Thạc sĩ, Tiến sĩ dỏm tàn phá làm nghèo Đất Nước

Thạc sĩ, Tiến sĩ dỏm tàn phá làm nghèo Đất Nước

(Bài 2)

Trần Bích Đăng

Mua bằng “Tiến sĩ Mỹ” giá 6.500 USD như thế nào? (http://petrotimes.vn/news/vn/xa-hoi/mua-bang-tien-si-my-gia-6500-usd-nhu-the-nao.html) Đó là một trong nhiều bài viết tìm thấy trên mạng về “quốc nạn bằng dỏm” với hai chỉ định từ “Tiến sĩ”, “Thạc sĩ” thứ đã tạo điều kiện cho người chủ của nó trèo lên các chức vụ cao trong chính quyền, leo lên vị trí người thầy ở các trường đại học nơi mà đất nước đang trông chờ đón những đứa con được đào tạo nên “người biết việc” để tham gia vào việc làm giàu cho Đất Nước và Dân Tộc. Chỉ trong đoạn viết này “Năm 1998 đến 2007, SCUPS ký hợp tác với Trường Đại học Bách khoa Hà Nội liên kết đào tạo Tiến sĩ tại Việt Nam. Đến năm 2006, trường này đã “chuyển nhượng” cho một đơn vị khác nên đã chấm dứt việc liên kết tại Việt Nam”.

SCUPS là ai? Là Trường đại học Southern California for Professional Studies (SCUPS), địa chỉ 1850E, 17th Street, Suite#213, Santa Ana, CA. 92705 USA. – là một “đại học” dỏm không được công nhận ở Mỹ nơi mà ông Nguyễn Tấn Bình, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Văn hiến “Tiến sĩ Mỹ” giá 6.500 USD – Chỉ cần lên maps.google.com xem hình địa chỉ này thì “cơ ngơi” đại học của nó không bảng tên và chỉ đủ chỗ đậu 8 chiếc xe.

Câu hỏi: trong chín năm Đại học Bách khoa Hà Nội (ĐHBKHN) liên kết với SCUPS đã “đào tạo” cho Đất Nước bao nhiêu “Tiến, Thạc sĩ”?

“300 thạc sĩ, 200 tiến sĩ ‘dỏm’ Việt Nam ở đâu?” (http://www.nguoiduatin.vn/300-thac-si-200-tien-si-dom-viet-nam-o-dau-a129906.html )

Bao nhiêu người được thăng quan tiến chức, bao nhiêu người vào đứng bục giảng dạy cho sinh viên nhờ các tấm bằng đó?

Không chỉ loại bằng “Tiến, Thạc sĩ” liên kết đào tạo với Đại học Bách khoa Hà Nội mà còn ít nhất là hai mươi mốt đại học dỏm đang có mặt ở Việt Nam theo điều tra năm 2011 của Tiến Sĩ Mark A. Ashwill Giám đốc của Capstone Vietnam là một hãng chuyên tư vấn về nhân lực (http://markashwill.com/2012/02/13/new-the-dishonor-roll-of-u-s-rogue-providers-in-vietnam/). Vậy thì cộng con số “Tiến, Thạc Sĩ dỏm” xuất xưởng trong chín năm của ĐHBKHN với con số từ hai mươi mốt đại học giả được chỉ danh ở Việt Nam, và cả một số lượng không biết bao nhiêu từ Liên Xô, Roumany, Hunggary, Tiệp khắc… rồi Mỹ hay Âu Châu trở về nữa, thì đã có hàng nhiều ngàn “Tiến, Thạc sĩ dỏm” được “tạo ra”.

Lên mạng tìm hiểu mới thấy con số kinh hoàng về đại học không

được công nhận, kém hay thậm chí không có chất lượng trên thế giới. Chỉ cần tham khảo trang “Danh sách các tổ chức giáo dục bậc đại học không được tín nhiệm” http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_unaccredited_institutions_of_higher_education là đã thấy đã có hàng ngàn đại học dỏm được đưa ra ánh sáng.

Báo mạng Thanh niên ngày 28/9/2011 (http://www.thanhnien.com.vn/pages/20110928/giang-vien-chay-so-tu-tien-si-khong-den-tien-si-dom.aspx) đăng: “Để đáp ứng nhu cầu thực tế, nhiều GV đã phải tìm mọi cách để có được tấm bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Nhiều bằng cấp trong số đó chỉ để hợp thức hóa chứ không có giá trị thật.

Phó hiệu trưởng một trường ĐH tại TP. HCM thông tin chương trình đào tạo tiến sĩ ở một vài cơ sở của Nga hiện nay rất đáng báo động. Nhiều GV ở VN đã theo các chương trình này để có được tấm bằng tiến sĩ. Người tham gia chương trình này không cần biết tiếng Nga, tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào khác. Họ chỉ sang Nga nửa tháng để nhận đề tài, toàn bộ thời gian nghiên cứu làm tại VN. Trong thời gian 3 năm đó, người hướng dẫn phía Nga sang VN mỗi năm một lần nhưng mọi giao tiếp đều thông qua phiên dịch. Cuối cùng các nghiên cứu sinh này chỉ cần sang Nga 15 ngày để bảo vệ luận văn.

Ở Nga cũng có một số website nổi tiếng mua bán bằng. Website doconline.ru rao bán đủ loại bằng cấp từ cử nhân đến tiến sĩ. Trong phần rao bán bằng tiến sĩ, website thông tin bán bằng từ bất kỳ thành phố nào của Nga với giá 33 ngàn rúp (khoảng 10 ngàn USD). Trên dip-msk.ru, bằng tiến sĩ được rao bán 40 ngàn rúp (khoảng 12 ngàn USD) với nội dung: “Nếu bạn đã đạt được mục tiêu (chức vụ) nhưng chưa có bằng tiến sĩ, hãy đến với chúng tôi. Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, chúng tôi cho rằng mua bằng rẻ thực tế hơn nhiều so với việc bản thân tự nỗ lực…” (Bản dịch).

Đối với Mỹ, việc công nhận các tổ chức giáo dục bậc đại học qua hai cấp: cấp cao nhất là Council for Higher Education Accreditation (CHEA) or the U.S. Department of Education (USDE) là hai tổ chức tầm quốc gia có thẩm quyền đánh giá các tổ chức đánh giá các đại học vùng (regional accreditation), các tổ chức vùng này mới trực tiếp đánh giá các đại học có sinh viên theo học, và các tổ chức đánh giá vùng này lại chia làm các loại chỉ đánh giá về một ngành nghề nhất định. Đánh giá các chương trình đại học từ xa là do Distance Education and Training Council Accrediting Commission (DETC) đảm nhiệm. DETC được CHEA công nhận vì tổ chức này đáp ứng các tiêu chuẩn của CHEA. Tuy nhiên đây là vấn đề hết sức phức tạp vì dính líu tới nhiều ngành nghề, tôi sẽ trở lại chuyện này trong một bài khác.

Năm 2013 lại xuất hiện ở Việt Nam một loại “Tiến sĩ Danh dự” do một đại học mang tên Đại Hoc Kỷ Lục Thế Giới (World Record University – WRU). WRU có trụ sở” chính là ở Anh Quốc, có chi nhánh ở Mỹ, Ấn Độ và Việt Nam theo website chính của họ – Vào website chính (http://worldrecordsuniversity.co.uk/intl/ ) thấy ở đây có rất nhiều đường nối đến gần như tất cả các nước trên thế giới nhưng khi click vào nó đều mang đến trang http://worldrecordsuniversity.co.uk/intl/ là trang có tấm hình lễ trao bằng “Tiến sĩ Danh dự” ở Việt Nam. Đây là cái nhập nhằng tiếp theo cái nhập nhằng giữa “Tiến sĩ”, “Tiến sĩ danh dự”, “Đại Học”, “Đại Học Kỷ Lục”, “Đại Hoc Kỷ Lục Thế Giới” và “Hội đồng Khoa học kỷ lục Thế giới ” như VNExpress đăng (http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/6-ky-luc-gia-viet-nam-duoc-cong-nhan-tien-si-danh-du-2883237.html). Cái nhập nhằng kế tiếp là trong trang web chính địa chỉ ở Anh là “Dalton House 60, Windsor Avenue, London, SW192RR”, tại trang “lễ trao bằng ở VN” lại có thêm số phôn “U.K Office Dalton House 60 Windsor Avenue LONDON SW19 2RR +44-20-32-9213-04” mà số điện thoại quốc gia 44 là của đảo “Isle of Man” (http://countrycode.org/country_detail.cfm?countryid=115). Kế đến trang web VN này lại có thêm địa chỉ ở đảo Tây Trinida và Tobago “M/S Carritrade Ltd # 60, Pasea Extension Road, Tunapuna, Trinidad and Tobago West Indies”. Google không tìm ra địa chỉ nào ở đây trừ con đường và đảo này. Và “Carritrade Ltd” lại là một thứ cơ sở chữa bệnh bằng “thôi miên” (http://www.sigfasolutions.com/wp-content/uploads/2012/08/Hypno-Workshop-1011-Aug.pdf). Quả là hết chỗ nói.

Cái đáng sợ là họ còn đưa ra loại “Tiến sĩ danh dự về Khoa học Tự nhiên và Y khoa”. Chết cha ông dân Việt Nam mình khi nhận được tấm thiệp của ông “Tiến sĩ danh dự Y khoa” Nguyễn Văn X nào đó, vì hai chữ “danh dự” nó ghê gớm lắm. Bao nhiêu sự lừa gạt đều nằm trong đó!!!

Trước “Quốc nạn bằng dỏm” – một sự kiện xã hội nghiêm trọng đang gặm nhắm cơ thể mẹ Việt Nam như một loại ung thư tàn phá mọi thứ, có hai vấn đề cần làm:

Thứ nhất: Bộ Chính trị với trách nhiệm cao nhất hãy chỉ đạo ngay việc này để Bộ Giáo dục và Quốc hội ra Luật chống bằng dỏm. Thử tham khảo Luật chống bằng dỏm của Bang Texas Mỹ (tạm dịch) như sau:

§ 32,52. BẰNG ĐẠI HỌC GIAN LẬN, DƯỚI TIÊU CHUẨN, GIẢ MẠO

(a) Trong phần này, “mức độ gian lận hoặc không đạt tiêu chuẩn” có định nghĩa chiếu theo Điều 61.302, Luật Giáo dục.

(b) Một người phạm tội nếu người đó:

(1) sử dụng hoặc tuyên bố là có bằng sau trung học mà người đó biết rằng:

(A) đó là một văn bằng gian lận hoặc không đạt tiêu chuẩn;

(B) đó là bằng giả hay nếu không phải cũng không được cấp cho ai; hoặc

(C) đã bị thu hồi; và

(2) sử dụng hoặc tuyên bố là sở hữu một văn bằng mà:

(A) trong một quảng cáo bằng văn bản hoặc bằng miệng hoặc các khuyến mãi khác của doanh nghiệp; hoặc

(B) với mục đích:

(i) có được việc làm;

(ii) có được giấy phép hoặc giấy phép hành nghề thương mại, nghề nghiệp, hoặc việc làm;

(iii) có được một thăng thưởng, một thù lao hoặc một lợi ích khác, hoặc tăng lương hoặc lợi ích khác, trong công việc hoặc trong việc làm về thương mại, nghề nghiệp, hoặc chức nghiệp;

(iv) được nhận vào một chương trình giáo dục của Tiểu bang này; hoặc

(v) đạt được một vị trí trong chính phủ mà vị trí này là có thẩm quyền đối với người khác, bất kể là người này có nhận được thù lao cho vị trí này hay không.

(c) Hành vi phạm tội định trong phần này là một tội tiểu hình Loại B.

(d) Nếu hành vi cấu thành tội phạm theo điều này cũng cấu thành một tội phạm theo luật pháp khác, người phạm tội có thể bị truy tố theo điều khoản này hoặc theo pháp luật khác.

