TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần hai.

TÁC HẠI CỦA THIỀN YOGA – phần hai.

Tác giả: Phan Sinh Trần

“Thiền”vốn là từ gọi chung cho một phương pháp , cách thế trong đó con người định tâm dồn hết tâm trí hướng về một nguồn chân lý nào đó. Cũng giống như thể thao vốn bao gồm rất nhiều bộ môn, thiền cũng vậy, ngày nay ta có thiền của đạo Ấn độ giáo, Phật giáo, Lão giáo, Do Thái giáo, đạo Thời mới, Sikh, rồi đến thiền Yoga, thiền Đại thừa, thiền Nguyên Thủy , thiền Mật tông, …

Theo tự điển Bách Khoa Toàn Thư trên mạng Wikipedia, hầu như các tôn giáo  đều có pháp thiền.

Thiền của Phật Giáo bắt nguồn từ thế kỷ thứ nhất, thực hành tập trung tâm trí vào thời khắc hiện tại của thế giới bên trong (nội tại) từ bỏ hẳn thế giới bên ngoài và liên tiếp lập lại một lời niệm, từ đó làm chuyển đổi hạnh kiểm, thái độ sống của mình .

Thiền của Hồi Giáo, thực hành lần chuỗi và lập lại 99 tên của Chúa,  bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ tám hay thứ chín.

Thiền của Đạo Ba hải bao gồm cầu nguyện và kiểm điểm bản thân qua Lời của Thượng Đế, …

Thiền của Thiên Chúa Giáo, phương tây, tiến triển từ thế kỷ thứ sáu, bằng cách thực hành  Lectio Divina, bao gồm việc đọc và suy niệm Kinh Thánh, bởi các tu sĩ dòng Biển Đức ,

Điều quan trọng là tìm ra sự khác biệt của Thiền Ki tô giáo và các môn Thiền khác.

–          Thiền Ki tô giáo hướng về chủ thể của vũ trụ là Thiên Chúa độc nhất và duy nhất.

–          Thiền Ki tô giáo không bao giờ cho phép linh hồn mình loại bỏ Thiên Chúa và trở nên trống rỗng vì khi không có Chúa ngự trị ở đó thì sẽ có các Tà Thần len lỏi vào. Kinh Thánh nói rất rõ về điều này:

Khi thần ô uế xuất khỏi một con người, thì rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi, mà không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ về lại nhà ta, nơi ta đã bỏ đi”. Ðến nơi, nó thấy nhà đó để trống và đã quét tước, và trang trí hẳn hoi. Bấy giờ nó đi, và đem theo nó bảy thần khác dữ dằn hơn nó; chúng vào mà lập cư ở đó. Và tình cảnh cuối cùng người ấy lại tệ hơn trước. Cũng sẽ xảy ra như vậy cho thế hệ xấu xa này!” ( Mát Thêu 12:43-45)

Ni cô Thích nữ Diệu Tuyết, tu tại Chùa Phổ Hiền, kể rằng, trong một lần đi tụng kinh cho người chết cô đã bị quỉ nhập, tâm thần hoang dại, không còn tỉnh táo, nó làm cô không thiết ăn uống, tắm rửa trong một năm rưỡi trời, rồi cô được Chúa cứu qua sự giới thiệu và cầu nguyện của một Bà Dì theo đạo Chúa đến thăm cô tại nhà. Sau đó, khỏi bênh rồi thì đức tin lung lay, cô lại về Chùa, lại tiếp tục tụng niệm và lần này, tâm hồn trống rỗng cô bị mấy con Quỉ dữ dằn, hung ác hơn rất nhiều nhập vào nhà linh hồn của Cô, chúng miệt thị và nguyền rủa ngày đêm “ Mày chết đi “ làm cô hoàn toàn mất tự chủ và tự tử đến 4 lần trong vòng một tuần lễ. Sau những ngày đó, vào lần cuối cùng, cô mua bốn lưỡi lam, nghiền nhỏ và nuốt vào bụng, Bác sĩ không biết giải phẫu cách nào để cứu vì từ ruột bao tử , ở đâu cũng có mảnh lưỡi lam, chỉ cần cử động hay nuốt nước bọt thì cũng làm cô đau đớn lắm. Lần này thì cô chỉ biết hoàn toàn nhờ cậy duy nhất một mình Chúa Giê su, đấng duy nhất có quyền năng trên Ma Quỉ, đấng duy nhất có thể chữa lành và cô hy vọng Chúa sẽ đến cứu mình. Kết quả là Chúa lại ra tay thêm một lần nữa  làm phép lạ cho cô khỏi cả bịnh thể xác lẫn bệnh tâm linh. Cô bắt đầu một đời sống mới, dâng hiến cho Chúa, cầu nguyện, đọc Kinh Thánh và kết hiệp nên một với Chúa kính yêu của cô và hòa đồng vói các bệnh nhân phong cùi bị người đời từ bỏ. Như vậy, ta có thể thấy rằng, “Cầu nguyện, suy niệm bằng Kinh Thánh”  chính là cách Thiền mới của cô.

–          Thiền Ki tô giáo nhấn mạnh và đòi hỏi sự thực hành Lời Chúa trong cuộc sống để việc Thiền định thực sự mang lại hoa trái tốt lành. Nếu chỉ có thiền mà ta không đi vào trần đời và thực hành Lời Chúa thì không có kết quả nào hết. Cái khác biệt về cơ cấu ở đây, là yếu tố Thiền nhập thế và Thiền hành sự của Ki tô giáo.

–          Tột đỉnh của Thiền Ki tô giáo là sự kết hiệp trở nên một với Chúa. Đó là tình trạng mà “ Linh hồn Con ở trong Chúa và Chúa Ba Ngôi ở trong con”, Đức Chúa Giê Su có lời hứa nguyện sau đây cho những ai hết lòng tìm kiếm và thực hành Lời Ngài:

Phần Con, Con đã ban cho chúng vinh quang Cha đã ban cho Con để chúng nên một như Chúng Ta là một:

Con trong chúng và Cha trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một,…(Gioan 17:22-23)

Xin đơn cử một thí dụ điển hình về Thiền dẫn đến kết hợp với Chúa qua trường hợp của Thánh nữ Faustina, được ghi lại trong nhật ký của Ngài,  bắt đầu bằng giai đoạn thiền ” đi tìm Chúa ” của mình :

–          Sự thinh lặng sâu thẳm bao phủ linh hồn tôi. Không có một áng mây nào che khuất mặt trời khỏi tôi. Tôi tắm mình trong áng sáng mặt trời để tình yêu Thiên Chúa có thể thực hiện việc biến đổi tôi hoàn toàn. Tôi muốn ra khỏi tuần tĩnh tâm này như một vị thánh, bất chấp tất cả; nghĩa là bất chấp tình trạng xấu xa của bản thân, tôi vẫn mong muốn trở thành một vị thánh, và tin vào Lòng Thương Xót Chúa có thể tác thành từ một kẻ khốn cùng như tôi, …

–          Con muốn sống và chết như một linh hồn thánh thiện, với ánh mắt luôn cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Giêsu chịu treo trên thập giá, mẫu gương các hành động của con. Con thường nhìn quanh để kiếm tìm các tấm gương, nhưng không tìm được gì thỏa đáng, và con nhận ra sự thánh thiện của con dường như chao đảo. Nhưng từ nay về sau, mắt con sẽ cắm chặt vào Chúa, lạy Chúa Kitô, Đấng hướng đạo toàn thiện của con. Con tin tưởng Chúa sẽ chúc lành cho các nỗ lực của con (NK 1333).

Rồi khi đã gặp được Chúa , ta hãy lắng nghe xem Chúa nói gì với Thánh nữ qua thiền chiêm niệm Lòng thương xót Chúa :

Hỡi con nhỏ của Cha, con đừng nản chí. Cha biết niềm tín thác vô hạn con trao đặt nơi cha; Cha biết con ý thức về lòng nhân lành và tình thương xót của Cha. Vậy Cha con mình hãy hàn huyên cho hết những gì đang đè nặng trái tim con.

Linh Hồn: Có đủ thứ đủ chuyện nên con không biết phải nói điều nào và phải trình bày như thế nào.

Chúa Giêsu: Con hãy nói cho thật đơn giản như chỗ bạn bè với nhau. Hỡi con, bây giờ con hãy kể cho Cha biết điều gì cản trở con tiến bước trên đường trọn lành?

Linh Hồn: Sức khỏe yếu nhược đã kiềm hãm con trên đường trọn lành. Con không thể chu toàn các phận sự. Con vô dụng như một bánh xe thừa thãi trên một cỗ xe. Con không ham mình và giữ chay được đến mức các thánh đã làm. Lại nữa, không ai tin là con bệnh tật, thành ra nỗi đau tinh thần làm trầm thống thêm nỗi đau thể xác, và con thường xuyên phải chịu nhục nhã. Lạy Chúa Giêsu, làm sao ai lại có thể nên thánh trong những hoàn cảnh như thế?

Chúa Giêsu: Con nhỏ của Cha ơi, đúng thế, tất cả điều ấy đều là đau khổ. Nhưng đâu còn con đường nào khác dẫn lên trời ngoài con đường thánh giá. Cha là người thứ nhất đã đi con đường ấy. Con phải biết đó là con dường ngắn nhất và bảo đảm nhất…

…Ái nữ của Cha ơi, nếu Cha muốn qua con mà đòi mọi người tôn sùng Lòng Thương Xót của Cha, thì con phải là người trước tiên trổi vượt trong niềm tin tưởng vào lòng thương xót ấy. Cha đòi hỏi con những hành vi nhân ái được thực hiện và yêu mến Cha. Ở mọi nơi trong mọi lúc, con hãy tỏ lòng nhân ái với người lân cận. Con không được thoái thác, kiếm cớ chữa mình hay tự miễn cho mình điều ấy.

Cha ban cho con ba phương thế để sống nhân ái với người chung quanh: thứ nhất – bằng hành vi, thứ hai – bằng ngôn từ, thứ ba – bằng cầu nguyện. trong ba cấp độ này hàm chứa lòng nhân ái sung mãn và bằng chứng không thể nghi ngờ về tình yêu dành cho Cha. Bằng cách này, một linh hồn sẽ tôn vinh và sùng kính Lòng Thương Xot Cha (NK 742).

“Hỡi ái nữ của Cha, con hãy cho cha các linh hồn. Con hãy biết sứ mạng của con là cho Cha các linh hồn bằng lời cầu nguyện và hy sinh. Khuyến giục họ tín thác vào Lòng Thương Xót của Cha (NK 1690).

Chúng ta có một vị thần quyền năng trên hết các Thần, vị Thần đó hoàn toàn có thể thông cảm và có thể gặp gỡ khi ta biết tìm đọc và  suy tư Lời Chúa đến mức Lời trở thành hơi thở của đời sống ta, đến mức Lời trở thành hành động cụ thể ta dâng hiến cho Anh Em mình. Khi đó ta sẽ có kinh nghiệm rất sống động và xác thực về một vị Chúa lưu ngụ trong đời sống của ta. Trong cuộc đời , tôi đã gặp nhiều cao thủ Thiền Lòng thương xót Chúa với kết quả cụ thể không những cho đời sống đơn sơ, vui tươi, đầy ánh sáng của họ mà còn có hiệu lưc trên  nhiều người mà họ cầu nguyện cho.

Chúc bạn qua kinh nghiệm của việc Thiền “Lòng thương xót Chúa” , lúc ba giờ chiều mỗi ngày trong đời , rồi ra , bạn có cơ hội thốt lên từ những trải nghiệm rằng:

Chúa kính yêu ơi ,

Ngài ngọt ngào và tuyệt hảo dường bao !

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái.  Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian.  Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng.  Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ.  Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa.  Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé.  Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế.  Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô.  Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai.  Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng.”  Lời thưa “xin vâng” của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham.  Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ.  Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ.  Làm sao giải thích cho Giuse hiểu.  Làm sao tránh được búa rìu dư luận.  Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa.  Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết.  Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện.  Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền.  Thiếu thốn mọi phương tiện.  Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập.  Con trẻ sơ sinh yếu ớt.  Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy.  Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ?  Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc:  Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao?  Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu.  Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một.  Con là tất cả của mẹ.  Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ.  Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ.  Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm.  Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ.  Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày.  Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc.  Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì.  Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”  Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:

“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá.  Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con.  Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân.  Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham.  Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất.  Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình.  Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất.  Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu.  Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất.  Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất.  Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình.  Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ.  Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante.  Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Anh chi Thụ Mai gởi

THĐGM: “Chúng con sẽ làm gì khi đứa con đồng tính muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ họp mặt gia đình?”

THĐGM: “Chúng con sẽ làm gì khi đứa con đồng tính muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ họp mặt gia đình?”

Chuacuuthe.com

VRNs (07.10.2014) -Sài Gòn- Theo Vaticaninsider- Tại cuộc họp Thượng Hội Đồng hôm qua, một cặp vợ chồng người Australia là ông Ron và bà Marvis Pirola nói rằng “gia đình phải đối mặt với sự căng thẳng trong việc bảo tồn chân lý đức tin trong khi vẫn phải thể hiện lòng từ bi và thương xót”. Họ kể lại việc có một số bạn bè của họ phải làm như thế nào khi người con đồng tính của họ muốn đem bạn tình về nhà trong dịp lễ Giáng sinh: “Nó là con của con mà!”

Chiều qua, tiếng nói của một cặp vợ chồng người Australia, ông Ron và bà Marvis Pirola, đại diện cho gia đình Công giáo Úc tham dự THĐ, đã chia sẻ với các tham gia viên về vấn đề của gia đình. Lời chứng của họ cho thấy kinh nghiệm thực tế của giáo dân với các vấn đề và thách đố nơi gia đình phải đối mặt hôm nay.

