Bảo mẫu hành hạ trẻ em gây nhức nhối

Bảo mẫu hành hạ trẻ em gây nhức nhối

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-11-06

TTVN11062014.mp3

giu-tre-622.jpg

Một trung tâm giữ trẻ tư nhân tại TPHCM, ảnh minh họa.

RFA PHOTO

Tình trạng bảo mẫu hành hạ trẻ em ở các nhà trẻ tư nhân cũng như một số cơ sở dạy trẻ nhà nước đã làm dấy lên nỗi lo chung của xã hội về hiện tại và tương lai. Nếu như hiện tại, kiểu sống vô cảm, tàn nhẫn đã lấn sân đến tận các bảo mẫu, những người làm công việc nuôi dưỡng từ thể xác đến tâm hồn của các em nhỏ thì vấn đề nhân cách của những em nhỏ từng bị các bảo mẫu hành hạ sẽ ra sao trong tương lai là câu hỏi gây nhức nhối đến những bậc làm cha làm mẹ, đến xã hội.

Tính vô cảm và nạn hối lộ

Một người tên Thúy, sống ở quận 12, Sài Gòn, có con đang độ tuổi gửi trẻ, chia sẻ:

“Nói chung là làm nghề bảo mẫu thì phải được đào tạo kỹ mới làm được, ở mình thì họ hơi lôm côm. Nguyên nhân chính là do sự vô cảm của xã hội mình nó nhiễm vào từng cá nhân bảo mẫu, một cách không có ý thức. Vậy nên khi họ bộc phát những hành động như vậy thì bản thân họ, thứ nhất là họ thiếu tự chủ, thứ hai là nếu họ nghĩ như vậy là tội ác thì họ đã không làm rồi. Mỗi ngày, những vấn đề của xã hội làm họ vô cảm, họ trở nên phi nhân tính, khi họ bạo hành như thế với các thiên thần – trẻ em. Ở các nước thì những bảo mẫu được đào tạo rất kỹ, nghiêm túc thậm chí lương của họ có thể là cao nhất trong giáo dục , nhưng ở mình thì ngược lại, đời sống của các bảo mẫu không được đảm bảo, dần dần… Nói chung là rõ ràng để xảy ra những việc như vậy thì tôi thấy tệ lắm!”

” Nguyên nhân chính là do sự vô cảm của xã hội mình nó nhiễm vào từng cá nhân bảo mẫu, một cách không có ý thức.
-Chị Thúy “

Theo bà Thúy, hiện tượng bảo mẫu hành hạ trẻ em không còn là trường hợp cá biệt ở một số nơi mà là hiện tượng xã hội đã đi đến chỗ phổ biến khắp mọi hang cùng ngõ hẻm Việt Nam. Ngay cả em gái của bà về làm dâu xứ Bắc cũng than thở về tình trạng này, báo chí cũng đôi lần nói về chuyện bảo mẫu xứ Bắc hành hạ trẻ em một cách man rợ, không còn gì để nói.

Và miền Nam, đặc biệt là thành phố Sài Gòn, theo bà Thúy dự đoán thì có vẻ như không có bất kì cơ sở nuôi dạy trẻ nào không tiềm tàng nguy cơ hành hạ trẻ em. Lý giải về điều này, bà Thúy đưa ra hai giả thuyết: Tình trạng xã hội bị băng hoại nhân tính và; Nạn hối lộ đã tiếp tay cho thói phân biệt đối xử và tàn nhẫn với trẻ em.

Ở khía cạnh xã hội bị băng hoại, một phần do giáo dục, phần khác do cạnh tranh khốc liệt, do cơ chế tham ô, hối lộ và toa rập quá cao, con người chỉ còn biết nghĩ đến lợi nhuận và làm giàu bất chấp lương tri có ray rứt hay không. Chính điều này dẫn đến xã hội dần trở thành một guồng máy quay cuồng mất hết nhân tính, và càng về sau, con người càng phải sống trong một sinh quyển thiếu tình người, thiếu lòng yêu thương. Chính vì vậy, việc các bảo mẫu, về mặt chữ nghĩa là bà mẹ thứ hai nuôi giữ trẻ lại đối xử tàn tệ với trẻ em chỉ là hệ quả của một xã hội băng hoại tận gốc rễ.

Nạn hối lộ, nếu chỉ nhìn bên ngoài thì người ta cứ nghĩ rằng nó chỉ diễn ra ở các quan chức và một số cơ quan nhà nước, trên thực tế thì nạn hối lộ đã len vào tận chân tơ kẽ tóc của bất kì người nào, không chừa một ai, làm chức lớn thì hối lộ lớn, làm chức nhỏ thì hối lộ nhỏ, không làm chức nào cũng hối lộ cho quan chức hoặc hối lộ giữa những kẻ không chức quyền với nhau nhằm bôi trơn một số quan hệ nào đó. Tiền hối lộ ở Việt Nam cũng giống như dầu nhớt bôi trơn động cơ xe, việc hối lộ các bảo mẫu cũng nằm trong hệ lụy này.

giu-tre-400.jpg

Ảnh minh họa chụp trước đây. RFA PHOTO.

Thường thì cha mẹ nào cũng thương con và lo lắng khi con mình đến lớp, nhất là các lớp vỡ lòng hay đến nhà trẻ, chính vì thế cha mẹ hay gửi gắm con cái cho các bảo mẫu, cô giáo mầm non. Cũng vì nếp nghĩ và thói quen hối lộ, đút lót bởi sống quá lâu trong văn hóa hối lộ, đút lót nên người ta không ngần ngại trao phong bì cho các bảo mẫu, giáo viên mầm non để con mình được chăm sóc kĩ hơn, tốt hơn. Và đương nhiên muốn con mình được tốt hơn, cha mẹ phải có tiền, mà trong một lớp mầm non, có mấy trẻ em có cha mẹ đủ tiền để đút lót cho bảo mẫu, giáo viên?

Đặc biệt là các lớp mầm non, nhà giữ trẻ ở những khu công nghiệp, những xóm nghèo, trẻ em ở đây toàn con nhà khó khăn, thiếu thốn, việc chi trả tiền hằng tháng cho con đi học đã khó khăn lắm rồi, lấy đâu ra tiền để bỏ phong bì. Có lẽ chính vì thế mà hầu hết các cơ sở nuôi dạy trẻ từng bị phanh phui hành hạ trẻ em đều nằm ở các vùng nghèo khó, hơn nữa, những em bé bị hành hạ mà báo chí trong nước đã nêu đều có hoàn cảnh cha mẹ khó khăn, làm công nhân hoặc lao động phổ thông. Những dấu hiệu này cho thấy trẻ em Việt Nam đã bị phân biệt đối xử ngay từ lúc bước vào giai đoạn giáo dục vỡ lòng.

Tương lai sẽ về đâu?

Một người mẹ khác tên Liên, sống ở quận Tân Bình, Sài Gòn, có con đang độ tuổi mẫu giáo, chia sẻ:

“Khi họ học nghề chẳng hạn như sư phạm mầm non đi, nhưng mà họ không được truyền lửa, truyền thông điệp tình yêu trong nghề nghiệp đó thì khi họ ứng xử như vậy, họ không thấy có gì áy náy hay ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp của họ. Phụ huynh khi lo cho con mình thì thường tặng quà, còn với họ, thu nhập của họ không được cao nên khi nhận những món quà đó, họ thấy đôi khi còn nhiều hơn cả tiền lương của họ nữa, vậy nên không tránh khỏi những đứa trẻ mà cha mẹ có tiền thì được đối xử tốt hơn, luôn được thiên vị, còn những đứa trẻ con nhà nghèo thì… Nói chung là những trường quốc tế, trường tư thục thì ít xảy ra tình trạng đó hơn là trường nhà nước thì thu nhập của giáo viên mầm non, bảo mẫu thấp nên không tránh khỏi tình trạng họ muốn kiếm thêm từ phụ huynh, tâm lý mà…!”

” Khi họ học nghề chẳng hạn như sư phạm mầm non đi, nhưng mà họ không được truyền lửa, truyền thông điệp tình yêu trong nghề nghiệp đó thì khi họ ứng xử như vậy, họ không thấy có gì áy náy.
-Chị Liên”

Theo chị Liên, sự thiệt thòi bao giờ cũng dành cho người nghèo, không có quyền thế. Một gia đình người làm công nhân khu công nghiệp như chị với thu nhập cả hai vợ chồng mỗi tháng chưa đầy bảy triệu đồng cho cả hai vợ chồng, mọi chi tiêu, điện nước, chỗ thuê trọ, ăn uống và tiền đến nhà giữ trẻ của con chị cũng chỉ trông vào chưa đầy bảy triệu đồng, thiếu trước hụt sau. Đôi lúc chị cũng muốn dành phong bì cho cô bảo mẫu để con chị được chăm sóc tốt nhưng dành mãi cũng không đủ, nhiều khi dành được vài trăm ngàn, định bỏ phong bì thì con chị lại bệnh, cuối cùng, chị đành bỏ qua khoản này.

Đương nhiên khi bỏ qua khoản phong bì cho bảo mẫu, anh chị luôn sống trong bất an về con mình bởi vì khu vực chị sống từng có nạn bảo mẫu hành hạ trẻ em. Và cha mẹ của đứa bé bị hành hạ vốn là bạn cùng công ty với chị Liên, cặp vợ chồng này cũng nghèo khổ, vất vả, không có tiền để gửi gắm con. Chính vì không có tiền gửi gắm con nên con của các gia đình nghèo luôn bị phân biệt đối xử, luôn phải chịu hành hạ. Điều này làm ảnh hưởng đến tương lai của trẻ em rất nặng nề.

Chị Liên bày tỏ sự lo lắng của mình trong tình trạng phân biệt đối xử với trẻ em nhà nghèo như hiện tại. Tương lai, các thế hệ mới sinh ra lớn lên sẽ phân biệt đối xử với nhau rất nặng nề và nhân cách của chúng cũng sẽ bị méo mó bởi ngay từ nhỏ, chúng đã sống trong sự phân biệt đối xử, sống trong bạo lực và hành vi man rợ. Nỗi đau này là món quà của xã hội hiện tại dành tặng cho đất nước tương lai.

Nói đến đây, chị Liên bật khóc.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

httpv://www.youtube.com/watch?v=QsbNemCQZVk

Cảnh người già neo đơn nơi thành phố (RFA)

Công bố báo cáo về tự do tôn giáo 2014: Tôn giáo thiểu số tiếp tục bị đàn áp

Công bố báo cáo về tự do tôn giáo 2014: Tôn giáo thiểu số tiếp tục bị đàn áp

Chuacuuthe.com


Các tôn giáo thuộc thiểu số vẫn bị đàn áp tại nhiều nơi trên thế giới. Ảnh minh họa

Các tôn giáo thuộc thiểu số vẫn bị đàn áp tại nhiều nơi trên thế giới. Ảnh minh họa

VRNs (06.11.2014) – Sài Gòn –  Theo vaticaninsider – Vấn đề tự do tôn giáo trong bản báo cáo thế giới năm 2014 cho thấy, có một sự tuột dốc đáng báo động. Phần lớn các quốc gia có bạo loạn xảy ra là những đất nước Hồi giáo. Kitô giáo vẫn là tôn giáo bị bắt bớ nhiều nhất.

61 trong số 196 quốc gia có những chuyển biến, thì hầu hết theo hướng xấu đi: chỉ có 6 nước tình hình khả quan hơn trong khi 55 nước trở nên tệ hơn. Một sự giảm mạnh nổi lên trong vấn đề tự do tôn giáo trong bản báo cáo thé giới năm 2014, xuất bản bởi tổ chức Trợ Giúp cho Giáo Hội Đau Khổ (Aid to the Church Need). Đây là tái bản thứ 12  của bản báo có đã được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1999 và phân tích mức độ tự do tôn giáo nào được tôn trọng ở 196 quốc gia.

Theo Report 2014 trình bày sáng ngày 03.11 vừa qua tại Roma, bạo  loạn tôn giáo tiếp tục chi phối truyền thông quốc tế.  Bản báo cáo gần đây nhất xác nhận rằng, khủng bố tôn giáo không chỉ lan tràn khắp nơi mà thực sự tăng nhanh.  Điều kiện của các tôn giáo nhỏ ngày càng xấu đi ở mỗi quốc gia. Thỉnh thoảng, tình hình trở nên tệ hơn do luật pháp hoặc phân biệt hiến pháp hoặc sự chống đối tôn giáo liên quan tới xung đột dân tộc hoặc bộ lạc. Trong những trường hợp khác, các nhóm tôn giáo đàn áp hoặc muốn loại bỏ các nhóm khác hoặc chính quyền cố gắng giới hạn lại các hoạt động của một nhóm tôn giáo nào đó.

Thay đổi được ghi nhận ở 66 đất nước trong tổng số 196 quốc gia. Tuy nhiên, chỉ có 6 quốc gia chứng kiến sự tiến triển của các tôn giáo nhỏ trong khi tình hình ngày càng trở nên tồi tệ ở 55 quốc gia còn lại. Điều này có nghĩa là tình hình các nhóm tôn giáo trở nên ảm đạm trong hầu hết 30% quốc gia được khảo sát từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 6 năm 2014.