– Xem chi tiết tại: http://codes.lp.findlaw.com/txstatutes/PE/7/32/D/32.52#sthash.fOjl3aZR.dpuf

Thứ hai: nghiêm túc đưa ra biện pháp buộc tất cả các Tiến sĩ, Thạc sĩ dỏm hay chân chính đều phải đăng ký vào một ngân hàng dữ kiện (database) bao gồm: tên, bằng và ngày tốt nghiệp, chủ đề của Luận án, đại học và các giáo sư hướng dẫn. Để bước đầu làm thụt ngòi những đầu óc gian lận, bước kế tiếp là có thể buộc các người đã có bằng dỏm phải nghiêm túc học và thi lại, nếu sau ba, bốn năm không làm được, tước bỏ danh xưng lẫn tấm bằng ghi kết quả vào database. Mở website để cũng có thể tham khảo ngân hàng dữ kiện để biết ai là ai, rất có ích cho mọi người, cho Dân Tộc.

Nếu vì tình đồng chí – vì có khá nhiều quan chức mang học hàm học vị “Tiến, Thạc sĩ dỏm” – mà Đảng và Nhà nước bó tay không làm gì cho cho nên đầu nên đũa, để căn bệnh ung thư đó tiếp tục tàn phá Đất Nước, đặc biệt là lũng đoạn giới giảng dạy đại học, chúng ta quả là kẻ có trọng tội với Tổ quốc.

31 tháng 10 năm 2014

T.B.Đ.

Tác giả gửi BVN

Ai bảo kê cho tra tấn ?

Ai bảo kê cho tra tấn ?

Võ Thị Hảo, viết từ Hà Nội
2014-11-02

Dư luận bàng hoàng và phẫn nộ với vụ án 5 công an TP Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã tra tấn, nhục hình, đánh đến chết anh Ngô Thanh Kiều ở tỉnh Phú Yên vào những ngày cuối tháng 3 năm 2014

Dư luận bàng hoàng và phẫn nộ với vụ án 5 công an TP Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã tra tấn, nhục hình, đánh đến chết anh Ngô Thanh Kiều ở tỉnh Phú Yên vào những ngày cuối tháng 3 năm 2014

Files photos

Công ước cấm việc tra tấn, và yêu cầu các bên ký kết phải có biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn ở bất kỳ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình. Việc cấm này là tuyệt đối và không được vi phạm. Không có bất cứ trường hợp đặc biệt nào có thể được viện dẫn để biện minh cho tra tấn. (Quy định của  của Liên hợp quốc về chống tra tấn)

Ngày càng nhiều “quan tài diễu phố”

Đến nơi, mấy chú dắt cháu vào phòng, bắt cháu đứng trước bàn và liên tục nạt nộ. Sau đó hai chú công an vừa quát vừa đánh cháu. Một chú lấy cái gậy đen ngắn (dùi cui) đánh liên hồi vào mông và đùi cháu, còn chú kia dùng chân đạp và đá cháu. Cháu càng kêu đau các chú ấy càng đánh mạnh”, Phát – cháu bé 11 tuổi, bị mấy công an thành phố Huế đánh như tra tấn trong khoảng 30 phút – kể lại khi đang nằm cấp cứu ở một bệnh viện tại Huế.

“Sợ quá, cháu ngã quỵ xuống nền nhà nhưng hai chú công an vẫn bắt cháu đứng tựa vào bàn làm việc và tiếp tục đánh”, cậu bé kể rồi òa khóc.(theo VnExpress- 20/6/2011, bài “Cậu bé 11 tuổi nhập viện sau khi vào đồn công an”).

Ngày 30/8/2012, ông Nguyễn Mậu Thuận trú tại thôn Đoài xã Kim Nỗ Đông Anh Hà Nội đã bị 4 công an canh gác cho nhau tra tấn ông đến chết. Ông bị trói quặt vào lưng ghế, ghế này bị đánh gãy, công an liền thay ghế khác để đánh tiếp. Ông bị đánh nứt vỡ cả đùi, toàn thân bầm tím, gãy 3 xương sườn, tụ máu dưới da đầu, mười ngón tay bị kẹp bằng bút bi bóp nát… Ông chết chỉ vài giờ sau khi bị bắt vào đồn công an. Con trai ông đã ngất xỉu tại chỗ khi chứng kiến thi thể đầy thương tích của bố.

Xem ảnh về ông, không ai không công phẫn khi thấy ông bị tra tấn tàn bạo đến thế. Vụ án xử những kẻ giết ông đã hoãn đi hoãn lại, cho đến hai năm sau – tháng 9/2014 vẫn còn tiếp diễn và luật sư phát hiện có bỏ lọt tội phạm.

Ngày 21/10/2014, nạn nhân Lê Thanh Hải ở TPHCM tố cáo và đưa ra chứng cứ anh bị công an đánh mù mắt trong khi đang điều khiển phương tiện giao thông,

Những vụ công an hành hung dân ngày càng dồn dập. Liên tiếp trong hai ngày gần đây nhất đã xẩy ra hai vụ gây căm phẫn cho người dân.

Theo báo Pháp luật, đêm 27/10/2014, ông Nguyễn Văn Hạ bị công an phường Tân An, thị xã La Gi tỉnh Bình Thuận bắt đưa đi. Đến 7 h sáng ngày 28, người nhà đến tìm ông để lấy chìa khóa thì thấy ông đã chết trong đồn và hỏi thì mới được thông báo rằng ông “ bỗng nhiên treo cổ tự tử chết”!

Em Ngô Đình Phát (11 tuổi, ở phường Thủy Xuân, thành phố Huế) bị bắt vào đồn công an vì 1 vụ trộm đã bị công an đánh phải nhập viện

Em Ngô Đình Phát (11 tuổi, ở phường Thủy Xuân, thành phố Huế) bị bắt vào đồn công an vì 1 vụ trộm đã bị công an đánh phải nhập viện

Cái chết của ông Hạ đặc biệt đáng ngờ, nếu nói rằng ông chết do tự treo cổ. Người nhà ông tố cáo, khi trong quá trình khám nghiệm tử thi thì thấy từ phía cổ lên mặt ông bầm tím, sườn trái bầm tím, khiến người ta ngờ rằng ông chết do bị đánh đập hoặc bóp cổ chứ không phải do treo cổ tự sát. Sợi dây treo cổ tại hiện trường chỉ là sợi dây rút nhỏ ở quần và ông đứng sát vào song cửa sắt, chân chỉ cách mặt sàn 10 cm!

Trưa ngày 29/10/2014, cũng tại Hà Nội, lại xuất hiện vụ công an hành hung nhà báo. Công an ấy đã “lôi phóng viên Hoàng Văn Đức của báo Đại đoàn kết vào bốt, vừa vào tới nơi, anh Đức rút giấy giới thiệu ra thì đã bị cảnh sát lao và giật điện thoại, đồng thời có hai cảnh sát khác lao vào giữ tay, chẹn cổ, đánh đấm liên tiếp vào đầu, mặt và ngực ngay trước sự chứng kiến của phóng viên báo Kinh doanh và Pháp luật và nhiều người đi đường. Anh Đức kêu la và vùng chạy nhưng không thoát ra được. Đức bị hành hung dã man chỉ vì anh và đồng nghiệp đang ngồi uống nước ở chân cầu vượt Mai Dịch, Hà Nội thì thấy cảnh sát giao thông chặn một người đi đường, có sự giằng co và người điều khiển phương tiện bị ngã xuống đường nên anh muốn tìm hiểu tình hình. Nếu không có sự chứng kiến và can ngăn của PV báo Kinh doanh và pháp luật cùng nhiều người dân đi đường, tính mạng của PV Đức liệu có được bảo toàn trước “đòn thù” chỉ vì anh là nhà báo. (Theo Một thế giới).

Trong một thống kê chưa đầy đủ, từ 3/1 đến 8/8/2014 đã có ít nhất 17 vụ người dân bị chết trong đồn công an hoặc liên quan đến công an, trong đó có tới khoảng 7 vụ được công an nói rằng họ “tự treo cổ chết”, mặc dù khám nghiệm tử thi thì thấy trên mình họ đầy thương tích của sự tra tấn hết sức tàn bạo, chưa kể những vụ “tự ngã”, “nhảy lầu”, “sốc ma túy” , “vì súng cướp cò”…

Căn cứ danh sách những cái chết bất thường trong trụ sở công an do cộng tác viên của Pro&contra cung cấp, từ 8/8/ 2010 đến 18/8/2014 đã có tới 67 người chết theo dạng nói trên, trong đó có tới 36/67 trường hợp “tự tử”, trong đó có 29 người “treo cổ” ngay tại trụ sở công quyền hoặc trong buồng tạm giam của công an.

Thực trạng cho thấy sự tra tấn, dùng nhục hình , bức cung với công dân tại VN ngày càng tăng nặng và mang tính côn đồ, thậm chí trong một số vụ còn mang tính chất tàn bạo, thích tra tấn như trong cơn say máu.

Ngay cả trong ác mộng, người VN cũng không thể hình dung được trong đội ngũ những người ăn lương mồ hôi nước mắt của dân, tồn tại chỉ với lý do bảo vệ an ninh trật tự cho dân, mà lại có những công an đang tâm tra tấn, dùng nhục hình dã man với dân đến như vậy. Nguy hiểm thêm bởi sự ngang nhiên, thách thức dư luận của họ bởi họ được một hệ thống bao che thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật.

Còn tra tấn vì còn được bảo kê

Vì sao ngày càng có thêm nhiều công an dùng tra tấn, bức cung, nhục hình với dân?

Những công an độc ác với dân ấy ban đầu họ vốn không phải người xấu. Họ bắt đầu thay đổi khi cuộc sống đã dạy họ rằng cứ mặc sức làm việc ác, miễn là có lợi và được cấp trên cũng như hệ thống hành pháp bao che. Vì họ nắm súng và dùi cui trong tay nên họ là kẻ mạnh muốn đánh giết ai thì người đó phải chết, họ rất ít khi bị trả giá. Mặt khác, tình trạng bạo lực, tội phạm xã hội ngày càng nhiều, khiến họ phải nhận nhiều vụ việc bắt bớ ngăn chặn, trong khi họ không được đào tạo, kiểm soát đúng mức, thiếu hiểu biết về pháp luật nên họ bất chấp luật pháp.

Ai cũng biết, lực lượng tham gia tra tấn, bức cung…trong ngành công an thường được bảo kê, bao che trước hết bởi đồng nghiệp và cấp trên của họ. Khi một vụ việc xẩy ra, thường là cấp trên đổ tội cho nạn nhân và những nguyên nhân khác để thoát tội, thay vì điều tra làm rõ và khắc phục hậu quả. Đồng nghiệp biết cả, nhưng hoặc đồng lõa, ngại, sợ làm chứng hoặc nói lên sự thật thì bị trả thù. Chưa kể là việc dung túng của cơ quan điều tra – người cùng hội cùng thuyền với họ – khiến cho họ khi khoác chiếc áo đồng phục, cầm chiếc dùi cui trong tay là coi mạng dân như cỏ rác. Ngành kiểm sát và tòa án cũng nương tay xử nhẹ, chưa nói là thường xuyên bỏ lọt tội phạm.

Họ còn có thể tra tấn và giết dân nếu thích, bởi đa phần cấp trên của họ hết sức bao che vì đã ăn hối lộ, tay đã nhúng chàm, hoặc vì sợ trách nhiệm. Như thế, lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ của một nhóm người đã hình thành một thứ “quả bóng tuyết”, càng vận hành càng thêm tội trạng.

Và nguyên nhân lớn nhất của mọi nguyên nhân, chính thể chế độc tài đã vô hiệu hóa sự giám sát và thực thi pháp luật trong mọi ngành mọi lĩnh vực trong xã hội. Từ đó, hệ thống lập pháp, tư pháp và hành pháp VN tuy ba nhưng chỉ là một, vô hình trung những lỗ hổng của nó cũng bảo kê cho những kẻ tra tấn và dùng nhục hình với dân.

