Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Vào sáng Chủ  Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:

-Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!

Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:

-Ông nói gì?

-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!

Mặt chàng thanh niên đỏ gay:

-Bộ đường phố này của ông hả?

Người đàn ông trả lời ngay:

-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi.  Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!

Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:

-Không nhặt thì sao?

Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.

***

Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước. Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.

***

Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:

-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?

Sư hiền từ đáp:

-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới. Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ.. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.

***

Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”

Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành./.

Cám ơn Sơn Đỗ gởi

Chín ngày hoặc ba năm!

Chín ngày hoặc ba năm!

RFA

Lê Diễn Đức

Thế là đã qua ngày thứ chín!

“Em yên tâm, nếu chín ngày anh không về thì khoảng ba năm”!

Lời của nhà văn Nguyễn Quang Lập nói với vợ, khi ông bị công an dẫn ra khỏi nhà, phải chăng trở thành sự thật?

Với cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ Luật Hình Sự, tức là “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, nếu mang ra toà xét xử anh có thể phải chịu án tù ba năm, thật!

Tại sao ông Lập đã ý thức được điều này? Phải chăng khi đặt bút viết và đưa những bài từ các nguồn khác, thậm chú từ các tờ báo do đảng kiểm soát, ông Lập biết rằng sớm hay muộn ông cũng sẽ bị quy kết vào điều 258 Bộ Luật Hình Sự?

Nhiều năm qua ông vẫn tiếp tục cuộc chơi, ngày một mạnh tay hơn và dứt khoát hơn, đặc biệc về các vấn đề chủ quyền của đất nước bị Trung Quốc xâm lấn. Cho đến ngày 6 tháng 12 năm 2014. Khi ông bị bắt.

Vì thế tôi đã nhận định nhà văn Nguyễn Quang lập thể hiện “một khí phách lớn“. Điều này hoàn toàn đúng với ý nghĩa của từ này, chứ không hề “đao to búa lớn” như có bạn nhận xét trên trang Facebook của tôi.

Bỗng dưng vài ngày sau khi bắt giữ ông, báo công an đưa một tin siêu ngắn: “Ông Lập khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được tại ngoại”. “Ông Lập cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội”.

Mặc dù đã nghĩ rằng, ông Nguyễn Quang Lập là nhà văn, không phải là nhà bất đồng chính kiến, càng không phải là một nhà cách mạng “dấn thân vô là phải chịu tù đày, là gươm kề tận cổ súng kề tai, là thân sống chỉ coi còn một nửa”. Rất có khả năng ông có thể yếu đuối trước những điều kiện khắc nghiệt của nhà tù với một thân thể bị bệnh tật, nên đã nhận đại để thoát khỏi tù ngục, như là một lựa chọn chiến thuật khôn ngoan.

Nhưng sau 9 ngày ông vẫn còn ở trong tù khiến tôi bình tâm suy nghĩ lại.

Những bài đăng trên Blog Quê Choa, đa phần được chọn lọc thận trọng, cả về tác giả cũng như nội dung, mang tính phê phán, phản biện xã hội ôn hoà và xây dựng, chẳng có thể là tội phạm, trừ khi nhà cầm quyền áp đặt. Cho nên tôi thấy ông Nguyễn Quang Lập đâu cần phải “nhận tội” và xin khoan hồng.

Trò dàn dựng “nhận tội, xin khoan hồng” cũ rích hoàn toàn bị phá sản” – Tôi đã viết như thế trong phân tích vụ án sinh viên Nguyễn Phương Uyên trên RFA Blog.

Cho nên nếu công an lại sử dụng kỷ thuật dao kéo, chỉnh sửa để đưa ra công luận một videoclip với hình ảnh ông Nguyễn Quang Lập cúi đầu nhận tội, e rằng quá lỗi thời và bất tiện. Thiên hạ sẽ bóc mẽ, và mọi sự dối trá sẽ bị đưa ra ánh sáng. Đưa ra một thông tin để gieo rắc nghi ngờ, rồi vô tư gỡ xuống là việc các tờ báo của nhà nước Cộng sản Việt Nam vẫn làm bình thường, bất tuân theo một nguyên tắc lương thiện nào của báo chí. An toàn hơn nhiều.

Adam Michnik, một nhà tranh đấu dân chủ nổi tiếng của Ba Lan trong chế độ Cộng sản, hiện là Tổng biên tập nhật báo tri thức lớn nhất Ba Lan “Gazeta Wyborcza” viết:

“Trí thức phải là tiếng nói của xã hội bị bịt miệng. Đối với người trí thức thì chính trị là lựa chọn mang tính đạo đức. Người trí thức bước vào chính trị là để lấy sự thật chống lại dối trá của bộ máy, lấy sức mạnh của niềm tin chống lại thói vô nguyên tắc của bộ máy“.

Ông Nguyễn Quang Lập cũng thế, khi dùng con thuyền Quê Choa để “chuyển tải sự thật tới nhân dân” thì cũng chính là lúc ông lựa chọn chính trị – đạo đức. Nhưng ông không làm chính trị vì danh lợi, ông chỉ thực hiện sứ mệnh của một người trí thức trong xã hội.

Nhà báo Huy Đức cũng viết:

Nguyễn Quang Lập không phải là một nhà bất đồng chính kiến. Anh không có ý định làm chính trị hay làm cách mạng. Không phải vì anh sợ hãi, anh không làm, đơn giản vì anh chỉ là một nhà văn.

Nguyễn Quang Lập chưa bao giờ có ý định làm một anh hùng. Dù những gì ông cống hiến ở Quê Choa là một sự hy sinh quả cảm“.

Tôi không cho rằng việc bắt Bọ Lập có liên quan gì đó đến đấu đá nội bộ hay Hội nghị Trung ương Đảng cuối năm nay, mà vì sau khi Blogger Anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh và Blogger Người Lót Gạch Hồng Lê Thọ bị bắt, Blog Quê Choa là điểm hẹn hiếm hoi cuối cùng của đông đảo bạn đọc và có tầm ảnh hưởng lớn lên tâm lý của xã hội. Nếu không ngăn chặn sớm, Blog này sẽ có chiều hướng đi xa hơn, trở thành một trang mang tính phản kháng rất bất lợi cho chế độ.

Rất đáng tiếc, lời kêu gọi ký tên gửi lãnh đạo nhà nước Việt Nam yêu cầu trả tự do cho nhà văn Nguyễn Quang Lập do một số trí thức của Văn đoàn Độc lập khởi xướng, cho đến nay mới chỉ được dưới 600 người trong và ngoài nước tham gia.

Con số quá ít ỏi so với hàng triệu người hâm mộ và theo dõi Blog Quê Choa từ nhiều năm qua và hàng chục triệu người sử dụng Internet tại Việt Nam.

Người Việt cái gì cũng thích miễn phí. Đọc miễn phí, cảm nhận và chia sẻ lập trường tư tưởng miễn phí, khoái cảm miễn phí, nhưng khi cần đến một chút hy sinh, một tý can đảm thì đều tránh né.

Dù biết rằng, ký tên vào thư kiến nghị chẳng hy vọng giải quyết được gì, nhưng nó thể hiện tấm lòng, tình người của bạn đọc, là sự tổng động viên dư luận xã hội. Ngay ở Mỹ để Tổng thống quan tâm đến một kiến nghị đăng trên trang web “We The Peoples” của Nhà Trắng, ít nhất cũng phải đạt con số 25 ngàn người ký tên.

Thật cay đắng khi nhà văn Phạm Thị Hoài viết trong bài “Một con thuyền“:

“Điều duy nhất chúng ta không làm là những hành động cụ thể, ở quy mô đủ rộng để có một tác động thực. Hàng trăm nghìn độc giả của anh sẽ quen rất nhanh khoảng trống anh để lại trên không gian ảo, như hàng trăm nghìn độc giả của Anh Ba Sàm.

Con thuyền của anh Lập, dập dìu sóng vỗ khi nào, là một con thuyền lẻ loi. Lật bởi sự tồi tệ của thể chế chính trị. Chìm bởi sự đơn độc của chính nó giữa vài ba con thuyền đơn độc khác. Đắm bởi sự bạc bẽo của phần lớn chúng ta”.

Lẽ nào chúng ta có thể dửng dưng quay lưng với một tác giả đang lâm nạn, một người đã chuyển đến cho chúng ta đầy ắp sự thật các sự kiện thời sự nóng bỏng của đất nước – một món ăn tinh thần vô giá?

© Lê Diễn Đức

Obamacare: Đe Dọa Mới!

Obamacare: Đe Dọa Mới!

Vietbao.com

…khiến nước Mỹ sẽ thiếu nhà thương, thiếu bác sĩ, thiếu thuốc men…

Tin thời sự đáng kể tuần này là chuyện ông Jonathan Gruber ra điều trần trước quốc hội về Obamacare. Các nghị sĩ Dân Chủ mạt sát, bôi bác thậm tệ, tìm để cách hạ uy tín ông, trong khi các nghị sĩ Cộng Hòa ngồi cười ruồi.

Chuyện gì vậy? Ông Gruber này là ai? Một đoạn phim video được tung ra cách đây mấy năm trên truyền hình cho thấy bà Nancy Pelosi, Chủ Tịch Hạ Viện khi Dân Chủ còn nắm đa số, quảng cáo “Obamacare đã được giáo sư đầy uy tín Jonathan Gruber giúp phác họa”. Ủa, phe ta mà? Sao bây giờ lại bị mạt sát?

Ông Jonathan Gruber là giáo sư kinh tế đại học trứ danh Massachusetts Institute of Technology (MIT). Ông là một trong những chuyên gia, luật gia, bác sĩ tham gia “vẽ” ra Obamacare. Nhưng vai trò ông trội hơn cả (lãnh nửa triệu đô một năm) vì ông là tác giả Romneycare, là luật áp đặt bảo hiểm y tế toàn dân Massachusetts của ông Mitt Romney khi ông này còn làm Thống Đốc tiểu bang này. Đây là tiểu bang duy nhất có luật này, và TT Obama đã lấy đó làm mô hình cho Obamacare mặc dù đã sửa đổi rất nhiều.

Với tư cách giáo sư chuyên gia, dĩ nhiên ông đã đi nói chuyện, thuyết trình rất nhiều nơi. Nói rất nhiều, như tất cả các giáo sư. Ông nói gì ít người biết. Cho đến bây giờ. Cách đây ít lâu, một loạt phim video quay các cuộc nói chuyện của ông bị tiết lộ ra trên mạng. Những điều GS Gruber nói nổ tung ra như bom nguyên tử trên chính trường Mỹ, khiến Nhà Nước Obama luống cuống, không biết nói gì, giải thích làm sao nữa.

Dưới đây là vài phát biểu của GS Gruber.

GS Gruber khẳng định nhóm chuyên gia và chính quyền Obama biết rõ nếu luật Obamacare được viết một cách trung thực, sáng tỏ để tất cả mọi người hiểu rõ, thì sẽ không có cách nào được quần chúng chấp nhận và được quốc hội thông qua. Do đó, những người viết luật, trong đó ông đóng vai trò quan trọng, đã phải che dấu, lươn lẹo, nói láo, viết úp mở,… để hy vọng luật được chấp nhận và thông qua. Ông nói huỵch tẹt “có thể gọi đó là lợi dụng sự ngu xuẩn của cử tri (“the stupidity of the voters”, danh từ của GS Gruber!), hay gì gì cũng được, nhưng trên căn bản, đó là cách thiết yếu để có thể thông qua luật này”.

Nói về thuế gọi là “Cadillac tax” trong Obamacare là một phụ phí trên loại bảo hiểm tốt nhất, đắt nhất, GS Gruber nói thẳng: nó được thông qua vì dân Mỹ “quá ngu để có thể hiểu được nó là cái gì” (“too stupid to understand what it is”).

Những buổi nói chuyện của GS Gruber được thu lại trên 7 cuộn băng video, trong đó còn rất nhiều nhận định và tiết lộ động trời, vượt xa khuôn khổ bài báo này.

Những lời thú nhận xanh rờn của GS Gruber chỉ phản ánh thái độ trịch thượng, mục hạ vô nhân tiêu biểu của giới trí thức cấp tiến, coi cả thiên hạ đều “ngu xuẩn”. Những lời thú nhận đó đã gây chấn động dư luận. Phe đối lập Cộng Hoà mau mắn nhẩy lên tố cáo Obamacare được xây dựng trên một núi hứa cuội và nói láo. Phe ta bối rối chống đỡ. Bà Nancy Pelosi tuyên bố không biết ông Gruber này là ai, chỉ là tên vô danh tiểu tốt nói bá láp, bỏ qua đi. Cho đến khi đoạn phim cũ bị đưa lên TV lại thì mới đành im. Càng bối rối thêm. Nhất là khi GS Gruber bị lôi ra trước quốc hội điều trần.

Và phe ta quyết định đánh trống lảng: tung phúc trình “tội ác của Xịa” ra để khỏa lấp (ta sẽ bàn chuyện này tuần sau). Truyền thông tràn ngập “tội ác của Xịa”, không ai nhắc đến GS Gruber và sự “ngu xuẩn” của cử tri Mỹ nữa. Chiến dịch khỏa lấp đại thành công nhờ hô sơ tra tấn của CIA.