Có 20 quốc gia vi phạm tự do tôn giáo ở mức cao, nói cách khác là không có tự do tôn giáo. Bao gồm 14 quốc gia xảy ra bắt bớ tôn giáo có liên can tới Hồi giáo cực đoan: Afhanistan, Ả Rập Saudi, Ai Cập, Iran, Iraq, Libya, Maldives, Nigeria, Pakistan, Công hòa Trung Phi, Syria, Somali, Sudan và Yemen. 6 đất nước tôn giáo bị bắt hại bởi chính quyền là Azerbaijan, Myanmar, Trung Quốc, Triều Tiên và Uzbekistan. Bản báo cáo nhấn mạnh rằng phần lớn những đất nước vi phạm mạnh mẽ tự do tôn giáo là những đất nước Hồi Giáo.

Ở phương Tây, căng thẳng tôn giáo đang leo thang do ảnh hưởng chủ nghĩa vô thần, thuyết duy vật và làn sóng di dân và tỵ nạn là những người có niềm tin và văn hóa khác với nước đó.

Châu Á là lục địa có nhiều vi phạm tự do tôn giáo nhất. Sự gia tăng một tôn giáo được ghi nhận tại nhựng quốc gia có một tôn giáo chính, không chỉ là Hồi giáo, nhưng còn có Hindu hay Phật giáo. Lo lắng lớn nhất ở Châu Phi là sự lớn mạnh của Hồi giáo.

Pv.VRNs

CÓ THƯỞNG PHẠT ĐỜI ĐỜI KHÔNG ?

CÓ THƯỞNG PHẠT ĐỜI ĐỜI KHÔNG ?

Lm Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn

Nhân tháng các linh hồn sắp tới, xin cha cho biết:

1- Chúa có phạt ai xuống hỏa  ngục không ?

2- Luyện ngục ,hỏa ngục khác nhau như thế nào ?

3- Tín điều các Thánh thông công là gì ?

Trả lời :

1- Chúa có phạt ai xuống hảo ngục không ?

Thiên Chúa là tình thương, Người chậm bất bình và  hay tha thứ. Người tạo dựng  con người chỉ vì yêu thương vô vị lợi và “ muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 : 4). Nghiã là Chúa muốn cho mọi người được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Người trên Thiên Đàng, là nơi không còn đau khổ , bệnh tật, nghèo nàn, bất công và chết chóc nữa.

Hạnh phúc Thiên Đàng là hạnh phúc  mà mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe  lòng người chưa hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. ( 1 Cor 2: 9) Như Thánh Phaolô đã viết.

Nhưng muốn hưởng  hạnh phúc Thiên Đàng thì phải yêu mến Chúa và tuân giữ các giới răn của Người.

Tại sao ?   tại vì Thiên Chúa là tình thương” nên ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa” ( 1 Ga 4 : 8)

Biết Thiên Chúa là tình thương , mà quả thật Người là tình thương thì lẽ tự nhiên ta phải  yêu mến Người  với tất cả tâm trí và nghị lực để đáp trả phần nào tình thương quá lạ lùng của Chúa dành cho con người. Vả Lại, yêu mến Chúa chỉ có lợi cho ta chứ  Chúa không được lợi lộc gì vì Người đã quá đủ hạnh phúc , giầu sang nên không cần ai thêm gì cho Người nữa.

Tuy nhiên, vì Thiên Chúa tạo dựng con người với hai đặc tính độc đáo là có lý trí và ý muốn tự do ( intelligence and free will) và  Thiên Chúa  hoàn toàn tôn trọng cho con người sử dụng hai khả năng đó, nên vấn đề thưởng  phạt mới được đặt ra cho riêng con người mà thôi.Nghĩa là nếu con người , qua lý trí, nhận biết có Thiên Chúa là Đấng tạo thành trời đất và muôn vật – trong đó có con người- thì con người phải sử dụng ý muốn tự do của mình để chọn yêu mến Chúa và sống theo đường lối của Người để được cứu rỗi và vui hưởng hạnh phúc Nước Trời, chiếu theo ánh sáng của lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa là:

Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lậy Chúa !, Lậy Chúa ! là được vào Nước Trời cả đâu,  nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời mới được vào mà thôi.” ( Mt 7 : 21)

Nhưng thế nào là thi hành ý muốn của Chúa Cha ?

Chúa Giê su đã chỉ rõ cho ta cách thi hành ý muốn của Chúa Cha như sau :.

ai yêu mến Thầy , thì sẽ giữ lời Thầy

Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy

Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người  ấy. ( Ga 14: 23)

Giữ lời Thầy có nghĩa là thực thi những gì Chúa đã rao giảng và dạy bảo  , cụ thể là hai Điều Răn quan trọng nhất, đó là mến Chúa và yêu người, như Chúa đã nói với một luật sĩ  Do Thái xưa. ( Mt 22: 37-39)

Như vậy , thực thi hai Điều Răn đó là chứng minh cụ thể lòng yêu mến Chúa và xứng đáng được “ Cha Thầy và Thầy đến ở” với ta như Chúa Giê su nói trên đây.

Là con người , ai lại không muốn hạnh phúc, sung sướng và bình an ? nên yếu mến Chúa là yêu mến  chính nguồn hạnh phúc, an vui  vĩnh cửu đó.Như thế, chỉ có lợi cho con người khi chọn  yêu mến Chúa, chứ tuyệt đối không có lợi lộc gì cho   Chúa hết. Chúng ta phải xác tín điều này, để đừng ai nghĩ rằng Thiên Chúa  được lợi lộc gì khi ta yêu mến và tuân giữ các giới răn của  Người. .

Đó là điều chắc chắn ta phải tin khi thi hành các Điều Răn của Chúa để không giết người, trộm cắp. gian dâm, thông dâm, mãi dâm, ấu dâm, phái thai, ly dị, thù oán người khác, kỳ thị chủng tộc, nói xấu , vu cáo làm hại  danh dự và đời tư  của người khác, bất công , bóc lột  người làm công cho mình, và dửng dưng trước sự đau khổ, nghèo đói của anh chị em đồng loại.

Nếu ta tuân giữ các Điều Răn của Chúa để không làm những sự dữ  hay tội lỗi nói trên, thì chúng ta đã yêu mến Chúa cách cụ thể  để được “ ở lại trong tình thương của Người” như Chúa Giêsu đã dạy trên đây. Ngược lại,  nếu ai dùng “ ý muốn tự do= free will để làm những sự dữ nói trên thì đã tự  ý  và công khai khước từ Thiên Chúa và tình thương của Người. Như thế họ phải lãnh chịu mọi hậu quả của việc mình làm vì tự do chọn lựa.

Chính vì con người có tự do để chọn lựa , hoặc sống theo đường lối của Chúa để được chúc phúc;   hay khước từ Chúa để sống theo ý riêng mình và chạy theo những lôi cuốn của thế gian , nhất là những cám dỗ của ma quỉ để tôn thờ tiền bạc, của cải vật chất và mọi thú vui vô luân vô đạo,  như thực trạng sống của  con người ở khắp nơi trong thế gian tục hóa ngày nay.Nếu ai chọn sống  như vậy, thì  cũng đã tự ý chọn nơi cư ngụ cuối cùng cho mình, sau khi phải chết trong thân xác có ngày phải chết đi này.Thiên Chúa yêu thương con người và đã cứu chuộc con người nhờ  Chúa Kitô. Nhưng Thiên Chúa cũng  gớm  ghét mọi tội lỗi, vì tội lỗi và sự dữ  đi ngược lại với bản chất yêu thương, công bình và thánh thiện của Người. .

Nhưng  cho dù Thiên Chúa quá yêu thương con người như vậy, mà  con người không cộng tác với ơn cứu chuộc  của Chúa Kitô,  bằng quyết tâm sống theo đường lối của Chúa và xa tránh mọi sự dữ và tội lỗi thì Chúa vẫn không thể cứu ai được.  Lý do là  Chúa không tiêu diệt hết mọi  tội lỗi  và vì con người  còn có tự do để  cộng tác với ơn cứu chuộc của Chúa , hay khước từ ơn cứu chuộc này để sống theo thế gian và làm nô lệ cho ma quỉ, kẻ thù của Thiên Chúa.

Như vậy, nếu Thiên Đàng là nơi dành cho những ai thực tâm yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Người và quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi, thì hỏa ngục phải là nơi dành cho những ai đã  cố ý khước từ Chúa và tình thương của Người để sống theo ma quỷ và làm những sự dữ như giết người, hiếp dâm  và bán con gái nhỏ dại  cho bọn buôn người  cung cấp cho bọn đi tìm thú vui man rợ cực kỳ khốn  nạn là thú “ấu dâm”,  như đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới trống vắng niềm tin này. Như thế, phải có hỏa ngục dành cho những kẻ gian ác đã tự ý chọn cho mình nơi ở vinh viễn xa lìa Thiên  Chúa ngay từ ở đời này. Nghĩa là họ đã tự  ý chọn hỏa ngục vì cách sống của họ, chứ không phải vì Thiên Chúa muốn phạt ai ở chốn này, vì Người là Cha đầy yêu thương và “ không muốn  cho ai  phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người  đi tới chỗ ăn năn hối cải.” ( 2 Pr 3 : 9).

2- Sự khác biệt giữa hỏa ngục và  Luyên tội :

Chúa Giê su thường nói đến hỏa ngục là nơi lửa không bao giờ tắt ( Mt 5: 22).

Thánh Gioan Tông Đồ đã coi những kẻ sát nhân là những kẻ không có sự sống đời đời ,tức là phải xa lìa Thiên Chúa trong nơi gọi là hỏa ngục:

Phàm ai ghét  anh  em mình, thì là kẻ sát nhân

Và anh  em biết:

Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga: 15)

Nhưng cần phân biệt điều này: con người dù tội lỗi đến đâu, mà biết sám hối ăn năn thì vẫn  được Chúa thương tha thứ. Cụ thể là Chúa Giêsu đã tha thứ cho người  gian phi ( kẻ trộm lành)  nhận biết tội mình và xin Chúa tha thứ:

Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được ở với  tôi trên  Thiên Đàng.”  ( Lc 23: 39-43) .

Ngược lại, chỉ những ai tội lỗi mà không hề sám hối  để xin Chúa tha thứ , đặc biệt là tội phạm đến Chúa Thánh Thần, tức  tội  hoàn toàn  từ chối lòng thương sót của Chúa cho đến chết , thì sẽ  không bao  giờ được tha thứ,  như Chúa Giê su đã nói rõ trong Tin Mừng Thánh Marcô.( Mc 3: 29)

Lại nữa, những ai chết đang khi mắc tội trọng ( mortal sin) thì cũng chịu hình phạt hỏa ngục, căn cứ theo giáo lý của Giáo Hội. ( X SGLGHCG, số 1035) . Tuy nhiên , cần nói lại là Thiên Chúa không tiền định cho ai phải xuống hỏa ngục , hoặc muốn phạt ai trong nơi “lửa không hề tắt” này. Nhưng vì con người có tự do trong đời sống thiêng liêng, nên nếu  ai dùng tự do này để xa lìa Chúa , để  tự do làm những sự dữ mà không hề biết ăn năn, xin Chúa thứ tha thì đã tự ý chọn hỏa ngục làm nơi cư ngụ cuối cùng cho mình.

Trái với hỏa ngục , Luyên ngục hay Luyên tội ( Purgatory) là nơi các linh hồn thánh ( holy souls)  được thanh luyện để đạt được sự thánh thiện cần thiết trước khi  vào Thiên Đàng vui hưởng Thánh Nhan Chúa là nguồn vui  hạnh phúc của các thánh và các thiên thần.Các linh hồn đang  “ tạm trú” ở đây là những người đã ra đi trong ơn nghĩa Chúa, tức  là được bảo đảm về ơn cứu độ, nhưng vẫn cần được thanh luyện để đạt mức thánh thiện cân xứng trước khi  gia nhập hàng ngũ các Thánh trên Thiên Quốc. Các linh hồn thánh này không thể làm thêm việc thiện, và cũng không thể phạm tội được nữa vì thời giờ đã mãn cho họ trên trần gian  này.  Vì thế, trong khi còn được thanh luyện  ở nơi đây, các linh hồn mong đợi các Thánh trên Thiên Đàng và các tín hữu còn sống cứu giúp họ bằng lời cầu nguyện và các  việc lành. Ngược lại, các linh hồn cũng có thể cầu xin đắc lực cho các tín hữu còn sống trên trần thế và trong  Giáo Hội lữ hành. Nhưng các Thánh trên Trời, các linh hồn thánh trong Luyện ngục và các tin hữu còn sống không thể giúp gì cho các linh hồn đã lìa xa Chúa trong hỏa ngục, vì không có sự hiệp thông nào giữa nơi này với Thiên Đàng, Luyện ngục và Giáo Hội đang lữ hành trên trần thế.