Vì thế, không ngạc nhiên khi ngày càng nhiều vụ “quan tài diễu phố”. Thật đắng cay cho phận người dân. Nhà có người chết đã phải chịu nỗi đau tột cùng, Mang quan tài diễu phố là điều hết sức khốn khổ  mà người dân thấp cổ bé họng buộc phải làm để đánh động dư luận, thức tỉnh các nhà chức trách vô cảm, mong trả lại chút công bằng cho người đã khuất mà thôi.

Bao giờ dân VN hết nạn bị tra tấn, bức cung nhục hình và quan tài  người chết oan không còn phải mang diễu phố, như một hình thức “kêu trời nhưng xa”?

*Nội dung bài viết không phản ảnh quan điểm của RFA.

VTH

NẾU CHÚA GỌI CON VỀ …

NẾU CHÚA GỌI CON VỀ …

Củ Khoai

Nếu bạn tin rằng bạn phải chết, rằng có một cõi đời đời, rằng bạn chỉ có thể chết một lần, và nếu [lúc bạn được Chúa gọi về] bạn có sai lầm lỗi, lầm lỗi ấy sẽ là mãi mãi, không thể sửa chữa lại được, tại sao bạn lại không biết lựa chọn để bắt đầu ngay bây giờ là làm tất cả với sức lực của mình để bảo đảm một cái chết tốt? – Thánh Alphonsus di Liguori.

Cái chết là một điểm dừng mà tất cả chúng ta ai cũng sẽ đến, và ai ai cũng biết điều đó, thế nhưng chúng ta lại làm tất cả để gạt nó sang một bên.  Chúng ta sợ nó đến nỗi chúng ta tìm mọi cách, thậm chí ngay cả mê tín dị đoan để thay đổi định mệnh của mình, tất cả để trốn tránh cái chết.  Thậm chí có nhiều nơi người ta mê tín đến nỗi đành lòng hạ danh giá của người con dâu đã có thai khi rước dâu về nhà bằng cách rước dâu vào ngõ sau để ngăn ngừa cái chết trong gia đình.  Đúng là một lối suy nghĩ ngớ ngẩn.  Sự chết là gì đối với mỗi người chúng ta mà tại sao chúng ta lại sợ nó đến như vậy?  Còn tệ hại hơn nữa là khi biết mình sợ cái chết mà còn dùng nó để lấn át và lấy quyền hành trên người khác. Thật sự chúng ta có bao giờ nhìn lại cái chết và tự hỏi nó có ý nghĩa gì đối với mỗi người chúng ta?  Có bao giờ chúng ta mang nỗi sợ hãi ấy vào cầu nguyện xin Chúa dạy cho chúng ta biết sự thánh thiêng của cái chết, để rồi chúng ta không lạm dụng nó cũng như không để nó làm chủ đời mình một cách ngớ ngẩn không?

Chúng ta thường nói “Sống gửi thác về”, nhưng trên thực tế con người chúng ta không thật sự đón nhận hành trình đi về đó.  Chúng ta chưa nhìn cái chết như là một cái gì đó thánh thiêng để rồi chúng ta biết đón nhận nó như là một ân huệ quý báu Chúa ban.  Nếu chúng ta biết đón nhận, chúng ta mới biết nhìn sự chết như là một người bạn thân luôn đồng hành với mình trên mọi ngóc nghách của cuộc sống. Thật sự nó là như vậy.  Cái chết chẳng bao giờ rời ta và luôn theo ta như hình với bóng cho đến khi chúng ta được Chúa gọi về.  Cái “Chết” như là một người bạn đồng hành thiêng liêng luôn thúc đẩy chúng ta hướng đến sự hoàn hảo và tinh tuyền của tạo dựng và cái giá cứu chuộc của Con Một Thiên Chúa.  Qua đó sự “Chết” sẽ giúp chúng ta chọn cách sống cho mỗi một hơi thở trong cuộc đời.

Chúng ta nhìn lại cuộc đời của Chúa Giêsu khi xưa Ngài sống mọi giây phút trong cuộc đời làm người với Thiên Chúa Cha.  Nhưng khi phải đối diện cái chết, Ngài cũng tỏ ra sợ hãi trong cái yếu đuối của một con người, và Ngài đã xin các môn đệ ở với Ngài.  Nhưng sau khi vật lộn với sự yếu đuối đó, Ngài đã chọn đối diện cái chết của Ngài với Thiên Chúa Cha và Ngài đã xin uống chén đắng đó theo ý Cha Ngài (cf. Lc 22:42).  Khi Chúa Giêsu đón nhận cái chết theo ý Cha Ngài, Ngài đối diện với những gì sẽ tới (bắt bớ, sỉ nhục, đánh đòn, vác thập giá, và đóng đinh) trong bình an.  Hơn nữa, trên thập giá Ngài đã chọn để được chết ở trong tay Cha Ngài, “Lạy Cha Con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nếu Chúa Giêsu là người cho chúng ta thấy chúng ta có thể đối diện với sự chết trong tâm tình tin yêu và phó thác, mỗi ngươi chúng ta cũng được mời gọi để xin ơn để bắt chước Ngài.

Như vậy thì mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta hãy xin ơn để được đồng hành với người bạn đời “Chết”, và xin Chúa dùng bạn “Chết” để nhắc nhở chúng ta phải sống với Chúa hôm nay như thế nào hầu chúng ta biết sẵn sàng đáp lại khi Ngài hỏi ta, “Con ơi, con đang ở đâu và đang làm gì?”, và chúng ta có thể trả lời với Ngài rằng, “Con đang ở trong sự hiện diện của Cha”.  Lắm lúc chúng ta nghĩ là chúng ta chỉ có thể ý thức được rằng chúng ta đang sống trong sự hiện diện của Chúa khi chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, hoặc tham dự thánh lễ, nhưng đó chỉ là một phần cuộc sống của chúng ta.  Chúng ta có thể chọn để ở trong sự hiện diện của Chúa trong mọi nơi mọi lúc.  Chẳng hạn như chúng ta chọn để lo lắng và chú ý đến con cái và người thân, hơn là để mình bị thu hút vào TV, ngay cả khi mọi người đang cùng ngồi coi TV chung với nhau.  Hãy để ý đến những tâm tình khó chịu, không muốn rời TV khi ai đó đang cần sự giúp đỡ của ta, và xin ơn để được đáp trả nhu cầu của người thân trong yêu thương hơn là bị bắt buộc.

Vì nếu chính lúc này, Chúa gọi chúng ta về và hỏi, “Tâm tình con đang ở đâu với Cha?” thì câu trả lời sẽ tùy thuộc vào lựa chọn của mình trong lúc ấy.  Câu trả lời đó có thể là “Con đang kiềm chế sự khó chịu của con để con được nhìn thấy và phục vụ Chúa trong người thân”, hay là “Con đang thật sự cảm nhận ra tình thương của Chúa dành cho con qua người bạn” hay là “Con đang mệt mỏi bực bội vì đứa con của con không cho con ngồi yên để coi TV” hay là “Con đang ngồi coi bộ phim không tốt cho lứa tuổi của các con của con, nhưng vì con chưa có biết hy sinh và nhà chỉ có một cái TV nên con cứ để cho các con của con cùng coi” hay là “Con đang giận đội banh kia tại vì chúng chơi dở mà con đang bị thua độ.”  Câu trả lời nào là câu trả lời của mỗi người trong giờ phút linh thiêng ấy?

Trong phong tục Á Đông của chúng ta cũng thường hay dùng cái chết để đoạt lấy quyền hành trên người khác, hay làm khuất đi những gì chúng ta không muốn nhìn thấy.  Những người trẻ đang yêu thì dùng cái chết để đe doạ, để đòi hỏi được chiều chuộng hay muốn được lấy người kia làm sở hữu.  Còn những bậc cha mẹ lớn tuổi thì dùng cái chết để bắt con cái làm theo những gì mình muốn để xoa dịu nỗi âu lo hay xấu hổ của mình khi mình không còn một cách khuyên bảo nào khác.  Có những bậc cha mẹ muốn thấy con cái mình lập gia đình trước khi mình chết để cho mình cảm thấy được yên thân và an tâm, và dùng sự gần đất xa trời để cố tình đẩy con mình vào một tình cảm mà mình cảm thấy không có ổn.  Và cũng có những cha mẹ dùng tuổi tác già nua của mình để bắt con cái phục tùng và làm như ý mình muốn.  Ở đây chúng ta không nói là mình không nên lo lắng cho con cái, nhưng chúng ta cũng nên dâng sự lo lắng và xấu hổ của mình cho Chúa.  Chúng ta xin ơn để nhận ra rằng trước khi con mình là con của mình, con mình đã là con của Chúa, và khi mình muốn cho con mình được tốt đẹp hoàn hảo thì Chúa là Đấng Sinh Thành còn muốn cho đứa con của Ngài được tốt đẹp và hoàn hảo gấp bội.

Ước gì mỗi người chúng ta biết ngồi lại và suy tư về cái chết với Chúa, và xin Ngài dạy cho chúng ta ý nghĩa và sự thánh thiêng của sự chết, để qua sự hiểu biết đó chúng ta biết chọn sống mỗi giây phút với Ngài hầu chúng ta cũng được ngồi trong lòng Tổ Phụ Abraham như anh Larazô nghèo khó trong câu chuyện “Người phú hộ và anh Larazô” ở Luca chương mười sáu.

Củ Khoai

Tôi đi viếng mộ …

Tôi đi viếng mộ …

dongten.net

Tại những nghĩa trang,

… thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc,
tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Thầy thương con, Thầy thương mọi người!

Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn.

Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo.
ảo về mình.
ảo về những công việc của mình.
ảo về người khác.
ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:

Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương.

Như lời Chúa kêu gọi:
“Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

Từ Ân

Tháng các linh hồn 2014: Chút lời giã biệt

Tháng các linh hồn 2014: Chút lời giã biệt

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Thế là em đã ra đi được gần trăm ngày! Theo phong tục Việt Nam, người ta tin rằng linh hồn người chết còn quyến luyến người thân, “hồn vía còn nặng” chưa thể siêu thoát được, vẫn còn luẩn quẩn xung quanh nhà. Nước mắt đã lăn dài, lời kinh nấc nghẹn khi hồi tưởng lại, mới gần trăm ngày thôi mà đã như ngàn thu sâu thẳm! Một trăm ngày để những nỗi đau mất mát tạm thời lắng xuống, để hình ảnh người thân dần dần mờ nhạt trong tâm tưởng những người còn sống và người chết hòa dần vào cõi thinh không, hư ảo.

Những lời kinh nguyện tắt dần trong lời thầm thĩ kêu xin: “Giêsu-Maria-Giuse xin cứu rỗi linh hồn Maria. Giêsu … Maria… Giêsu … Maria…”. Chiều nghĩa trang trở lại vẻ yên ắng, tịch mịch thường ngày. Chỉ có những làn hương khói lan tỏa nhẹ nhàng trên mộ em và những ngôi mộ “hàng xóm” trong ngày đầu tháng các linh hồn – tháng cuối năm phụng vụ Giáo Hội dành để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.

Như một cơn mê, em đã cố không nhắm mắt sợ rằng mình sẽ ngủ một giấc thật dài trong khi ngày mai còn bết bao nhiêu chuyện phải lo toan như đã từng lo toan kể từ khi khôn lớn. Mệt lắm, nhưng em chỉ an tâm nhắm mắt khi còn thấy khuôn mặt những đứa em đã gắn bó với những hỉ, nộ, ái, ố một thời trong cuộc sống và an tâm sẽ được gọi dậy để tiếp tục những công việc trần ai còn dang dở.

Sự sống này chỉ thay đổi mà không mất đi.

Lúc con người nằm yên giấc ngủ,

mắt nhắm lại rồi là thấy tương lai.

Trọn kiếp người nay không còn nước mắt, nụ cười.

Nhưng con tin rằng ngày mai trong Chúa

Chẳng có chia lìa, chẳng có hợp tan.