Qua những tiết lộ của GS Gruber, những ai cho đến bây giờ vẫn tung hô Obamacare, chết đứng ngây người, chưng hững khi khám phá mình đã gân cổ lên cổ võ cho Obamacare trong khi chính quyền Obama coi họ là “ngu xuẩn”.

Cái điều có lẽ đáng bực mình hơn cả là ông Gruber này nói… đúng sự thật! Obamacare đã cố tình được xào nấu, hay tô son vẽ phấn một cách thật phức tạp, thật cầu kỳ, thật khó hiểu, để lợi dụng sự “ngu xuẩn” của thiên hạ. Cả hơn 20.000 trang, ai đọc được, ai hiểu được?

Giờ này đây, sau khi Obamacare đã được áp dụng cả năm trời, có bao nhiêu người mua Obamacare hiểu rõ mình đã mua cái gì? Được hưởng cái gì? Cuối cùng, nếu có chuyện gì xẩy ra thì sẽ tốn bao nhiêu tiền?

Mới đây, Việt Báo đăng tin một người tỵ nạn mua Obamacare loại “đồng” –bronze- rẻ nhất, có 30 đô một tháng, để rồi khi bị bệnh thì mới ngã ngửa ra là mình phải è cổ đóng cả 500 đô mỗi lần đi khám bác sĩ. Quý vị không đọc nhầm đâu: năm trăm đô một lần khám. Khi TT Obama quảng bá cho Obamacare có nói rõ chuyện này không?

Ở đây, ta nhớ lại một vài chuyện che dấu, lươn lẹo, nói láo về Obamacare được GS Gruber bật mí.

1. Theo Obamacare, không mua bảo hiểm sẽ bị đóng phạt. Ra trước Tối Cao Pháp Viện, bị phán đây đúng là một sắc thuế mới. GS Gruber tiết lộ những người viết luật cũng hiểu rõ ngay từ đầu đây là thuế, nhưng nếu gọi là thuế thì sẽ không có hy vọng được chấp nhận và thông qua quốc hội, nên bắt buộc phải che dấu, gọi là tiền phạt. Họ chỉ không ngờ là TCPV đã lật tẩy họ quá rõ ràng.

2. TT Obama nhắc đi nhắc lại “những ai muốn giữ bảo hiểm cũ, bác sĩ cũ, đều có thể giữ, không có gì thay đổi”. Năm ngoái, hàng triệu người bất ngờ khám phá ra họ sẽ bị mất bảo hiểm cũ, bác sĩ cũ. Sóng thần phẫn nộ nổi lên ào ào khiến TT Obama phải dùng quyền Hành Pháp ra lệnh rời ngày áp dụng Obamacare lại. Theo tiết lộ của GS Gruber, những người viết luật biết rõ từ đầu sẽ có xáo trộn lớn, thay đổi hãng bảo hiểm, nhà thương bác sĩ, trái với khẳng định của TT Obama, nhưng dĩ nhiên không thể nói ra được.

3. TT Obama hứa hẹn với Obamacare, chi phí y tế sẽ giảm trung bình 2.500 đô một năm cho mỗi gia đình. Dĩ nhiên chỉ có những đệ tử trung kiên nhất của Đấng Tiên Tri mới tin chuyện phản toán học này. Hàng chục triệu người tham gia vào “thị trường” y tế, trong đó có cả trăm ngàn người bị bệnh nặng như AIDS, ung thư,… chữa trị cực kỳ tốn kém, và hàng triệu người mới có bảo hiểm lần đầu, khiến nước Mỹ sẽ thiếu nhà thương, thiếu bác sĩ, thiếu thuốc men, với áp lực của luật cung cầu về nhu cầu y tế, làm sao chi phí y tế có thể giảm như TT Obama khẳng định được. GS Gruber tiết lộ trong một phúc trình cho cựu Thống Đốc Wisconsin Jim Doyle năm 2010 là 90% những người mua bảo hiểm riêng không qua bảo hiểm của sở làm, sẽ thấy chi phí bảo hiểm tăng trung bình 41%. Thực tế, chi phí y tế đã gia tăng đồng loạt từ hai năm qua và sẽ còn tiếp tục gia tăng đều đặn. Như báo NYT đã đăng, sẽ tăng thêm 20% vào năm 2015. Một thăm dò mới nhất của Gallup cho thấy trong khối “trung lưu” với lợi tức từ 30.000 tới 75.000 đô, trong 10 người có bệnh, đã có tới 4 người trì hoãn đi bác sĩ hay nhà thương vì chi phí quá cao.

Những tiết lộ trên của GS Gruber khiến chính quyền Obama bối rối và nhiều người bực mình, nhưng thật sự không đe dọa sự tồn vong của Obamacare. Nhưng có một tiết lộ thật nguy hiểm trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Obamacare.

Trên căn bản, Obamacare trợ cấp tiền mua bảo hiểm cho những người dưới mức lợi tức nào đó. Trợ cấp này có thể nói là nền tảng của Obamacare, ngưng trợ cấp này là Obamacare xụp đổ toàn diện. Đóng cửa tiệm mà không cần quốc hội biểu quyết thu hồi.

Cho đến nay, hàng triệu người đã lãnh trợ cấp này. Nhưng mây đen đang kéo tới. Trợ cấp đang bị thưa và nằm trong hồ sơ của Tối Cao Pháp Viện sẽ xét xử mùa hè năm tới.

Theo luật được thông qua bởi quốc hội và ký bởi TT Obama, chỉ có những người mua bảo hiểm y tế qua hệ thống phối hợp của tiểu bang (State exchange) mới có quyền xin và hưởng trợ cấp. Trong khi đó, chỉ có 13 tiểu bang đã thiết lập hệ thống phối hợp tiểu bang. Tại 37 tiểu bang không có trung tâm này, thiên hạ phải mua bảo hiểm qua hệ thống phối hợp của liên bang (Federal exchange), tức là không được trợ cấp. Dù vậy chính quyền Obama vẫn trợ cấp cho họ, trái với luật.

Chính quyền Obama giải thích luật có ý trợ cấp cho giới lợi tức thấp, bất kể mua bảo hiểm qua hệ thống tiểu bang hay liên bang, chẳng qua chỉ là “sơ xuất” khi viết luật.

TCPV sẽ cứu xét, nếu phe khởi kiện thắng, tức là Nhà Nước đã vi phạm luật. Khi đó thì Nhà Nước có hai lựa chọn. Một là sửa luật. Nhưng việc sửa luật coi như sẽ khó thành khi khối Cộng Hoà chống Obamacare đã nắm Hạ Viện, qua năm tới, nắm cả Thượng Viện luôn. Hai là ngưng trợ cấp những người mua Obamacare qua liên bang. Mà bỏ trợ cấp thì Obamacare sẽ xụp đổ.

Vấn đề ở đây có vẻ như là một sơ xuất khi viết luật, đúng như chính quyền Obama bào chữa, do khả năng yếu kém của cái rừng công chức, luật sư, chuyên gia tham gia vào việc này.

Nhưng GS Gruber cho biết sự thật trong hậu trường Obamacare: không phải các chuyên gia yếu kém về kỹ thuật viết luật, mà họ cố tình mập mờ đánh lận.

Trong một đoạn phim mới được tiết lộ, GS Gruber giải thích: “nếu một tiểu bang không chịu thiết lập trung tâm phối hợp thì dân của tiểu bang đó sẽ phải mua bảo hiểm qua trung tâm của liên bang và như vậy sẽ không được trợ cấp”. Không thể nào rõ ràng hơn và hoàn toàn không phải là sơ xuất viết nhầm luật. Trong tất cả các tiết lộ của ông Gruber, đây mới thực sự là điểm quan trọng vì nó có thể giết Obamacare.

Với sự khẳng định của GS Gruber, người “vẽ” ra Obamacare, TCPV khó có thể chấp nhận lời biện giải của chính quyền Obama để coi như đó là một sơ xuất nhỏ, trái lại GS Gruber đã xác nhận đây quả là một điều luật được cố tình viết ra để ép các tiểu bang phải thiết lập trung tâm phối hợp để dân lợi tức thấp có thể được trợ cấp, bớt một phần gánh nặng cho liên bang. Đúng là nếu mua bảo hiểm qua hệ thống liên bang thì sẽ không được trợ cấp. Nếu TCPV bắt Nhà Nước Obama phải tôn trọng luật và ngưng trợ cấp, hay bắt sửa luật, thì coi như Obamacare đã bị lên án tử hình.

Thực tế chính trị Mỹ, Cộng Hoà không đủ phiếu để thu hồi Obamacare. Chỉ có thể hy vọng sửa đổi một vài điều luật với sự đồng ý của một số TNS Dân Chủ.

Nhưng với vấn đề trợ cấp được GS Gruber nói trắng ra, rất có thể TCPV sẽ làm một chuyện mà CH không làm được: giết Obamacare. Tất cả sẽ tùy thuộc vào cách TCPV nhìn vấn đề: sơ xuất khi viết luật hay luật được cố ý viết như vậy.

Thật ra, những trái bom GS Gruber tung ra không có gì mới lạ. Báo phe ta New York Times nhìn nhận GS Gruber nói không sai sự thật, chỉ là vụng về tiết lộ sự thật về cách làm việc của những người làm luật Obamacare.

Điều mới lạ là những thú nhận của GS Gruber, một tác giả chính đã “vẽ” ra Obamacare, xác nhận rõ hơn bao giờ hết Obamacare là một chuỗi nói láo để lừa thiên hạ, từ những người thiếu hiểu biết mê bánh vẽ, đến cả các dân biểu nghị sĩ quốc hội Mỹ chỉ lo đếm phiếu.

Những lời thú nhận của GS Gruber sẽ gia tăng bất mãn và chống đối Obamacare. Dù sao, nghe ông Gruber chửi thiên hạ “ngu xuẩn”, chắc TT Obama đang nghĩ chính cái ông đại giáo sư nói nhiều này mới là “ngu xuẩn”, bật mí bí mật quốc gia! Giải thích tại sao các đồng chí Dân Chủ nhẩy nhổm lên sỉ vả ông Gruber tuần qua tại Thượng Viện.

* * *

Obamacare chỉ là một bước đầu trong tiến trình “xã hội chủ nghiã hoá” hệ thống y tế mà Mỹ gọi là “socialization of the healthcare system”, thiết lập một hệ thống y tế theo mô hình xã hội chủ nghiã Âu Châu.

Vẫn có nhiều người chất vấn “hệ thống Âu Châu với tất cả mọi dịch vụ y tế như vào nhà thương mổ xẻ chữa trị, đi bác sĩ, mua thuốc đều miễn phí hay đều có giá rất thấp, như vậy tốt chứ sao?” Những người này quên một vài điều kiện để có được hệ thống này:

– Dân Âu Châu đóng thuế trung bình là một nửa tiền lương mới có được bảo hiểm y tế bắt buộc và chữa trị miễn phí, điều mà dân Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận khi mà giới trung lưu chỉ đóng thuế trung bình vào khoảng 10%-15% lương, và 40% giới lợi tức thấp không đóng một xu thuế nào. Câu hỏi cho những người hoan nghênh mô hình Âu Châu: họ có chịu đóng thuế một nửa lương của họ không để giúp cả nước đi nhà thương miễn phí không?

– Ở Mỹ, các cụ muốn đi soi ruột chỉ cần lấy hẹn vài ba ngày là có. Dân Âu Châu muốn đi nhà thương thử nghiệm hay mổ xẻ gì cũng phải chờ dài người, có khi hàng tháng, có khi cả năm, nếu không phải là dịch vụ ưu tiên, khẩn cấp, tính mạng bị đe dọa. Những người hoan nghênh Obamacare có chấp nhận kiên nhẫn chờ cả tháng, cả năm khi ốm đau không?

Một số người lợi tức thấp lãnh Medicaid, hay các cụ lãnh Medicare sẽ nhún vai, cho rằng chuyện Obamacare chẳng liên hệ gì đến họ, nên họ hoan nghênh hết mình, vì đó là luật có tính nhân đạo, giúp cho cả chục triệu người có được bảo hiểm y tế và được chữa trị, lại trợ cấp cho người nghèo có tiền mua bảo hiểm nữa.

Họ quên mất với sự tham gia vào thị trường bảo hiểm của cả chục triệu người, đại đa số sẽ nằm trong hạng nhận Medicaid và Medicare, hai cái bánh này trong tương lai sẽ có thêm rất nhiều người ăn, mỗi miếng tất nhiên sẽ nhỏ đi không ít (chưa kể cả triệu di dân Nam Mỹ mới được hoãn trục xuất cũng sẽ được chia sẻ Medicaid và Medicare).