Cặp vợ chồng giải thích rằng “Dần dần chúng con nghiệm thấy rằng có mối liên hệ đặc biệt giữa bí tích hôn nhân của chúng con là do Chúa Kitô thiết lập với mối liên hệ trong đời sống tính dục. Hôn nhân là một bí tích diễn tả trọn vẹn trong quan hệ tính dục.” “Chúng con tin rằng chỉ khi nào các cặp vợ chồng kính trọng việc hợp nhất trong tính dục như là một phần thiết yếu của đời sống tâm linh thì họ mới có thể hiểu rõ được giá trị cao đẹp của giáo lý hôn nhân như được trình bày trong Tông Huấn Humanae Vitae. Chúng con cần những phương pháp mới và ngôn ngữ dễ hiểu để chạm tới trái tim của mọi người. ”

Cặp vợ chồng đại diện cho các gia đình nói tiếp: “giáo hội tại gia” [tức là các gia đình] có thể giúp cho Giáo hội trong vai trò rao giảng Tin Mừng”. “Ví dụ, Giáo Hội liên tục phải đối mặt với sự căng thẳng để bảo tồn chân lý trong khi vẫn phải thể hiện lòng từ bi và thương xót. Các gia đình phải đối mặt với sự căng thẳng này trong mọi lúc.” Đôi vợ chồng làm sáng tỏ hơn bằng cách đưa ra một ví dụ liên quan đến đồng tính luyến ái. “Những người bạn của chúng con đã lên chương trình họp mặt gia đình vào lễ Giáng sinh, khi đó người con trai đồng tính của họ nói rằng anh ta cũng muốn mang bạn tình của mình về nhà họp mặt. Các bậc phụ huynh này hoàn toàn tin tưởng vào giáo lý của Giáo Hội và họ biết rằng con cháu của họ sẽ chứng kiến việc tiếp đón của người con trai này với bạn tình của anh ta trong đại gia đình. Phản ứng của họ có thể được tóm gọn trong câu này: “Nó là con của chúng con mà!”

Về điều này, ông Ron và bà Marvis giải thích thêm: “một mô hình truyền giáo cho các giáo xứ phải trả lời được với các tình huống tương tự như vậy!” “Nhiệm vụ và mục đích chính của Giáo huấn của Giáo Hội là cho thế giới biết về tình yêu của Thiên Chúa.”

Đôi vợ chồng người Australia đã kể lại một kinh nghiệm thực tế khác: “Một người bạn đã ly dị của chúng con nói rằng đôi khi cô ấy cảm thấy mình không hoàn toàn được đón nhận trong giáo xứ của mình. Tuy vậy cô vẫn tham dự thánh lễ thường xuyên và giáo dục con cái rất tốt. Đối lại giáo xứ không có thiện cảm với cô và việc cô ly dị là một chướng mắt cho họ. Từ những người như cô, chúng con ngộ ra rằng tất cả chúng con còn giữ những yếu tố khiếm khuyết trong cuộc sống. Nhận ra sự khiếm khuyết, chúng con sẽ bớt phán xét người khác, phán xét sẽ làm cản trở việc loan báo Tin Mừng.”

Hoàng Minh

Việt Cộng, ‘nòng nọc đã đứt đuôi!’

Việt Cộng, ‘nòng nọc đã đứt đuôi!’
September 28, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Nòng nọc là cóc mới nở từ trứng ra, sống thành đàn ở đám ruộng, ao, có đuôi ve vẩy, người ta tưởng rằng chúng là họ nhà trê. Nhưng đến thời kỳ nòng nọc đứt đuôi nhảy lên bờ sống trên cạn là giống cóc nhái.

Câu thành ngữ: “Nòng nọc đứt đuôi,” ý nói rõ ràng dứt khoát, việc nào ra việc ấy, không còn che giấu được!

Hình bìa tác phẩm Ðèn Cù của Trần Ðĩnh. (Hình: Người Việt)

Việt Cộng dù ngụy trang dưới chiêu bài, nhãn hiệu nào, khi đứt đuôi thì cũng nhảy lên bờ thành Việt Cộng.

Theo trang web Wikipedia, “Trong các chiến dịch tố Cộng của mình năm 1956, Tổng Thống VNCH Ngô Ðình Diệm đã phổ biến từ Việt Cộng để chỉ những người ‘Cộng Sản Việt Nam,’ viết ngắn gọn của từ Việt Nam Cộng Sản, (Vietnamese Communist). Sau khi Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được thành lập năm 1960, dân chúng miền Nam Việt Nam cũng gọi những người Cộng Sản miền Nam bằng danh từ này. Khi quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam, họ cũng chịu ảnh hưởng của cách gọi này và gọi một cách ngắn gọn là VC (viết tắt từ “Việt Cộng” và đọc theo tiếng Anh là “vi-xi”), hoặc đọc thành Victor Charlie – do hai chữ cái V và C lần lượt được phát âm là Victor và Charlie theo bảng mẫu tự ngữ âm của NATO.”

Theo khuynh hướng Cộng Sản, Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Ðồng Chí Hội do Nguyễn Ái Quốc tổ chức năm 1925 ở Quảng Châu (Trung Quốc).

Năm 1929 đổi thành Ðông Dương Cộng Sản Ðảng.

Năm 1930, Ðông Dương Cộng Sản Ðảng cùng các tổ chức Cộng Sản khác ở Việt Nam thống nhất lại thành đảng Cộng Sản Việt Nam.

Ngày 19 Tháng Năm, 1941, Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, ra đời, mang danh là một liên minh chính trị, nhưng thực chất cũng chỉ là đảng Cộng Sản Việt Nam của Hồ Chí Minh, đã gây ra bao nhiêu cảnh nồi da xáo thịt, đổ máu, cắt cổ mổ bụng, thả xác trôi sông hãi hùng!

Cuối năm 1945, đảng giải tán trở thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác.

Ðến năm 1951, lại thành đảng Lao Ðộng, không còn chữ Cộng Sản hay Ðông Dương. Lúc đổi sang tên Ðảng Lao Ðộng, theo tác giả Trần Ðĩnh của tác phẩm Ðèn Cù, cái tên này nhiều người thắc mắc hơi yếu, thì Hồ Chí Minh bảo đã thỉnh ý Stalin và Stalin bảo lấy tên này, như Mông Cổ đã lấy tên đảng Nhân Dân Cách Mạng vậy! (Ðèn Cù, trang 544)

Năm 1976, sau khi chiếm miền Nam, đảng này trở lại là đảng Cộng Sản Việt Nam.

Cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam được Bộ Chính Trị Ðảng Cộng Sản nặn lên trong thời gian chiến tranh chống Mỹ, cũng lập chính phủ, cũng đặt danh quân đội để tỏ ra cuộc chiến tranh này là giải phóng chứ không phải là chiến tranh xâm lược từ miền Bắc, nhưng thực chất, đây là bàn tay dài của Hà Nội thò vào miền Nam, nhân sự lãnh đạo, binh lính, vũ khí ồ ạt chở vào Nam.

Trước 1975, mặt trận này tuyên bố là tổ chức độc lập với miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khi đó tuyên bố chủ quyền trên cả nước cho đến khi Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền ở miền Nam năm 1969 (!). Câu văn quả là mâu thuẫn, tối nghĩa khi nói rằng mặt trận này “độc lập với miền Bắc, nhưng không độc lập với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.”

Mặt trận này được thành lập ngày 20 Tháng Mười Hai, 1960, nhưng bị “giải thể” vào ngày 31 Tháng Giêng, 1977, sau khi chấm dứt vai trò cần trình diễn của mình, và sát nhập hoàn toàn với Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Khi ẩn, khi hiện, khi bí mật, khi công khai, khi Ðảng Lao Ðộng, khi Ðảng Cộng Sản, khi Ðảng Dân Tộc Việt Nam, khi Mặt Trận Việt Minh, Mặt Trận Tổ Quốc thì cũng là chiêu bài cho một giai đoạn nào đó phải thay họ, đổi tên, nòng nọc phải đến lúc “đứt đuôi” để trở thành cóc…Việt Cộng.

Chiêu bài giải phóng dân tộc là con nòng nọc, đứt đuôi rồi thì thành cóc, cóc Cộng Sản, áp đặt cái đảng đã tàn lụi, thối rữa ở Liên xô, ở Ðông Âu lên dân tộc Việt Nam.

Và dù dưới những danh xưng “Cộng Hòa Nhân Dân” hay “ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa,” kiểu “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa” hay “Cộng Hòa Nhân Dân Triều Tiên” thì đích thực họ vẫn được cai trị bởi Ðảng Cộng Sản.

Danh từ Việt Cộng để chỉ một nước Việt Nam hiện nay đang bị cai trị bởi một đảng mang tên Cộng Sản, cũng như Trung Quốc hiện nay là Trung Cộng chính danh.

Hai tiếng Việt Cộng viết tắt là VC như ngày trước cả thế giới đều hiểu là “Vietnam Communist.” Vậy thì “Vietnam Communist Party” được hiểu là Ðảng Việt Cộng, “Vietnam Communist Party Congress” là Quốc Hội Việt Cộng, “Vietnam Communist Government” là chính phủ Việt Cộng.

Ðó là cách dùng chữ nghĩa đúng nhất, chính danh và chính từ, không mập mờ lộn xộn.

Thủ Tướng Việt Cộng Nguyễn Tấn Dũng tham dự hội nghị Siri Lanka hay Ðại Tướng Việt Cộng Lê Hồng Anh đi Bắc Kinh… thì danh cũng chính mà ngôn cũng thuận, làm chi phải lẩn quẩn loanh quanh “cho đời mỏi mệt.”

Theo định nghĩa của một vài sử gia như Kallie Szczepanski thì Việt Cộng là những người trong hàng ngũ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, chống cả chính phủ miền Nam cũng như Hoa Kỳ (1959-1975).

Nhưng bà cũng nói thêm: “Việt Cộng được yểm trợ và huấn luyện bởi chính phủ Cộng Sản miền Bắc” (The Viet Cong were supported and trained by the government of communist North Vietnam.) Vậy thì Cộng Sản Bắc Việt không được gọi là Việt Cộng thì gọi là gì? Ðây chỉ là một sự ngụy biện. Theo báo chí và tất cả nhân dân miền Nam thì không phân biệt Cộng Sản Nam Bắc, tất cả đều là Việt Cộng!

Thế thì sao khi nói đến cơ chế này, đảng này, các viên chức, cán bộ trong nước thường lẩn tránh hai chữ Cộng Sản, trong khi ở ngoài nước, báo chí, truyền thanh đều không nói thẳng hai tiếng Việt Cộng để phân biệt với thể chế Việt Nam (Cộng Hòa) ngày trước.

Ba mươi năm trong cuộc chiến tranh tự vệ của miền Nam, danh từ Việt Cộng (VC) mang hẳn một nghĩa xấu: Việt Cộng pháo kích, Việt Cộng đặt mìn, Việt Cộng cắt cổ, mổ bụng, Việt Cộng vi phạm lệnh hưu chiến… nên Việt Cộng đi đến đâu dân lành bỏ làng bỏ xóm chạy đến đó. Một câu chuyện khá “tiếu lâm” được kể trong ngày “Cách Mạng:”

Một anh Việt Cộng hỏi một bác nông dân rằng, “Sau ngày 30 Tháng Tư, cách mạng vào Sài Gòn, bác thấy dân tình như thế nào?”

Người nông dân thực thà trả lời: “Rất mừng là từ nay trở đi, không còn bọn Việt Cộng đắp mô, giật mìn và ban đêm về thu thuế nữa!”

Chỉ sau một thời gian ngắn, cách mạng đã đứt đuôi nòng nọc để lộ hình…Việt Cộng. Việt Cộng phủ dụ, ve vuốt dân, gọi dân là chủ, nhưng khi Việt Cộng nắm chính quyền thì dân là kẻ thù. Kể cả ngày nay, người Cộng Sản có thể nhận mình là bộ đội, là cách mạng, là xã hội chủ nghĩa Việt Nam…nhưng không ai nhận mình là Việt Cộng, vì Việt Cộng đã mang quá nhiều tiếng xấu.

Có những nông dân chết vì ăn lầm nòng nọc mà tưởng là một loại cá trê nhỏ, không ngờ đó là con cóc chưa đứt đuôi. Hàng triệu người Việt Nam đã chết vì nghĩ cóc là nòng nọc, Cộng Sản là yêu nước, Cộng Sản là giải phóng, Cộng Sản là có tinh thần dân tộc!

Có một người can đảm nhận “phe mình” là Việt Cộng, không còn phân biệt Cộng Bắc hay Cộng Nam, đó là nhà văn Trần Ðĩnh trong “Ðèn Cù.” Rõ ràng nhất là ở trang 463 (…Bắc Kinh đánh luôn Việt Cộng để thanh minh mình không xúi Việt Cộng xé Hiệp Ðịnh Paris chiếm Sài Gòn), trang 469 (Chiến tranh đau khổ thì dân nổi dậy lật đổ đã là một trong mấy bằng chứng quan trọng để Việt Cộng lập vụ án chống đảng lật đổ lẫy lừng trong đảng sử), trang 560 (Cái thằng được rước vào giúp Việt Cộng nâng cấp chiến tranh lên hiện đại hóa (…) lại đi cài tay sai để lật đổ Việt Cộng?).

Xin cám ơn chữ nghĩa của nhà văn Trần Ðĩnh.

Ðọc hết Ðèn Cù, chúng ta có thể kết luận, “Việt Cộng tàn thì Việt Nam mới khá lên được.”

