống đạo. Chị từng là một người kinh doanh khá thành công, nhưng vì chị chứng kiến những cảnh trái tai gai mắt trên thương trường và để sống đúng theo những gì Chúa dạy. Chị đã phải đánh đổi cuộc sống kinh tế hiện tại, để có được một sự sống đời đời. Chị không thể nào nói dối để bán được hàng, chị càng không thể chịu đựng và đồng lõa với sự giả dối của những người bán hàng chung quanh. Cuối cùng, điều đáng nói là sau khi chị đọc và tìm hiểu trọn bộ Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước, thì chị đã quyết định phải thay đổi cuộc đời mình.

Chị kể lại rằng: Sau khi chị tìm hiểu thì cầu nguyện và quyết định một bước thay đổi rất ngoạn mục. Chị quyết định đánh đổi việc kinh doanh hiện tại, để được thay đổi cuộc đời cũng như đời sống tâm linh.Chị nói là từ ngày chị được trở lại và sống trong ơn nghĩa Chúa, thì chị thấy mình rất hạnh phúc và thoải mái. Chúa đã thu xếp cho chị một công việc rất nhẹ nhàng nhưng trọn vẹn nghĩa tình với Chúa cũng như với gia đình chị. Ngày ngày chị đi lễ sớm hơn mọi người để cầu nguyện và xướng kinh cho mọi người. Ngoài giờ Lễ thì chị chăm sóc mẹ chị và người thân chu đáo. Chị nói là cũng có nhiều khó khăn chị gặp phải trong những giao tiếp hàng ngày.Tuy nhiên vì chị có Chúa nên chị cũng đủ sức để vượt qua, và chị luôn nhận thức rằng đó chỉ là những trò của ma quỷ cố tình phá đổ những gì đẹp lòng Chúa.

Người thứ hai tên H,là một cô gái mà tôi quen biết đã hơn 10 năm. Cô này ngày trước rất ham thích những thú vui hiện đại, những người quen biết với cô ấy đã có lần nói rằng cô này chỉ toàn đi chơi vào ban đêm, mãi đến sáng thì cô mới về nhà. Gia đình cô thì chỉ còn cô và người mẹ đã lớn tuổi lại hay đau yếu, hoàn cảnh kinh tế cũng không khá giả. Công việc thường ngày là đi giúp việc chạy loanh quanh cho một chị gần nhà, vì chị ấy thương và xem cô ấy như người thân. Nên lắm khi cô gái ấy nghĩ mình cũng là tiểu thư giàu có sành điệu. Ngày trước tôi thường hay nghĩ không tốt về cô ấy và tôi không mấy thiện cảm, nhất là thấy cô ấy có thái độ khinh dễ người nghèo và người ăn xin. Bẵng đi một thời gian tôi có dịp gặp lại những người quen của cô ấy, đặc biệt là chị Mai (chị Mai được xem như là chị của cô ấy). Tôi vô tình hỏi thăm thì được biết một thông tin rất vui rằng, bây giờ cô ấy đã lãnh Bí Tích Rửa Tội được hơn 1 năm rồi. Điều đáng vui nhất là từ ngày cô ấy có Chúa, sau một biến cố trong đời thì cô ấy hoàn toàn thay đổi một cách kỳ lạ.Từ một cô gái đua đòi, ăn chơi không cần biết gì đến nỗi lòng của bà mẹ già, xin nói thêm là cô ấy không còn cha. Bây giờ cô ấy từ bỏ hết tất cả những cuộc vui thâu đêm suốt sáng, mà chỉ chuyên tâm ở nhà để chăm sóc cho mẹ thật chu đáo. Tính tình cô cũng khiêm nhu hơn, cô biết quan tâm và giúp đỡ những ai cần giúp.Giờ cô được xem là đứa con ngoan trong gia đình.

Người thứ ba tên P.N, hiện giờ thì chị đang trong giai đoạn tìm hiểu và cố gắng sống đúng như những gì chị hiểu về Chúa và Mẹ Maria. Chị tâm sự với tôi rằng trước kia khi chị không có Chúa, tâm trạng của chị rất mệt mỏi nặng nề bởi bà mẹ chồng luôn làm khó và tạo áp lực cho chị. Tuy chồng chị rất yêu quý chị, nhưng không khí gia đình nhỏ của chị khá nặng nề. Chị là con gái Bắc, mẹ chồng chị lại là người miền Trung nên chị phải chịu nhiều điều trái khoáy từ bà mẹ chồng khắt khe. Rồi đến một ngày, chị được dịp tiếp xúc với một linh mục khi gặp một biến cố. Sau thời gian trao đổi và được hướng dẫn có một lối thoát trong suy nghĩ, chị đã thấy lòng mình nhẹ nhàng hơn khi phục vụ mẹ chồng mình. Chị chia sẻ với tôi rằng, từ ngày có Chúa, từ ngày chị dành thời gian để tâm sự với Chúa thì chị thấy  mình hạnh phúc. Một điều quan trọng hơn nữa mà tôi cũng cần nêu lên để quý vị lưu ý, là mẹ chồng chị ấy bây giờ cũng được thay đổi. Bà ngày càng yêu quý con dâu mình, biết quan tâm tới con dâu, biết chia sẻ và nghe ý kiến của con dâu. Theo như lời chị vui vẻ chia sẻ thì bây giờ mẹ chồng chị rất dễ thương.

Người thứ tư tên là P.B, chị này là một phụ nữ trí thức. Chị luôn tự cho mình cái quyền là người hạch sách, đòi hỏi và ra lệnh mọi người trong gia đình phải luôn tuân theo ý kiến của mình. Cho dù đó lắm khi sai trái, chị bất kể đó là cha hay mẹ của mình. Mọi người gần như rất sợ tiếp xúc với chị, mỗi khi chị về nhà cha mẹ mình thì cuộc vui nơi đó gần như phải tan. Đối với mọi người chị giống như là một phần tử khủng bố, đó là danh từ mà người trong gia đình chị tặng cho chị. Rồi từ khi chị bị một căn bệnh khó chữa, thì chị càng tăng thêm quyền hành đòi hỏi mọi người phải phục vụ chị. Hôm nào mẹ chị nấu cơm cho chị ăn, mà món ăn không vừa miệng chị thì chị tha hồ nặng nhẹ, xách mé đến nỗi mẹ chị đã khóc vì chị không biết bao nhiêu lần. Chị luôn nghĩ là mình đã giúp đỡ cha mẹ, cha mẹ rất cần mình nên phải phục vụ mình và nhất định không được từ chối bất cứ yêu sách nào của mình, mặc dù nó rất vô lý. Rồi cũng đến ngày chị được Chúa đến thăm, Chúa đã âu yếm xoa dịu nỗi đau trên cơ thể chị, Chúa đã ôm chị vào lòng rất êm ái. Mẹ Maria thì nhỏ nhẹ tâm tình và dạy dỗ chị rất nhẹ nhàng. Chỉ với tình yêu Chúa và nỗi lòng bao la của một bà Mẹ Thánh. Chị gần như hoàn toàn thay đổi, sự thay đổi của chị đã làm cho những người trong gia đình rất đỗi bất ngờ. Chị tâm sự với tôi rằng, ngày trước mỗi khi mẹ chị không làm chị vừa lòng thì chị liền trả treo, đay nghiến cho thỏa mãn cái tính tự ái và kiêu căng của chị. Còn từ khi có Chúa thì chị bảo rằng chị không dám nói gì, mặc dù trong lòng cũng nổi cơn. Lúc đó chị chỉ còn nhớ tới việc đọc Kinh Kính Mừng của Đức Mẹ hay là lần Chuỗi Mân Côi, thì chị cảm thấy lòng mình dịu lại và thấy thương mẹ và thông cảm cho những vất vả của mẹ (xin được nói thêm một chút, về việc vì sao chị biết đọc kinh của Đạo Công Giáo trong khi gia đình chị thuộc Phật Giáo. Chị đã được người em gái của chị trong một biến cố đã tìm đến với Chúa trước chị, hướng dẫn và chia sẻ tâm tình của Chúa và Mẹ Maria dành cho nhân loại. Từ dịp đó, chị và em gái chị đã có tiếng nói chung về đời sống tâm linh). Giờ đây chị gần như là một con người khác, một con người biết chia sẻ, cảm thông với mọi người và biết chấp nhận những gian truân trong cuộc sống. Chị nói rằng khi có Chúa chị thấy mình rất yên tâm, chị thấy mình rất bình an trong mọi hoàn cảnh. Khi cảm nhận tình thương của Chúa và Mẹ Maria bên cạnh, thì chị càng thấy yêu quý cha mẹ ruột của mình hơn. Giờ thì mọi người trong nhà chị rất vui vẻ và luôn luôn mong muốn chị về chơi với gia đình. Hiện tại chị chia sẻ với tôi rằng chị đang cầu nguyện và xin thêm một ơn đặc biệt của Chúa là vượt qua tất cả để chị đến với Chúa trọn vẹn hơn.

Tôi xin phép gởi đến quý vị một câu trong Kinh Thánh, để quý vị rỏ hơn vì sao khi có Chúa thì những người chị em của tôi có thể vượt qua và làm hài lòng những người chung quanh tất cả. Chỉ vì họ tin vào Lời Hứa này của Chúa:

“…Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. (Mt 11, 28-30)

Trên đây là những nhân chứng có thật, vì một lý do tế nhị nên tôi chưa tiện nêu tên cụ thể. Còn trong bài viết này thì tôi xin phép được chia sẻ tâm tư của mình, chỉ mong quý vị đón nhận trong thương yêu và đồng cảm.

Được gọi là Người Công Giáo thì nhất định, không ai không biết tới 10 Điều Răn của Đức Chúa Trời. Chỉ sau 3 điều răn đầu tiên là dành trọn vẹn cho Thiên Chúa, thì điều răn thứ 4 kế tiếp là Thiên Chúa đặc biệt nói đến điều luật là phải thảo kính cha mẹ. Cụ thể hơn nữa là nếu ai thờ cha kính mẹ một cách trọn vẹn thì con được Thiên Chúa chúc phúc và sống thọ trong ơn nghĩa Chúa.

Theo tôi nếu quý vị chịu khó dành một chút thời gian ít ỏi trong ngày, xin mời quý vị tham gia thử một Thánh Lễ một lần với tâm tình tìm hiểu để cảm thông và chia sẻ. Tôi chắc chắn rằng quý vị sẽ thấy Người Công Giáo chúng tôi, không hề quên hay từ bỏ tổ tiên ông bà. Mà trong tất cả những Thánh Lễ, cho dù là ngày thường (mỗi ngày có 2-3 Thánh Lễ) chúng tôi đều có lời cầu nguyện với Chúa cho tổ tiên, ông bà của mình sớm được hưởng hạnh phúc đời đời trên nước Trời. Trong mỗi Thánh Lễ đều có những lời nguyện của các linh mục, là xin Chúa tha thứ cho những việc làm không đẹp lòng Chúa của tiên nhân mình.

Không chỉ có vậy thôi, Người Công Giáo còn dành trọn tháng 11 hàng năm để tưởng nhớ, cầu nguyện và viếng thăm mộ của ông bà. Một điều đáng chú ý và làm cho tôi ngưỡng mộ hơn nữa, là chẳng những họ viếng mộ của người thân mình, mà Người Công Giáo còn viếng luôn mộ của nhưng người chưa một lần quen biết. Ở Đạo Công Giáo có một tính chất rất cao quý là tính thông công, con người sống thông công với các vị thánh, để các vị Thánh cầu nguyện cho người sống để người sống được hoàn thiện hơn. Người còn sống thì ngày ngày cầu nguyện và van xin Đấng Tối Cao tha thứ cho những thiếu sót, lỗi lầm của tổ tiên mình mắc phạm, hòng để cho các vị ấy sớm được hưởng phúc đời sau. Thậm chí giờ đây Người Công Giáo, còn hiệp ý để cầu nguyện cho những người không Công Giáo. Điều ngạc nhiên không kém là những người không Công Giáo, cũng được ơn Chúa ban từ những lời cầu nguyện của những người Công Giáo kia.

Trên đây là những điều tôi được biết, được hiểu và được cảm nhận những điều mà những bậc trưởng bối không phải người Công Giáo chưa được rõ.Tôi nghĩ là tôi cần phải nêu lên những điều cần thiết này, mong sao quý vị đón nhận dù là còn nghi ngờ khi quý vị chưa đến tham dự Thánh Lễ của chúng tôi.

Tôi không hề nói quá, nhưng vì là một tân tòng nên có thể tôi chưa trình bày cặn kẽ hơn và chi tiết hơn để hầu cùng quý vị.Trong bài tâm tình này tôi chỉ mong quý vị đọc để hiểu hơn và thông cảm hơn cho con cháu mình trong những hoàn cảnh được Chúa chọn bằng cách này hay cách khác.

