Đầu độc bằng chất phóng xạ đồng vị 210 của Polonium

Đầu độc bằng chất phóng xạ đồng vị 210 của Polonium

Mộc Thường

Alexander Litvinenko, 43 tuổi, là cựu điệp viên KGB của Nga. Ông đã trốn khỏi Nga và tị nạn chính trị tại Anh Quốc, sống ở London. Ông ta bị đầu độc ngày 1 và chết ngày 23 tháng 11 năm 2006 tại London. Nồng độc chất phóng xạ trong cơ thể ông ta quá cao đến nỗi ông chết sau 23 ngày kể từ ngày bị đầu độc. Liều gây chết trung bình (LD50) của Polonium-210 là khoảng 50 nano gram. Trong khi đó, người ta tìm thấy trong cơ thể của Litvinenko chứa nồng độ cao hơn gấp 200 lần.

clip_image002

Alexander Litvinenko trước khi bị đầu độc (© AP).

clip_image004

Alexander Litvinenko trong bệnh viện sau khi bị đầu độc năm 2006 (©AFP/Getty Images)

Norberto Andrade là người đã đem trà cho cựu điệp viên của Nga, Alexander Litvinenko tại quán bar trong khách sạn (Millennium Hotel) ở London, nơi cựu điệp viên này bị đầu độc. Norberto Andrade cho rằng chất phóng xạ đã được phun vào trong cốc trà của cựu điệp viên. Cách đầu độc này, sau đó được khẳng định nhờ vào các bằng chứng từ cơ quan điều tra. Cơ quan này đã tìm thấy chất phóng xạ Polonium-210 trên bức tranh được treo ngay trên chỗ ngồi của Litvinenko. Ngoài ra chất phóng xạ còn được tìm thấy trên mặt bàn, trên ghế ngồi và trên sàn nhà. Khi dọn dẹp bàn, Andrade cũng phát hiện phần còn lại của tách trà của Litvinenko có màu lạ.

Thủ phạm vụ đầu độc đầu tiên trên thế giới bằng Polonium-210 này vẫn không có nguồn tin nào chính thức khẳng định. Một cách không chính thức, cơ quan điều tra của Anh tuyên bố biết ai là thủ phạm. Nghi can trực tiếp được cho là hai cựu điệp viên KGB : Andrei Lugovoy và Dmitry Kovtun. Hai người này đã gặp Litvinenko tại Millennium Hotel ở London ngay trong ngày mà Litveniko bị đầu độc. Trước khi chết, Litvinenko cho rằng vụ đầu độc này liên quan đến Mr. Putin.

Mộc Thường

References

http://en.wikipedia.org/wiki/Poisoning_of_Alexander_Litvinenko

http://www.cbsnews.com/news/who-killed-alexander-litvinenko/

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2745023/Russia-REFUSES-public-inquiry-death-poisoned-spy-Alexander-Litvinenko.html

http://www.telegraph.co.uk/news/uknews/1557492/Litvinenko-waiter-recounts-polonium-poisoning.html

http://www.mailonsunday.co.uk/news/article-418652/Why-I-believe-Putin-wanted-dead-.html

http://www.theguardian.com/world/2014/dec/09/russian-tv-company-hires-man-accused-murdering-alexander-litvinenko

http://www.3rd1000.com/elements/Polonium.htm#Overview

http://www.dailymail.co.uk/news/article-2247486/Alexander-Litvinenko-Poisoned-Russian-spy-working-British-AND-Spanish-intelligence-says-wife.html

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Rồi mai đây tôi sẽ chết

Trần Ngọc Mười Hai

Chuacuuthe.com

VRNs (07.01.2015) – Sydney, Úc Đại Lợi

“Rồi mai đây tôi sẽ chết

“Trên đường về nơi cõi hết.

Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?”

(Phạm Duy – Những gì sẽ đem theo về cõi chết)


(2Cr 4: 10-12)

Viết và hát về nỗi chết, hỏi rằng có ai viết nhạc hay hơn Phạm Duy, không? Nói về sự chết và chuẩn bị cho cái chết của mình, có vị nào trong Đạo làm và nói hay bằng thiền-sư Tây Tạng Songya Rinpoche? Tuy nói thế, bần đạo đây vẫn thấy có mẫu số chung nào đó giữa hai vị trên, đặc biệt hơn cả là ở câu hát bên dưới:

“Rồi mai đây tôi hoá kiếp.
Trong lòng còn bao luyến tiếc,
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được tiền tài, hay danh vọng.
Tôi không đem theo với tôi được gái đẹp, hay rượu nồng.
Tôi không đem theo với tôi được lầu vang, hay gác tía.
Tôi không đem theo với tôi được mộng giầu sang, phú quý.
Tôi xin đem theo với tôi một nụ cười, không nghi ngại.
Tôi xin đem theo với tôi đôi mắt trẻ thơ đẹp ngời.
Em giương to đôi mắt, soi vào cuộc đời đang bước tới.
Tương lai vui hay tối thui cũng là nhờ anh lớn thôi…

Rồi mai đây tôi sẽ chết
Trên đường về nơi cõi hết
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
(Phạm Duy – bđd)

Nghe hát thế, chắc có lẽ người nghe cũng thấy được điểm nổi bật, rất như thế. Còn, giả như bạn và tôi, ta được nghe chính miệng Thiền-sư Tây Tạng là ngài Songya Ripoche đến Sydney ngày 30/11/2014, đã bảo rằng:

“Phần đông người trên thế-giới ngày nay hoặc sống trong phủ-nhận cái chết, hoặc sợ hãi nó. Ngay cả việc nói về cái chết cũng được xem là điềm gở. Nhiều người tin rằng: nhắc đến cái chết thì cũng gần như là mong nó xảy đến cho mình.

Nhiều người khác nhìn cái chết với một sự vui vẻ ngây ngô một cách thiếu suy-nghĩ, tưởng chừng như vì một lý-do bí-ẩn nào đó, cái chết sẽ đến với họ một cách êm-thắm mà không có gì phải lo ngại. Khi nghĩ đến những người này, tôi nhớ lời một bậc thày của Tây Tạng: Người ta thường khinh-suất về sự chết và cứ nghĩ “Ôi! Hơi đâu mà lo cho mệt, ai rồi cũng phải chết, chuyện đó tự-nhiên quá mà. Tôi thì khỏi lo.” Nhưng đấy chỉ là lý-thuyết, đến khi sắp chết mới biết không phải là chuyện đơn-giản….

Khi nhìn kỹ cách-thức chúng tôi săn sóc người sắp chết, Elizabeth Kũbler Ross đã chứng-minh: với một tình-yêu vô-điều-kiện và một thái-độ có nhận-thức thì cơn hấp-hối có thể trở thành một kinh-nghiệm an lành, chuyển-hoá…

Nếu bây giờ không chịu chấp-nhận cái chết trong lúc đang sống, thì chúng ta sẽ phải trả giá rất đắt suốt cuộc đời, vào lúc chết và sau khi chết. Hậu-quả sẽ là, ta tàn-phá cả cuộc đời này và tất cả những đời sắp tới…” (xem Sogyal Rinpoche, Tạng Thư Sinh Tử, nxb Văn hoá Thông tin 2008, tr. 25, 29, 34)

Nghe Thiền-sư Rinpoche nói về việc chuẩn bị cho cái chết ngay khi còn sống, người Đạo Chúa cũng nghĩ nhiều về sự thể giống như thế. Sự thể, được Tin Mừng nhắc nhở nhiều lần, như:

“Thầy bảo thật anh em:

trong số người có mặt ở đây,

có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết

trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

(Mt 16: 28)

Hoặc ở một đoạn khác:

“Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất;

còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy,

thì sẽ tìm thấy được.”

(Mc 10: 33)

Với thánh Phaolô, cái chết không quan trọng bằng sự sống lại, trở nên công chính:

“Chúng ta sẽ được kể là công chính,

vì tin vào Đấng đã làm cho Đức Giêsu,

Chúa chúng ta, sống lại từ cõi chết;

Đức Giê-su chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta

và đã được Thiên Chúa làm cho sống lại,

để chúng ta được nên công chính.”

(Rm 4: 24)

Cuối cùng thì, chết vẫn không đáng sợ bằng sự thể được thánh-nhân quyết như sau:

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô?

Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?

Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết,

bị coi như bầy cừu để sát sinh.”
Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.

(Rm 8: 35-37)

Và nhất là đoạn viết cho cộng-đoàn Corinthô có đoạn đã nhấn mạnh:

“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.

Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu,

để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi.

Như thế,

sự chết hoạt-động nơi chúng tôi,

còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em.”

(2 Cor 4: 10-12)

Giống như các vị theo tôn-giáo khác, người Đạo Chúa vẫn luôn giữ thái-độ coi thường sự chết vì nhiều lẽ. Trước nhất, vì biết rằng mình luôn kết-hợp với Chúa trong mọi việc. Và thứ đến, là vì mình luôn ở trong tư-thế chuẩn bị chết, tức: về với Chúa trong vinh-quang chói ngời ở cạnh Ngài.

Nhiều Dòng tu khắc kỷ ở Đạo Chúa, lại cũng luôn chuẩn-bị cho cái chết đang trờ đến, nên vẫn tâm-nguyện bằng những tâm tình trước khi đi ngủ, vẫn cứ nhủ:

“Lạy Chúa tôi,

Tôi biết thật tôi sẽ chết.

Có khi đêm nay tôi vào giường nằm nghỉ

mà chẳng còn trỗi-dậy nữa.

Cho nên Chúa đã bảo tôi vào giường nằm nghỉ như là vào mồ chết vậy.…”

Chính vì thế, nhiều người Đạo Chúa vẫn hiên-ngang hát lên lời ca đầy phấn-chấn, rằng:

“Khi Chúa thương gọi tôi về,

lòng tôi hân hoan như trong một giấc mơ!

Miệng tôi nức vui tiếng cười, lưỡi tôi vang lời ca hát…”

Ngàn dân tung hô: tôi thật vinh phúc!

(Lm Kim Long – Ngày Về)

Ở ngoài đời, những người chịu ảnh-hưởng từ nền văn minh Đạo Chúa, cũng có những lập-trường coi nhẹ cái chết, như nhà văn Montaigne của Pháp đã từng viết:

“Để chiến thắng Thần Chết, chúng ta hãy áp-dụng một phương-cách ngược lối thông-thường, hãy xem cái chết chẳng có gì kỳ lạ. Ta vẫn tiếp xúc với nó, quen thuộc  với nó; hãy để tâm-trí thường-xuyên đến cái chết hơn bất kỳ điều gì khác… Ta không biết khi nào thì cái chết sẽ đến với ta, vì vậy, hãy chờ sẵn để đón cái chết ở khắp nơi. Tụ tập cái chết chính là tụ tập sự tự-do. Một người biết cách để chết thì sẽ không bao giờ trở-thành nô lệ.” (sđd tr. 36)

Ngoài các triết-gia ra, triết-học Đông Phương cũng có vị như Trang Tử, lại cũng nói:

“Con người sinh ra vốn mang theo sự đau khổ. Càng già, con người càng ngơ ngẩn, vì nỗi lo sợ cái chết không thể tránh khỏi càng thêm mãnh-liệt. Thật vô-cùng cay đắng. Con người sống để theo đuổi những gì luôn ở ngoài tầm tay. Lòng khao-khát sống còn trong tương-lai làm cho ta không thể sống trong hiện tại…” (bđd tr. 39)

Vậy, có người đưa ra vấn-nạn vẫn cứ hỏi: Nếu vậy, ta phải làm sao? Làm sao nghĩa là làm thế nào để đi vào hiện-thực? Đây là điều thật khó nói. Bởi, trên thực tế, có ai dám tập-tành việc chết đi ngay bây giờ? Thôi thì, ai hỏi thì cứ hỏi, ở đây bạn và tôi, ta cứ nghe xem thiên hạ nói với nhau như thế nào, về việc ấy. Trước nhất, là thiền-sư Songya Rinpoche có thể tóm tắt như sau:

“Điều duy nhất, ta thực sự có được là hiện tại.

Hãy tự hỏi: Tôi có nhớ vào mọi lúc rằng tôi đang chết hay không, bởi thế nên hãy đối xử với mọi chúng sinh với lòng từ bi trong mọi lúc…” (sđd tr. 540

Và, giải-pháp do ngài Songya Rinpoche đề ra để giải quyết sự-việc ở đây, có thể tóm gọn như sau:

“-chấp-nhận cái chết (sđd tr. 56-57);

-Quan-tâm đến việc giúp đỡ người khác, coi đó như tầm quan-trọng của yêu thương;

­-Ít quan-tâm đến những đeo đuổi vật-chất;

-Tin-tưởng vào chiều-hướng tâm-linh và ý-nghĩa của cuộc đời;

-Thay-đổi trong tính sâu-xa của con tim (sđd tr. 59);

-Làm việc với đổi thay (sđd tr. 65);

-Thông-điệp của sự Vô Thường: trong cái chết có niềm hy vọng (68), gặp-gỡ Kitô-giáo và Phật-giáo… (sđd 68)

Và, các điều khác cần chú-trọng như: bản-chất của Tâm (tr.75-87), luyện tâm (tr.99), Thiền-định để nhận rõ chân tâm (tr.101), luyện-tập chánh-niệm (tr. 104), sự thanh-bình tự-nhiên. Có 3 phương-pháp thiền: 1-dùng một đối tượng, 2-nhẩm đọc câu thần chú, 3-canh chừng hơi thở. Đồng thời thực-hiện 3 phương trong 1 là: Tâm trong thiền-định, tĩnh-lặng vĩnh-cửu và sự cân bằng tinh-tế (xem tiếp sách đã dẫn từ trang 128 trở đi)

Theo-dõi câu chuyện “thực-tập cái chết khi còn sống” của thiền-sư Songya Rinpoche, bần đạo lại nhớ đến đoạn viết của đấng bậc thày dạy là Lm Kevin O’Shea CSsR, khi cha giáo nói về “Cứu-Chuộc thế-gian qua các đạo trên trần-thế”, có đoạn nói rất rõ về “cái chết dần mòn”, như sau:

Về “cái chết dần mòn”, nhiều người cố tìm cho ra những gì liên-quan đến kinh-nghiệm thường thấy ở các đạo, nơi trần-thế. Với chúng ta, là những người sống ở trời Tây, thường hay bắt đầu bằng các phương-án liên-quan giữa Đạo Hồi và Đạo Chúa: ta đang sống, tức là: ta đối-đầu/trực-diện với những gì tuyệt-đối, theo cách này cách khác. Rồi từ đó, ta làm nhẹ bớt tuyệt-đối ấy thành một thứ tử-tế, tựa hồ như người nhà Phật vẫn đang làm, mãi đến hôm nay. Và rồi, ta lại đi từ ngạc-nhiên này đến ngỡ ngàng khác bằng với xuất-hiện của sự việc “ngất-trí” vượt thoát mọi sự mà đi vào thể-loại vô ngã/vô thường kiểu Ấn-giáo. Chính nơi này, ta được gặp Đấng đã trỗi dậy khỏi mọi kinh-nghiệm giống như thế và khi ấy, ta thấy mình “trở-nên-một” với Ngài, và trong Ngài.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, On Cứu Chuộc: Kinh nghiệm như thế giống thứ gì? www.giadinhanphong.blogspot.com ngày 30/10/2014)

Và, cha giáo O’Shea CSsR, đã kết-luận bài viết về “cái chết dần mòn” bằng câu sau đây:

“Ta đang đối-đầu/trực-diện với thứ gì đó cũng khá mới. Trông nó có hình-thù như một đường biến-thiên còn giấu kín. Nó đòi hỏi toàn-bộ định-nghĩa mới về thiên nhiên. Nó cũng đòi ta nhìn vào thiên-nhiên như điệu múa nhảy và là bản giao-hưởng khúc nữa, cũng nên.