ĐTC với các vận động viên khuyết tật: Các con là dấu chỉ niềm hy vọng

ĐTC với các vận động viên khuyết tật: Các con là dấu chỉ niềm hy vọng

Chuacuuthe.com

2

VRNs (05.10.2014) -Sài Gòn- Theo news.va-Thứ bảy, 04.10 hôm qua là một ngày thật đáng nghi nhớ đối với hàng ngàn vận động viên khuyết tật của Ủy ban Paralympic Ý, cùng với các thân nhân của họ quy tụ tại Đại Thính Đường Phaolô VI để gặp gỡi Đức Thánh Cha Phanxicô.

Cuộc gặp gỡ với ĐTC là một phần trong sự kiện thể thao Paralympic với chủ đề “Tin để Sống” dành cho người khuyết tật sẽ khai mạc vào cuối tuần này.

ĐTC đã gởi lời cám ơn đến các vận động viên và ngài nói sự kiện này một “lễ hội”. Đức Thánh Cha nói rằng nhiều quốc gia hiện nay đã xem thể thao như là một cách thức để “thúc đẩy mối liên hệ giữa người với nhau từ các nền văn hóa và môi trường khác nhau.”

Đức Thánh Cha cũng nhấn mạnh rằng thể thao là cơ hội cho người ta “thúc đẩy một nền văn hóa hòa nhập và loại bỏ một nền văn hóa loại trừ.”

Đức Thánh Cha nói rằng việc tham gia thi đấu của các vận động viên khuyết tật “là một dấu hiệu của niềm hy vọng lớn lao.” Đó là bằng chứng tỏ tường cho thấy “tất cả mọi người đều có những tiềm năng mà đôi khi chúng ta không thể tưởng tượng nổi, và có thể phát triển bằng sự tự tin và tình đoàn kết.”

Đức Thánh Cha nhắn nhủ các vận động viên rằng những nỗ lực của họ sẽ thúc đẩy thế giới nhìn về một nền thể thao không còn rào cản, và các vận động viên sẽ không đơn độc. “Thiên Chúa là Cha của chúng ta sẽ ở với các con.”

Hoàng Minh

Bây giờ đã đến Tháng Mười .

Bây giờ đã đến Tháng Mười .

Tác giả: Đỗ Công Minh

Người ta kể lại rằng, trên một chuyến xe lửa về Paris, một chàng sinh viên ngồi cạnh một cụ già. Anh ngạc nhiên vì thấy giữa kinh thành Paris tráng lệ, giữa thời buổi hiện đại  mà vẫn còn có người  còn lâm râm lần hạt mân côi. Chờ đến lúc xe lửa ghé một ga trên đường, hành khách lên xuống ồn ào khiến cụ ông cũng ngưng cầu kinh, anh  hàn huyên với cụ.: “Cụ ơi, thời buổi này mà cụ còn lạc hậu quá. Có ai lần hạt nữa đâu?  Bây giờ chỉ còn mấy người nhà quê, thất học mới lần hạt như cụ thôi !” Cụ ông quay sang  chàng trai trẻ từ tốn trả lời :” Không phải thế đâu cháu, hãy khiêm tốn một chút đi. Cháu đang còn đi học à ?” . “Dạ phải, Cháu đang học đại học Paris “. Chàng thanh niên vẻ tự hào trả lời. Cậu còn hỏi địa chỉ và số điện thoại của người đồng hành để về sau có dịp nào đó ghé thăm và trò chuyện. Cụ ông vui vẻ gửi cho cậu tấm danh thiếp vừa đúng lúc cụ rời chuyến xe với cái bắt tay thân thiện. Chàng thanh niên không màng đứng lên tiễn chân , thản nhiên nhìn. Tấm danh thiếp có ghi hàng chữ LOUIS PASTEUR – Viện sĩ – Hàn Lâm Viện Paris. Câu chuyện không thấy ghi tiếp về tâm tình, thái độ của chàng thanh niên  sau đó thế nào.  Chuyện có thật và đã được chính nhà bác học kể lại .

Tháng 10, Tháng Mân côi. Tháng mừng kính Mẹ Maria. Giáo hội dành cả một tháng không phải chỉ là để con người chúc mừng Mẹ, bởi Mẹ, một con người trần gian tuyệt hảo, đấng hiệp công cứu chuộc nhân loại cùng Chúa Giêsu, đã được Thiên Chúa đưa về trời cả hồn lẫn xác mà là để con cái có dịp chạy đến cùng Mẹ, xin ơn cứu giúp. Đức Maria, một con người có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa.  Là người trần gian, khi được Thiên sứ viếng thăm và loan báo chương trình cứu độ của Thiên Chúa: tuyển chọn đấng  cưu mang Chúa Giêsu, Mẹ đã từ tốn khiêm cung nêu thắc mắc của mình :”Việc đó xảy ra thế nào được , vì tôi không nghĩ đến việc vợ chồng “. Nhưng khi được sứ thần giải thích, Mẹ đã thưa : “Xin Chúa thực hiện nơi tôi điều Ngài muốn “. Kể từ lời Xin Vâng ấy  mà Mẹ đã trở thành Mẹ Thiên Chúa, Mẹ của nhân loại. Tháng Mân Côi là tháng  Giáo hội nhắc nhở con cái mình luôn biết chạy đến cùng Mẹ để“Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria “ (Ad Jesum per Mariam )  và chính phương thế gần gũi dễ dàng nhất  là tràng chuỗi Mân côi. Mỗi người chúng con mượn lời Sứ Thần kính mừng Mẹ, qua đó xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng con lúc này và trong những giờ phút cuối cùng của cuộc đời trần gian. Lần hạt không phải là lặp đi lặp lại những điệp khúc của một câu ca, nhưng là những lời tuyên xưng của chúng con,  mỗi khi suy niệm mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa đến với nhân loại.

Ngày hôm nay, không ít người có thái độ như chàng thanh niên trong mẩu chuyện nói trên, trong đó có con. Nhiều lúc con cũng nhìn anh chị em con lần hạt Mân côi rồi biện minh cho sự lười biếng, khô khan của mình. Nào là : không có thời gian. Rồi còn viện dẫn Lời Chúa, không nên đọc nhiều vì Chúa cũng dạy “không nên thờ Ta bằng môi bằng miệng “ hoặc “ Không phải cứ thưa Lạy Cha, Lạy Cha mà được vào nước trời “

Lạy Chúa! Xin tha thứ vì thái độ không đúng của con. Xin Chúa giúp con nhận ra Tràng chuỗi Mân Côi với các mầu nhiệm suy gẫm chính là  sách Tin Mừng thu gọn. Lần chuỗi nếu không thể một lúc 50 kinh, con có thể đọc 10, 20 kinh Mân côi với lòng thành tín nguyện xin, chính là con đang học và sống Lời Chúa mỗi ngày. AMEN .

Fx Đỗ Công Minh

Biểu tình ở Hong Kong: Khi bọn chim mồi hô khẩu hiệu

Biểu tình ở Hong Kong: Khi bọn chim mồi hô khẩu hiệu
October 04, 2014

Nguoiviet.com

Trần Tiến Dũng (Từ Sài Gòn)

Từ Hong Kong, diễn biến chuyện tấn công người biểu tình và thái độ người không ủng hộ biểu tình ôn hòa cho thấy, giá trị đấu tranh đòi quyền dân chủ đã đứng trước kẻ thù mới, tuy không lạ nhưng nguy hiểm không kém gì chuyện công an  Hong Kong-Trung Quốc dùng bạo lực đàn áp biểu tình.

Thái độ hung hãn của những ‘con chim mồi’ phản biểu tình ở Hồng Kông. (Hình: Getty Images)

Những kẻ tấn công biểu tình và những kẻ chống biểu tình muốn sống ngoan- ổn đinh theo khung chuồng chuyên chế áp đặt của Trung Quốc đã ném ra loại vũ khí tối thượng của họ: “Người Hong Kong cần làm việc kiếm tiền, Người Hong Kong cần phải ăn.”

Người Trung Quốc hiện nay không bị nạn đói như các thế kỷ trước đây và không có dịch đói như một số vùng ở Châu Phi. Người Hong Kong, kể cả dân mới nhập cư từ lục địa có mức sống hơn hẳn nhiều quốc gia kém phát triển. Và một điều căn bản là họ chưa bao giờ không ăn và mất miếng ăn dù chỉ một bữa.

Vậy thì, họ trưng ra cái vũ khí. Cần kiếm tiền, cần ăn để làm gì. Họ chính xác là những con chim mồi cùng với chủ chuồng chim trưng ra miếng ăn để nhốt hốt sự ý thức tự do.

Như những sinh viên Hong Kong đang biểu tình đang chứng minh là cha ông họ đến Hong Kong và xây dựng Hương Cảng, chấm dứt ám ảnh đói nghèo và nay họ muốn xây dựng Hong Kong cho lúc này và tương lai chấm dứt nỗi ám ảnh trở thành nô lệ cho tập đoàn chuyên chế độc tài Bắc Kinh.

Không có bọn làm nhiệm vụ những con chim mồi thì Bắc Kinh không thể nhốt vào cái lồng lớn hơn một tỉ người Trung Hoa. Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên bầy đàn người làm chim mồi cũng không thiếu.

Nhưng lịch sử chứng minh chưa bao giờ bọn chim mồi và thế lực độc tài có thể nhốt hốt hết những trái tim và ý thức đấu tranh cho quyền con người trong ánh sáng tự do-dân chủ.

Những chiếc dù trên đầu và những cánh nơ vàng trên ngực các công dân trẻ và già của Hong Kong hôm nay sẽ là con đường lớn, không chỉ riệng cho họ mà còn là đích đến tương lai những dân tộc đang sống dưới tai họa độc tài.

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

KINH KÍNH MỪNG – LỜI KINH CẦU CHO HÒA BÌNH

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

1. Kinh Kính Mừng

Kính mừng Maria đầy ơn phúc

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận : ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc“. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc“. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này : “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc, vì mẹ nào mẹ chẳng thương con. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ : “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi“. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

2. Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô : “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết“.

Thánh Bênađô nói : “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ“.

Còn thánh Bônaventura nói : “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng“.

Theo thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi“.

Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng“.

Kinh Mân côi là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục : “Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày“. Và nhất là : “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình“.

3. Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 năm 2013, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Năm nay, năm 2014, Đức Thánh Cha đã kêu gọi thế giới nhiều lần cầu nguyện cho Irắc, không những kêu gọi cầu nguyện cho hòa bình tại Israel và Palestin mà còn tổ chức cầu nguyện với nguyên thủ quốc gia cả hai nước. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt  qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Chúng ta hướng về Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, và khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Ðức Maria, Nữ vương hòa bình, Ðấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thường cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những thế lực trên trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực, chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi, chúng ta tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, là Thiên Chúa. Ðức Maria, như gương mẫu của sự phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Ðấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con.

Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?

“Mây, sao còn bay mãi không quay về đây?”
“Sao còn lờ lững che ngang, rừng cây.
Sao còn hờ hững với tôi, từng giây.
Hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây”?

(Nhạc Ngoại Quốc – Lời Việt: Mây Lang Thang do Nam Lộc viết)

(1Cor 15: 10-11)

Trần Ngọc Mười Hai

Mây bay mãi, không quay về đây, điều đó thật dễ hiểu. Nhưng nếu hỏi mây: “Sao còn hờ hững với tôi từng giây, hay còn mơ nghĩ đến ai nào đây?” thì bố ai mà trả lời cho đúng được. Còn khó hơn cả cái trò “Đố vui để …chọc” nữa, nếu bạn lại cứ hát và cứ hỏi những câu nghe phát khiếp, như sau:

“Mây, xin dừng chân đến bên tôi, một đêm.

Xin đừng bay chốn môi hôn, thật êm.

Xin đừng nghe gió dâng lên, thật cao.

Xin đừng ân ái với muôn, vì sao”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát như thế, kể cũng khá ư là lấn cấn. Lấn và cấn hơn nữa, vẫn là câu hát đầy những xót xa suốt một đời, chỉ vì yêu! Thôi thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ nghe xong bài hát đã, rồi sẽ biết.

“Đời tôi đã, xót xa nhiều cũng vì yêu!

Niềm thương nhớ, biết đến bao giờ làm mây quên lãng!

Chào mây nhé, mây bay về, về phía trời cao!

Ôi niềm ao ước, mối tình tha thướt, như làn mây lướt!”

(Nam Lộc – bđd)

Chao ôi, những lời là lời và cũng là lời lẽ, rất tiếng Việt! Lời Việt, nhiều lúc cũng thấy nói: “xót xa một đời, cũng vì yêu!” Ôi chao! nhạc và lời. Nhạc và lời đây, muốn nói lên một nhận-định gồm những nhắn nhủ gửi đến mọi người, mỗi khi yêu.

Vâng. Có thể là như thế. Như thế, tức: nghệ-sĩ đời, nay vẫn cứ là hay hát những lời tình-tứ rất nhiều tình-tự như “lang thang” nhiều mây xám, xót xa nhiều, chỉ vì yêu! Ấy vậy mà, mây mưa vần vũ lại vẫn yêu hoài và yêu mãi, rất lang thang/lảng vảng giống như mây! Vâng. Một khi đã có tình-tự đầy những mây mưa, trăng gió, với bão lòng, thì nghệ sĩ nhà mình còn muốn hát, thêm một câu như sau:

“Mây, mây buồn mây khóc mỗi khi vào mưa.

Hay là mây nhớ mối duyên tình xưa.

Khi tình chưa biết đớn đau là chi,

Khi dòng nước mắt chưa hoen vào mi.”