(Sự sống thay đổi – Phanxicô – TCCĐ)

Không còn được nghe em kể về hai thiên thần áo trắng giúp em trong cơn đau vật vã khi xét nghiệm cô đơn trên giường bệnh. Không còn nghe tiếng em trong phone mỗi khi có việc cần chia sẻ… Suốt đời tảo tần như một “chị hai” trong nhà, lúc lấy chồng lại lo cho chồng con. Ngày ngày đi về như con thoi giữa gia đình chung và gia đình riêng trong việc mưu sinh cơm áo. Những ngày cuối đời tưởng như đã nắm được chút hạnh phúc khi trong tay đã có tấm hộ chiếu thì căn bệnh quái ác đã cướp đi tất cả. Thôi thì tấm hộ chiếu theo em như một nỗi hạnh phúc mang theo những ước mơ của một kiếp người!

Nhưng quý giá hơn cả là tấm ”hộ chiếu nước Trời” mà em đã được lãnh nhận từ tay vị Linh mục đại diện Chúa Kitô và Hội Thánh trong nghi thức xức dầu và rước Mình Thánh Chúa vào lòng: ‘‘Chúng ta cùng nhau đến đây vì danh Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã cho người đau yếu được lành mạnh. Chính Ngài đã chịu đau khổ vì phần rỗi chúng ta. Ngài đang ở giữa chúng ta lúc chúng ta nhắc lại lời Thánh Giacôbê tông đồ: ‘Ai trong anh em phải yếu liệt, hãy mời các vị thay mặt Hội Thánh đến, họ hãy cầu nguyện cho người ấy, sau khi xức dầu nhân danh Chúa. Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy, và nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha.’ (Gc 5,14-15). Chúng ta hãy phó thác người chị em của chúng ta nơi ơn lành và quyền năng Chúa Giêsu Kitô, xin Chúa làm cho bớt đau đớn, ban cho được lành mạnh và được cứu rỗi.’’

Bóng hoàng hôn đang bảng lảng trên những đôi vai thập giá, nơi đây sao cô tịch, sao thinh lặng quá! Không còn những tất bật ngược xuôi trên những dặm đường đời mưu cầu áo cơm hạnh phúc. Không còn những hạnh phúc ấm êm đầy ắp những tiếng cười, không còn lo toan, không còn hưởng thụ … Chết là bắt đầu cuộc sống mới. Ở đây ai cũng như ai, ai cũng yên nghỉ bình đẳng chờ đợi sự thay đổi cuộc sống. “Thác là thể phách, còn là tinh anh”, thể phách ngày xưa do Chúa tạo dựng đẹp đẽ nhường nào giờ đây đã và đang trong tiến trình phân hủy để trở về kiếp tro bụi.

Khi còn sống, thân xác được dành nhiều ưu tiên: nào là ăn ngon, mặc đẹp, nào là địa vị, tiền tài, danh vọng … Trên dương thế hồn nhờ xác rất nhiều. Các việc lành thân xác làm đều mang lại lợi ich cho linh hồn, việc dữ thân xác làm gây họa cho sự sống trường sinh. Còn hơi thở, xác hồn gắn bó. Hết hơi rồi, hồn xác tạm chia lìa. Đâu còn thân xác để “Lạy Chúa Trời xin mở miệng con, cho con vang tiếng ngợi khen Ngài”, đâu còn thân xác để làm những việc lành thu công, tích đức! Bấy giờ hồn không thể tự giúp mình đền tội được vì “đêm đến, không ai có thể làm việc được” (Ga 9,4) và chỉ trông chờ vào những việc lành phúc đức, những lời kinh nguyện cầu của những người còn sống để giúp hồn đền bồi những khinh tội chưa được tha và các tội khác đã được tha nhưng chưa đền tội đủ vì “nhân vô thập toàn” trong cuộc sống lữ hành.

Vậy là ngày lễ các linh hồn năm nay, không còn thấy bóng dáng em lúp xúp cắm những nén nhang trên mộ Cậu, em Hiển và những người thân quen tại nghĩa trang Giáo xứ. Không còn cùng gia đình bên những phần mộ dâng lên những lời kinh nguyện cầu cho những người thân và những người đã qua đời. Em đã về với chồng nơi nghĩa trang của những người đồng hương cho vẹn tình phu thê, dâu thảo. An táng là chờ ngày sống lại vinh quang. Nghĩa trang nào cũng là nơi an nghỉ, chờ đợi ngày phục sinh. Nơi an nghỉ chỉ là cửa ngõ để bước vào sự sống vĩnh cửu vì chúng ta đã và đang sống trong niềm tin vào Đấng đã phục sinh từ cõi chết là Đức Kitô.

Xin tạm biệt em yêu, tạm biệt những người thân và những người chưa quen chốn này. Xin mọi người hãy nghỉ ngơi thanh thản trong Chúa như Lời Ngài đã phán: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28). Chúa là cùng đích và là niềm hoan lạc đời đời của con người. Chúng ta đã được Chúa tạo dựng theo hình ảnh của Ngài và chúng ta phải trở về với Ngài. Ngoài Chúa ra, không có gì tồn tại mãi mãi. Có Chúa mới có hạnh phúc thật. Chính Thiên Chúa đã phán: “Đích thân Ta sẽ đi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.” (Xh 33, 14). Hẹn gặp nhau trong những lời kinh nguyện hiệp thông và ngày cánh chung sum họp chắc chắn sẽ đầy ắp những nụ cười thay cho những giọt nước mắt ngày chia xa tiễn biệt.

Jos. Hoàng Mạnh Hùng

Kiếp Người Như Vó Câu Dồn

Kiếp Người Như Vó Câu Dồn

(Tháng các linh hồn):

Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC


Tâm tình của tháng 11, tháng nhớ đến Các Đẳng Linh Hồn, Mẹ Giáo Hội nhẹ nhàng mời gọi con cái mình dừng lại trong chút nghĩ suy, nghĩ suy về sự đời và nghĩ suy về sự người. Và kìa! Có ai đó khi suy nghĩ về sự đời họ phải thốt lên: “Sự đời như thể phù vân, can qua cũng chỉ dăm ba tiếng cười”. Và nơi ai kia, khi nghĩ về sự người, họ cũng cho rằng : “Đời người như áng phù vân, Sáng còn tối mất, lựa lần mà chị”. Xin được góp nhặt một vài suy tư nho nhỏ, để cùng chung chia với nhịp sống đạo đức hướng về các Đẳng Linh Hồn.

Thời gian

Khi suy nghĩ về thời gian, suy nghĩ về kiếp người, một người “kinh bang tế thế”(trị nước, giúp đời) như Cao Bá Quát phải thừa nhận : “Ba vạn sau nghìn ngày là mấy”(100 năm là mấy).

Quả thật, người ta thường cho rằng, thời gian là món quà của cuộc sống. Cũng thế, trong tiếng Anh, thời gian của giây phút hiện tại được gọi là Present, cũng có nghĩa là món quà… Nhưng nếu chỉ dừng lại ở “món quà” thì hình như chỉ đi vào ngõ cụt, không đi tới đâu.

Thiện chí mời gọi ta bước tiếp trên dòng kiếm tìm. Vậy món quà ấy ai là chủ nhân, ai là người ban tặng và ai là người sáng tạo? Như vậy, thời gian còn là một mầu nhiệm, vì thời gian không phải con người làm ra, hay do khoa học tổng hợp lên…

Chỉ có trong thơ ca mới nói: “ tôi muốn tắt nắng đi…tôi muốn buộc gió lại..” Làm sao ta có thể tắt được nắng, làm chi có chuyện buộc gió lại; cũng như con người nào có thể ngừng được thời gian. Vì thời gian là quà tặng nhưng không, quà tặng do ân huệ của Thiên Chúa. Con người chỉ đưa tay ra đón nhận với lòng khiêm tốn mà thôi.

Và như vậy bạn cũng đừng nên cao rạo rằng: “ Bàn tay bạn làm nên tất cả, có sức người sỏi đá cũng thành cơm…”. Bạn đâu có làm nên được tất cả, bạn chỉ cộng tác đôi chút công sức thôi chứ. Ai cho ban sức khỏe, thì giờ và điều kiện….Bạn có thể làm ra được thời gian? Bạn có thể làm cho “Mặt trời mọc lên rồi lại lặn xuống, trở về chỗ cũ nơi nó lại mọc lên.”(Gv1,3). Bạn nên nhớ, bạn là một kiếp người. Mà đã là kiếp người thì có: “ một thời để chào đời, một thời để lìa thế”(Gv 3,2).

Mau Qua của kiếp người

Cùng với thời gian, con người bị cuốn trôi theo dòng chảy của nó. Khi suy tư về kiếp chóng qua mau tàn của con người, tác giả Vịnh ca sánh ví: “Ấy con người khác chi hơi thở, vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu(Tv 144,4). “Bóng câu” là gì vậy? Thưa là bóng của một con ngựa câu(ngựa mới lớn) nó chạy vụt qua rất nhanh.

Như trong Hán văn cổ hay nói : “Bóng câu qua cửa sổ” nghĩa là Bóng con ngựa chạy ngang qua cửa sổ rất nhanh, không thể thấy kịp. Cũng vậy, lời bài hát cầu hồn có đoạn: “Như vó câu dồn tựa thoáng mây bay…”. “Vó câu dồn”, đó là một cụm từ hình tượng và ẩn thanh. Khi ngựa câu chạy nhanh, tiếng vó đập xuống nền đường một cách rất dồn dập, khiến cho tiếng kêu lộp cộp vội vàng hơn. Vì thế, ví đời người trôi qua cũng nhanh như vậy, như là bóng câu, như vó câu và như hơi thở…

Cũng vậy, khi nói về kiếp mau qua ấy của con người, có ai đó còn ví von: đời như mây trôi khi kết khi hợp, đời như hoa phù dung sớm nở tối tàn và đời như làn khói trước một cơn gió biến tan… Triết lý nhà Phật cho rằng: “ cuộc đời sắc sắc không không”. Nghĩa là có đó rồi lại không đó, cuộc đời như ảo ảnh là vậy. Sự khôn ngoan của tác giả Vịnh ca một lần nữa soi sáng cho chúng ta:

“Nào phàm nhân sống mãi được sao

mà chẳng phải đến ngày tận số? (Tv 49,10)

Sự chết quả là thầy dạy của chúng ta. Sự chết làm cho người đạo đức thêm hy vọng, mời gọi người tội lỗi quay về nẻo chính đường ngay và dập tắt sự sống đời thế tạm.

Có một câu chuyện kể rằng: Một vị hoàng thượng Ấn Độ, cho vời một Thiền sư có tiếng trong đất nước đến gặp ngài. Gặp vị Thiền sư, hoàng thượng này hỏi rất nhiều chuyện. Nào là chuyện thế gian, nào là chuyện thế ngay…. Sau cùng, vị hoàng thượng ấy bèn hỏi một câu cuối cùng: “Xin Thiền sư cho biết, điều gì làm cho Thiền sư thấy lạ nhất trong cuộc đời này?” Vị Thiền sư trả lời: Tâu bệ hạ, điều mà hạ thần thấy lạ nhất trong cuộc đời này là “ai cũng phải chết cả, mà họ cứ sống như không bao giờ phải chết!”. Vị hoàng thượng bèn ôm lấy Thiền sư và nói : ta cũng nghĩ như ngươi.

Quả thế, nếu như ai cũng luôn ý thức mình phải chết thì họ sẽ xa tránh dịp tội dễ dàng . Một số vị thánh trong Giáo Hội dùng sọ người để suy ngắm về sự chết, như thánh Thánh Sác-lơ Bôrômêô, thánh Giêrônimô…

Ngày xưa khi học Giáo lý, ông bà Quản Giáo dạy thiếu nhi của mình thuộc nằm lòng về tứ chung, tức bốn sự sau hết. Bốn sự sau hết đó là: chết, phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.

Con người do bản tính : “hay sai lỗi và dễ quyên lãng”. Cho nên, Chúa Giêsu đã thiết lập hẳn Bí Tích giải tội để không mệt mỏi tha thứ cho con người. Giáo Hội dành riêng tháng 11 để kính nhớ các Đẳng Linh Hồn, đây cũng là lời nhắc nhở của Mẹ Giáo Hội cho ta luôn ý thức “một cõi đi về”.