Tôi xin chân thành cám ơn quý vị và dành thời gian quý báu để đọc bài chia sẻ của tôi. Chúng tôi, những người đã được Chúa chọn hay đang được Chúa chọn rất hy vọng quý vị sẽ thông cảm và xoá bớt đi định kiến nặng nề, mà không làm cho chúng tôi phải khổ sở, khó khăn trong việc làm tròn chữ hiếu với cha mẹ và vẹn nghĩa của chữ tình với bạn đời. Vì với tôi, chữ Hiếu và chữ Tình không thể thiếu nhau, vì trong cuộc sống mà thiếu đi một trong hai chữ, chắc chắn cuộc đời của ta sẽ không trọn vẹn. Hai chữ Hiếu -Tình luôn tương trợ và đồng hành cùng nhau, sẽ làm cho cuộc sống của con người ý nghĩa hơn và hạnh phúc hơn.

Sàigon, ngày 26 tháng 01 năm 2013

Maria Túc Lynh

TẤM LÒNG

TẤM LÒNG

Trầm Thiên Thu
tro ve

Triết gia Pascal nói: “Con người là cây sậy có lý trí”.  Một cách diễn tả dung dị dễ hiểu.  Điều đó mặc nhiên rằng con người là sinh vật bất túc, bất trác và bất toàn, với một số phận mong manh không khác đóa phù dung.  Và vì thế, con người cứ miệt mài ngày đêm đi tìm Chân-Thiện-Mỹ theo lệnh truyền của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” (Mt 5:48).  Nghĩa là phải chiến đấu và vươn lên không ngừng, với khát khao tìm về cái gọi là “nhân chi sơ tính bổn thiện” sau những ngày (có thể) sa chân lầm lạc hoặc lỡ để bàn tay nhúng chàm.

Con người yếu đuối nên dễ “nhiễm” cái xấu hơn cái tốt, nhưng hẳn là khôn hơn khi chưa vấp ngã. Phêrô, một ngư ông chất phác, được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ, và dù đã “thẳng thừng” chối Thầy mình, ông vẫn được Ngài cất nhắc lên làm Giáo hoàng tiên khởi, làm “hoa tiêu” đưa Con thuyền Giáo hội vượt qua ngàn trùng sóng gió, vì chính ông đã có kinh nghiệm bản thân.  Vấn đề không phải là tốt hay xấu, giỏi hay dốt, mà là biết thành tâm sám hối, biết sửa sai và phục thiện, để sống tốt hơn và lợi ích cho tha nhân.

Thật vậy, đời người là một chu-kỳ-ăn-năn không ngừng.  Hết lỗi lầm này đến sai lầm khác.  Rồi ăn năn. Rồi tái phạm.  Và rồi lại hối hận… Vậy đó, hứa nhiều mà chẳng giữ được bao nhiêu.  Càng nhiều tuổi càng “nói dối” nhiều: Ai càng sống lâu càng xưng tội nhiều lần mà vẫn chưa chừa được!  Chúng ta chỉ là những kẻ nói dối Chúa!  Ai cũng quyết lên án nhưng rồi không ai dám ném đá người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình (x. Ga 8:2-11), thế nên họ đều lần lượt bỏ đi, người lớn tuổi đi trước, kẻ nhỏ tuổi đi sau, vì không ai thấy mình sạch tội.  Vâng, đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán!

Nói vậy không có nghĩa là không cần hoàn hảo vì không thể hoàn hảo.  Vẫn phải cố gắng tìm sự hoàn hảo: Hoàn hảo ngay trong cái chưa hoàn hảo.  Nếu tưởng mình hoàn hảo tức là chưa hoàn hảo.  Thật vậy, “ai tưởng mình là gì mà kỳ thực không là gì hết, đó là lừa gạt chính mình” (Gl 6:2-3).  Những người theo chủ-nghĩa-hoàn-hảo, gọi là cầu toàn, luôn làm ra vẻ hoàn hảo để mong được tiếng khen, dễ nóng giận với chính mình và luôn chê trách hoặc ghen ghét người khác.  Thực ra đó chỉ là cách che giấu cái bất toàn của mình.

Quả thật, con người quá yếu đuối và luôn đầy tham vọng.  Nhưng không vì thế mà ỷ lại hoặc cố chấp, biện hộ cho những gì mình làm.  Ngược lại, phải tự biết chấp nhận mức độ hữu hạn của mình để luôn biết làm việc tận tụy bằng tất cả tâm lực mà không đòi hỏi gì thái quá nơi người khác.  Đức Giêsu đã nói: “Ai trung thành trong việc nhỏ sẽ trung thành trong việc lớn” (Lc 19:12-27).  Hãy tự giành cho mình những việc khó và dành cho người khác những việc dễ, nhưng không hề miễn cưỡng hoặc tỏ vẻ khó chịu.

Mùa Chay là thời gian cần thiết để suy gẫm, tĩnh tâm, vì đời người như một cỗ máy, thỉnh thoảng vẫn cần được tu sửa – dù tiểu tu, trung tu hoặc đại tu.  Mùa Chay cũng là dịp “nhìn lại” số km mình đã đi qua để biết phải cố gắng thêm ít hay nhiều, như máy móc phải châm thêm hoặc thay dầu nhớt, chứ không thể tự mãn.  Ăn chay phải gắn liền với cầu nguyện, vì “bao lâu ta chưa thôi cầu nguyện là dấu chắc chắn Chúa đang thương” (Thánh Augustinô).  Cầu nguyện là mãnh lực khả dĩ chiến thắng tất cả!

Ăn chay song song với tịnh tâm.  Không nhất thiết phải làm điều gì vĩ đại mà chỉ cần “chấn chỉnh” hoặc “cởi bỏ” một thói xấu hoặc một động thái nào đó…  Thiết tưởng đó mới là cách “trở về” hữu ích và đẹp lòng Chúa.  Có thể là hy sinh không đi chơi, bớt hoặc bỏ hút thuốc, giảm uống cà-phê, bớt uống rượu, thôi cờ bạc, ít tán gẫu, không xét đoán, chăm học hơn, quan tâm nhau hơn, sống hòa đồng hơn, nghiêm túc hơn,… Đó chính là những Vị Ngọt làm cho ly-cà-phê-không-đường đời mình thêm đậm đà hương vị, để không chỉ cho riêng mình “thưởng thức” mà còn cho cả những người xung quanh cùng “nếm thử”. Và còn mãi dư vị làm sảng khoái…

Trở về là hành-trình-vui nếu biết trở về với cả tấm lòng sau những năm tháng hoang đàng.  Thiên Chúa luôn nhân hậu và đại lượng vẫn từng giây mong chờ tội nhân trở về nương náu Tình Yêu Thiên Chúa. Dù tội lỗi đến đâu, dù thất vọng nhưng đừng tuyệt vọng, Thiên Chúa vẫn nhân hậu vô cùng, chỉ cần chúng ta biết thành tâm sám hối, vì chính Chúa Giêsu đã nói với nữ tu Josefa Menendez (1890–1923, Dòng Thánh Tâm): “Sự khốn nạn của con lôi cuốn Cha”.  Thật là may mắn và hạnh phúc cho mỗi người chúng ta có một Vị Thiên Chúa từ bi ngoài sức tưởng tượng của loài người!

Tình Yêu Chúa là thế, yêu đến cùng, yêu đến chết, yêu đến giọt máu và giọt nước cuối cùng, vì vậy mức độ yêu Chúa của chúng ta phải theo cách thức của Thánh Bernard: “Mức độ yêu Chúa là yêu vô hạn”.  Con người với nhau rất cần một tấm lòng thì với Thiên Chúa, Ngài cũng chỉ cần chúng ta dành trọn cho Ngài một Tấm Lòng mà thôi!

*************************

Lạy Chúa, chúng con thật yếu đuối, “điều con muốn thì con không làm, điều con không muốn thì con lại làm” (x. Rm 7:19).  Thật trớ trêu thay! Nhưng Ngài vẫn không chấp, vẫn sẵn sàng tha thứ tất cả, tha thứ vô điều kiện chỉ vì Tình Yêu Ngài dành cho con luôn trọn vẹn, trước sau như một.  Có nhiều lúc con cô đơn và thất vọng ê chề, xin Ngài thương độ trì, vì con xác tín “Ngài là Đấng đã gọi con, Ngài đang ở với con, Ngài không để con cô đơn một mình” (Ga 8:29) và “xin thêm đức tin cho con” (Lc 17:5).  Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen!

Trầm Thiên Thu

From: langthangchieutim

và Anh chị Thụ & Mai gởi

ĐẦU NĂM MỪNG TUỔI… “NHÓM TOBIA”

ĐẦU NĂM MỪNG TUỔI… “NHÓM TOBIA”

Tác giả: Lm. Lê Quang Uy, DCCT

nguồn:conggiaovitenam.net

Có lẽ công việc BVSS trước hết mọi mặt chính là đi nhặt xác thai nhi đem về lo tẩm liệm, chôn cất hoặc hỏa táng. Và nếu chọn mốc khởi sự là năm 1992, thì anh Tống Phước Hiếu cùng với người thân trong gia đình và các bạn sinh viên Huế sẽ được công nhận là thành viên “Nhóm Tobia” đầu tiên, đã tận tụy ân cần từng ngày vun đắp những nấm mộ thai nhi trên các quả đồi bỏ hoang của Giáo Xứ Ngọc Hồ, cố đô Huế. Từ đó đến nay đã 21 năm, 3 quả đồi trắng xóa những cây thập giá, có lẽ phải đến hàng mấy vạn anh hài.

Chúng tôi đóng ngoặc kép tên gọi “Nhóm Tobia” là vì không có hẳn một Nhóm nào mang tên Tobia, nhưng cứ hễ ở đâu khởi sự có chương trình BVSS, thì người ta có thể làm ngay khâu lo “hậu sự”, và như thế họ trở thành các hậu duệ của Thánh Tobia trong Cựu Ước.

Ngày xưa còn bé, trước 75, cuối tuần tôi thường được bố giao việc đi bộ từ Nhà Thờ Phanxicô Đakao ra Nhà Thờ Tân Định để nhận báo đem về phát cho từng nhà bổn đạo, khi băng ngang đường Hai Bà Trưng, nhìn sang phía bên phải thấy Trại Hòm Tobia, tôi cứ sờ sợ, ghê ghê thế nào ấy. Của đáng tội, những gì có hơi hướm sự chết, ai mà không hãi !?! Vậy mà không ngờ hơn bốn mươi năm sau, bản thân mình cũng liên quan đến “Nhóm Tobia”.

Có điều, ngày xưa Trại Hòm Tobia có câu slogan lừng danh “Sống một cái nhà, thác một cái hòm”, các thai nhi của chúng tôi bây giờ làm gì mà dám mơ có được hẳn một cái hòm ?!? Khi được các cộng tác viên “Nhóm Tobia” kín đáo mang ra khỏi bệnh viện hoặc phòng khám có dịch vụ phá thai, các bé nằm chung với nhau trong những túi nylon màu đen lõng bõng nước, từ đó đem về các Nhà Dòng hay Nhà Xứ, có khi là về một ngôi Chùa nữa.

Đến khi đem chôn thì các bé được đặt chung trong một cái bát hương, hay hũ sành, trám ximăng lại rồi táng vào hầm mộ, hoặc đào sâu xuống đất, nơi sẽ xây lên một nấm mộ bé xíu, quét vôi trắng, hoặc ốp đá đen, thường là mộ chung của 20 đến 30 em bé. Ở DCCT và một vài nơi khác giữa lòng các thành phố lớn, khi chọn giải pháp là thiêu, tro cốt các bé như nắm bột màu ngà ngà trắng, được gói lại, hàn kín trong những bao nylon trong, đặt gọn giữa lòng một viên gạch kích thước 15x15x25cm, mỗi viên gạch như thế là khoảng 100 cháu. Ở Sàigòn trước đây mỗi ngày chỉ 1 viên, bây giờ có khi phải là 2, 3 viên. Cứ thế, sau 10 năm, riêng Nhà Dòng chúng tôi đã nhặt về tính ra đã hơn 35 vạn cháu bé, vượt qua số lượng thai nhi được chôn cất sau hơn 20 năm ở Huế !

Để có được những Nghĩa Trang như thế, các Linh Mục nam nữ Tu Sĩ chúng tôi làm sao cho xuể từ A đến Z ? Rõ ràng phải có rất đông anh chị em Giáo Dân cộng tác gắn bó tin cậy suốt nhiều năm mà chúng tôi xin được gọi chung là “Nhóm Tobia”.

Trước hết phải kể đến các y bác sĩ, điều dưỡng, y công còn có lương tâm, tại các nơi có phá thai, họ dứt khoát không nhúng tay phạm tội ác phá thai nhưng cũng không đành lòng làm ngơ để xác các bé bị đem đi như rác thải y tế hoặc tệ hơn, bỏ tọt vào nhà cầu, giật nước ùm một cái là xong như người ta vẫn thản nhiên làm.