(Nam Lộc – bđd)

Mây mà cũng biết buồn biết khóc sao? Biết cả đến nói đùa như những điều tai nghe mắt thấy được cả những chuyện tưởng như thật. Thật ra thì, không chỉ mỗi người nghe và người thấy là biết được điều ấy mà thôi, nhưng cả người hát những lời như thế đấy, cũng thấy thoải mái với những lời từ đấng bậc vị vọng ở trên cao, rất Giáo-hội! Những lời lẽ rất hài-hước rất đáng cười rộ như sau:

“Hôm ấy, ngày Tình-nhân năm 2014, Đức Giáo Hoàng Phanxicô có bài nói chuyện với các cặp vợ chồng, nam nữ thứ thiệt. Rồi, trong một thoáng rất nhanh, hầu như để minh-hoạ cho những điều tốt/xấu gặp phải trong đời chồng/vợ, Đức Phanxicô bèn có lời nhắn với người nghe như một sự thật, rằng: Anh chị em, đừng tỏ ra hãi sợ khi phải giáp mặt với các khó khăn trong đời vợ/chồng…

Mọi người chúng ta đều đã biết: chẳng bao giờ có cái-gọi-là gia-đình trọn-hảo hết. Cũng chẳng khi nào lại có cái-gọi-là người-chồng-lý-tưởng, hết. Người chồng hoặc người vợ lý-tưởng, chẳng bao giờ xuất hiện trên cõi đời này… Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn ứng-khẩu bằng câu nói: ‘Tôi đây, dù cũng có mẹ/có cha nhưng chả bao giờ có cái-gọi-là “bà già vợ” hết, nhưng trong suốt đời mình, tôi cũng từng chiến đấu không ngừng nghỉ với những Satan, rất đầy mình… giống như thế. Nói đến đây, tôi sực nhớ đến câu hỏi: có gì khác biệt giữa cái mà bên tiếng Anh người ta gọi là “Out-laws” (tức: những người sống ngoài vòng pháp-luật) và “In-laws” (tức: “xuôi-gia” hoặc “oan-gia” bên tiếng Việt). Nhưng, thực tế vẫn có câu: “The outlaws are always wanted, but not in-laws”.. (tức: người sống ngoài vòng pháp-luật luôn được chiếu-cố vẫn rất muốn, còn hai bên xuôi-gia thì không!). Nói đến đây, Đức Giáo Hoàng bèn nhớ lại câu chuyện khá buồn cười về các bà mẹ vợ/mẹ chồng rất “in-laws”, bèn kể lại như sau:

Có lần đi sở thú để tham quan/thư giãn, tôi chợt thấy tự dưng có người đàn ông cứ hớt-hơ hớt-hải chạy đến chỗ tôi yêu cầu một điều gì xem chừng quan-trọng lắm. Không để cho người này kịp phân-trần, tôi bèn hỏi trước:

-Chuyện gì thế anh?

-Dạ thưa cha. Cũng vẫn chuyện bà má vợ của con mà ra thôi!

-Cha chả, chắc anh đây lại gặp rắc rối với bà má vợ rồi phải không?

-Dạ không phải thế đâu, thưa Cha. Chả là: bà má vợ của con sơ ý thế nào đó, té ngay xuống chuồng nuôi nhốt mấy chú cá sấu ở đằng đó, mà thôi!…

-Thế, anh muốn tôi làm gì cho anh đây? Nhảy xuống đó để cứu cụ bà má vợ anh hả?

-Dạ, không dám đâu. Con chỉ xin Cha cầu nguyện nhiều cho mấy cá sấu đáng thương ấy, thôi!”

(Truyện kể trên mạng: Pope Francis meets lovers for St Valentine’s jokes about mother-in-laws, Philip Putella 14/2/2014)

Quả là, Tây với Ta hay Tầu, đâu cũng có khác-biệt trong đối-xử với xui-gia hoặc oan-gia, có bà má chồng/má vợ, ở nhà. Với người Việt, thì chỉ “bà mẹ chồng” mới thành chuyện. Còn bên Tây, người ta chỉ “ái-ngại” mỗi “Bà dzà dzợ” thứ thiệt, chứ chẳng chơi.

Lại cũng thế, điều khác-biệt giữa người thường ngoài đời và đấng bậc ở trong Đạo, là như câu hát: “Đời tôi đã xót xa nhiều, cũng vì yêu” thấy cũng “sợ”. Sợ ở đây, không chỉ mấy chú cá sấu dữ-tợn đang đói bụng, mà là: sợ ai đó chỉ vì mỗi chữ “yêu” hoặc “ghét”, thôi! Cũng vì, quá yêu vợ/yêu chồng, nên mới sợ?

Sợ hay không, những ai có kinh-nghiệm từng-trải về chuyện yêu-đương hay đương yêu, mới biết được. Sợ ở đây, thật ra cũng chẳng là sợ “sự-thật-mất-lòng”, ai nào biết.  Thôi thì, hôm nay, đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta cứ để đó mọi chuyện, hạ hồi phân-giải. Nay, hãy đi vào phần “phiếm loạn” cho mọi người nhờ.  Nhưng, trước khi đi vào đoạn “phiếm” khá tương-đối, lại cũng xin đề-nghị bạn/đề-nghị tôi, ta nghe thêm đôi câu hát để nghĩ tiếp:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Vâng đúng thế. “Xin đừng câm nín với nhau dài lâu” nhưng hãy cứ phiếm. Phiếm, bằng sự thể kể ra đây đôi điều vẫn cần bàn, ở chốn thị thành, như sau:

“Anh chị em thân mến,

Hôm nay tôi viết thư này gửi đến anh chị em nhân ngày lễ Đức Mẹ Dâng Chúa Vào Đền thờ. Thánh-sử Luca cho ta biết: đã từ lâu, Đức Mẹ và thánh Giuse vẫn tuân-giữ luật Môsê, nên đã quyết-định đem Hài Nhi Giêsu vào Đền thờ mà dâng Ngài lên Thiên-Chúa. Và khi ấy, có người đàn ông tên Simêôn, là người công-chính, mộ-đạo và có cả bà Anna được Thánh Thần Chúa thúc đẩy đã ra đi gặp các ngài, nên nhận ra được Hài Nhi Giêsu đích-thực là Đấng Thiên-Sai, Chúa gửi đến. Ông Simêôn lúc ấy đã xin bồng/ẵm Hài Nhi trên tay mà chúc tụng Thiên-Chúa rồi nói: cuối cùng thì ông cũng đã “thấy” được ơn cứu-chuộc tỏ ánh vinh-quang trên dân Người.

Và thánh Anna, dù đang ở tuổi cao niên, cũng thấy được nguồn sinh-lực mới giúp bà khởi sự nói cho mọi người biết về Hài Nhi Đức Chúa. Đây là hình-ảnh tuyệt đẹp: bậc cha mẹ trẻ hiệp cùng với hai vị cao niên được Chúa run rủi để gặp gỡ nhau. Hài Nhi Đức Chúa là Đấng đem mọi người đến với nhau và nối-kết mọi thế-hệ được hiệp-thông yêu thương lẫn nhau. Ngài là suối-nguồn tình-yêu đã vượt qua mọi giai-đoạn tự lôi kéo mọi sự về mình, bứt phá tâm-trạng lẻ loi, buồn bã. Bằng vào hành-trình rong ruổi theo cách của gia-đình đùm bọc, anh chị em vẫn cùng nhau san sẻ nhiều thời-khắc quý-báu trong đời, như: cùng ăn uống, ngơi nghỉ, làm việc lao động, giải-trí cũng như cầu-nguyện hoặc đi hành hương đây đó, vẫn là những giờ phút hỗ trợ nhau.

Đàng khác, nơi nào không có tình yêu-thương, ở đó chẳng bao giờ có niềm an vui,êm ấm. Và tình-yêu đích-thực chỉ đến với ta từ Đức GIêsu mà thôi. Ngài phú-ban cho ta lời lẽ chiếu sáng con đường ta rong ruổi trên đường đời và Ngài còn ban cả Bánh sự sống phụ giúp ta trong chuỗi ngày rong ruổi đường dài ấy.

Anh chị em trong các Gia đình thân mến,

Lời lẽ và tâm tình anh chị em nguyện cầu cho Thượng Hội Đồng Giám mục sắp diễn ra nơi đây, sẽ là thứ vàng bạc/châu báu làm giàu Hội thánh ta. Tôi xin gửi lời cảm tạ và cũng xin anh chị em thêm lời cầu nguyện cho tôi , để tôi có sức phục vụ dân con của Chúa trong sự thật và tình thương-yêu. Cũng xin Mẹ rất thánh và thánh Giuse luôn tháp-tùng tất cả anh chị em và giúp anh chị em vững bước trong yêu-thương và chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau. Giờ này đây, tôi thật lòng khẩn nài Thiên Chúa đầy lòng xót thương đổ muôn ơn lành thánh xuống tất cả mọi gia-đình”. (x. tập san The Majellan Family số tháng 7-9/2014, trích dẫn thư Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi hết mọi gia-đình, tr. 1-3).

Thế đó, là lời lẽ của đấng bậc ở tít trên cao toà nhà Hội thánh diễn tả về tình gia-đình, và tình mọi người cần có với gia-đình và với nhau. Dù, người đó có là “mẹ chồng” hay “mẹ vợ”, cũng vẫn tốt. Miễn sao tình thương-yêu lành-thánh cứ đổ tràn lan sang với mọi người.

Thế đó, là tình-yêu vẫn được ấp-ủ trong gia đình. Gia đình sẽ không là gì cả, nếu không có tình-yêu. Bởi tình-yêu, là cột-trụ chống đỡ và gìn giữ mọi thứ tình của người đời. Cả với bạn bè/người thân. Cả với chòm xóm, nhóm-hội đoàn thể trong xã hội hoặc Giáo-hội.

Tình gia-đình trước hết và trên hết, vẫn được bậc mẹ cha trân-trọng và duy-trì bất chấp mọi hoàn-cảnh đau-đớn, khó-khăn có thể có. Điều này, được người viết không ghi danh viết xuống thành thơ, thành văn rất tâm-tình, như truyện kể nhè nhẹ, ở bên dưới:

“Truyện rằng:

Cái nghèo cái đói thường trực trong ngôi nhà nhỏ này, nhưng dường như, nỗi cơ cực bần hàn ấy không buông tha họ. Cậu con bắt đầu cắp sách đến trường cũng là lúc nỗi mất mát lớn bỗng nhiên đổ ập xuống đầu họ. Cha qua đời vì cơn bạo bệnh. Hai mẹ con tự tay mình mai táng cho người chồng, người cha vắn số.

Người mẹ góa bụa ở vậy, chị quyết không đi bước nữa. Chị biết, bây giờ chị là chỗ dựa duy nhất cho con trai mình. Chị cặm cụi,chăm chỉ gieo trồng trên thửa ruộng chật hẹp, tài sản quý giá nhất của hai mẹ con chị. Ngày qua ngày, năm nối năm, những tấm giấy khen của cậu con trai hiếu học dán kín cả bức tường vôi nham nhở. Nhìn con trai ngày một lớn lên, ngoan ngoãn, học hành giỏi giang, nước mắt bỗng lăn trên gò má chị.

Học hết cấp hai, cậu thi đậu vào trường cấp ba trọng điểm của thành phố. Gánh nặng lại oàn lên vai người mẹ. Thế nhưng không may thay, khi giấy báo trúng tuyển về đến tay cậu cũng là lúc mẹ cậu ngã bệnh. Căn bệnh quái ác làm chị liệt nửa chi dưới. Vốn là lao động chính của gia đình, giờ chị chẳng thể đi lại bình thường như xưa nữa nói chi đến chuyện làm nông. Cậu bé vốn hiểu chuyện, thương mẹ vất vả, cậu xin nghỉ học:

– Mẹ này, con nghỉ học thôi, ở nhà làm ruộng thay mẹ. Đi học, tiền đâu mà đóng học phí, tiền sinh hoạt phí, lại còn mỗi tháng nộp 15 cân gạo nữa, nhà mình biết lấy đâu ra số gạo đó.
– Có thế nào con cũng không được bỏ học. Con là niềm tự hào của mẹ.Chỉ cần con chăm chỉ học hành, còn những việc khác, con không phải bận tâm.

Hai mẹ con tranh luận rất lâu, cậu kiên quyết không đi học nữa vì không muốn mẹ mình khổ. Cậu trở nên ngang bướng và lì lợm. Phải đến khi nóng nảy quá không kiềm chế được, mẹ cậu giơ tay tát cậu một cái vào má, cậu mới sững người lại.Đây là cái tát đầu tiên trong đời cậu con trai mười sáu tuổi. Mẹ cậu ngồi thụp xuống đất và khóc nức nỡ…

Nghe mẹ, cậu khăn gói vào trường nhập học. Lòng cậu nặng trĩu. Người mẹ đứng lặng hồi lâu, nhìn bóng con trai khuất dần… Ít lâu sau, có một người mẹ lặc lè vác bao tải dứa, chân thấp chân cao đến phòng giáo vụ. Chị nộp gạo cho con trai. Chị là người đến muộn nhất. Đặt bao gạo xuống đất, chị đứng thở hổn hển một hồi lâu rồi nem nép đi vào.

Thầy Hùng phòng giáo vụ nhìn chị, nói:

-Chị đặt lên cân đi. Mở túi gạo ra cho tôi kiểm tra.