Trong Phụng Vụ Giờ Kinh, Giáo Hội hằng cất cao Vịnh ca 49. Vịnh ca ấy mời gọi con người hướng suy tư về tứ chung:

“Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết,

kẻ ngu đần dại dột cũng tiêu vong,

bỏ lại tài sản mình cho người khác…”

Ý thức được sự mau qua của thời gian, chóng tàn của kiếp sống con người, còn giúp chúng ta có cơ hội tăng thêm lòng tin, sự phó thác và lẽ cậy trông. Chúng ta cũng được gọi mời nghĩ về ta cũng như nghĩ về tha nhân. Hơn bao giờ hết, tôi có bổn phận nghĩ đến những người đã ra đi trước tôi, để cầu nguyện cùng, cầu nguyện với và cầu nguyện cho họ.

Người sẽ chết cầu nguyện cho người đã chết

Khi còn là một chú Đệ tử, cha Giám đốc Gioan Hoan Nguyễn Hữu Vịnh dạy chúng tôi rằng:

“Đời Tu hai đích nhắm luôn

Làm vinh Danh Chúa, cứu hồn người ta”.

Ngài hằng gọi mời và khuyến khích chúng tôi nhớ đến các Đẳng Linh Hồn. Họ là Bố Mẹ, Ông Bà, Tổ Tiên…chúng ta. Ngài chỉ vẽ ra những thiện ích giúp cầu nguyện hiệu quả cho các Đẳng.

“Cứu Hồn Luyện Ngục: Cầu Kinh,

Thánh Lễ, Bố Thí, Hãm Mình, Ơn Tha.

Cứu hồn trong lửa Luyện Tội gồm có 5 việc: đó là đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, hy sinh hãm mình, làm phúc cho người, và nhận lãnh các Ân xá để nhường lại cho các Đẳng Linh Hồn.

Tôi còn nhớ, năm Triết I của tôi tại Đại Chủng Viện Xuân Bích- Huế, cha Giám đốc G.B. Nguyễn Văn Đán, Ngài dạy chúng tôi bộ môn: Phụng Vụ Nhập Môn. Cha kể cho chúng tôi nghe câu chuyện, khi dựng nhà thờ Phát Diệm, cụ Sáu vốn là người sùng kính các Linh Hồn, để đưa các cây cột lim to, nặng vào vị trí cách nhẹ nhàng thì mọi người phải nhất tề phải hô to: “Lạy các đẳng linh hồn, xin nâng lên giúp con”. Và cứ như thế, các hàng cột chẳng những dựng được lên nhẹ nhàng mà còn an toàn nữa. Cha giáo Đán kể tiếp: Cụ Sáu sùng kính các Đẳng Linh Hồn cách riêng, Ngài khuyên các giáo hữu của Ngài, khi bước chân đến nhà thờ để đọc kinh, tham dự Thánh Lễ, giáo hữu không được chuyện vãn, thay vì nói chuyện thì đọc kinh từ tư gia cho đến nhà thờ…để cầu cho các Đẳng.

Lậy Chúa, xin cho các Đẳng Linh Hồn được nghỉ yên muôn đời, và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ầy.

Tu sĩ Vinhsơn Nguyễn Văn Hanh CSC.

NGUỒN NƯỚC MẮT

NGUỒN NƯỚC MẮT

ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh.  Trong số đó, có một thứ hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ.  Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.

Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang.  Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.

Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để tìm cảm nghiệm.  Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang.  Tôi đã nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình yêu”.

Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang.  Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.

Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.

Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.

Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.

Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.

Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.

Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.

Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:

Khám phá ra những chân lý nhân sinh.

Khám phá ra những hy vọng ứu độ.

Khám phá ra chính mình.

Khám phá ra chân lý

Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết.  Tiễn biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi.  Sự chết là một sự thật không cần bàn tới.  Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.

Bất cứ ai, rồi cũng phải chết.  Cái chết đáng sợ.  Nhưng đáng sợ hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ.  Biết đâu, trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.

Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình.  Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu đó.  Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói.  Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.

Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham.

Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.  Dưới địa ngục, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở trên đàng xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ.  Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.

Ông Abraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước của con rồi.  Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh.  Bây giờ Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ.  Hơn nữa, giữa chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (Lc 16,19-26).

Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng.  Ai cũng phải chết.  Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự con người suy nghĩ.  Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai.  Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục.  Chỉ vì sống thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương.  Trái lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng.  Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật.  Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.

Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang.  Những chân lý đó đã thay đổi đời họ.

Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.

Khám phá ra hy vọng

Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về.  Họ đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó.  Người đó cầu nguyện cho họ.  Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.

Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ.  Chúa an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc.  Người đau ốm mới cần.  Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu cần của lễ.  Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mt 9,12-13).

Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ.  Cõi lòng vốn đóng kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn vào.

Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương.  Họ sám hối.  Họ cảm thấy mình được tha thứ.  Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ.  Một sự bình an lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ.  Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót.  Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.

Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt.  Những dòng nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.

Khám phá ra chính mình

Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi người.  Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn.  Khám phá ra chính mình trong sự thực trần trụi.

Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo.  Nhìn ảo về mình.  Nhìn ảo về những công việc của mình.  Nhìn ảo về người khác.  Nhìn ảo về cuộc đời.

Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:

Gọi hãy cảm thương.

Gọi hãy chia sẻ.

Gọi hãy trở về.

Gọi hãy hiến dâng.

Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.

Gọi hãy sám hối và tín thác.

Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.

Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong tình Chúa yêu thương.  Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).

ĐGM Gioan B. Bùi Tuần

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Quy tắc ứng xử

Quy tắc ứng xử

Chuacuuthe.com

VRNs (02.11.2014) – Sài Gòn – Báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ sáu 31 tháng 10 năm 2014 có bài ở trang 17 nói về việc UNND.TP.HN. cùng các lãnh đạo khác trong TP nghe Sở VH-TT & DL trình bày về Bộ quy tắc ứng xử trong các cơ quan hành chính, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, khu dân cư, nơi công cộng trong địa bàn TP. Nội dung bài báo ghi nhận ý kiến của một số các giáo sư, các nhà văn hóa và nghệ sĩ, …

Cùng với bài báo này nơi trang 1, phần giới thiệu, báo Tuổi Trẻ đăng hình những thanh niên lao xuống sân thể thao giằng cây vợt của 1 vận động viên đang dùng với ghi chú: Khán giả xuống sân giật vợt, túi xách, của các vận động viên nước ngoài. Thời điểm bức hình là cuối tháng 3 năm 2014, vận động viên bị giật vợt là Yano (Nhật Bản), nơi giật Hà Nội, giải cầu lông HN. mở rộng.

Chắc chúng ta không quên những hình ảnh dân Hà Nội tranh nhau hái sạch hoa Anh Đào trong một dịp triển lãm hội Hoa Anh Đào Việt Nhật năm nào, và sân Mỹ Đình thành bãi rác khổng lồ sau một lễ hội cách đây mấy ngày. Đấy là cách ứng xử với các sinh hoạt văn hóa của dân mang tiếng là cư dân của thủ đô, cư dân của đất Hà Thành văn hiến.

Chắc chắn ai trong chúng ta cũng phải đồng ý rằng, mọi bài học về giáo dục công dân, phép lịch sử hay cách ứng xử văn minh đều vô ích nếu những người lớn không làm gương sáng nhưng lại làm gương xấu. Làm sao một em nhỏ lớn lên có đủ khả năng ứng xử văn hóa giao thông khi mỗi ngày trên đường đi học ba mẹ em chạy xe vượt đèn đỏ, chen lấn vượt tuyến, phản ứng thô lỗ với khách giao thông khi có va quẹt? Làm sao một em nhỏ có thể có ứng xử có văn hóa khi chính ba mẹ em quăng rác ra đường, khạc nhổ bừa bãi, chen lấn không xếp hàng nghiêm chỉnh? Cái gương của người lớn quan trọng hơn bài học ở bất kỳ môi trường nào. Tệ hơn nữa sẽ khó có một công dân trong sạch khi ba mẹ công dân đó sử dụng bằng giả, chạy chức chạy quyền, đưa và nhận hối lộ, tổ chức tham nhũng tinh vi, nhưng vẫn lên mặt giảng bài đạo đức cách mạng.

Một thể chế không minh bạch, mờ ám trong mọi lãnh vực, ứng xử “mạnh được yếu thua” không thể đưa ra bài học đạo đức có hiệu lực với xã hội. Còn đó vườn hoa được hô biến từ đất Tòa Khâm sứ Công giáo, cuộc thi công vội vã ngay sau khi ông thủ tướng đến thăm Đức Tổng Kiệt với lời hứa giải quyết (năm 2009). Cũng còn đó, lại là vườn hoa phố Nguyễn Lương Bằng được phù phép từ đất của Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, khi ông Trung Tướng Cục An Ninh vào tận Saigon hứa với vị Giám Tỉnh DCCT. và ông Thiếu tướng Giám đốc CA Hà Nội gọi điện cam kết chưa ráo miệng (năm 2009). Mấy ngày nay đất hồ Ba Giang được thi công nhanh chóng để biến thành vườn hoa, hàng loạt những văn bản làm giả chữ ký hiến đất của Cha già Giuse Vũ Ngọc Bích một cách trơ trẽn, chữ ký hiến đất ghi ngày tháng trước cả các văn bản của các loại ủy ban ở Hà Nội công nhận chủ quyền đất hồ Ba Giang của DCCT!

Bao lâu còn những hoạt động kiểu này, kiểu cướp công khai giữa ban ngày, thì đừng mong bộ quy tắc ứng xử sẽ có hiệu lực cho dù là một chút nhỏ nhoi ở cái đất nghìn năm văn hiến này.

Ngày lễ các Thánh 2014

Đình Trung.

‘Bán danh…ba đồng!’

‘Bán danh…ba đồng!’

Nguoi-viet.com

Huy Phương

Tháng rồi, gia đình tôi gửi về cho cô em ở Sài Gòn một thùng quà 24 lbs từ một dịch vụ gửi hàng về Việt Nam tại Little Saigon. Sau một tuần, qua điện thoại trao đổi hai bên, chúng tôi biết thùng quà bị lấy mất 2 chai thuốc Glucosamine, một loại thuốc nghe nói rất đắt khách tại Sài Gòn hiện nay, và hai hộp cheese đầu bò, là loại “bơ thừa sữa cặn” nhân viên quan thuế trong nước hiện nay vẫn còn thèm thuồng.

Kiều Trinh, con gái một quan chức cao cấp của đảng,
từng ăn cắp trong các chuyến công tác nước ngoài.

Tôi biết thùng quà không bị moi từ đại lý ở Mỹ, vì người Việt ở Mỹ không có thói ăn cắp vặt, và cũng đã chán bơ, sữa. Thùng quà về Tân Sơn Nhất bị những tay kẻ cắp chuyên môn rạch một đường dài rất khéo và dán băng keo lại sau khi dùng bàn tay mò mẫm để định giá món hàng cần phải lấy, và cũng có thể chúng mở thùng ra đàng hoàng và dán lại. Ai có thể khiếu mại đôi co với chúng khi nhận được thùng quà đã bị ăn cắp này?

Câu chuyện ăn cắp ở phi trường Tân Sơn Nhất đã được một em bé lớp ba trong nước, làm luận văn mô tả câu chuyện ba em, làm việc tại phi trường, mỗi chiều về nhà, đều mang theo một bịch đồ lấy cắp của khách hàng, từ chai thuốc bổ, mỹ phẩm cho đến chiếc cell phone, chiếc quần jean và mẹ em có nhiệm vụ đem hàng đi bán lấy tiền. Vì chuyện này, ba em thường bị ông nội em phàn nàn, khiển trách (trong xã hội này mà còn được một ông nội như vậy sao!)