Ở đây, xin nói thêm rằng: rất nhiều ví-dụ cụ-thể về lập-luận về cái chết theo đường-lối khác hẳn. Và, nó mở rộng cửa cho giòng chảy tự-do về hành-xử nhẹ nhàng, tử-tế. Trên thực tế, ta có thể nhìn vào quan-hệ đại-kết hoặc tương-quan chủng-tộc, giới-tính và/hoặc các tương-quan chủ/nô, thày-thợ cùng quan-hệ lãnh-đạo/bằng-hữu, cũng như siêu-nhiên/tự-nhiên, và về cái chết nữa.

Thế nên, có thể nói tắt một lời, rằng: một khi đã chết đi, ta lại sẽ khám phá ra thực-tại mới, giống như thế…” (Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Xem thế thì, ta đã khám-phá ra sự sống mới-mẻ, rất hợp lẽ. Tư-tưởng ta có được ở đây vốn dĩ rút từ tư-tưởng của học-giả Xavier Sallantin. Thuận lẽ phải, theo tôi hiểu là phương-cách thức-thời do kinh-nghiệm tự diễn-bày như sự việc đầy ý-nghĩa, đối với ta.

Đi vào cuộc đời trần-thế, chắc bạn và tôi cũng khám-phá ra những điều thực-tiễn để hiện thực “cái chết dần mòn” này rồi thì phải?

Để minh-hoạ cho câu chuyện ta bàn hôm nay, vừa qua, bần đạo có người bạn thân học cùng lớp, nghe bần đạo nói sẽ viết về việc dọn mình chết lành, anh liền gửi cho bần đạo câu truyện kể để minh-hoạ như sau:

“Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn.

Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:

– Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi.

– Không được. – Thần Chết lắc đầu.

– Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin.

– Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý.

Anh ta vội nói:

– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?

– Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.

Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:

– Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.

Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:

Xin hãy ghi nhớ:

“Bao nhiều tiền bạc cũng không

mua nổi một ngày”.

(trích câu truyện do anh bạn họ Phạm kể và gửi qua mạng nối kết, rất thông tin)

Nghe kể thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta kết thúc câu chuyện chết-sống/sống-chết bằng lời ca do nhạc sĩ Phạm Duy viết ở trên, rằng:

“Tôi không đem theo với tôi được quyền hành trong giai đoạn,
Tôi không đem theo với tôi được giới hạn tiếng anh hùng,
Tôi không đem theo với tôi được tượng đồng, bia đá trắng,
Tôi không đem theo với tôi được tuổi vàng trong cõi sống,
Tôi xin đem theo với tôi một cuộc tình không quen thuộc,
Ðôi uyên ương xin mến thương không khó nhọc hay ngượng ngùng.
Trong đêm thâu ôm ấp nhau bên cột đèn hay khóm trúc,
Không ai ngăn hay lấy cũng vì phạm thuần phong mỹ tục…

Rồi mai đây tôi sẽ chết.
Trên đường về nơi cõi hết.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?
Rồi mai đây tôi hoá kiếp,
Trong lòng còn bao luyến tiếc.
Tôi sẽ đem theo với tôi những gì đây?

Tôi không đem theo với tôi được nhiều điều tôi mong đợi,
Tôi không đem theo với tôi danh với lợi ra ngoài đời.
Tôi không đem theo với tôi được cả buồn vui mấy nỗi,
Tôi không đem theo với tôi, và để lại cho thế giới.
Tôi xin dâng cho thế gian một vài điều tôi công nhận.
Tôi xin dâng cho thế gian ôi số phận sinh làm người.
Thương cho em chưa thoát thai trong cuộc đời chưa hết chuyến,
Tôi xin dâng cho cái quên của một người sẽ tái duyên.

(Phạm Duy – bđd)

Và cứ thế, tôi và bạn, ta lại hát nốt câu kết để làm nền như sau:

“Rồi may đây tôi sẽ chết, trên đường về nơi cõi Niết
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu !
Rồi mai đây tôi hoá kiếp, trong lòng mừng không hối tiếc
Tôi sẽ không đem theo với tôi những gì đâu
(Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ thế hiên ngang sống đến ngày cuối chót của đời mình, mà không còn lo lắng hoặc luyến tiếc điều gì, dù có chết. Chết mai sau, hay chết bây giờ cũng vẫn được. Và cũng chấp nhận cho người và cho mình.

Trần Ngọc Mười Hai

Đang đi dần vào cõi chết

Đã thấy mau hơn bao giờ.

Ảo tưởng dân chủ

Ảo tưởng dân chủ

Nguyễn Hưng Quốc

01.01.2015

Trong bài “Những ngày cuối cùng của đảng Cộng sản?” (The last days of the Communist Party?) đăng trên tạp chí World Affairs ngày 23 tháng 12 năm 2014, Michael J. Totten mở đầu bằng một nhận định: “Việt Nam là một quốc gia độc đảng độc tài trông có vẻ như một xứ tự do”.

Rất nhiều người chỉ thấy mệnh đề sau “trông có vẻ như một xứ tự do” mà quên bẵng đi mệnh đề đầu “độc đảng độc tài” (authoritarian one-party state).

Cách đây hơn một tháng, tôi được mời giảng dạy một khoá ngắn về ngôn ngữ, văn hoá và chính trị Việt Nam cho một nhóm sinh viên Úc chuẩn bị sang Việt Nam nghiên cứu trong mấy tuần. Trong số ấy, có nhiều sinh viên đã từng du lịch sang Việt Nam. Họ có vẻ thích Việt Nam. Khi tôi hỏi cảm tưởng của họ về không khí chính trị tại Việt Nam, tất cả đều cho Việt Nam không có vấn đề gì về dân chủ và nhân quyền. Nó hoàn toàn khác với các quốc gia Hồi giáo hoặc Bắc Hàn hay ngay cả Trung Quốc mà họ từng biết. Ở Việt Nam, họ có thể đi khắp nơi, nói về mọi đề tài và làm bất cứ thứ gì họ muốn. Rất hiếm thấy công an hoặc nếu thấy, công an cũng không gợi lên bất cứ một ấn tượng đe doạ nào. Vào internet, họ cũng không gặp dấu hiệu nào của sự kiểm duyệt. Theo họ, Việt Nam khá dân chủ. Khi tôi kể kinh nghiệm của bản thân tôi, một nhà giáo và một người cầm bút tuyệt đối không tham gia chính trị, bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam hai lần mà không có lý do gì cả, họ rất ngạc nhiên. Và thú nhận: đó là điều họ không hề biết.

Thật ra, việc không biết như vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Tất cả những người ngoại quốc cho Việt Nam dân chủ đều là những kẻ cưỡi ngựa xem hoa. Họ chỉ đến Việt Nam vài tuần hoặc nhiều hơn, vài ba tháng. Họ không thấy được bản chất của chế độ cũng là điều dễ hiểu. Đáng ngạc nhiên hơn là chính người Việt Nam, chắc không phải ít, cũng cho là Việt Nam dân chủ hoặc khá dân chủ. Tôi gặp khá nhiều người, hầu hết thuộc thành phần trí thức, từ Việt Nam sang Úc với tư cách du lịch hoặc thường trú nhân (do thân nhân bảo lãnh). Phần lớn đều cho Việt Nam không còn độc tài nữa. Họ nêu lên ba lý do chính: Một, so với trước đây, Việt Nam càng ngày càng đi xa trên tiến trình dân chủ hoá; hai, ở Việt Nam, ngay trong lãnh vực chính trị, chính phủ cũng hành xử một cách dân chủ: dân chúng có thể thoải mái phê phán chính quyền một cách công khai trong các tiệm cà phê hay quán nhậu, thậm chí, trên các blog hay facebook; và ba, giới hạn trong phạm vi chính trị, nếu chính phủ thiếu dân chủ thì, tính chất thiếu dân chủ ấy vừa rất ít vừa có thể “thông cảm” được vì Việt Nam hiện đang đối diện với nguy cơ xâm lấn từ Trung Quốc.

Tôi cho nhận định của những người Việt Nam kể trên cũng như những người ngoại quốc đến Việt Nam một thời gian ngắn ngủi đều xuất phát từ sự mê hoặc trước ảo tưởng dân chủ mà nhà cầm quyền Việt Nam cố tình tạo nên để đánh lừa mọi người.

Để thoát khỏi sự lừa dối ấy, cần, nói theo ngôn ngữ cộng sản vẫn thường dùng trước đây, phân biệt bản chất và hiện tượng. Hiện tượng: ở Việt Nam, hầu như người ta có thể phát biểu về đủ thứ chuyện. Bản chất: đàng sau hiện tượng ấy, có một khu cấm: chính trị. Trong chính trị, về hiện tượng, người ta có thể phê phán chính quyền một cách gay gắt, tuy nhiên, về bản chất, có hai điều đáng chú ý: Một, chỉ phê phán bằng miệng; hai, nếu viết, người ta phải biết dừng lại ở một điều cấm kỵ: phê phán giới lãnh đạo. Trước, có ba điều cấm kỵ: Hồ Chí Minh, đảng cộng sản và giới lãnh đạo đương tại chức. Sau này, những khu vực cấm kỵ ấy dường như được thu hẹp lại. Phê phán Hồ Chí Minh? Người ta có thể khó chịu nhưng ít khi có phản ứng quyết liệt. Phê phán đảng Cộng sản? Dường như có tâm lý: cha chung không ai khóc. Nhưng đừng phê phán cá nhân những người đang cầm quyền. Đụng đến họ, nếu không phải chính họ thì cũng có đàn em của họ xúm vào trả thù ngay tức khắc.

Để đánh giá một chế độ cần nhìn vào cơ chế. Cơ chế ấy, ở Việt Nam, vẫn độc đảng, không hề có cạnh tranh và đối lập, hai yếu tố quan trọng nhất của dân chủ. Còn một yếu tố thứ ba nữa: sự minh bạch, Việt Nam hoàn toàn không có. Mọi chính sách của nhà nước, từ lớn đến nhỏ, đều… bí mật. Ngay cả đối với một vấn đề ai cũng quan tâm: quan hệ với Trung Quốc, người dân vẫn không hề biết giới cầm quyền Việt Nam đã cam kết gì với Trung Quốc trong hội nghị Thành Đô năm 1990 cũng như những kế sách, nếu có, họ đang theo đuổi để bảo vệ biển đảo của Việt Nam trước các âm mưu lấn chiếm của Trung Quốc.

Không phải ngẫu nhiên mà, theo các bảng xếp hạng của các tổ chức quốc tế, Việt Nam bao giờ cũng nằm ở cuối hoặc gần cuối về mức độ dân chủ, đặc biệt dân chủ trong lãnh vực truyền thông. Căn cứ vào các vụ bắt bớ dân chúng cũng như các biện pháp trừng phạt những người dân dám lên tiếng phản đối chính phủ được tường thuật trên báo chí, người ta cũng dễ dàng nhận thấy Việt Nam hoàn toàn không có dân chủ.

Trong bài báo dẫn ở đầu bài viết này, Michael J. Totten cho rằng mặc dù nhà cầm quyền Việt Nam vẫn độc tài nhưng sự độc tài của họ không quá khắc nghiệt như Bắc Triều Tiên, Cuba hay Trung Quốc. Nó giống hơn với thời kỳ tiền-dân chủ (pre-democratic) ở Đài Loan hay Nam Triều Tiên trước đây. Với cái nhìn như thế, ông hy vọng những năm tháng chúng ta đang sống hiện nay là những ngày cuối cùng của chế độ cộng sản.

Trong lúc chúng ta mong sự lạc quan của Totten không phải là một ảo tưởng, chúng ta cũng nên biết một sự thật: Không có chế độ độc tài nào tự động chuyển sang dân chủ cả. Nói theo cách nói của Tây phương, tự do không bao giờ miễn phí (freedom ain’t free). Tự do bao giờ cũng là kết quả của các cuộc đấu tranh. Điều đó cũng có nghĩa là tự do không đến từ chính phủ, từ trên xuống, như một kiểu phân phát hay ban bố. Tự do bao giờ cũng từ dưới lên, bắt đầu từ dân chúng, những người biết tự do là cái quyền căn bản của mình và sẵn sàng trả giá để có được cái quyền ấy.

Khi dân chúng không chấp nhận trả giá, cái gọi là những ngày cuối cùng (last days) có thể kéo dài, có khi, kéo dài mãi, cả mấy thập niên .

Người già kiếm cơm giữa Sài Gòn

Người già kiếm cơm giữa Sài Gòn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-01-02

nguoi-gia-622.jpg

Một Cụ Bà bán bánh tráng tại Sài Gòn, ảnh minh họa.

RFA PHOTO

Your browser does not support the audio element.