Tiếp theo, chỉ tính riêng với DCCT, là một đội ngũ khoảng 40 anh chị em, do tính cách công việc quá nhạy cảm, họ gần như hoạt động đơn lẻ độc lập, không quen không biết nhau, nhiều lắm là đi chung 2 người với nhau hoặc chia nhau luân phiên hai tư sáu – ba năm bảy. Họ hoàn toàn tự nguyện, lắm khi chúng tôi hỏi thăm, họ cũng khéo léo từ chối không cho biết tên, biết địa chỉ và nghề nghiệp. Có lẽ họ vừa muốn khiêm tốn âm thầm làm việc, lại vừa muốn tránh mọi sự dòm ngó đồn thổi. Suốt buổi sáng cho đến tối khuya, dù mưa gió, áp thấp nhiệt đới, rớt bão tràn về thành phố, bất cứ lúc nào có em bé bị giết, họ lại có mặt để nhận xác và đem về nơi Góc Thương Xót, cuối hành lang dãy Nhà Hiệp Nhất ở DCCT chúng tôi. Họ hiểu, chỉ một sơ sảy trễ hẹn hay bỏ phiên, các em bé có thể bị vứt đi không thương tiếc, làm mồi cho chuột, chó, mèo, ruồi nhặng…

Kế đó, vào lúc 21g30 hằng đêm, khi cái vại lớn ở chỗ chúng tôi đã đầy ngập những túi nylon đen, ít gì cũng cả trăm xác, mà lắm hôm gặp đợt cao điểm phá thai, tổng cộng phải đến 10Kg xác em bé, đến phiên các bạn Nhóm Fiat ( gần đây có thêm Nhóm Amen là c1svien gốc Tân Hà, Bảo Lộc ), từng hai bạn trẻ làm thành một ca, gói ghém kỹ lưỡng tất cả trong 2, 3 lớp bao nylon to và dầy, túm lại, buộc chặt, thắp một nén nhang, đứng im cầu nguyện trong mấy phút trước tượng Đức Mẹ và ảnh Lòng Chúa Thương Xót, rồi rời Góc Thương Xót mang tất cả đi một đoạn đường khoảng 10 cây số đến một ngôi Nhà Nguyện nhỏ bé xa xôi ở ngoại thành.

Cuối cùng, tại điểm lo hậu sự, một thầy trợ sĩ DCCT sẽ cùng các bạn trẻ trong “Nhóm Tobia” riêng của thầy, đón lấy, đưa các bé ra khỏi các túi nylon, trộn với vôi bột, lại cầu nguyện, rồi bắt đầu đặt vào lò thiêu bằng gaz thật an toàn, gọn nhẹ, không gây ô nhiễm. Mấy tiếng đồng hồ sau, nhiệt độ giảm dần, tro cốt các cháu từ nay sẽ yên nghỉ trong từng viên gạch lớn ghi rõ trên nắp bên ngoài: RIP ( Requiescat in Pacem ) xây thành 3 bức tường lớn hình chữ U của Nghĩa Trang Anh Hài.

Như vậy đó, với 4 khâu lần lượt nối tiếp nhau của “Nhóm Tobia”, những linh hồn bé bỏng bị con người từ khước được về bên Chúa, còn thân xác tý hon thì được chăm sóc chu đáo. Công việc lầm lũi âm thầm, không lương bổng, không bồi dưỡng nhưng lại đòi hỏi một tinh thần trách nhiệm rất cao, giàu tình thương và lòng trung tín, không được để thất hẹn, cho dẫu phải phóng xe gắn máy đêm hôm về tận Bình Dương, Biên Hòa, Tây Ninh, Mỹ Tho rồi trở lại Sàigòn…

Hôm 28 Tết vừa qua, lúc 8g30 sáng, một cú phone bất ngờ từ Hóc Môn, cách Nhà Dòng chúng tôi khoảng 12 cây số: “Cha ơi, đến 10g30, cha gửi một bạn về nhận một thai nhi nhé, mẹ bé bây giờ đang nằm chờ trong phòng chuẩn bị rồi…” Các bạn gốc Sàigòn thì đang còn phải đi làm những ngày cuối năm, các bạn khác trong “Nhóm Tobia” thì đã về quê ăn Tết, tôi đang lo có khi chính mình phải lên đường, thì một bạn trẻ đang ngồi cộng sổ sách Quỹ Người Nghèo nghe tin đã nhận lời ngay: “Bố để con đi cho… Nhưng… khu vực ấy con không rành đường…” Cuối cùng bạn trẻ ấy cũng đã lên đường và mang về một bào thai đã 4 tháng tuổi còn ấm nóng đúng giữa trưa.

Tôi gọi phone hỏi cộng tác viên các nơi: “Tết nhất có phá thai không nhỉ ?” Họ trả lời: “Có chứ cha, cứ trả tiền cao là người ta làm tất ! Cha chuẩn bị tinh thần nhé…” Vâng, chúng tôi đã luôn chuẩn bị tinh thần, nhưng vẫn có một nỗi xót xa, buồn đến rũ người…

Còn nhớ, trước khi có các bạn Fiat tình nguyện, suốt trong 6, 7 năm liền, khâu thu gom xác thai nhi đưa đi thiêu này do gia đình bác MH. đảm nhận. Vợ chồng, các con trai con gái chia phiên nhau trong tuần, đến cả cô con dâu trong những ngày đang mang thai sắp sinh cũng luôn sẵn sàng. Vậy mà có lần cô con gái Út đang cặm cụi chở xe Honda một bọc to xác các thai nhi, dọc đường gặp một ông thầy tu trẻ, ông cười cợt mỉa mai: “Sao em ngu thế ? Người ta ăn ốc, em lại phải đi đổ vỏ à ?”

Vâng, tại sao lại có những con người, hầu hết là các bạn trẻ, lại tình nguyện làm cái chuyện ngược đời và có vẻ tào lao vớ vẩn như thế ? Nhiều Linh Mục cũng thường chất vấn chúng tôi theo cái kiểu châm biếm giễu cợt: “Sao các ông không chịu lo ngăn ngừa ngay từ cái gốc, mà cứ toàn lo giải quyết chuyện cái ngọn như thế, chẳng ra đâu vào đâu, vô ích !” Chúng tôi bực bội lắm nhưng rồi cũng đành nhịn, có cãi, có phân bua cũng bằng thừa, người ta không hề chú ý xem chương trình BVSS còn nhiều mặt hoạt động khác chứ đâu chỉ có khâu hậu sự chôn cất ! Những dư luận như thế thường chỉ có vậy, rồi thôi, chẳng thấy ai cùng lên tiếng, chẳng thấy ai bắt tay vào việc để cùng chúng tôi lo cái gốc rễ của vấn nạn nạo phá thai…

Ngẫm nghĩ thấy cái thân phận làm Tobia là như thế…

Đọc lại chuyện ông Tôbia trong Cựu Ước thì thấy được an ủi khích lệ rất nhiều. Cha con Tôbít – Tôbia quả thật là người hiền lành dễ thương chứ không đành hanh bần tiện, giàu lòng nhân ái chứ không vô cảm, luôn sẵn sàng giúp người nghèo đói khốn quẫn. Lại thấy xác những người bị vua giết hại quăng ra ngoài thành, không nỡ để cho thú dữ xé thịt, cha con ông lại đi đào huyệt chôn cất đàng hoàng tử tế. Vua biết được thì tức giận cho lùng bắt trị tội, ông Tôbit đã phải bỏ trốn biệt tích, gia sản bị sung công tất cả, trừ bà vợ là Anna và con trai là Tôbia.

Rồi mãi đến khi vua ấy bị giết chết, vua khác lên ngôi, ông Tôbít mới được tha về, vậy mà hai cha con vẫn cứ liều mình đi chôn cất những xác chết oan khiên đầu đường xó chợ. Láng giềng chế nhạo và mắng rằng: “Hắn vẫn còn chưa sợ ! Người ta truy nã để giết hắn về tội ấy và hắn đã phải trốn đi, thế mà hắn lại vẫn cứ đi chôn cất người chết !” ( Tb 2, 7 ).

Sau này, khi Tôbia cưới được vợ phương xa là Sara và mang thuốc quý trở về chữa bệnh mù cho cha, thiên thần Raphaen mới bảo với cha con Tôbia: “Chính tôi đã tiến dâng những lời cầu nguyện lên trước nhan vinh hiển của Đức Chúa, để xin Chúa nhớ đến hai người; tôi cũng làm như vậy khi ông chôn cất người chết. Và khi ông không ngại trỗi dậy, bỏ dỡ bữa ăn để đi chôn cất người chết, bấy giờ tôi được sai đến bên ông để thử thách ông và chữa lành cho ông…” ( Tb 12, 12 ).

Cựu Ước ghi lại câu chuyện thật có hậu. Trải qua bao thăng trầm, vui buồn, hạnh phúc và khốn khổ, ông Tôbít sống thọ đến 112 tuổi trong bình an. Còn Tôbia còn thọ hơn cha, đến 117 tuổi mới ra đi trong hạnh phúc. Có cái gì đó là lẽ nhân – quả trong cuộc đời cha con ông Tôbia hay đó là phần gia nghiệp Thiên Chúa ban tặng cho những ai sống công chính và có tấm lòng xót thương người ?

Trước mắt, chúng tôi viết bài này không nhắm đến chuyện phô trương, kể lể công khó thay cho các anh chị em “Nhóm Tobia” gần xa khắp nơi trên quê Việt, nhưng thật sự chỉ muốn “mừng tuổi” họ đúng vào ngày đầu năm mới.

Vâng, hôm nay họ đang cặm cụi đi “đổ vỏ” trong khi người đời tiếp tục ngang nhiên “ăn ốc”, họ vẫn nhẫn nại chôn cất các thai nhi đáng thương hằng ngày. Trong thinh lặng âm thầm của Sự Chết vẫn có vạn điều lên tiếng nói cho Sự Sống, cho Lương Tri, “Nhóm Tôbia” vẫn đang ở đầu sóng ngọn gió của phong trào BVSS. Họ vẫn đang chỉ ra cho mọi người thấy một đất nước ngỡ là đã hòa bình nhưng hằng năm vẫn có đến 3 triệu em bé phải chết, một quê hương có quá nhiều nghĩa địa và những rừng cây thập giá…

Mừng tuổi “Nhóm Tôbia” thế nào đây ? Chúng tôi tin, chẳng phải đợi đến cuối đời, ngay từ bây giờ anh chị em cũng đã được hưởng ân phúc trong Bình An thật sự của Thiên Chúa không thua gì cha con ông Tôbia ngày xưa…

“Phúc thay ai biết xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” ( Mt 5, 7 ).

Lm. QUANG UY, DCCT,

Mùng Một Tết, Chúa Nhật 10.2.2013 (Ephata 548)

Niềm hạnh phúc

Niềm hạnh phúc

TRẦM THIÊN THU

Đăng bởi lúc 1:53 Sáng 20/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2013) – Sài Gòn – Hạnh phúc là gì? Chắc hẳn chẳng ai có một định nghĩa chính xác nhất. Người thì cho thế này là hạnh phúc, người thì cho thế kia là hạnh phúc, người lại cho thế nọ là hạnh phúc. Chẳng ai giống ai, mỗi người đều có quan niệm và cách sống khác nhau!

Có chuyện kể thế này: Người nọ nghe nói có một đạo sư nổi tiếng nên tìm đến hỏi về đạo. Đến nơi, anh thấy trong nhà của vị đạo sư trống trơn, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một cái ghế và một cuốn sách.

Anh ngạc nhiên hỏi: “Sao nhà đạo sư trống trơn, không có đồ đạc gì cả?”. Đạo sư hỏi lại: “Thế anh có hành lý gì không?”. Anh đáp: “Dạ, có một va-li”. Đạo sư hỏi: “Sao anh có ít đồ vậy?”. Anh đáp: “Vì đi du lịch nên đem ít đồ”. Đạo sư nói: “Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều”.

Một câu nói đầy triết-lý-sống. Chúng ta thường quên rằng mình cũng chỉ là “khách du lịch qua cuộc đời này” – lữ khách trần gian, nhưng lại lầm tưởng mình sẽ ở mãi nơi đây, nên tham lam, ôm đồm, tích trữ quá nhiều đồ vật, tài sản. Đàn bà lo tích trữ đủ loại quần áo, giầy dép, vòng vàng, nữ trang,… Đàn ông lo thu gom đủ thứ máy móc, xe cộ, ti-vi, điện thoại,…

Ở đời, người ta thường cho hạnh phúc là có được cái này hoặc cái kia như nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con ngoan, tài sản, địa vị, chức quyền,…  Thế nên khi chưa có thì người ta muốn có, làm đủ mọi cách để chiếm hữu; có rồi thì người ta sợ mất hoặc xem thường, rồi lại muốn có cái khác “ngon” hơn, nếu không thỏa mãn thì buồn phiền, bất mãn, khổ sở,… Người ta không bằng lòng với hiện tại, đúng như tục ngữ nói: “Đứng núi này trông núi nọ”.