Một cách cụ thể, tiền Nhà Nước bồi hoàn cho các bác sĩ qua một giá biểu do Nhà Nước độc quyền ấn định sẽ bị cắt giảm, từ đó, sẽ có nhiều bác sĩ từ chối bệnh nhân với Medicaid và Medicare. Chưa kể Nhà Nước sẽ giới hạn những thử nghiệm mà bác sĩ cho là cần thiết vì nhu cầu chẩn mạch cũng như vì nhu cầu đề phòng bị thưa kiện nếu xẩy ra tai nạn. Quý độc giả có thể hỏi các bác sĩ của mình xem những điều này có đúng không.

Mà bớt bác sĩ thì hậu quả dĩ nhiên ai cũng thấy là bệnh nhân sẽ chờ mệt nghỉ để lấy hẹn, rồi khi có hẹn thì chờ dài người tại phòng mạch.

Hiện tượng từ chối Medicaid và Medicare này có lẽ không thấy rõ lắm trong cộng đồng người Việt tỵ nạn vì hầu hết các bác sĩ Việt vẫn nhận cả hai loại bảo hiểm, vì đại đa số bệnh nhân tỵ nạn rơi vào hai khối này, nếu từ chối nhận Medicaid và Medicare sẽ chẳng còn bao nhiêu khách hàng. Phần lớn bác sĩ Việt có phòng mạch đều là bác sĩ tổng quát, việc cắt giảm tiền bồi hoàn không bao nhiêu, đồng thời cũng không có nhu cầu thử nghiệm rắc rối tốn tiền như các bác sĩ chuyên môn.

Trong tình trạng này, nhiều người Việt hoan nghênh Obamacare cũng là chuyện đương nhiên vì chưa thấy có vấn đề gì, cho dù các bác sĩ Việt hơi buồn. Nhưng đối với đa số dân Mỹ, họ đã gặp vấn đề. Tình trạng bác sĩ từ chối nhận Medicaid và Medicare ngày một lan rộng, đưa đến thiếu bác sĩ, phải chờ lấy hẹn lâu đang lan rộng. Đó là lý do tại sao tỷ lệ chống Obamacare theo thăm dò mới nhất đã leo lên mức kỷ lục là 58%, phần lớn là trung lưu.

Obamacare là một bộ luật cực lớn và cực phức tạp, nhưng lại được thảo và đưa qua quốc hội thật gấp rút, bằng mọi giá, kể cả lừa dối, để kịp thông qua khi đảng Dân Chủ còn nắm quyền tại Tòa Bạch Ốc và cả lưỡng viện. Trong tương lai sẽ còn nẩy sinh ra nhiều vấn đề.

Chẳng hạn như mới đây, thượng nghị sĩ Chuck Schumer của Nữu Ước, nhân vật thứ ba trong khối Dân Chủ tại Thượng Viện, đã nhìn nhận TT Obama và đảng DC đã sai lầm lớn khi chú tâm vào Obamacare trong hai năm đầu quá nhiều, lơ là tình trạng kinh tế khó khăn của giới trung lưu, đưa đến bất mãn và kết quả bầu cử thảm hại vừa qua. Ưu tiên của TT Obama đáng ra là phải kinh tế và nạn thất nghiệp, là những vấn đề cấp bách trong khi Obamacare không có gì khẩn cấp mà cũng chỉ giúp được chưa tới một chục triệu người trong khi gia hại đến cả trăm triệu người.

Khối bảo thủ không thể thu hồi Obamacare được, nhưng có nguy cơ chính những luộm thuộm, sai sót vì hấp tấp, lừa dối, sẽ làm Obamacare xụp đổ mà không cần quốc hội phải biểu quyết. (14-12-14)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

NGƯỜI MẪU – TÀI TỬ ĐANG NỔI TIẾNG NHẤT BỖNG TRỞ THÀNH NỮ TU.

NGƯỜI MẪU – TÀI TỬ ĐANG NỔI TIẾNG NHẤT BỖNG TRỞ THÀNH NỮ TU.

Trầm Hương Thơ

Người Mẫu đẹp nổi tiếng, đang trong thời kỳ sự nghiệp hưng thịnh nhất bỗng nhiên theo tiếng gọi trong tâm hồn để trở thành một nữ tu bình dị.

Đang đứng ở phía trên cùng của sự nghiệp hưng thịnh của cô, một người mẫu Tây Ban Nha xinh đẹp đã cho đi tất cả để trở thành một nữ tu.

Cô Olalla Oliveros, một photo Model đang làm người mẫu trên đài truyền hình thể thao Tây Ban Nha, và đồng thời cô cũng là một nữ diễn viên điện ảnh đã từ bỏ sự nghiệp của mình và theo tiếng gọi quyết định trở thành một nữ tu.

Từ tháng trước, cô Olalla Oliveros đã gia nhập Dòng thánh Michael.

Cô Olalla Oliveros không muốn nói về bản thân mình, nhưng cô miễn cưỡng cho biết: Cô đã trải qua một biến động rất lớn trong tâm hồn “như một trận đông đất” từ kinh nghiệm của một chuyến viếng thăm viếng Đức Mẹ Fatima. Từ tiếng gọi này mà cô quyết định rũ bỏ hình ảnh của mình để trở thành một nữ tu. Đây là một điều mà trước đây cô tưởng là hoàn toàn vô lý nhưng nay đã trở nên hiện thực.

Cuối cùng, cô nhận ra rằng hình ảnh trong tâm trí cô là một ƠN GỌI. “Chúa đã chọn không bao giờ sai.

“Ngài gọi trong hồn tôi, hãy theo Ngài! và tôi không thể từ chối,”

-Oliveros nói.

-Bây giờ tôi chỉ muốn trở thành một nữ tu bình thường.

Trầm Hương Thơ

Đừng biến nước ta thành nhà nước cảnh sát

Đừng biến nước ta thành nhà nước cảnh sát

Chuacuuthe.com

VRNs (16.12.2014) – anhbasam-  Nước ta vốn là nước nhân nghĩa, đừng biến nước ta thành Nhà nước cảnh sát!

Tin tức gần đây cho biết nhiều trang mạng bị cấm, bị phá, dồn dập nhiều chủ trang mạng bị bắt, bị cầm tù: Phạm viết Đào, Nguyễn hữu Vinh, Nguyễn thị Minh Thúy, Hồng lê Thọ, Nguyễn quang Lập dù đương bị tật nguyền. Người ta bắt họ không phải để bảo vệ độc lập chủ quyền, vì chính họ đăng những bài chống TQ xâm lấn nước ta, làm hại nước ta. Họ phản đối TQ lũng đoạn nước ta về kinh tế, chi phối nước ta về chính trị, uy hiếp nước ta về quân sự và chuẩn bị chiếm trọn biển Đông trong đó có các quần đảo của chúng ta, có lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta.

P1110805

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh (1916) là thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam và là đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến 1987.

Các bài đăng trên các trang mạng nêu lên những yêu cầu gì, phản đối gì, phê phán gì?

Nêu yêu cầu Đảng CS độc tài toàn trị tự chuyển biến thành Đảng CS dân chủ để dân tin thì có tội gì? Vì dân thì dân theo, chống dân thì dân chống là lẽ thường. Yêu cầu đa đảng thì có tội gì? Nước ta trước đây đã gừng có đa đảng mà Đảng Lao động Việt Nam vẫn giữ được vị trí lãnh đạo. Yêu cầu tam quyền phân lập mà các nước văn minh tiến bộ trên thế giới đều thực hiện ghì có tội gì? Yêu cầu được hưởng các quyền công dân ghi trong Hiến pháp và hợp với Công ước Nhân quyền quốc tế thì có tội gì?

Các trang mạng phản đối đàn áp biểu tình yêu nước, phản đối cho TQ vào Tây Nguyên khai thác boxit, thuê dài hạn nhiều điểm xung yếu về an ninh quốc phòng: Vũng Áng, Cửa Việt, Kỳ Anh, đèo Hải Vân… Phản đối việc cho TQ trúng thầu nhiều công trình với thiết bị lạc hậu, để ngưuuời TQ nhập cảnh và cư trú trái phép, phản đối cưỡng chế lấy đất của nông dân vì lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm là chính đáng, đâu phải là chống lại chủ trương của Đảng. Chính tình trạng tham nhũng tràn lan từ dưới lên trên, “không ít cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất” làm cho Đảng suy thoái, cùng với đường lối sai lầm bảo thủ làm cho đất nước tụt hậu, kiệt quệ, nước yếu dân nghèo là tự đánh mất lòng tin của dân đối với Đảng chứ đâu phải các trang mạng bịa đặt bôi xấu làm mất uy tín của lãnh đạo.

Sẵn quyền lực trong tay, bất chấp Hiến pháp, bất chấp luật pháp, muốn bắt ai thì bắt, rồi gán cho họ tội “chống Nhà nước” theo Điều 258 rất mơ hồ, tội “chống chế độ XHCN”. Chế độ XHCN ở LX, Đông Âu đã lỗi thời, phá sản rồi, chế độ XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở nào, có nội dung gì mà buộc người ta “chống chế độ”?!

Đám tang ông Trần Lâm nguyên cán bộ cao cấp Viện Kiểm sát, người ta đem vòng hoa đến viếng, công an cũng giật băng và ngăn cản không cho nhiều người đến viếng; những người thân quen nhau, rủ nhau đi liên hoan, công an cũng theo dõi, cũng phá; ngày X, ngày Y, công an cũng đến gác cửa các “đối tượng nguy hiểm” không cho ra khỏi nhà. Cứ thế này thì hình ảnh Việt Nam ta không lấy gì làm đẹp đẽ dưới con mắt thế giới. Con mắt công an nhìn đâu cũng thấy “phần tử nguy hiểm”, nhìn đâu cũng thấy “phản động”. Lực lượng Công an ăn lương của dân luôn ở tư thế sẵn sàng trấn áp. Có người nói Nhà nước này đương trở thành “Nhà nước cảnh sát”.

Người ta thường rêu rao rằng các lực lượng chống đối tiếp tay cho “Đảng Việt Tân”, cho diễn biến hòa bình của Mỹ (tưởng tượng!) Mà không thấy sự thật là chính nhà cầm quyền TQ dương diễn biến vừa hòa bình vừa không hòa bình nước ta thành thuộc quốc của họ.

Đảng CS độc tài toàn trị chuyển biến thành Đảng CS dân chủ, đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ đề ra đường lối chính sách hợp lòng dân và hợp với sự phát triển của đất nước, về đối ngoại, giữ mối quan hệ hữu nghị với TQ cũng được nhưng không ngả hẳn vào vòng tay của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đồng thời phát triển đối tác chiến lược với cả Mỹ, tạo sự gắn kết hơn nữa trong khối Asean.

Đó là con đường ích nước lợi dân, hòa bình, êm thấm, không có xung đột đổ vỡ.

Nguyễn Trọng Vĩnh

14-12-2014

https://anhbasam.wordpress.com

ÔNG GIÀ NOEL KHÔNG MẶC ÁO ĐỎ

ÔNG GIÀ NOEL KHÔNG MẶC ÁO ĐỎ

Tôi ngồi phành chân trên ghế trước trong xe Pontiac cũ của chúng tôi, bởi vì đó là cách ngồi hay nhất dành cho một đứa trẻ lớp bốn.  Ba tôi lái xe vào thành phố để mua sắm, còn tôi chỉ đi theo chơi.  Đó là lý do tôi nói với ông.  Thật ra, tôi có một vấn đề quan trọng cần hỏi ông, mà vấn đề đó cứ lởn vởn trong đầu tôi mấy tuần nay.  Tôi bắt đầu lên tiếng:
– Ba à…
Tôi ngập ngừng. Ông không quay sang nói:
– Gì vậy?
– Dạo này, mấy đứa bạn trong trường con thường bàn tán về một điều mà con biết là không đúng…
Tôi cảm thấy môi dưới mình run rẩy vì phải cố kìm lại những giọt nước mắt chỉ trực trào ra.
– Chuyện gì vậy, Punkin?
Tôi biết tâm trạng ông đang vui khi ông dùng cách gọi thân mật như vậy để gọi tôi.
– Tụi nó nói là không có ông già Noel.
Một giọt nước mắt bên phải trào ra.  Tôi ấm ức nói tiếp:
– Tụi nó nói con ngốc lắm mới tin là có ông già Noel…  Chuyện đó chỉ dành cho con nít.
Một giọt nước mắt bên trái lăn nhanh xuống má. Tôi sụt sùi:
– Nhưng con tin những gì ba đã nói với con.  Ông già Noel là có thật.  Phải không ba?
Ba tôi dịu dàng nói:
– Patty, bọn trẻ ở trường con sai rồi.  Ông già Noel có thật.
Tôi thở ra một hơi nhẹ nhõm:
– Con biết ngay mà!
– Nhưng ba cần nói thêm về ông già Noel với con. Ba nghĩ giờ đây con đã đủ lớn để có thể hiểu những gì ba sắp chia sẻ với con. Con sẵn sàng chưa?

Nét mặt ba tôi dịu dàng hẳn, và ánh mắt của ông thật ấm áp.  Tôi biết sắp có một chuyện quan trọng, và tôi sẵn sàng vì tôi hoàn toàn tin tưởng nơi ông.  Ba tôi sẽ không bao giờ nói dối tôi.