Chị cẩn thận tháo túi. Liếc qua túi gạo, hàng lông mày của thầy khẽ cau lại, giọng lạnh băng:
-Thật chẳng biết nên nói thế nào. Tôi không hiểu sao các vị phụ huynh cứ thích mua thứ gạo rẻ tiền đến thế cho con mình ăn. Đấy, chị xem. Gạo của chị lẫn lộn đủ thứ, vừa có gạo trắng vừa có gạo lức lẫn gạo mốc xanh đỏ, cả cám gạo nữa, đây còn có cả ngô nữa… Thử hỏi, gạo thế này, chúng tôi làm sao mà nấu cho các em ăn được. Thầy vừa nói vừa lắc đầu.

-Nhận vào! Thầy nói, không ngẩng đầu lên, đánh dấu vào bảng tên của học sinh. Mặt người mẹ đỏ ửng lên. Chị khẽ đến bên thầy nói:

-Tôi có 5 đồng, thầy có thể bổ sung vào thêm cho cháu để phụ tiền sinh hoạt phí được không thưa thầy?

-Thôi, chị cầm lấy để đi đường uống nước. Thầy nói và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn người phụ nữ tội nghiệp đang loay hoay, khổ sở, mặt đỏ ửng, chân tay thừa thải vì chẳng biết làm thế nào. Chị chào thầy rồi lại bước thấp bước cao ra về.

Đầu tháng sau, chị lại đến nộp gạo cho con trai. Thầy lại mở túi gạo ra kiểm tra rồi lại cau mày, lắc đầu. Thầy có vẻ lạnh lùng, ác cảm:

– Chị lại nộp loại gạo như thế này sao? Tôi đã nói phụ huynh nộp gạo gì, chúng tôi cũng nhận, nhưng làm ơn phân loại ra, đừng trộn chung như thế này. Chúng tôi làm sao mà nấu cơm cho ngon để các em ăn được? Chị nghĩ thử xem, với loại gạo hổ lốn thế này, liệu chúng tôi có thể nấu cơm chín được không? Phụ huynh như các chị không thấy thương con mình sao?
– Thầy thông cảm. Thầy nhận cho, ruộng nhà tôi trồng được chỉ có thế! Người phụ nữ bối rối.
– Thật buồn cười cái nhà chị này! Một mảnh ruộng nhà chị có thể trồng đến hàng trăm thứ lúa thế sao? Nhận vào! Giọng thầy gằn từng tiếng và vẫn không ngẩng đầu lên nhìn chị.
Người mẹ im bặt, mặt chị trở nên trắng bệt, nhợt nhạt. Chị lí nhí cảm ơn thầy rồi lại lặng lẽ bước thấp, bước cao ra về. Dáng chị liêu xiêu, đổ vẹo trong cái nắng trưa hầm hập như đổ lửa.

Lại sang đầu tháng thứ ba của kỳ nộp gạo. Chị lại đến. Vẫn dáng đi xiêu vẹo, mồ hôi mướt mải trên trán, ướt đẫm lưng áo của người mẹ trẻ. Bao gạo nặng dường như quá sức với chị.
Thầy lại đích thân mở túi gạo ra kiểm tra. Lần này, nét giận dữ in hằn trên mặt thầy. Thầy rành rọt từng tiếng một như nhắc để người phụ nữ ấy nhớ:

– Tôi đã nói với chị thế nào. Lần này tôi quyết không nhân nhượng chị nữa. Chị làm mẹ mà sao ngoan cố không thay đổi gì thế này. Chị mang về đi. Tôi không nhận!

Người mẹ thả phịch bao gạo xuống đất. Dường như bao nỗi ấm ức, đau khổ và bất lực bị dồn nén bao ngày đột nhiên bừng phát. Chị khóc. Hai hàng nước mắt nóng hổi, chan chứa trên gương mặt sớm hằn lên nét cam chịu và cùng quẫn. Có lẽ, chị khóc vì tủi thân và xấu hổ. Khóc vì lực bất tòng tâm.

Thầy Hùng kinh ngạc, không hiểu đã nói gì quá lời khiến cho người phụ nữ trẻ khóc tấm tức đến thế. Chị kéo ống quần lên để lộ ra đôi chân dị dạng. Một bên chân quắt queo lại rồi nói:
– Thưa với thầy, gạo này là do tôi… Tôi đi ăn xin, gom góp lại bao ngày mới có được. Chẳng giấu gì thầy, chân cẳng tôi thế này, tôi làm ruộng thế nào được nữa. Cháu nó sớm hiểu chuyện, đòi bỏ học ở nhà giúp mẹ làm ruộng. Thế nhưng tôi kiên quyết không cho, kiên quyết không để con tôi thất học. Có học mới mong thoát khỏi cảnh cơ cực này. Nhà chỉ có hai mẹ con, cha cháu mất sớm… Thầy thương tình, thầy nhận giúp cho. Không nộp gạo, con tôi thất học mất!

Người mẹ trẻ này đều đặn ngày nào cũng thế. Trời còn tờ mờ, khi xóm làng còn chưa thức giấc, chị đã lặng lẽ chống gậy, lê mình rời khỏi thôn. Chị đi khắp hang cùng ngõ hẻm bên xóm khác xin gạo. Đi mãi đến tối mịt mới âm thầm trở về. Chị không muốn cho mọi người trong thôn biết.

Lần này người bị xúc động mạnh lại là thầy Hùng. Thầy đứng lặng hồi lâu rôi nhẹ nhàng đỡ chị đứng lên. Giọng thầy nhỏ nhẹ:

– Chị đứng lên đi, người mẹ trẻ! chị làm tôi thực sự bất ngờ. Tôi đã có lời không phải với chị. Thôi thế này, tôi nhận. Tôi sẽ thông báo với trường về hoàn cảnh của em học sinh này, để trường có chế độ học bổng hổ trợ cho học sinh vượt khó.

Người mẹ trẻ đột nhiên trở nên cuống quýt và hoảng hốt. Chị gần như chắp tay lạy thầy. Giọng chị van lơn:

– Xin thầy. Tôi có thể lo cho cháu, dù không đầy đủ như các bạn nhưng tôi lo được. Khổ mấy, vất vả mấy tôi cũng chịu được. Chỉ xin thầy đừng cho cháu hay chuyện này. Đây là bí mật của tôi, mong thầy giữ kín giùm cho.

Chị kính cẩn cúi đầu chào thầy như người mà chị mang một hàm ơn lớn, đưa tay quệt mắt rồi lại nặng nhọc, liêu xiêu ra về. Lòng thầy xót xa. Thầy Hùng đem câu chuyện cảm động này báo với hiệu trưởng. Ban giám hiệu trường giữ bí mật này tuyệt đối. Nhà trường miễn phí toàn bộ học phí và sinh hoạt phí cho cậu học sinh có hoàn cảnh đặc biệt này. Ngoài ra, học lực của cậu rất khá, đủ tiêu chuẩn nhận được học bổng của trường.

Cuối cấp, cậu dẫn đầu trong danh sách những học sinh xuất sắc của trường. Cậu thi đậu vào trường đại học danh tiếng nhất của thủ đô. Trong lễ vinh danh học sinh ưu tú, khi tên cậu được xướng lên đầu tiên, mẹ cậu lặng lẽ đứng ở một góc khuất, mỉm cười sung sướng.

Có điều rất lạ, là: trên sân khấu hôm ấy, có ba bao tải dứa sù sì được đặt trang trọng ở một góc phía ngoài cùng, nơi mọi người có thể dể dàng nhìn thấy nhất. Ai cũng thắc mắc, không hiểu bên trong ấy chứa thứ gì.

Trong bầu khí trang nghiêm buổi lễ ấy, thầy hiệu trưởng rất xúc động và kể lại câu chuyện người mẹ trẻ đi ăn xin nuôi con học thành tài. Cả trường lặng đi vì xúc động.Thầy hiệu trưởng ra dấu cho thầy Hùng phòng giáo vụ đến mở ba bao tải ấy ra. Đó là ba bao gạo mà người mẹ với đôi chân tật nguyền lặn lội khắp nơi xin về. Thầy nói:

– Đây là những hạt gạo mang nặng mồ hôi và nặng tình của người mẹ yêu con hết mực. Những hạt gạo đáng quý này, Tiền, vàng cũng không thể mua nổi. Sau đây, chúng tôi kính mời người mẹ vĩ đại ấy lên sân khấu.

Cả trường lại một lần nữa lặng người đi vì kinh ngạc. Cả trường dồn mắt về phía người phụ nữ chân chất, quê mùa đang được thầy Hùng dìu tùng bước khó nhọc bước lên sân khấu. Cậu con trai cũng quay đầu nhìn lại. Cậu há hốc miệng kinh ngạc. Cậu không thể ngờ rằng người mẹ vĩ đại ấy không ai khác chính là người mẹ thân yêu của cậu.

– Chúng tôi biết, kể ra câu chuyện này sẽ khiến cậu học sinh ưu tú nhất trường bị chấn động rất mạnh về tâm lý. Thế nhưng, chúng tôi cũng mạn phép được nói ra vì đó là tấm gương sáng, tấm lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ. Điều đó hết sức đáng quý và đáng được trân trọng. Chúng tôi muốn thông qua câu chuyện cảm động này, giáo dục các em học sinh thân yêu của chúng ta về đạo đức và lối sống, về tình người và những nghĩa cử cao đẹp. Hôm nay, một lần nữa chúng ta vinh danh những người cha, người mẹ đã cống hiến, hy sinh cả đời mình vì tương lai con em…

Giọng thầy hiệu trưởng đều đều, ấm áp và hết sức xúc động. Tai cậu ù đi, cậu chẳng nghe thấy gì nữa cả, mắt cậu nhòe nước. Mẹ cậu đứng đó, gầy gò, khắc khổ, mái tóc đã sớm điểm bạc, mắt bà cũng chan chứa niềm hạnh phúc và ánh mắt ấm áp, yêu thương ấy đang hướng về phía cậu với cái nhìn trìu mến.

Người phụ nữ ấy run run vì chưa bao giờ đứng trước đám đông. Run run, vì những lời tốt đẹp mà thầy hiệu trưởng đã giành cho mình. Với chị, đơn giản tất cả chỉ xuất phát từ tình yêu bao la mà chị giành cho con trai. Chị không nghĩ được thế nào là sự hy sinh hay đạo lý lớn lao ấy.
Cậu con trai cao lớn đứng vụt dậy, chạy lên ôm chầm lấy mẹ mà mếu máo khóc thành tiếng:

-Mẹ ơi ! Mẹ của con…(Linh Đan dịch từ truyện ngắn khuyết danh của Trung Quốc)

Dịch từ bản nào cũng là dịch. Diễn từ bài ở đâu, cũng là diễn. Miễn là, văn bản và bài bản đều diễn-tả tình thương yêu từ người này đem đến cho người khác. Có thể, tình thương yêu đó do từ người mẹ. Cũng có thể từ người thầy, người cha tinh-thần ở chốn cao, nơi Hội thánh. Tất cả đều nói lên thứ tình cần cần diễn-đạt, như đấng thánh hiền-lành khi xưa từng ghi rõ, cho mọi người:

“Nhưng tôi có là gì,

cũng là nhờ ơn Thiên Chúa,

và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu;

trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác,

nhưng không phải tôi,

mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi.

Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng,

thì chúng tôi đều rao giảng như thế,

và anh em đã tin như vậy.”

(1Cor 15: 10-11)

Quả có thế. Không có Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu đến với mọi người, thì bạn và tôi, ta có làm gì đi nữa cũng không xong.  Nghĩ thế rồi, hỡi bạn và tôi, ta cứ hát lên lời ca đầy tình-tứ có làn mây vẫn tràn đầy yêu-thương như tự bao giờ:

“Mây, mây còn phiêu lãng đến bao giờ đây?

Mây còn ngơ ngác lang thang về đâu?

Xin dừng chân nói với nhau một câu.

Xin đừng câm nín vơi nhau dài lâu”.

(Nam Lộc – bđd)

Hát thế rồi, xin bạn và xin tôi từ nay đừng âm-thầm, câm nín như mây bay lơ lửng khắp tầng trời. Nhưng hát nói lên, hát lên những lời tình-tứ đầy tình-tự yêu thương, nồng thắm, khắp muôn nơi.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những đám mây vô tình

Cứ quanh quẩn bên mình

Suốt nhiều ngày.

Không chịu bay.

Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,”

“Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mt 22: 1-14

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.

Chuyển bước về, người người đều chuyển từ thuyền, từ sông nước có gió ngàn lồng lộng, rất trăng sao. Chuyển bước thời hôm nay, nhà Đạo mình cũng cứ chuyển, nhưng vẫn mang nặng một tình-tự thân-thương, đằm thắm của nhiều người.

Thời buổi hôm nay, nhiều người vẫn chuyển cho nhau những tình-tự thân thương như tình vợ chồng trẻ cứ muốn cho con cái mình kinh qua hành-trình lĩnh-nhận Thanh Tẩy, vì nhiều lý do rày rất khác. Với một số người thời Hội thánh tiên khởi, rõ ràng Thanh Tẩy là nghi-thức chú-trọng nhiều đến việc đặt tên, nêu tuổi.

Cũng có người quan-niệm đây là nghi-tiết khởi đầu, để rồi sẽ có buổi vui ăn uống, mừng em bé. Người khác hỏi đến, cũng chẳng biết rõ tại sao mình lại muốn thế. Tuy nhiên, họ vẫn nghĩ: có làm thế, mới đúng phép Đạo, như mọi người. Với một số cha mẹ khác, thì họ nay hiểu rõ nguồn-gốc mọi chuyện, nên muốn truyền lại cho con, những gì mình học hỏi, đó là sự sống của Đức Chúa.

