Đức Phanxicô và sự thay đổi quan điểm của Mỹ về người Công Giáo

Đức Phanxicô và sự thay đổi quan điểm của Mỹ về người Công Giáo

Vũ Van An

Tổng Thống Obama ca ngợi Đức GH Phanxicô trong bài diễn văn về tình trạng liên bang của ông mới đây. Tuy nhiên, ai cũng đã rõ: trong suốt lịch sử Mỹ với gần 50 ông tổng thống thay phiên nhau cai trị đất nước Hoa Kỳ, mới chỉ có 3 ông làm chuyện này. Trước Obama, Johnson nhắc tới Đức Phaolô VI; Clinton nhắc tới Đức Gioan Phaolô II.

Tên tuổi Đức Phanxicô sẽ xuất hiện một lần nữa tại tòa nhà quốc hội Mỹ vào cuối năm nay khi ngài nhận lời mời tới đây đọc diễn văn, đây có lẽ là lần đầu tiên trong lịch sử. Đức TGM Bernardito Auza, thuộc Ủy Ban sắp xếp cuộc tông du Mỹ sắp tới của Đức Giáo Hoàng, cho hay: “Thực sự, ta có thể nói, điểm nổi bật của chuyến thăm Hoa Thịnh Đốn có thể là bài diễn văn ngài đọc với phiên họp lưỡng viện; với các đại diện Thượng và Hạ Nghị Viện”.

Tuy nhiên, bài diễn văn trên sẽ không chỉ là một điểm nổi bật mà thôi. Với một ông phó tổng thống Công Giáo và một ông chủ tịch Hạ Nghị Viện Công Giáo nhìn từ sau lưng ngài, bài diễn văn chắc chắn sẽ là một nhắc nhở sống động việc người Mỹ đã tiến bao xa trong việc khắc phục các thiên kiến và cuồng tín bài Công Giáo lâu đời của họ.

Sự cuồng tín nói trên bao gồm cả TT Thomas Jefferson, người, vào năm 1813, từng viết rằng: “Tôi tin rằng lịch sử chưa bao giờ cho ta một điển hình nào về việc một dân tộc nhiều linh mục lại duy trì được một chính phủ dân sự tự do… Tại mọi quốc gia và trong mọi thời đại, linh mục luôn thù nghịch đối với tự do”.

Trong phần lớn thế kỷ 19, người Công Giáo bị người Mỹ theo chủ trương coi người sinh ra ở địa phương trội hơn người nhập cư (nativists), phần lớn theo Thệ Phản, tố cáo là phá hoại cuộc thử nghiệm dân chủ của Mỹ. Đôi khi những lời tố cáo này kèm theo bạo lực.

Năm 1834, một tu viện tại Charlestown, Mass., đạ bị phóng hỏa. Năm 1844, một cuộc bạo động tại Philadelphia đã khiến 13 thiệt mạng và phá hủy hai nhà thờ. Trong cùng thập niên này, Hiệp Hội Thệ Phản Mỹ được thành lập để tố cáo “các nguyên tắc của bọn giáo hoàng” vì chúng bị coi như “phá sập tự do dân sự và tự do tôn giáo”.

Năm 1835, Lyman Beecher, một nhà giảng thuyết và là viện trưởng một chủng viện, hô hào xua đuổi người Công Giáo khỏi bất cứ khu định cư nào ở Phía Tây khi người Mỹ di chuyển ngày càng đông từ bờ biển Phía Đông tới đó. Oái oăm một điều, con gái ông là Harriet Beecher Stowe, lại là tác giả cuốn “Uncle Tom’s Cabin”, một tiểu thuyết nhằm tố cáo tội ác buôn bán nô lệ tại Hoa Kỳ.

Tổng Thống Ulysses S. Grant công khai lo ngại đối với một đất nước “một đàng thì có lòng yêu nước và thông minh, nhưng đàng khác lại dị đoan, có tham vọng và tham lam “. Vị anh hùng của cuộc Nội Chiến này cũng muốn các trường công lập “không bị pha trộn với thứ giáo huấn vô thần, ngoại đạo hay bè phái”, vốn tiêu cực ám chỉ một cách lộ liễu tới Đạo Công Giáo Rôma.

Năm 1928, Thống Đốc New York, Al Smith, là người Công Giáo đầu tiên tranh cử vào Tòa Bạch Ốc. Trong chiến dịch tranh cử, có cả một làn sóng cuồng tín bài Công Giáo. Người ta sợ ông Smith sẽ nhận lệnh trực tiếp từ giáo hoàng ở Rôma. Một số người cuồng tín còn phao tin rằng giáo hoàng có dự định dọn vào Toà Bạch Ốc nếu Smith trở thành tổng thống. Kết quả: Smith thua Herbert Hoover trong một cuộc thất bại “đất lở” (rất đậm).

Ngay sau này, vào năm 1960, một số mục sư Thệ Phản nổi tiếng, vì sợ một tổng thống Công Giáo, cũng đã vận động chống lại John F. Kennedy. Các mục sự này, trong đó có người quá cố Norman Vincent Peale, tác giả cuốn sách bán chạy nhất “The Power of Positive Thinking”, sợ rằng đức tin Công Giáo của JFK sẽ xung đột với các trách nhiệm tổng thống của ông.

Trong một diễn văn với một nhóm nhà lãnh đạo Thệ Phản ở Houston, Kennedy đã nổi tiếng bác bỏ những lời tố cáo như trên khi xác nhận sự độc lập bản thân và chính trị của ông đối với Giáo Hội Công Giáo trong các vấn đề chính sách công.

Ông chỉ thắng cuộc bầu cử rất xít xao và vẫn là người Công Giáo duy nhất ngụ trong Tòa Bạch Ốc.

Điều đáng lưu ý là Kennedy chỉ gặp Đức Giáo Hoàng có một lần. Khi yết kiến Đức Phaolô VI tại Rôma năm 1963, JFK thận trọng chỉ bắt tay Đức Giáo Hoàng chứ không hôn nhẫn như phép lịch sự thông thường của người Công Giáo.

Trong 50 năm qua, đã có nhiều cuộc gặp gỡ giữa các tổng thống Mỹ và các Đức Giáo Hoàng hơn trước, nhưng mới chỉ có hai vị giáo hoàng thực sự đặt chân vào Tòa Bạch Ốc. Năm 1979, TT Jimmy Carter, một người Baptist Miền Nam, chào đón Đức Gioan Phaolô II tại đây; năm 2008, George W. Bush, một người tin lành tái sinh, nghinh đón Đức Bênêđíctô XVI tại Sân Cỏ Phía Nam.

Dù hai đức Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI quyết định không làm vậy, nhưng các ngài có thể dễ dàng ngủ qua đêm tại Phòng Ngủ Lincoln như những vị khách, một điều không thể nào có được vào thời Jefferson và Grant.

Và khi Đức Phanxicô đọc diễn văn với Quốc Hội Mỹ, thì đây là một dấu chỉ rõ rệt khác cho thấy “thời gian quả đang thay đổi”.