3 – Tín điều các Thánh Thông Công ( communion of  Saints )

Tín điều này dạy: chỉ có sự hiệp thông giữa Giáo Hội vinh thắng ( Triumphal Church) trên trời và Giáo Hội lữ hành ( Pilgrim Church)  trên trần thế cùng với Giáo Hội đau khổ  ( Suffering  Church) trong Luyện Tội. Nghĩa là các Thánh trên Trời , các linh hồn thánh trong Luyện tội và các tín hữu còn sống và đang hiệp thông với Giáo Hội, cả ba thành phần này   được hiệp thông với nhau trong cùng một niềm tin, tôn thờ Thiên Chúa , nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.

Các Thánh nam nữ trên trời hiệp thông với các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các tín hữu trên trần gian bằng lời nguyện giúp cầu thay đắc lực trước Tòa  Chúa  cho các linh hồn và các tín hữu còn sống. Các linh hồn trong Luyện tội không thể tự giúp mình được nhưng có thể cầu xin cho các tin hữu còn sống. Các tín hữu có thể làm việc lành như cầu nguyện. làm việc bác ái và xin lễ cầu cho các linh hồn trong Luyên Tội ( cách riêng trong tháng 11 là thánh dành cầu nguyện cho các linh hồn) được mau vào Thiên Đàng hưởng Thánh Nhan Chúa.

Đó là nội dung tín điều các Thánh thông Công giữa các Thánh trên Thiên Đàng, các linh hồn thánh trong Luyện Tội và các Tín hữu trên trần thế.

Như thế,  chỉ có những ai đang  xa lìa Chúa  ở chốn hỏa ngục thì   không được thông hiệp với các Thánh trên trời , các Linh hồn trong Luyện tội  và các Tín hữu còn sống  trên trần gian này.Do đó, không ai có thể làm gì để cứu giúp họ được nữa.

Vậy chúng ta hãy cố gắng làm việc lành trong tháng  11 này để cầu cho các linh hồn được mau hưởng Thánh Nhan Chúa.Chắc chắn các linh hồn sẽ biết ơn và cầu xin Chúa cách đắc lực cho chúng ta.

Lm Phanxicô Xaviê  Ngô Tôn Huấn

Tản Mạn Về Kiên Giang, Nhà Thơ Minh Hương Việt Hóa

Tản Mạn Về Kiên Giang, Nhà Thơ Minh Hương Việt Hóa

Vietbao.com

Trong văn chương Việt Nam hiện đại có một sự kiện đặc biệt là ba thơ-truyện của ba nhà thơ Bắc Trung Nam nổi tiếng lại xuất hiện rất gần nhau, cuối thập niên 40 và đầu thập niên 50. Cả ba đều đã được phổ nhạc, phổ rất đạt, tiếng nhạc lời ca tuy có tăng gia thêm giá trị cho các bài thơ, đem tác phẩm đến người thưởng thức nhiều hơn, nhưng trên căn bản cả ba bài đều được công nhận là tuyệt tác, đáng nể. Mỗi bài có giá trị riêng nhưng lớp người thưởng thức chung quy chỉ là một nhóm: dễ ngậm ngùi vì sự bi thiết của một tình yêu có người nữ bất hạnh, có chia ly mà không có tái hợp vốn nghịch lại với sở thích truyền thống của người nghe/đọc Việt Nam. Hữu Loan và Kiên Giang với người vợ/người yêu bất hạnh, Vũ Anh Khanh với vùng quê tan tác vì bom đạn – mà ta có thể coi là tượng trưng cho sự tan tác của một cành hoa, một người nữ không may.

Tại sao họ sáng tác ngược lại với sở thích chung lâu đài mà lại được ưa thích? Phải chăng vì cảm quan con người gần đây đã đổi thay? Cũng có thể người nghe đọc thơ-truyện đó thì liên tưởng đến sự bi thương của mình hay người thân, ít ra cũng là sư bi thương của một ai đó sống trong thời đại nầy, cách câu chuyện thiệt của ba tác giả không xa.

Người ta đọc thơ của họ, thấy liền trước mắt hình ảnh từ sự thật, cho nên dễ hóa mình là một phần tử của câu chuyện, hay đi xa hơn một chút, sự kiện đó, bi kịch đó mình đã thấy hoặc đã xảy ra cho mình. Tác giả đem chính đời họ để nói giùm người thưởng thức, vì có sự tương tác và đồng cảm nên tác phẩm được chào đón nhiều.

Hữu Loan kể về người vợ đầu tiên, người vợ ông coi như tình yêu em gái, trong sáng với thương yêu che chở, Kiên Giang với cô Nguyễn thị Nhiều bạn học, từng trao đổi bài vở, buông bắt chuyện không đâu vô đâu với những ánh mắt tha thiết không bao giờ nói và nhất là không hứa gì nhưng là hứa trong tâm tư rất nhiều. Vũ Anh Khanh là chuyến về Trảng Bàng chơi nhà bạn văn đồng tư tưởng, ghé họ đạo Tha La, xúc động trước sự hoang tàn do chiến tranh tác động lên đời sống của dân xóm đạo hiền lành khiến cho hầu hết thanh niên trong xóm tức giận quyết phải lên đường làm một cái gì cho xứ sở, không cần biết sau đó là kết cuộc sẽ như thế nào…

blank

Kiên Giang Hà Huy Hà năm 2008. (Hình trên mạng)
Hữu Loan và Vũ Anh Khanh đã mất từ lâu, một người chết già sau thời gian dài sống đời chua xót vì bài thơ mang đến và vì thái độ phản kháng với chế độ, một người chết trẻ khi quyết lội về vùng đất tự do để được sống và viết phù hợp với đóa tài hoa của mình.

Và mới hai ngày trước đây, chiều 31/10/2014 Kiên Giang đã nằm xuống. Cái chết của thi sĩ chuyên viết thơ-truyện nầy coi như Trời cho một bonus khấm khá, 87 tuổi, sanh năm 1927, chết già, tuy rằng những tháng cuối đời phải buồn bã vì bịnh tật và nghèo khổ. Bịnh tật là do ba tháng trước ông bị xe đụng. Ôi sao những người văn nghệ già của đất nước ta bị tai nạn xe cộ nhiều như vậy! Sơn Nam trước đây, Kiên Giang bây giờ, và còn biết bao nhiêu người nữa mà ta không biết! Người già được Bác Sĩ khuyên cố tránh đừng để té ngã gãy xương, xương già khi gãy khó lành. Ta nói mà không sợ quá lố, hai cái chết nầy là kết quả trực tiếp từ những tai nạn mấy tháng trước ngày mất. Những sáng tác ấp ủ cuối đời của họ không thực hiện được vì những anh nầy ông nọ say xỉn chạy càn, phóng ẩu sau cơn vui…

Thôi! Cứ tạm an ủi nhau để khỏi bi thiết quá độ và trách móc vô ích, ta coi như số của Sơn Nam và Kiên Giang là như vậy. Hết số thì về Trời. Tác phẩm để lại cho Đời bao nhiêu đó đã đủ. Đời chỉ đáng nhận số lượng bấy nhiêu đó từ những người-Trời nầy thôi.

* * *
Tôi giao tình thân mật với Sơn Nam từ trước 75, những năm 69-79 hai người thường nhậu rượu đế ở tệ xá trên đường Chi Lăng; trước 75 thì có chút gì nhè nhẹ rẻ tiền đưa cay, sau 76 thì nhậu khan phần lớn, nhưng chỉ có dịp quen biết với Kiên Giang độ chừng mười năm nay thôi. Mười năm nhưng gặp nhau độ 5, 7 lần, khi thì ở hội quán Nghệ sĩ đường Cô Bắc, khi thì ở quán cóc đường Nguyễn Cư Trinh, hai lần sau cùng nhân đám tang nhà văn Thẩm Thệ Hà. Chúng tôi không còn trẻ nữa nên hai người chỉ nhăm nhi cà phê, Kiên Giang ly đen nhỏ với một món ăn gì đó, người ở xa về ly cà phê sữa thiệt ít cà phê. Chuyện lan man đủ thứ không ra đầu đuôi ngô khoai gì, đụng đâu nói đó. Thỉnh thoảng do thói quen cố hữu, tôi – hay người đi theo – ghi lại vài ba ý đặc biệt hoặc năm ba câu thơ của người mình nói chuyện, nhờ đó giờ đây tôi có được một vài câu thơ- miệng của Kiên Giang. Tôi gọi là thơ-miệng vì ông đọc cho tôi, và thiệt tình không biết ông có đọc cho ai khác hay đã in ở đâu chưa.

Tôi xếp Kiên Giang vô lớp nhà thơ của tình yêu: Tình yêu gái trai không trọn vẹn mà ai cũng biết, tình yêu quê hương âm ỉ, giấu giếm trong lòng, chỉ khi hứng chí tuôn ra chút chút với bạn bè có chút gì liên quan đến chữ nghĩa hay ý kiến về những chuyện xảy ra chung quanh.

Kiên Giang có lối nói chuyện thẳng thừng, gọn, không rào đón, tiếng nói mạnh, thấy trong cách nói sự ngay thẳng của người Nam. Ông thường nhấn mạnh, tôi là người gốc Hoa, có thể gọi là Minh Hương. Nhưng Minh Hương gì nữa? Tôi trở thành người Việt chánh cống lâu rồi hồi nào không biết, có lẽ do chơi thân với toàn là người Việt… rồi mất gốc luôn. Nơi đây là quê hương tôi, quê hương con cháu tôi…

blank

Bìa bản nhạc thơ Kiên Giang do Huỳnh Anh phổ. (Tài liệu từ Internet)
Tôi cảm giác sờ đụng được sự thành thật trong lời nói của người thơ kiêm soạn giả cải lương nầy. Việt Nam đã có nhiều người gốc Hoa bồi đắp cho văn chương Việt bằng tác phẩm có giá trị như Trịnh Hoài Đức, Mạc Thiên Tích, Hồ Dzếnh… có thể là cả Phan Thanh Giản và nhiều nhà thơ sành chữ Hán khác của Miền Nam nữa… Dòng máu cha sanh mẹ tạo hình thành con người sinh học của ta, nhưng chính tâm hồn và cảm thức của ta mới quan trọng, nó được cá nhân ta hoàn thiện từ từ theo thời gian và nhận thức để tạo nên con người thật là ta với bản ngã của ta. Tâm hồn Kiên Giang đáng quí ở chỗ chung thủy với người yêu, cảm thấy mình có lỗi khi không hiểu ý tình của người yêu cho nên ray rứt trường kỳ, sự ray rứt đó tạo nên thơ-truyện buồn Hoa Tím Thôi Cài Lên Mái Tóc. Ray rứt đó khiến ông thay đổi đoạn kết câu chuyện dầu rằng thoại trước đã thành công. Sự công bố câu chuyện tình yêu, công bố hình ảnh người tình quá vãn là sự biểu hiện đáng quí cái tâm hồn chung thủy của ông.

Tôi nhớ lần nào đó mình đã hỏi:

Mối tình đó anh mang trong lòng hoài làm sao chịu nổi, làm sao sống?

Và ông trả lời gần như gằn từng tiếng:

Đâu phải lúc nào cũng nhớ đâu! Nhưng mà tiếc vì mình vô tình, vì mình lo công việc riêng làm mất hụt nhiều thứ. Mình có lỗi nhiều với người ta. Nhắc nầy làm nọ cũng là cách xin lỗi người ta.

Ông chuyển đề tài hỏi tôi có đem theo quyển Lúa Sạ Miền Nam có bút tích của ông mà tôi mua được ở chợ sách cũ như đã hứa trước khi đến không. Tôi đưa ra mấy trang copy bút tích của ông, của Sơn Nam …, ông cám ơn sau khi đã coi lại cẩn thận.

Tôi ngồi nhìn người thơ lớn tuổi, điếu thuốc gắn trên môi, tàn dài chưa rớt, tay lật lật những tờ giấy, ngừng lại hơi lâu ở hình chụp chung hai người trẻ Kiên Giang và Sơn Nam, tôi ngẫm nghĩ về cách ông cẩn thận và trân trọng đối với kỷ niệm trong khi đó cũng như bạn chí cốt của ông trước đây, khi được tặng tiền đã hờ hững bỏ túi không bao giờ đếm hay sành soạn coi ít hay nhiều.