Mùa Đông giá lạnh, đối với người già, người nghèo thiếu ăn thiếu mặc, cái lạnh là nô lệ trung thành của thần chết, nó có thể đến trói tay trói chân người già cho thần chết dễ bề vung lưỡi hái. Với người già lây lất kiếm sống giữa đất Sài Gòn, mùa Đông càng ghê gớm hơn nhiều bởi ngoài cái lạnh của thời tiết, cái lạnh trong tâm hồn vốn buồn tủi lâu năm của họ sẽ làm khổ họ gấp bội lần. Cái lạnh khiến cho họ thấy cô đơn, đôi khi tự đặt câu hỏi: Bao giờ mình chết? Và khi mình chết đi, lấy gì để chôn, ai chôn mình đây?

Ăn xin không nỡ, buôn bán cũng không xong

Bà Hạt, 75 tuổi, quê Mộ Đức, Quảng Ngãi, vào Sài Gòn bán vé số và bưng bê cho quán ăn gần hai mươi năm nay, tâm sự:

” Bảy mươi mấy tuổi mà còn đi bán vé số. Ngày thì kiếm được khoảng mười, hai mươi ngàn bạc, đôi khi được tám ngàn. Ăn uống thì ăn quán ăn đường bữa đôi ba ngàn bạc, chứ không có khi mô ăn được năm ngàn, mười ngàn đâu.
-Bà Hạt”

“Bảy mươi mấy tuổi mà còn đi bán vé số. Ngày thì kiếm được khoảng mười, hai mươi ngàn bạc, đôi khi được tám ngàn. Ăn uống thì ăn quán ăn đường bữa đôi ba ngàn bạc, chứ không có khi mô ăn được năm ngàn, mười ngàn đâu. Tùy bán vé số có lời không nữa, cứ đi liên miên rứa đó, ngày mô đau ốm thì ở nhà, huyết áp lên thì xỉu lên té xuống vậy đó.”

Bà Hạt cho biết thêm là hiện nay, ở thành phố có rất nhiều người già bằng tuổi của bà và có người lớn tuổi hơn phải đi bươn bả kiếm sống hằng này bằng nhiều công việc, từ bán vé số, bán trái cây, đậu phộng rang, đậu phộng luộc, lượm ve chai, lượm bao nilon, rửa chén bát thuê cho đến đi ăn xin… Họ sống lây lất qua ngày đoạn tháng, không biết đâu là nhà.

Phần đông trong số họ không có con cái ở quê nhà, lưu lạc xuôi dần về phương Nam và tìm cách để tồn tại bằng nhiều công việc. Cũng có người từng có nhà cửa đàng hoàng nhưng sau tháng Tư năm 1975, do nhiều thay đổi, nhà cửa của họ không còn nữa, con cái thì người đi vượt biên bỏ mạng giữa biển, người vào trại cải tạo không trở về, cuối cùng, không còn người thân, không còn nhà cửa, họ lăn lộn giữa cuộc đời mà tồn tại.

Như trường hợp một người bạn già của bà Hạt, ngay cả cái tên bà này cũng không thể nhớ rõ, nói câu trước câu sau quên, hơn 80 tuổi nhưng không có thẻ chứng minh nhân dân, không nhà cửa, tối ngủ gầm cầu, ngày đi ăn xin, được bữa nào nhờ bữa đó, có ngày đói rát ruột. Tuổi già của người bạn già nhiều khi làm cho bà Hạt rơi nước mắt. Nhưng cũng nghèo khổ giống nhau, bà chẳng giúp được gì ngoài gói mì tôm, ổ bánh mì nguội.

nguoi-gia-400.jpg

Một Cụ Bà bán vé số tại Sài Gòn, ảnh minh họa. RFA PHOTO.

Bà Hạt nghẹn ngào nói rằng sống ở thành phố Sài Gòn, có khi ăn xin dễ thở hơn là buôn bán,  nhưng với tính cách của mình, bà không thể ăn xin. Ví dụ như khi bà mời vé số, có nhiều người lắc đầu từ chối mua vé số nhưng lại sẵn lòng rút tiền ra cho bà hai ngàn đồng hoặc năm ngàn đồng. Đương nhiên là bà từ chối, không lấy. Người cho tiền xin lỗi bà và giải thích rằng họ rất thương những người nghèo, muốn giúp một chút đỉnh dù là nhỏ nhoi nhưng không thể giúp theo kiểu cho người nghèo hai ngàn đồng khi phải nộp cho nhà nước tám ngàn đồng. Bởi họ thừa biết trong mỗi tấm vé số có giá 10 ngàn đồng, người bán vé số chỉ kiếm được hai ngàn đồng tiền hoa hồng.

Chính vì không muốn cầu may để rồi nộp tiền cho một hệ thống tham nhũng mập mạp nên nhiều người không chấp nhận mua vé số nhưng lại sẵn sàng bỏ ra số tiền ngang với một tấm vé để tặng cho người bán già yếu, nghèo khổ, đó là phong cách của người Sài Gòn. Nhưng rất tiếc, bà Hạt không quen nhận tiền theo cách đó nên đời bà vẫn thiếu đói. Nếu làm ăn xin, bà lại e rằng mình lấy mất một phần của bố thí của nhiều người già ăn xin khác có sức khỏe kém hơn bà rất nhiều. Hơn nữa, sống ở Sài Gòn hiện tại, muốn ăn xin cũng rất khó.

Người ăn xin không có đất sống

Một em bé người gốc Quảng Nam, cha mẹ mất sớm, cách đây hơn 10 năm, bà nội phải bế em chạy trốn lực lượng săn bắt ăn xin ở Đà Nẵng để vào Sài Gòn tiếp tục lây lất kiếm ăn, cho biết:

“Chạy bữa trưa mất bữa tối, áo quần rách hết không có mà mang. Cha mẹ mất hết không biết nhờ ai. Họ cho bữa, lâu lâu mỗi người cho vài lon gạo về nấu ăn, để dành nấu ăn. Với nấu ít thôi vì nấu ra không có chi ăn, ăn không hết.”

” Chạy bữa trưa mất bữa tối, áo quần rách hết không có mà mang. Cha mẹ mất hết không biết nhờ ai. Họ cho bữa, lâu lâu mỗi người cho vài lon gạo về nấu ăn, để dành nấu ăn. Với nấu ít thôi vì nấu ra không có chi ăn, ăn không hết.
-Một em bé người gốc Quảng Nam”

Theo em bé này, thời gian gần đây, việc ăn xin hết sức khó khăn bởi lượng người giả tàn tật để xin ăn tăng vọt, làm cho người ta mất hết thiện cảm với người ăn xin. Mà những kẻ giả khổ đi ăn xin lại có chương trình, bài bản để làm người khác động lòng thương, khi hành nghề xong, họ có nhà cửa để trở về, khỏi bị dân phòng, công an hỏi thăm.

Trong khi đó, những người nghèo xin ăn chân chính như bà cháu cậu lại bị người ta hất hủi, dân phòng rượt, công an có thể bắt nhốt bất kì giờ nào. Hơn nữa, sắp tới đây, thành phố có luật mới, sẽ bắt tất cả những người lang thang ăn xin như bà cháu của cậu đưa vào trại giáo dưỡng hoặc trại tế bần và trung tâm bảo trợ xã hội để ở đó suốt ngày, đi làm, đến giờ lại được đánh kẻng về ăn cơm.

Với cậu bé này, không có gì đáng sợ hơn chuyện này. Điều này làm cậu nghĩ đến những người bắt chó trộm, họ sẽ có đất sống tại Sài Gòn trong đợt này. Cũng giống như tại thành phố Đà Nẵng trước đây, những người bắt trộm chó vốn dễ gặp nguy hiểm, dễ bị đánh chuyển hẳn sang nghề săn bắt người ăn xin để nhận thưởng. Chỉ trong vòng hai tuần, thu nhập của họ đạt đến con số vài chục triệu đồng nhờ vào săn bắt người ăn xin.

Lúc đó, mức thưởng của thành phố Đ0à nẵng cho việc phát hiện và tố giác một người ăn xin bằng một cú điện thoại đến lực lượng thanh niên xung kích hoặc công an sẽ là 250 ngàn đồng. Có người mỗi ngày săn được hàng chục, thậm chí vài chục người ăn xin, ngoài ra, họ còn tổ chức đường dây dụ người ăn xin vào thành phố Đà Nẵng để săn hoặc cho tiền, gài thế những người mù bán chổi để săn.

Sắp tới đây, Sài Gòn có lệnh bắt người ăn xin đưa vào trung tâm bảo trợ xã hội, cậu bé này lại linh cảm thấy rằng sắp tới đây, sẽ có một đội ngũ bắt chó trộm đổi nghề, chuyển sang săn bắt người ăn xin ở Sài Gòn để nhận thưởng. Rồi đây cuộc đời cậu chẳng biết sẽ trôi dạt về đâu.

Mùa Đông, bao giờ cũng là mùa lạnh, đặc biệt, nó rất lạnh khi tâm hồn con người trở nên lãnh cảm với nỗi đau đồng loại.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Giải trí tuổi già

Giải trí tuổi già

Trích Giáo Sĩ Việt Nam số 239

Giải trí là làm những việc nhẹ nhàng nào đó để đầu óc thư dãn, cơ thể bớt mệt mỏi, tinh thần được thêm phần thoải mái, vui vẻ.

Đây là một phần trong các hoạt động của đời sống, đặc biệt là với quý vị tuổi cao. Lý do là ở tuổi này các bác đã về hưu, sau một thời gian dài gây dựng gia đình, phục vụ cộng đồng, xã hội, các bác sẽ có nhiều thì giờ rảnh rỗi. Các bác cần tham gia vào một thú tiêu khiển nào đó để khỏi rơi vào cảnh “Ngồi buồn mà trách ông Xanh” hoặc “nhàn cư vi bất thiện” cũng như để duy trì tình trạng sức khỏe tinh thần và thể chất lành mạnh.

Con cháu nên đặc biệt lưu tâm tới vấn đề này, vì cha mẹ già thường hay trở lại tâm trạng của một đứa bé, hành động bất thường, vui đấy buồn đấy, đôi khi hơi cứng đầu, không chịu nghe ý kiến người khác. Con cháu cũng nên để ý rằng không phải già là không còn các thú tiêu khiển lành mạnh.

Trước đấy các cụ ta vẫn nói về hưu là thời kỳ quy ẩn, vui thú điền viên. Các cụ thư giãn với công việc trồng hoa, nuôi chim, làm cây cảnh hoặc “ngao du sơn thủy” thăm viếng bạn bè, quyến thuộc gần xa. Các cụ gặp nhau đánh cờ giao lưu, trà dư tửu hậu, bàn chuyện năm châu bốn bể.

Ngày nay lại còn nhiều thú tiêu khiển khác mà quý bác có thể làm, như là:

– Tiểu công nghệ tạo ra các sản phẩm nhỏ bé nhờ bàn tay khéo léo kinh nghiệm của các bác, như đồ chơi trẻ em, đồ gốm, vật dụng bằng gỗ… Các đồ chơi này có thể là nguồn lợi tức thêm cho ngân sách gia đình hoặc mang bán để gây quỹ từ thiện, giúp người nghèo khó. Hiện nay, có nhiều lớp hướng dẫn để các bác làm công việc này.

– Học vẽ, sử dụng máy vi tính, học chơi một nhạc khí nào đó hoặc tham gia nhóm ca hát tại cơ sở tôn giáo, tổ chức nhân dân. Ở tuổi cao, sử dụng máy vi tính giúp ta tìm đọc nhiều loại sách quý mà không cần tới thư viện, hiểu biết diễn biến nhiều sự việc xảy ra khắp nơi trên thế giới, giúp ta liên lạc với bạn bè qua những lá thư điện tử.

– Tập luyện dưỡng sinh với nhiều phương pháp khác nhau, nhưng có chung mục đích là thư giãn tâm hồn, tập trung tư tưởng, giữ tâm thân an lạc, loại bỏ nhiễu ý đồng thời cũng áp dụng các cử động để tăng cường sức mạnh cơ bắp, uyển chuyển trơn tru xương khớp.

– Khiêu vũ, múa đôi cũng đang được nhiều bác ưa thích, vừa để thư giãn tâm hồn trong điệu nhạc và cũng dẻo dai đôi chân, uyển chuyển thân hình, giảm béo, hạ huyết áp, đường huyết, cholesterol.

– Tham gia các công tác từ thiện giúp đỡ người có nhu cầu, thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện hoặc các vị lão niên khác chẳng may kém sức khỏe đang sống tại nhà người già, viện dưỡng lão.

– Tổ chức tham quan di tích lịch sử, phong cảnh quê hương hoặc du lịch xứ lạ để biết thêm phong tục tập quán đất nước quê người.

– Tình nguyện tại trường học để truyền đạt kinh nghiệm đời sống, việc làm cho con cháu cũng như kể lại nguồn gốc lịch sử tiền nhân, duy trì văn hóa, truyền thống hào hùng dân tộc.

– Làm vườn, trồng cây cảnh, vun tưới mấy luống rau thơm cũng là thú tiêu khiển thanh nhã, thoải mái mà lại tạo thêm phong cảnh đẹp mắt cho ngôi nhà mà đôi vợ chồng già đang ở.

– Người có tâm hồn văn học nghệ sĩ thì làm thơ, viết sách, học đàn học hát ca vui ngày tháng với bạn bè, quyến thuộc. Phát minh karaoke vào cuối thế kỷ vừa qua đã giúp con người giao lưu với con người một cách cởi mở, vui nhộn qua việc vô tư “hát cho nhau nghe” dù hay dù dở, miễn là cùng vui.

– Rồi lại còn đi câu cá, đánh cờ, chơi domino, ô chữ và nhiều thú vui nhẹ nhàng bổ ích khác.

Một giải trí mà ngày nay nhiều lão niên cũng hay tham dự là lui tới các sòng bài, casino.

Mấy bác lý luận là tới các sòng bài là có cơ hội gặp gỡ người này người khác hàn huyên cho vui, đồng thời cũng kéo máy tập tay, chơi bài luyện mắt, ăn uống tự do không tốn tiền và coi văn nghệ “chùa”. Đây cũng là giải trí tốt, nếu khách làng chơi giới hạn được thời gian chơi, số tiền sẽ mất, không đam mê cay cú “thua me gỡ bài cào” đến nỗi rơi vào tình trạng mà cổ nhân thường nhắc nhở là “Cờ bạc là bác thằng Bần”.