Cuộc sống thật nhiêu khê và nan giải! Ngược lại, người biết tu thân thì thấy “không có” là niềm hạnh phúc. “Không có” ở đây là do trí tuệ quán chiếu, thấy mọi sự phiền toái đều do ham muốn mà ra. Bởi thế người tu thân không muốn có, nếu đã có rồi thì tập xả ly – nghĩa là đừng “bận lòng” tới nó. Tại sao? Vì những thứ “có” trên thế gian này đều là ràng buộc!

GIAO ƯỚC ĐỂ LÀM GÌ ?

Đức Chúa đưa ông Áp-ram ra ngoài và phán: “Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không. Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!” (St 15:5). Nghe vậy, ông tin Đức Chúa, và vì thế, Đức Chúa kể ông là người công chính. Bất cứ ai thành tâm và tuyệt đối tin kính Thiên Chúa đều được kể là công chính. Rồi Ngài phán với ông: “Ta là Đức Chúa, Đấng đã đưa ngươi ra khỏi thành Ua của người Can-đê, để ban cho ngươi đất này làm sở hữu” (St 15:7). Ông liền thưa: “Lạy Đức Chúa, Đức Chúa làm sao mà biết là con sẽ được đất này làm sở hữu?” (St 15:8). Ngài phán với ông: “Đi kiếm cho Ta một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một chim gáy và một bồ câu non” (St 15:9).

Và rồi ông kiếm cho Ngài tất cả những con vật ấy, xẻ đôi ra, và đặt nửa này đối diện với nửa kia; còn chim thì ông không xẻ. Sau đó, mãnh cầm sà xuống trên các con vật bị giết, nhưng ông Áp-ram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời gần lặn, một giấc ngủ mê ập xuống trên ông Áp-ram; một nỗi kinh hoàng, một bóng tối dày đặc bỗng ập xuống trên ông. Khi mặt trời đã lặn và màn đêm bao phủ, bỗng có một lò nghi ngút khói và một ngọn đuốc cháy rực đi qua giữa các con vật đã bị xẻ đôi. Những hình ảnh đó cho biết là Thiên Chúa đã nhận lễ vật. Hôm đó, Đức Chúa lập giao ước với ông Áp-ram: “Ta ban cho dòng dõi ngươi đất này, từ sông Ai-cập đến Sông Cả, tức sông Êu-phơ-rát” (St 15:18).

Giao ước dành cho Tổ phụ Áp-ra-ham cũng là Giao ước dành cho Dân Chúa, tức là chúng ta, vì Thiên Chúa là Chân Lý, là Ánh Sáng, là Điều Thiện, Ngài chỉ có muốn và làm Điều Tốt Lành. Tác giả Thánh vịnh đã vinh hạnh và tin tưởng cất tiếng ca tụng: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1), đồng thời cũng kêu xin và tự khuyến cáo: “Lạy Chúa, cúi xin Ngài nghe tiếng con kêu, xin thương tình đáp lại. Nghĩ về Ngài, lòng con tự nhủ: Hãy tìm kiếm Thánh Nhan” (Tv 27:7-8a). Ngài mong muốn chúng ta hoàn thiện (x. Mt 5:48), nhưng Ngài biết chúng ta rất khó hoàn thiện, và Ngài muốn ít ra chúng ta phải biết muốn thực sự hướng thiện. Goethe nhận định: “Toàn thiện là luật của Trời, hướng thiện là lối của người”. Dù chưa hoàn thiện nhưng chúng ta phải biết khao khát sự thiện.

Ngài im lặng, không phải Ngài thử thách chúng ta, vì Ngài biết chúng ta thế nào nên Ngài không cần thử thách, mà Ngài chỉ muốn chúng ta nhận biết mình bất túc và bất trác, nhận biết mình bất lực mà thành tâm và kiên trì cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tìm Thánh Nhan Ngài, xin Ngài đừng ẩn mặt. Tôi tớ Ngài đây, xin đừng giận mà ruồng rẫy, chính Ngài là Đấng phù trợ con. Xin chớ bỏ rơi, xin đừng xua đuổi, lạy Thiên Chúa, Đấng cứu độ con” (Tv 27:8b-9). Được Thiên Chúa thực hiện lời hứa thì chúng ta phải biết tạ ơn thật lòng. Đó cũng là niềm hạnh phúc!

Tác giả Thánh vịnh cho biết: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 27:13). Đức Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của kẻ chết. Đã hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, nên tác giả Thánh vịnh khuyến khích mỗi chúng ta: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa” (Tv 27:14). Ai biết trông cậy, tin tưởng và yêu mến Chúa thì thật là hạnh phúc!

GIAO ƯỚC ĐỂ NHÂN LOẠI HẠNH PHÚC

Cũng vậy, Thánh Phaolô đã dày kinh nghiệm cả về “bước lầm lạc” lẫn “bước đức tin” nên ngài chân thành tâm sự: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em. Vì, như tôi đã nói với anh em nhiều lần, và bây giờ tôi phải khóc mà nói lại, có nhiều người sống đối nghịch với Thập giá Đức Kitô: chung cục là họ sẽ phải hư vong. Chúa họ thờ là cái bụng, và cái họ lấy làm vinh quang lại là cái đáng hổ thẹn. Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3:17-21). Thánh nhân nói thẳng thắn và rõ ràng, chẳng úp mở chi. Chỉ vì “cái bụng”, tức là “miếng ăn”, mà người ta có thể sát hại nhau không gớm tay!

Thánh Phaolô tiếp tục nhắn nhủ: “Hỡi anh em thân mến, lòng tôi hằng tưởng nhớ anh em là niềm vui, là vinh dự của tôi. Anh em rất thân mến, anh em hãy kết hợp với Chúa mà sống vững vàng như vậy” (Pl 4:1). Cầu nguyện liên lỉ là kết hợp với Chúa, đó là việc rất cần thiết đối với mọi người, mọi nơi và mọi lúc: Ăn với Chúa, chơi với Chúa, vui với Chúa, buồn với Chúa, cười với Chúa, khóc với Chúa, làm việc với Chúa, nghĩ với Chúa, viết với Chúa, nghỉ ngơi với Chúa, thư giãn với Chúa, ngủ với Chúa, thức với Chúa,… Như vậy mới là niềm hạnh phúc đích thực!

Trước đó, khi nói về “Triều đại Thiên Chúa gần đến”, Đức Giêsu kết luận: “Trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải chết trước khi thấy Nước Thiên Chúa” (Lc 9:27). Khoảng tám ngày sau, Ngài lên núi cầu nguyện, có đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê.

Đang lúc Ngài cầu nguyện, dung mạo Ngài bỗng đổi khác, y phục Ngài trở nên trắng tinh chói loà. Bất ngờ có hai nhân vật đàm đạo với Ngài, đó là ông Môsê và ông Êlia. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem. Còn ông Phêrô và đồng bạn thì ngủ mê mệt, nhưng khi tỉnh hẳn, các ông nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, và hai nhân vật đứng bên Ngài.

Đang lúc hai vị này từ biệt Đức Giêsu, ông Phêrô thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9:23). Nửa tỉnh nửa mê nhưng ngư phủ Phêrô vẫn thấy “ép-phê” vô cùng. Lạ mà hay. Lâng lâng thế nào ấy. Khó tả lắm! Ông vốn tính nóng như lửa, thẳng như ruột ngựa, có gì “phang” ngay, muốn gì thì làm cho bằng được. Nhưng nói xong rồi mà ông không biết mình nói gì, y như kẻ mộng du vậy. Dù sao thì ông cũng hạnh phúc vì có “cảm giác lạ”.

Ông còn đang nói, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Khi thấy mình vào trong đám mây, các ông hoảng sợ. Quái thật! Họ chả biết ất giáp gì ráo trọi. Rồi từ đám mây lại có tiếng phán: “Đây là Con Ta, người đã được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người!” (Lc 9:35). “Choáng” thật! Tiếng phán vừa dứt, chỉ còn thấy một mình Đức Giêsu. Lạ ghê! Sao thế nhỉ? Ba ông nín thinh, vừa vui mà vừa sợ, vừa thích mà cũng vừa lo. Thế là trong những ngày ấy, các ông không kể lại cho ai biết gì cả về những điều mình đã thấy.

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Đừng sống theo điều bạn mơ ước, hãy sống theo điều bạn có thể”. Mơ ước thì vô hạn, con người thì hữu hạn, vì thế mà đừng ảo tưởng, hãy thực tế với khả năng của mình, Thiên Chúa sẽ nâng đỡ và đồng hành với chúng ta. Và rồi chúng ta sẽ được hưởng niềm hạnh phúc đích thực như ba Tông đồ đã được “nếm” trước khi chết.

Lạy Thiên Chúa uy linh, xin giúp chúng con biết tìm kiếm những gì thuộc về Nước Trời, và xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm hạnh phúc ngọt ngào ngay giữa những đau khổ trần gian này. Xin cậy nhờ công nghiệp của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa

Thuyết sáng tạo và thuyết tiến hóa

Chu Tất Tiến. M.S.P.

Đăng bởi lúc 2:07 Sáng 20/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (20.02.2013) – California, USA – Một yếu tố rất quan trọng trong vấn đề tranh luận giữa Thuyết Tiến Hóa (Theory of Evolution) và Thuyết Sáng Tạo (Theory of Creation) mà đa số những tranh luận viên đều cố tình quên hoặc không để ý, đó là chữ “Thuyết” (Theory). Cả hai đều là “Thuyết”, không phải là những định luật (law) khoa học.

Tuy nhiên, vì Thuyết Tiến Hóa là một hệ thống suy đoán, lý luận được xây dựng dựa theo những quan sát công phu một số sự kiện và sự thu thập những mẫu vật có số tuổi lên đến hàng triệu năm nên những người có trình độ nhận thức khoa học của thế kỷ 19 và giữa thế kỷ 20 thấy khâm phục rồi tin rằng đó chính là những sự kiện khoa học (scientific facts). Trong khi ấy, những người theo Thuyết Sáng Tạo lại không thể chứng minh được sự hiện hữu của Thiên Chúa bằng những dữ kiện khoa học, mà chỉ chứng minh bằng những di cảo, những cổ văn, cổ ngữ có từ khi loài người mới văn minh, biết ghi chép trên các loại giấy cổ mà họ gọi là Cựu Ước hay Tân Ước, cùng với những sự kiện, tuy có thực, nhưng mang tính huyền bí, “phép lạ”, khó dẫn chứng được mắt xích khoa học liên hệ từ chuyện nọ đến chuyện kia. Hơn nữa, các cổ văn, cổ thư đã được viết từ ngàn năm trước, khi mà trình độ suy luận, diễn giải của người thời đó hoàn toàn khác với phương cách suy luận, diễn giải của người thời nay, nên khi đọc các cổ văn, cổ thư đó, nếu không tìm hiểu trước về cách diễn giải của người thời xưa, thì nhất định sẽ hiểu lầm tai hại.

Thí dụ như khi nói về sự Sáng Thế, nhiều người đời nay còn tin rằng Thiên Chủa đã tạo ra vũ trụ chỉ trong Bẩy (7) ngày theo Dương Lịch! Những kẻ chế nhạo đạo Công Giáo thường mang vấn đề “sáng thế trong 7 ngày” ra mà cười cợt. Họ đều quên một yếu tố quan trọng là cuốn lịch hiện tại với ngày tháng năm mà chúng ta đang xử dụng hôm nay chỉ mới được thống nhất từ ngày 24 tháng 2 năm 1582, thế kỷ thứ 16, do Giáo Hoàng Công Giáo là Pope Gregory 13 ban hành!

Trong khi đó, cổ thư Do Thái lại được viết trước đó cả chục thế kỷ! Thời gian của một “Ngày” trong cổ thư có thể dài hay ngắn hơn thời gian của “Ngày” của người hiện tại nhiều phút giây. Hơn nữa, cho dù có chấp nhận sự đo đạc thời gian “ngày” của hôm nay chính xác bằng với thời gian “ngày” trong cổ thư, cũng lại hoàn toàn sai lạc với ý định của người viết Sáng Thế Ký nếu diễn giải sách Sáng Thế hoàn toàn theo nghĩa đen.

Thứ nhất, không có Con Người nào có mặt lúc sáng tạo vũ trụ cả, làm sao mà biết được ngày nào và bao nhiêu thời gian mà Thiên Chúa đã tạo ra Trời và Đất? Thứ hai, theo lịch sử văn học của người Do Thái, những người viết cổ sử thời đó không viết theo thứ tự thời gian (Chronological order) mà thường tập hợp những điều giống nhau rồi cho vào một mục. Do đó, mới có một ngày cho “Ánh Sáng và Bóng Tối”, một ngày cho “Nước và Trời”, rồi “Đất và Biển”, “Ngày và Đêm, Mặt Trời và các ngôi sao”, rồi một ngày cho chim muông, và một ngày cho Con Người…

Ngay trong ẩn dụ “ngày và đêm” đó, thì mãi đến “ngày” thứ Ba (?) mới có “ngày và đêm”, vậy hai “ngày” trước không thể biết được là bao lâu!  Vì thế, nếu không tìm hiểu phương pháp ghi chép có tính “ghép loại” như thế, những người chỉ trích Thuyết Sáng Tạo là “tưởng tượng, hão huyền, không hợp lý, không khoa học” và rồi dựa theo đó mà tấn công Thiên Chúa Giáo một cách ấu trĩ thì lại chính là những người không có một chút ý niệm gì về khoa học cả! Trong khi đó, những người tin theo Thuyết Sáng Tạo lại không chú tâm vào việc giải thích những điều trên mà chỉ nói rằng đó là do sự “Mặc Khải của Thiên Chúa”, một ngôn ngữ còn khó hiểu hơn chuyện “Bẩy ngày đêm” nữa, nên càng làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn và tạo cớ cho những kẻ vô thần nhạo báng tôn giáo.