Vi Khuẩn Hansen & Chủ Nghĩa Cộng Sản

Vi Khuẩn Hansen & Chủ Nghĩa Cộng Sản

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cười. Ảnh: nguoicui.org

Nhà văn Võ Hồng có người bạn chung lớp vỡ lòng tên Hoạt. Ông Hoạt chỉ học đến lớp tư rồi phải ở nhà phụ giúp cha mẹ trong việc mưu sinh.

Sau đó chừng bốn năm năm, một hôm không nhớ đang nói chuyện gì bỗng một người nhắc đến Hoạt. Giọng nói đang to bỗng chợt nhỏ đi, thì thầm như một tâm sự:

–      … nó bị phung.

“Không ai chuẩn bị để nghe tin đó nên ai nấy đều có cảm tưởng mình vừa rùng mình. Chừng như người ta có quyền mắc một trăm thứ bệnh khác, điều đó không khiến ai ngạc nhiên, chứ bệnh phung thì không thể tưởng tượng được.

–      Cha nó phải dựng một cái chòi ở giữa đám dưa hấu ngoài soi để dấu nó ngoài đó, – lời người bạn kể. Nhưng lâu ngày rồi cũng bị lộ. Có người đâm đơn xuống huyện. Nhà nước bắt chở đi…

“Gần đây, do ngẫu nhiên mà tôi được tiếp xúc với một sư huynh quản đốc của một viện bài cùi.

–      Bệnh cùi – lời vị sư huynh, – chúng tôi chữa lành được. Có nhiều bằng chứng cụ thể, có những tấm ảnh chúng tôi còn giữ lại để làm tài liệu, tấm ảnh chụp người bệnh khi nhập viện và khi xuất viện.

“Tôi dè dặt trong cuộc đối thoại:

–      Người ta nói rằng thuốc Sulfon chỉ giữ cho bệnh không tăng thêm chứ chưa thể…

–      Tôi hiểu sự hoài nghi của ông. Cố nhiên là khoa học có nhiệm vụ và có khả năng đi tới không ngừng…

“Tôi nghĩ đến anh Hoạt liền ngay lúc đó và những ngày sau đó. Sao anh sinh ra đời chi sớm những ba mươi năm. Có gì đâu để mà vội vàng? Anh đã hưởng gì ở cuộc đời ? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mùa Hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa… những niềm vui đó quá nhỏ nhoi với nỗi khổ đè nặng của anh. Giá cứ thong thả, giá cứ đến chậm chậm một chút để kịp cho nhân loại dẹp bớt những khổ não. Giá anh sống lùi lại ba mươi năm, năm mươi năm…” (Võ Hồng. ”Hãy Đến Chậm Hơn Nữa”. Trầm Mặc Cây Rừng. Lá Bối: Saigon, 1971).

Sự lạc quan của nhà văn Võ Hồng, một người sinh trưởng hồi đầu thế kỷ 20, hoàn toàn chính đáng. Khoa học (nói chung) và y học (nói riêng) quả đã có tiến bộ và đạt được nhiều thành quả tột bực trong mấy thập niên vừa qua. Ngày nay, cùi hủi không còn phải là thứ căn bệnh hiểm nghèo – vô phương chữa trị – như trước nữa. Vi khuẩn Hansen chỉ còn có thể hoành hành ở vài nơi xa xôi, và tối tăm trên mặt đất này thôi.

Việt Nam, thương thay, lại là một trong những “nơi xa xôi và tối tăm” như thế. Rải rác trên xứ sở này, vẫn còn những bệnh nhân phong cùi (sống lẩn lút như những con thú hoang) nơi những góc rừng heo hút – theo như lời kể, với nước mắt đầm đìa, của linh mục Nguyễn Văn Đông:

“Có lần, anh chị em có biết là tôi lội bộ 12 cây số để vào thăm một buôn người dân tộc, họ có tục lệ là đối với người bị phong cùi, làng sẽ cất nhà riêng trong rừng cho ở, không cho ở chung. Mà đồng bào nghèo quá, khổ quá, nên ngay cái nhà họ ở đã không ra cái gì, giờ thì lại cất nhà cho người cùi ở, thật là không gọi là nhà, phải gọi là ổ mới đúng, chỉ một mùa mưa đã nát. Mỗi lần đến thăm họ, tôi phải cúi đầu lom khom mới vào ‘nhà’ họ được. Thấy tôi đến họ mừng lắm anh chị em à. Họ cứ nhìn tôi họ cười, họ nói Bab đến thăm con là quý lắm, mừng lắm. Họ cười mà tôi khóc anh chị em ơi. Họ nghèo quá, lại cùi, nên tôi tặng họ vật gì của giáo dân góp cho tôi, là họ mừng lắm, cứ giữ khư khư ép vào ngực như sợ bị mất đi.”

Trong một dịp khác, linh mục Nguyễn Văn Đông cũng đã tâm sự với đặc phái viên Thanh Trúc (RFA) là “ông đã khóc trong một ngày mưa rừng gió núi lội đi thăm một gia đình cùi. Cả nhà người Thượng ấy, hai người lớn ba đứa nhỏ nheo nhóc, lở lói nằm chui rúc dưới một tấm bạt bằng mủ rách nát tả tơi.”

Người cùi ở Kontum. Ảnh: Kontum Missionary and Friendship

Theo Wikipedia:” Hiện nay ở Việt nam, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000, 23.371 đã được chữa lành, 18.000 còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng số làng phong đếm được là 13.”

Tên trại Địa điểm Sáng lập Dân số Bệnh nhân
Bến Sắn Bình dương 1959 39 hộ 664
Bình Minh Đồng nai 1974 295 hộ 141
Cẩm Thủy Thanh hóa 1967 70
Di Linh Lâm đồng 1927 30 hộ 150 (1)
Đắc Kia Kontum 1920 Nhi 373
Phú Bình Thái nguyên 1960 200 hộ 105
Phước Tân Đồng nai 1968 ? 270 (2)
Quả Cảm Bắc Ninh 1913 ? 257
Quy Hòa Quy nhơn 1929 365 hộ ? (3)
Quỳnh Lập Quỳnh lưu 1957 ? 300
Sóc Sơn Hà nội ? ? 31
Thanh Bình Tp HCM 1967 105 hộ 357
Văn Môn Thái bình 1900 > 600 366 (4)

(1): do cha Jean Cassaigne (1895-1973), Hội Thừa Sai sáng lập.

(2): do Giáo hội Tin Lành và mạnh thường quân Na Uy sáng lập.

(3): do Cha Paul Maheu sáng lập (Ngày 3 tháng 3 năm 1930, một buổi diễn thuyết được BS Lemoine và cha Maheu tổ chức ở Saigon, do các giám mục địa phận Saigon (Dumortier), Quy Nhơn (Tardieu), Gouin (Lào) và Blois (Thẩm Dương) bảo trợ ngõ hầu vận động đóng góp tài chánh cho công trình xây dựng trại phong Quy Hòa cho hơn 1500 bệnh nhân. Sau đợt này, nhà nước thuộc địa cũng vận động sáng lập một trại khác ở Cù lao Rồng (Mỹ Tho), đến năm 1971 được giải thể, dời vào Qui Hòa.