Ông Cao Huy Huân, một người ở trong nước, đã mô tả chuyện ăn cắp ở hàng không Việt Nam: “Chả là bạn học chung với tôi ở Mỹ lần đó bay về Việt Nam thăm gia đình vào dịp HÈ. Trong vali hành lý có mang theo một chiếc máy ảnh cổ nghe nói là trị giá cả 9 nghìn đô la Mỹ, mang về hộ cho một người bạn. Khi đến sân bay Nội Bài, cậu phát hiện hành lý mình có dấu hiệu bị xâm phạm nên mở vali ra xem thì mới biết chiếc máy ảnh đó cùng một vài chai nước hoa hàng hiệu đã không cánh mà bay. Cậu liên hệ các bộ phận ở sân bay thì đều bảo là không nhìn thấy, không biết gì cả. Vốn biết nét đặc sản tai tiếng này ở các cảng hàng không Việt Nam nên cậu lập tức gọi điện thoại cho người thân vì cậu có người thân làm quan chức cao cấp trong một bộ ở Hà Nội. Chỉ chưa đầy 10 phút sau, một nhân viên kiểm tra hành lý đã tay xách nách mang đem ra trả cho anh chàng đầy đủ máy ảnh và số nước hoa trên, còn xin lỗi rối rít. Cũng chẳng mất mát gì nên cậu cũng im lặng cho qua. Thế nhưng câu hỏi đặc ra là nếu như cậu bạn đó không có người thân là quan chức cấp cao thì số hành lý đó sẽ ra sao?”

Một chuyện ăn cắp “quốc tế” là mất mặt đảng nhất là chuyện Kiều Trinh, một đảng viên, trưởng phòng Văn Hóa Dân Tộc (!) của một đài truyền hình mà cha cô là Vũ Văn Hiến, ủy viên Trung Ương Đảng, làm tổng giám đốc! Năm 2001, Kiều Trinh nhám tay ăn cắp một số mỹ phẩm khi cô được bố cử đi công tác ở Thụy Điển. Năm 2009, khi sang Anh, Kiều Trinh lại giở trò cầm nhầm mấy cái máy ảnh digital. Cả hai lần, vì là con của ủy viên Trung Ương Đảng, cô được các tòa đại sứ CSVN tại địa phương “cứu hộ,” tận tình, thậm chí có cả giấy chứng nhận Kiều Trinh đang mắc bệnh tâm thần từ trong nước gửi ra. Về nước, chưa chừa thói ăn cắp, tại thành phố Vinh, Nghệ An, Kiều Trinh lại tuồn áo quần vào váy, lần này camera cửa hiệu thu hình đầy đủ và đưa lên Internet.

Vậy mà ông bố có đứa con gái làm nhục quốc thể vẫn là khuôn mặt của Trung Ương Đảng CSVN, kẻ cắp quốc tế mỗi đêm vẫn lên đài truyền hình dạy dỗ người ta cái gọi là “văn hóa dân tộc.” Cả nước khinh bỉ chúng nhưng chúng không hề có chút liêm sỉ để hổ thẹn.

Một nhân viên đài truyền hình có hồ sơ trọng tội, xấu xa như vậy phải được đưa ra khỏi ngành, một đảng viên có thành tích ăn cắp bỉ mặt như vậy phải bị khai trừ khỏi đảng. Một tổng giám đốc đài truyền hình có nhân viên làm xấu ngành nghề, một người cha có đứa con làm nhục cha ông như Kiều Trinh, nên biết tự xử như một người có nhân cách.

Tội nghiệp thay, cha con nhà này cũng như cả đảng nhà nọ, vẫn coi đây là chuyện thường tình. Không ai còn biết liêm sỉ, chẳng ai còn biết đến chuyện xấu hổ nữa chăng? Cả ai nửa, đã bổ nhiệm Vũ Văn Hiến vào chức vụ tổng giám đốc Đài Truyền Hình Việt Nam, kẻ đã đem con vào giữ một chức vụ trưởng phòng trong đài, đã dùng tiền dân đóng thuế để cử con đi công cán ở ngoại quốc, làm xấu mặt cho người Việt Nam. (*)

Thằng nhỏ làm công nhân, buổi sáng đem một lon nhôm đựng cơm trưa, buổi chiều về nhét đầy một lon xi măng, đinh sắt. Thằng lớn tổng giám đốc ăn theo chức tổng, thằng thủ kho kiếm chác theo thủ kho, thằng bảo vệ sống nhờ mánh mung bảo vệ. Ăn cắp để bảo vệ chức vụ và nghề nghiệp của mình và trong xã hội ấy nhân phẩm được cân đo bằng tiền. Cán bộ làm giàu nhờ ăn cắp của công, toa rập với bọn tài phiệt nước ngoài cướp đất của dân, từ trên xuống dưới, phủ bênh huyện, huyện bênh phủ, tạo nên một mạng lưới ăn cắp từ trên xuống dưới. Mấy năm gần đây, cán bộ, viên chức nhà nước dính líu đến các vụ buôn lậu, bán visa, ăn cắp hàng trong các siêu thị, có đường dây tổ chức trong nước càng ngày càng nhiều, đến nỗi khuôn mặt Việt Nam trở nên lem luốc. Tình trạng người Việt ăn cắp không một nơi nào mà không có: trong công ty, ở công sở, nơi công cộng, siêu thị, chợ búa, địa điểm du lịch… không những trong nước mà còn ra nước ngoài để bêu riếu thanh danh Việt Nam đến đỗi ở nơi đông người, các quốc gia Nhật, Thái lan, Hàn phải trưng bảng thông báo đề phòng và cảnh cáo dân Việt…ăn cắp.

Có lúc nào mà dưới mắt thế giới, người Việt bị sỉ nhục đến như thế! Vậy có ai trên quả đất này còn giấc mơ, “một buổi sáng thức dậy, bỗng dưng…thành người Việt Nam” nữa không? Và cũng không ai trách, một người Việt khi ra ngoài, phải tự thanh minh: “Phải, tôi là người Việt Nam, nhưng là người Việt Nam đang ở nước ngoài, hay tôi là một người Việt Nam nhưng không phải là Việt Nam Cộng Sản hiện nay.”

Người Việt hầu hết đều thấy hổ thẹn, có người kêu gọi “đi tìm một nhân cách của con người Việt Nam đã mất!” Đã mất có nghĩa là ngày xưa, nhân cách ấy đã có, từ cái thời mà người Việt không có, không biết đến Cộng Sản là gì. Xây dựng thì khó, có khi hàng thế hệ, nhưng phá bỏ thì dễ, chỉ cần vài năm.

Người xưa ra đường làm việc bậy, trong xóm làng, thì người ta hỏi là con cái nhà ai, để chửi là con…mất dạy! Thời nay, không còn ai cần đến danh dự của cha mẹ, họ hàng, gia tộc, vì chúng không biết xấu hổ, thì ra đường, người ta hỏi đây là dân nước nào vậy!

Tổ tiên chúng ta đã bỏ ra ba vạn để có danh dự cho Việt Nam, nhưng bây giờ chế độ Cộng Sản trong nước đã bán danh ấy có…ba đồng!

(*) “Chẳng tin thì ông đi đôi

Cha con nhà nó còn ngồi đằng kia.”

(Ca dao mới)

Vấn đề Hỏa Ngục

Vấn đề Hỏa Ngục

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com)

Hỏa Ngục có thật, không là chuyện mơ hồ hoặc bịa đặt để hù dọa. Hỏa Ngục như một Biển Lửa, lửa-của-các-loại-lửa, cực mạnh và vô cùng khủng khiếp, không như lửa bình thường ở thế gian này. So với Lửa Hỏa Ngục và Lửa Luyện Hình, lửa thế gian chỉ như “gió mát” mà thôi. Đừng cứng lòng mà phải khốn nạn đời đời!

Bài chia sẻ này gồm vài chứng cớ mạnh mẽ và khủng khiếp mà các thánh nhân đã được mặc khải và trực tiếp cảm nghiệm thực tế về nơi ở ngùn ngụt lửa của ma quỷ . Các mặc khải này đã được Giáo hội chuẩn nhận vì hoàn toàn phù hợp với các giáo huấn trong Phúc Âm. Kitô hữu không buộc phải tin các mặc khải tư, nhưng các mặc khải về Hỏa Ngục này khả dĩ giúp chúng ta suy nghĩ nghiêm túc hơn và sâu sắc hơn về sự bí ẩn và thực tế của Hỏa Ngục.

Tháng Mười Một, tháng cầu cho các linh hồn nơi Luyện Hình, là dịp thuận tiện để chúng ta cùng kiểm tra và xác định lại đức tin của chính mình. Hãy chú ý các “bí quyết” mà ma quỷ áp dụng để cám dỗ và khiến chúng ta phạm tội. Mưu ma chước quỷ thật đáng sợ!

1. THÁNH TIẾN SĨ TERESA ÁVILA (1515–1582)

Thánh nữ Têrêsa Ávila là nhà thần bí, tiến sĩ Giáo hội. Bà cho biết:

“Một hôm, khi tôi đang cầu nguyện, tôi thấy chính mình trong một lúc, không biết thế nào, rõ ràng chìm vào Hỏa Ngục. Tôi biết đó là Ý Chúa muốn tôi thấy nơi mà ma quỷ đang sẵn sàng đối với tôi, tôi đáng như vậy vì tội của tôi. Thời gian kéo dài một lúc, nhưng có vẻ như tôi không thể quên được dù tôi còn sống nhiều năm sau đó. Lối vào có vẻ hẹp và dài , giống như lò lửa , rất tối tăm và chật chội . Nền như đầy nước, bùn lầy, hôi thối, kinh tởm, và đầy sâu bọ gớm ghiếc. Phía cuối là khoảng trống rỗng như khoang trống ở trên vách tường, tôi thấy mình bị nhốt giam ở đó . Không có gì khoác lác trong lời tôi nói đâu” .

“Với những gì tôi cảm thấy lúc đó, tôi không biết bắt đầu từ đâu nếu tôi phải diễn tả nơi đó. Rất khó giải thích. Tôi cảm thấy lửa trong linh hồn tôi nhưng tôi không thể diễn tả. Đau khổ thể lý của tôi không thể chịu nổi . Tôi chịu các đau khổ nhất trong đời, như các thầy thuốc diễn tả là teo gân khi tôi bị tê liệt, không thể so sánh với các dạn bệnh khác, ngay cả những gì tôi nói, Satan bắt tôi phải chịu. Nhưng những điều đó chẳng là gì so với những gì tôi cảm thấy lúc đó, nhất là khi tôi thấy không có sự tạm ngưng hoặc kết thúc cực hình” .

“Các cực hình đó không là gì so với nỗi thống khổ của linh hồn tôi, một cảm giác áp bức, ngột ngạt, đau nhói, cùng với cảm giác vô vọng và tàn khốc, tôi không biết mô tả như thế nào. Nếu tôi nói rằng linh hồn tiếp tục bị xé ra khỏi thân xác thì cũng chưa chính xác, vì điều đó ngụ ý nói sự hủy diệt sự sống bằng tay của người khác, nhưng ở đây, chính linh hồn tự xé ra từng mảnh . Tôi không thể mô tả lửa hoặc nỗi vô vọng trong lòng, hơn cả mọi sự giày vò và đau khổ . Tôi chưa thấy ai bị hành hạ như tôi, tôi cảm thấy mình đang cháy và bị xé ra từng mảnh. Tôi lặp lại rằng đó là lửa trong lòng, và nỗi vô vọng là cực hình khủng khiếp nhất ” .

“Khi vào nơi khủng khiếp đó, không còn hy vọng được thoải mái, tôi không thể ngồi hoặc nằm, không có khoảng trống nào hết. Tôi như bị đặt vào khoảng không trên vách tường, nhìn mình rất khủng khiếp, xung quanh tôi là những tiếng rên la. Tôi không thể hít thở. Không có ánh sáng, chỉ có bóng tối dày đặc. Tôi không biết mô tả nó như thế nào. Dù không có ánh sáng, nhưng mọi thứ có thể gây đau khổ bằng cách bị thấy mà vô hình” .

“Lúc đó, Đức Mẹ không cho tôi thấy Hỏa Ngục nữa. Sau đó, tôi có một thị kiến khủng khiếp nhất, trong đó tôi thấy hình phạt của các tội lỗi. Các hình phạt nhìn rất khủng khiếp, nhưng vì tôi không còn đau đớn nữa, nỗi kinh hoàng của tôi cũng không còn ghê gớm…” .