– Ngày xưa có một người đàn ông thường chu du khắp nơi trên thế giới.  Đi tới đâu, ông ấy cũng tặng quà cho những đứa trẻ mà ông thấy là xứng đáng.  Con sẽ tìm thấy ông ấy ở nhiều vùng đất khác nhau với nhiều tên khác nhau.  Ông ấy là tinh thần của yêu thương vô điều kiện, và ông ấy mong muốn chia sẻ yêu thương bằng cách tặng những món quà từ trái tim.  Khi con đến một độ tuổi nào đó, con sẽ biết ông già Noel thật sự không phải là người chui qua ống khói nhà con đêm trước Giáng Sinh.  Cuộc đời thật và linh hồn thật của vị thần tiên này sống mãi trong lòng con, trong lòng ba, trong lòng mẹ, trong lòng – cũng như trong tâm trí – của tất cả những ai tin vào niềm vui mà chúng ta tặng cho người khác.  Tinh thần thật sự của ông già Noel nằm trong điều con cho đi, chứ không phải điều con nhận được.  Một khi con hiểu và chấp nhận khái niệm này, Giáng Sinh càng thêm lý thú và kỳ diệu, vì con biết phép lạ xuất phát từ tâm hồn con, khi ông già Noel sống trong trái tim của con.  Con có hiểu những lời ba muốn nói với con không?

Tôi nhìn chằm chằm ra ngoài khung cửa, tập trung vào một thân cây phía trước mặt.  Tôi sợ phải nhìn ba tôi – người mà lúc nào cũng đoan chắc với tôi rằng ông già Noel là có thật.  Tôi chỉ muốn tin như hồi năm ngoái tôi đã tin – ông già Noel là một vị thần tiên to lớn, mập mạp, mặc bộ đồ đỏ.  Tôi không muốn nuốt vào viên thuốc làm người lớn và nhìn thấy mọi việc khác đi.

– Patty, con hãy nhìn ba.

Ba tôi yên lặng chờ đợi.  Tôi quay đầu lại nhìn ông.

Ba tôi cũng đang khóc – nước mắt của vui sướng.  Nét mặt ông rạng rỡ bởi ánh sáng của hàng ngàn thiên hà, và trong đôi mắt ông, tôi thấy đôi mắt của ông già Noel.  Ông già Noel thật sự.  Là người bỏ nhiều công sức lựa những món quà đặc biệt mà tôi muốn trong tất cả những dịp Giáng Sinh. Là người sẵn sàng ăn phần cà rốt mà tôi bỏ lại cho con chó Rudolph.  Là người – dù không có kỹ năng – vẫn ráp xe đạp, ráp cỗ xe ngựa, và những thứ linh tinh khác cho tôi trong suốt buổi sáng của những ngày Giáng Sinh.

Tôi đã nhận được điều đó.  Tôi đã nhận được niềm vui, sự chia sẻ và yêu thương.  Ba tôi kéo tôi vào vòng tay ấm áp của ông, âu yếm ôm tôi thật lâu.  Hai cha con tôi cùng khóc với nhau.

Ba tôi nói tiếp:

– Bây giờ thì con thuộc về một nhóm người đặc biệt.  Kể từ giây phút này, mỗi ngày trong năm, con sẽ chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với mọi người.  Vì giờ đây, ông già Noel đang sống trong tâm hồn con như ông ấy đang sống trong tâm hồn ba.  Trách nhiệm của con là thực hiện trọn vẹn tinh thần trao tặng.  Đây là một trong những điều quan trọng nhất có thể xảy ra trong suốt cuộc đời con, vì bây giờ con biết ông già Noel không thể tồn tại nếu như không có những người như con và ba – luôn giữ cho ông ấy sống mãi.  Con có thể thực hiện được điều này không?

Tâm hồn tôi tràn ngập niềm tự hào, và tôi chắc chắn ánh mắt tôi sáng rực lên vì xúc động.  Tôi nói:
– Được, thưa ba. Con muốn ông ấy luôn ở trong tim con, như ông ấy luôn ở trong tim ba.  Ba ơi, con yêu ba lắm.  Ba là ông già Noel tuyệt vời nhất trong đời con.

Khi đến lúc tôi phải giải thích sự hiện hữu của ông già Noel cho các con tôi biết, tôi cầu xin tôi có tài ăn nói và tình yêu thương như ba tôi vào ngày đã giúp tôi hiểu được ông già Noel không mặc bộ đồ màu đỏ.  Tôi hy vọng các con tôi cũng dễ dàng chấp nhận như tôi ngày đó.  Và tôi hoàn toàn tin tưởng nơi chúng.

Patty Hansen

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

ĐTC: Đức Giêsu là niềm vui của chúng ta

ĐTC: Đức Giêsu là niềm vui của chúng ta

Chuacuuthe.com

VRNs (15.12.2014) –Sài Gòn- theo news.va- Chúa nhật hôm qua 14.12, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô làm phép tượng Chúa Hài Đồng cho các du khách để thờ kính trong dịp Giáng sinh. Truyền thống làm phép tượng Chúa Hài Đồng luôn được cử hành vào ngày Chúa Nhật III Mùa Vọng, còn được gọi là “Chúa Nhật Niềm Vui”.

1

Chúa Nhật “niềm vui” bắt nguồn từ lời kinh Truyền Tin của Đức Trinh Nữ Maria. “Trong Chúa Nhật niềm vui này, phụng vụ diễn tả một thái độ nội tâm để đón chờ ngày gần kề của Con Chúa Giáng sinh: Nghĩa là “niềm vui”, niềm vui của Chúa Giêsu”. Hướng về đám đông tụ tập bên dưới quảng trường, Đức Thánh Cha nói rằng, “Với Đức Giêsu, niềm vui là một phần của gia đình” (Gesù, la gioia è di casa). Thành ngữ ấy, ĐTC lặp lại nhiều lần trong bài huấn dụ của mình.

“Tâm hồn của mỗi người luôn ước ao có được niềm vui … Tất cả chúng ta đều mong muốn niềm vui, mỗi gia đình, mỗi người đều mong muốn hạnh phúc”. Người Kitô hữu, được mời gọi để sống và làm chứng cho niềm vui đến từ việc gần gũi với Thiên Chúa, từ sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của chúng ta. Niềm vui Kitô hữu không đơn giản chỉ là sự viên mãn niềm vui mà chúng ta sẽ có được mai sau ở trên trời nhưng nó đã bắt đầu ngay trong cuộc sống này, được trải nghiệm ngay từ bây giờ. “Vì Chúa Giêsu là niềm vui của chúng ta. Gia đình của chúng ta có Chúa Giêsu chính là có niềm vui.” ĐTC lặp đi lặp lại rằng: “Với Đức Giêsu, niềm vui là một phần của gia đình.”

Tất cả các Kitô hữu đều được mời gọi đón nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống của mình, và để giúp người khác khám phá sự hiện diện đó, hoặc để tái khám phá nó nếu họ đã lãng quên. Ngài gọi đây là “một sứ mạng cao cả, như sứ mạng của ông Gioan Tẩy Giả: chỉ cho mọi người về Chúa Kitô … bởi vì ông có sứ mạng hướng dẫn tâm hồn mỗi người khi họ mong muốn đi tìm niềm vui và hạnh phúc.”

Nhắc đến bài đọc II, Đức Thánh Cha nói rằng, Thánh Phaolô cho chúng ta thấy những điều kiện để được “niềm vui tông đồ” là: hãy kiên trì cầu nguyện, luôn luôn cảm tạ Thiên Chúa, tìm kiếm những gì là tốt và tránh điều ác.” Nếu đây là cách sống của chúng ta thì Tin Mừng sẽ thấm nhập đến tận nhà chúng ta và giúp mọi người trong gia đình tái khám phá Chúa Giêsu chính là ơn cứu độ.” Trong Đức Giêsu, chúng ta tìm thấy bình an nội tâm và sức mạnh để đối mặt với những thách đố mỗi ngày, ngay cả trong những lúc khó khăn nhất. “Kitô hữu là người có tâm hồn tràn đầy bình an vì họ biết đặt niềm vui của mình trong Chúa, ngay cả trong những thời điểm khó khăn của cuộc sống.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng có đức tin không có nghĩa là thôi những khó khăn trong cuộc sống đúng hơn có nghĩa là “có sức mạnh để đối đầu với chúng vì chúng ta  biết rằng mình không đơn độc.” “Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống của chúng ta, và điều này là sự bình an mà Thiên Chúa ban cho con cái của Ngài.”

ĐTC kết luận bài huấn dụ như sau: “Giáo Hội mời gọi chúng ta làm chứng rằng Chúa Giêsu không phải là một người của quá khứ; Ngài là Lời của Thiên Chúa, Đấng mà hôm nay vẫn đang thắp sáng cuộc hành trình của nhân loại; Hành động của Ngài qua các bí tích là những dấu chỉ về sự dịu dàng, niềm an ủi, và tình yêu của Chúa Cha đối với mỗi con người chúng ta”.

Hoàng Minh

Sống trên đời để làm gì?

Sống trên đời để làm gì?

Dongten.net

trong cay duc chua troi

Sống trên đời để làm gì? Đây là một câu hỏi chẳng dễ trả lời chút nào. Cứ sự thường, ta chẳng mảy may để ý đến nó, vì càng nghĩ đến nó, ta chỉ càng cảm thấy bế tắt bởi một mớ những tư tưởng tối tăm lẫn lộn. Khi người ta vui, thành công, hạnh phúc, người ta chẳng cần biết lý do nào đưa đến sự hiện hữu của mình. Khi người ta còn trẻ, người ta thường không bận tâm mấy đến chuyện vì sao mình lại hiện hữu ở nơi đây. Khi người ta tràn trề sức sống, người ta chỉ chăm chú đến việc làm cho mình được triển nở, được khẳng định đến mức hoàn hảo nhất, chứ chẳng có giờ mà lo nghĩ đến câu hỏi rắc rối này. Chỉ khi nào ta đau khổ, thấy mất đi ý nghĩa cuộc đời, thấy mình sắp phải bước vào ngưỡng cửa của một thế giới khác, thấy hơi thở của mình dường như đã đến hồi cạn kiệt, ta mới cảm thấy có cái gì đó bồi hồi trong tận cõi linh hồn, chất vấn ta về nguồn cội thiêng liêng, về cái mà ta ít bao giờ muốn nghĩ tới.

Thực ra thì, giả như không có ta hiện diện trên đời, có gì mất mát xảy ra không? Câu trả lời đến ngay với ta có lẽ là “không” – một con số “0” thật to tướng. Thế giới này mênh mông là thế, ta còn nhỏ hơn là một chấm nhỏ li ti giữa biết bao con người và muôn loài thọ tạo. Chắc là vũ trụ này cũng chẳng tan biến đi khi ta chết! Chắc là xã hội này vẫn cứ tồn tại, thậm chí là thịnh vượng hơn, dù ta có sống chết ra sao! Trước khi ta ra đời, chẳng phải mọi chuyện vẫn diễn ra bình thường đấy thôi, cả nhiều tỷ năm rồi. Quãng thời gian từ lúc ta sinh ra đến lúc chết đi, so với dòng chảy của lịch sử, chẳng khác nào một khoảng khắc bé xíu. Trong lúc sinh thời ấy, đến với ta dường như chỉ toàn là chua chát với đắng cay. Sống mà luôn có niềm vui, bình an, hạnh phúc thì có trở về với cát bụi cũng thấy được mãn nguyện vì thấy dẫu sao mình cũng được hưởng chút ý nghĩa khi hiện diện trên đời. Đã sống không được bao lâu mà đau buồn này đến khổ sở khác kéo đến, cầu không được, ước không thành, phải xa người mình yêu, gần người mình ghét… Một cuộc sống như vậy thì sống để làm gì? Ta ước gì mình đừng tồn tại để không phải gánh chịu số phận hẩm hiu ấy. Nhưng có vẻ như tồn tại hay không tồn tại không phải là do ý ta muốn và chọn. Nó không nằm trong quyền quyết định của ta.

Nếu như có ta hay không có ta, thế giới này cũng chẳng khác nhau mấy, thì tại sao Tạo Hóa lại muốn cho ta được “hiện hữu” chứ không phải nằm trong cõi “hư vô”? Khi đưa ta từ chỗ “không” ra chỗ “có”, Tạo Hóa ban cho ta một hình hài để được nhìn thấy, ban cho ta một cái tên để được gọi, một khuôn mặt để được nhận diện, và một chỗ đứng trong thế giới hữu hình này. Đối với nhiều người, ta chỉ là một trong thế giới. Nhưng đối với một số người khác, ta là cả thế giới đầy yêu thương. Ta có một vị thế độc tôn mà không ai trên đời này, dù giỏi giang và thánh thiện mấy, có thể thay thế được. Bố mẹ ta chỉ có thể sinh ra ta một lần thôi. Những người khác do bố mẹ ta sinh ra trước và sau đó, được gọi là anh chị em của ta, chứ không phải là ta. “Tính duy nhất” của sự hiện hữu làm cho ta cảm thấy mình thật giá trị vô cùng. Giữa hai thái cực của cái “không” và “có”, Tạo Hóa đã chọn cái “có” cho mình. Ta chẳng hiểu vì sao, nhưng ta đoan chắc rằng hẳn là Ngài có lý do để làm điều ấy và nhiệm vụ của ta là vâng phục Ngài, đón nhận món quà hiện hữu Ngài ban cho với một lòng biết ơn và thành kính.