(4): lâu đời nhất và đông nhất Bắc kỳ.

Trẻ em phong cùi. Ảnh: Hội Từ Bi Quan Thế Âm

Theo tường trình của linh mục Ðinh Thanh Bình, sau chuyến đi thăm Việt Nam vào năm 2002, con số trại phong hiện nay đã tăng gần gấp đôi:

“Trên danh nghĩa hiện thời, nhà nước quản lý 21 trại cùi ở Việt Nam. Tuy nhiên ban điều hành các trại đa số vẫn là do các nữ tu đứng đầu… Trại phong Di Linh hiện giờ có 350 bệnh nhân, nhưng chỉ có 147 người đủ tiêu chuẩn trợ cấp 15 Úc Kim một tháng của chính quyền. Số còn lại 200 người thì mặc kệ tụi mày, sống chết mặc bay, tao không cần biết. Nhà nước chỉ giỏi cướp công, mỗi lần đưa phái đoàn ngoại quốc đến thăm để xin tiền, nhà nước sẽ đưa tới Di linh, vì Di Linh là một trọng điểm kiểu mẫu. Xin được bao nhiêu, vô túi ai không biết, vì Di linh không hề nhận được thêm đồng cắc nào. Tôi rời Di Linh, để lại thêm một số tiền, ít ra cũng nuôi được vài bữa cơm qua ngày cho 200 người cùi thiếu tiêu chuẩn không biết làm sao mà sống được cho đến mùa Tết tháng sau.”

Khác với thời còn thuộc địa (hễ nghe ở đâu báo có bệnh nhân phong cùi là nhà nước cho người đến bắt đưa vào trại) chính quyền cách mạng – xem chừng – không bận tâm gì lắm về sự hiện diện của những nạn nhân của bệnh phong cùi, dù họ sinh sống ở bất cứ nơi đâu. Muốn biết phần lớn những bệnh nhân phong cùi ở Việt Nam sống (chết) ra sao, xin xem qua hoạt động của vài tổ chức thiện nguyện như Southeast Asian Relief Association, Hội Từ Bi Quan Thế Âm, Hội Bạn Người Cùi. Xin dẫn lời của một trong những vị lãnh đạo của các  tổ chức này:

“Qua các nữ tu cũng như các linh mục, trong đó có cha Đông, hội giúp nhiều lãnh vực như tiền ăn hàng tháng, xây trạm xá, làm nhà lưu trú cho các em mà bố mẹ chết, rồi giúp vốn trồng trọt canh tác cho họ tự túc, giúp những tủ thuốc di động để những nữ tu giòng Phao Lồ đi vào những buôn làng thì mang theo cái tủ thuốc di động để băng bó và cho thuốc.
Từ đó thì chúng tôi xuất phát ra những buôn làng khác. Năm nào hội cũng về và cũng đi một dọc như vậy. Trong suốt mười bảy năm qua chúng tôi làm việc rất chặt chẽ với các xơ, các linh mục hay những người tu hành đang phục vụ cho những bệnh nhân phong.”

Người cùi ở Thái Bình. Ảnh: Hội Từ Bi Quan Thế Âm

Vào cuối thế kỷ trước, khi mà chủ nghĩa cộng sản bắt đầu bước vào giai đoạn thoái trào, một công dân Việt Nam – ông Hà Sĩ Phu – đã có nhận xét rằng: “Chủ nghĩa Mác – Lê suy tàn, chạy về cố thủ ở những vùng còn ít ánh sáng dân chủ, nơi mà tư tưởng phong kiến vẫn cứ sống lai rai trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia.” Sau khi bị tấn công ở khắp nơi trên thế giới, đám vi khuẩn suy tàn Hansen cũng tìm một lối rút tương tự: chạy về cố thủ ở những vùng còn ít ánh sáng… sống lai rai trong núi rừng châu Á hết đời nọ sang đời kia.

Sự tương hợp giữa  chủ nghĩa Mác – Lê suy tàn và đám vi khuẩn Hansen suy yếu tạo ra một viễn tượng ảm đạm cho những bệnh nhân phong cùi ở Việt Nam. Dù vậy, ông Nguyễn Văn Công, Hội trưởng Hội Bạn Người Cùi (*) vẫn hết sức lạc quan:

“Do là người ta có uống thuốc cho nên tình trạng co rút chân tay hay mắt mù đi thì cái đó bây giờ tỷ lệ rất thấp. Sở dĩ những người cụt chân cụt tay là vì bị mà không có thuốc uống. Hy vọng thời gian không lâu nữa công việc của chúng tôi sẽ hoàn tất, tương lai là bệnh phong sẽ bị tiêu diệt.”

Niềm hy vọng này của ông Công khiến tôi gợi nhớ đến sự tin tưởng và lạc quan (tương tự) của nhà văn Võ Hồng, từ hơn nửa thế kỷ qua, mà không khỏi thoáng chút ngậm ngùi và cay đắng! Bao giờ mà những người cộng sản còn cầm quyền ở Việt Nam thì dốt nát, đói nghèo, bệnh tật vẫn còn có thể hoành hành ở đất nước này – bất kể những thành tựu, hay tiến bộ chung của nhân loại có vượt xa đến đâu chăng nữa.

Tưởng Năng Tiến

(*) Hội Bạn Người Cùi được là một tổ chức từ thiện bất vụ lợi, phi chính trị, không đảng phái, không phân biệt tôn giáo, được thành lập năm 1995 do một nhóm anh chị em thiện chí trong cộng đoàn Tustin, tiểu bang California. Địa chỉ liên lạc:

P.O. Box 1408  & 1207, Tustin, California 92781
Email: Cong Nguyenor Soi Nguyen

Một giòng xanh xanh,

“Một giòng xanh xanh,

một giòng tràn mông mênh”,
“Một giòng nồng ý biếc, một giòng sầu mấy kiếp
Một giòng trời xao xuyến, một giòng tình thương mến
Một giòng còn quyến luyến, một giòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền.”

(Nhạc Ngoại-quốc: Johann Strauss – Blue Danube

Lời Việt: Phạm Duy Giòng sông xanh)

(Lc 2: 41-43)

Trần Ngọc Mười Hai

Thật rất đúng. “Giòng tràn mông mênh” đây, là nỗi niềm nhung nhớ “quay về miền đời, lúc mơ huyền”. Giòng nhung nhớ hôm ấy, là “giòng trời xao-xuyến”, đầy “quyến luyến”, với “tình thương mến”, quyện vào nỗi “sầu mấy kiếp” rất xanh lơ, mơ huyền, “nồng ý biếc”.