Mỗi khi cử-hành nghi-thức thanh-tẩy, tôi thường giải-thích cho mọi người hiểu rõ rằng: ở 3 thế kỷ đầu đời của Giáo-Hội, bí-tích thanh-tẩy được thực-hiện vào lúc trời tờ mờ sáng, sau lễ Phục Sinh. Làm thế, không chỉ để ăn-khớp với lễ Phục-Sinh của Chúa cho đồng bộ, mà vì muốn giữ kín sự việc con dân lĩnh-nhận Thanh-tẩy, cho an-toàn.

Ròng rã hơn 300 năm trước, tín-hữu Chúa nhận thanh-tẩy vào buổi sáng, còn để các vị có thể đi vào cõi chết, giấc buổi trưa. Với họ, thanh-tẩy không có nghĩa đi ra ngoài để sinh-hoạt, mà là có sự sống và có cả sự chết nữa.

Qua dụ-ngôn tham-dự Tiệc, Đức Giêsu muốn mọi người biết, rằng: có những người cứ tưởng mình đương-nhiên sẽ trở-thành tín-hữu, nên đã khước-từ. Ngược lại, cũng có người trong Đạo, lại tưởng rằng mình sẽ chẳng bao giờ đáp-ứng được lời gọi mời của Chúa, nên vẫn gia-nhập chiên đàn Hội-thánh, rất hăng say.

Vào những ngày đầu, khi đề-cập đến Tiệc cưới, Giáo-hội Chúa đều ám-chỉ hai việc: một, Tiệc Thánh là Tiệc Lòng Mến. Tiệc, cuộc sống vĩnh-cửu. Lạ thay, khi dùng ảnh-hình của buổi Tiệc có ăn và có uống, dụ-ngôn Chúa kể đưa ra, ít nói đến thịt thà – thức ăn, nhưng lại cứ nói đến cảnh người ra/kẻ vào, trong thánh lễ. Tại sao thế?

Điều này, cho thấy: thái-độ của người được mời đã bỏ lỡ cơ-hội đến với Tiệc cưới của Hoàng-gia, là điều ít thấy xảy ra, nơi thế-trần. Điều thường thấy hơn, là thái-độ của dân con bần-hàn, đã nhận ra món quà quí giá, được ban phát.

Nhận ra, cả người ban tặng, nên họ mới “ăn vận” cho đúng cách và biết rõ nơi mình sẽ đến, là nơi đâu/chốn nào. Ngược lại, cũng có người không biết cách xử-thế cho đúng với hoàn- cảnh/địa-vị của mình, nên đã không nói thành lời, khi được mời.

Những người theo cách-thế thứ hai, là cộng-đoàn dân Chúa vào thời đầu. Là, những vị dám lĩnh-nhận nguồn nước thanh-tẩy. Nhưng sau lại gian-dối, bội-phản cộng-đoàn các thánh, vào thời bách hại. Khi các thánh khám-phá ra chuyện đó, đều thấy rằng: thực-khách theo cách thứ hai, không có đủ tư-cách tham gia, nên đã bị loại trừ.

Nơi cộng-đoàn thời thánh-sử Mát-thêu, thì: hầu hết những người gian-dối đều phải trả giá rất cao, bằng chính cuộc sống của mình. Bởi thế nên, sự việc hồi-hướng trở về với Đạo của Chúa, cũng trở-thành sự-kiện cần đắn đo, suy-nghĩ.

Thời hôm nay, chuyện dụ-ngôn ghi ở trên, có ý-nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta? Chắc chắn, Tin Mừng không đặt vấn-đề bảo rằng: ta nên ăn vận thế nào cho phải phép, khi đi tham-dự thánh-lễ của Lòng Mến. Cũng chẳng ai hỏi: ta có thái-độ sống ra sao, khi mọi người đều nghĩ về đời sau, chốn vĩnh hằng là nơi mình đạt đến mãi sau này.

Dụ ngôn hôm nay, không cốt ý nói đến những hãi hùng/lo sợ mỗi khi ta ra trước toà án để chịu cuộc phán xét mà người xưa gọi là “trả lẽ”, sẽ phải xử-sự thế nào? Ăn làm sao nói làm sao?

Nhưng, điều mà dụ-ngôn muốn nêu thành vấn-đề, chính là: ta phải trở thành  người khó-nghèo, bần hàn cho đủ hoặc đúng cách, mới nhận ra được quà tặng Chúa phú ban, khi Ngài mời gọi ta gia-nhập cộng-đoàn niềm-tin mà Hội-thánh vẫn đời chờ. Có là người rộng lượng đủ, ta mới có thể đáp-ứng lại lời kêu mời, khẩn thiết của Đức Chúa.

Bởi một lẽ, khi nêu vần-đề như thế, là để ta nghiêm-chỉnh xét và xem những gì mình sẽ ăn nói và hành-động. Để rồi, ta sẽ có thái độ đúng đắn, hầu đem các giá-trị của những hành-xử ta từng có và vẫn có trong đời mình cả vào lúc mình ở nhà hay đang lao-động tại sở làm cũng như ở chốn vui chơi, giải-trí cho khuây khoả và cũng để xét lại xem cung-cách mình đối xử với nhau lâu nay ra thế nào.

Chính những điều như thế, mới chứng-tỏ ý-nghĩa của việc ta bày-tỏ bằng hành-động. Và bằng vào những cử-chỉ như thế, người khác mới đánh giá là: ta có thực sự là người chân phương, tử tế, ý-nhị về niềm tin hay không? Hoặc, ta cũng chỉ là kẻ dối-gian/bội phản như bất cứ người nào khác; hoặc, ta lại cũng không biết cách ăn vận, xử thế và nói năng cho hiền-từ, tử tế, thế thôi.

Tựa như tín-hữu thời tiên-khởi ngày nay ta cũng ăn vận mầu trắng rất “trinh trong” mỗi khi ta nhận ơn thanh-tẩy từ Đạo Chúa. Trinh trong mầu tiệc cưới rất trắng tinh, là sắc mầu thích-hợp với nghi-tiết thanh tẩy của Giáo-hội.

Cũng tựa như người thời trước, vào những tháng ngày ta nhận-lĩnh ơn thanh-tẩy, ngày nay không có nghi thức đặt tên, nêu tuổi như trước nữa. Và, cũng chẳng phải là nghi tiết giao tế xã hội, để mà ăn uống.

Hôm nay đây, chỉ là ngày thường trong tuần tựa hồ như khi ta nhận thiệp hồng từ bà con/bạn bè vẫn muốn mời chào ta tham-dự tiệc cưới, mỗi thế thôi. Nhận thiệp mời ngày thanh-tẩy hay lễ cưới, tức là ta được nhắn hãy tham-dự lễ-hội vui-tươi của cuộc sống, có Chúa cùng tham-dự.

Vào các tiệc-tùng buổi ấy, mọi người đều xử-sự theo đúng cung-cách họ tuyên-tín. Ở nơi đó, kẻ dối-gian/bội phản đều đã cao bay xa chạy, cả trăm dặm. Họ đâu còn bận tâm gì nữa mà ngoái cổ quay đầu lại, để làm chi.

Tiệc cưới cuộc sống hôm nay, còn là tiệc ngàn đời có Chúa/có ta, có cả cộng-đoàn thân-thương, lành thánh rất Nước Trời là như thế.

Trong tinh-thần nghiệm-sinh tiệc ngàn đời luôn có Chúa, tưởng cũng nên ngâm nga lời thơ ở đời vẫn còn hát, rằng:

“Em tự ngàn xưa chuyển buớc về,

Thuyền trao sông mắt dẫn trăng đi.

Những giòng chữ lạ buồn không nói,

Nét lửa bay dài, giấc ngủ mê.

(Đinh Hùng – Gặp Em Huyền Diệu)

Gặp em hay gặp Chúa, vẫn cứ thất “nét lửa bay dài, giấc ngủ mê”. Ngủ có mê, cũng đừng “chuyển bước về” ngàn xưa ấy. Để rồi, em với tôi , ta cùng về chốn Huyền Diệu của tình yêu-thương Chúa vẫn gửi đến mỗi người trong ta. Ngài gửi, để ta vui sống mãi chốn Nước Trời hiền-hoà, rất hôm nay.

Lm Richard Leonard, sj

Mai Tá lược dịch.

Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Đường thơ ấu thiêng liêng và thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu

Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng

http://www.google.com/url?sa=i&source=images&cd=&cad=rja&uact=8&docid=4G2v4DDs8WiPCM&tbnid=cZgS685LgPQszM:&ved=0CAgQjRw&url=http://tramhuonglochung.byethost7.com/tramhuong/vi/news/Suy-Niem-Suy-Tu-Chia-Se/St-Terexa-Hai-Dong-Giesu-Con-duong-tho-au-36/&ei=dc0sVNHyDNi1ggSe9YDQAw&psig=AFQjCNGUE5DXMkP9MVl2GES9VNMjUduFKQ&ust=1412308725308105

Dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người , truyện một tâm hồn (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa.

1. Đường thiêng liêng thơ ấu

Thánh trinh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu là người đã khởi xướng lên đường thiêng liêng thơ ấu, nguồn gốc cho nhiều cuộc mạo hiểm thiêng liêng trong thế kỷ XX, bắt đầu ở nước Pháp và sau ở nhiều nước trên thế giới. Các sách đạo ở Việt Nam thường nói đến “đường thơ ấu thiêng liêng” (dịch từ tiếng Pháp Voie spirituelle d’enfance hay voie d’enfance) hoặc nói đến “đường nhỏ” (petite voie). Thật ra đường thơ ấu thiêng liêng cũng chỉ là một đường thiêng liêng như nhiều đường thiêng liêng từ thời đầu của Hội Thánh, chỉ khác là có thêm từ “thơ ấu”.

Đường thiêng liêng là lối sống đạo của Kitô hữu tùy theo mỗi người thuộc nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội khác nhau, ở mỗi thời mỗi nơi khác nhau mà thần học gọi là linh đạo, nghĩa là đường lối sống đạo theo Chúa Thánh Linh hướng dẫn. Ngày nay trong Hội Thánh, thường nhắc đến linh đạo của Thánh Augustinô, của Thánh Bênêđictô, của Thánh Phanxicô, của Thánh Đôminicô, của Thánh Inhaxiô, của Thánh Boscô, của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, nhưng riêng đường thiêng liêng của Thánh Têrêxa có tên là thơ ấu để phân biệt với các đường thiêng liêng khác đã kể trên.

Thơ ấu ở đây không thể hiểu theo giải nghĩa của từ điển là: rất ít tuổi, còn bé dại; cũng không thể hiểu là đường thiêng liêng cho con nít, mà phải hiểu theo Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, người đã được Phúc âm của Chúa Giêsu và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn soi sáng, để suy niệm, sống theo, và dạy cho các tập sinh trong Dòng Kín ở Li-xi-ơ sống theo.

Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu có nghĩa là linh đạo, là lối sống theo Chúa Thánh Thần “thổi hơi và gợi hứng” cho mỗi người, và mỗi người đón nhận hơi thổi và gợi hứng của Người để sống theo Phúc âm Chúa Kitô.

Linh đạo này bao gồm ba việc chính là: lắng nghe Lời Chúa, cách kết thân với Chúa, và sống theo Hội Thánh Chúa Kitô. Tuy nhiên mỗi Kitô hữu còn thuộc về một dân tộc có nền văn hóa riêng, còn sống trong những hoàn cảnh khác nhau tùy thời tùy nơi, nên cần phải biết hội nhập và thích ứng cho phù hợp. Còn “thơ ấu”, như đã nói ở trên, không có nghĩa là con nít, còn ít tuổi, còn bé dại mà phải hiểu đường thơ ấu của chị như chính chị đã gọi là “con đường nhỏ” hoặc “giáo thuyết bé nhỏ”. Thực ra trong các thủ bản chị không dùng “đời thiêng liêng thơ ấu”.

Vì thế vào hai năm cuối đời, chị đã vâng lời Bề trên Dòng để viết ba tập thủ bản A, B, C, sau được đúc kết thành Truyện Một Tâm Hồn (TMTH), trong đó chị đã trình bày những yếu tố chính: trước hết là lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời; sau là chính bản thân và gia cảnh của chị, bối cảnh của tu viện, hoàn cảnh xã hội đương thời, tất cả đã góp phần giúp chị hình thành đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Ta sẽ cùng nhau khám phá đời sống và giáo thuyết nhỏ của chị.

2. “Em chỉ là một cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối” (xem TMTH trang 388).

Để khám phá đời sống và đường thiêng liêng thơ ấu của chị, chúng ta rất may mắn có những tài liệu do chính tay chị viết để lưu lại cho nhà dòng, theo lệnh các Bề trên Dòng là chị ruột của chị. Đầu tiên Bề trên bảo chị tóm tắt cuộc đời thơ ấu (Thủ bản A), sau đó xin chị viết thêm về đời tu trong dòng (Thủ bản C), cuối cùng chị viết bổ túc để trình bày “giáo thuyết nhỏ” tức là đường thiêng liêng thơ ấu (Thủ bản B). Chị viết vào hai năm cuối cùng, khi bệnh tật, trước khi qua đời vào năm 24 tuổi. Chị viết vì vâng lời Bề trên chứ không để phổ biến cho mọi người nên chị trình bày rất chân thành, hồn nhiên. Cũng nên nhớ chị còn là một nhà thơ đã có hơn 50 bài thơ đạo.