1. Thuyết Sáng Tạo và Khoa học

Thực tế, Thuyết Tiến Hóa dễ thuyết phục được nhiều loại người của thế kỷ 19 và giữa thế ký 20: những người tin theo  khoa học thực nghiệm một cách tuyệt đối và từ chối chấp nhận tất cả những gì mà khoa học không chứng minh được và những người, tuy hiểu rằng Thuyết Sáng tạo cũng có những điểm hữu lý,  nhưng vì mục tiêu cá nhân nào đó mà cứ cố gắng chống đối thuyết này cho đến cùng; trên hết là một số khoa học gia làm khoa học trong một phương diện chuyên môn nào đó nhưng chưa tới trình độ có thể cảm ứng được toàn bộ các ngành khoa học khác.   Vonn Braun, khoa học gia về hỏa tiễn, cha đẻ của hỏa tiển V2, kỹ sư không gian, kiến trúc sư không gian lừng danh thế giới, người mà trí não lúc nào cũng đầy những phương trình và các con số, đã nói:

“Khoa học và tôn giáo không phải đối nghịch nhau. Ngược lại, chúng là chị em với nhau. Trong khi khoa học cố học hỏi nhiều hơn về Sự Sáng Tạo (Creation), tôn giáo cố gắng hiểu nhiều hơn về Đấng Sáng Thế. Trong khi khoa học gia cố gắng thắng bớt những lực của thiên nhiên chung quanh ông ta, thì qua tôn giáo, ông ta lại cố gắng để thắng bớt lực thiên nhiên trong chính ông ta.” Ông còn khẳng định một cách rõ ràng: “Những kinh nghiệm với khoa học của tôi đã dẫn tôi tới Chúa. Chúng thách đố khoa học chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng liệu chúng ta có phải thực sự đốt lên một ngọn nến đế ngắm nhìn mặt trời không?” (http://en.wikipedia.org/wiki/Wernher_von_Braun#Personal_life).

Ý tưởng này của Vonn Braun cũng tương tự như ý tưởng của Pascal, nhà thiên tài toán học, triết gia, nhà vật lý, người phát minh ra chiếc máy tính đầu tiên của nhân loại vào thế kỷ 17, đã nói: “Khoa học nông cạn làm cho người ta xa Thiên Chúa, khoa học cao siêu làm cho người ta gần Thiên Chúa.”

Gần đây, các nhóm chuyên tấn công Công Giáo đã thường trích dẫn những lý luận của Stephan Hawking, người bênh vực Thuyết Tiến Hóa và chống lại Thuyết Sáng Tạo, như những lý luận xác thực và mạnh mẽ nhất của Khoa học đã “đánh đổ” được Thuyết Sáng Tạo. Thực tế, “Stephan Hawking của đại học Cambridge, cũng phải công nhận ý nghĩa tôn giáo của các định luật vật lý. Trong tác phẩm nổi tiếng “Stephen Hawking’s Universe”, ông đã tuyên bố “Tỷ lệ nghịch với khả năng thế giới vật chất hiện nay ra từ một vụ nổ lớn chỉ bởi tình cờ thật là khổng lồ. Tôi nghĩ chắc phải có nguyên nhân sâu xa có tính cách tôn giáo.” (Trích bài “Sáng Tạo vs Tiến Hóa” của Tiến Sĩ Nguyễn Lê Ân Điển, 2003)

2. Thuyết Tiến Hóa và Sự Ngẫu Nhiên

Thực tế nữa, là trong thế kỷ 21, cùng lúc với các khám phá, phát minh có thể nói là “phép lạ” của các nhà khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau như Sinh Vật Học, Vật Lý, Toán Học, Khoa Học Hữu Cơ, Khoa Học Thực Nghiệm, Y Khoa…người ta càng thấy rõ có một sự “thiết kế cực kỳ thông minh” trong tất cả mọi vấn đề. Các nhà khoa học đã không thể chấp nhận Thuyết Tiến Hóa là thuyết chủ trương “mọi sinh vật, mọi loài trong vũ trụ đều xuất phát từ 1 tế bào đơn độc một cách ngẫu nhiên.” Người ta hòa toàn bác bỏ lý thuyết cho rằng 1 đơn bào có thể “tự biên, tự diễn” biến thành một khoa học gia, triết gia, các kỹ sư, bác sĩ, giáo sư, kiến trúc sư.. với những công trình khổng lồ, phức tạp hàng tỷ tỷ lần sự chuyển động của một chiếc đồng hồ tối tân. Tiến sĩ Jonathan Sarfati chế nhạo, “Làm sao mà một tế bào đơn giản mà ngẫu nhiên lại trở thành một Tiến Sĩ được?” (Jonathan Sarfati, Refuing Evoluion, 1999).

Sở dĩ vẩn còn một số các nhà khoa học vẫn duy trì quan niệm bảo vệ Thuyết Tiến Hóa, không phải vì Thuyết Tiến Hóa đúng mà vì các khoa học gia đó “chống” lại thuyết đối lập của Thuyết Tiến Hóa là Thuyết Sáng Tạo mà họ cho là không có cơ sở. Nhà Sinh Vật Học theo thuyết Tiến Hóa Richard Dickerson dẫn giải: “Khoa học, căn bản, chỉ là một trò chơi. Đó là một trò chơi với một luật bao trùm và được định nghĩa như sau: Luật số 1: Hãy để chúng ta tìm kiếm xem xa bao nhiêu và với sự nối dài nào mà chúng ta có thể giải thích được tính chất của vật lý và cái vũ trụ vật chất này thuần túy bằng những danh từ và nguyên nhân vật lý, mà không có sự can thiệp của một lực siêu nhiên nào” (R.E. Dickerson, J.Molecular Evolution, 1992).

Những vị này thật sự là ngoan cố. Họ không chấp nhận thuyết Thiết Kế Thông Minh hay Thuyết Sáng Tạo chỉ vì họ không muốn chấp nhận là họ thua trong những vấn đề mà họ không thể có khả năng giải thích được. Để “đánh đổ” các lý luận của Thuyết Tiến Hóa, triết gia C.S.Lewis viết: “Nếu cả hệ mặt trời được tạo ra bởi một va chạm ngẫu nhiên trong một tai nạn, thì sự hiện hữu của một đơn bào trên trái đất này cũng là tai nạn ngẫu nhiên, rồi cả sự tiến hóa của Loài Người cũng là một tai nạn ngẫu nhiên. Nếu thế, thì các tư tưởng của chúng ta cũng là thuần túy do ngẫu nhiên, những sản phẩm có tính cách ngẫu nhiên của sự di chuyển của các nguyên tử vật lý. Lý thuyết tai nạn ngẫu nhiên này cũng áp dụng cho các nhà vật chất học và các nhà thiên văn học cùng mọi người khác. Nhưng nếu tư tưởng của các nhà Vật Chất học và các nhà Thiên văn Học đều là các sản phẩm tạo ra từ các tai nạn ngẫu nhiên, làm sao chúng ta có thể tin tưởng họ là đúng được? Tôi không tìm thấy lý do nào để tin rằng một tai nạn ngẫu nhiên có thể cho ra những nguyên nhân đứng đắn cho mọi tai nạn ngẫu nhiên khác.” (C.S.Lewis, God in the Dock, 1970)

Chúng ta, ai có học qua khoa học, đều biết rằng các chuyển động của các nguyên tử, phân tử của vật chất đều theo một định luật, quy tắc nhất định, bất di bất dịch. Cấu tạo cũng như chuyển động của các nguyên tử của sắt, của đồng, của kẽm, của nước.. hoàn toàn khác nhau. Vì bắt được quy luật của các nguyên tử như thế, mà Einstein mới tìm ra được định luật E=mc2. Dựa vào phương trình bất di bất dịch này mà những khoa học gia kế tiếp mới làm ra bom nguyên tử! Nếu tất cả vật chất đều được tạo thành do sự ngẫu nhiên, thì .. còn khuya mới có bom nguyên tử! Cũng thế, các quy luật toán học, khoa học khác đều bất di bất dịch. Như theo định luật bảo toàn năng lượng, không một vật chất nào biến mất, chúng chỉ thay đổi đặc tính. Nước (H20) khi bị đun sôi thì thành hơi nước. Nước ở biển, sông bị sức nóng làm cho bốc hơi lên trời, gặp lạnh, đọng lại thành mưa, mưa làm cho sông, biển dâng lên, gặp hơi nóng mặt trời, lại bốc hơi.. Quy trình này diễn tiến từ hàng tỷ năm trước đến tỷ năm sau vẫn không thay đổi. Nếu tất cả quy trình chuyển hóa của vật chất mà theo sự ngẫu nhiên, tùy hứng, thì có lẽ địa cầu này bị triệt tiêu thành lỗ đen từ khuya, vì có lúc mà hơi nước biến thành mây, mưa, có lúc lại biến thành đất, đá, rơi xuống lỗ đầu thiên hạ! Có lúc cấu tạo của nguyên tử sắt thay đổi theo hứng, đột nhiên cục sắt biến thành kim cương cho thiên hạ lóa mắt chơi, lúc khác lại trở thành nhão nhẹt… Có lúc cơm, thịt, cá sau khi tiêu hóa thành phân thải ra ngoài, lúc khác nổi hứng ngẫu nhiên trở ngược lên miệng, thì Ô hô, ai tai!….

Cũng thế, với con người, sự phối hợp và phát triển các “genes” của cha và mẹ đều phải tuân theo một định luật nhất định, mới ra được một đứa con lành lặn, giống cha hoặc giống mẹ, hoặc giống ông, bà, chú, dì, cô, cậu…Theo Mendel, người vẽ ra một quy trình lai giống, và cũng là người tin theo thuyết Sáng Tạo, cho biết rằng sự nhân giống của con người cũng như của hạt đậu, đều tuân theo một quy luật rõ ràng, cho dù khuôn mặt, thân thể, tính tình của đứa con có khác cha và mẹ. Và, quy luật ấy là của Thiên Chúa ấn định! Nếu có “genes” nào của một cá nhân hay của một hột đậu nào mà bất tuân thượng lệnh, để phát triển một cách ngẫu nhiên, thì cá nhân ấy, hột đậu ấy phải giã từ thế giới này mà đi sang thế giới khác với căn bệnh mà người ta gọi là … Ung Thư (với con người), Ung Thối (với đậu)!

Nên nhớ rằng, mỗi đứa con ra đời chỉ mang theo một nửa “information” của “genes” cha hoặc mẹ. Thì dụ, như người cha có máu O, người mẹ có máu AB (nghĩa là có cả các đôi nhiễm sắc thể (chromosomes) A và B, thì đứa nhỏ sẽ có những đôi nhiễm sắc thể hoặc là AO hoặc BO, chứ không thể có AB. Đó là quy luật! Chẳng may mà đứa nhỏ có những đôi nhiễm sắc thể mà khang khác một tí, thì đời đứa bé coi như đi đong! Làm sao mà thuyết Ngẫu Nhiên có thể thực hiện được trên vật chất và con người được?

Như vậy, Thuyết Tiến Hóa, thật ra, chỉ là một sự giả thiết mang tính võ đoán khá cao.

Thuyết Tiến Hóa tin rằng ngẫu nhiên mà đơn bào thành đa bào, ngẫu nhiên mà cá bò lên cạn, ngẩu nhiên mà bốn cái vây cá biến thành bốn cái chân, rồi ngẫu nhiên giống ở dưới nước biến thành giống ở trên bờ, ngẫu nhiên cá biến thành khỉ, ngẫu nhiên khỉ biến thành người… Nghe huyễn hoặc còn hơn truyện Tề Thiên Đại Thánh vậy!

“Chỉ có một phương pháp làm cho chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào những điều xẩy ra trong quá khứ xa lắc xa lơ là nếu chúng ta có được các nhân chứng. Nhưng với Thuyêt Tiến Hóa thì hoàn toàn không có các nhân chứng nào cả. Những ý tưởng của họ thì hoàn toàn được lấy ra từ những suy đoán!” (Jonathan Sarfati, trang 29, sách đã dẫn).