Tuổi già trí óc thường cũng hay sáo trộn, nhớ trước quên sau, ù lì trì trệ. Nếu không năng dùng tới các chức năng cơ thể thì e rằng sẽ rơi vào tình trạng “thối lui”, cô lập rồi buồn phiền, gắt gỏng, biếng ăn mất ngủ, sức khỏe suy dần. Cho nên, hãy lấp đầy khoảng trống thời gian với các sinh hoạt trò chơi hữu ích để tránh nhàm chán mà lại có lợi cho sức khỏe.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas-Hoa Kỳ

www.bsnguyenyduc.com

Thời cái tốt được gọi là “cực đoan”

Thời cái tốt được gọi là “cực đoan”

Chuacuuthe.com

VRNs (05.01.2015) – Sài Gòn – Cách đây đã lâu, một bác sĩ bạn tôi nói sự thật về một biến cố thì một người bạn khác, mang danh luật sư, phán liền một câu: “Anh ta cực đoan quá”. Tôi nói lại ngay: “Trong xã hội này, người tốt và cương trực thường được gọi là cực đoan”.

Cực đoan là gì? Sự vật có hai đầu được gọi là đoan, lưỡng đoan. Cực đoan là hai đầu tận cùng của vật thể. Từ này được dùng với nghĩa quá khích, quá mức bình thường, hết sức, cực độ. Hiểu như thế, cực đoan thường không tốt và hàm ý chê trách.

Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội ngày nay, những ai can đảm bênh vực cái tốt, lên án cái gian xảo, điêu ngoa, tàn ác thì bị gán cho từ cực đoan. Trong một xã hội mà ai cũng nói dối và giáo dục đề cao sự giả dối, thì những người bảo vệ sự thật được gọi là “cực đoan”. Học sinh đi thi mà không quay cóp thì bạn bè cho là cực đoan.

Khi nhìn vào toàn cảnh rộng lớn hơn là xã hội có nhiều tầng lớp, nhiều hạng người với những quan điểm và mục tiêu khác biệt, người ta nhìn thấy sự khác biệt, thậm chí là đối lập hoàn toàn. Trong cái mớ bòng bong rối ren như thế, người ta có thể tạm chia xã hội thành ba nhóm: nhóm 1 lên án cái ác và nhiệt tâm rao giảng chân thiện mỹ, nhóm 2 ủng hộ cái ác và lên án điều thiện. Và khi nhóm 1 loan truyền điều tốt đẹp, thì đồng thời họ phải lên án cái xấu. Khi đó có một nhóm thứ 3 gồm những người muốn sống yên thân, không quan tâm đến xã hội, gọi nhóm 1 là cực đoan.

Tại sao thế? Câu trả lời cũng dễ tìm thấy. Tâm lý con người thường muốn sống yên ổn, không ai đụng chạm gì đến mình. Hơn nữa, trong một xã hội mà từ thông tin, quảng cáo cho đến giáo dục đều nhắm đến việc đào tạo những con người chỉ nghe mà không phê phán, chỉ theo mà không tìm hiểu, chỉ chấp nhận mà không được hỏi, thì rõ ràng những tìm hiểu, đặt câu hỏi hay phê phán đều bị coi là quá đáng, là cực đoan.

150104011

Thế nhưng, có ba điều cần lưu ý.

Thứ nhất, giữa màu đen màu trắng thì có màu xám, giữa màu xanh dương và màu vàng có màu xanh lá cây, nhưng giữa sự thật và sự giả trá, giữa cái thiện và cái ác, không có trung gian. Một là chọn cái tốt, cái thiện, hai là theo cái gian, cái xấu, không có chuyện đứng giữa. Cho nên bạn thà chấp nhận bị gọi là cực đoan chứ không thể “ba phải”. Và như thế, dùng từ cực đoan ở đây là sai, phải gọi là “cực thiện” mới đúng với ý nghĩa và bản chất sự việc.

Thứ hai, khi một người nhảy xuống hồ nước để bơi, anh ta dù muốn lặn xuống đáy cũng khó khăn lắm, mà thường anh ta lơ lửng rồi trồi lên mặt nước. Điều này phần nào nói lên sự thật này: con người có bản năng hướng lên, dù có lơ lửng rồi cũng bay lên cao. Chỉ có những ai theo đuổi chủ thuyết đè nén con người mới đẩy con người xuống tận đáy nước. Ai lên cao thì bị gọi là cực đoan. Trong tình huống này, nếu anh không “cực đoan”, anh sẽ bị nhấn chìm!

Điều thứ ba là điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh trong bài viết ngắn này. Tất cả các tôn giáo đều đề cao cái thiện. Riêng Hội Thánh Chúa Kitô được Chúa thiết lập không chỉ để dạy cho con người làm lành lánh dữ. Không chỉ như thế. Hội Thánh là một cộng đoàn người được chọn để rao giảng mầu nhiệm Thập Giá và Vương Quốc, để làm chứng cho Vương Quốc chân lý, tình yêu, công bằng và liên đới, và góp phần làm cho Vương Quốc của Cha “trị đến”.

Hiểu như thế, Hội Thánh không đứng ngoài các vấn đề trần thế. Hội Thánh cũng không thể trung dung, nửa vời, thỏa hiệp để đổi lấy cái dễ dãi bên ngoài. Hội Thánh và con cái mình phải lên tiếng trước cái ác. Học Thuyết Xã Hội Công Giáo dạy:

Học thuyết xã hội này cũng bao gồm cả nghĩa vụ phải tố cáo mỗi khi tội có mặt: tội bất công và tội bạo lực, cách này hay cách khác, đang lan tràn qua xã hội và thâm nhập vào xã hội. Nhờ biết tố cáo, học thuyết xã hội trở nên giống các thẩm phán và các nhà bảo vệ những quyền lợi không được nhìn nhận và hay bị xâm phạm, nhất là các quyền lợi của người nghèo, người yếu kém (Hiến chế Gaudium et Spes).

Người đời có thể dở dở ương ương nửa ấm nửa nguội để tìm chỗ đứng an thân, nhưng người Công Giáo, từ giáo dân đến tu sĩ, giáo sĩ, không ai có quyền đó. Không ai được tránh cái “thái cực” tốt cả. Chúa Giêsu bảo nóng thì nóng hẳn, nguội thì nguội hẳn, còn dở dở ương ương sẽ bị mửa ra.

Tôi đã nghe có vị linh mục nói “phải yêu thương”. Nhưng yêu là yêu ai? Anh yêu người có quyền, anh biếu xén cho họ thì dễ quá. Nhưng khi yêu kiểu ấy, anh lỗi bác ái với người nghèo, người cô thân cô thế. Giáo lý Công giáo dạy yêu thương. Chính xác. Nhưng là yêu thương mọi người, chứ không chỉ yêu người quyền thế.

Giáo lý còn dạy công bằng, dạy xả thân cho sự thật, dạy đề cao người cô thân khốn quẫn. Ngồi trong phòng máy lạnh, anh viết bài suy niệm yêu thương thì dễ hơn bạn anh đang xông vào chỗ người chết đói chết khát để cho họ miếng cơm manh áo. Cả hai đều cực đoan vì ở hai thái cực. Nếu phải chọn, tôi chọn cực thứ hai, viết bài, rao giảng và chia sẻ giữa đám dân nghèo chứ không phải chỉ ngồi viết trong phòng máy lạnh.

Như thế, nếu hiểu cực đoan đúng ý nghĩa là tận một đầu sự vật, thì có hai cực đoan: tốt, thiện hảo và xấu, tàn ác. Chúng ta phải chọn thái cực thứ nhất, làm điều tốt, cổ vũ công lý hòa bình và lên án bất công.

Nhưng có lẽ từ nay những ai muốn nói đến những người xả thân vì sự thật, hết lòng vì công lý, lên án cái xấu, thì đừng dùng từ cực đoan nữa, mà thay vào đó là từ “dấn thân”, vừa đúng nghĩa mà vừa diễn tả hết sự thật.

Bài viết này cũng xin như một lời tạ ơn Thiên Chúa vì Người đã ban cho chúng con những vị mục tử dám nói lên tiếng nói công lý hòa bình trong thời đại chúng con đang sống. Chúng con xin cám ơn Cha Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế hai nhiệm kỳ vừa qua cùng với Hội Đồng Quản Trị, đã hết lòng đứng về phía sự thật, công lý và người nghèo. Xin Chúa chúc lành cho Cha Giám Tỉnh và quý Cha quý Thầy.

Chúng con cầu chúc Cha Tân Giám Tỉnh và quý Cha quý Thầy trong Hội Đồng mới tràn đầy hồng ân Chúa trong sứ vụ Chúa giao giữa thời đại còn rất nhiều ngổn ngang phía trước.

Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

Bàn Tay của Người Vợ.

Bàn Tay của Người Vợ.

Tôi vắt óc nhưng không tài nào nhớ nổi lần cuối cùng mình nắm đôi tay ấy là khi nào… Có lẽ là trong tuần trăng mật cách nay đã mười tám năm.
Trước đây, nếu có ai nói rằng, cuộc đời con người ta có thể thay đổi vì một chuyện tình cờ thì tôi chẳng bao giờ tin, cho đến khi điều đó xảy ra với chính mình.
Đúng vào ngày này năm ngoái, sau cuộc họp giao ban buổi sáng, công ty tôi tổ chức chúc mừng chị em nhân ngày của một nửa thế giới. Hôm đó, chẳng hẹn mà tất cả chị em đều chưng diện rất đẹp.
Trong khi sếp phát biểu chúc mừng, tôi đảo mắt ngắm nhìn mấy chục bông hoa đang tỏa hương thơm ngát trong phòng. Ôi chao, sao em nào cũng đẹp, cũng trẻ, cũng duyên dáng với áo váy điệu đàng.
Ánh mắt tôi vô tình chạm vào đôi bàn tay của cô thư ký hành chính ngồi đối diện. Tôi ngạc nhiên. Sao trên đời này lại có đôi bàn tay xinh đẹp như thế nhỉ? Những ngón tay búp măng trắng nuột nà kia hẳn là mềm mại, ấm áp lắm. Tôi tưởng tượng, nếu được chạm vào đôi tay ấy một lần thì… có chết cũng cam lòng.
Để dằn nén “tư tưởng” hư hỏng đang trỗi dậy mãnh liệt trong lòng, tôi rê mắt sang những đôi tay khác. Trời ạ, thì ra không chỉ có một đôi bàn tay của cô thư ký hành chính mà đôi tay của chị trưởng phòng kế toán, của cô phó phòng kinh doanh, của em giám đốc tiếp thị… thảy đều trắng ngần, thon thả.
Tôi chưa bao giờ nhìn ngắm kỹ những đôi bàn tay phụ nữ như thế. Quả thật cái đẹp luôn có sức cuốn hút, làm cho người ta có thể nảy sinh rất nhiều ước ao, khát thèm…
Cả buổi sáng hôm đó, tôi thành kẻ tương tư. Trong đầu tôi cứ mơ hồ, lãng đãng về sự xinh tươi, quyến rũ của những người phụ nữ có đôi bàn tay ngọc ngà.
Cảm giác ấy chỉ mất đi khi tôi về đến nhà. Vừa trông thấy tôi, bà xã đã giục:“ Anh rửa mặt, thay đồ đi rồi ăn cơm kẻo nguội.”.
Bàn ăn đã dọn sẵn. Hai thằng con tôi đang chờ ba mẹ. Mùi thức ăn bốc lên thơm phức. Mấy khứa cá thu chiên vàng, dĩa rau luộc xanh mướt, chén nước mắm tỏi ớt đỏ đỏ xanh xanh, tô canh khổ qua nấu cá thác lác thơm lừng hành tiêu… khiến bụng tôi sôi sùng sục. Tôi hít một hơi thật đầy và đưa tay đỡ chén cơm từ tay vợ.
Ăn một hơi 3 chén cơm, tôi buông đũa. Trong khi cái cảm giác no đủ của gia đình trào dâng trong lòng khiến tôi cực kỳ khoan khoái và chẳng còn tơ tưởng đến bất kỳ thứ gì khác trên đời thì bất ngờ, ánh mắt tôi chạm đúng vào đôi bàn tay của vợ đang thong thả gọt xoài.
Tôi há hốc đến không nói thành lời. Đôi tay của vợ tôi rám nắng và lấm chấm đồi mồi. Những ngón tay trên bàn tay ấy gầy guộc, nhăn nheo và suông đuồn đuột chứ không múp míp, búp măng như những bàn tay mà tôi được chiêm ngưỡng sáng nay.
Tôi vắt óc nhưng không tài nào nhớ nổi lần cuối cùng mình nắm đôi tay ấy là khi nào… Có lẽ là trong tuần trăng mật cách nay mười tám năm. Ừ, đúng là đã 18 năm rồi, tôi chưa một lần nắm bàn tay ấy!
“ Đưa đây anh gọt cho.”- tôi nhẹ nhàng bảo vợ. Vợ tôi khẽ chau mày:“ Anh sao vậy? Ở công ty có chuyện gì à?”. Tôi lắc đầu:“ Không có. Em đưa đây cho anh.”.
Rồi tôi lọng cọng gọt mãi mới xong quả xoài nhưng chỗ lồi, chỗ lõm nhìn chẳng muốn ăn. Tôi cắt miếng to nhất đưa cho vợ:“ Em ăn đi.”. Vợ tôi trố mắt không nói nên lời.
Tôi không nói cho bà xã biết trong đầu tôi đang nghĩ gì, nhưng tối hôm ấy tôi đã cầm mãi đôi tay gầy guộc, thô ráp của vợ. Đôi tay ấy đã cho cha con tôi những bữa cơm ngon, những bộ quần áo thơm tho sạch sẽ; đã sắp xếp nhà cửa tươm tất gọn gàng để tôi hãnh diện mỗi khi có bạn bè, người quen đến nhà… Đôi tay ấy dẫu không đẹp đẽ, sang trọng, quyến rũ, nhưng đối với cha con tôi, đó là đôi tay vàng.
Và điều quan trọng nhất là kể từ ngày 8-3 năm ngoái, 3 người đàn ông chúng tôi đã chính thức bước vào căn bếp của gia đình với vai trò là những người trong cuộc.
Xin cảm ơn những bàn tay đẹp của những người phụ nữ đẹp. Chính chúng đã giúp tôi nhận ra, có những bàn tay không đẹp, nhưng đó lại là bàn tay vàng.