Giòng ở đây, còn là giòng nhạc trọn vẹn rất “xanh xanh” được bạn trẻ Anthony Trần đã có những lời tâm tình ở buổi “Hát Cho Nhau” hôm mồng 15 tháng 11 năm 2014 tại Sydney, bằng đôi giòng như sau:

Bài Giòng Sông Xanh, lời Việt, là do nhạc sĩ Phạm Duy đặt, mang theo nhiều kỷ niệm gắn bó với bài hát suốt nhiều năm dài. Những tháng ngày về sau, ta nghe bài này rất nhiều lần, nhưng chỉ là bài tóm gọn, do ca sĩ Thái Thanh hát trên đĩa nhựa, trong 3 phút.

Còn, bài “Giòng Sông Xanh” đầy đủ từng làm nên lịch sử nhạc Việt, chính là bài dự thi trong buổi tuyển lựa ca sĩ tổ chức tại Huế năm 1953 do Hà Thanh hát. Hôm hát dự thi, Hà Thanh được cả thành-phố Huế lắng nghe đến độ như ngừng thở khi cô hát trọn vẹn bài này, với đủ các nốt nhạc cao vút bay lên đến hơn một bát âm như được viết ở bản gốc do Johann Strauss viết…” (trích lời bình của người dẫn nhạc ở buổi Hát Cho Nhau 15/11/14)

Quả là nhận-định về ‘giòng chảy âm-nhạc’ để mọi người thưởng ngoạn. Thêm vào đó, bài hát còn có lời lẽ đầy tình-tự óng-ả của một “ánh dương lên xôn xao”, bên “ven bờ sông sâu”, như sau:

“Ánh dương lên xôn xao, hai ven bờ sông sâu.

Cười ròn tiếng người, đẹp lòng sớm mai.
Những cô em tươi môi ngồi giặt yếm yên vui.
Thả ý thắm theo người chở gió về xuôi.
Hát vang lên cho vui, cô nàng ngồi bên tôi.
Đời là khúc nhạc, đời là tiếng thơ.
Nước sông reo như ru cuồn cuộn sóng trôi xa.
Là tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta.

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Vâng. Sống ở đời, người người vẫn cứ “hát vang lên cho vui”, “đời là khúc nhạc”, “tiếng thơ”, là “tiếng hát mơ hồ mời đón lòng ta, và mọi người”. Hát thế rồi, người người lại sẽ mời nhau “lên tàu mà đi” về chốn “giang hồ, nghìn hải lý”, Dù, đời mình/đời người có “lỡ tình duyên đâu đó, nơi kinh kỳ”, như câu ca đầy ý nghĩa ở bên dưới, những hát rằng:

“Sông về sông dào dạt ý
Hát tang bồng theo tầu mà đi
Ai giang hồ sau nghìn hải lý
Lỡ tình duyên nơi đâu đó ghé qua kinh kỳ.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

‘Giòng đời’, có vàng ánh những tư-tưởng xôn xao, “tang bồng”, “dạt dào ý” lại được người nghe hát hôm ấy, chuyển thêm cho nhau một cảm-nhận tiếp diễn như sau:

“Xin đặc biệt gửi đến cô Ánh Linh lời cám ơn đã chịu khó nhận lời hát một bài thật khó mà it ai dám đảm nhận. Đó là bài Giòng Sông Xanh xanh. Càng khó hơn, khi phải hát đúng với bản gốc gồm đến 500 trường canh, dài trên 15 phút với tiết điệu “waltz” quay cuồng ở tốc độ 157 nhịp mỗi phút. Trong khi bản hiện-hành, bao gồm cả bản hát do cô Thái Thanh thu âm, chỉ dài trên 3 phút, mà thôi. Bản gốc được viết trên tông “Ré”, có những nốt la, si, do cao vút ngoài giòng kẻ, chỉ dành riêng cho các giọng “soprano” chất ngất mà thôi.

Từ khi cô Hà Thanh hát bản gốc này trong cuộc thi tuyển lựa ca sĩ do Đài phát thanh Huế tổ chức năm 1953 lúc ấy cũng đã mấy chục năm rồi bây giờ mới có cô Ánh Linh hát lại. Nhờ đó giới thiệu cho người nghe một nhạc bản nguyên thủy chưa bị cắt, với đầy đủ lời ca theo đúng ý nguyện của nhạc sĩ Phạm Duy lúc còn sinh tiền khi tiếp tay đặt lời Việt.

Theo ý chủ quan của riêng em, thì phần bị cắt mới là phần hay nhất của bài nhạc. Vì, ở mấy phần đầu, con tàu chỉ mới rời bến chưa được bao lâu thì đã cặp bờ rồi. Ở các đoạn bị cắt bỏ, con tàu nọ đã đưa chúng ta đi ngang qua những vùng có phong cảnh đẹp vô ngần, có tiếng chim hót vờn quanh, có tuyết rơi lất phất trên mặt nước, có lời tình tự của ai đó trên boong tàu, với cả tiếng tàu hú hòa cùng với tiếng sóng khua rập rờn nữa. Chúng ta đã đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, khi tác giả Johann Strauss lặp đi lặp lại các phân đoạn mà không báo trước là phân đoạn nào sẽ được lập lại như thế. Có khi vừa hết đoạn 1 nhảy sang đoạn 5, rồi mới về lại đoạn 2. Cả bài như mời gọi chúng ta hãy gia-nhập trò chơi trốn/tìm với tác giả thật thú vị.

Đến đoạn solo của đàn sĩ là phân-đoạn rất dài gồm nhiều tiểu khúc khác nhau, lặp đi lặp lại vài câu hay nhất của các phân đoạn trước, nhưng lại cũng không cho biết trước là câu nào sẽ được bầu là câu hay nhất, đắc ý nhất. Đây cũng là lúc con tàu giương buồm ra khơi, giúp cho cô Ánh Linh được dịp nghỉ lấy hơi đôi chút sau khi thả hồn mình với con tàu, và sóng nước. Để cuối cùng, chuẩn bị cho chuyến cập bến ngắn ngủi với biết bao nhiêu là luyến thương, nhớ tiếc.

‘Giòng nhạc’ cổ điển quyến rũ người thưởng thức là như vậy, trong đó bao gồm cả loại nhạc “opera” mà, có thể, chúng ta chưa quen lắm. Hy vọng, chúng ta sẽ lại có nhiều cơ hội được nghe tiếp những bài ca khác dễ mến như thế.” (trích điện thư vang vọng sau buổi hôm ấy)

Câu chuyện ‘Giòng Sông’ (rất) Xanh” áp dụng vào cuộc sống Đạo giữa đời, lại sẽ còn hơn thế nữa. Hơn thế, là bởi: đời người luôn có những “giòng kể” chợt nghe qua cứ tưởng bình thường, chẳng ý-nghĩa. Nhưng, suy cho kỹ, người đọc và người nghe sẽ thấy đôi điều rất đáng áp dụng một cách chung chung cho người mình, thế cũng được.