3. Thuyết Tiến Hóa và Sự Phản Kháng để sinh tồn

Duy nhất chỉ có một điều mà Thuyết Tiến Hóa có vẻ đúng khi nói về sự phản kháng để sinh tồn. Chúng ta đều biết là từ khi phát minh ra Penicilline, thì đa số các vi trùng đều bị môn thuốc này giết chết, đa số các bệnh do vi trùng đều được điều trị bằng Penicilline. Nhưng với thời gian, vì con người lạm dụng Penicilline, nên vi trùng bắt đầu phản kháng lại và một số trở thành trơ trước loại thuốc trụ sinh này. Từ những “dose” nhỏ, người bệnh sau này phải dùng “dose” lớn và mạnh hơn. Vi Trùng đã tiến hóa để sinh tồn theo suy đoán của Darwin trong “sư lựa chọn của thiên nhiên” (Natural Selection)! Vì sự tiến hóa đó, mà con người phải chạy theo để tìm ra thuốc mới mạnh hơn và hiệu quả hơn. Thế kỷ này mà nghe nói đến dùng Penicilline hay Sulfamide (kháng sinh) để trị bệnh nhiềm trùng thì thật là cổ lỗ sĩ!

Nhưng có thật có thuyết tiến hóa để sinh tồn với vi trùng không? Thực tế, không hẳn như thế. Vi trùng có khuynh hướng tiết ra chất “penicilinase” để tiêu diệt “peniciline”. Vì con người dùng “Peniciline” tràn ngập, cho nên vi trùng cũng biến thái (mutation) tiết ra chất “penicilinase” tràn ngập để chống lại. Điều này làm cho vi trùng có khả năng biến thành “trơ” trước “peniciline” mà thôi.

Thuyết tiến hóa ngẫu nhiên để sinh tồn, do vậy, bị loại bỏ ở trường hợp này. Ngoài ra, thuyết tiến hóa cũng không giải thích được hiện tượng có nhiều chủng loại vi khuẩn mới với những “genetic information” mới, hoàn toàn không có liên hệ gì với các chủng loại cũ mà người ta đã khám phá thấy được.

Điều nực cười và đơn giản nhất mà người ta ít chú ý đến là đa số những mẫu vật mà Darwin thu thập được đều ở vùng Phi Châu và một số nước Á Châu, không thấy nhiều ở Châu Âu (Bắc Âu, Đông Âu), Bắc Mỹ và nhiều miền khác. Như vậy, thì sự tiến hóa của các sinh vật và động vật gồm loài người và các loại thú ở các miền khác ra sao?

Có theo đúng quy luật của sự “tự nhiên chọn lựa” của Darwin không?

4. Thuyết Tiến Hóa và sự Thoái Hóa

Khi nói đến sự Tiến Hóa của các sinh vật, Darwin không chứng minh được sự tiến hóa của Thực Vật!  Darwin không thể nói được cây ổi, cây xoài…tiến hóa từ tế bào nào? Tại sao có trái chôm chôm? Thuở trời đất hồng hoang ấy, đã có những tế bào nguyên thủy của các cây cối hiện tại chưa? Điều thấy rõ là, cũng như các sinh vật, động vật, cây cối càng ngày càng nhỏ đi, yếu hơn xưa nhiều, có nghĩa là đang “thoái hóa” dần, mà không “tiến hóa”. Các cây ngày xưa có thể có cả ngàn tuổi và to đùng; ngày nay, kiếm một cây vài trăm tuổi rất hiếm.

Thực vật ngày xửa ngày xưa chịu đựng sương nắng, gió, cát, bão bùng dai dẳng hơn bây giờ còn cây bây giờ trốc gốc rất nhanh trước các cơn gió bão. Các giống lúa và cây thực phẩm ngày nay, nếu không có bàn tay con người biến đổi “gene” thì dần dần èo uột và triệt tiêu. Sinh vật và động vật cũng thế, ngày xửa ngày xưa, con nào con nấy to lớn khủng khiếp, sao bây giờ lại nhỏ con đi? Giả sử mà lý thuyết tiến hóa để sinh tồn của Darwin mà đúng, có lẽ bây giờ con voi phải to hơn cái bin-đinh 10 tầng chứ, vì càng ngày trái đất càng chật hẹp, thức ăn, thực phẩm càng ngày càng hiếm, sự cạnh tranh gay gắt càng ngày càng phức tạp hơn, như vậy, động vật và sinh vật đều phải phát triển to hơn, mạnh hơn, dài hơn để tranh ăn.. Nhưng, rất tiếc, thực tế đã chứng minh hoàn toàn ngược lại, con gì, cái gì bây giờ cũng nhỏ hơn tổ tiên của chúng.

Điều quan trọng nữa để đánh gục thuyết Tiến Hóa và Chọn Lựa Tự Nhiên của Darwin là sự thoái hóa và lão hóa, sau cùng là cái Chết! Nếu đã khẳng định là mọi loài (all species) phải tiến hóa để sống còn, sao sự phát triển của mọi loài chỉ tới một giới hạn là đứng lại, lão hóa, và chết? Quy luật nào đã hãm sự tiến hóa lại? Con rùa sống dai nhất cũng chỉ trên dưới 100 năm. Con người sống lâu nhất là hơn 110 tuổi. Và cứ đúng đến tuổi 50,60, lập tức mọi cơ phận của con người bắt đầu đi ngược lại chu trình tiến hóa, trở thành lão hóa, và cuối cuộc đời là cái quan tài dưới hai thước đất (bây giờ thì hỏa thiêu, nghĩa là không còn “gần đất, xa trời” nữa).

Tại sao vậy? Thuyết Tiến Hóa cũng bị bế tắc khi cho rằng mọi sinh vật phải tự chọn lọc và biến đổi cuộc sống của mình cho thích hợp với môi trường chung quanh hầu tồn tại, nhưng lại không thể dẫn giải sự việc con cá hồi cứ đâm đầu từ biển vào sông, leo ngược qua bao nhiêu thác đứng, nhẩy ngược qua bao tảng đá chặn đường mà không tìm hiểu chiều cao của thác, của đá tương xứng với thân hình nhỏ bé của mình là bao nhiêu, để rồi chết bờ, chết bụi khi nhẩy hụt, hay khi đập đầu vào đá…chưa kể bị mấy chú gấu đứng chặn đầu thác, thong dong chộp lấy cho vào miệng! Mùi vị gì đã dẫn dắt đàn cá hồi đi trở về nguyên quán như thế? Tiếng gọi nào réo trong tim cá, buộc cá tìm cái chết như thế? Trường hợp này, nếu đem thuyết Tiến Hóa mà áp dụng thì thật là vụng về và ngớ ngẩn.

Điều quan trọng cuối cùng là ngay trong quan niệm về Tiến Hóa và Luật chọn lọc tự nhiên để sinh tồn đã khẳng định rằng có Thượng Đế, có Thiên Chúa. Khi nói rằng muôn loài đều tiến hóa, có nghĩa là con cá ở Bắc Cực, con chim cánh cụt ở Nam Cực, con chuột ở châu Á, hay con đại bàng ở Mỹ Châu cũng đều phải theo cái quy trình ấy. Vậy thì khi đã có một quy trình chung cho muôn loài, thì tất nhiên, phải hiểu là có một “luật” ràng buộc muôn loài ở trên khắp mặt địa cầu phải tiến hóa trong cùng một cường độ, tốc độ, và cùng một tần số, và nếu đã là “luật” thì phải có một sức mạnh (power), một đối tượng (object) tạo ra cái luật ấy và cai quản cái luật ấy. Sức Mạnh hay Đối Tượng ấy là Ai? Dĩ nhiên, để có thể điều khiển muôn loài theo quy trình tiến hóa, Sức Mạnh ấy phải ở Trên và Bao Trùm muôn vật, và phải là Toàn Năng (Omnipotence), Toàn Diện, ở khắp mọi nơi (Omnipresence), và Toàn Trí (Omniscience) thì mới có thể điều khiển muôn loài tiến hóa chung với nhau, không để chỉ mình con khỉ tiến lên nhưng lại để con voi đi lùi, không để con chó săn cừu ở Trung Đông mọc lông dầy trong khi bỏ mặc con ngựa ở vùng Siberia lông mỏng sinh sống trong cùng một thời tiết lạnh…

Như thế, với các khám phá về khoa học hiện đại, thuyết Tiến Hóa đã thật sự trở thành lỗi thời, lạc hậu. Và, nếu không chấp nhận Thuyết Sáng Tạo, người ta không có khả năng chứng minh sự hiện hữu của muôn loài, sự thiết kế thông minh trong từng hơi thở, từng tế bào của con người hay của các vi sinh vật, kể cả vi trùng và vi khuẩn.

Để tìm hiểu về Thuyêt Sáng Tạo, những người thực tâm muốn biết nguyên lý của các sinh hoạt của vũ trụ, chỉ cần cầm lấy một chiếc lá nhỏ bé trong tay, với một tâm hồn cầu tiến thật trong sáng, vô vụ lợi, không dục vọng, không ham danh hám lợi, mà suy nghĩ về sự hình thành của chiếc là từ khi còn là một nụ non, rồi lắng nghe nhịp chẩy của dòng nhựa trong chiếc lá, suy nghĩ về sự phân phối khí Oxy đến từng tế bào trong lá, thì sẽ thấy ngay BÓNG DÁNG CỦA MỘT ĐẤNG TOÀN NĂNG, Đấng đã sáng tạo ra chiếc lá nhỏ bé đó cũng như cả vũ trụ mênh mông này.

Thật vậy, trí óc của con người đang tập trung mọi nỗ lực hầu mong vươn tới những nơi cao hơn, xa hơn, khó khăn hơn, mù mịt hơn…để tìm gặp Đấng Toàn Năng ấy, Đấng mà con người đặt tên là Thiên Chúa, hay là Thượng Đế (Vua ở trên cao), hay Ông Trời.  Dĩ nhiên, con đường ấy sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn, vì có những điều khó chứng minh bằng khoa học thực nghiệm, tuy nhiên, nếu hiểu rằng có những sự kiện vật chất mà chúng ta không thể cân, đo, đong, đếm trên bàn cân được, nhưng vẫn hiện diện trong đời sống, như ý nghĩ, hơi thở, không khí, gió.. Người ta không thể mang ý nghĩ lên bàn cân, nhưng ý nghĩ vẫn tràn ngập trong trí não. Người ta cũng không thể đưa hơi thở và không khí cũng như gió lên màn ảnh để xem chúng nó hình thù như thế nào, nhưng không có chúng, thì đời sống không có thực. Trên hết, là người ta không thể mang linh hồn ra mà chụp hình, nhưng nhất định có linh hồn, vì nếu không có linh hồn thì cái điều gì đã mất đi khi một con người nằm xuống, bất động, và chết? Tại sao khi một phút trước, cái xác thân đó cử động, suy nghĩ, và làm việc mà chỉ một phút sau, đã trở thành một đống thịt ghê sợ?

Có một ẩn số X đã mất đi khi người ta chết.

Người sống – (ẩn số X) = Người Chết!

Nói khác đi,

Người Sống – Người Chết = ẩn số X

Có phải ẩn số X là linh hồn không? Và, nếu tin là con người có linh hồn, thì phải tin có Thượng Đế, có Ông Trời, có Thiên Chúa.

Đó là con đường tìm hiểu của các nhà khoa học chân chính. Mặc cho các lời phỉ báng đến từ các kẻ vô thần, mặc cho chính các người tin vào sự hiện hữu của Linh Hồn và Thiên Chúa đã làm muôn vàn tội lỗi khiến cho bóng dáng của Thiên Chúa mờ đi trước nhân loại, nhưng Thiên Chúa vẫn hiện diện, vô thủy vô chung, đời đời kiếp kiếp với tình thương bao la bảo bọc cho Con Người sống yêu thương nhau mãi mãi.

Chu Tất Tiến. M.S.P.

Nhân vụ Đức Giáo Hoàng từ chức, vài suy nghĩ về đường Hội Thánh đi (1)

Nhân vụ Đức Giáo Hoàng từ chức, vài suy nghĩ về đường Hội Thánh đi (1)

L.M. Vũ Khởi Phụng

Đăng bởi lúc 12:09 Sáng 18/02/13

nguồn:chuacuuthe.com

VRNs (18.02.2013) – Hà Nội – Giáo hội nói chung, Đức Giáo Hoàng nói riêng, không cần phải có ai khen lấy được, cũng không cần phải có ai chê lấy được. Giáo Hội và các Đức Giáo hoàng vẫn đi con đường của mình, con đường có sáng có tối, có thăng có trầm, và bên trong những sáng tối thăng trầm ấy, có cái mà thế gian khó nhận biết là Đức Tin vẫn nhất mực tìm đường xuyên qua mọi trở ngại nội sinh hay ngoại sinh. Không ai có thể mô tả hoàn toàn chính xác Giáo Hội tương lai cụ thể sẽ thế nào, hoặc Đấng kế vị Đức Benedict XVI sẽ thế nào. Nhưng sức sống, sức thu hút của Giáo Hội chỉ có thể phát xuất từ con đường đức tin đó.