Thực ra, hiện diện trong thế giới này, ta không vô dụng như mình vẫn tưởng. Dù ta có cuộc sống riêng của mình nhưng sự sống của ta được gắn kết với nhiều người bằng những mối tương quan. Ngay khi biết ta được thành hình trong dạ mẹ, đã có biết bao người mong ngóng ta chào đời. Khi ta cất tiếng khóc đầu tiên, niềm rạng rỡ của những người thân cũng long lanh nơi khóe mắt. Khi lớn lên, ta tạo lập giao kết với nhiều người khác nữa. Thế giới của ta ngày càng được mở ra với chằng chịt những mối quan hệ ấy. Lối sống của ta, vì nằm trong các mối liên hệ khác, nên cũng có một sức ảnh hưởng không hề nhỏ, cho chính ta và cho những ai nằm trong thế giới ấy của ta. Biết đâu một sự hy sinh của ta giúp tăng thêm nghị lực cho người khác. Biết đâu một chút chia sẻ của ta cũng giúp sưởi ấm nhiều tâm hồn. Biết đâu một lời nói ngọt ngào của ta giúp ai đó thêm tin yêu vào cuộc sống. Giọt mồ hôi nước mắt của ta nơi ruộng đồng đã giúp nhiều người có được miếng cơm ngon. Những vất vả của ta nơi bục giảng giúp đào tạo bao lớp trẻ nhiệt thành cho đất nước… Dù tầm ảnh hưởng của nó không như các bậc vĩ nhân, và có khi chẳng mấy ai để ý đến, nhưng sự thật là nếu không có những việc làm ấy của ta, thế giới này cũng thiếu đi một cái gì đó, dù là nhỏ nhoi, và chắc là nó cũng khác đi chút gì đó.

Cho ta hiện hữu trên đời, Tạo Hóa cũng ban cho ta một sứ mạng cao cả, mà chỉ mình ta mới có thể chu toàn được. Sứ mạng ấy trước hết là dành cho ta, sau đó là hướng đến tất cả những người khác. Ngài mời gọi chúng ta hãy hướng về Ngài, đứng về phía của Ngài, cùng cộng tác với Ngài để tiếp tục bồi đắp thêm cho công trình tạo dựng. Đây quả thực là một niềm vinh hạnh dành cho chúng ta vì vốn dĩ Ngài không cần chút sức mọn của chúng ta. Chúng ta thụ hưởng sự sống từ Ngài nên chắc chắn chúng ta phải bám vào Ngài để tiếp tục tồn tại. Nhưng Ngài không đối xử với chúng ta như một nô lệ. Trái lại, Ngài xem chúng ta như một cộng sự viên bằng cách ban cho chúng ta có tự do, ý chí và lý trí. Chúng ta có quyền đưa ra những chọn lựa cho mình và chọn lựa ấy của chúng ta sẽ có những tác động đến những loài khác. Ta có thể trở thành người mang niềm vui đến cho người khác, nhưng cũng có thể trở nên kẻ hủy diệt thế gian. Ta có thể là một ngọn lửa sưởi ấm lòng người nhưng cũng có thể là một tảng băng lạnh lùng gieo chết chóc. Ta trở thành con người như thế nào là tùy ở những chọn lựa của ta hằng ngày nơi cuộc sống.

Cứ mỗi khi ta sống yêu thương, trao ban, gắn kết, ta dường như thấy cuộc sống của mình thật ý nghĩa. Đó chính là dấu chỉ của Tạo Hóa cho ta biết là ta đang đi đúng đường để hướng về Chân Thiện Mỹ, là chính Ngài. Ngài cần mỗi người chúng ta làm điều đó, Ngài muốn chúng ta sống như vậy, vì đó là con đường dẫn ta đến bình an, đến sự hoàn thiện đích thực của mình. Cuộc sống của ta là một cuộc hành hương tìm về Đấng Tạo Hóa. Những gì được ban cho ta là phương tiện giúp ta thực hiện lộ trình này. Bởi thế, ta được sinh ta là để chia sẻ với Tạo Hóa niềm hạnh phúc viên mãn của Ngài. Đó là một lời mời gọi cao quý dành cho hết thảy chúng ta.

Bấy lâu nay, chúng ta có đủ ý thức về điều này không?

Pr. Lê Hoàng Nam, S

Bọ Lập bị bắt: Sự thật và nỗi buồn

Bọ Lập bị bắt: Sự thật và nỗi buồn

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-12-11

kinhhoa12112014.mp3

nguyen-quang-lap-622.jpg

Nhà văn Blogger Nguyễn Quang Lập.

File photo

Con đò chở Sự thật

“Trước sau bọ Lập xin làm một người lái đò nhỏ chở con thuyền “Sự thật” đến với dân, chỉ vậy thôi, không có gì khác.”

Câu khẩu hiệu nhà văn Nguyễn Quang Lập lấy làm tôn chỉ cho trang blog của mình được nhiều trang đăng lại sau khi ông bị bắt.

Nhiều blogger ngạc nhiên khi nghe tin ông bị bắt, vì dường như ông Lập đã chọn một đường lối phản biện rất ôn hòa và an toàn, và hơn nữa nhân thân của ông cũng dường như cũng là một lá chắn bảo vệ cho ông, vì nói theo blogger, Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng thì ông Nguyễn Quang Lập là con đẻ của thời đại xã hội chủ nghĩa, là một nhà văn trong dòng chủ lưu của nước Việt Nam hiện nay với tấm thẻ hội viên của hàng loạt hội văn học nghệ thuật chính thống của nhà nước.

Nhưng cũng có những người không ngạc nhiên khi nghe tin ông bị bắt. Những người này nghĩ rằng cái chuyện bị bắt đối những blogger tại Việt Nam là quá bình thường, nói như Tiến sĩ Hà Sĩ Phu thì họ là một trong những lớp người bị nhiều o ép nhất hiện nay vì dấn thân cho tự do ngôn luận. Blogger Kami thì cho rằng những người viết blog tinh ý, và ngay chính blogger Nguyễn Quang Lập cũng không ngạc nhiên về chuyện bắt bớ này. Nhà báo tự do Lê Diễn Đức lại viết rằng ông Lập muốn chuyên chở Sự thật cho nên chuyện ông bị bắt cũng là điều dễ hiểu:

“Nhưng cái ranh giới an toàn mà nhà văn Nguyễn Quang Lập đặt ra quá mong manh truớc một mục tiêu lớn là chuyên chở sự thật đến với nhân dân, trong khi chế độ cộng sản được xây dựng trên bạo lực và dối trá. Chỉ chuyển tải sự thật thôi cũng đã đi ngược lợi ích sống còn của nó.

” Cái ranh giới an toàn mà nhà văn Nguyễn Quang Lập đặt ra quá mong manh truớc một mục tiêu lớn là chuyên chở sự thật đến với nhân dân, trong khi chế độ cộng sản được xây dựng trên bạo lực và dối trá.
-Lê Diễn Đức”

Blogger Tưởng Năng Tiến thì viết một cách khôi hài:

“Sống ở nước CHXHCNVN  mà lại nằng nặc đòi “chở con thuyền “Sự thật” đến với dân” thì đi tù là cái chắc!”

Khi ông Lập bị bắt, các trang blog “bán-chính-thống” mang tên các vị lãnh đạo nhà nước Việt Nam viết rằng ông là một nhà văn không có phẩm hạnh vì đã chỉ trích Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Blogger Tuấn Khanh đáp trả:

“Người viết nặc danh ghi rằng Bọ Lập là một nhà văn không có phẩm hạnh khi dám chỉ trích tổng bí thư. Tôi thì chỉ nghĩ rằng rất nhiều các nhà văn trên toàn thế giới xã hội chủ nghĩa luôn ca ngợi các tổng bí thư, cũng không có mấy ai trong số họ giới thiệu được chút phẩm hạnh nào của mình. Bọ Lập chắc cũng không màng loại phẩm hạnh đó.

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, một trí thức hồi hương từ châu Âu nhận xét về người chủ trang blog Quê Choa, so sánh ông với một nhà văn khác của chế độ là ông Nguyễn Khải:

“Thái độ của ông chính là thái độ của một nhà văn chân chính, một kẻ sỹ có tinh thần trách nhiệm với xã hội mình đang sống, tuy bị tai nạn ngặt nghèo vẫn hết mình  cống hiến. Khác với Nguyễn Khải, phải chờ đợi đến cuối đời mới đi tìm cái tôi đã mất, Nguyễn Quang Lập nhìn lại chính mình, chính cái lò sản sinh ra mình ngay trong giai đoạn sung mãn nhất của cuộc đời một nhà văn.

So với nhà văn quá cố Nguyễn Khải, ông Nguyễn Quang Lập đã đến với thời đại thông tin một cách nhanh chóng, và cũng như nhiều blogger dấn thân cùng thế hệ với ông hay trẻ hơn, họ tình nguyện là người đưa thông tin và những ý tưởng khác biệt đến cho đồng bào, dù trên đầu họ lúc nào cũng lơ lửng sự đe dọa của nghị định 72 của chính phủ Việt Nam về việc cấm chia sẻ thông tin trên các trang blog cá nhân.

Nỗi sợ của người cầm quyền

Trở lại sự việc ông Lập bị bắt, câu hỏi mọi người đặt ra là tại sao là ông Lập chứ không phải hàng chục blog khác chỉ trích chính phủ và đảng cộng sản Việt Nam mạnh mẽ hơn và trực diện hơn? Hai blogger Việt Nam đang ở hải ngoại là nhà báo Đoan Trang và người tù chính trị nổi tiếng Điếu Cày viết rằng do ông Lập thu hút nhiều người đến với nhau quá nên người ta phải bắt ông, vì sự tập hợp những nhóm người nằm ngoài sự kiểm soát của đảng cộng sản vẫn là điều mà những người cộng sản sợ nhất. Blogger Kami cũng có ý kiến này:

nguyen-quang-lap-b-622.jpg

Nhà văn cũng là Blogger Nguyễn Quang Lập người điều hành Blog Quê Choa nổi tiếng.

“Ở đó một nhóm người giữ quyền lực và tự cho mình quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội, với phương châm độc quyền cả về vấn đề lãnh đạo tư tưởng của mọi tầng lớp trong xã hội thì việc độc quyền, kể cả bưng bít thông tin cũng như cản trở việc tìm kiếm tìm hiểu thông tin của người dân là chuyện đương nhiên. Vì thế việc các cá nhân sử dụng blog như một phương tiện tuyên truyền thông tin, với các tin tức đa chiều là điều bị coi là nguy hiểm, vì nó ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.

Còn nhà báo Lê Diễn Đức, người có một kinh nghiệm dài lâu và phong phú sống dưới các chế độ cộng sản khác nhau thì cho rằng, cho dù ông là đứa con đẻ của chế độ, điều đó không thể bảo vệ được ông khi ông có quá nhiều người mến mộ:

“Bất kỳ một yếu tố nào mà chế độ thấy rằng có thể gây ảnh hưởng lớn lên ý thức chính trị khác luồng tuyên truyền đối với xã hội đều bị tiêu diệt. Huống hồ là ông, với hàng triệu người mến mộ! Cho dù ông là đứa con đẻ của chế độ, một cây bút tài năng, đã đóng góp không nhỏ cho nền văn hoá, nghệ thuật của đất nước.

Thời điểm mà blogger Nguyễn Quang Lập bị bắt, cũng như người đồng nghiệp cũng bị bắt trước đó một tuần là Giáo sư Hồng Lê Thọ, là lúc diễn ra ngày Quốc tế nhân quyền thế giới, cũng là dịp nhiều người tưởng nhớ đến sự kiện cách đây tròn nửa thế kỷ, những sinh viên Đại học tại California biểu tình đòi quyền tự do ngôn luận. Trong khi đó người ta lại thấy rằng có quá nhiều điều luật ở Việt Nam hạn chế quyền tự do này trong đó có điều 258 mà cơ quan công quyền đã dùng để bắt giam ông Lập và ông Thọ. Cây bút Vũ Đông Hà viết trên trang blog Dân Làm báo:

“Cho dù với ý đồ gì, trò chơi và mánh khóe nào, dưới thể chế độc tài công an trị này, bất kỳ công dân Việt Nam nào bị bắt bởi những điều luật phản động như 88, 79 và 258 đều là những con người bất khuất. Họ đã không chọn một cuộc sống thờ ơ, vô cảm theo đám đông đang tê liệt vì sợ hãi bộ máy bạo lực, mà đã đứng lên, mỗi người mỗi cách, để phục vụ xã hội theo chiều hướng tích cực nhất mà họ có thể làm được.”