Nói dông nói dài, không gì bằng nói thêm bằng truyện kể, như sau:

Truyện rằng:

Hôm ấy, có cuộc đối thoại thuộc loại “bỏ túi” giữa phóng viên/nhà báo và chủ quán cháo của người Hoa như sau:

Phóng viên (PV):

– Thưa ông trước khi bán cháo ông làm gì?

Chủ tiệm (CT):

– Ngộ bưng cháo cho cha ngộ bán.

– Vậy cửa hàng này có bao nhiêu năm?

– Không có năm, chỉ có đời. Mấy đời lận. Bà cố ngộ bán cháo. Ông nội ngộ bán cháo. Cha ngộ bán cháo. Ngộ bán cháo. Con trai ngộ…

– Trời ơi! Không có gì khác ư?

– Khác chớ, ngày trước có một cửa hàng ở Quảng Châu, bây giờ có hai cái ở Sài Gòn, ba cái ở Hoa Kỳ, bốn cái ở Úc.

– Người ta thành công thì sẽ cho con cái làm Giám đốc, còn ông?

– Ngộ có thành thì vẫn cho con làm chủ cửa hàng.

– Ông không muốn chúng đi học sao?

– Muốn nhiều, con ngộ một đứa có bằng Thạc sĩ kinh doanh cháo, đứa khác vừa bảo vệ luận án Tiến sĩ cơm.

– Ở trong bếp à?

– Ở Đại học Harvard, Mỹ.

– Học xong chúng nó về đâu? Thành ông gì?

– Về nhà này, thành người rửa bát cho “papa” chúng.

– Ông gọi khách hàng là vua hay thượng đế, vậy?

– Gọi bằng gì cũng không quan trọng. Quan trọng là đối xử với nhau thế nào, thôi!

– Truyền thuyết kể rằng nhiều tỷ phú người Hoa đã đi lên từ một thùng đậu phụng rang, có đúng không?

– Không, những ngày đầu tiên làm sao có tới cả thùng, chỉ vài trăm hột thôi.

– Có tiến mà ông mặc bộ đồ vải thô thế này à?

– Dạ, người vô đây chủ yếu là người bình dân. Họ sẽ còn vô nếu thấy chủ tiệm cũng giống như họ.

– Lý do gì khiến người Hoa hay chọn kinh doanh ăn uống.

– Thưa, đơn giản vì kinh doanh đó phục vụ cái bụng con người. Nếu phục vụ cái đầu sẽ phát sinh nhiều rắc rối lắm.

– Ông bán cháo tim gan mà sao sáng ra nhà ông ăn toàn cháo trắng với củ cải muối?

– Dạ, nếu ngộ cứ ăn cao hơn khả năng của ngộ thì thế nào cũng tới lúc ngộ phải nhảy vào nồi cháo.

– Chắc là ông ít vay vốn ngân hàng?

– Nhà băng có tiền, nhưng không bao giờ có cách nấu cháo để mượn cả.

– Bây giờ tôi muốn ăn một tô, nhưng tôi chưa có tiền mai thanh toán được không, thưa ông?

– Dạ không phải là ngày mai mà 20 năm sau cũng được.

– Nhưng lúc ấy lãi suất thế nào?

– Dạ, lãi là ông luôn nghĩ tới hàng cháo này, đấy mới là lãi to.” (truyện kể do St sưu tầm)

Bần đạo đây, thấy tiếc là: phóng viên nọ đặt câu hỏi cho chủ quán câu gì đó, bảo rằng: “Bán cháo từ đời này tới đời nọ, ông có bao giờ nghĩ đến chuyện nhà thờ nhà thánh hay giữ Đạo gì không?” chắc câu trả lời cũng sẽ “ngộ-nghĩnh” lắm, chứ không chỉ mỗi “ngộ-ngộ/nị-nị” như trên.

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Có lẽ bà con mình cũng nên kể những truyện bình dân ở huyện cho dễ thở là được. Nghĩ thế nên, bần đạo nay mời bạn/mời tôi, ta đi vào vấn-đề bức bách của cuộc đời nhiều sống Đạo như sau:

“Ngôn-ngữ mà người Công-giáo lâu nay vẫn sử-dụng, đã trở-thành thứ đá tảng chẹn họng con người thời nay cũng rất nhiều. Phần lớn các từ-vựng dùng trong Đạo, trên căn-bản, vẫn bị người ở trong cũng như ngoài Đạo hiểu rất sai lạc. Đại để như: hầu hết các cụm-từ lớn tướng như: Ơn cứu-độ, Chúa Cứu Chuộc, Sự Hy sinh, động-tác cứu rỗi, đúng thời buổi, Ăn-năn sám-hối, Lòng Chúa Xót thương, Đền bù tội lỗi, Tha thứ, Tái sinh, Quang Lâm, Thiên Chúa, Đức Giêsu, Kinh Thánh và các từ-ngữ khác như: Kinh Tin Kính, Lời Cầu của Chúa, Phụng vụ Lời, vv.. đều mang lại cho người theo Đạo nhiều nghĩa méo mó, sai lệch từ Thánh Kinh và các truyền-thống trong Đạo.

Hiểu sai ý-nghĩa từ-vựng, là do hai nguồn gốc chính tạo cung-cách khác lạ khiến cho người đi Đạo cứ phải nghe đi nghe lại mãi không ngừng. Nguồn gốc trước tiên, là do việc định danh ngôn-ngữ hiểu theo tâm-trạng người thời-đại gây phương-hại cho cả người đi Đạo cũng như ngoại Đạo. Nguyên-do thứ hai, là việc chú-thích dẫn-giải ngôn-từ của đạo-giáo theo cùng một mẫu-số chung mà tôi gọi là Thiên-Chúa-giáo của người tin vào “thiên-đàng và hoả-ngục”. Và rồi, người trong cuộc lại cứ theo đó để diễn-nghĩa mọi từ-vựng khác vẫn dùng trong Đạo.

Tín-hữu sống ở nước này và cả nơi khác, nay bị chia rẽ cách trầm-trọng do hiểu sai-chệch thứ ngôn-từ chung đụng. Thực tế, nay có khoảng phân nửa hoặc hơn các người Công-giáo ở Mỹ tin rằng ngôn-từ ở Kinh thánh vẫn được hiểu theo từng chữ, nghĩa đen trong khuôn-khổ của thứ thiên-đàng/hoả ngục cốt nhấn mạnh vào cuộc sống ở đời sau; vào việc đền tội có sự tha thứ mọi lỗi phạm; vào Đức Giêsu đã chết cho tội lỗi của con người và niềm tin tưởng như thế. Số người còn lại có khi chỉ phân nửa số người nói ở trên lại cứ bối rối với đủ mọi vấn-đề như thế. Có người lại cứ tiếp tục tiến về phía trước, hiểu đạo-lý theo nghĩa khác khẳn. Sự khác-biệt thật rõ rệt, khác đến độ người ngoài cuộc lại cứ tưởng có hai ba đạo dùng chung một Sách thánh, cả đến ngôn-ngữ cũng khác biệt.