Nói chuyện với ông mấy lần tôi biết được lắm điều thú vị mà trước nay mình không biết. Chẳng hạn nhà thơ Truy Phong sống suốt đời ở quê trên cù lao Dài, quận Vũng Liêm, đã chết cách đây 4 năm. (lúc chúng tôi nói chuyện 2010), chẳng hạn như nhà văn Nguyễn Tử Quang của xứ Sóc Trăng cũng có làm thơ và ông ta ký là Vô Ngã, chẳng hạn như tuồng cải lương Trương Chi Mỵ Nương tuy để tên một mình Hà Huy Hà nhưng có sự góp sức đáng kể của Hà Triều và Hoa Phượng mà vì lý do tế nhị với đoàn hát không thể để tên ba người.

blank

Địa chỉ ông cho tôi trước khi về Long Xuyên năm 2010. Cả hai bây giờ đã trở thành hư ảo, số đt thì càng hư ảo hơn!
Tôi ngạc nhiên nhiều khi ông kiên nhẫn đọc đi đọc lại cho người chép chép bài thơ của thi sĩ Nguyễn Văn Cổn, một bài thơ quê hương nhè nhẹ kiểu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân, thầy tôi:

Tù-và văng vẳng nhớ quê xưa,
Nhớ bóng làng ta khuất lá dừa,
Nhớ ngọn lúa vàng bông phất phới,
Nhớ bần bên rạch ngọn đong đưa… (thơ Nguyễn Văn Cổn)

Phải yêu thắm thiết quê hương nầy mới nhớ được bài thơ ít người biết kia! Càng ngạc nhìên hơn nữa khi ông đọc vài bài thơ-miệng của mình về thời thế với nội dung mà tiếng bên đó bây giờ gọi là nhạy cảm, có vấn đề, nói chơi với nhau thì được viết lên giấy trắng mực đen thiệt là gay.

Tôi thích nhứt ba câu mà Kiên Giang nhấn mạnh trước khi đọc: Tôi làm ba câu thôi, ai muốn hiểu sao thì hiểu, ai muốn làm thêm thì cứ làm, tôi không chịu trách nhiệm:

Đĩ điếm cũng thay khung mặt nạ,
Đổi ngón nghề, lang chạ gian manh.
Hòa Bình tưởng hết chiến tranh… (thơ-miệng Kiên Giang)

Tôi ứng khẩu thêm vô câu cuối theo cái nhìn của người ở ngoài nước…, ông nghe xong chỉ cười cười không nói gì.

Có lần trước khi chia tay ông nhấn mạnh về tình người, tình bạn về cách sống của người lúc lên voi làm sao cho phải đạo và kết luận bằng cặp thơ:

Cho hay hết thảy đều tan biến,
Còn lại ngàn sau chút nghĩa tình. (thơ-miệng Kiên Giang)

Và, ông vừa nói vừa mỉm cười: – ít thấy ở ông. Có hai câu nầy cho Việt Kiều:

Dầu xa cách mấy trùng dương,
Ở đâu cũng có quê hương trong lòng. (thơ-miệng Kiên Giang)

Anh Kiên Giang! Hơi khác với trường hợp anh sanh ra và sống trọn đời ở Việt Nam nên tha thiết với quê hương phong cảnh Việt, trở thành người thuần Việt, không để ý gì đến xứ sở máu thịt Trung Hoa, chúng tôi sanh ở Việt Nam, sống thời gian dài ở nước ngoài hơn sống ở nơi mình sanh ra nên có cái quê hương của tuổi trẻ trong lòng, đồng thời cũng có cái quê hương trung niên trong trí, cái quê hương thứ hai đã bao bọc và che chở chúng tôi khi bị quyền lực trên cái quê hương thứ nhứt làm khó dễ trăm bề…

Vâng, thưa anh Kiên Giang, dẫu xa quê hương cách mấy, trong lòng những người xa xứ chúng tôi cũng canh cánh nhớ về cái quê hương đầu tiên nơi mình được sanh thành. Nhưng cũng từ lòng yêu quê hương thâm sâu đó chúng tôi đau đớn thấy nó bị bóc lột lợi dụng, ngóc đầu lên không nổi, thua kém những đất nước chung quanh….

Nguyễn Văn Sâm

(California, ngày 03 tháng 11 năm 2014)

Anh với tôi mộng canh trường

Anh với tôi mộng canh trường

Chuacuuthe.com

Mai Tá lược dịch

VRNs (05.11.2014) – Úc Đại Lợi – Suy tư Tin Mừng Chúa Nhật thứ 32 mùa Thường niên năm A 09-11-2014

“Anh với tôi mộng canh trường,”

“Giăng kề song cửa, hoa kề gối

“Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương”.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 2: 13-22

Truyện sầu hay truyện mến thương của tôi và anh, đâu chỉ là chuyện của thi ca, và âm nhạc. Truyện như thế, vẫn trải dài ở nhiều nơi, cả ở ngoài đời lẫn trong Đạo.

Rất nhiều người ở đời thường, vẫn hay tỏ bày nỗi ngạc nhiên rất mực, khi khám phá ra rằng: ngay như nhà Đạo, vẫn có chuyện phân biệt giữa đền thánh với nguyện đường, ở địa phương. Điều mà nhiều người thường nghĩ, đó là: đền thánh Phêrô không phải là Nhà Thờ Chánh Toà của Giáo phận La Mã. Thậm chí, có khách hành hương còn đến đây, để tìm cho ra ngai triều của Đức Giáo Hoàng, tức Đức Giám Mục thành Rôma, nhưng không thấy.

Có người lại cứ tưởng chiếc ghế chạm trổ công phu của thánh Phêrô đặt sau bàn thờ trên cao, là ngai-triều chính-hiệu của ngài, nhưng vẫn lầm. Có người lại cứ nghĩ: chiếc ghế di-động mà Đức Giáo Hoàng thường ngồi, là ngai triều của ngài, cũng không đúng.

Thánh đường Latêranô đích-thực là Vương Cung Thánh Đường, của La Mã. Ở nơi đó, có ngai-triều của Đức Giám Mục thành Rôma, rất đúng thực. Từ thế kỷ IV, Giáo hội dùng nơi này để cung-hiến thành chốn thánh dâng lên Chúa.

Nơi đây, mỗi năm Đức Giáo Hoàng vẫn thân-hành đến chủ-trì các nghi lễ phụng-tự, rất long trọng. Và chính tại thánh-đường này, ngài uy-nghi ngồi trên ngai-toà mình ngõ hầu ban huấn-từ, giãi-bày nhiều điều cho dân Chúa biết.

Trong cuộc sống Giáo hội, nhiều giáo hội địa phương cũng dùng việc kỷ-niệm cung-hiến thánh đường trong giáo-phận mình, coi như lễ trọng. Cung-hiến thánh-đường Latêranô, là lễ-hội toàn-cầu, nhằm nhắc ta nhớ mà hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng, trên cương-vị ngài là Giám Mục thành La Mã.

Bằng vào cử-chỉ này, ta chứng-tỏ rằng: Giáo-hội mình là Giáo-hội của chung, rất Công giáo. Nhưng, điều đáng buồn, là: đôi khi ta cũng thấy nhiều người nghĩ rằng họ được phép chọn-lựa giữa Giám-mục địa-phận mình với cả Giám-mục thành La Mã nữa. Điều này, thật cũng có ý nghĩa, nhưng đó không phải là tính-cách chung, của Công giáo.

Nói cho cùng, dù ta có lòng mến mộ Đức Giáo Hoàng đặc-biệt thế nào đi nữa, thì tình-cảm riêng-tư của ta vẫn không dẫn đến kết-quả như một hiệp-thông với ngài. Bởi, ta chỉ có thể hiệp-thông với Đức Giáo Hoàng khi có được sự thông-hiệp ngang qua Giám-mục sở tại của mình, mà thôi.

Và, Đức Giám mục địa phận sở tại của ta cũng chủ sự cùng một Tiệc Thánh Thể như và với Đức Giám Mục thành La Mã là Đức Giáo Hoàng.

Trong cuộc sống thường-nhật, nhiều nguời cũng mắc phải sai lầm tựa như thế, cũng là điều dễ hiểu thôi. Nhiều năm qua, Hội-thánh ta vẫn tập-trung vào vai-trò của Đức Giáo Hoàng mạnh đến độ ta sẽ được tha thứ nếu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng chỉ là Cán bộ Cấp Cao của Giáo triều Vaticăng.

Và Đức Giám Mục sở tại lại là Giám-đốc hay Thủ-trưởng, một chi-nhánh của giới cầm-quyền.

Nên, khi Đức Giáo Hoàng ra lệnh “hãy nhảy lên”, thì ta hỏi: “Dạ thưa, cao đến cỡ nào ạ?” Thành thử, vấn-đề này xem ra hơi giống thái-độ của những người “bảo hoàng hơn vua”, luôn có nguồn sử của Hội thánh, cũng tương tự như thế.

Chính vì thế, nên Công Đồng Vatican II đã làm sáng-tỏ vai-trò của Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai, giáo-huấn và thực-thi hiến-pháp, trong Giáo hội. Công Đồng Vatican minh định rất thận trọng, là nhằm hồi-phục chức-năng đúng-đắn khi xưa, về cương-vị lãnh-đạo của Đức Giáo Hoàng.

Công Đồng đây cho thấy, việc cai quản, giáo huấn và thi hành giáo-luật luôn chứa-đựng một bối-cảnh, vẫn có từ khi trước. Công Đông vẫn dạy rằng: Đức Giáo Hoàng thực thi cương-vị lãnh-đạo như vị thủ-lĩnh tối cao trong số các Giám mục. Ngài là mục-tử mang tính toàn-cầu. Là, dấu chỉ của sự hiệp-nhất trong Hội thánh.

Và, là người có trọng-trách giáo-huấn, duy-trì và bảo-vệ niềm tin của toàn-thể Hội thánh, ngang qua phương cách mà ngài xác nhận với những người anh em Giám mục có cùng một trọng trách trong giáo hội địa phương của các ngài.

Chính từ đó, nguồn cội của cụm từ “vâng phục” lại có ý nghĩa của sự việc “lắng nghe một cách cẩn trọng”.

Vì thế nên, Tiệc thánh hôm nay là để ta cử-hành sự hiệp-nhất trong đa-dạng, khi ta tập-trung nhấn mạnh đến Mẹ thánh Giáo-hội đối với các giáo-hội Công giáo La Mã, ở địa phương.

Cầu mong sao, từ đó ta lĩnh-hội được điều tốt đẹp để có quyết-tâm với Đức Giám Mục sở tại nơi ta sống. Bởi, ngài cũng là đấng kế-vị của các thánh tông đồ. Và, ngài cũng đáp-ứng với lời kêu gọi của Đức đương kim Giáo Hoàng giúp ngài nghĩ ra các phương-cách khả dĩ thực-hiện công việc phục-vụ Hội thánh. Đó, là “dấu chỉ” lớn lao hơn cho sự hiệp-nhất Đạo của Chúa với thế-giới nhân-trần, trong lai thời.

Cũng cầu mong sao, để mỗi người chúng ta nhớ được rằng: tinh-thần mà Tin Mừng hôm nay muốn tỏ-bày, chính là sự việc Giáo-hội cũng được dựng-xây bằng gạch hồ thật đấy. Thế nhưng, Thân Mình Rất Hiển Vinh của Đức Kitô lại vẫn được đúc-kết bằng những người con biết sống-thực tình yêu thương cứu-độ Ngài ban cho thế-giới, rất hôm nay.

Trong tinh-thần cảm-nghiệm những điều như thế, ta lại sẽ ngâm nga câu hát của nhà thơ ở trên, vẫn hát rằng:

“Anh với tôi mộng canh trường,

Giăng kề song cửa, hoa kề gối

Anh truyện sầu, tôi truyện mến thương.

Anh buồn từ thuở giăng lên núi

Ấy độ tôi về ước lại mong.”

(Đinh Hùng – Cặp Mắt Ngày Xưa)

Nỗi buồn, thuở nào cũng vẫn là buồn một nỗi thời muôn thuở. Miễn anh và tôi, ta cũng chớ buồn vì sự chênh-lệch quyền-bính ở nhà thờ và nhà Đạo, rất hôm nay. Bởi lẽ, quyền-bính với quyền-hành ngày hôm nay, dù ở nơi nào đi nữa, vẫn là vấn-đề muôn thuở của tôi và của anh, rất sáng ngời, đầy bực bõ.

Thế nên, giải quyết được tranh-chấp quyền-hành ở mọi chốn, cũng là giải quyết tận gốc mọi nỗi buồn của người con trong nhà Đạo, suốt mọi thời.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Dự án Long Thành có chính đáng?

Dự án Long Thành có chính đáng?

Nguyễn Đình Ấm

Tiền trảm, hậu tấu

Trước năm 1975, sân bay Tân Sơn Nhất (TSN) có diện tích 3.600 ha, nhưng đến nay chỉ còn 1.150 ha, do chính quyền TP HCM để cho dân tự do lấn chiếm, các đơn vị quân đội, hàng không dân dụng phân, chia cho CBNV xây nhà cửa, công trình vào quỹ đất sân bay. Đây là hậu quả của những bộ óc thiển cận hoặc tham nhũng, có thể họ cho là sân bay chỉ cần những chỗ đang sử dụng mà không biết hoặc cố tình không biết rằng sân bay phát triển theo từng giai đoạn thị trường yêu cầu, phải có quỹ đất để dành cho nó. Thêm vào đó hiện tượng quản lý đô thị “phạt cho tồn tại” làm đầy túi quan chức và dẫn đến sân bay bị nhà cửa thu hẹp.