1. Sét đánh giữa trời quang

Mồng hai tết Quí Tị, chúng ta đang sống trong bầu khí hiệp thông linh thiêng của những ngày Nguyên Đán, các gia đình đang đến nhà thờ thắp hương và nhận lộc Lời Chúa, ở Kỳ Đồng một cộng đoàn lớn đang cầu nguyện tạ ơn chung quanh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, thì ở Roma sấm sét vang rền giữa trời thanh. Lúc ấy là 11g53 phút giờ Roma, xế chiều ở Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Benedicto XVI, giữa công nghị hồng y, bất ngờ tuyên bố từ chức vì lí do tuổi cao sức yếu:

Sau khi đã tự vấn lương tâm nhiều lần trước mặt Chúa, nay tôi chắc chắn rằng tôi tuổi cao sức yếu, không thể thi hành sứ vụ của Thánh Phêrô một cách thích hợp nữa.

Thế giới ngày nay thay đổi mau chóng, đặt ra nhiều vấn đề rất quan trọng cho đời sống đức tin, cho nên để điều khiển con thuyền của thánh Phêrô và loan báo Tin Mừng, thì cũng cần mạnh khỏe cả thể xác lẫn tinh thần, mà những tháng gần đây, sức khỏe của tôi đã suy giảm đến độ phải nhìn nhận là tôi không còn khả năng để chu tòan sứ vụ đã được trao phó cho tôi.

Vì thế, ý thức được hành động nghiêm trọng của mình, và hoàn toàn tự do, tôi tuyên bố từ nhiệm giám mục Roma… Ngày 28/2/2013, từ 20 giờ, Tòa Roma… sẽ trống ngôi…”.

Đã 600 năm nay, không thấy một biến cố như vậy, nên chẳng ai chờ đợi. Đến cả phát ngôn viên của Tòa Thánh, cha Federico Lombardi, cũng chỉ “mới biết tin sáng nay thôi, khi theo dõi công nghị hồng y”. Cho nên một người có địa vị quan trọng ởVaticanlà Đức hồng y Angelo Sodano, đã phải thốt lên: “Sấm nổ giữa trời quang”. Tưởng là Đức hồng y dùng lối nói tượng hình thế thôi, nào ngờ vài tiếng đồng hồ sau, sét đánh xuống đỉnh vòm đền thờ Thánh Phêrô thật, tấm hình rất ngoạn mục loan đi, lại càng thêm hương vị cho những lời bình luận vốn đã râm ran của truyền thông thế giới.

Người ta liên tưởng đến một vụ sét đánh khác ở đền Thánh Phêrô. Đó là ngày 20/10/1870, Công ĐồngVaticanI kết thúc với một thành quả chính là công bố tín điều về ơn vô ngộ của Đức Giáo Hoàng khi ngài định tín. Đúng vào lúc công bố tín điều và kết thúc công đồng thì một cơn giông tố với sấm sét khủng khiếp nổ ra, át cả những tiếng nói trong đền thánh. Những người bực dọc với công đồngVaticanI thì bảo đó lòng trời nổi giận với Giáo Hội Công Giáo. Những người cổ võ cho công đồng và Đức chân phước giáo hoàng Piô IX lại gợi lên hình ảnh Thiên Chúa uy nghi ngự xuống núi Sinai trong Cựu Ước, giữa lửa cháy và sấm sét rền vang.

Những chuyện bình tán như vậy, nói ngược nói xuôi thế nào cũng được. Không chỉ những người sính điềm thiêng dấu lạ, mà cả những nhà quan sát tự cho mình là rất thành thạo tình hình, cũng nói ngược nói xuôi đủ kiểu. Đúng là sau công đồngVaticanI cùng với tín điều mới, Giáo Hội đã trải qua rất nhiều gian nan khốn khó. Công đồng kết thúc vào lúc bầu trời Châu âu tối sầm vì cuộc chiến tranh tàn khốc giữa Pháp và Đức, mà một hậu quả là Toà Thánh “mất nước” trước phong trào thống nhất nước Ý của triều đại Savoie. Đức Giáo Hoàng Pio IX từ đó cấm cung, tự cho mình là tù nhân trong điệnVatican. Thế giới Công Giáo coi đây là một thảm họa, Giáo Hội đã mất tự do, mà nếu không khôi phục nước cũ của Tòa Thánh thì vết thương sẽ không bao giờ nguôi ngoai.

Các nước châu Âu lần lượt chèn ép Giáo Hội về mọi mặt. Đầu tiên là ở Đức, cường quốc số một của Châu Âu, với thủ tướng Bismarck, được coi là người hùng số một mà cũng là gian hùng số một của thời đại, phát động cuộc chiến văn hóa (Kulturkampf) chống lại Giáo Hội Công Giáo. Nguyên nhân sâu xa là vì ông cho rằng tín điều Đức Giáo Hoàng vô ngộ tạo điều kiện cho Giáo Hoàng can thiệp vào việc chính trị của các nước. Chiến dịch chống Công Giáo củaBismarcktừ Đức lan sang Thụy Sĩ, khiến cho giáo hội ở hai nước này chịu nhiều phen điêu đứng. Nước công giáo lớn nhất châu Âu là nước Pháp thì chính quyền dần dần rơi hết vào tay của phe chống Giáo Hội. Trong một nửa thế kỷ từ đó mà đi, những vụ tấn công liên tiếp và hiểm độc vào Giáo Hội, khiến giáo hội vỡ thành từng mảng lớn. Nước Ý cứ tưởng là toàn tòng thì với phong trào thống nhất đã trở nên một sức mạnh gay gắt bài xích Giáo Hội, nhất là Toà Thánh lại phản ứng bằng cách kêu gọi người Công Giáo tẩy chay mọi sinh hoạt chính trị, không tham gia bầu cử, không ứng cử và tất nhiên không đắc cử. Đa số các giới văn hóa, khoa học tỏ vẻ coi thường tôn giáo và Giáo Hội, như những tàn dư cũ của một quá khứ còn ngắc ngoải. Nếu bảo Trời giận Giáo Hội Công Giáo thì Trời giận đấy!

Nhưng tại sao Trời giận mà Trời vẫn tặng nhiều quà lạ? Giáo Hội phát triển ở nhiều miền đất mới. Châu Á, Châu Phi, Châu Đại Dương, Bắc Mỹ… đã tạo ra tính cách toàn cầu cho Giáo Hội ngày nay. Ở thế giới Âu Mỹ được coi là đầu tầu văn minh hiện đại, thì từ 1878, với Đức Giáo Hoàng Leo XIII, Giáo Hội bắt đầu phục hồi vị thế, đôi lúc có thể nói là rực rỡ. Đức Leo XIII với sự mẫn cảm phi thường lại chỉ là người mở đầu một kỷ nguyên mới của chức vụ Giáo Hoàng. Vụ tòa thánh mất nước, mà tuyệt đại đa số người công giáo coi là thảm họa, hóa ra lại là một sự giải thoát. Từ ngày không còn nhiều vướng bận quanh co với những ràng buộc chính trị, Tòa Thánh trở về gần với thực chất là một trung tâm tinh thần và tâm linh. Xuất hiện một loạt các vị Giáo Hoàng tuy khác nhau, thậm chí bề ngoài đôi khi đến mức tương phản, nhưng đều là những lãnh tụ tinh thần, những bậc tôn sư rất lớn, tạo ra sức lan tỏa của Giáo Hội và Tòa Thánh cho đến ngày nay. Dù thế kỷ XX đã có hai cuộc thế chiến, đã có những ý thức hệ tàn khốc đối với Giáo Hội trong thời gian lâu dài và trên những vùng đất rộng lớn của thế giới, Giáo Hội cũng không vì thế mà suy tàn.

Ôn lại cả những điều gian nan mất mát, lẫn những thành tựu như vậy, ta có thể nhận ra: Giáo Hội, về mọi mặt giống như cuốn Kinh thánh, vừa là một sự mầu nhiệm Chúa làm, lại vừa là một công trình của con người với tất cả những nỗ lực, trí tuệ, tâm hồn, mồ hôi nước mắt, với tất cả những ưu khuyết điểm của con người. Có lẽ nên nghĩ đến cái tổng hợp Nhân Thần đó trong những ngày này, khi sự từ chức của Đức Benedicto XVI, đang làm dấy lên đủ thứ bình luận. Có những bình luận nhìn Giáo Hội theo một quan điểm hoàn toàn trần thế, do đó mất hút cái thực tại tâm linh của Giáo Hội. Nhìn kiểu này sẽ đưa ra những dự đoán lung tung mà tương lai sẽ chứng minh là thiếu thực chất. Nhưng cũng có nhiều người Công Giáo quan niệm quá giản đơn về mối tương quan giữa siêu nhiên và tự nhiên, giữa siêu việt và nhập thể, để rồi ngạc nhiên, hoang mang, hoặc là có thái độ nặng về tình cảm, mà không đếm xỉa thực tại. Giáo hội nói chung, Đức Giáo Hoàng nói riêng, không cần phải có ai khen lấy được, cũng không cần phải có ai chê lấy được. Giáo Hội và các Đức Giáo hoàng vẫn đi con đường của mình, con đường có sáng có tối, có thăng có trầm, và bên trong những sáng tối thăng trầm ấy, có cái mà thế gian khó nhận biết là Đức Tin vẫn nhất mực tìm đường xuyên qua mọi trở ngại nội sinh hay ngoại sinh. Không ai có thể mô tả hoàn toàn chính xác Giáo Hội tương lai cụ thể sẽ thế nào, hoặc Đấng kế vị Đức Benedict XVI sẽ thế nào. Nhưng sức sống, sức thu hút của Giáo Hội chỉ có thể phát xuất từ con đường đức tin đó.

Nay xin trở về vụ việc Đức Benedict XVI từ chức…

(Còn nữa)

LM. Vũ Khởi Phụng

BUỒN VUI NGÀY TẾT

BUỒN VUI NGÀY TẾT

Tác giả: Lm. Vĩnh Sang, DCCT

nguồn:conggiaovietnam.net

Báo Tuổi Trẻ số ra đầu tiên ngày thứ sáu 15 tháng 2 năm 2013 ( mồng 5 Tết ) đưa tin “25.000 vụ tai nạn giao thông trong 6 ngày Tết”, cũng số báo này cho biết 4.700 ca nhập viện do đánh nhau… các số liệu này là của thứ trưởng Bộ Y Tế gởi Văn Phòng Chính Phủ. Không thấy nói gì về con số thương vong, nhưng cứ sự thường mà suy, một vụ tai nạn giao thông kéo theo hệ lụy về nhân mạng và thương tật không bao giờ dưới một người, thiệt hại tài sản tại chỗ, hậu quả lâu dài về thể xác cũng như tinh thần cho nhiều người, có thể tiếp tục gây gánh nặng cho xã hội ( Ảnh chụp một tai nạn giao thông tại Hà Nội ).

Cũng trong số báo này có hẳn một phóng sự về việc trẻ em phải rất khó khăn khi bắt nhịp trở lại trường sau nghỉ Tết. “Học sinh ngáp ngắn ngáp dài, uể oải mở cặp ra mới phát hiện thiếu tập vở, bút, thước kẻ, khi giáo viên hỏi bài thì ấp úng… vì quên trước quên sau.” Đó là học đường, còn các môi trường khác, chắc chắn không khác bao nhiêu, có khi còn tệ hại hơn.

Xin phép được trích một đoạn trong bài viết của tiến sĩ Nguyên Xuân Diện, “Đầu năm bàn về văn hóa tâm linh hiện đại của người Việt” http://danluan.org/tin-tuc/20130215/nguyen-xuan-dien-dau-nam-ban-ve-van-hoa-tam-linh-hien-dai-cua-nguoi-viet:

“Người trảy hội thời nay không còn đem đến lễ hội sự chính tâm như ngày xưa nữa ! Có người nói: quan sát lễ hội và người tham gia lễ hội là biết xã hội đang vận động ra sao. Người ta kéo đến lễ hội bằng những lời cầu khẩn quyết liệt nhưng đầy mê lầm, bằng những mâm lễ vật phàm tục để mặc cả với thần thánh, bằng những đồng tiền lẻ gài lên khắp thánh tượng, phật tượng, bằng những cuộc nhậu nhẹt say khướt nơi đất Phật Hương Sơn, Yên Tử, bên những mâm đặc sản thú rừng được chặt chém bởi những tay đồ tể ( cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng ). Lễ hội là dịp để gặp gỡ và đánh chén. Sau đó là chuyện xả rác không tiếc tay, khiến cho những khu di tích thành ra một bãi rác khổng lồ.”

( Ảnh chụp của VNExpress: Người Hà Nội ngồi giữa đường để xin giải hạn trước Tổ Đình Phúc Khánh ).

Vấn đề lễ hội ngày nay đã từ lâu rồi là một vấn đề nhức nhối của cả xã hội.