Vũ Đông Hà gọi những điều luật ấy là phản động, từ mà giới chức tuyên truyền ở Việt Nam hay gán cho những người bất đồng chính kiến.

Nhiều trang blog đã đưa ra lời kêu gọi trả tự do cho ông Lập, và những lời kêu gọi này vang đến cả thành phố Prague xa xôi và lạnh giá khi sáu người Việt lẻ loi ở đó lên tiếng trong đêm kỷ niệm ngày quốc tế nhân quyền.

Một thời gian chỉ vài ngày sau khi ông Lập bị bắt thì trang mạng của Bộ Công An đưa tin vỏn vẹn hai dòng là ông đã nhận tội! Các blogger hỏi nhau rằng ông nhận tội gì? Và phải chăng đây là cách mà nhà cầm quyền dọn đường sẳn cho việc thả tự do cho ông? Bán tín bán nghi, nhưng các blogger lại có chung một điều xác tín với nhau là họ không tin ở ba từ Đã nhận Tội đó, vì nó đã được lập đi lập lại liên tục qua các vụ án chính trị trong hơn mười năm qua. Facebooker Caubay Them viết:

“Nay báo công an thành Hồ Chí Minh đưa tin ông Lập nhận tội, xin khoan hồng. Tôi chả biết có thật không vì không biết về cá nhân ông Lập nhiều. Nhưng, như bất kỳ người tù nào của CS, khi ra khỏi tù đều có lý do là nhờ đã “thành khẩn nhận tội, xin cách mạng khoan hồng” cả.”

Nỗi sợ của xã hội

Người ta không biết là vụ bắt ông Lập sẽ đi đến đâu nhưng nhiều blogger cho rằng những người bắt ông sẽ không được lợi lộc gì cả, nhà báo Lê Diễn Đức viết:

” Nó có thể đem lại những hậu quả ngược lại với những gì nhà cầm quyền mong mỏi. Nó làm tắt lịm những tiếng nói chân thật của những công dân tốt.
-GS Nguyễn Đăng Hưng

“Bắt ông, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam thể hiện sự hung hăng, rối trí, hèn nhát và bạc bẽo.

Một blogger người nước ngoài là Giáo sư Jonathan London viết:

“Tôi không bao giờ gặp ông ấy và không rõ anh bị bắt vì sao. Nhưng, nhìn một cách khách quan tôi có ý như thế này: Nếu mục tiêu là một Việt Nam dân chủ thì bắt những người như ông rất khó có thể mang lại những nguyên vọng dân chủ ấy.”

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng thì nêu lên cả những hậu quả không tốt cho xã hội, không tốt cho cả mối quan hệ giữa xã hội và những người đang điều hành nó hiện nay:

“Nó có thể đem lại những hậu quả ngược lại với những gì nhà cầm quyền mong mỏi. Nó làm tắt lịm những tiếng nói chân thật của những công dân tốt, của những trí thức tâm huyết với hướng đi lên của dân tộc. Nó tạo điều kiện cho sự bất cập, trầm trọng hoá những mâu thuẫn, ngăn cản sự đồng thuận xã hội, đẩy lùi những giải pháp ôn hoà có lợi cho sự phát triền hài hoà của xã hội theo hướng tích cực.

Và ông buồn bã cho rằng ông thấy cuộc sống của ông ở Việt Nam đang có gì bất ổn. Câu nói này còn hơn cả một nỗi buồn vì người ta biết rằng Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng vốn là một nhà khoa học thành công ở châu Âu, đã về Việt Nam sống và làm việc với nhiều hoài bão.

Trái bóng có vẻ như đang nằm ở sân của những nhà cầm quyền Việt Nam, trái bóng 258.

Cùng lúc với việc đàn áp các blogger Việt Nam thì cuộc đấu tranh của sinh viên Hồng kong cũng kết thúc một cách thất bại. Facebooker Trần Minh Khôi trích lời một trong những thủ lĩnh của phong trào biểu tình đòi dân chủ là luật sư Benny Tai:

“Một chính quyền thô bạo như thế thì không nên hy vọng vào việc nói chuyện phải quấy với nó. Điều tốt nhất chúng ta có thể làm được là cứ sống như mình muốn và chấp nhận nhũng nhiễu, tù tội từ con thú quyền lực vô tri. Có điều này: không nên can dự vào những đoán định về chuyện tranh chấp quyền lực của đám ma cô. Điều này vô nghĩa.

Khi Nguyễn Quang Lập chọn cho mình đường lối ôn hòa nhất, nhiều bạn bè của ông nhận xét rằng, ông rất mong muốn sự cải cách từ phía những người cầm quyền, tức là ông không muốn điều mà người luật sư Hong Kong phát biểu. Tuy nhiên dường như ông cũng định lượng trước điều ấy cho bản thân mình.

Xin mượn một câu Kiều mà ông Nguyễn Quang Lập viết trên đầu trang blog của mình để kết thúc:

“Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh!

Sắt và máu

Sắt và máu

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Người ta gọi cờ của Cộng Sản Việt Nam là lá cờ máu, mà không phải chỉ Việt Nam, các nước Cộng Sản trên thế giới đều có lá cờ nền đỏ, từ Liên Bang Xô Viết, Trung Cộng, Bắc Hàn hay Cuba.

Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, nơi tưởng niệm các binh sĩ VNCH và Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam. (Hình minh họa: David McNew/Getty Images)

Chính cái màu máu đó Hồ Chí Minh đã vác về từ Liên Xô gây thảm họa cho dân tộc Việt Nam. Tố Hữu trong bài “Hoa và Máu” đã ca tụng “Người” của ông, nhưng có kết quả ngược, khi đọc lên, người ta thấy Hồ Chí Minh quả thật là một nhân vật ngoi lên từ vũng máu:

“Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần!”

Và cả dân tộc này đang hân hoan phấn khởi được ngụp lặn, vùng vẫy trong máu:

“Ta lại về ta, những đứa con
Máu hòa trong máu, đỏ như son.”

Từ chủ trương sắt máu đó Tố Hữu cũng đã hò hét:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong…”

Không ai nghĩ ra vì sao phải đổ máu cho tốt ruộng đồng và thu thuế nhanh hơn, phải chăng đó là một lối cai trị bằng sắt máu và khủng bố!
Ngay trong bài quốc ca “Tiến Quân Ca” chúng ta đã phải rùng mình khi nghe những lời hát man dại của Văn Cao:

“Thề phanh thây uống máu quân thù
Tiến mau ra xa trường, tiến lên!”

Những nhà thơ khác như Xuân Diệu cũng nhập cuộc, chủ trương:

“Máu kêu máu trả thù.
Súng đâu, anh em đâu.
Bắn nó thủng yết hầu,
Bắn tỉa nó dài lâu!”

Lời kêu gọi của những con người thèm khát nhìn thấy máu này, đã đưa dân tộc đến thảm sát Mậu Thân, pháo kích trường học ở Cai Lậy, bắn pháo trên “đại lộ Kinh Hoàng,” gây biển máu trên Quốc Lộ 7B và những vụ trả thù ghê gớm trong ngày miền Nam thất thủ. Những người thèm máu trong chiến tranh, hôm nay ngày hòa bình đã có kết quả.

Ngày xưa có những bài toán trừ: “10 tên lính Mỹ giết 6 tên, còn lại mấy tên?” Nhưng ngày nay Việt Nam mon men lại gần Mỹ, “hoan nghênh việc Hạ Viện Hoa Kỳ lần đầu tiên thông qua một nghị quyết ủng hộ những nỗ lực giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, và việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông,” thì bài toán có máu sẽ đổ lên đầu trẻ thơ vô tội, là, “10 ngón tay bị chặt đứt 2 ngón, tính ra còn mấy ngón tay?” Cũng là máu!

Trên những trang báo trong nước ngày nay, không có ngày nào là không có chuyện máu. Người ta giết nhau không cần đến súng, mà bằng búa bằng dao. Sư giết người yêu chôn trong vườn chùa, cha giết con, con cầm dao giết mẹ, anh em vợ chồng đoạt mạng nhau, còn phân thây, vứt bên lề đường, vùi trong bụi chuối, ao hồ. Mới đây là chuyện thiếu niên mới 15 tuổi giết cô chăn bò 52 tuổi, lột lấy bông tai và hiếp dâm thi thể, một thanh niên khác trấn nước nạn nhân cho đến chết, rồi kéo lên bờ làm chuyện tồi bại.

Bây giờ là thời buổi của ma quỷ hiện hình cũng như con người khát máu ưa chém giết nhau, chỉ vì không biết phù phép, bùa chú, yểm ma trừ tà, không chịu chôn hay thiêu đốt mà để con quỷ dâm dục, khát máu, bạo tàn sống nằm khô héo nhăn răng trong lăng.

Chúng ta thường nghĩ, chiến tranh là chuyện bất đắc dĩ, khi tiếng súng đã im trên chiến trận, dù ai chết, bên này hay bên kia, thì cũng là người, ai cũng có những người thân, cũng có một mái ấm. Phải là người lính của miền Nam ngày trước mới có được nỗi buồn xót xa, nhân bản như Tô Thùy Yên:

“Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?

Hay như Trần Hoài Thư:

“Ai bạn, ai thù sao quá thảm,
Trên một dòng cuồn cuộn oan gia!”

Trong khi đó, những người Cộng Sản hả hê:

“Ném lựu đạn cho người vui vật sướng!”

Hay cầm súng giết người mà hãnh diện:

“Ôi êm ái khi tay cầm vũ khí!” (Xuân Diệu)

Ngay cái hầm chông của du kích là một vũ khí giết người, khi một con vật sa vào bẫy, dù thèm miếng thịt cũng bất nhẫn, khi thấy con vật giẫy giụa đau đớn trong máu me, nhưng Chế Lan Viên đã “yêu,” ca tụng nó, thứ vũ khí giết người:

“Hỡi cái hầm chông
Ta yêu ngươi hơn vạn đóa hoa hồng
Cái hầm chông nhọn hoắt…”

Sau khi giết người, họng súng của con người Cộng Sản “phải reo ca,” nên chế độ ấy, ngày nay sinh sản ra những con người sát nhân, hiếp dân, vứt xác xong về đi ngủ, hay ra quán ngồi nhậu tiếp.

Thời buổi cai trị bằng sắt máu, dùng bạo lực, công an là lực lượng trung thành trấn áp nhân dân, “còn đảng còn ta” nên cảnh giết người, đánh đập người dân trong các đồn công an trong khi lấy khẩu cung gây nên cảnh chết chóc, dàn cảnh tự tử không hiếm tại Việt Nam hôm nay. Cảnh cướp đất, cướp nhà đã dồn người dân lành thành dân oan, ăn đường, ngủ bụi, oán thán ngất trời.

Chúng ta trông đợi, hy vọng gì ở cái xã hội suy đồi bại hoại này, nó phát xuất từ cây đa Tân Trào, hay hang Pác Bó thì cũng đem lại cái chết cho hàng triệu thanh niên và ngày nay là đạo lý suy đồi. Hay biết mấy những câu thơ của Tố Hữu áp dụng cho hoàn cảnh hôm nay:

“…Càng tức nước, càng xui bờ vỡ
Lòng dân ta như lửa thêm dầu
Lưỡi lê, mũi súng, nhà tù
Càng đau, càng khổ, càng thù, càng căm!”

(Ba mươi năm đời ta có đảng)

Rồi đây, có lẽ sẽ không có “Cách Mạng Nhung,” “Cách Mạng Hoa Lài,” gì nữa hết. Chúng khởi đầu con đường đi bằng máu, sợ rồi đây nó sẽ tự kết thúc bằng máu như Tố Hữu đã từng kêu lên, “Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu!”

Xuất khẩu tiến sĩ Việt đi đâu?

Xuất khẩu tiến sĩ Việt đi đâu?