Sau năm 1975, nhà nước giao TSN cho không quân và dân dụng dùng chung, trong khi hàng không dân dụng phát triển hai con số thì chỉ được sử dụng 205 ha, họat động HK quân sự ngày càng teo tóp chỉ có ít máy bay hoạt động, lại có cả sân bay Biên Hòa gần đó thì chiếm tới 545 ha ở TSN (400 ha dùng chung), dẫn đến nhiều diện tích đất bên quân sự bỏ hoang, biến thành đất ở, cho thuê kiếm lợi cục bộ…

Mặc dù chỉ còn quỹ đất tối thiểu chuyên phục vụ an ninh quốc phòng, nhưng từ những năm 2004, 2005, khi giá đất sốt, các đại gia quân đội đã âm thầm thực hiện dự án sân golf, nhà hàng, khách sạn, khu biệt thự thương mại ở TSN với diện tích 157,6 ha. Đến nay tổ hợp công trình khổng lồ ấy đã gần xong.

Để “yên thân” dự án sân glof mãi mãi, tất nhiên người ta phải làm sao có chỗ thay thế TSN, nghĩa là cần xúc tiến dự án Long Thành (LT). Dự án quy hoạch LT được tiến hành gần như song song với dự án sân golf TSN. Từ nhiều năm nay các đại gia đất ở đây đã chia lô “bán đất gần sân bay Long Thành” đợt 2, đợt 3… Thế là, khi mọi việc đã đâu vào đấy, đến nay họ mới trình quốc hội về dự án Long Thành. Kỳ họp này các đại biểu “của dân, vì dân” mới bàn có thực hiện dự án LT thay TSN hay không. Họ không biết ngượng khi nói TSN chật hẹp (chật hẹp nhưng có 157,6 ha làm sân golf)! Họ không trả lời được câu hỏi: tại sao sân bay Check Lap Kok của Hongkong diện tích xấp xỉ TSN mà người ta làm được sân bay 45-80 triệu khách còn TSN lại không?

Họ đã coi quốc hội là cái gì? Rất may, quốc hội kia có những 500 bộ mặt nên sự thẹn thùng (nếu có) chia đều cũng chẳng đáng là bao!

Mọi “véc tơ” đều theo một hướng

Để thuyết phục dư luận phải xây LT, chủ đầu tư, những “dư luận viên” vệ tinh, cơ quan truyền thông “lề phải”… trổ hết tài năng để định hướng ủng hộ đại gia sân golf.

Đầu tiên họ thổi phồng mức tăng trưởng khách của TSN liên tục “hai con số” đến cả những năm 2050 nên TSN có đến 100 triệu khách/ năm để “dồn” quốc hội đến “chân tường”. Họ bịp dư luận, vì sân bay lúc đầu phát triển bao giờ tốc độ tăng trưởng khách cũng cao nhưng sau giảm dần do thị trường bão hòa, đồng thời có sự san sẻ, cạnh tranh của các sân bay khác, phương tiện khác như tàu hỏa, ô tô cao tốc… Đặc biệt, TP HCM có các sân bay quốc tế xung quanh như Cần Thơ, Phú Quốc…

Sân bay có gần trăm năm phát triển đông khách nhất thế giới hiện nay của nước giàu, nhộn nhịp nhất thế giới (Mỹ) là Hartsfield-Jackson-Atlanta cũng chỉ có 89,3 triệu khách/năm và hàng chục năm nay không tăng nữa. Long Thành ở một đất nước độc tài, nghèo rớt, tham nhũng nhất nhì thế giới, khách du lịch quốc tế đến VN 8 tháng năm 2014 chỉ có 5,4 triệu… lấy đâu ra 100 triệu khách/năm mà phục vụ, cạnh tranh với các cảng HK khác như Bangkok, Singapore, Check Lap Kok, Subang…?

Một lãnh đạo DN sân golf còn trơ trẽn phát biểu “ở các nước sân bay cách thành phố phải trăm km…”. Thực tế không có sân bay nào trên thế giới xa thành phố đến 100 km. Nằm xa TP nhất là sân bay Incheon (Hàn Quốc) cách seoul 70 km vì người ta không tìm đâu ra khu đất bằng đủ làm sân bay ở xứ xở toàn đồi núi… Rồi năm ngoái nhằm đúng dịp Hội đồng nhân dân TP HCM họp thì diễn ra cảnh tốc mái nhà dân để VTV phát phóng sự om sòm ám chỉ TSN không an toàn. Sau đó ngành HKVN vạch trần sự vô lý này, và từ đó không nhà nào bị “tốc mái” nữa (?). Họ tận dụng cả những cá nhân không có “trọng lượng” là bao nhưng kê kích lên để tăng “cường độ” ủng hộ.

Ông Lương Hoài Nam học thương mại HK ở Liên Xô cũ (thời mà nền kinh tế bao cấp vẫn ngự trị nước này) về VN làm trong ban kế hoạch thị trường rồi sang công ty Pacific Airlines. Tại đây ông cùng Bộ Tài chính hy sinh lợi ích công ty HKVN cho chiến lược quảng bá thương hiệu “xuyên châu Á” của Quantas (Úc) là Jetstar (công ty con của Quantas) rồi hãng HKVN mang tên nước ngoài này lỗ 1.300 tỷ VNĐ. Sau đó ông Nam được “dàn xếp” cho đi nghỉ ngơi ở trại giam mấy tháng rồi về làm giám đốc hãng HK Mekong Air. Sau khi Mekong Air phá sản ông lại làm giám đốc cho công ty bay trực thăng Hải Âu mới thành lập… Ông Nam không có nghiệp vụ gì ghê gớm về sân bay nhưng được nhất loạt tôn làm “chuyên gia hàng không” dự các cuộc họp phát biểu ủng hộ nhiệt liệt dự án LT. Rồi ông Lã Ngọc Khuê nguyên thứ trưởng Bộ GTVN phát biểu ủng hộ LT với những thông tin từ những năm 1960… Đặc biệt hơn, ngày 14/10/2014 lãnh đạo tỉnh Đồng Nai còn thông báo một thông tin thuộc cỡ “kinh ngạc” nhất: “99,9% những hộ dân bị ảnh hưởng dự án Long Thành ủng hộ dự án”! Có lẽ nhà nước nên cấp kinh phí để chở dân oan mất đất khắp cả nước về Đồng Nai mà học tinh thần “cách mạng” của dân nơi đây.

Sát ngày quốc hội họp, lãnh đạo Bộ GTVT lại công bố “tập đoàn Nhật tài trợ 2 tỷ đô làm Long Thành”. Có thể họ tưởng nói tiếng Việt thì người Nhật, người Pháp không hiểu, nhưng chỉ sau mấy giờ Nhật đã bác bỏ thẳng thừng thông tin “khôn vặt” kia, rồi lại thông tin đoàn ADPi gì đó của Pháp tài trợ 2 tỷ đô nữa cũng không có nốt! Khi cụt đường về nguồn vốn, các ông xoay đủ ngón như huy động tư nhân nước ngoài đầu tư vì triển vọng có lãi. Nếu dự án LT có triển vọng lãi tốt thì các ông không cần kêu gọi, các đại gia đang xây dự án sân golf, khách sạn, nhà thương mại ngay tại TSN sẽ tiên phong đầu tư để “yên thân” dự án sân golf của họ rồi!

Nếu một việc mà chính đáng thì cần gì phải “ diễn” vở dài và công phu như thế?

N.Đ.A.

Khi người đàn bà bước vào nhà thờ

Khi người đàn bà bước vào nhà thờ

Tác giả: Đinh Lâm Thanh

‘Linh mục lấy vợ’ là một vấn đề đang được thảo luận trong giáo hội công giáo. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra một khi giới linh mục được phép lập gia đình ? Vẫn biết rằng Vatican đã biết trước những hậu quả không mấy tốt đẹp một khi người đàn bà xuất hiện trong đời sống của linh mục. Nhưng tôi nghĩ rằng, những đề nghị đóng góp từ phía giáo dân đối với việc thay đổi quan trọng trong đời sống linh mục sẽ hữu ích phần nào trước khi tòa thánh có quyết định cuối cùng. Bởi lẽ đó, trong phạm vi một Kytô hữu, tôi xin góp ý : giáo hội công giáo không phải chỉ một khối lãnh đạo độc nhất của Vatican, tòa giám mục và nhà thờ, mà chính là cả một tập thể lớn, được kết hợp và hoạt động chặt chẽ giữa con chiên và chủ chăn, tức là giữa giáo dân với linh mục. Vì lý do nầy, và trong giai đoạn Vatican đang nghiên cứu việc cho phép linh mục lấy vợ, tôi xin trình bày quan điểm của một giáo dân về những chuyện có thể xảy ra, nếu…

Trước hết, xin khẳng định rằng đây là một bài viết xây dựng mà cá nhân người viết cũng nhìn thấy trước phần nào những gì không mấy tốt đẹp sẽ xảy đến cho linh mục cũng như họ đạo một khi người đàn bà thực sự bước vào đời sống của nhà thờ.

Theo nhật báo New York Times, trong chương trình đổi mới của Giáo Hội Công Giáo, đương kim Đức Giáo Hoàng đã đồng ý đưa nhiều vấn đề thời sự ra thảo luận, trong đó có đề tài linh mục sẽ được lấy vợ. Đây là một tin quan trọng đối với các vị lãnh đạo tinh thần cũng như người công giáo trên toàn thế giới.

Trước khi vào bài, xin minh định rằng, người viết kính trọng tất cả các vị tu hành của bất cứ tôn giáo nào, nơi đâu và thời buổi nào, vì theo tôi, những người tu hành là những vị có một đời sống hơn hẳn người phàm tục về tất cả mọi phương diện. Đúng vậy, kẻ tu hành là những người đã dứt khoát từ bỏ được ba cái tầm thường ‘tham sân si’ để hiến đời mình cho lý tưởng. Họ vui lòng chấp nhận một cuộc sống gian khổ, ăn uống đạm bạc, không màng đến danh lợi của cải vật chất, và nhất là, tự kềm chế mình trước những đòi hỏi của xác thịt. Hơn nữa, những người tu hành luôn tu luyện bản thân để suốt đờì phục vụ tín hữu từ trách nhiệm tinh thần cho đến sinh hoạt xã hội. Nhưng thật buồn, một số nhỏ linh mục đã lên tiếng đòi được phép lập gia đình, trong đó có nhiều vị phạm phải giới răn thứ sáu cũng như lạm dụng tình trạng ấu dâm để phải ra tòa và gây tổn thương lớn cho giáo hội, nhất là tại Mỹ. Có thể vì những yêu cầu của số linh mục nầy hoặc nhằm giải quyết sự dồn ép sinh lý trong cơ thể của giới linh mục mà Đức Thánh Cha đã đồng ý đưa vào chương trình thảo luận việc cho phép linh mục lấy vợ.

Linh mục công giáo được đào tạo bởi các giáo phận theo phạm vi vùng (địa phận) hoặc các cơ sở trực thuộc giáo hội trung ương để phục vụ các giáo xứ (họ đạo), gọi là linh mục triều. Ngoài ra còn nhiều nhà dòng đào tạo linh mục để phục vụ theo chiều hướng phụng vụ riêng, như đã có ở VN trước đây và hiện giờ vẫn còn một số dòng tu. Nhưng dù linh mục dòng hay triều, việc đào tạo linh mục đều tương đối giống nhau về thời gian, chương trình giáo huấn và phải đủ điều kiện tinh thần cần thiết đúng theo tiêu chuẩn của giáo hội mới được thụ phong linh mục.

Các linh mục dòng thường sống trong khuôn khổ tập thể, đọc kinh cầu nguyện và làm việc theo luật riêng của từng dòng tu. Nói chung, các linh mục dòng đều sống khổ hạnh (Vinh Sơn, Phanxico) và hoạt động trong các lãnh vực bác ái (Phanxico), truyền thông (DCCT) văn hóa (Jésus) cũng như giáo dục (Jésus, DomBosco, Đa Minh….). Ngược lại, linh mục triều, sau khi được truyền chức thánh thì được bổ nhiệm về phục vụ tại các họ đạo. Do đó đời sống của các linh mục triều được cởi mở rất nhiều từ giờ giấc, dinh dưỡng đến chương trình phụng vụ cũng như tự do tiếp xúc với giáo dân. Đó là nguyên nhân linh mục triều thường vấp phải một số lỗi lầm như vi phạm điều răn thứ sáu, và thời gian gần đây, đã đi đến việc yêu cầu được lấy vợ. Có thể nói rằng những cái cám dỗ nầy đều bắt nguồn từ môi trường nầy.

Đào tạo một linh mục công giáo không phải là một chuyện dễ dàng và nhanh chóng. Ví dụ đối với giới linh mục triều, sau khi xong bậc tiểu học, nếu thí sinh được chọn thì phải mất trên 13 năm học tập cũng như thử thách qua hai trường đào tạo tiểu chủng viện và đại chủng viện.. Chương trình học tại hai trường tu nầy tương đương với trung và đại học ngoài đời. Trước khi trở thành linh mục, mỗi đại chủng sinh tối thiểu cũng đạt đến trình độ tiến sĩ thần học. Nếu có khả năng, linh mục sẽ được tiếp tục theo các chương trình hậu đại học trên thế giới hay tại các học viện trực thuộc giáo hội công giáo tại Vatican. Người viết hơi dài dòng một chút vì cảm thấy tiếc cho những linh mục đã quên lời khấn hứa của mình, ngoài việc vi phạm những điều cấm về nhục dục (điều răn thứ sáu) đối với một người đã chịu chức thánh mà còn đòi hỏi được lập gia đình như một giáo dân bình thường !