Phúc An

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Giáo hạt Cách Tâm Phát Diệm: Thánh lễ tạ ơn nhân dịp kỷ niệm hôn phối

Giáo hạt Cách Tâm Phát Diệm: Thánh lễ tạ ơn nhân dịp kỷ niệm hôn phối

LM. Nguyễn Hồng Phúc

Ngày lễ Thánh Gia thất, quan thầy Chương trình TTHNGĐ giáo phận Phát Diệm đã diễn ra hết sức tốt đẹp, Đức Cha Giuse Nguyễn Năng đã về chủ sự thánh lễ vào ngày 28/12/2014 tại giáo xứ Cách Tâm đúng theo chương trình đã định. Cùng Đồng tế với Đức Cha có cha trưởng ban mục vụ gia đình của giáo phận, các cha linh nguyền và các cha trong giáo hạt Cách Tâm. Thánh lễ quy tụ khoảng trên 1000 giáo dân, trong đó hầu hết là các anh chị Song nguyền. Đặc biệt trong Thánh lễ này có 63 cặp gia đình kỷ niệm thành hôn được Đức Cha chúc phúc và trao bằng kỷ niệm. Trong đó gồm có 5 cặp Ngọc khánh, 23 cặp Kim khánh, 27 cặp tròn 40 năm và 45 năm, 8 cặp Ngân khánh hôn phối.

Trước thánh lễ, Đức Cha đã dành thời gian 30 phút để huấn dụ, ngài đồng cảm với quý anh chị Song nguyền trong đời sống yêu thương giữa các gia đình, ngài tạ ơn về thời gian quý giá như ngọc, như vàng, như bạc với các gia đình kỷ niệm thành hôn. Không chỉ đánh giá ơn gọi cao quý của hôn nhân, Đức Cha Giuse còn phân tích những hoa trái trong gia đình kiến tạo nên hạnh phúc của cả nhiều thế hệ. Ngược lại, những đổ vỡ trong gia đình gây tổn thương cho Giáo Hội và xã hội biết bao! Ngài kết thúc huấn từ bằng những câu chuyện dí dỏm, những phương pháp giản dị đời thường nhằm gắn kết những bất đồng đổ vỡ. Đức Cha hướng gia đình vượt trên những khó khăn để xây dựng đời sống hôn nhân bền vững. Những ví dụ thực tế mà sâu sắc như quả chanh chua không ai ăn trực tiếp được nhưng biết cách pha loãng và thêm chút đường dịu ngọt sẽ thành một ly nước chanh ngọt mát trong cuộc đời, mẻ kia chua không ai ăn được nhưng pha chế thành giấm hay nấu canh chua sẽ là món ăn ngon bổ trong cuộc sống…

Đoàn rước gồm có quý anh chị Song nguyền và các gia đình kỷ niệm thành hôn rước đoàn chủ sự tiến lên lễ đài. Đây là linh đài La Vang Cách Tâm vừa hoàn thành dịp tháng 5/2014.

Linh đài rộng 200m2 đủ cho vài trăm linh mục cùng đồng tế. Dưới chân Mẹ La Vang, khung cảnh uy nghiêm và thiêng thánh của buổi lễ đã được hiện lên.

Trước thánh lễ, cha Tổng linh nguyền đã đọc thư email của cha Sáng lập chúc mừng Giáng Sinh và Năm mới tới quý cha và quý anh chị Song nguyền, ai cũng vui mừng và xúc động.

Cha Tổng linh nguyền cũng giới thiệu lên Đức Cha sơ lược về Chương trình TTHNGĐ tại Phát Diệm: … “ Chương trình TTHNGĐ giáo phận Phát Diệm chúng con, từ khóa đầu tiên do cha sáng lập Phêrô Chu Quang Minh mở tại Phát Diệm đến nay đã được 9 năm. Ban đầu chỉ mới hình thành Liên hợp gia Phát Diệm gồm 130 cặp gia đình, ngày nay đã phát triển thành 15 liên hợp gia với tổng số là 750 cặp gia đình. Những gia đình thường xuyên sinh hoạt liên gia và liên hợp gia, trên thực tế vào khoảng 282 và đều có mặt trong thánh lễ Quan thầy hôm nay. Bản thân con số chưa nói lên điều gì, nhưng thiện chí của mỗi gia đình khi tham gia vào chương trình đều tâm niệm giữ gìn hạnh phúc gia đình bền vững, hoạt động Tông đồ song đôi trong giáo xứ và trong chương trình. Cộng tác với mọi người trong phụng sự tin yêu để cùng nhau xây dựng Nước Chúa muôn đời. Nền tảng thực hành là Khiêm nhường biết lỗi, nhận lỗi, xin lỗi, sửa lỗi và tha lỗi. Phương pháp thực hành là khiêm nhường nói ra một yếu đuối để sửa chữa và thay đổi đời sống, nhằm đạt tới mục đích yêu thương và gần gũi bằng việc làm trong gia đình. Xét theo linh đạo thì đây là chương trình đơn giản nhất nhưng đó lại chính là đoàn sủng của chương trình. Trong suốt những năm qua, chúng con luôn nhận được sự quan tâm, khích lệ và giáo huấn của Đức Cha, đặc biệt trong năm Phúc Âm hóa đời sống gia đình vừa qua. Chính sự quan tâm này đã thúc đẩy chúng con luôn cố gắng để không phụ tình thương của Đức Cha và hơn nữa, không phụ tình thương hải hà của Thánh Gia”.

Thánh lễ cử hành dưới bầu trời se lạnh, không mưa, không nắng nhưng lộng gió như trong một không gian đầy ắp Thánh Thần. Đức Cha đề cao vai trò gia đình trong bài giảng lễ vì chính Chúa Giêsu cũng đã sinh xuống trong một gia đình để thánh hóa gia đình trở nên thánh. Ngài mời gọi các gia đình hãy noi gương Thánh Gia để xây dựng gia đình hạnh phúc. Cuộc sống gia đình không phải lúc nào cũng thuận vợ thuận chồng nhưng nhiều khi đầy những cay đắng, đau khổ. Để có đời sống hạnh phúc, mỗi người phải tôn trọng luật Chúa, tôn trọng lẫn nhau, hãy đặt tình yêu vào đời sống hôn nhân.

Cuối thánh lễ, anh Giuse Lê Văn Hoàng, chủ nguyền chương trình TTHNGĐ Phát Diệm đã thay mặt anh chị em Song nguyền và các gia đình kỷ niệm thành hôn lên cám ơn. Trong đó có nội dung chính:

“…Đối với chúng con là những người sống trong ơn gọi hôn nhân, nay tham gia vào chương trình TTHNGĐ, chúng con lắng nghe và thấm sâu lời kêu gọi của Thư Chung HĐGMVN đã kêu gọi: “Gia đình là cộng đoàn cầu nguyện, thờ phượng Thiên Chúa, đền thờ tại gia. Hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa trái vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và Hôn Phối. Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình khi vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng cầu nguyện, và khi đó, chính cuộc sống gia đình trở thành lời kinh sống động. Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện. Tuy nhiên đây là đòi hỏi quan trọng trong đời sống gia đình Công Giáo. Vì thế, cùng với việc siêng năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích, chúng tôi tha thiết xin anh chị em duy trì giờ kinh chung trong gia đình, và cố gắng đưa Lời Chúa vào giờ kinh này”(Thư chung HĐGMVN năm 2013 số 6,1).

Đúng như thư HĐGMVN đã nhận định: “Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện”. Mặt khác, chúng con cũng nhận thức rằng bối cảnh phức tạp của xã hội hiện nay đang làm lung lay nền tảng đạo đức và luân lý của các gia đình, nhiều gia đình mất phương hướng. Nền văn hóa mới toàn cầu đang nổi dậy cho cá nhân chủ nghĩa. Những lối sống và cách suy nghĩ nặc mùi thực dụng tục hóa đang là mối đe dọa cho gia đình. Những mâu thuẫn, tranh chấp đã xua đuổi con người ra khỏi mái ấm gia đình của mình. Các phương tiện truyền thông xã hội và những chính sách cưỡng bức, hạn chế sinh sản đang gây ảnh hưởng trên các giá trị gia đình. Việc gia tăng các gia đình đổ vỡ và những gia đình ly hôn là dấu hiệu cho thấy tình trạng rạn nứt trong gia đình và những nguy cơ khác cực kỳ nghiêm trọng đang làm xói mòn tình yêu hôn nhân. Tình yêu hôn nhân chân thật hiện đang biến mất tới mức báo động. Chính Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận định: “Nếu các trái tim bị phân tán thành hàng ngàn mảnh, thì không dễ tạo được hòa bình đích thực trong xã hội” (Tông huấn Evangelii Gaudium số 229).

Từ những nhận định trên, chúng con càng thấy cần thiết và đúng đắn khi chúng con đã được tham gia chương trình TTHNGĐ để giữ gìn gia đình bền vững theo mẫu gương Thánh Gia. Chương trình là một trong những phương thế Chúa dùng để giúp các gia đình vượt qua được thách đố thời đại. Phương thế của CT/TTHNGGĐ đơn giản là vợ chồng khiêm nhường XIN LỖI và CẢM ƠN mỗi tuần ít là hai lần trước nghỉ đêm. Hàng ngày và trong các giờ sinh hoạt chung, chúng con luôn đọc Kinh Hôn Nhân Gia Đình để

“Xin cho gia đình chúng con:

– Biết CẢM THÔNG và SỐNG theo Lời Chúa.

– Biết LẮNG NGHE và KÍNH TRỌNG NHAU lúc vui cũng như khi buồn.

– Biết NHẪN NHỤC và HÒA GIẢI, khi tính tình và cách cư xử khác nhau.

– Biết HIẾU NGHĨA và CHUNG THỦY, từ trong gia đình cho tới ngoài xã hội.

– Biết lấy GƯƠNG LÀNH mà dưỡng dục con cái.

Kính xin Đức Cha, quý cha tiếp tục cầu nguyện cho chương trình TTHNGĐ và anh chị em Song nguyền chúng con được vững vàng tiến bước trong ơn Chúa và thăng tiến theo đúng đoàn sủng của Chương trình”.

Sau thánh lễ, Đức Cha còn chụp ảnh lưu niệm với anh chị em Song nguyền chung theo từng giáo hạt và riêng cho từng gia đình kỷ niệm thành hôn. Tiệc mừng đã phải muộn lại mãi sau giờ Ngọ, nhưng không ai than phiền vì niềm vui đã tràn đầy cõi lòng. Tạ ơn thánh Gia đã ban cho chúng con một ngày Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa. Giữa mùa đông lạnh giá nhưng mọi người ra về vẫn thấy lòng mình ấm áp mãi tình Chúa và tình người.

Lm Phêrô Hồng Phúc.

ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC

ÁNH SAO ĐẠO ĐỨC

ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.

Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối. Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa. Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận tự nơi Thiên Chúa.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.

Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.

Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc. Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.

Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?

2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?

3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?

Tác giả: TGM. Jos Ngô Quang Kiệt

NƯỚC MỸ CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC NHỮNG GÌ TỪ ÂU CHÂU ?

NƯỚC MỸ CÓ THỂ HỌC ĐƯỢC NHỮNG GÌ TỪ ÂU CHÂU ?

Bài ghi nhận của : Đoàn Thanh Liêm

Nhân đọc cuốn sách vừa mới xuất bản năm 2010 :

Europe’s  Promise (Sự Hứa hẹn của Âu châu)

Do tác giả Steven Hill biên soạn

Nhà Xuất bản University of California Press ấn hành.

*       *       *

Sau khi chiến tranh thứ hai kết thúc vào năm 1945, thì Âu châu đã kiệt quệ, hoang tàn đổ nát với hai cuộc đại chiến liên tiếp trong vòng có 30 năm, với hàng mấy chục triệu nhân mạng bị hủy diệt, nền kinh tế bị tan rã, xã hội điêu đứng tiêu điều. Trong khi đó thì nước Mỹ mỗi ngày thêm phồn thịnh, và ra tay hào phóng cứu giúp Âu châu phục hồi lại nền kinh tế. Cụ thể là kế hoạch Marshall đã cung cấp cho các nước Tây Âu một số ngân khoản lên đến 13 tỉ dollar trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1951. Nhờ vậy mà vào năm 1951, Âu châu đã lần lần phục hồi được một cách vững mạnh, với mức sản xuất của Tây Âu đã cao hơn 35% so với năm 1938 lúc trước khi xảy ra chiến tranh.

Nhưng vào năm 2010, tức là sau trên 6 thập niên, kể từ lúc hòa bình được lập lại năm 1945, thì Âu châu đã có những tiến bộ vượt mức về nhiều mặt kinh tế, xã hội cũng như văn hóa, trong khi đó thì nước Mỹ dù vẫn còn là một siêu cường số một trên thế giới, lại có nhiều dấu hiệu suy thoái, lạc hậu với nhiều xáo trộn bất ổn trong xã hội, đặc biệt là bị suy thoái trầm trọng từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế khởi sự từ năm 2008 mới vừa đây. Vì thế mà người viết bài này mới phải đặt câu hỏi được ghi thành nhan đề của bài báo, sau khi được đọc một cuốn sách vừa mới xuất bản trong năm 2010 này. Đó là cuốn “Europe’s Promise” (Sự Hứa hẹn của Âu châu), do một tác giả lại là người Mỹ biên soạn. Để bạn đọc dễ dàng theo dõi câu chuyện, tôi xin giới thiệu tóm tắt về tác giả nổi tiếng và tác phẩm rất có giá trị này.

* A – Tóm lược về cuốn sách “ Europe’s Promise”.

Cuốn sách dài trên 400 trang vừa được ra mắt vào năm 2010 do nhà xuất bản Đại học California ấn hành. Sách có một nhan đề phụ nữa là : “Why The European Way is The Best Hope in An Insecure Age?” (Tại sao đường lối phát triển của Âu châu lại là niềm Hy vọng tốt đẹp nhất trong thời đại bất trắc hiện nay?)

1/  Vài dòng sơ lược về tác giả

Tác giả Steven Hill năm nay 52 tuổi, là giám đốc Chương trình Cải cách Chính trị của New America Foundation. Ông đã từng viết bài cho hàng chục tờ báo và tạp chí lớn ở Mỹ, ở Anh quốc và ở nhiều nước khác tại Âu châu, ở Đài loan. Ông còn là tác giả của cuốn sách : “ 10 Steps to Repair American Democracy” (Mười Bước Để Sửa chữa lại Nền Dân chủ Hoa kỳ) xuất bản vào năm 2006.