VienDongDaily.com

Văn Quang – Viết từ Sài Gòn

Chuyện hai cha con ông nông dân Trấn Quốc Hải sửa chữa và chế tạo xe bọc thép thành công tại Campuchia được biệt đãi như chế độ của đại tướng quân thật sự. Ở VN gọi cha con ông là “Đại tướng quân hai lúa.” Chính phủ Campuchia đã tặng cho gia đình ông một biệt thự, một xe hơi trong những ngày lưu lại nước bạn. Không chỉ vậy, ông sẽ được tặng luôn với vườn xoài rộng 18 ha nếu chấp nhận sang Campuchia làm khoa học. (Tôi tường thuật chuyện này trong đoạn sau).
Chính vì thế trong mấy tuần vừa qua, ngoài dư luận ồn ào vì chuyện ngài cựu Tổng Thanh Tra Chính Phủ Trần Văn Truyền có hàng loạt cơ ngơi đồ sộ đang bị điều tra (chuyện này bỗng trở thành kiểu “chuyện dài nhân dân tự vận” sẽ còn nhiều pha hồi hộp gay cấn trong trong những ngày tháng sắp tới), một vấn đề đang rộ lên trên các báo tuần qua là xuất khẩu giáo sư, tiến sĩ.
Xin bạn nhớ cho, Việt Nam chúng tôi có khoảng 9,000 giáo sư và 24,300 tiến sĩ, nhiều nhất Đông Nam Á đấy nhá. Dư thừa giáo sư, tiến sĩ nhiều, cho nên tìm cách xuất khẩu cho đỡ phí.
Đó là một ý kiến chính đáng nhưng có phần mỉa mai. Bởi có nhiều vị tiến sĩ đang thất nghiệp hoặc làm tạm việc gì đó không phải của tiến sĩ. Vả lại ngoài một số vị tiến sĩ có bằng cấp thật lại có hàng loạt các vị tiến sĩ giả được gọi là tiến sĩ giấy. Kể cả một anh thợ mộc cũng có thể được “biến hóa” thành tiến sĩ, tôi đã từng đưa tin phó giáo sư Tiến Sĩ Đàm Khải Hoàn dạy tại trường Đại Học Thái Nguyên nhận “giúp đỡ” một người buôn gỗ lấy bằng tiến sĩ Y Khoa với giá 200 triệu đồng. Vì thế ở VN lại có thêm từ “tiến sĩ gỗ.” Dân gian chua chát lưu hành câu “thứ không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền.” Cũng có nhiều anh mua cái bằng chỉ để treo trong nhà cho nó “oách” hoặc làm mồi nhử một cô gái ngây thơ thích bằng cấp và thích có tí “danh gì với núi sông”… Tất nhiên có khá nhiều ông “làm việc nước” muốn thăng tiến cùng với “thăng tiền” mua cái bằng tiến sĩ hay thạc sĩ gì đó nộp vào hồ sơ. Mất 200 triệu chứ mất 2 tỉ hay hơn thế cũng còn lời chán. Nếu có bị đánh tham nhũng thì “hy sinh đời bố củng cố đời con” cũng vẫn còn lời – Tuy nhiên xin mở ngoặc là chuyện này khó xảy ra, xác suất là 1/1,000,000 như kiểu trúng số độc đắc vậy. Nói sơ sơ thế để các bạn hiểu rằng ở VN chúng tôi dân trí cao lắm (xin đừng nhầm là “cáo lắm” đấy). Cho nên không xuất khẩu thì để trang trí làm cảnh à? Nếu thực sự chỉ dùng để trang trí thì quả thực đất nước VN có thể xếp vào loại xa xỉ nhất thế giới khi sử dụng một nguồn lực khổng lồ như vậy chỉ để mà chơi và trang hoàng cho đẹp mắt.

Chiếc máy bay của ông Hải khi được thử nghiệm.

Các vị tiến sĩ thật đang làm gì?

Mất hàng tỉ tỉ đồng đào tạo ra các nhà tiến sĩ vậy VN có bao nhiêu vị có công trình nghiên cứu có giá trị?
Trung bình hàng năm Việt Nam có số lượng ấn phẩm khoa học được duyệt và đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế chỉ bằng 1/5 của Thái Lan và 1/10 của Singapore. Riêng trên tạp chí Nature, thì trong mười năm qua Việt Nam chỉ có 5 ấn phẩm khoa học trong nước được đăng trên tạp chí hàng đầu thế giới này. Đồng ý rằng, dân ta có nhiều người học TS chỉ để cho oai, vậy con số khoảng 9,000 GS, PGS với phân nửa số lượng TS đang là giảng viên đại học hay “nghiên cứu viên” tại VN đang làm gì và được dùng vào việc gì?
Theo ông Trần Đăng Tuấn trên VN Net: Ngân sách hàng năm dành cho nghiên cứu khoa học vốn đã rất khiêm tốn (chỉ chiếm 0.5% GDP) nhưng luôn bị cắt xén và thất thoát tại mỗi cấp. Nếu muốn được duyệt một đề tài nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà nước thì chi phí lobby đôi lúc lên đến vài chục phần trăm ngân sách đề tài. Công sức bỏ ra để hợp thức hóa số tiền bị cắt xén này hầu như chiếm gần hết thời gian của đơn vị nghiên cứu, khiến cho các sản phẩm đầu ra đều không đáng tin cậy hoặc ở dạng nửa vời.
Thật đáng buồn khi nhiều nhà nghiên cứu bỗng nhiên trở thành những nhà “chạy dự án” chuyên nghiệp. Việc xem các đề tại Nhà Nước như là một chiếc bánh cho nhiều cá nhân và đơn vị để cải thiện thu nhập khiến cho đất nước ta luôn vắng bóng những công trình tầm cỡ. Sự thiếu hụt các cơ chế giám sát, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong nghiên cứu khoa học được xem như nguyên nhân chính khiến cho phần lớn các kết quả đề tài không có tính ứng dụng trong thực tiễn nhưng vẫn được phê duyệt và nằm yên, bám bụi trên các giá sách vốn đã rất bụi tại các cơ quan nhà nước. Dù có thế nào thì cũng không ai phải chịu trách nhiệm.
Những người làm khoa học không chuyên thì sao? Sự cứng nhắc, rập khuôn và giáo điều của các cơ quan chức năng cộng với tính sính ngoại và tự coi thường khả năng, trí tuệ của chính người nhà mình đã khiến cho bao nhiêu nông dân và kể cả doanh nhân phải ngửa mặt kêu Trời.
Thời Hoàng Đế Lê Thánh Tông, nước Đại Việt của chúng ta có thể được xem là hùng cường bậc nhất trong lịch sử Phong Kiến. Có lẽ ý thức được nguyên tắc “hiền tài là nguyên khí Quốc gia” nên nhà Vua đã tạo dựng được một triều đại huy hoàng đến vậy. Tuy đời sau ít nhiều thấm nhuần tư tưởng này nhưng chưa ai làm được những gì mà “Vị Hoàng Đế mở cõi” này đã làm. Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng theo tôi cũng giống như ngày nay, cái quan trọng nhất không phải chúng ta không muốn sử dụng nhân tài mà là chúng ta không có khả năng sử dụng họ.


Xe bọc thép “Made by ông Hải” dẫn đầu đoàn xe bọc thép trong lễ kỷ niệm 25 năm thành lập lữ đoàn 70 của Campuchia.

Bố ai dám nhập mấy ông này!

Người dân đã quá chán với những vị tiến sĩ “dỏm.” Nhiều câu chuyện dân gian kể trên các trang báo. Có những vị tiến sĩ cả đời chẳng đọc một cuốn sách, chẳng nghiên cứu gì, ngoại ngữ thì viết mấy chữ cám ơn, lời chào bằng tiếng Anh còn sai be bét, đi nước ngoài hỏi đường bằng cách ra hiệu, tay chân cứ “múa loạn xạ cả lên, như lên đồng.” Khi chúng tôi ngồi tán chuyện, nói về nhân vật “Tào Tháo” trong “Tam Quốc,” thì có vị “tiến sĩ” nghe lỏm cũng gật gù: cái nền văn học Pháp hay thật. Cha mẹ ơi! sao mà cười “ra nước mắt.” Bố ai dám nhập mấy ông này!
Các bác sĩ của ta đi làm chuyên gia cũng nhiều, rồi đến y tá, nông dân cũng đi xuất khẩu được để hướng dẫn trồng cây, v.v. Nông dân sáng chế ra máy bóc lạc, máy đào đất… Còn mấy “ổng tiến sĩ” đó, nghe đâu thường làm ở các cơ quan, đoàn thể thì phải!
Bây giờ lại nghĩ đến xưa, thật xót cho cụ Trần Tế Xương sống ở cái thời “sự học chán lắm rồi,” cho nên lận đận về con đường “khoa cử.” Bây giờ thì cụ đã đỗ “tiến sĩ” từ lâu, chẳng phải vất vả thế! Cụ có biết không? bây giờ họ “phù phép” biến người buôn gỗ thành tiến sĩ y khoa đấy! Đến “Tôn Hành Giả” cũng phải bó tay.

Nông dân còn xuất khẩu được, tiến sĩ chẳng lẽ không?

Nhưng vấn đề là ở chỗ, ai nhập giáo sư, tiến sĩ Việt Nam? Mỹ ư! Xin thưa, có. Nhưng muốn Mỹ nhập khẩu thì giáo sư phải cỡ như Ngô Bảo Châu và Đàm Thanh Sơn, Lê Tự Quốc Thắng. Mà giáo sư cỡ này thì Việt Nam đếm đầu ngón tay. Nói đúng hơn, không phải các giáo sư này do Việt Nam đào tạo, mà chính họ đào tạo rồi giữ lại dùng. Chúng ta cứ tự nói với thiên hạ rằng, Việt Nam xuất khẩu các giáo sư đó cho nó oai thôi.
Người giỏi thì tất sẽ có nhiều lời mời, nhiều kế hoạch, dự định, làm không hết việc. Việt Nam có nhiều doanh nghiệp, đơn vị cần người giỏi, trọng người tài, thậm chí có những doanh nghiệp phải bỏ nhiều tiền để thuê chuyên gia nước ngoài. Nếu có người Việt Nam tài giỏi thật, việc gì họ không mời. Đã giỏi thì không thể thất nghiệp. Tất nhiên, vẫn có những trường hợp tài thật nhưng không may mắn.
Cho nên, cứ nói xuất khẩu giáo sư, tiến sĩ cho vui. Người có thực lực đã tự tìm cho mình con đường mà chẳng cần ai phải kêu gọi, chẳng cần tham gia phong trào “xuất khẩu.” Còn người bất tài, trong nước còn không ai muốn nhận – trừ những cơ quan với những công việc không cần chất xám – thì có xuất cũng không ai dám thuê, hoặc nhỡ có ai đó lỡ thuê thì chính họ cũng không dám đi. Ở trong nước còn nói xạo được, ra nước ngoài lộ ngay.
Đấy là chuyện xuất khẩu tiến sĩ của VN hiện nay. Nhưng không “xuất” tiến sĩ được mà có ông nông dân lại được nước bạn long trọng mời sang làm với những ưu đãi hết sức đặc biệt. Đó là một trường hợp rất đặc biệt của cha con ông “hai lúa.”

Những điều đặc biệt về cha con ông nông dân Trần Quốc Hải

Mọi người VN đều hãnh diện vui mừng trước cái tin “nhà khoa học nông dân” dậy sóng trên khắp các cơ quan truyền thông từ trong nước đến nước ngoài. Chắc chắn nhiều bạn đọc đã biết tin này. Ở đây tôi nêu lên vài điều đặc biệt về hai cha con ông hai lúa này.
Ông Trần Quốc Hải ở tại xã Suối Dây, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh. Lý do ông sang Campuchia là nhà ông ở gần biên giới nên nhiều lần ông qua Campuchia để chuyển giao công nghệ cơ giới hóa cây mỳ tại đơn vị quân đội – Lữ đoàn 70 của Campuchia.
Phía lữ đoàn nghe rất thích nhưng không tin rằng một người chuyên làm máy nông nghiệp lại có thể sửa chữa được khí tài quân sự vốn phức tạp hơn rất nhiều. Bởi trước đây cũng có nhiều chuyên gia từ Nga, Ukraina và Việt Nam sang sửa chữa rồi.
Ông Hải kể lại khởi đầu của hành trình trở thành nhà khoa học quân sự của nhà nước Campuchia. Ông nói:
“Vấn đề Nga hay Ukraina tui không quan tâm. Nhưng, họ phàn nàn chuyên viên Việt Nam sửa xong vừa quay lưng đi là xe lại hỏng là tui rất tự ái.” Đó là lòng tự ái dân tộc.
Sau khi xem qua một số bộ phận của xe ông Hải khẳng định chắc như đinh đóng cột là mình sửa được. Thể hiện rõ quyết tâm trước sự ngờ vực về năng lực và khả năng thành công của “phi vụ” này từ phía bạn, ông Hải bỏ hẳn tiền túi $25,000 USD để sửa chữa. Với ông đây còn hơn cả canh bạc. Thua bạc thì chỉ mất tiền thôi, còn ở đây là lòng tự ái dân tộc bị tổn thương.”