Vậy khi người đàn bà xuất hiện trong đời sống của linh mục, nhà thờ cũng như họ đạo thì những tệ hại nào sẽ xảy ra ?

Xin đơn cử vài ba ví dụ :

1. Người đàn bà sẽ chi phối đời sống thánh thiện và chương trình phụng vụ của một linh mục.

Linh mục giữ một vai trò tối quan trọng đối với họ đạo, không những trách nhiệm tinh thần người tín hữu mà còn có bổn phận xã hội với con chiên trong giáo xứ. Bù lại, với quan niệm của giáo dân, cha sở họ đạo là người thay mặt Chúa, là người vượt trên tất cả những cái tầm thường của người đời, do đó linh mục được tất cả con chiên kính trọng và tùng phục. Nhưng nếu mai kia đời sống của linh mục có một người vợ và đàn con bên cạnh, liệu chủ chăn có còn thời gian rỗi rãnh cũng như sức lực thể xác, sự bình an tâm hồn như một người độc thân ? Hay suốt ngày phải bận rộn về cuộc sống gia đình, từ đưa vợ vào nhà thương, dẫn con đến trường học đến việc đi chợ mua thức ăn hoặc mua sắm cho vợ con…Từ những hình ảnh nầy con chiên sẽ mất dần cảm tình một chủ chăn qua những cái tầm thường của một người đàn ông ngoài đời. Thử nghĩ xem, một linh mục có vợ có con, đêm mệt mỏi thể xác, ngày toan tính tiền bạc thì khi dâng lễ có còn hùng biện để rao giảng phúc âm cho giáo dân tránh tội lỗi và sống một cuộc đời thánh thiện ? Ngoài ra, người đàn bà sống bên cạnh linh mục thì trước sau gì cũng nắm phần tài chánh gia đình và dĩ nhiên sẽ nhúng tay vào việc đóng góp của nhà thờ ! Sự kiện quan trọng nầy làm cho linh mục luôn lo nghĩ và bận rộn về tiền bạc, vậy linh mục có đủ cam đảm để rao giảng về đề tài : ‘được cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích gì’ trong các buổi lễ cho con chiên họ đạo không ?

Có thể nói rằng khi người đàn bà đến với một người đàn ông thì sẽ mang hạnh phúc hoặc đau khổ cho người đó. Riêng với linh mục, tôi chắc chắn sự hiện diện của người vợ sẽ đem lại sự khổ tâm hơn là an lành. Tôi cho như vậy vì linh mục trước đây độc thân, không bị ai dằn vật trong cuộc sống hằng ngày từ tiền bạc đến ghen tương, đêm ngủ ngon giấc, ngày lo việc đạo và tự do cởi mở với con chiên tín hữu trong giáo xứ. Hơn nữa, bản tính người linh mục hiền hòa, chân chất, dễ tin và nhất là chưa kinh nghiệm bề mặt trái của tình cảm cũng như cuộc sống lứa đôi nên dễ bị người đàn bà lấn áp và chỉ huy.Và một khi đã có vợ con thì linh mục phải đèo thêm nhiều gánh nặng gia đình và nhiều vấn đề ngang trái khác của cuộc sống tình cảm. Người chủ chăn không còn sáng suốt cũng như nhiều thời gian để suy gẫm kinh sách, chuẩn bị bài giảng và làm việc phụng sự tông đồ. Hơn nữa, khi một người đàn ông đã có vợ mà còn được phái nữ ái mộ thì, dù là linh mục, cũng chắc chắn có nhiều thứ tình cảm khác nẩy sinh theo ngày tháng, rồi sẽ có chuyện so sánh, đèo bồng để đi đến tình trạng mèo chuột, ghen tương, đổ vỡ và ly dị. Vậy còn đâu hình ảnh tốt đẹp của một linh mục để cho giáo dân kính phục !

2. Sự tôn nghiêm và nếp sống đạo đức của nhà thờ sẽ bị ảnh hưởng vì sự xuất hiện của một người đàn bà.

Đây là điều dĩ nhiên, người đàn bà sẽ nhúng tay vào công việc nhà thờ. Với vai trò người vợ trong gia đình, người đàn bà là phụ tá riêng cho linh mục trong giao tế, hành chánh…rồi dần dần sẽ tiến đến việc kiểm soát tài chánh và nhúng tay vào tài sản giáo hội cũng như quỹ của nhà thờ. Linh mục cũng là một con người, nhất là đang hạnh phúc với mái ấm gia đình, thì liệu linh mục có thể cấm cản người vợ yêu quý của mình những vấn đề liên quan đến nhà thờ ? Hay linh mục sẽ tìm mọi cách nhắc khéo giáo dân đóng góp tiền bạc thêm cho nhà thờ qua các buổi giảng đạo hoặc những dịp giao tế thăm viếng con chiên ?

Một vấn đề nữa sẽ xảy đến, đó là việc ghen tương trong nhà thờ và giáo xứ. Đúng vậy, người vợ nào lại không muốn bảo vệ người chồng cho riêng mình trong lúc linh mục cai quản họ đạo là cái đích của theo đuổi của các bà các cô trong giáo xứ. Từ lý do nầy, linh mục bị vợ theo dõi và kiểm soát từ tư tưởng đến hành động, nhất là những lần linh mục ngồi tòa giải tội cho giáo hữu thuộc phái nữ.

Từ những yếu tố trên, có thể tạm nghĩ rằng tòa giảng sẽ bị lạm dụng cho việc xin tiền theo nhu cầu của gia đình linh mục và tòa giải tội cũng có thể biến thành nơi hẹn hò thầm kín. Linh mục không còn là thần thánh nữa, cha xứ có vợ con tức là đã trở thành một người phàm tục thì có thể yêu bất cứ ai và cũng không ngăn cấm được đàn bà con gái trong họ đạo yêu cha. Như vậy có thể nghĩ rằng, tòa giải tội là nơi kín đáo và hợp lý nhất để biến thành chỗ hẹn hò, tỏ tình, yêu đương và ghen tương !

3. Trật tự cũng như tinh thần đoàn kết của họ đạo sẽ xáo trộn.

Khi linh mục cưới một người đàn bà trong giáo xứ thì chắc chắn sẽ xảy ra một vài biến cố về việc đổi ngôi vị và cách xưng hô tại họ đạo. Ví dụ một gia đình bình thường nào đó, trong phạm vi quản lý của cha xứ, trở thành thông gia với linh mục thì dĩ nhiên gia đình nầy biến thành cha mẹ vợ của cha xứ. Việc trước tiên phải đổi cách xưng hô. Một người con gái hay phụ nữ bình thường nào đó trước khi nay trở thành vợ cha xứ thì giáo dân trong họ đạo phải thưa trình thế nào cho hợp với vai trò vợ của linh mục quản xứ ? Không lẽ phải ‘lạy mẹ’ hay ‘thưa mẹ’ mỗi khi gặp nhau ngoài đường ! Ngoài ra gia đình thông gia với linh mục cũng trở thành kẻ ăn trên ngồi trước và có một ngôi vị trong họ đạo. Vấn đề nầy sẽ tạo nên khoảng cách và những cảm giác khó chịu cho toàn bộ giáo dân, nhất là giới phụ nữ lắm chuyện. Và từ đây, có thể sinh ra mầm chia rẽ trong những họ đạo, là đơn vị căn bản của giáo hội.

Tôi xin mạn phép đề nghị :

– Vatican cần cứng rắn để giữ nề nếp tốt của giáo hội công giáo và phải có biện pháp với những linh mục phạm lỗi. Giáo hội trung ương và tòa tổng giám mục địa phương có trách nhiệm với hàng linh mục dưới quyền thì không nên im lặng hoặc bao che và chạy tội cho những linh mục phạm phải các tội lớn. Hình phạt ‘treo chén’ và ‘hủy thiên chức linh mục’ là những biện pháp thích đáng nên áp dụng để làm sạch giáo hội.

– Vị linh mục nào muốn lập gia đình lấy vợ sinh con đẻ cái thì tự tình nguyện trở về đời sống bình thường của một giáo dân. Công việc quá đơn giản, dĩ nhiên sẽ được mọi người chấp thuận và hoan nghênh. Được như vậy, linh mục sẽ tạo được hạnh phúc gia đình và vẫn giữ được vai trò con chiên của giáo hội.

Xin tạm kết bài viết :

Đừng đem việc lấy vợ sinh con đối của các vị lãnh đạo tinh thần từ các tôn giáo khác để bênh vực cho việc lập gia đình của linh mục công giáo. Mỗi tôn giáo đều có giáo luật và truyền thống riêng, nhất là giới linh mục công giáo, thì nên bảo vệ lấy hình ảnh tốt đẹp của một người đã chịu chức thánh. Hơn nữa, mong rằng các vị lãnh đạo giáo hội đừng làm mất thêm niềm tin của giáo dân đối với giáo hội. Một sự thật cần nói ra, ngày nay nhiều người công giáo đã lơ là với đạo thì giáo hội không nên cho phép tạo thêm những hình ảnh xấu của vị chủ chăn để tín hữu, vì lý do nầy, mà ít đến hoặc xa lánh nhà thờ !

Đinh Lâm Thanh

Paris, Tháng 10 năm 2014

Sống và yêu

Sống và yêu

Trầm Thiên Thu

Chị Brittany Maynard, 29 tuổi, được chẩn đoán có khối u ác tính trong não ở giai đoạn 4 từ hồi tháng 4-2014, và bác sĩ nói chị chỉ còn sống thêm trong vòng 6 tháng.

Ngày 1-11-2014, chị sẽ kết thúc cuộc đời với sự trợ tử của bác sĩ bằng phương pháp “an tử” (làm cho chết êm ái). Chị cho biết rằng chị không muốn chị và gia đình chịu nỗi đau khổ vì chứng ung thư não của chị. Chắc chắn đây là tình cảm tốt đẹp khi người ta không muốn những người thân chịu đau khổ, nhưng đó không phải là cách yêu thương!

Các phương tiện truyền thông hết lời ca tụng quyết định của Brittany là can đảm. Thật mắc cười khi các phương tiện truyền thông khen chị dám chết vì không muốn gia đình đau khổ, và kêu gọi những người khác hủy hoại sự sống mà không cần bác sĩ trợ tử. Nhưng các phương tiện truyền thông ca tụng một phụ nữ trẻ mới kết hôn mà lại muốn chết chứ không muốn sống. Các phương tiện truyền thông ca tụng sự chết, dù đó là phá thai, an tử, hoặc trợ tử, họ gọi đó là sự chọn lựa, sự tự do, hoặc sự can đảm. Tuy nhiên, Thiên Chúa cấm chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể là gánh nặng cho người khác vì sức khỏe giảm sút hoặc cần được chăm sóc về y tế.

Sợ hãi là động lực có thật: Sợ những gì ở phía trước, sợ đau khổ, sợ không thể kiềm chế,… Các phương tiện truyền thông và xã hội muốn chúng ta sống trong nỗi lo sợ vì nỗi lo sợ khiến chúng ta phải kiểm soát. Nỗi lo sợ biến chúng ta thành nô lệ dưới chiêu bài của sự tự do, sự can đảm, và sự tự tha thứ cho mình. Nỗi lo sợ xoay chúng ta hướng vào bên trong (tự hướng nội) và làm cho chúng ta tin rằng mình đáng bị thu nhỏ lại.

Chân phước Chiara Luce Badano đã không sống trong nỗi lo sợ mặc dù Chị chịu đau khổ và chết vì chứng ung thư xương rất đau nhức khi còn ở độ tuổi thiếu niên. Thay vì đầu hàng nỗi đau đớn thể lý, Chị đã chịu đựng đau khổ và nhìn cha mẹ thấy Chị chống chọi với bệnh tật. Chị dùng đau khổ để thánh hóa chính mình và những người khác. Chị dùng đau khổ làm phương tiện để hy vọng.

Ngược lại, chị Brittany Maynard lại dùng đau khổ làm phương tiện để tuyệt vọng! Buồn biết bao khi Brittany cho phép bóng tối làm tiêu tan chính mình. Chân phước Chiara được một người bạn đặt cho biệt danh Luce khi Chị gia nhập phong trào Focolare, vì Chị là ánh sáng cho người khác. Chị như ánh đuốc soi sáng trong bóng đêm của cuộc sống này để đi tới Chúa Giêsu và sự sống đời đời.