Cuốn sách ông cho xuất bản năm 2002 với nhan đề “Fixing Elections : The Failure of America’s Winner Take All Politics” (Sửa lại lề lối bàu cử : Sự thất bại của chánh sách “Người thắng cuộc ăn hết” của nước Mỹ) được coi là một cuốn sách quan trọng nhất trình bày về nền dân chủ hiện nay tại nước Mỹ. Ông còn được mời đến dậy học tại nhiều nơi trên đất Mỹ và Âu châu, cũng như xuất hiện trên các chương trình phát thanh và truyền hình nổi tiếng trên thế giới.

Cuốn sách “ Sự Hứa hẹn của Âu châu” được dàn trải trong 7 phần với tất cả là 18 chương. Nội dung chính yếu được trình bày trong 370 trang, và phần Ghi chú chiếm đến trên 60 trang ở cuối sách. Tác giả đã tham khảo rất nhiều sách báo, mà các bài báo, đặc biệt là các trang điện tử mới nhất được trưng dẫn là vào giữa năm 2009. Ông còn thường xuyên đi qua Âu châu để phỏng vấn nhiều nhân vật, và quan sát những đổi thay tại lục địa này. Có thể nói đây là một công trình biên khảo rất công phu, nghiêm túc và khách quan với độ khả tín cao của một nhà nghiên cứu có tầm vóc lớn của nước Mỹ hiện nay.

2/ Mấy nét đại cương về cuốn sách.

Mở đầu, tác giả đã ghi như sau : Trong khi nước Mỹ vẫn còn bị xâu xé với chủ trương làm hạn chế vai trò cùa Nhà nước theo khẩu hiệu của Tổng thống Ronald Reagan đưa ra vào năm 1981 là “ Chánh quyền là một vấn đề” (Government is the problem), để mặc cho giới tư bản tài phiệt tha hồ thao túng, thì ở Âu châu người ta lại chủ trương khác hẳn lại rằng : “Chánh quyền là một phần của giải pháp” (Government is part of the solution), khiến cho Nhà nước có quyền tham dự vào việc hướng dẫn và điều tiết nền kinh tế quốc gia. Vì thế mà tác giả đã có thể nói “ nền kinh tế Âu châu là một thứ chế độ Tư bản Xã hội” (a version of Social Capitalism).

Khía cạnh đáng lưu ý nhất trong cách trình bày nơi cuốn sách này là : tác giả đã đưa ra chững con số thống kê khá đày đủ và chính xác để minh họa cho những nhận định của mình. Chứ đó không phải là những suy luận chủ quan, đày cảm tính như một số đông các người viết vốn có thành kiến sẵn về một lập trường nhất định nào.

Tiếp theo ông còn đưa ra những ưu điểm của Âu châu hơn hẳn bên nước Mỹ về nhiều phương diện, cụ thể như “chăm sóc y tế phổ cập toàn dân”, “hệ thống an sinh xã hội hào phóng”, “ giáo dục đại học gần như miễn phí”, “ công nhân được quyền rộng rãi tham gia điều hành xí nghiệp” v.v…

Các số liệu thống kê khá chính xác đã được tác giả viện dẫn để chứng minh rằng : “Người dân Âu châu hiện nay đang được hưởng thụ một cuộc sống bảo đảm an lành hơn hẳn người Mỹ, và xã hội Âu châu cũng bớt các hình thức bạo động hơn so với xã hội Mỹ”. Điển hình như : “ Số người Mỹ bị cầm tù quá đông lên đến trên 2,3 triệu, tức là chiếm đến 1% số người ở tuổi trưởng thành của nước Mỹ. Tỷ lệ 1% này cao gấp từ  7 đến 10 lần hơn tỷ lệ số người bị cầm tù của người dân tại Âu châu”.

3/ Một số chương điển hình.

  1. Chương 3 : Lợi điểm bí mật của Âu châu : Đó là Nền Dân chủ kinh tế (Economic Democracy). Đặc điểm của nền sản xuất kinh tế Âu châu dựa trên 3 cơ sở chính yếu : đó là sự quyết định chung (giữa giới chủ nhân và giới công nhân) (codetermination), ủy ban giám sát (supervisory boards) và hội đồng trong xưởng lao động (works councils).
  2. Chương 4 : Giá trị gia đình. Vì không phải chi tiêu nhiều cho ngân sách quốc phòng, nên Âu châu chăm sóc tốt hơn so với Hoa kỳ cho nhu cầu của các gia đình, trẻ em, người già. Tính ra Âu châu chi ra 9,200$ mỗi năm cho một đầu người, so với Hoa kỳ chỉ chi ra có 7,300$ mà thôi.
  3. Chương 8 : Sức khỏe trước đã (La Sante’ d’abord). Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xếp hạng Hoa kỳ vào hạng thứ 72 trong số 191 quốc gia, thua cả Costa Rica và Dominica. Trong khi hầu hết các nước Âu châu đều được xếp vào loại hàng đầu. Trên 15% người Mỹ (47 triệu) không có bảo hiểm y tế. Trong khi tại Âu châu, thì mọi người đều được bảo đảm hoàn toàn đồng đều về y tế (universal health care).
  4. Chương 13 : Nền Dân chủ chính trị ở Âu châu (Political Democracy in Europe). Chế độ đa đảng ở Âu châu xem ra lại dễ đem lại sự đồng thuận (consensus) hơn là chế độ “độc quyền lưỡng đảng ở Hoa kỳ (two-party duopoly). Lối bỏ phiếu theo tỷ lệ (proportional voting) ở Âu châu khiến cho vị dân cử phải đáp ứng với nguyện vọng của người dân hơn là lối “được ăn cả ngã về không” (winner-take-all) của Hoa kỳ.
  5. Chương 17 : Phong trào Dân quyền Âu châu đang trổi dậy (A European Civil Rights Movement Arises). Dù chưa có một phong trào mạnh mẽ, sôi nổi như ở Mỹ từ thập niên 1950-60 của người Mỹ gốc Phi châu với một lãnh tụ lừng danh là Mục sư Martin Luther King, thì tại Âu châu hiện nay, nạn kỳ thị chủng tộc và tôn giáo cũng đã và đang bị kiềm hãm hạn chế rất nhiều.

Trong phần kết luận, tác giả đã nhắc lại câu hỏi của ông Matthias là một người dân Đức trong cuộc gặp gỡ tại vùng nghỉ mát ở nước Áo vào năm 2003 như sau : “ Tại sao một nước phồn thịnh sung túc như nước Mỹ mà lại không cung cấp đày đủ cho người dân có được một cuộc sống an lành, thoải mái vững vàng như người Âu châu chúng tôi đang được thụ hưởng hiện nay vậy? Tại sao? Tại sao vậy?”

** B – Những khác biệt giữa Âu châu với nước Mỹ.

Như ta đã biết, Liên Hiệp Âu châu (European Union EU) cũng chỉ mới được hoàn tất với đày đủ các cơ chế sinh hoạt cụ thể kể từ năm 2004. Số quốc gia thành viên hiện nay của EU là 27 nước, với dân số tổng cộng là 500 triệu người, và Tổng sản lượng (GDP) là 20 ngàn tỷ dollar (trillion), con số này tương đương với tổng số GDP của Mỹ cộng với của Trung quốc (14 + 6 trillion). Trong khi đó thì nước Mỹ phải chi tiêu đến trên 4% GDP về quân sự, mà Âu châu thì chỉ phải chi chưa tới 2% GDP của mình. Do đó, mà Âu châu đã có thể chi tiêu đến 26% GDP cho phúc lợi xã hội, so với Mỹ chỉ chi tiêu được có 16%GDP cho mục này mà thôi. Kết quả là mỗi người dân Âu châu được thụ hưởng đến 36% nhiều hơn về phúc lợi xã hội so với người dân Mỹ.

Trong 2 trang 293 và 294, tác giả Steven Hill đã lập cả một bảng so sánh chi tiết về những khác biệt giữa Âu châu và Mỹ về nhiều phương diện chính trị, truyền thông, kinh tế, năng lượng và lao động. Vì bảng liệt kê này khá dài, nên người viết chỉ xin chọn lọc ra một vài điểm điển hình chính yếu mà thôi  :

1/ Về Kinh tế

  • Âu châu : Thực hiện sự Liên đới xã hội, đề cao giá trị gia đình và cộng đồng – Thực hiện sự đồng quyết định của giới chủ với giới công nhân (codetermination) – Tỷ lệ công nhân gia nhập nghiệp đoàn cao – Huấn luyện và tái huấn luyện dễ dàng cho công nhân – Thuế lợi tức cao, nhưng không phải trả thêm phụ khoản cho các dịch vụ xã hội.
  • Hoa kỳ  :  Quá thiên về cá nhân chủ nghĩa, xã hội đặt nặng về tư hữu – Ít có sự tham khảo giữa giới chủ nhân và công nhân, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp nặng về hệ cấp (hierarchical business structures) – Tỷ lệ công nhân gia nhập nghiệp đoàn thấp – Ít huấn luyện hoặc tái huấn luyện cho công nhân – Thuế lợi tức thấp, nhưng người dân phải trả thêm nhiều phụ khoản cho các dịch vụ xã hội.

2/  Về Lao động – Xã hội

  • Âu châu  : Chăm sóc y tế phổ quát cho mọi người – Cha mẹ được nghỉ lúc sinh con – Nghỉ thường niên cỡ 4-5 tuần lễ – Số giờ làm việc mỗi tuần ngắn hơn – Tiền hưu trí thoải mái hơn – Giáo dục đại học gần như miễn phí – Gia cư dễ dàng cho mọi người.
  • Hoa kỳ   :  Bảo hiểm y tế hạn chế, 47 triệu người không có bảo hiểm – Không bó buộc phải cho công nhân nghỉ lúc sinh con – Nghỉ thường niên chỉ có cỡ 2 tuần lễ – Số giờ làm việc trong tuần dài hơn – Khoản hưu trí nhỏ nhoi –  Chi phí cho giáo dục đại học mỗi ngày một tăng cao – Chi phí về gia cư mỗi ngày leo thang.

3/  Về Chính trị

  • Âu châu  :  Chi phí vận động tranh cử do công quỹ đài thọ – Thời lượng truyền thông miễn phí cho mọi đảng phái chính trị – Đa nguyên về chính trị, cử tri dễ dàng chọn lựa – Số cử tri ghi danh rộng rãi – Số cử tri đi bầu đông – Thượng nghị viện ít quyền hành hơn – Chánh sách ngoại giao dựa trên cơ sở đa nguyên.
  • Hoa kỳ   :  Chi phí vận động tranh cử do tư nhân đài thọ – Không có thời lượng truyền thông miễn phí, ứng cử viên phải trả chi phí rất cao về quảng cáo chính trị – Nhiều đơn vị và tiểu bang chỉ có độc đảng – 70 triệu cử tri không được ghi danh đi bầu – Số cử tri đi bầu rất thấp, có khi dưới 10% – Thượng nghị viện Mỹ có quyền hành ngang với Hạ nghị viện – Chánh sách ngoại giao dựa trên cơ sở đơn phương và “quyền được tấn công trước” (preemptive strikes).

*** C – Vậy thì nước Mỹ có thể học được những gì từ Âu châu?

Như đã trình bày ở trên, Âu châu có nhiều ưu điểm với những thành công vượt bậc, mà nước Mỹ cần phải học tập rút kinh nghiệm để noi theo. Cụ thể là tại Đại học Rutgers ở New Jersey, người ta đã tổ chức cả một khóa học lấy tên là “Bài học của Âu châu” và mời tác giả Steven Hill đến tham gia diễn giảng, trao đổi và thảo luận với các học viên.

Nhưng cũng không ít giới chính khách và thức giả khác thì lại cho rằng Âu châu cũng chẳng có gì xuất sắc đặc biệt để cho người Mỹ phải chắp tay, cúi đầu xin thọ giáo. Cái não trạng coi nước Mỹ là “trung tâm đầu não của thế giới” khởi sự từ những thập niên 1940-50, khi cả Âu châu phải cầu cứu đến người Mỹ trong hai cuộc thế chiến, và cả sau này để đối phó với hiểm họa cộng sản trong cuộc chiến tranh lạnh, thì nay vẫn còn sót lại trong nhiều tầng lớp dân chúng Mỹ. Như vậy, không thể nào mà dễ dàng thay đổi hay xóa bỏ ngay được cái thành kiến “tự coi mình là đỉnh cao trí tuệ” vốn đã ăn rễ lâu ngày trong đại khối quần chúng tại cường quốc này.

Vẫn biết rằng “Thuốc đắng thì mới đã tật”, mà “Lời thật thì hay mất lòng”, nhưng thiết nghĩ ta vẫn nên dựa theo những phân tích nghiên cứu rất công phu của tác giả cuốn sách “Europe’s Promise” này, để mà tạm thời đưa ra một vài đề xuất cụ thể như sau :

1/  Thứ nhất : Nước Mỹ cần phải kiên trì hơn trong việc kiến tạo cho bằng được một xã hội nhân bản và nhân ái hơn, với các định chế chính trị, kinh tế xã hội và văn hóa đặt trọng tâm vào tình liên đới huynh đệ giữa mọi thành phần của dân tộc, vào lý tưởng công bằng xã hội và vào sự tôn trọng phẩm giá con người. Việc này đòi hỏi khu vực Xã hội Dân sự phải làm áp lực mạnh mẽ hơn đối với chánh quyền nhà nước, cũng như đối với khu vực thị trường kinh tế (marketplace), nhằm có sự thay đổi triệt để trong suy tư và hành động có tầm vóc tòan thể quốc gia.

Điển hình là không thể duy trì mãi sự ưu đãi đối với tầng lớp thiểu số những đại gia có 1% dân số mà chiếm giữ đến trên 50% thu nhập của tòan thể quốc gia. Và cũng không thể để cho giới chủ doanh nghiệp lại có thu nhập gấp cả trăm lần số lương của người công nhân, đó là điều bất công tham lam quá mức, đến độ mà vị giáo sư khả kính Peter Drucker đã phải giận dữ và lên tiếng chỉ trích gắt gao với sự kết án nghiêm khắc, khi ông khám phá ra cái tệ trạng lạm dụng thao túng này của giới tư bản tài phiệt ở nuớc Mỹ.