Cuộc đời chị. Têrêxa là con gái út của gia đình ông bà Lu-y Mac-ti-nô, sinh ngày 2-1-1873 tại A-lăng-xông thuộc nước Pháp. Gia đình có 9 người con, hai trai bảy gái. Hai con trai đã theo hai chị về trời lúc còn non yếu. Còn lại là năm chị em gái lần lượt đều dâng mình cho Chúa trong các dòng. Chưa đầy 4 tuổi chị đã mồ côi mẹ. 8 tuổi phải đi học nội trú ở trường Li-xi-ơ. 10 tuổi bị bệnh nặng suýt chết. 11 tuổi được rước lễ lần đầu và thêm sức. 13 tuổi mắc bệnh bối rối về vấn đề đức khiết tịnh. 14 tuổi trải nghiệm đầu tiên về tội nhân cứng lòng không hối cải. 14 tuổi quyết định xin được đặc ân vào tu Dòng Kín sớm hơn luật định (đáng lẽ là 21 tuổi). 15 tuổi được nhận vào dòng kín Li-xi-ơ với tên Têrêxa Hài đồng Giêsu và Thánh Nhan. 17 tuổi tuyên khấn và đội lúp. 21 tuổi, ba của chị qua đời. 23 tuổi được làm tập sư coi tập sinh và được lệnh bề trên viết tự thuật, cuối năm 23 tuổi gặp thử thách rất nặng là bị thổ huyết vào thứ 6 Tuần Thánh tháng 3-1896. Rồi chị có ý thức là mình được ngồi bàn của những người tội lỗi với Chúa Giêsu, cũng ý thức mình có ơn gọi truyền giáo và ước ao truyền giáo. 24 tuổi sống những ngày cuối đời trong bệnh tật gây đau đớn hơn cũng như trong các cám dỗ về đức tin mạnh mẽ hơn. Cuối cùng sau cơn hấp hối kéo dài, chị qua đời ngày 8-7-1879.

Qua tự thuật của chị, ta thấy từ chỗ là con gái út trong gia đình đông con, vóc dáng thấp nhưng xinh đẹp, sức khỏe mong manh, tính tình tế nhị, bốn tuổi đã mồ côi mẹ, lớn lên đi học nội trú, gặp bệnh nặng suýt chết, bối rối kéo dài khi dậy thì, biết có những người tội lỗi cứng lòng không trở lại, muốn vào Dòng Kín mà chưa đủ tuổi, làm tập sư (coi tập sinh) chưa có nhiều kinh nghiệm vì quá trẻ, mắc bệnh ho lao thổ huyết phải liệt giường và trải qua cơn hấp hối lâu dài… tất cả không thể không làm chị phải mặc cảm tự ti như chính chị đã thú nhận: “em chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối.” Tuy nhiên, chị không hề nản chí thất vọng nhưng ý thức “tất cả là hồng ân” của lòng Chúa là Cha nhân từ hay thương xót, và suy nghĩ cố gắng đáp lại tình yêu Chúa bằng đường thiêng liêng thơ ấu của chị.

3. Để lên trời chị đã chọn con đường bé nhỏ là tin cậy phó thác cho Chúa như trẻ thơ (xem TMTH trang 413,365,369,71)

Ý thức mình chỉ là cô gái không đủ sức làm việc và yếu đuối, phải trải qua bệnh tật và cám dỗ nặng nề, đáng lẽ chị phải mặc cảm tự ti, nản chí thất vọng. Nhưng trong suốt cuộc đời, chị lại cảm nghiệm được tình yêu nhân từ và thương xót của Chúa và Đức Maria, chị cũng nhờ ảnh hưởng lòng đạo đức của gia đình, chị đón nhận tất cả với trái tim tràn ngập biết ơn và yêu mến, bởi vì “ tất cả là hồng ân” (TMTH trang 366), nên chị quyết tâm nên thánh.

Từ 3 tuổi chị đã nhất định không từ chối Chúa điều gì – khi so sánh mình với các thánh chị thấy các ngài như núi mà chị như hạt cát – Chị biết Chúa nhân lành không bao giờ gợi lên trong chị những gì chị không thể làm được, và Người có thể dùng sự bé nhỏ yếu đuối để làm chị trở nên một vị thánh. Vì thế chị vui vẻ chấp nhận thân phận hạt cát và suy nghĩ: “tìm kiếm một con đường thẳng và ngắn nhất, cũng như hoàn hảo nhất để nên thánh” (TMTH trang 413). Chị mở Kinh Thánh và thấy trong Phúc âm thánh Mát-thêu Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Nếu anh em không quay trở lại mà nên như trẻ em thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18, 3). Lời Chúa nói đây là nói cho tất cả mọi người lớn nhỏ. Nên chị nghĩ rằng việc của chị là phải làm sao cứ mãi mãi như trẻ nhỏ , dù lúc này chị đã là nữ tu 23 tuổi. Chị tưởng tượng ra cảnh một em bé chưa biết đi muốn lên với mẹ đang ở trên đầu thang. Em cố gắng nhấc chân lên bậc thang thứ nhất nhưng lần nào cũng té xuống không lên được. Thấy vậy cuối cùng mẹ em bước xuống bồng em lên với mẹ trên tay… Chị giải thích rằng Chúa như người cha nhân từ toàn năng và hay thương xót , Người mời gọi và thúc đẩy ta nên thánh, dù biết ta yếu đuối.

Nếu ta có thiện chí cố gắng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Người để cứ leo lên, thế nào Người cũng sẽ mau mắn cứu giúp họ (TMTH – trang 414): “lòng tin của con đã chữa con” (Mt 9,22) “anh tin thế nào thì được như vậy” (Mt 10,29), “lòng tin của bà mạnh thật, bà muốn sao thì sẽ được như vậy” (Mt 15,28)… dường như Chúa muốn thi hành quyền năng của Người tùy lòng tin cậy phó thác của ta đối với Người (TMTH 369,371,372). Và chị đã khám phá ra “cách trở nên trẻ em” là cách sống bé nhỏ như trẻ thơ, đó là luôn có lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa. Chị coi đó là cái thang máy đem chị lên với Chúa mà “thang máy đó chính là cánh tay của Chúa Giêsu” (TMTH trang 414).

Tại sao như vậy ? Chị thấy rằng tin cậy và phó thác hoàn toàn cho Chúa là dấu hiệu cốt yếu nhất của tình yêu đích thực. Nếu hai người yêu nhau mà còn nghi ngờ, sợ hãi nhau thì chưa phải là yêu. Chúa đã yêu con người hết mình và vô điều kiện thì con người phải yêu Chúa với tình yêu cũng hết mình và vô điều kiện. “Lấy tình yêu đáp lại tình yêu” (TMTH trang 372). Chị đã tìm thấy trong thư 1.Cor.13,31 thánh Phaolô nói đến con đường trổi vượt hơn cả đó là đức ái, hiểu theo nghĩa là tình yêu đối với Chúa. Chị suy nghĩ thêm rằng: Tình yêu đối với Chúa bao gồm mọi ơn gọi, không có tình yêu ấy thì các tông đồ chẳng còn rao giảng Phúc âm nữa, các vị tử đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra (TMTH trang 386). Tình yêu đòi lòng tin cậy phó thác hoàn toàn cho Chúa cả xác hồn chứ không phải cách trừu tượng và phải được biểu lộ cụ thể trong cách kết thân với Chúa là cầu nguyện mà chị coi là “vũ khí có sức mạnh vô địch” Chúa ban cho chị (TMTH trang 476). Đồng thời tình yêu cũng đòi hỏi phải thể hiện trong hành động (TMTH trang 455). Cho nên chị cố gắng chu toàn những việc nhỏ mọn trong bổn phận hằng ngày bằng một tình yêu hết mình.

Trong tu viện chị chỉ có những việc như may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn, múc nước, dọn phòng thánh, dạy các tập sinh, viết tự thuật, chịu đau khổ vì bệnh tật, cám dỗ về đức tin… Do đó khi chị may giặt, quét nhà , làm cỏ, dọn bàn ăn… chịu bệnh tật, cám dỗ… chị sẽ yêu bằng một tình yêu phi thường, vì chỉ có tình yêu mới quan trọng, chỉ có tình yêu mới cứu rỗi “Chị yêu đến chết vì yêu “ (TMTH trang 429).

4. Ba ham mê của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Ý thức mình chỉ là cô bé không đủ sức làm việc và yếu đuối, và cũng ý thức mình được Chúa mời gọi để về trời bằng con đường nhỏ bé, đó là sống hoàn toàn tin cậy và phó thác cho Chúa như trẻ thơ. Tuy chỉ là một nữ tu ẩn mình trong những bức tường của Dòng Kín, thế mà chị luôn hướng cuộc đời tới Chúa, tới cánh đồng truyền giáo trên thế giới, trong đó có các linh mục, có biết bao người chưa biết Chúa, biết bao người tội lỗi. Vì thế chị đã không chỉ lo về trời một mình, nhưng chọn thể hiện con đường nhỏ bé của chị trong ba ham mê lớn: đó là cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho các người tội lỗi, và làm việc truyền giáo.

4.1 “Em say mê cầu nguyện cho các linh mục lẽ ra phải trong sáng như pha lê” (TMTH trang 240)

Chị đã có dịp gặp nhiều linh mục thánh thiện và chị nghĩ rằng “Nếu phẩm chức cao vời của các ngài nâng cao các ngài lên trên các thiên thần thì các ngài cũng còn là những con người yếu đuối mỏng manh… Nếu các linh mục thánh thiện mà trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã gọi là “muối của trần gian” chứng tỏ bằng hành vi của các ngài còn hết sức cần đến những lời cầu nguyện, thì phải nói gì về những linh mục nguội lạnh? Chúa Giêsu đã chẳng nói thêm “Nếu muối đã ra lạt thì lấy gì ướp cho nó mặn lại được” (Mt 5,13). Chị ý thức rằng: “mục đích duy nhất của các kinh nguyện và hy sinh của ơn gọi Cát Minh là làm tông đồ cho các tông đồ” (TMTH trang 241). Và trong thư gởi Mẹ Bề trên, chị viết: “Chúng ta đặc biệt phải cứu rỗi các linh hồn của các linh mục, các linh mục này lẽ ra phải trong sáng hơn pha lê”. Vì thế chị đã nhận “một em trai đầu lòng” là linh mục Maurice Barthélémy Bellière đi truyền giáo bên Alger, Phi Châu (TMTH trang 495), và em trai thứ 2 là cha Adolphe Roulland đi truyền giáo bên Trung Hoa (TMTH trang 500).

4.2 Em cháy bỏng niềm ao ước muốn giải thoát các linh hồn trong tội (TMTH trang 200)

Ngay từ khi được 14 tuổi, chưa đi tu, khi chị hay tin có anh Henri Pranzini 31 tuổi đã giết 2 phụ nữ và một bé gái để cướp của, anh bị kết án tử hình, nhưng anh nhất định không xưng tội và tỏ dấu hối cải nào. Chị biết mình chẳng làm gì được, nhưng cậy nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu và công phúc của Hội Thánh, chị còn xin lễ cho anh. Thế rồi vào giờ chót trước khi lên máy chém, khi linh mục đưa thánh giá cho anh, anh đã cầm lấy và hôn ba lần (THTM trang 201 -202). Sau khi vào dòng, chị có thêm nỗi lo là số phận của bao người tội lỗi, vô thần, duy vật… Chị phải tham dự vào công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu và Hội Thánh, chị say mê cầu nguyện rằng: “Xin Chúa cho con được nghiền nát vì cảm thương các tội nhân, vì các linh hồn chung quanh con”. Chị gọi những người tội lỗi là “anh chị em tội lỗi của Giêsu”, và chị cũng gọi họ là ”anh chị em của chị” và xin Chúa “tha thứ cho các anh chị em của chị”. Chị chấp nhận “ăn bánh đau khổ và hoàn toàn không muốn rời khỏi bàn ăn cay đắng nơi những người tội lỗi đáng thương ngồi ăn” (TMTH trang 422- 423) , như Chúa Giêsu xưa đã ngồi cùng bàn với người thu thuế và tội lỗi (Mt 9,10). Đến cuối đời khi đang hấp hối, chị nhìn sang Mẹ Bề trên và nói “chén đắng đã đầy miệng rồi. Không bao giờ con dám tưởng mình có thể chịu đau khổ tới mức này… con chỉ có thể hiểu rằng con chịu được là bởi lòng con rất thiết tha với phần rỗi các linh hồn”.

4.3 Em có ơn gọi làm tông đồ. Em muốn làm nhà truyền giáo

Cầu nguyện cho các linh mục, cho người tội lỗi, chị còn rất thiết tha với việc làm tông đồ: “Em cảm thấy muốn làm chiến binh, linh mục, tông đồ, tiến sĩ, tử đạo… muốn thực hiện mọi công trình anh hùng nhất” (TMTH trang 381)… “Em muốn đi khắp mặt đất, rao giảng danh Chúa Giêsu và trồng cây thập giá vinh hiển của Người trên mãnh đất vô đạo, đồng thời em muốn loan báo Phúc âm trên khắp Năm Châu cho tới tận những hải đảo xa xôi nhất… Em muốn là nhà truyền giáo không phải chỉ trong vài năm, nhưng em muốn là như vậy từ khi có vũ trụ này cho đến tận thế… Em muốn đổ cho tới giọt máu cuối cùng vì Người” (TMTH trang 382). Về cuối đời chị phải vâng lời nữ tu coi sóc chị đi bộ mỗi ngày 15 phút. Thấy chị đi lại quá mệt nhọc, có một chị khuyên: chị nên về nằm nghỉ thì hơn. Chị đáp lại: “Đúng thế. Nhưng chị có biết em lấy sức mạnh ở đâu mà đi được như vậy không? Em đi để cầu nguyện cho một xứ truyền giáo, với ý nghĩ rằng ở nơi xa xăm đó có vị truyền giáo có lẽ đang kiệt sức vì miệt mài lo mở mang Nước Chúa, em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để cho vị tông đồ ấy đỡ mệt mỏi…”.