Thành thử, công việc của chúng ta là: làm sao tạo lại được thứ ngôn-ngữ của đạo mà không làm mất đi sự phong-phú và khôn khéo của nó. Quả thật, bản thân tôi cũng từng có ý-định viết nguyên một cuốn sách có đầu đề, tương tự như: Hãy ra tay cứu vớt và tái tạo ngôn-từ trong Đạo… Thế nhưng, cụm từ ‘cứu-vớt và tái-tạo là thứ từ-vựng cần cứu-vớt hơn cả. Trong khi đó, người thời nay mỗi lần nói đến chuyện cứu-vớt hoặc cứu-chuộc lại liên-tưởng đến chuyện mình được Chúa chấp-nhận cái chết khổ hình để cứu-chuộc tội-lỗi của ta. Dù sao đi nữa, thì: ý-nghĩa cổ xưa của kinh-thánh Cựu-ước có tác-dụng hơn cả.

Xem thế thì, cứu-chuộc là động-thái trả tự-do cho những người bị nô-lệ hoặc trói-buộc theo cách nào đó, từ việc bắt-giữ, trói cột, chứ không phải chuyện cứu khỏi mọi tội-lỗi, mà thôi đâu. Hiểu theo nghĩa này, có lẽ ta cần cứu-vớt ngôn-ngữ nhà Đạo trước nhất, làm sao để mình không còn bị ràng buộc vào chủ-thuyết tân-thời chuyên hiểu mọi việc theo nghĩa đen và cứu khỏi khung “thiên-đàng/hoả-ngục” của người Công giáo rất thời đại.

Thế nên, bằng các chương-đoạn không dài, hy vọng những gì viết ra ở đây sẽ chỉ cách cho độc-giả cách đọc sách sao cho có lợi, tức: không chỉ mỗi học-hỏi ý-nghĩa và cách phát-âm nhiều chữ viết, mà là làm sao biết nghe và hiểu được các ngôn-từ đặt ra. Đó, cũng là lý-do thúc-bách chúng tôi viết lên những giòng chữ bên dưới cốt để giúp mọi người biết đọ, nghe và tiêu-hoá tận bên trong mọi từ-vựng trong Đạo mà không cần có ý-niệm tiên-quyết để hiểu rõ sự việc đang diễn tiến. Nói cách khác, vấn-đề của người thời-đại là làm sao học cách đọc và nghe một lần nữa, thứ ngôn-ngữ của niềm tin hôm nay…” (xem Marcus J. Borg, Speaking Christian Why Christian Words Have Lost Their Power and How They Can Be Restored, HarperOne 1989 tr. 1-3)

Cảm-nghiệm cùng một ‘giòng chảy’ tư-tưởng theo kiểu Johann Strauss, nay mời bạn và mời tôi ta nghe thêm khúc nhạc đầy ắp những “reo vui”, để rồi sẽ “ngỡ mình vui trong ánh muôn sao Thiên Đàng”. Thiên đàng, nay là ‘giòng đời’ thân thương có người anh/người chị ở Nước Trời, mang nhiều cảm-nghiệm như tiếng hát ở bên dưới:

“Ôi, tóc em hoe như mây chiều rơi, rơi vàng lòng đời.
Ôi, mắt em xanh như đêm dài, để người quên kiếp mai.
Sông về, sông cười ròn tiếng
Yêu mối tình bên bờ thành Vienne
Đôi giang hồ quay về bờ bến
Ngỡ mình vui trong ánh sáng muôn sao Thiên Đàng.
Ngày ấy, có tiếng anh khoan hò thuyền về.
Ngày ấy, có dáng em soi dòng chiều hè.
Ngày ấy, có tiếng ta hát gọi tình về
Nước sông miên man trôi đi.
Ngày ấy, lúc đến với em một lời thề.
Ngày ấy, lúc nói với em một chuyện gì.
Ngày ấy, lúc vui cuộc sống nhịp tràn trề
Nước sông miên man trôi đi.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Cảm-nghiệm thân thương đầy “tình ý” như thế, lại cũng mời bạn/mời tôi, ta cứ để lòng mình trôi theo “giòng nước” mầu xanh, rồi sẽ bồng bềnh trôi như ‘giòng đời’ của mọi người. Trôi như thế, hẳn bạn và tôi, ta lại sẽ bắt gặp cả một ‘giòng người’ cuồn cuộn chảy theo hình-thức của một hành hương, tham quan, thưởng-lãm kinh-nghiệm đời, kể cũng lạ.

Có điều lạ, là: vừa qua, trong chuyến du-lịch thăm đất miền có tên gọi là “Tây Tạng”, bần đạo đây ra như bị cuốn hút vào những ‘giòng cuốn’ nào đó, khởi đầu là ‘giòng nước’ mầu xanh; rồi đến ‘giòng đời’ mầu hạt huyền; và nay lại là ‘giòng người’ đầy chuyện ‘hành hương’ chốn kinh thành đông người qua lại.

Có chuyện lạ, là: ‘giòng người’ hành hương, đi bộ ở Potola, tại thủ đô Lhasa xứ Tây Tạng mọi ngày, vẫn chẳng thấy ai trầm buồn, sầu đắng hoặc lắng đọng niềm ai oán nào hết. Ngược lại, người dân ở đây cứ hành hương đi bộ theo đường vòng Kora cứ đi là đi mãi không ngừng nghỉ. Họ đi, trong tâm trí tràn đầy ‘ánh dương xôn xao”, an vui, nguyện cầu rầm rì vào mọi buổi.

Hành hương hoặc hành trình có nguyện cầu, chỉ mỗi thế. Hành hương như thế, chỉ nguyện và cầu cho mọi người khác không chỉ gia đình mình được an vui, bền chí làm việc thiện với mọi người, cho mọi người.

Thế đó, là hành hương đi bộ kiểu Kora của người Tạng, xứ miền rất Tây. Còn, sự việc hành hương của người mình có giống vậy không? Tức là: phải đặt chân tới đúng tận nơi tận chốn đã xảy ra sự-kiện lịch sử, của một nhà tổ-chức các cuộc tham quan du-lịch như sau:

“…Tôi đã gặp những chuyến hành hương Đất Thánh mà người hành hương không vào được trong Mộ Chúa, không được dâng lễ dưới chân Thánh Giá trên Núi Sọ. Tôi cũng gặp những người đến Bêlem phải xếp hàng cả tiếng đồng hồ, chỉ được vào vài giây kính viếng chỗ Chúa Giáng Sinh rồi phải ra ngay. Đến Mộ Chúa mà không đủ giờ xếp hàng vào. Lý-do: Các Tour ở hotel ngoài Thành Thánh. Nếu phải lấy xe búyt đến những nơi Đền Thánh này thì riêng chuyện kẹt xe sáng, chiều cũng mất biết bao thời gian. Đấy là lý-do vào đế Đền Thánh thì các Tour khác đã xếp hàng chờ rồi…