2/  Thứ hai  : Về phương diện đối ngọai, nước Mỹ phải có một thái độ khiêm tốn nhã nhặn hơn đối với mọi thành phần trong cộng đồng quốc tế. Cái lối hành xử trịch thượng, chuyên quyền độc đóan như một thứ ” đế quốc ỷ mạnh hiếp yếu”, “bất chấp đạo lý làm người”, như người Mỹ vẫn ra tay thực hiện từ trước đến nay, thì rõ rệt đó là cái điều tuyệt đối không thể chấp nhận, không thể dung thứ được nữa trong thời đại của thế kỷ XXI ngày nay.

3/   Thứ ba  : Nhà cầm quyền nước Mỹ phải thành khẩn tìm cách học hỏi ở Âu châu trong việc giảm bớt đáng kể cái gánh nặng quá mức về chi phí quân sự, để có thể dành thêm phần ngân sách cho các dịch vụ xã hội, giáo dục và văn hóa. Một cường quốc mà lại đang phải giam giữ một khối lượng lên đến hàng mấy triệu công dân của mình trong các nhà tù, gấp từ 7 đến 10 lần so với bên Âu châu, và lại để cho đến 47 triệu người không hề có bảo hiểm y tế, thì rõ ràng là chưa thể xứng đáng gọi là một quốc gia thực sự văn minh tiến bộ được.

Người viết rất tâm đắc với câu trích dẫn sau đây của tác giả lừng danh Alexis de Tocqueville đã viết trong cuốn sách đã trở thành kinh điển là “Democracy in America” xuất bản năm 1835, tức là cách nay đã 175 năm. Tocqueville đã ghi rằng : “ Sự cao cả vĩ đại của người Mỹ không phải chỉ đơn thuần là do họ sáng suốt hơn các dân tộc khác, mà là do họ có khả năng sửa chữa những lỗi lầm của mình”

Trên đây chỉ là một vài suy nghĩ sơ khởi phát xuất từ việc được đọc qua cuốn sách nhan đề “Sự hứa hẹn của Âu châu” của một thức giả người Mỹ đã dầy công tìm hiểu, nghiên cứu về sự tiến bộ  hiện nay tại châu lục này. Người viết xin mạo muội ghi ra mấy nét đại cương thô thiển như vậy, với ước mong nhận được sự chú ý của bạn đọc, và gây ra được một cuộc trao đổi chân tình và phấn khởi giữa những người cùng có sự quan tâm sâu sắc đến vận mệnh của quê hương thứ hai của mình, cũng như đến sự an vui và thái hòa của mọi dân tộc trên thế giới ngày nay vậy./

Costa Mesa, Tiết Lập Đông Canh Dần 2010

Đòan Thanh Liêm

HẠNH PHÚC BỊ TỪ BỎ

HẠNH PHÚC BỊ TỪ BỎ

Trích EPHATA 635

9 giờ 30 tối, tôi rời khuôn viên Nhà Thờ trong khi vẫn còn đông người đang cầu nguyện trước hang đá Đức Mẹ. Đầu tôi nặng trĩu, tim tôi thắt lại, chân tôi bước mà không biết đi đâu nữa. Tôi đang muốn chạy trốn khỏi Nhà Thờ để khỏi nghe lời giảng của cha như đâm vào tim tôi đau xé, nhưng làm sao chạy trốn được… chính tôi ?

Tối nay, tôi nhớ mồn một những năm xa xưa ấy, những năm tôi đã nhúng tay vào tội ác mà trái tim không hề rung động, còn nếu có thì chắc chỉ thoáng qua trong một vài tích tắc mà thôi.

Ngày ấy tôi còn rất trẻ, sống bồng bột, kết hôn vội vàng và có đứa con đầu lòng rất sớm.

Chưa kịp chuẩn bị để làm mẹ, tôi thấy ngán ngẩm cảnh có con mà chỉ một mình nuôi con. Chồng tôi cùng một tuổi, cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”, suốt ngày cứ đàn đúm bạn bè, nhậu nhẹt, chẳng thiết gì đến vợ con, lại còn đang ăn bám cha mẹ. Con gái tôi vừa đúng thôi nôi thì trời ơi, cả gia tài của tôi ( chỉ gồm những món nữ trang ngày cưới ) cũng theo nhau từ từ bay mất. Giận chồng không biết lo cho vợ con, tôi bồng con về nhà ngoại, kiếm việc làm để nuôi con.

Giá cứ như thế luôn thì tôi đã đỡ khổ ! Chẳng ngờ, chưa được bao lâu, anh ấy qua nhà tôi thề sống thề chết, năn nỉ cha mẹ tôi cho rước vợ con về. Nhưng rồi chứng nào tật nấy, càng ngày anh càng hư đốn. Lại một lần nữa, tôi ôm con trở về nhà cha mẹ ruột sau khi để lại lá đơn ly hôn với chồng tôi.

Một hôm đang làm việc, tôi cảm thấy chóng mặt, đi khám bệnh mới được bác sĩ cho hay là tôi đã có thai. Nghe như sét đánh ngang tai, tôi thẫn thờ như người mất hồn, không biết tính cách nào đây, nếu sinh thêm một đứa nữa thì đồng lương của tôi không sao lo nổi. Chẳng lẽ tôi lại mang thêm gánh nặng về cho cha mẹ ? Ông bà đã khổ vì tôi quá nhiều rồi. Chợt nhớ có cô bạn học đang làm nữ hộ sinh một bệnh viện phụ sản lớn, tôi đến thăm dò ý kiến. Đã quá quen với cảnh nạo hút thai hằng ngày, bạn tôi khuyên nên “điều hoà kinh nguyệt” ngay, sẽ không đau đâu, vì thai của tôi hãy còn nhỏ, còn hơn phải dây dưa với ông chồng vô trách nhiệm suốt đời.

Về nhà, tôi nằm liệt không dám cho ai biết. Nhìn con ngon giấc tôi ôm nó mà khóc. Thức trắng một đêm, sáng dậy tôi cáo bệnh nghỉ làm. Đưa con đến nhà trẻ xong, tôi đi lang thang trong công viên chỉ mong được yên tĩnh để suy nghĩ sáng suốt. Thả mình xuống chiếc ghế đá, tôi nhìn chung quanh thấy có nhiều cặp tình nhân đang tâm sự, chỉ có mình tôi là lạc loài.

Đầu óc tôi rối beng, cứ nghĩ tới cảnh phải tiếp tục sống với anh chồng mà ngao ngán. Nhưng còn những đứa con tôi… hay là tôi thử tha thứ cho anh ta lần nữa để những đứa con của mình được có bố có mẹ đầy đủ… Hết giải pháp này đến giải pháp khác, cách nào cũng không ổn, tôi lê bước chân vô hồn chẳng biết đi đâu.

Trên chiếc ghế đá nọ, đôi tình nhân vội quay mặt đi khi tôi vừa đến gần. Chuyện đó cũng là thường tình thôi, tôi bước qua họ nhưng chợt nghe bên tai có tiếng đàn ông sao quen quá. Tôi quay lại và kịp nhận ra đó chính là… chồng mình, còn cô gái nọ là người yêu cũ của anh ấy. Sững sờ và đau đớn, chân tôi như bị chôn xuống đất, toàn thân toát mồ hôi lạnh.

Không nhớ mình đứng như thế bao lâu nữa, chỉ nhớ sau đó tôi đã chạy, chạy đến lúc té quỵ xuống là hết ! Rồi phải một hồi lâu, nghe chung quanh có tiếng nhiều người lao xao, tôi lơ mơ mở mắt ra và thấy những bộ đồng phục màu trắng. Họ là những y tá, bác sĩ đang lo cấp cứu cho tôi. Thấy tôi đã tỉnh hẳn, bác sĩ cho biết là tôi bị động thai, cần phải dưỡng thì mới giữ được.

Đang cơn chán ngán và gần như bất lực trước những đòn roi tới tấp của nghịch cảnh, tôi buột miệng nói không suy nghĩ: “Xin bác sĩ lấy cái thai ra dùm tôi !” Thoáng chút ngạc nhiên, bác sĩ hỏi lại tôi một lần nữa, nhưng tôi vẫn cương quyết phá bỏ. Sau đó tôi được đưa sang phòng nghỉ, tiếp nước biển cho khoẻ để chờ sẽ hút thai vì lúc đó huyết áp của tôi đang tụt rất thấp.

Tinh thần hoảng loạn, bên cạnh chẳng có ai thân thích, tôi đành phải gọi cô bạn học nhờ trợ giúp. Cô ấy đến gởi gấm tôi cho bác sĩ và an ủi, xoa dịu tôi nhưng vẫn không làm tôi bớt sợ hãi.

Thế rồi chuyện gì đến phải đến. Trèo lên chiếc giường nạo thai, ý muốn leo xuống cứ trở đi trở lại trong tôi nhưng không còn kịp nữa, bác sĩ đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cả rồi. Ông bảo tôi hãy nhắm mắt lại, thở đều và… sẽ nhanh thôi, không đau đâu. Nhưng chiếc que nạo inox cứ xoáy vào bên trong người tôi, tôi thét lên từng cơn “Đau ! Đau quá !” Mà nào người ta có chịu buông tha, người ta mặc kệ, cứ “vừa đánh vừa xoa” cho đến lúc cả cơ thể và tâm trí tôi rã rời thì hoàn tất.

Con tôi, trời ơi còn đâu ! Người ta đã xé nát thịt da con rồi ! Mẹ là người mẹ khốn nạn nhất trần đời. Con ơi ! Con ơi !

Sau trận ấy tôi suy kiệt cả tinh thần lẫn thể chất. Mẹ tôi vẫn túc trực bên giường bệnh, trong khi bà còn phải lo cho con gái nhỏ của tôi. Con tôi ngây thơ quá, nó cứ chạy đến ôm hôn tôi mà không biết gì về nỗi mất mát vừa xảy đến. Tôi xấu hổ thấy mình không xứng đáng làm mẹ nó nữa.

Ngày qua ngày, bé con đầu lòng của tôi lớn dần lên, nó đã đi học, vết thương trong lòng tôi cũng nguôi ngoai. Tôi sống khép kín, chỉ biết lao đầu vào công việc, các bạn nữ đồng nghiệp gọi tôi là “bà cụ non”, còn nam đồng nghiệp nhiều người cũng thích làm quen với tôi nhưng chỉ vài câu xã giao là họ đã thấy chán ngắt, hoặc có người đeo đuổi dai dẳng hơn thì rồi cũng đành bỏ cuộc khi đụng phải cái “mu rùa biết đi”.

Tôi dành hết thời giờ cho con, vui mừng vì nó rất ngoan và học giỏi…

Từ ngày tôi được ơn trở lại Đạo cho đến nay, được thấm nhuần Giáo Lý của Thiên Chúa là Tình Yêu, và khi yêu là người ta yêu đến cùng, dù có phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Tôi đã đi xưng tội và dành hết thời giờ rảnh rỗi giúp bất kỳ một ai khốn khổ mà tôi biết. Tôi đã từng theo nhóm Bảo Vệ Sự Sống vào tận các bệnh viện phụ sản lớn nhỏ để khuyên can các cô gái lỡ lầm khỏi sa vào cảnh nạo phá thai, góp phần vào việc giúp các em làm lại cuộc đời, nuôi con…

Thế nhưng, chưa bao giờ lương tâm tôi lại ray rứt và bị ṿ xé như tối nay. Trong Thánh Lễ, cha giảng đã nói đến thảm kịch phá thai hiện nay. Nghe những lời cảnh báo và kêu gọi hãy bảo vệ lấy Sự Sống là Quà Tặng vô giá của Thiên Chúa đã trao cho con người, tất cả trong tôi bừng tỉnh mọi ký ức tưởng đã chôn vùi sâu kín. Phải chăng tôi vẫn canh cánh bên lòng một món nợ không nguôi. Tôi nợ con tôi sự sống ư ? Hay tôi nợ Thiên Chúa một lần yêu ? Hay tôi nợ đời tôi một hạnh phúc ? Hạnh phúc Chúa ban đến đã bị tôi từ khước và gạt bỏ không thương tiếc.

“Bà… ba… bum… bum…”, tiếng bập bẹ của thằng Cu Tý làm tôi chợt tỉnh. Nó nhào tới ôm cứng lấy tôi và tì cái miệng bé xíu hôn lên khắp mặt tôi. Chao ôi ! Cháu ngoại tôi ! Cưng quá ! Căn nhà tôi lại vang tiếng cười của trẻ thơ sau bao năm vắng lặng. Mẹ nó đi làm suốt ngày gởi con cho tôi chăm sóc, ba nó lại còn ở phương xa, nhưng nó ngây thơ chẳng biết buồn. Đối với nó, tôi vừa là bố vừa là mẹ. Nó cứ bấu lấy tôi, tiếng bập bẹ đầu tiên của nó là “ba… bà” khiến tôi sướng run người.

Bây giờ hạnh phúc của tôi là nó. Tôi đau khi nó khóc và tôi khóc khi nó đau. Niềm hạnh phúc nhỏ bé lại trở về với tôi. Chắc chắn, Chúa nhân hậu từ bi và hay thương xót, Ngài không còn giận tôi nữa, Ngài đã tha thứ cho tôi từ lâu rồi. Còn con, con có tha cho mẹ không ?

Giờ con đang ở đâu ? Linh hồn con chơi vơi ở chốn nào ? Mẹ chỉ còn biết ăn năn sám hối và cầu nguyện. Nếu Chúa cho mẹ biết con đang ở đâu và bắt mẹ phải chịu những hình phạt nào để chuộc con về trong Vườn Chúa, mẹ cũng vui lòng nhận lãnh. Nhưng chính mẹ sao cứ phải chịu một hình phạt nặng nề là suốt đời cứ mang trong lòng một tội ác, một Món Nợ Tình Yêu không bao giờ trả được ?

Chắc là tôi đã khóc nên có chút nước gì đó mằn mặn ở môi. Tôi thấy Cu Tý mở to mắt nhìn tôi ngơ ngác, rồi nó mếu máo theo tôi. Ôm khuôn mặt thiên thần của nó trong đôi tay, tôi cứ tưởng tượng ra hình dáng đứa con mà tôi không bao giờ được thấy. Tôi khóc trong vui sướng.

Ôi Chúa ơi ! Tình Yêu Ngài thật lớn lao, con sẽ không bao giờ dám phí phạm nữa.