“Tôi quá đỗi hoảng sợ khi thấy thị kiến đó, nhìn như nơi mà tôi thấy sáu năm trước, sức nóng tự nhiên của cơ thể khiến tôi rùng mình mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Vì thế, trong mọi đau khổ mà tôi có thể phải chịu, tôi luôn nhớ rằng mọi đau khổ trên thế gian này không là gì cả. Có vẻ chúng ta than phiền vô cớ. Tôi lặp lại rằng thị kiến này là một trong các điều thương xót của Thiên Chúa. Đó là điều tuyệt vời nhất đối với tôi, vì điều đó đã hủy diệt nỗi lo sợ của tôi về sự rắc rối và sự mâu thuẫn của thế gian, vì điều đó đã làm tôi đủ mạnh mẽ để chống lại, tôi tạ ơn Đức Mẹ là Đấng giải thoát tôi khỏi những nỗi đau khổ kinh khủng và lâu dài như vậy” .

2. NỮ TU JOSEFA MENENDEZ (1890–1923)

Nữ tu Josefa Menendez, người Tây Ban Nha, qua đời năm 1923 ở tuổi 33, là một trong các nhà thần bí “nổi tiếng” của thế kỷ XX. Nữ tu này có cuộc đời ngắn ngủi nhưng chịu nhiều đau khổ, và được mặc khải trong đa phần cuộc đời, gom lại trong cuốn “The Way Of Divine Love” (Cách Thức của Tình Chúa). Bà đã được đưa tới Hỏa Ngục để chứng kiến và cảm nhận nỗi thống khổ. Nữ tu Josefa buộc lòng phải viết về Hỏa Ngục, vì bà làm vậy chỉ là làm theo ý muốn của Chúa. Đây là chứng cớ:

“Linh hồn tôi rơi vào vực thẳm, rộng bao la, không thấy đáy… Rồi tôi bị đẩy vào một hồ lửa, giống như ở giữa các tấm ván đang cháy, các đinh nhọn sắc và các thanh sắt nóng đỏ như muốn đâm vào da thịt tôi. Tôi cảm thấy như thể chúng muốn tuốt lưỡi tôi ra nhưng không thể. Cực hình này khiến tôi đau đớn đến nỗi mắt tôi như không còn nhìn thấy. Tôi nghĩ đó là vì lửa cháy, bừng cháy… Không móng tay nào của tôi không đau đớn, người ta không thể nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để cho bớt đau nhức, không thể thay đổi tư thế , vì cơ thể có vẻ như bị dát mỏng và bị gấp đôi lại . Các âm thanh khó phân biệt và lời phỉ báng không ngừng, dù chỉ trong một thoáng. Mùi hôi thối kinh tởm làm ngột ngạt và làm hư hại mọi thứ, như thể mùi thịt thối rữa bị cháy, pha lẫn với mùi hắc ín (nhựa đường) và lưu huỳnh… Đó là sự pha tạp mà không thể so sánh với bất cứ mùi gì khác trên thế gian này… Mặc dù các cực hình này rất rùng rợn, không thể chịu đựng nổi, không thể mô tả được… Nhữ gì tôi viết ra đây chỉ là bóng mờ nhạt của những gì mà linh hồn phải chịu, không lời nào có thể mô tả nỗi đau khổ khốc liệt như vậy” (ngày 4-9-1922) .

“Đêm nay, tôi được đưa tới một nơi hoàn toàn tăm tối … Xung quanh tôi có bảy hoặc tám người. Tôi chỉ có thể thấy họ qua ánh lửa. Họ ngồi nói chuyện với nhau. Một người nói: Chúng ta phải rất cẩn thận kẻo bị phát hiện, vì chúng ta dễ bị phát hiện lắm” .

“Ma quỷ nói: Hãy xúi giục họ bất cẩn … nhưng hãy ở phía sau để không bị phát hiện… cứ dần dần rồi họ sẽ chai lì , chúng ta sẽ kéo nó về phía xấu xa. Hãy cám dỗ những người khác tham lam , ích kỷ , giàu có mà không cần làm việc, dù đúng luật hay không. Hãy kích thích người ta khoái nhục dục và ham vui . Hãy làm cho thói xấu làm mờ mắt họ… Với những người khác… hãy vào trái tim họ… nên biết khuynh hướng của tâm hồn họ…! Hãy làm cho họ yêu thích… yêu thích say đắm…! Hãy làm việc hết sức… đừng nghỉ ngơi… đừng thương hại! Cứ để họ say mê ăn uống ! Như vậy sẽ dễ cho chúng ta… Hãy để họ tiếp tục tiệc tùng và chè chén . Ham vui là cửa ngõ để chúng ta đến với họ…” (ngày 3-2-1923) .

“Tôi thấy vài linh hồn sa Hỏa Ngục, trong số đó có một em gái mới 15 tuổi, nó nguyền rủa cha mẹ đã không dạy nó kính sợ Thiên Chúa và không cho nó biết có Hỏa Ngục . Nó cho biết rằng đời nó ngắn ngủi nhưng đầy tội lỗi, vì nó đã chiều theo mọi thứ mà thể xác và đam mê đòi hỏi…” (ngày 22-3-1923) .

“Hôm nay, tôi thấy rất nhiều người phải vào lò lửa… Họ có vẻ như người trần gian và một quỷ hét lớn: Thế giới đã chín muồi cho ta thu hoạch…! Ta biết rằng cách tốt nhất để bắt giữ các linh hồn là khuấy động lòng ham vui của người ta… Hãy ưu tiên tôi… Tôi trước mọi người… không có sự khiêm nhường đối với tôi! Hãy cứ để tôi vui thỏa… Với dạng này chắc chắn chúng ta chiến thắng… và chúng sẽ xuống Hỏa Ngục” (ngày 4-10-1923) .

3. THÁNH NỮ FAUSTINA (1905–1938)

Nữ tu Faustina, người Ba Lan, được Giáo hội tuyên thánh ngày 30-4-2000, đã được Chúa cho thấy Hỏa Ngục năm 1936. Chị ghi trong Nhật Ký số 741:

“Hôm nay, tôi được thiên thần dẫn tới vực thẳm Hỏa Ngục. Đó là nơi tra tấn dữ dội, rất khủng khiếp và rộng lớn! Các cực hình tôi thấy: Cực hình thứ nhất tạo thành Hỏa Ngục là mãi mãi xa cách Thiên Chúa ; cực hình thứ hai là lương tâm cắn rứt đời đời ; cực hình thứ ba là tình trạng mãi mãi bất biến ; cực hình thứ tư là lửa thiêu đốt mà không hủy diệt linh hồn – đau khổ khủng khiếp, vì đó là lửa tinh thần (không như lửa thường), đốt lên bởi cơn giận của Thiên Chúa; cực hình thứ năm là bóng tối dầy đặc và ngột ngạt khủng khiếp , mặc dù tối tăm, ma quỷ và các linh hồn vẫn thấy nhau, thấy người khác và thấy chính mình; cực hình thứ sáu là đời đời ở với Satan ; cực hình thứ bảy là tuyệt vọng , căm thù Thiên Chúa, với các lời phỉ báng và nguyền rủa hèn hạ . Các linh hồn hư mất phải cùng nhau chịu các cực hình này, nhưng đó không là chấm dứt đau khổ. Có các loại cực hình đặc biệt dành cho các linh hồn cá biệt. Có các cực hình của ngũ quan . Mỗi linh hồn chịu những nỗi đau khổ khủng khiếp, không thể diễn tả nổi, liên quan những gì họ đã phạm tội . Có các hang động và hầm hố có các cực hình khác nhau. Hẳn là tôi đã chết giấc khi nhìn thấy các cực hình này nếu Thiên Chúa không nâng đỡ tôi. Hãy cho các tội nhân biết rằng họ sẽ chịu cực hình đời đời theo các giác quan mà họ đã dùng để phạm tội ” .

“Tôi viết điều này theo lệnh của Thiên Chúa, để không linh hồn nào có thể viện cớ gì mà nói rằng không có Hỏa Ngục hoặc không có ai ở đó , vì thế không ai có thể nói như vậy. Tôi là Nữ tu Faustina, theo lệnh của Thiên Chúa, đã được thăm Hỏa Ngục để tôi có thể nói cho các linh hồn biết về Hỏa Ngục và làm chứng về sự hiện hữu của Hỏa Ngục ”.

“Tôi không thể nói về Hỏa Ngục bây giờ, nhưng tôi đã được lệnh của Thiên Chúa viết về Hỏa Ngục. Ma quỷ rất căm thù tôi, nhưng chúng phải vâng lời tôi theo lệnh của Thiên Chúa. Những gì tôi viết chỉ là bóng mờ nhạt của những gì tôi thấy . Nhưng tôi chú ý một điều: Đa số các linh hồn ở đó là những người đã không tin có Hỏa Ngục . Khi tôi tới đó, hầu như tôi không thể hồi phục vì hoảng sợ. Các linh hồn chịu cực hình ở đó thật khủng khiếp! Cuối cùng, tôi cầu nguyện tha thiết hơn để xin ơn hoán cải cho các tội nhân. Tôi không ngừng cầu xin lòng thương xót của Thiên Chúa tuôn đổ trên họ. Lạy Chúa Giêsu của con, thà con chịu khổ cực cho đến tận thế, giữa các đau khổ nhất, còn hơn con phản nghịch Ngài vì tội nhỏ nhất ” .

4. FATIMA – BA TRẺ THẤY HỎA NGỤC

Năm 1917, trong thời gian Thế Chiến I, Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ nhỏ tại Fatima, Bồ Đào Nha, vào các ngày 13 từ tháng Năm tới tháng Mười. Trong lần hiện ra ngày 13-7-1917, Đức Mẹ đã cho ba trẻ em này thấy Hỏa Ngục. Đây là chứng cớ:

“Đức Mẹ xòe tay ra, những tia sáng như xuyên thấu thế gian, chúng tôi thấy như là biển lửa. Chìm trong biển lửa đó là ma quỷ và các linh hồn trong dáng vóc con người, như than hồng trong suốt , mọi thứ như đồng đen hoặc hoặc bóng lộn, lơ lửng trong lửa cháy , lửa bốc cao đưa người ta lên như đám khói, rồi lại rơi xuống như những đốm lửa trong ngọn lửa lớn, không trọng lượng hoặc mất thăng bằng, ở giữa những tiếng la hét và kêu than vì đau khổ và tuyệt vọng , điều đó làm chúng tôi sợ hãi và phát run vì hãi hùng. Cảnh tượng đó khiến chúng tôi bật khóc, như thể người ta nghe được vậy” .

Ma quỷ có thể phân biệt bằng cách nhìn chúng giống như những con vật lạ lẫm, gây hoảng sợ, cự tuyệt, đen đủi và trong suốt như những cục than hồng. Chúng tôi sợ hãi và xin Đức Mẹ cứu giúp, Đức Mẹ nói với chúng tôi bằng giọng buồn: “Các con đã thấy Hỏa Ngục, nơi các linh hồn tội lỗi phải vào. Như vậy, khi các con đọc Kinh Mai Côi, hãy đọc câu này sau mỗi chục kinh: Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi Hỏa Ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn ” .

Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Nếu tay hoặc chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục” (Mt 18:8-9) .

Chúng ta cùng sám hối và chân thành cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài” [Tv 50 (51):3-6].

Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, lạy Chúa, muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con. Dám xin Ngài lắng tai để ý nghe lời con tha thiết nguyện cầu. Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng? Nhưng Chúa vẫn rộng lòng tha thứ để chúng con biết kính sợ Ngài” [129 (130):1-4] .