Trong phạm vi Giáo Hội Công Giáo. Một vị Giáo Dân than phiền với chúng tôi: “Trong khi Nhà Chùa người ta mở cửa cả ngày để đón khách đến viếng Chùa, dâng hương cầu khẩn cho năm mới, hái lộc để tìm sự may mắn, xin săm để biết hướng tương lai, người vào ra tấp nập, khói nhang nghi ngút không gian. Vậy mà Nhà Thờ Giáo Xứ của con lại đóng cửa im ỉm, ngày thường hai lễ sáng chiều, ngày Tết gom lại còn một Lễ sáng, cha Xứ sau Lễ sáng rồi thì đi đâu mất, tối mịt mới về, ngày nào cũng vậy, ngài nói phải đi mừng tuổi các ân nhân. Cha Phó thì được cho về nghỉ Tết, lý do: còn mẹ già !”

Một vị Linh Mục Dòng khác chia sẻ: “Con rất buồn vì cộng đoàn anh em con cùng với Giáo Dân đề nghị đóng cửa Nhà Chầu Thánh Thể, tạm nghỉ những ngày Tết để anh em ăn Tết, miễn trực nhà chầu !” Tranh luận căng thẳng trong cộng đoàn, đến khi quyết định đóng cửa được Nhà Chầu những ngày Tết xem ra anh em vui thích lắm.

Một bạn trẻ gởi cho tôi Email thắc mắc: “Con xem trên mạng thầy nhiều Nhà Thờ có Thánh Lễ Giao Thừa, sao ở Giáo Xứ con không có ? Tại sao Xứ có, Xứ không ? Con không đi Lễ đêm Giao Thừa thì có tội không ?” ( Ảnh chụp rước kiệu Mẹ Hằng Cứu Giúp hành hương Minh Niên 2013 tại DCCT Kỳ Đồng, Sàigòn ).

Một Nữ Tu chiều mồng hai Tết sau Lễ chiều ở Nhà Thờ ghé vào thăm tôi, nói chuyện loanh quanh một lúc tôi được biết chị và một chị nữa “bị” phân công giữ nhà cho chị em về quê ăn Tết, nhà cộng đoàn vắng như chùa bà đanh, đi ra đi vào chẳng có ai, tôi hỏi thế chị kia đâu, câu trả lời là “cũng đi đâu mất không biết” – “Vậy ăn uống thế nào ?” – “Dạ, mạnh ai người nấy ăn !”

Ở “Góc Thương Xót” DCCT, chiều 29 Tết vừa rồi vẫn còn xác em bé được mang về. Trọn 3 ngày Tết thấy cái chum trống trải đã mừng, thế rồi chiều mùng 4 Tết đã lại ngập cao các túi nylon đen. Sang mùng 5, mùng 6 thì y như thể người ta phải nhịn mấy ngày đầu năm, bây giờ đổ xô nhau đi phá thai ào ạt, bù lại vậy ! Chẳng kiêng kỵ gì Tết nhất cả !

Ấy lại chuyện giải quyết “hậu quả” năm cũ, còn chuyện quan hệ phóng túng, “mừng tuổi” nhau năm mới, theo kinh nghiệm của chúng tôi, cứ sau Tết khoảng ba tuần lễ cho đến hai tháng, đó là thời điểm các bệnh viện có phòng phá thai, các trung tâm “Bảo Vệ Bà Mẹ và Trẻ Em” ( nhưng thực chất là những ổ phá thai ), các “phố phá và nạo thai” sẽ cực kỳ bận rộn, khách ra vào nhộn nhịp và những “phế phẩm y tế” chúng tôi gom về cũng sẽ… “được mùa bội thu”, những nhóm tình nguyện BVSS cũng hoạt động tăng tốc hẳn lên, các “Nhóm Tobia” lo hậu sự cho các bé phải chạy hết công suất !

Chắc chắn bức tranh toàn cảnh không chỉ có thế, có rất nhiều cá nhân, nhóm, tập thể sử dụng những ngày Tết vào rất nhiều công việc hữu ích. Họp mặt gia đình ôn lại truyền thống tổ tiên, củng cố mối dây liên kết, anh em họ hàng nhận biết nhau.

Có những nhóm sử dụng những ngày nghỉ để đến với người nghèo, đêm Ba Mươi đi thăm người vô gia cư, trẻ lang thang không nhà, dấn thân vào những vùng sâu vùng xa, mang cái Tết qua những hộp bánh, những cân mứt, những nụ cười đến cho những người dân tộc nghèo, người khuyết tật bị bỏ rơi. ( Ảnh chụp các bạn Nhóm Fiat từ Sàigòn ra thăm và tặng quà mùng 4 Tết cho đồng bào nghèo dân tộc Chăm ở Giáo Xứ Ma Lâm, Giáo Phận Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận ).

Có những người, những nhóm tình nguyện đến các nhà nuôi trẻ bại não, nhà nuôi người già đau yếu, vào cả những nhà hưu dưỡng để làm việc thay cho các nhân viên về nghỉ Tết. Có một Đan Viện nọ quyết định ba ngày Tết liên tục Chầu Thánh Thể thay cho những người xao nhãng việc thờ phượng ở thời điểm nay. Và nhiều, thật nhiều những bàn tay “xây dựng hòa bình” khác nữa vì “họ là con Thiên Chúa”.

Nhưng những mảng tối to lớn như trên kia cũng phải làm cho chúng ta trăn trở không ít, nhất là trong Năm Đức Tin này. Chúa muốn mỗi người Kitô hữu sống Đức Tin của mình như ngọn đèn rạng soi vào chốn tối tăm, Chúa muốn mỗi người Kitô hữu là mỗi hạt muối ướp mặn cho cuộc đời, Chúa muốn mỗi người Kitô hữu là hạt men để Chúa gieo vào trong thúng bột làm cho bột dậy men. Đèn không sáng, muối ra nhạt, men biến chất… Chúa biết làm gì bây giờ ? Chẳng lẽ vất ra đường cho người ta dày đạp lên sao ?

Tôi không ủng hộ việc bỏ Tết Nguyên Đán như người Nhật đã làm, nhưng tôi ước ao chúng ta sẽ sống một cái Tết Nguyên Đán thấm đượm Tin Mừng Chúa Kitô.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, Mùng 7 Tết, thứ bảy 16.2.2013 (Ephata 549)

Vui buồn của tuổi già, những suy tư của Đức Bênêđictô, mấy tháng trước khi công bố từ nhiệm.

Vui buồn của tuổi già, những suy tư của Đức Bênêđictô, mấy tháng trước khi công bố từ nhiệm.


Vũ Văn An

nguồn: vietcatholic.net

2/17/2013

Ngày 12 tháng 11 năm 2012, nhân dịp viếng thăm một nhà dưỡng lão tại Rôma do Cộng Đồng Sant’Egidio trông coi, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã có những suy tư sau đây về những nỗi vui buồn của tuổi già, phần nào cho thấy những dấu chỉ dẫn tới việc ngài quyết định từ nhiệm.

Tôi đến với anh chị em không những trong tư cách giám mục Rôma, mà còn trong tư cách một người già đi thăm những người bạn già nữa. Quả là dư thừa khi nói rằng tôi rất quen thuộc với những khó khăn, những nan đề và giới hạn của lớp tuổi này, nhưng tôi biết rõ: với nhiều anh chị em các khó khăn này càng thấm thía hơn do khủng hoảng kinh tế. Đôi khi, vào một độ tuổi nào đó, ta bỗng nuối tiếc nhìn lại những năm tháng thanh xuân khi mình còn tươi trẻ và dự tính nhiều cho tương lai. Bởi thế, đôi khi nét mặt ta phủ đầy một vẻ buồn trước cái viễn tượng hoàng hôn của cuộc đời này.

Nhưng sáng nay, lên tiếng với mọi người cao niên trong tinh thần, dù biết rõ các khó khăn của tuổi già chúng ta, tôi vẫn muốn nói với anh chị em một cách đầy xác tín rằng: già quả là đẹp! Ở mọi giai đoạn của cuộc đời, điều cần là có khả năng nhìn thấy sự hiện hữu và chúc lành của Chúa cũng như các phong phú do chúng mang tới. Ta không bao giờ được để mình bị buồn sầu vây hãm! Ta đã và đang tiếp nhận được ơn trường thọ. Sống ngay trong độ tuổi của ta vẫn là điều tươi đẹp, bất chấp những đau cùng đớn và một số giới hạn nào đó. Ước mong sao trên nét mặt ta luôn có niềm vui vì cảm thấy được Chúa thương yêu, chứ không phải nỗi buồn.

Trong Thánh Kinh, trường thọ luôn được coi là hồng phúc của Chúa; ngày nay, hồng phúc này khá phổ biến và được coi như một hồng phúc đáng được trân quí và vận dụng bao nhiêu có thể. Ấy thế mà cái xã hội bị khống chế bởi luận lý học hiệu năng và lợi lộc này thường lại không muốn chấp nhận nó như thế: trái lại, xã hội này thường bác bỏ nó, vì coi người già như là vô dụng, thiếu sản xuất. Rất nhiều khi ta được nghe nói tới những nỗi đau của những người bị cho ra rìa, sống xa nhà và đầy cô đơn. Tôi nghĩ cần phải có nhiều dấn thân hơn, bắt đầu từ gia đình và các định chế công cộng, để bảo đảm cho người già có khả năng ở lại nhà mình. Cái khôn ngoan của đời sống mà chúng ta là những người đem theo quả là một kho tàng lớn lao.

Phẩm chất của một xã hội, hay của một nền văn minh, cũng được phán định dựa vào cung cách nó xử sự với người già và vị trí nó dành cho họ trong đời sống của cộng đồng. Những cộng đồng nào biết dành vị trí cho người già đều là những cộng đồng biết dành vị trí cho sự sống! Cộng đồng nào biết chào đón người già cũng là cộng đồng biết chào đón sự sống!… Khi sự sống trở thành mỏng dòn trong những năm tháng già nua, nó vẫn không bao giờ mất giá trị và phẩm vị: ở bất cứ giai đoạn cuộc sống nào mỗi người trong chúng ta đều được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương, mỗi một chúng ta đều quan trọng và cần thiết.

Các bạn thân mến, vào độ tuổi này, ta hay cảm thấy cần có sự giúp đỡ của người khác; và điều này cũng xẩy ra cho vị giáo hoàng của các bạn. Trong Tin Mừng, ta đọc thấy Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô: “khi con còn trẻ, con tự thắt lấy dây lưng và muốn đi đâu thì đi; nhưng lúc về già, con sẽ phải chìa tay ra để người khác thắt dây lưng cho con và dẫn con đi nơi con chẳng muốn” (Ga 21:18). Chúa có ý nói tới cách Thánh Phêrô sẽ phải làm chứng cho đức tin đến độ phải tử vì đạo, nhưng câu ấy khiến chúng ta nghĩ tới sự kiện này: cần người khác giúp đỡ vốn là thân phận của người già chúng ta. Tôi chỉ xin các bạn tìm thấy ơn Chúa trong thân phận ấy, bởi vì được nâng đỡ và được đồng hành, cảm nhận được tình âu yếm của người khác quả là một ơn phúc! Điều này quan trọng đối với mọi giai đoạn của cuộc sống: không ai sống được một mình mà không cần người khác giúp đỡ; con người là hữu thể có tương quan. Và trong tình thế này, tôi vui mừng nhận thấy: những người giúp đỡ và những người được giúp đỡ đã tạo thành một gia đình mà sinh huyết chính là tình yêu.

Anh chị em cao niên thân mến, ngày giờ xem ra dài và trống rỗng quá, với thật nhiều khó khăn, ít cam kết và gặp gỡ; nhưng anh chị em đừng bao giờ chán nản trong lòng: anh chị em làm cho xã hội phong phú, ngay cả trong đau đớn và bệnh hoạn. Và giai đoạn này của cuộc sống vẫn là một hồng phúc để ta thâm hậu hóa mối liên hệ với Thiên Chúa… Anh chị em đừng quên rằng một trong các tài nguyên vô giá của anh chị em là tài nguyên cầu nguyện: trở thành những người cầu bầu với Thiên Chúa, cầu nguyện với đức tin và sự kiên định. Anh chị em hãy cầu nguyện cho Giáo Hội, và cầu nguyện cho tôi, cho nhu cầu thế giới, cho người nghèo, để không còn bạo lực trên thế giới. Lời cầu nguyện của người già có thể che chở được thế giới, giúp đỡ thế giới, có khi còn hữu hiệu hơn là sự lo lắng của tập thể. Hôm nay, tôi muốn ủy thác cho anh chị em việc cầu nguyện cho thiện ích Giáo Hội và cho hòa bình thế giới. Vị giáo hoàng này yêu mến anh chị em và trông cậy vào mọi người trong anh chị em! Ước mong anh chị em cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và biết cách đem tia lửa yêu thương của Chúa cho xã hội chúng ta, một xã hội thường quá cá nhân chủ nghĩa và chỉ chuộng hiệu năng. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ở với anh chị em và với mọi người đang trợ giúp anh chị em với tấm tình âu yếm và tận tụy của họ.