Và trong sâu thẳm, tôi được ơn Chúa cho cảm nhận được rằng con tôi nó đã tha thứ cho mẹ nó. Linh hồn nó chắc là vẫn hiện hữu thật gần gũi bên tôi dù tôi xác tín Chúa đã đón nó về Nhà Chúa ngay từ dạo ấy. Còn phần tôi, Món Nợ Tình Yêu tôi sẽ phải trang trải với cuộc đời không biết đến bao giờ mới thôi chẳng còn vấn vương ?

VTKT, Sàigòn

Tìm đâu an bình và hy vọng trong năm mới ???

Tìm đâu an bình và hy vọng trong năm mới ???

Chuacuuthe.com

VRNs (03.01.2015) – Gần cả thế kỷ nay, lễ Giáng sinh của người Ki-tô giáo đã trở thành ngày lễ quốc tế, ngày hội hoàn vũ, trở thành nét văn hóa của hầu hết mọi quốc gia và nét nhân bản của mọi xã hội, kể cả những quốc gia Hồi giáo hay cộng sản. Không ai không thấy hình ảnh lẫn âm thanh Giáng sinh đập vào mắt và lọt vào tai con người mỗi lần gần cuối năm dương lịch. Từ hình ảnh đặc trưng như hang đá Bê-lem (với cảnh Đức Giê-su sinh ra) tới hình ảnh ông già No-en cỡi xe nai phát quà, cây thông lung linh ngàn ánh sáng… Từ những bài thánh ca du dương bất hủ như Silent Night (lời Việt: Đêm Thánh Vô Cùng), Cao Cung Lên… tới những bài hát vui nhộn như Jingle Bells (Chuông Vang Vang), Drummer Boy (Chú Bé Đánh Trống) hay nhạc tình quyến rũ như Mùa Sao Sáng, Bóng Nhỏ Giáo Đường…

Nhưng có lẽ cái đánh động nhất của lễ Giáng sinh chính là những tâm tình mà nó gợi lên trong lòng nhân loại, như bình an, vui tươi, thân thiện, hòa hợp. Người ta hưu chiến, người ta làm hòa, người ta tặng quà, người ta ăn tiệc dịp Giáng Sinh. Đó là vì dù ít dù nhiều, nhân loại biết đấy là lễ kỷ niệm việc Thượng Đế trời cao xuống thế làm người để chia sẻ thân phận với con người, ban gởi bình an đến con người, gieo rắc tình thương giữa con người, kêu gào công lý cho con người và đồng thời mời gọi nhân loại cũng hãy làm cho nhau như thế. Hầu hết các xã hội văn minh dân chủ trên khắp trái đất đều đã và đang nỗ lực biến sứ điệp cao cả đó thành hiện thực bao nhiêu thế kỷ nay. Dù có định kiến thế nào đi nữa, ai ai cũng phải công nhận những quốc gia, đất nước chịu ảnh hưởng Ki-tô giáo (tại Mỹ châu, Âu châu, Úc châu) xét chung đều phát triển, đều thịnh vượng, đều nhân bản, đều tôn trọng con người.

Điều đáng buồn là tại những quốc gia đang gánh chịu chế độ Cộng sản (trong đó có Việt Nam chúng ta), đấy vẫn hoàn là những mơ ước thiết tha, những khát vọng cháy bỏng mà mỗi lần lễ Giáng sinh tới lại làm đau nhói con tim, nung đốt tâm hồn những ai còn quan tâm tới chân lý, công bình, tình thương và tự do, cho dẫu các âm thanh và hình ảnh No-en không hề thiếu ở mọi chốn phồn hoa đô hội tại những quốc gia cộng sản ấy (thậm chí đó còn là nơi mà phần lớn các sản phẩm liên quan tới Giáng sinh hiện bán khắp địa cầu được làm ra, đặc biệt Hoa lục).

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người chia sẻ thân phận của nhau, nghĩa là xây dựng một thế giới công bằng, bình đẳng, không có sự chênh lệch của cải và quyền lợi quá đáng. Nhưng tại VN chúng ta, đang có tình trạng một nhúm người thống trị lâu dài cả dân tộc, tức là đảng Cộng sản độc đoán cầm quyền hơn nửa thế kỷ nay. Nhờ nắm trong tay tất cả sức mạnh, đảng quyết định mình là sở hữu chủ (dưới danh nghĩa nhà nước) của mọi tài nguyên quốc gia, nhất là đất đai, người dân chỉ còn quyền sử dụng, khiến đại đa số lâm cảnh đói nghèo (thu nhập bình quân của người VN vào hạng thấp nhất thế giới là bằng chứng). Đang có tình trạng những kẻ giữ quyền chính trị giành lấy hầu hết mọi tự do (tự do thông tin và phát biểu kiểu độc quyền, tự do lập đảng và lập hội kiểu độc quyền…) để bắt toàn dân phải làm nô lệ đủ các mặt (lập đảng chính trị: bị cấm, lập hội dân sự: bị cản, thông tin trái lề: bị dọa, làm báo độc lập: bị tù! Các bloggers “nhập kho” gần đây như Nguyễn Hữu Vinh, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Đình Ngọc là những bằng chứng). Đang có tình trạng những kẻ sở hữu cơ ngơi hoành tráng, dinh thự xa hoa, nhà cửa ê hề (như phó thủ tướng đặc trách chống tham nhũng Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Tổng thanh tra săn lùng tham nhũng Trần Văn Truyền…) sống bên cạnh hàng triệu dân oan bị tước ruộng vườn, bị phá nhà cửa để phải kiếm sống trong lây lất và khiếu kiện trong vô vọng, thậm chí bị đốt túp lều cuối cùng như gia đình chị Nguyễn Thị Thúy ở Hải Phòng, bị xét xử cầm tù như vợ chồng chị Cấn Thị Thêu ở Dương Nội. Đang có tình trạng những cán bộ đảng viên cao cấp thu tóm mọi đặc quyền đặc lợi (qua các công ty quốc doanh, tập đoàn nhà nước, cơ quan chính phủ) khiến đa số còn lại lâm vào cảnh thiếu thốn khốn cùng.

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người kiến tạo bình an cho nhau, nghĩa là tạo cho nhau một cuộc sống không tranh chấp, không giành giật, không khắc khoải, không hãi sợ. Nhưng tại Việt Nam, một chế độ độc tài đã và đang được thực thi, được áp đặt bằng âm mưu đoạt ghế, cướp quyền, bằng biện pháp cưỡng bức, hăm dọa, bằng chính sách gieo bất an, tạo bất hòa, bằng chủ trương dựng kẻ thù, gây chia rẽ. Đảng thống trị và nhà cầm quyền luôn nặn ra những con ngoáo ộp “thế lực thù địch” cho dân phải luôn đề phòng, cảnh giác và hãi sợ. Ngoài ra, người dân không thấy được công lý che chở, luật pháp bảo vệ. Công lý nếu có chỉ là thứ công lý tiền bạc, công lý côn đồ, nghĩa là công lý trò hề (như một minh họa mới đây trên bìa 2 cuốn sách “Bộ luật Dân sự” và “Bộ luật Hình sự” năm 2014 với “văn bản hướng dẫn thi hành”). Luật pháp nếu có chỉ là thứ luật pháp bao che quan chức chính quyền, nhân sự chế độ (tham nhũng đại bự Trần Văn Truyền chỉ bị cảnh cáo, công an giết người chỉ phải ngồi tù vài năm), là thứ luật pháp trừng trị dân đen khốc liệt (giới làm nông đòi đất đai, giới đối kháng đòi dân chủ, giới tín đồ đòi quyền hành đạo). Đủ thứ hăm dọa từ chính trị áp bức, từ quyền lực bạo hành, từ bộ máy sách nhiễu, từ kinh tế suy thoái, từ xã hội nhiễu nhương, từ môi trường ô nhiễm, từ đạo đức băng hoại, thậm chí từ ngoại thù xâm lược. Ai mà không ngán ngẩm về cái đảng thống trị bất lương và bất tài, về bộ máy cầm quyền tham nhũng và bóc lột, tàn ác và gian dối; không băn khoăn vì đồng tiền ngày càng mất giá, vì trộm cướp như rươi hoành hành, vì thức ăn nước uống nhiễm độc; không khắc khoải vì đất nước bị ngoại xâm Bắc phương ngoạm dần, vì kẻ thù truyền kiếp rình chực ngoài cửa. Người dân lo âu về hiện tại lẫn về tương lai, cho bản thân lẫn cho con cháu. Con người mỗi sáng mở mắt không biết hôm nay mình có được an toàn trong thể xác (thực phẩm phải chăng gây ung thư?), an toàn trong sinh hoạt (tai nạn giao thông phải chăng chực chờ?), an toàn trong mối tương giao xã hội (công an cảnh sát phải chăng mời vào đồn? viên chức hành chánh phải chăng giở trò sách nhiễu?)

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người thể hiện tình yêu đối với nhau, nghĩa là thương người như thể thương thân, sống với nhau tương thân tương ái như anh em một nhà. Nhưng có dễ thực hiện điều đó chăng tại VN chúng ta, nơi hiện hoành hành một chủ nghĩa vô thần phi nhân, duy vật hưởng thụ, một chế độ cai trị mất hẳn tính người và tình người, một cơ chế xã hội ít chú trọng và đề cao các giá trị nhân bản, một nền giáo dục đầu độc trí não hơn giải phóng tâm hồn. Trước gương sống chỉ biết vinh thân phì gia của giới hành quyền đủ mọi cấp bậc, hầu như thiên hạ sống dửng dưng với thân phận của nhau, vô cảm với nỗi khổ của nhau, chủ trương triết lý “mặc kệ nó”, thậm chí bàng quan với vận mệnh của dân tộc và sự an nguy của giống nòi. Thử hỏi những cuộc xuống đường chống ngoại xâm có bao người tham dự? Thử hỏi những cuộc biểu tình đòi các nhân quyền cơ bản có mấy khi được tổ chức? Hay nếu có thì phải chăng sẽ được khuyến khích bởi các lãnh đạo chính trị và lãnh đạo tinh thần? Rất nhiều con người chỉ biết sống trong giành giật và chà đạp, trong lường gạt và dối trá, không thấy hạnh phúc đích thực của mình chính là tạo hạnh phúc cho kẻ khác, không ý thức được ích lợi cho toàn xã hội cũng là ích lợi cho mỗi cá nhân. Tiếng “xin lỗi” và “cảm ơn” ngày càng vắng bóng. Sự tự phát cứu giúp kẻ lâm nạn trên đường ngày một hiếm hoi. Lắm người nghèo về cơm áo, về văn hóa, về tình thương, nhất là về nhân phẩm đang bị bỏ lơ, quên hẳn bên lề cuộc đời.

Sứ điệp Giáng Sinh mời gọi loài người thực thi công lý cho nhau, nghĩa là trả cho ai nấy cái thuộc về họ, từ các nhân quyền đến các dân quyền. Nhưng tại VN chúng ta, công lý đang bị coi thường, lãng quên, thậm chí bị trấn áp, tiêu diệt. Chữ “công lý” không hề nằm trên giấy trong các văn bản pháp luật (duy nhất một lần trong hiến pháp), không hề nằm trên miệng nơi các thừa hành pháp luật. Người ta không xét xử nhân danh công lý mà chỉ nhân danh nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ý thức công lý cũng mai một dần nơi vô số con người. Hàng triệu thai nhi không có quyền được chào đời làm người (Việt Nam luôn chiếm hàng đầu về nạn phá thai); hàng triệu trẻ em không có được một mái ấm học đường (vì học phí quá đắt, vì cơ sở quá tệ), một nền giáo dục nhân bản (vì chủ trương nặn đúc thần dân cho đảng); hàng triệu thanh niên không được tạo khả năng và ban cơ hội để vững bước vào đời (vì giáo dục từ chương, vì bằng cấp dổm giả, vì “bằng đỏ” cũng thua “bằng vàng”); hàng triệu nông dân bị tước đoạt ruộng vườn và phương tiện sinh nhai (thu hồi kiểu cướp bóc tàn bạo, đền bù kiểu để chết dần mòn); hàng triệu công nhân bị bóc lột tiền lương, phải lao động trong những điều kiện hết sức vô nhân đạo, chịu sự kiểm soát và khống chế của những công đoàn không phải của họ, do họ và vì họ; hàng triệu tín hữu bị trấn áp niềm tin, bị tước đoạt quyền tự do hành đạo (chức sắc lẫn giáo đồ hoặc bị sách nhiễu, hoặc bị hành hung, hoặc phải ngồi tù; cơ sở tôn giáo hoặc bị phá phách hoặc bị cướp đoạt; cộng đồng Tin lành Mennonite trong những tháng gần đây là ví dụ tiêu biểu); hàng ngàn hàng vạn công dân yêu nước bị sách nhiễu cuộc sống, bị bao vây kinh tế, bị cầm tù oan ức; hàng ngàn hàng vạn tù nhân đang bị tước cả những nhân quyền tối thiểu trong những lao ngục đọa đày, thậm chí có những nạn nhân vô tội phải lãnh án oan tử hình. Bằng chứng là Hàn Đức Long (Bắc Giang), Nguyễn Văn Chưởng (Hải Dương), Hồ Duy Hải (Long An).

Sứ điệp ngày Giáng sinh còn được nhân loại kéo dài tới đầu năm dương lịch, vì ngày mồng một tháng Giêng được gọi là Ngày Hòa bình Thế giới. Nhưng với những biến cố chính trị gần đây tại VN, như việc Chủ tịch chính hiệp Trung Quốc Du Chính Thanh qua rà soát lại nhân sự thân Tàu trong đại hội đảng lần thứ 12 tới, việc thiết lập cơ quan tuyên truyền và hang ổ tình báo mang tên viện Khổng Tử, việc cả bộ trưởng công an lẫn quốc phòng quyết tâm “kiểm soát thông tin”, “ngăn chặn phát tán các tài liệu xuyên tạc trên mạng Internet nhằm đả kích, bôi nhọ lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ” trong năm tới mà thực chất là tiêu diệt tự do ngôn luận của công dân, phải chăng dân Việt sẽ có hòa bình trên quê hương, trong cuộc sống hay phải tiếp tục sống trong bất an tâm hồn và mất hy vọng?

BAN BIÊN TẬP

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 210 (01-01-2015)