5. ĐỂ KẾT

Trước tiên là trình bày ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh về Thánh nữ Têrêsa và đường thiêng liêng thơ ấu của chị. Sau sẽ bàn về đường thiêng liêng thơ ấu và và việc Tân Phúc Âm hóa.

5.1. ý kiến của các vị chủ chăn trong Hội Thánh

– Đức giáo hoàng Piô XI. Khi phong thánh cho thánh nữ Têrêxa năm 1925 đã nói: “Vị Thánh Têrêxa mới đã thấm nhuần đạo lý Phúc Âm và đã thực hành đạo lý ấy trong đời sống hằng ngày của chị. Hơn nữa, bằng lời nói và gương sáng chị đã dạy con đường thiêng liêng thơ ấu cho các tập sinh trong tu viện, và đã trình bày cho mọi người bằng các tập viết được phổ biến trên khắp thế giới… theo lời chứng của vị tiền nhiệm của chúng tội là đức thánh cha Bênêdictô XV, chị đã học được một khoa học tuyệt vời về những điều siêu nhiệm khiến chị có thể vạch ra cho người khác một con đường cứu rỗi chắc chắn.” Hai năm sau, chị được ngài tôn làm Bổn mạng các xứ truyền giáo (1927).

– Đức thánh giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã tấn phong Thánh Têrêsa làm Tiến sĩ Hội Thánh trẻ nhất, mới 24 tuổi, trong số 33 thánh Tiến sĩ Hội Thánh. Khi tuyên phong năm 1997 ngài đã nói “lý do trước tiên thánh nữ là một phụ nữ, rồi là một vị thánh rất trẻ đã sống hầu như cùng thời với chúng ta, và có một ảnh hưởng đối với quần chúng hôm nay”. Thánh nữ không hề cắp sách đến Đại học, không hề dự khóa thần học quy củ nào cũng chẳng có bằng cấp gì.

– Đức giáo hoàng Bênêdictô XVI, khi còn làm hồng y đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, nhân dịp phong Tiến sĩ cho thánh Têrêxa có nói: “Đối với danh hiệu tiến sĩ Hội Thánh tôi nghĩ cần hai tiêu chuẩn cơ bản: sự tỏa sáng thiêng liêng trên khắp thế giới, và chiều sâu giáo thuyết. Chắc chắn thánh nữ Têrêxa đáp ứng đủ hai tiêu chuẩn này”.

Cũng nên nhớ đức đương kim giáo hoàng Phanxicô đã phong chân phước cho ông bà Lu-y Mac-ti-nô, cha mẹ của thánh nữ, vào ngày 19-8-2008 tại Li-xi-ơ.

5.2 Đường thiêng liêng thơ ấu với Tân phúc âm hóa

Toàn Hội thánh đang tiến hành công cuộc Tân phúc âm hóa nghĩa là lấy nhiệt tình mới để vận dụng Phúc âm một cách mới mẻ, phù hợp hơn với con người và xã hội thời nay, những con người đang bị lôi cuốn theo dòng chảy của tục hóa, của vô thần, duy vật, của hưởng thụ, vô cảm… muốn gạt bỏ Thiên Chúa và tình yêu thương của Người; đang gây ra nhiều hậu quả tang thương cho cả thế giới loài người.

Thiên Chúa là tình yêu đã tạo dựng con người giống hình ảnh Người để họ biết yêu Chúa, yêu nhau, sống hạnh phúc với nhau như trong địa đàng. Nhưng ông A-dong và bà E-và, nguyên tổ loài người, đã không muốn vâng phục Chúa, không muốn kết thân với Chúa, khiến cả thế giới loài người trở thành địa ngục trần gian. Tuy nhiên,vì Thiên Chúa luôn yêu thương đã cử Chúa Giêsu xuống trần gian để cứu rỗi loài người bằng con đường vâng phục, hạ mình xuống vác khổ giá và chịu chết, để chứng tỏ tình yêu vô biên và trung tín. Đó chính là Phúc âm của Chúa Giêsu, Phúc âm đã kêu gọi mọi người muốn được hạnh phúc trong Nước Chúa thì phải trở nên như trẻ thơ. Trẻ thơ cốt tại lòng tin cậy và phó thác hết mình cho Chúa.

***Như vậy đường thiêng liêng thơ ấu của thánh nữ Têrêxa là con đường nhỏ,một cách hữu hiệu và phù hợp nhất để Phúc âm hóa con người và xã hội ngày nay, chắc chắn giúp họ thoát khỏi cảnh một thế giới hỗn loạn vô chủ, và sống với nhau theo luật rừng vì không có Chúa…

Thánh nữ Têrêxa đã nghe Lời Chúa, chọn con đường thiêng liêng thơ ấu, để ham mê sống kết thân với Chúa bằng tin cậy, yêu mến, phó thác hoàn toàn cho Chúa, để cầu nguyện cho các linh mục, cầu nguyện cho mọi người tội lỗi, cầu nguyện cho việc Phúc âm hóa. Chị đã hứa: “khi về trời sẽ làm mưa hoa hồng xuống trần gian”. Hoa hồng đây là những ân sủng Chúa ban cho những ai thực hành con đường thiêng liêng thơ ấu với lòng yêu mến và hy sinh. Còn Kitô hữu chúng ta đang đi theo con đường thiêng liêng nào? Có ham mê trở thành đèn sáng, nên muối mặn để phục vụ nhân loại không (Mt 20, 28), hay chỉ ham mê trở thành “ông vua nhỏ” trong giáo phận, trong giáo xứ, trong gia đình, trong xã hội để cai trị (Mt 20, 25).

Xin mượn một đoạn thơ bốn câu trong bài thơ “Bài ca hôm nay của em” của Thánh Têrêxa để kết thúc bài này:

Đời em như gió thoảng
Đời em tựa mây bay
Có chi mà lo lắng,
Yêu Chúa trọn hôm nay.

(Bản dịch sang thơ Việt của nhà thơ Sảng Đình, cha J.M.Thích).
Lạy thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu, xin mưa hoa hồng xuống trần gian, xin cầu cho chúng con. Amen.

Lễ Thánh Têrêxa 2014

Lm. Antôn Nguyễn mạnh Đồng
Nhà Hưu Dưỡng linh mục Cần Thơ

Anh chị Thụ Mai gởi

DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN

DÙ CON NGƯỜI BẤT TRUNG, THIÊN CHÚA VẪN MỘT LÒNG TRUNG TÍN

(Mt 21, 33-43)

Tác giả: Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Tiếp theo dụ ngôn “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con vào làm vườn nho (x. Mt 21, 28-32). Đức Giê-su kể cho thượng tế và kỳ lão nghe dụ ngôn “Những tá điền sát nhân” (x. Mt 21, 33-43). Quả thật, Vườn nho của Chúa là nhà Israel, Thiên Chúa đã tuyển chọn và coi như một vườn nho đặc tuyển được Chúa chăm sóc, bảo vệ, (“Bài ca vườn nho” – Is 5, 1-7) là một bằng chứng : “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà Israel, và người Giuđa là chồi cây Chúa vui thích” (Is 5, 7). Tình yêu của ông chủ với vườn nho, hay cụ thể là mối tình giữa Thiên Chúa với Dân Ngài thật đậm đà, thắm thiết. Thiên Chúa đã không tiếc gì đối với dân : “Người tôi yêu có một vườn nho trên đồi xinh tươi. Người rào giậu, nhặt đá, trồng cây chọn lọc, xây tháp giữa vườn, lập máy ép trong vườn, và trông mong nó sinh quả nho” nhưng hỡi ôi, “nó lại sinh toàn nho dại” (Is 5, 2).

Điều gì phải đến sẽ đến, ông chủ “sẽ phá hàng rào, để nó bị tàn phá, sẽ phá tường để nó phải bị giầy đạp. Ta sẽ bỏ nó hoang vu, không cắt tỉa, không vun xới; gai góc sẽ mọc lên, và ta sẽ khiến mây không mưa xuống trên nó” (Is 5, 5-6). Ngụ ý nói : “Thiên Chúa trông mong Israel thực hành đức công bình, nhưng đây toàn là tiếng kêu oan” (Is 5, 7). Theo lẽ thường, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ giáng xuống Israel. Nhưng Thiên Chúa “không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải” (2 Pr 3, 9). Nên, mới giao vườn nho cho những tá điền chăm sóc (x. Mt 21, 33-43).

Gọi vào làm vườn nho và chăm sóc vườn nho là sáng kiến ​​của Thiên Chúa. Ngài đã chọn dân Israel. Ngài tin tưởng và ban cho dân những điều kiện để sống xứng đáng trong Vương Quốc của Ngài. Ngài gọi dân vào làm vườn nho thể thiện tương quan đặc biệt giữa Ngài với dân. Việc trồng nho lấy quả, ép rượu, theo truyền thống Kinh Thánh là dấu hiệu của niềm vui phồn thịnh.

Thiên Chúa lấy tình yêu mà chăm sóc dân Chúa để nó sinh nhiều trái tốt, là sống công chính hoan lạc trong tình yêu. Cây nho sinh trái, thể hiện tình yêu từ Thiên Chúa xuống với con người, trung thành với lề luật Chúa là đáp lại tình yêu ấy. Yêu thương con người là sáng kiến của Thiên Chúa, vì Ngài đã chủ động yêu thương. Thảm kịch đối với dân được chọn là khước từ kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, cho dù bao lần Ngài dùng miệng các tiên tri không ngừng mời gọi dân hoán cải, thậm trí sai chính Con của Ngài đến kêu gọi, dân chúng vẫn chọn sự bất trung với Thiên Chúa, ngược đãi với Con Ngài .

Chúa Giêsu lấy lại và tiếp tục lời than của Thiên Chúa trong Isaia (x. Is 5, 1-7). Chính ở đó chúng ta gặp được chìa khóa cho dụ ngôn. Tại sao Thiên Chúa “trồng một vườn nho” và Thiên Chúa đến tìm những “hoa quả “ nào?

Những tá điền không trồng nho và chăm sóc vườn nho vì thương yêu vườn nho, nhưng vì lợi ích riêng của chính mình. Thiên Chúa thì khác. Ngài dựng nên con người và lập giao ước với con người, không phải vì lợi ích cho Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương và ích lợi cho con người mà thôi. Những hoa quả được trông đợi từ con người là tình yêu đối Thiên Chúa và sự công bình đối với những kẻ bị áp bức: tất cả là vì con người, chứ không phải cho Thiên Chúa.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Israel, đồng thời phác họa lịch sử tương quan của Thiên Chúa với toàn thể nhân loại chúng ta. Chúng ta có thể trách cứ dân Israel hay cha ông họ là những tá điền sát nhân, vì chẳng những từ chối tình yêu thương của Thiên Chúa mà còn giết hại chính Con Một Ngài. Coi chừng câu nói : “Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó”(Mt 21,38) lại là của chính chúng ta. Bởi lẽ, ngày hôm nay chúng ta phải nói rằng Chúa Giêsu đã “bị quăng ra ngoài vườn nho,” bị quăng ra ngoài bởi những người xưng mình là Kitô hữu, hay là có khi phản Kitô hữu. Những lời nói của những tá điền vườn nho dội lên không bằng lời thì cũng ít nhất bằng những việc làm trong xã hội tục hóa ngày nay. Nhân loại tục hóa muốn làm người thừa tự, làm ông chủ.

Chúng ta tự hỏi: Tôi đã chuẩn bị thế nào để Chúa Kitô sống trong tôi? Tôi đáp trả tình yêu vô biên của Chúa dành cho tôi bằng cách nào? Tôi đã tình cờ quăng Người ra ngoài nhà tôi, ngoài sự sống của tôi; nghĩa là tôi đã quên và không biết Chúa Kitô chăng?

Thiên Chúa vẫn một lòng trung tín. Tình yêu của Ngài mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung của con người. Ngài tiếp tục sai chính Con Một Ngài đến trao nộp vì chúng ta để bảo đảm cho tới cùng tình yêu trao ban cứu độ thế gian.

Lịch sử nhân loại được hoàn tất nhờ cái chết trên Thập giá. Nhờ cái chết, Chúa Giêsu đã tiêu diệt sự dữ. Nhờ phục sinh, Thiên Chúa đã nâng con người lên bằng sức mạnh của tình yêu, Người đã tiêu diệt hận thù. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc ” (Mt 21, 42), đền thờ Thiên Chúa được phục hồi. Vườn nho trở nên Vương Quốc của Giao Ước Mới, vì Nước Trời không bị phá hủy, từ nay “ Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái” (Mt 21, 43).

Ông chủ vườn nho nói : “Chúng sẽ nễ con Ta” (Mt 21, 37). Giờ đây, Cha trên trời sắp sai Con của Người đến với chúng ta trong Bí tích Mình và Máu Người. Ta có hiểu sự cao trọng lúc này không? Ta có sẵn sàng đón tiếp Người với sự sùng kính mà Chúa Cha mong đợi không?

Hôm nay chúng ta đọc lại lịch sử Dân Chúa chọn để lên án sự loại bỏ Đức Kitô do Chúa Cha sai đến. Nhưng cũng ý thức về sự khốn cùng của chúng ta khi loại bỏ “viên đá góc”, lúc chúng ta có ý xây dựng thế giới này theo tiêu chí của chúng ta, tự coi mình là những ông chủ vườn nho của Chúa.

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ” (Lời nguyện Nhập lễ). Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