Thành công khiến toàn thể sĩ quan cao cấp sững sờ

Ông Hải cũng đề nghị muốn sử dụng tốt ở Campuchia thì phải có nhiều cải tiến như sử dụng động cơ diesel, thay đổi một số tính năng của xe. Được sự đồng ý của Bộ Quốc Phòng Campuchia, hai cha con ông Hải bắt tay vào sửa chữa.
Kết quả ngoài cả mong đợi của lữ đoàn 70, sau 15 ngày làm việc cật lực, ông Hải làm chiếc xe chạy ro ro chẳng khác gì hàng mới. Chiếc xe bọc thép BRDM – 2 (do Liên Xô cũ sản xuất) chỉ tiêu tốn 25 lít dầu/100km thay vì 45 lít như trước đây. Xe tác xạ nhanh hơn, cơ động hơn, hỏa lực mạnh hơn, súng có thể bắn ở cự ly hơn 7m so với cự ly trên 150m trước đây, tháp pháo tự động.
Hết sức ngạc nhiên trước kỳ tích này của cha con ông Hải, lữ đoàn 70 đề nghị ông Hải tiếp tục sửa chữa toàn bộ xe bọc thép BRMD – 2 và BTR60PB. Sau khi nâng cấp, sửa chữa được 11 chiếc, phía Campuchia lại thách thức ông Hải chế tạo hẳn chiếc bọc thép mới phù hợp với đặc thù nước này.
Sau bốn tháng làm việc cùng một số cộng sự, chiếc xe bọc thép “made by ông Hải” ra đời với chi phí hơn $200,000 USD.
Ông Trần Quốc Hải được phong tặng bằng khen và công nhận là nhà khoa học quân sự. Con trai Trần Quốc Thanh được gọi là kỹ sư quân sự. Trong lễ kỷ niệm của lữ đoàn 70, hai cha con ông kỹ sư “hai lúa” được Quốc Vương Campuchia tặng huân chương Đại Tướng Quân. Như trên tôi đã kể chính phủ Campuchia còn tặng cho gia đình ông một biệt thự, một xe hơi trong những ngày lưu lại nước bạn. Không chỉ vậy, ông sẽ được tặng luôn với vườn xoài rộng 18 ha nếu chấp nhận sang Campuchia làm khoa học. Mọi việc ăn uống, sinh hoạt của gia đình đều có người phục vụ, đúng theo tiêu chuẩn “cấp tướng” và cho phép ông nhập quốc tịch Campuchia bất cứ lúc nào.

Kỹ sư hai lúa còn chế tạo cả máy bay trực thăng

Ông Hải tâm sự với phóng viên Quốc Anh: Vùng quê Tây Ninh vốn rất nhiều mỳ. Ông muốn năng suất canh tác tăng lên mà bà con đỡ khổ, trong vòng 5 năm ông đã hoàn thành quy trình cho cây mỳ, từ máy trồng mỳ, làm cỏ, phun thuốc, nhổ mỳ… Ông so sánh, “Việc sáng chế ra quy trình trồng mỳ còn khó hơn cả xe bọc thép. Đơn cử, tôi làm xe bọc thép mất 4 tháng trong khi đó quy trình cho cây mỳ hết 5 năm.” Bên cạnh đó, rất nhiều máy móc khác như máy hút lá cao su, máy phun thuốc cao su,… được ứng dụng trong nước mà còn đi cả nước ngoài.
Ông Hải cho biết, “Tới đây phía Campuchia yêu cầu ông làm hai chiếc xe nữa là xe bọc thép 6 bánh lội nước và xe 8 bánh có thể gắn hỏa tiễn bắn xa 45km. Người ta tin tưởng và yêu cầu thì mình mới có cơ hội cống hiến.”
Thật ra không phải bây giờ dư luận mới xôn xao về những sáng tạo của cha con ông Hải. Cách đây hơn 10 năm ông đã sáng chế ra chiếc trực thăng nặng 900kg. Sau đó, một bảo tàng viện của Mỹ đã mua chiếc trực thăng về trưng bày. Trong suốt những năm qua, ông vẫn miệt mài sáng tạo phục vụ cho việc cơ giới hóa ngành nông nghiệp đất nước.
Chiếc máy bay đầu tay có lẽ chưa phải là sự thỏa mãn như ý, hai năm sau, ông bắt tay ngay vào công việc của chính mình. Chỉ 6 tháng, chiếc máy bay trực thăng thứ hai đã được ông chế tạo hoàn chỉnh, chỉ nặng 680kg, dài 11m, rộng 2.3m, cao 3.5m, động cơ mới có mức tiêu hao nhiên liệu 60 lít/8 giờ, vận tốc đạt 150km/giờ. Giá thành của chiếc máy bay trực thăng này chỉ bằng một chiếc xe hơi du lịch lắp ráp. ông Trần Quốc Hải cho biết: Ông còn tiếp tục chế tạo thêm chiếc máy bay trực thăng thứ ba của mình và đang chờ thời điểm tốt nhất để cất cánh. Điều tôi quan tâm nhất lúc này là sẽ ứng dụng thành công nhiều chiếc máy bay mới vào trong lĩnh vực nông nghiệp. Tôi hy vọng, đây sẽ là công trình tốt nhất để cho các bạn sinh viên có tâm huyết cao trong vấn đề nghiên cứu ứng dụng học tập.”
Để kết luận cho bài này, mời bạn đọc một đoạn trong thư của một độc giả gửi ông “hai lúa” để hiểu rõ hơn tâm trạng của người dân Việt.
Thư của Blogger Dân Trí gửi “tướng quân” Trần Quốc Hải!
“Ông Trần Quốc Hải kính mến!
Trước hết, tôi xin lỗi ông về sự đường đột này. Nói đường đột bởi tôi với ông ở hai đầu đất nước, vốn lại chẳng quen biết nên viết thư cho nhau là sự đường đột vậy.
Nhưng tôi quyết định viết bức thư này trước hết là để chúc mừng ông, một con người tài trí và đam mê công việc, song không được trọng dụng giờ đây đã tìm được miếng đất dụng võ cho mình. (bởi ở VN ông không được trọng dụng)
Mà kẻ sĩ xưa nay đều vậy cả. Hay thì ở, dở thì đi, nơi nào tin dùng thì đến. Cuộc đời vốn ngắn ngủi, chả ai lại cam tâm dài cổ đợi dù ông cũng đã “dài cổ” nhiều năm.
Nhưng suy cho cùng, ông không được trọng dụng là có cái lý của nó, là “phải đạo” thôi ông Hải ạ.
Phải vì ông chỉ là “anh hai lúa,” không bằng cấp chuyên môn, tức là xin lỗi ông, nói theo ngôn ngữ dân gian là “vô học.”
Mà một nông dân “vô học” lại đòi chế tạo máy bay thì khác gì “cái gai” trong mắt các nhà khoa học mũ cao, áo dài, các giáo sư tiến sĩ bằng cao, chức lớn?
Nó càng “cay đắng” hơn, ông làm “ngượng mặt” gần một vạn “nhà khoa học” với đủ mọi phẩm cấp nhưng hàng năm trời không có nổi một vài bài báo in trên các tạp chí khoa học lớn của thế giới?
Khi mà biết bao nhiêu những “đề tài khoa học” cấp Nhà Nước với chi phí hàng tỉ đồng ngân sách làm xong chỉ có một việc duy nhất là… nhét vào ngăn kéo. Không, có lẽ số đó đến thời điểm này không còn là “ngăn kéo” mà có thể hàng kho.
Càng xót ruột hơn, khi những tờ giấy đang trắng bị đem “bôi mực” đó lại không thể bán cho đồng nát vì nó “mang danh” là công trình khoa học!
Ông không được trọng dụng cũng phải thôi vì ví dụ nếu ông làm ra cái máy đó chỉ mất 100 triệu đồng (giả sử thế) mà các nhà khoa học kỹ thuật dùng ngân sách nhà nước lại làm ra cỗ máy tương tự hết có… 1 tỉ đồng thì hỏi 900 triệu đồng kia nó đi đâu? Làm thế, khác gì ông làm lộ cái “bí mật” mang tên “xà xẻo” bởi ở ta, đã từng có không ít những dự án coi nguồn ngân sách cấp cho nghiên cứu là “chùm khế ngọt” luôn bị “trèo hái mỗi ngày”…
Có thể còn nhiều, rất nhiều lý do nữa nhưng không thể không kể đến một lý do, việc công nhận ông, tức là xếp ông, một lão hai lúa “vô học” được “cùng chiếu” với các vị mũ cao áo dài là sự xúc phạm không thể tha thứ ở ta hiện nay, khi bằng cấp là vật trang trí, thậm chí ngụy trang để làm điều khuất tất.
Dẫu biết rằng trong lịch sử khoa học kỹ thuật thế giới, nhà sáng chế lừng danh Edison cũng là người… “vô học.” Nhưng đó là chuyện bên Mỹ, không phải chuyện ở Việt Nam… Một lần nữa, cầu mong cho ông tiếp tục thành công trên con đường khoa học kỹ thuật vốn chông gai này. Còn nếu như không được “phục vụ dân mình, đất nước mình” thì ông cũng có niềm an ủi là cống hiến cho nhân loại bởi khoa học không có biên giới, phải không ông?
Trân trọng!
Bùi Hoàng Tám”

Sự thật ở VN xuất cảng tiến sĩ thì vắng nhưng con gái nhà quê xuất cảng là nhiều nhất. Thí dụ như xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng ngày nay nhiều người dân vẫn gọi đây là “mảnh đất xuất khẩu cô dâu” bởi một xã vỏn vẹn 12 ngàn dân nhưng có tới 900 cô gái đi lấy chồng nước ngoài. Làn sóng xuất khẩu ồ ạt này dẫn đến hệ lụy trai làng rơi vào cảnh ế ẩm, kéo đến Ủy Ban Nhân Dân “bắt đền.” Nhìn cảnh các cô gái quê đứng cho đàn ông nước ngoài chọn vợ diễn ra liên tục thật đáng xấu hổ. Trong một kỳ khác tôi sẽ bàn đến vấn đề này.

Văn Quang

(ngày 5 tháng 12, 2014)

Của Mình – Của Người

Ca Mình – Ca Ngưi

Xưa có một cô gái mồ côi cha mẹ, không ai nuôi. Cô phải đi ăn xin ngoài chợ. Tối lấy chiếu quấn nằm ngủ. Một hôm nghe nói Rằm Tháng Bảy cúng dường Tam Bảo có phước lắm, cô tự nghĩ làm sao mình tạo phước để khỏi nghèo khổ nữa.

Hôm đó xin được có hai xu, cô muốn cúng cái gì mà chư Tăng trong chùa đều hưởng được hết. Nghĩ vậy cô mua hai xu muối, đem vô chùa năn nỉ vị nấu cơm: “Con xin được có hai xu để mua muối, xin được cúng hết chư Tăng trong chùa, mong người giúp cho”. Vị ấy liền bỏ nắm muối của cô vào nồi canh to, thế là chư Tăng đều được hưởng đầy đủ. Bẵng đi một thời gian dài, cô cũng không còn nhớ chuyện cúng muối nữa.

Lần lần lớn khôn, cô càng xinh đẹp lạ thường. Khi đó trong triều đình nhà Vua muốn chọn người làm vợ Thái Tử nhưng thấy mỹ nhân nào Thái Tử cũng từ chối. Vua ra lệnh cho các quan tìm người nào Thái Tử vừa ý sẽ được trọng thưởng. Bấy giờ một ông quan đi ngang vùng đó, thấy trên trời có vầng mây đỏ, ông nghĩ nơi đây chắc có dị nhân phước lớn.

Giờ trưa, trên đường trở về, ông thấy cô bé khoảng 16 tuổi đang trùm chiếu ngủ. Ông đến gần nhìn, bất chợt cô bé thức dậy tốc chiếu ra. Thấy người con gái đẹp đẽ phi thường lại sống đầu đường xó chợ như vậy, ông tội nghiệp đem về nuôi. Cô được cho ăn mặc dạy dỗ đàng hoàng, tới năm cô 18 tuổi ông dẫn đến trình nhà Vua. Vua gọi Thái Tử lại, vừa thấy cô bé Thái Tử đẹp lòng ngay. Cô được Đông Cung Thái Tử cưới làm vợ.

Khi Vua băng hà, Thái Tử lên ngôi vua và cô bé trở thành Hoàng Hậu. Khi làm Hoàng Hậu cô cứ nghĩ, không biết mình đã làm gì mà được phước thế này. Chừng ấy mới nhớ chắc do việc cúng muối năm xưa mà ra. Một hôm, Hoàng Hậu sắm đủ thứ vật dụng sang trọng truyền chở vô ngôi chùa ngày xưa.

Nhưng lúc trước chỉ với hai xu muối của cô bé ăn xin, mà thầy trụ trì nói bữa nay có đại thí chủ đến cúng dường, bảo chư Tăng đánh chiêng trống đón. Bây giờ Hoàng Hậu đem nhiều tài vật đến nhưng thầy trụ trì không đánh chuông trống đón. Lấy làm lạ, Hoàng Hậu gặp thầy trụ trì hỏi “Thưa Thầy, ngày xưa con là đứa ăn mày, chỉ cúng dường có hai xu muối mà nghe chuông trống đánh rình rang. Ngày nay, con là Hoàng Hậu cúng cả xe trân bảo mà không nghe chuông trống gì hết?”.

Thầy đáp:

“Ngày xưa hai đồng xu rất quý vì đó là mạng sống của con. Muốn cúng chùa con phải nhịn đói, nên hai xu ấy lớn vô cùng. Ngày nay con là Hoàng Hậu, của cải đầy xe nhưng đó là của dân chớ đâu phải của con. Lấy của người làm phước cho mình thì đâu có gì quan trọng.”

Nghe vậy Hoàng Hậu giật mình, thức tỉnh.