Các phương tiện truyền thông chẳng bao giờ ca tụng những loại ánh sáng này của con người. Bạn sẽ không bao giờ nghe nói về những con người thầm lặng chịu đau khổ trên đời này, hoặc thời gian kỳ diệu mà họ cố gắng sống tốt, và hôm nay họ vẫn sống vô thường dù ngày mai họ sẽ chết, họ sống như thể là bất tử. Những con người này là những ánh đuốc sáng thực sự trong thế giới này, họ đối diện với bóng tối và tuyên bố: “Mi cứ làm điều tồi tệ nhất! Tôi sẽ không bị hủy diệt”. Những người này sống trọn vẹn tình yêu thương, hoàn toàn biết từ bỏ mình, ngay cả khi họ phải đối diện với tử thần, họ không bao giờ chịu thua sự cám dỗ của nỗi thất vọng, vì họ biết rằng SỰ SỐNG và TÌNH YÊU đáng tận hưởng. Dù sao thì cuộc đời cũng vẫn đáng sống, không đáng chấm dứt.

Bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về những con người như Ginnie Levin. Chị được chẩn đoán bị ung thư vú, mặc dù cắt cả hai vú và các khối u, chứng ung thư vẫn di căn tới nhiều bộ phận khác trên cơ thể. Chỉ còn ít thời gian ngắn ngủi trên thế gian này, chị muốn dành tất cả cho gia đình. Người bà và người mẹ của chị đã chết vì ung thư, người cha của chị cũng đang phải điều trị ung thư. Ginnie muốn tới thế giới của Walt Disney với gia đình một lần nữa, tạo ký ức vui mừng một lần cuối. Xin mọi người hãy cầu nguyện nhiều cho chị Gennie Levin!

Trong một thế giới ca tụng việc hủy hoại sự sống, chúng ta hãy ca tụng Sự sống. Hãy tạo sự khác biệt trong cách sống của chúng ta hôm nay!

Thánh nữ Teresa Margaret Thánh Tâm Chúa (Dòng Kín Chân Đất, 1747-1770) nói: “Không có gì phải than phiền, tôi sẽ chịu đựng mọi thứ vì yêu mến Chúa, tôi không có gì phải lo sợ”. Chân phước Chiara Luce được an táng với chiếc áo cưới vì Chị sẽ đi gặp Đức Lang Quân là Chúa Giêsu trong cõi trường sinh. Chết lúc mới 19 tuổi vì bệnh trầm kha, nhưng chân phước Chiara Luce vẫn khả dĩ nói: “Tôi không còn lại gì, nhưng tôi vẫn còn trái tim, và tôi có thể yêu thương bằng trái tim đó”.

Chị Chiara Luce Badano sinh ngày 29-10-1971 tại ngôi làng nhỏ Sassello ở Ý quốc, qua đời ngày 7-10-1990 sau một năm đau đớn vì chứng ung thư xương. Chị được Giáo hội tôn phong chân phước ngày 25-9-2010.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Sức mạnh của sự tha thứ

Sức mạnh của sự tha thứ

TRẦM THIÊN THU

Một trong các khía cạnh tuyệt vời nhất của sự tha thứ là hệ quả tẩy rửa và cao quý, tạo nên tính cách của người tha thứ. Rõ ràng, người ta không chịu tha thứ vì chưa hiểu giá trị cao quý của lòng tha thứ. Người ta ít khi đạt tới đỉnh cao của sức mạnh và sự cao thượng nên khó loại bỏ cơn oán giận, khó tha thứ sai lầm của người khác.

Chắc chắn sự trả thù không thể chấp nhận khi giải quyết xung khắc. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đưa ra phương pháp tốt nhất mà không cần phải trả thù: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7).

Thánh Phaolô cũng khuyên: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người. Anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Trái lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:14-21). Thế nhưng nhiều người lại cho rằng đời sống thực tế phức tạp hơn nhiều, khó có thể yêu thương và tha thứ cho mọi người.

Tuy nhiên, hãy cân nhắc các vụ khủng bố thường xuyên xảy ra và giết người bừa bãi ngày nay, đó là hậu quả của các cuộ xung đột giữa các quốc gia, sự tha thứ là khí cụ rất cần thiết để chữa lành các vết thương của thế giới đầy những thứ rắc rối này. Tha thứ là thách đố lớn vì hòa bình thế giới, tha thứ là điều cấp bách và không thể coi thường. Xã hội luôn cần có hòa bình và tha thứ. Các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn tu trì, các hội đoàn, các nhóm, các tổ chức, các quốc gia, và cả cộng đồng quốc tế luôn rất cần sự tha thứ để phục hồi các hệ lụy đã bị rạn nứt hoặc bị tách rời.

Cựu Ước giới thiệu Thiên Chúa là Đấng “có lòng thương xót và hay tha thứ” (Đn 9:9). Đức Chúa là Thiên Chúa của ân sủng, thương xót không ngừng, và sẵn sàng tha thứ, mặc dù chúng ta “cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền, giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm” (Nkm 9:16). Trong Tân Ước, lòng tha thứ được thể hiện bởi Thánh Stêphanô và Thánh Phaolô, nhưng đỉnh cao và kiểu mẫu của sự tha thứ được diễn tả nơi Đức Giêsu Kitô. Trái tim tha thứ là biểu tượng của sự vĩ đại. Chúng ta có mẫu gương về sự chịu đựng, sự tử tế, lòng bác ái và lòng tha thứ mà Thiên Chúa đã tạo ra hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, và chúng ta phải nỗ lực noi gương.

Chúa Giêsu bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị đội vòng gai, bị mỉa mai,… Nhưng Ngài vẫn chịu đựng mọi nhục hình mà con người áp đặt. Khi bị treo trên Thập Giá, Ngài đã nhìn những người lính Rôma bằng ánh mắt nhân từ và bênh vực họ trước mặt Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng, vô điều kiện, thế thì chúng ta không thể không thương xót và không tha thứ cho nhau!

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo DivineMercy.org)

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

NHỮNG DỰ ÁN HUỶ DIỆT ĐẤT NƯỚC

NHỮNG DỰ ÁN HUỶ DIỆT ĐẤT NƯỚC

Lê Phú Khải

Dư luận cả nước đang xôn xao về dự án sân bay Long Thành với chi phí xây dựng gần hai chục tỷ đô la Mỹ với một nền kinh tế quốc dân đang chới với công nợ, của một đất nước đang nghèo xác xơ như nước ta. Truyền hình quốc gia vừa đưa hình ảnh đồng bào miền núi phải qua suối rộng bằng cáp treo để vận chuyển hàng hoá và đã có chết người vì phương tiện giao thông hoang dã tự chế này.

Xem trên truyền hình thấy các ông nghị trong Quốc hội phát biểu tán đồng dự án sân bay Long Thành, người ta không thể không liên tưởng đến dự án làm đường xe lửa cao tốc cách đây mấy năm. Lúc đó ông Nguyễn Sinh Hùng đã tuyên bố trên chủ tịch đoàn: Phải làm tàu cao tốc!

Sau đó Quốc hội đã bỏ phiếu bác bỏ dự án khủng khiếp này.

Thoát được cái dự án khủng khiếp làm tàu cao tốc một phần là nhờ Tiến sĩ Tô Văn Trường, một trí thức tâm huyết và thẳng thắn. Anh Tô Văn Trường từng là chuyên gia nhiều năm cho các tổ chức khoa học trên thế giới, anh đi rất nhiều nước, quen biết nhiều nhà khoa học hàng đầu trên thế giới, vì thế, anh biết rõ mười mươi là tàu cao tốc ở các nước đang thất bại. Nếu cần nhanh thì người ta đi máy bay, không đi tàu cao tốc. Các hãng làm tàu cao tốc đang ế ẩm, đang muốn xuất khẩu kỹ nghệ này và đưa các kỹ sư, công nhân làm tàu cao tốc đang thất nghiệp của mình đi kiếm ăn ở các nước lạc hậu.

Anh Trường đã viết hàng chục bài, chứng minh có số liệu, có căn cứ khoa học về sự thảm hại của tàu cao tốc ở các nước. Và anh đã dồn dập gởi các bài viết của anh qua thư điện tử đến hàng chục đại biểu quốc hội trước ngày thông qua dự án tàu cao tốc. Vì thế, đã góp phần chặn đứng thảm họa tàu cao tốc ở một nước nghèo nàn lạc hậu như nước ta.

Nay lại đến dự án khủng sân bay Long Thành. Cũng may là có người biết rõ mười mươi những sự quái đản ở ngành hàng không Việt Nam, đặc biệt là những quái chiêu về các sân bay ở Việt Nam do các đại gia, các nhóm lợi ích đỏ trong quân đội thao túng. Người đó là nhà báo Nguyễn Đình Ấm, người đã làm việc cả đời trong ngành hàng không Việt Nam. Khi còn làm việc ở tạp chí của ngành hàng không Việt Nam, anh đã tố cáo trước dư luận nhiều chuyện tiêu cực, tham nhũng trong ngành theo lời kêu gọi của tổng bí thư Nguyễn Văn Linh về “Những việc cần làm ngay” một thời.

Vì ngay thẳng, nhà báo Nguyễn Đình Ấm đã bị bầm dập nhiều năm. Anh bị đình chỉ viết báo và phải đi bán báo của ngành hàng không nhiều năm. Do đi lang thang bán báo khắp cả nước, khắp ngành hàng không nên anh càng nắm được nhiều thông tin về các sân bay. Anh đã lên tiếng kịp thời về sân bay Long Thành trong bài viết “Sân golf đuổi sân bay”.

Khi bị kỷ luật thôi không được viết ở tờ tạp chí của ngành, anh Ấm còn “may mắn” được đi theo các chuyến bay quốc tế để làm các công việc lặt vặt. Với lòng yêu nghề, thiết tha với lợi ích của ngành hàng không quốc gia, với nghiệp vụ của một phóng viên, nhà báo Nguyễn Đình Ấm đã điều tra được các số liệu quan trọng ở các sân bay quốc tế các nước. Anh đã công bố các số liệu này trong bài viết “Sân golf đuổi sân bay”, đã vạch rõ những nhận định hoang đường về số lượng khách sẽ có ở sân bay Long Thành trong… 40 năm sau!

Về con người am tường các sân bay Việt Nam và quốc tế Nguyễn Đình Ấm, tôi có một kỷ niệm thật khó quên. Cách đây vừa tròn 20 năm, tôi bỗng nhận được một lá thư viết tay đề ngày 15/10/94 của Nguyễn Đình Ấm, một người tôi chưa từng quen biết. Lá thư gửi qua tay phi công Mai Trọng Tuấn, một người rất nổi tiếng trong ngành hàng không Việt Nam. Trong thư anh Ấm tâm sự với tôi về những lần anh đã “… can ngăn, đòi ông Nhị (tổng cục trưởng – LPK) phải ngăn chặn các vụ việc tiêu cực, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, cục bộ địa phương bè cánh của các tay chân và bản thân ông…” “dùng tiền bạc, lợi ích của nhà nước một cách vô tội vạ”, v.v.

Viết thư cho tôi, anh Ấm hy vọng những nhà báo lâu niên như tôi và các đồng nghiệp của tôi ở TP HCM – nơi báo chí sôi động – có thể hiểu và giúp đỡ anh về dư luận trong công cuộc đấu tranh chống tiêu cực ở ngành hàng không Việt Nam mà anh cho rằng “mặc dù khó khăn, gian khổ và nguy hiểm nhưng tôi vẫn quyết tâm giữ lấy phẩm giá của mình”.

16 năm sau, trong một lần ra Hà Nội tôi mới có dịp gặp Nguyễn Đình Ấm, người viết cho tôi lá thư đề ngày 15/10/94 mà trước đó tôi chưa một lần quen biết. Lá thư ấy tôi vẫn còn giữ đến hôm nay.

clip_image002

Vì thế, tôi không hề ngạc nhiên khi Nguyễn Đình Ấm xuất hiện trong bài viết “Sân golf đuổi sân bay” đầy sức thuyết phục, đầy tâm huyết, khi người ta định đưa ra Quốc hội để thông qua dự án sân bay Long Thành đầy hiểm hoạ cho đất nước.

Viết đến đây tôi lại nhớ những lời tiên tri của bác Nguyễn Khắc Viện. Đại hội VI (1986) vừa xong, bác vỗ vai tôi nói ngay: Đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị thì bọn tư bản nó sướng lắm! Nó sẽ được đầu tư vào một nước mà ở đó xí nghiệp, nhà máy của nó không phải bảo vệ môi trường, không có công đoàn độc lập để bảo vệ người lao động, không có báo chí tự do để tố cáo tội ác của các ông chủ tư bản, nhất là ông chủ tư bản ở các nước tư bản châu Á mới ngoi lên. Nó tha hồ vơ vét. Mà đã là tư bản thì càng lời càng tốt, càng vơ vét nhiều càng tốt. Đút lót các quan tham ở nước sở tại là xong hết. Thiên nhiên ở nước ta sẽ bị tàn phá tối đa. Các công trình rất “hoành tráng” (tàu cao tốc, sân bay khủng – LPK), các resort cao cấp sẽ mọc lên, bãi biển đẹp sẽ được cho thuê, tất cả chỉ để phục vụ bọn giàu có và man rợ, dân chúng thì càng ngày càng nghèo đói và bị đuổi đi để chúng chiếm đất… Tư bản ở chính nước nó thì nó không làm được những điều đó, vì có thiết chế dân chủ kìm chân…

Những lời bác Viện văng vẳng bên tai tôi… Hình ảnh đồng bào qua suối bằng cáp treo tự chế hiện ra trước mắt tôi…

Liệu các đại biểu của dân có thông qua dự án khủng sân bay Long Thành không? Hãy chờ xem!!!