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Nếu không còn một ngày để sống

Nếu không còn một ngày để sống

Chuacuuthe.com

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

VRNs (01.11.2014) – Sống cho mọi người nhớ đến đã khó, chết đi rồi mà không một ai quên đó mới là điều khó khăn hơn gấp bội. Ngày nay, có rất nhiều cách giúp cho người ta khiến người khác nhớ đến mình khi còn đang sống. Có những cách gây ấn tượng một cách tự nhiên, chính trực. Ví như những nhà bác học, những thiên tài, những bậc vĩ nhân… Ngược lại, là cách gây chú ý bằng việc gây sốc, làm ra một loạt những vụ scandal. Tất nhiên, cách gây chú ý nào thiên về sự công chính chắc chắn sẽ khiến người ta nhớ mãi với lòng ngưỡng mộ, thương mến. Nếu như thế giới ai cũng cố gắng dù chỉ một lần khắc ghi tên tuổi của mình vào lòng nhân loại thì chắc chắn cuộc sống này sẽ bớt bất hạnh hơn. Khổ nỗi người tốt thì ít mà kẻ ác lại nhiều. Cho nên số lượng kẻ gây sốc cho người khác nhớ thì nhiều mà người gieo ấn tượng lại ít.

Quả thật, sống cho người ta thương đã khó, chết cho người ta nhớ lại càng khó hơn. Thế nhưng, đó chỉ là những cái nhớ cái thương của nhân loại. Còn cái nhớ với những kẻ đã qua đời đối với tín hữu Kytô giáo lại hoàn toàn khác biệt. Người tín hữu có bổn phận nhớ đến tất cả mọi anh chị em đã qua đời không phải vì những ấn tượng tốt họ đã làm hoặc các lỗi lầm họ đã phạm, nhưng chính là tình thương mến thương, sự hiệp thông của lời cầu nguyện giữa người đã qua đời và kẻ còn đang sống.

Giáo hội dành riêng tháng 11 để cầu nguyện cho mọi tín hữu đã mất, nhằm nhắc nhớ cho những ai còn đang sống biết rằng đến lượt mình, một ngày nào đó rồi cũng sẽ bỏ lại tất cả mà ra đi. Vậy hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng để sống, thay vì sẽ làm ra những điều gây sốc thì hãy tạo ấn tượng bằng cách khắc ghi những hành động đẹp giữa lòng thế giới, để khi mất đi, mọi người sẽ nhớ đến mình trong niềm tiếc thương và nhung nhớ.

Nói thì nói thế, nhưng thực tế lại không thể chút nào. Ai chẳng thích sống khiến người ta thích, người ta thương, người ta nhớ, nhưng đâu phải muốn là được. Chỉ khi nào bạn chọn Thiên Chúa làm cùng đích đời mình và bước đi trong đường lối của Ngài mới hòng mong có được những ấn tượng tốt trong lòng thế giới. Riêng ai sống chỉ biết đến bản thân mình, sống buông thả theo những đam mê, dục vọng cá nhân thì làm sao có thể?

Ai biết sống chu toàn lề luật Chúa, người ấy sẽ được diện kiến nhan thánh Ngài. Trái lại, ai từ chối Thiên Chúa, sống phản nghịch đường lối Ngài, chắc chắn sẽ phải chịu diệt vong. Giáo hội dành riêng tháng này để cầu nguyện cho họ, nhờ lời cầu nguyện của nhiều người mà Thiên Chúa đoái thương tha thứ những lỗi lầm họ đã trót phạm.

Nếu chỉ còn một ngày để sống, ai cũng biết nói rằng tôi sẽ sống yêu thương hơn. Nhưng thực tế, chẳng ai chịu tin rằng tôi chỉ còn có một ngày để sống. Ai cũng nghĩ còn lâu tôi mới chết, tôi sẽ còn sống lâu lắm, rất lâu, rất lâu. Ai đang ở trong Giáo hội đau khổ đều có một lỗi lầm lớn nhất là như vậy. Vì cho rằng tôi sẽ còn sống lâu lắm kìa, không cần phải thay đổi. Đâu ngờ rằng, một ngày để sống xảy đến thật. Khi đã không còn cơ hội, họ mới bắt đầu đau khổ hối tiếc. Nhưng cái giá trị một ngày để sống không còn nữa, họ đã đánh mất cơ hội của mình và giờ đây chỉ còn đau khổ và hối tiếc. Bổn phận của chúng ta những người còn đang sống là cầu nguyện cho họ.

Tất nhiên, những ai khi còn sống biết khắc ghi tên tuổi mình bằng hành động đẹp, thì giờ đây khi họ no đầy ơn phúc trên Thiên quốc, chắc chắn họ sẽ cầu nguyện cho những kẻ khi còn sống hoặc đang sống chỉ biết gây rối, gây sốc bằng những hành động điên loạn của mình.

Mầu nhiệm Giáo hội cùng thông công là như vậy. Chúng ta những người đang sống trong Giáo hội lữ hành, hãy biết ý thức dù tôi đang sống đây nhưng luôn nhớ rằng sẽ có ngày mình chỉ còn một ngày để sống Và nếu ngày ấy là hôm nay, thì hãy biết sống tốt hơn, hầu không phải hối tiếc khi thời gian không còn nữa.

Lạy Chúa, nếu chỉ còn một ngày để sống, chắc chắn con sẽ thưa với Ngài rằng con sẽ sống tốt hơn. Nếu như con không thể khắc vào lòng người những ấn tượng tốt để khi chết đi có thể khiến người khác nhớ đến mình, thì con cũng biết khắc vào lòng Chúa tình yêu, sự hy sinh và lòng mến, để khi không còn một ngày để sống, con sẽ không phải hối tiếc vì chưa biết yêu thương.

M. Hoàng Thị Thùy Trang.

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Ký ức 25 năm cuộc cách mạng nhung: Hungary

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-10-30

10302014-25y-velv-memories.mp3

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

Hàng chục ngàn sinh viên Tiệp Khắc biểu tình đòi đa đảng và chấm dứt chế độ Cộng sản, họ đã được sư hỗ trợ của phong trào bất đồng chính kiến từ đó dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản vào ngày 10 tháng 12, 1989 ở Tiệp Khắc.

AFP

Ngày 9/11 năm nay kỷ niệm 25 năm bức tường Berlin sụp đổ. Sự kiện đó trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng Đông Âu thành công, xóa đi hệ thống cộng sản tại lục địa này. Nhân dịp này chúng tôi tìm gặp những nhân chứng của của diễn biến lớn lao bậc nhất trong xã hội loài người, để nghe câu chuyện ký ức 25 năm trước của họ. Hôm nay chúng tôi bắt đầu bằng quốc gia cộng sản đầu tiên chuyển biến trong năm 1989: nước Hungary.

Sự sụp đổ của hệ thống cộng sản

Đó là giai điệu dòng Danube xanh, con sông chảy ngang vùng Trung Âu thơ mộng, chảy ngang nước Hungary êm đềm, nơi cách đây đúng một phần tư thế kỷ đã bắt đầu những sự kiện khơi mào cho cuộc cách mạng nhung làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản.

Mùa hè năm 1989, hàng trăm ngàn người Đông Đức sang Hungary tìm đường sang Áo và Tây Đức. Trong một hành động mang tính biểu tượng, ngày 27/6/1989 hai Ngoại trưởng Hungary và Áo dùng kềm cắt bỏ hàng rào ngăn cách hai quốc gia.

Ngày 19/8/1989 những tổ chức dân sự Hungary tổ chức một sự kiện tên là Picnic toàn Âu để nói lên nguyện vọng về một châu Âu thống nhất, hàng ngàn người Đức đang tị nạn ở Hungary đã vượt biên giới sang nước Áo.

” Những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới

Anh Nguyễn Hoàng Linh”

Anh Nguyễn Hoàng Linh hồi tưởng những ngày tháng lịch sử ấy, khi anh là sinh viên tại thủ đô Budapest:

Khi cách biên giới khoảng vài cây số thì những người tị nạn Đông Đức đã bỏ hết vật dụng của họ, những người đi bằng xe Traban một loại xe điển hình của Đông Đức thời đó cũng quẳng xe lại ở biên giới, quẳng đồ đạc, thậm chí nhiều người bồng bế con cái, bỏ cả giày dép, đi chân đất tiến về phía biên giới. Phải nói rằng đó là một hình ảnh đối với anh em chúng tôi hết sức là cảm động, phải nói  là chấn động.

Cảm xúc rất là đặc biệt, tôi nghĩ là ai ở Hungary thời kỳ đó mà bỏ qua những cái đó thì bỏ qua những ấn tượng rất là lớn trong đời người.

Những cảm xúc chấn động của các sinh viên người Việt lúc ấy còn kèm theo cả sự ngạc nhiên. Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm, hiện là một nhà nghiên cứu tại Trung tâm Đông nam Á ở Hawaii, là sinh viên năm thứ ba tại đại học Bách khoa Budapest vào năm 1989 nhớ lại rằng vừa bước ra khỏi khủng cảnh bao cấp khốn khó của Việt nam, thì Hungary đối với anh đã là một loại thiên đường.

Thế mà đọc báo thấy giới gọi là trí thức họ nói là tình hình rất khó khăn, chúng ta phải thay đổi rất ghê gớm. Đối với tôi đó là một cái gì rất là khó hiểu, và tôi tò mò để tìm hiểu. Thì mới hiểu rằng họ có những so sánh riêng còn người Việt nam mình nghèo quá thì như vậy đã là tốt rồi. Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do, được làm những việc lớn, mình cảm thấy thích thú lắm.”

” Rõ ràng là họ có sự so sánh, họ muốn chuyển từ chế độ xã hội chủ nghĩa sang tư bản, muốn có một chế độ giống như Áo, giống như Đức để sung sướng, thoãi mái tự do hơn. Bản thân mình lúc đó chỉ là sinh viên thôi thì cũng cảm thấy thích thú với chuyện đó. Mình cảm thấy một dân tộc đang là một đàn cừu, rồi được tự do

Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm”

Hiệu ứng dây chuyền

Chuyển biến chính trị ở Hungary giống như một mồi thuốc châm ngòi cho một phản ứng dây chuyền lan khắp Đông Âu, làm sụp đổ cả hệ thống cộng sản xây dựng dưới bóng quân đội Liên xô từ sau năm 1945. Hơn hai tháng sau khi hàng rào biên giới Áo Hung bị gỡ bỏ, một hàng rào khác mang tính biểu trưng của bức màn sắt và xung đột chiến tranh lạnh bị xóa bỏ, đó là bức tường Berlin ngăn đôi thủ đô nước Đức bị đập tan vào ngày 9/11/1989.

Nhưng tất cả những sự kiện được lịch sử ghi lại chỉ là những dấu mốc, còn quá trình thay đổi ở Hungary đã diễn ra từ lâu, từ năm 1956 khi cuộc nổi dậy của người dân Hungary bị xe tăng Liên xô đàn áp, dẫn đến cái chết của người lãnh đạo cộng sản Hung lúc đó ủng hộ cuộc nổi dậy là ông Imre Nagy.

” 25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, hiện là một nhà hoạt động xã hội dân sự tại Hà nội, nói rằng chính ở Hungary, nơi mà ông học tập trước khi cuộc cách mạng 1989 nổ ra, ông đã nhận ra những lỗi không thể sửa chữa được của hệ thống cộng sản:

Vâng chính xác như vậy. Tức là ở đó, mình có nhiều thông tin hơn do cái sự cởi mở của người ta. Và mình tiếp cận được với những người có ý kiến khác nhau, mình nghe được những chính kiến khác nhau, thì mình phát hiện ra cái hệ thống này không thể phát triển được, không thể tồn tại một cách lâu dài.”

25 năm sau ngày những người cộng sản Hungary thay đổi ý thức, cùng với những người đối lập với họ tháo bỏ bức tường ngăn cách Đông Tây, cộng đồng người Việt tại Hungary vẫn hãy còn là một cộng đồng nhỏ so với các cộng đồng người Việt hải ngoại khác. Nhưng theo anh Nguyễn Hoàng Linh hiện sống và tham gia hoạt động truyền thông của người Việt tại Budapest thì người Việt ở đây đã bắt đầu quan tâm đến đời sống chính trị của quốc gia Hungary.

25 năm sau nhìn lại sự kiện Hungary và Đông Âu, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng cuộc chấn động đó không những ảnh hưởng đến cách suy nghĩ về sự tự do trong tư tưởng, trong văn hóa của những người Việt sống tại Đông Âu mà còn ảnh hưởng đến cả người Việt trong nước nữa.