L.P.K

ĐTC: Phục sinh là nền tảng đức tin của chúng ta

ĐTC: Phục sinh là nền tảng đức tin của chúng ta

Chuacuuthe.com

1

VRNs (04.11.2014) -Sài Gòn- theo news.va- Hôm qua, thứ hai 3.11, sau thánh lễ sáng tại nguyện đường Santa Marta, vào khoảng gần trưa, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh Lễ thứ hai tưởng nhớ đến tất cả các Hồng Y và Giám Mục đã qua đời trong năm qua.

Thánh Lễ, được tổ chức tại Đền Thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha nhắc nhở chúng ta rằng nhờ sự phục sinh của Chúa Giêsu, đức tin của chúng ta được tràn đầy niềm vui chân lý và sự sống đời đời.


ĐTC suy gẫm dựa trên bài đọc thứ II trích từ sách Maccabê nói về vị lãnh đạo người Do Thái đã quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, để xin dâng lễ đền tội cho những chiến binh đã ngã xuống vì tin rằng người chết sẽ sống lại (2 Mac 12, 43-46 ). Đức Thánh Cha nói chúng ta phải cảm tạ Lời Chúa vì nhờ lời Ngài này đã soi sáng đức tin của chúng ta vào mầu nhiệm phục sinh.

Toàn bộ Mặc Khải Thần Linh là kết quả của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và dân Ngài và đức tin của chúng ta gắn kết với cuộc đối thoại này trong suốt dòng lịch sử.

Không khỏi ngạc nhiên về điều vĩ đại, quan trọng và mầu nhiệm siêu phàm như mầu nhiệm Phục Sinh đòi hỏi một cuộc hành trình dài như vậy trong lịch sử cho đến khi Chúa Giêsu Kitô xuất hiện.

Chúa Giêsu có thể nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11, 25) bởi vì nơi Ngài mầu nhiệm này không chỉ được mạc khải hoàn toàn, nhưng qua Ngài, lần đầu tiên, nó trở thành hiện thực.

Nhắc lại đoạn Tin Mừng theo Thánh Máccô tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu và ngôi mộ trống, ĐTC chỉ ra rằng biến cố này đạt đỉnh điểm của hành trình cứu độ trong lịch sử: biến cố Phục Sinh đáp ứng khát vọng của dân Chúa, của mỗi con người và của toàn thể nhân loại.

Mỗi người chúng ta được mời gọi dự phần vào biến cố này. Chúng ta được mời gọi để đứng dưới chân Thập Giá của Chúa Giêsu, như Đức Maria, như những phụ nữ, như viên đội trưởng quân La Mã để nghe tiếng kêu của Ngài, cho đến hơi thở cuối cùng và sau đó là sự im lặng đè nặng suốt ngày Thứ Bảy Tuần Thánh. Và rồi chúng ta được mời gọi đến ngôi mộ để thấy rằng tảng đá lớn đã được lăn sang một bên và để nghe tin vui: “Người đã sống lại, không còn ở đây nữa” (Mc 16: 6). Đó là nơi nhân loại tìm thấy câu trả lời, đó là nơi là nền tảng, là đá. Sẽ không có trong “những từ khôn ngoan và có sức thuyết phục” nhưng trong Lời hằng sống của Thập Giá và trong mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Kitô.

Những gì Thánh Phaolô Tông Đồ rao giảng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Nếu Ngài đã chẳng sống lại, đức tin của chúng ta trở nên trống rỗng và chúng ta là những kẻ đáng thương. Nhưng Ngài đã sống lại, Ngài là sự sống lại, nên đức tin của chúng ta được tràn niềm vui chân lý và sự sống đời đời.

Vì vậy, hôm nay chúng ta lặp lại truyền thống dâng lễ hy sinh đền tạ cho các anh em Hồng Y và Giám Mục, những người đã ra đi trước chúng ta trong thời gian mười hai tháng qua. Lời cầu nguyện của chúng ta được phong phú bởi những cảm thức, những kỷ niệm, và lòng biết ơn đối với chứng tá của những người chúng ta được quen biết, những người mà cùng với họ chúng ta chia sẻ sự phục vụ trong Giáo Hội. Nhiều gương mặt của các vị đang ở trước mặt chúng ta, và tất cả các vị đang được Cha trên trời của chúng ta nhìn đến với ánh mắt yêu thương và thương xót.

Và khẩn khoản nài xin sự chuyển cầu của Đức Mẹ Maria cho những người con yêu quý của Mẹ là các Hồng Y và Giám Mục được hưởng niềm vui nơi thành Giêrusalem mới, hiệp cùng với tất cả các tín hữu mà các ngài đã phục vụ trên dương thế.

Hoàng Minh

Thạc sĩ, tiến sĩ dỏm xúm nhau tàn phá làm nghèo Đất Nước

Thạc sĩ, tiến sĩ dỏm xúm nhau tàn phá làm nghèo Đất Nước

Trần Bích Đăng

Hôm nay nhân đọc trên trang mạng báo điện tử Dân Trí bài có tựa là “Quyền lực kinh doanh khổng lồ của ông Hà Văn Thắm” (http://dantri.com.vn/kinh-doanh/quyen-luc-kinh-doanh-khong-lo-cua-ong-ha-van-tham-986511.htm). Trong đó có đoạn: “Sinh năm 1972, ông Thắm được cho là một trong những tỷ phú có học vấn tốt tại Việt Nam. Nhà sáng lập Tập đoàn Đại Dương (Ocean Group) nắm trong tay bằng Thạc sĩ chuyên ngành Quản trị kinh doanh của Trường Đại học Columbia Common Wealth (Mỹ) và bảo vệ Tiến sĩ Quản trị kinh doanh tại Trường Đại học Công nghệ Paramount (Mỹ)”.

Tôi lên tìm trên mạng về hai đại học này và khám phá đó là những đại học dỏm.

Thứ nhất về Đại học Columbia Common Wealth (Mỹ):

http://en.wikipedia.org/wiki/Columbia_Pacific_University

Tiền thân của Đại học Columbia Common Wealth là Columbia Pacific University (CPU).

CPU được mô tả là một trường học không theo kiểu truyền thống mà là dạy từ xa (*) không được công nhận ở California (Columbia Pacific University (CPU) was an unaccredited nontraditional distance learning school in California).

* “Từ xa” vì thời ấy chưa có “trực tuyến (online)”

Năm 1997, bang California đưa ra Tòa buộc CPU phải đóng cửa, Phó Tổng chưởng lý Asher Rubin của bang California gọi trường dạy từ xa này là “một nhà máy sản xuất bằng tốt nghiệp đánh bẩy người tiêu dùng ở California trong nhiều năm qua” và “là gian lận khách hàng, hoàn toàn là một sự lừa đảo“. Đơn kiện cũng gọi Đại học Columbia Pacific như là một “hoạt động giả mạo” cung cấp “[bằng cấp] hoàn toàn vô giá trị… để làm giàu cho những kẻ làm quảng bá bất lương của họ”.

Đại học Columbia Pacific bị đóng cửa do án Tòa ngày 2/12/1999 – Thẩm phán Lynn Duryee lưu ý trong quyết định của mình rằng: “Quyết định này không phải là có hay không có việc sinh viên không hài lòng… Tôi cho rằng là đó không phải là thử nghiệm. Nó giống như nói rằng, như các người đã biết, mại dâm không nên là bất hợp pháp vì nó đã làm hài lòng các khách hàng. Đây không phải là một thử nghiệm”.

Ngay sau khi Columbia Pacific University bị đóng cửa, chủ nhân của nó là ông Les Carr đã chuyển trường đển Missoula, ở bang Montana và sau đó đổi tên thành “Columbia Commonwealth University” (CCWU). Năm 2001, CCWU được dời lên bang Wyoming.

Nói về Đại học Columbia Commonwealth, đây là những thông tin “đắng lòng” (hy vọng không có thêm các bậc Thạc sĩ, Tiến sĩ nước ta đã từng tốt nghiệp ở đây).

Về văn bằng do CPU và CCWU cấp:

California công nhận bằng do CPU cấp trước ngày 25 Tháng Sáu 1997, là “có giá trị pháp lý” để sử dụng trong tiểu bang. Bằng CPU cấp từ 25 tháng sáu năm 1997 đến về sau, là “không có giá trị về mặt pháp lý” để sử dụng trong tiểu bang California (California recognizes CPU degrees earned before June 25, 1997, as “legally valid” for use in the state. CPU degrees earned on or after June 25, 1997, are “not legally valid” for use in California).

Bang Michigan, riêng đối với công chức, là không chấp nhận bằng cấp của CPU (Michigan, for state civil service jobs only, does not accept degrees from CPU).

Bang Oregon tại một thời điểm đã xếp các bằng cấp từ cả CPU và CCWU là “bằng cấp không được công nhận” và do đó bị cấm sử dụng vào bất cứ việc gì chiếu theo luật của tiểu bang Oregon. Việc sử dụng “bằng cấp không được công nhận” là vi phạm lệnh cấm và có thể dẫn đến hình phạt dân sự. (Oregon at one time listed degrees from both CPU and CCWU as “unaccredited degrees” and thus prohibited for various uses under Oregon law. The use of “unaccredited degrees” in violation of this prohibition can result in civil penalties).

Bang Texas xếp các bằng cấp từ cả CPU và CCWU là “gian lận hoặc không đạt chuẩn” và do đó bị cấm vào bất cứ việc gì chiếu theo luật Texas. Việc sử dụng bằng cấp “gian lận hoặc không đạt chuẩn” là vi phạm lệnh cấm là một tội tiểu hình loại B ở Texas. (Texas also lists degrees from both CPU and CCWU as “fraudulent or substandard” and thus prohibited for various uses under Texas law. The use of “fraudulent or substandard” degrees in violation of this prohibition is a Class B misdemeanor in Texas).

Về “Paramount University of Technology” :

Theo tờ báo Seattle Times ngày thứ Tư 9 tháng 2/2005, trong bài “Cáo buộc các “lò sản xuất bằng cấp” đổ xô đến (bang) Wyoming” (http://seattletimes.com/html/education/2002174735_diploma09.html) có những chi tiết sau:

Chỉ nội [thành phố] Cheyenne đã là quê hương của sáu đại học trực tuyến. Một ví dụ điển hình là Paramount University of Technology, với một vài văn phòng ở tầng hầm ở trung tâm thành phố. Gần đó, American City University chiếm một vài phòng trong một tòa nhà xưa kia là một nhà thổ. (Cheyenne alone is home to six distance-learning schools. A typical example is Paramount University of Technology, with a couple of basement offices in a downtown mall. Nearby, American City University occupies a couple of rooms in a building that once housed a brothel).

“Chỉ với 16 giờ học, tôi đã hoàn thành 40 phần trăm các yêu cầu của khóa học cho bằng thạc sĩ”, Claudia Gelzer, một nhân viên của Ủy ban [Điều Tra của Thượng Viện] cho biết. (“With just 16 hours of study, I had completed 40 percent of the course requirements for a master’s degree,” said Claudia Gelzer, a committee staffer).

Ngoài ra báo Seattle Times còn nhắc đến một đại học dỏm khác ở Cheyenne là “Kennedy-Western University”. Tiếc là họ không kê hết tên mười đại học dỏm ở đây.

Tôi cũng kiếm ra hai websites có lẽ có ích cho mọi người để có thêm thông tin mà đánh giá các ông các bà thạc, tiến sĩ dỏm – phân biệt ai là thật ai là dỏm.

1. Danh sách các Đại học KHÔNG được công nhận của Bang Michigan (Michigan’s List of Nonaccredited Colleges and Universities)

http://www.credentialwatch.org/non/mich.shtml

(Hai chữ Colleges and Universities ở Mỹ đều mang nghĩa Đại học, Colleges thường là chỉ các Đại học cộng đồng nên tôi tạm gồm cả vào chữ Đại học. Google dịch College là trường Cao đẳng mà Cao đẳng ở Việt Nam là chưa phải Đại học, nên dịch như vậy chưa phù hợp).

2. Các trường Đại học trực tuyến được công nhận (Accredited online Universities)

http://www.onlineu.org/accreditation

Mong rằng hai websites này sẽ giúp Bộ Giáo dục và các tổ chức công quyền cũng như tư nhân biết mà loại ngay những kẻ “trộm được quả trứng nó sẽ trộm đến con bò”, họ lường gạt chính họ thì họ không thể nào trung chính chưa nói đến cái sự “dỏm” thì không thể nào có thực tài để lo việc, nhất là việc xây dựng Đất Nước.

T.B.Đ.

Tác giả gửi BVN