Tôi chủ trương phải tìm cách ở trong Thành Thánh để có thể đi bộ được. Sáng sớm các Tour du lịch chưa bắt đầu thì mình đã ở trong Mộ Chúa. Khi các Tour phải về hotel vào ban chiều thì mình lại đi vào. Tất cả các chuyến đi từ trước đến nay, tôi đều đem được người hành hương vào Vườn Giệtsimany vào ban đêm để canh thức với Thánh Thể. Đây là kỷ-niệm tuyệt vời. Cảm-nghiệm này rất hiếm vì ít Tour nào thực-hiện được. Vì mục-đích của tôi là đi hành hươg để cầu nguyện ở những nơi thánh…” (x. nguyentamthuong.com, Đặc biệt của chuyến hành hương)

Nói thế, tức đức thày-chuyên-tổ-chức-hành-hương đã gặp nhiều người tổ-chức và đích-thân hành-hương ở đây đó, có gặp nhau trong yêu thương, đỡ dần để nguyện cầu cho nhau như người “Tạng” đã và đang thực hiện ‘giòng người’ đi bộ bên nhau? Bởi hành hương, theo quan-niệm của người Tạng là để nguyện cầu cho nhau hoặc chỉ cười với nhau qua câu “Khasi đêlê” (“Hello!”) vui vẻ; rồi cùng nhau tiếp tục đi nhiều vòng Kora thương yêu hơn nữa theo kim đồng hồ quanh đền đài Potola yêu dấu của họ.

Nói như thế, thì có hành hương hay hành xác hành hình người mình ít nhiều gì đi nữa vẫn chỉ như tác-giả nọ từng minh-định cuộc đời mình và đời người như sau:

“Những điều tôi viết ra ở đây, là hỏi rằng: Trọng tâm của Đạo Chúa nằm ở đâu? Sống đời đi Đạo, ngày nay có nghĩa gì? Tôi sẽ tập trung trả lời cho các câu hỏi này, bằng cách đưa ra tầm nhìn ban đầu của Hội thánh thời tiên khởi và sau đó đi đến thị-kiến chung đang dâng lên nơi người có Đạo và đi Đạo… Cả hai, đã và đang thấy hiện hữu nơi cộng-đoàn hội thánh ở mạn Bắc Hoa Kỳ ngày hôm nay đang chia cách rất đậm nét. Chúng ta đang ở vào thời đại đầy những xung-khắc và đổi thay, trong Giáo hội.

Tôi viết theo tư-cách của một người đầy mê say và xác tín. Thứ xác tín vẫn bảo rằng: Đạo Chúa ngày nay vẫn tạo ý-nghĩa rất nhiều cho cuộc đời. Cả vào thời của tôi, niềm xác tín này vẫn hiện-diện và phát-triển. Khoảng chừng hai chục năm nay, từ ngày tôi mới ở tuổi “teen” đến năm tôi hơn ba mươi tuổi, Đạo Chúa không tạo nghĩa gì nhiều lắm đối với tôi. Phần lớn vì các lý-do tinh-thần nhiều hơn,  hình thức đi Đạo tôi học được từ thời nhỏ, đã cạn dần sự say mê thuyết-phục.  Nay có lúc, tôi đã xác tín rằng: muốn trở thành người Công-giáo đích-thực, sẽ không còn nhiều rào cản về tinh-thần hoặc trí-thức nữa. Nay ta đã có cái nhìn Đạo Chúa theo cách thức đầy thuyết phục gồm tóm nhiều ý-nghĩa của cuộc sống theo nghĩa rất rộng, thứ cung-cách nhìn thực-tại và cuộc sống của ta trong tương-quan với những gì có thực. Một cung cách nhìn biết Chúa, có tương-quan mật-thiết với Chúa để rồi sẽ còn thay đổi đời mình nhiều hơn nữa. Sự hy sinh mà Đạo Chúa đòi hỏi nơi chúng ta, cuối cùng sẽ là đòi hỏi sự hy-sinh nơi người trí-thức, rất hiểu biết…” (x. Marcus J. Borg, The Heart of Chirstianity, Rediscovering a Life of Faith, HarperOne 2003, tr. xi-xv)       

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Ở đây, bạn và tôi, ta vẫn nói và vẫn kể về đời người sống Đạo giữa đời, ở đó luôn có những cuộc lữ-hành trong đời mà người thời nay hay gọi là “hành hương, hành xác hoặc hành gì thì cũng thế.

Hành hương hay lữ lành, cũng là sinh-hoạt phù-hợp với thói quen và lập-trường sống của người đi Đạo và giữ Đạo thời của Chúa, từng đề-cập đến những điều như sau:

Hằng năm,

cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem

mừng lễ Vượt Qua.

Khi Người được mười hai tuổi,

cả gia đình cùng lên đền,

như người ta thường làm trong ngày lễ.”

(Lc 2: 41-42)

Đặc biệt hơn, Tân Ước lại nói rõ về việc này, theo kiểu mô tả rất Luca như:

“Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành,

nên sau một ngày đường,

mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc.

Không thấy con đâu,

hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.”

(Lc 2: 44-45)

Nói gì thì nói. Kể gì thì kể. Nói và kể về các cuộc “lữ-hành” mà người đời nay gọi là “hành hương”, thường là tìm về Giêrusalem hoặc nơi nào đó còn giữ được tinh-thần của Tân Ước, rất thân thương. Hành hương thân thương, không là “lữ hành” về quê hương yêu dấu của Đức Giêsu mà thôi; nhưng còn là tìm về quê hương an bình của mọi người, nơi tâm hồn.

Ở “quê hương” thân thương đó, vẫn luôn có tình thân rất mến mộ mà người đời nay vẫn trân trọng. Tình thân thương mến mộ cuộc lữ hành mà bần đạo nay gặp được sau chuyến tham quan/thăm thú xứ miền xa xôi rất đất Tạng, là xứ miền chất ngất tình thân thương, mến mộ của người Tạng ở phía Tây, lâu nay chuyên chở tình-tự “hành hương Kora” thương mến rất khó quên.

Nói thế rồi, nay đề nghị bạn, đề nghị tôi, ta lại sẽ hiên ngang cất tiếng ca vang ý-lời mà nghệ sĩ họ Phạm từng trân trọng đặt lời Việt cho bản hát rất Sông Xanh, rằng:

“Một giòng xanh xanh,

một giòng tràn mông mênh,
Một giòng nồng ý biếc, một giòng sầu mấy kiếp
Một giòng trời xao xuyến, một giòng tình thương mến
Một giòng còn quyến luyến, một giòng nhớ
Quay về miền đời lúc mơ huyền.”

(Lời Việt: Phạm Duy – bđd)

Hát thế rồi, nay lại mời người đọc cứ thế mà tưởng nhớ đến những ‘giòng chảy’ xuất từ ‘giòng sông’ rất xanh, ngang qua ‘giòng đời’ cũng rất hanh thông và cuối cùng sẽ về với ‘giòng người’ hành hương/hương hành một hội ngộ, rất thân tình. Ở đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Cũng từng thân tình hành hương

nguyện sẽ mãi mãi lữ hành

qua giòng chảy thân tình,

cũng rất xanh.

Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi

“Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi”

Và giông tố, xin đừng rời em nhé
Hạnh phúc tuyệt vời giờ em hiển lộ
Sợi xích vàng khóa tim chặt với nhau
Đừng tách ra sẽ mang đến thương đau!

(Dẫn nhập từ thơ Tân Văn)

Mc 1: 29-39

Mai Tá lược dịch

Tuyết phủ khắp, con đường em về. Có phải là, nhà thơ nay muốn giữ chân người tình? Sợi xích vàng, khoá chặt tim nhau. Phải chăng đây, là trạng huống của nhà Đạo? Tâm trạng này, được diễn tả nơi trình thuật thánh Máccô. Có nối kết với sách Gióp, trong Cựu Ước.

Sách Gióp, nay có giòng chảy kể về sự mong mỏi đợi chờ: “Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: ‘Khi nào trời sáng, đây?’ Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: ‘Khi nào trời lại tối?” (Jb 7: 4). Dù viết từ hơn 2000 năm trước, tâm tình trên vẫn còn mới mẻ, đến hôm nay.

Tâm tình nói ở đây, là sự bận rộn trong cuộc sống. Cuộc sống, có những công việc cật lực. Sống, để kiếm kế sinh nhai, như lời ông Giób nói: “Một ngày đời tôi, thấm thoát hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng.” (Jb 7: 6). Thật ra, cuộc đời con người, xưa cũng như nay, đâu chỉ là như thế.

Xưa và nay, con người vẫn sống trong tâm thức chuẩn bị cho tương lai, ngày một sáng. Nhưng sao mãi ngày ấy không thấy đến. Có những người người vẫn lam lũ tạo cuộc sống, nhưng chưa vững bụng. Lam lũ, để vui hưởng kết quả lao động. Chỉ vững bụng, khi ta biết sống tháng ngày của hiện tại, rất đơn giản.

Trình thuật hôm nay, thánh Máccô đưa ra một ảnh hình, thật rất khác. Ảnh hình Đức Kitô đang làm việc, đầy ý nghĩa. Năng lượng Ngài sử dụng, là để chữa lành và tạo hạnh phúc cho mọi người. Và, khác biệt ở đây, chính là điều: Chúa đến để phục vụ. Để cho đi. Và san sẻ. Ngài không tuyệt vọng hoặc ta thán như ông Gióp:“Cuộc sống con người nơi dương thế, chẳng là thời khổ dịch sao?” (Jb 7: 1).

Cuộc sống nơi dương thế, thật ra có mệt nhọc, luỵ khổ; nhưng cứ thử sống một ngày không có sinh hoạt vây quanh/nhộn nhịp cùng xã hội, chắc cũng nản? Cứ thử sinh hoạt tách rời khỏi xã hội, khỏi chòm xóm láng giềng, rồi sẽ thấy. Sống trên đời và với đời, là biết sống san sẻ những gì mình, như Chúa từng làm. Sống làm sao, để trở nên một người sống vì mọi và mỗi người.

Sống như thế, là sống mà cho đi. Sống, đem lại giá trị và ý nghĩa của cuộc sống. Và, giả như việc ta làm không mang dáng dấp của một đóng góp vào của chung, có lẽ cũng nên thay đổi lối sống, là vừa.

Sống, như Đức Giê-su từng sống, là biết san sẻ với người khác. Biết làm mọi thứ, giống như Ngài. Ở chốn thị thành nơi ta sống, đã có đủ mọi thứ mà vào thời của Chúa, Ngài chẳng có. Cũng thế, Chúa phải là người giàu lắm mới đi đây đi đó, khắp mọi vùng. Ngài lại còn lo cho mọi người được ấm no, đầy đủ.

Nhưng, nếu sống thời hôm nay, Ngài đâu lái những Mercedes, BMW bóng láng. Và, cũng chẳng có điện thoại di động, cầm đi khắp phố phường. Nhưng Ngài là Đấng làm cho mọi người nên giàu có, phong phú. Và, Ngài lo lắng cho mọi người có đủ thực phẩm để độ thân. Có mái ấm che phủ đầu, như mọi người.

Tin Mừng hôm nay, đem đến cho ta một bài học, là: hãy sống cho ra sống. Sống, giống những người được Chúa chữa lành. Và phục vụ. Đầu trình thuật, thánh Máccô mô tả Chúa chữa lành bà mẹ vợ ông Simôn, đang cơn sốt. Khi khỏi bệnh, cụ bà không ngồi nghỉ nghơi, mà dậy “phục vụ các ngài”.

Được lành bệnh, là được tháp nhập đi vào cùng sống với cộng đoàn. Cùng san sẻ công việc dựng xây cộng đoàn, qua phục vụ. Và, bài học hôm nay muốn nói: phục vụ là tình thương yêu đang hoạt động.

Bài đọc 2, thánh Phao-lô cũng san sẻ một kinh nghiệm, để tự hào. Thánh nhân nói: “đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr (: 16)

Và, thánh nhân còn tự hào về chính mình: “tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người”(1Cr 9: 19). Và, thánh nhân cũng vang vọng Lời của Chúa, khi Ngài nói: “Ta đến không phải được phục vụ, mà là phục vụ người khác.”

Phục vụ, vì tình thương. Phục vụ, là hạnh phúc. Phục vụ, để san sẻ tình thương, lẫn hạnh phúc. Như Lm Tony de Mello từng biểu lộ, một khi đã phục vụ, ta sẽ thành công trong tác tạo những gì mình cần có. Cần, để tạo dựng nỗi niềm hạnh phúc, ở đây. Trong tay mình. Bởi lẽ, hạnh phúc và sự tràn đầy không ở bất cứ nơi nào khác, nhưng ngay tại đây. Bây giờ.

Tuy nhiên, phục vụ không có nghĩa vô chừng mực. Đức Giê-su cũng thế. Ngài không là người tham công tiếc việc, vượt nhu cầu. Để rồi, cuối cùng cuộc đời, Ngài lại phải lên núi đồi, mà hồi hưu. Không phải thế. Ngài lên chốn hoang vu, không để lẩn tránh áp lực của cuộc sống, nhưng tìm nơi vắng vẻ để tìm đến Cha, mà nguyện cầu. Tìm Cha, để tạo thêm công lực. Thêm ân huệ, rồi tiếp tục phục vụ cho tốt hơn.

Bởi lẽ, có đi xa Ngài cũng không tài nào tránh khỏi các khuôn mặt đang kiếm tìm Ngài, nhờ chữa lành. Ngài không là người phục vụ, bất đắc dĩ. Nhưng rất công tâm, tình nguyện.

Gặp môn đệ, Ngài bác bỏ đề nghị của các thánh yêu cầu trở về quê quán cũ, vẫn thành công. Ngài không tìm đến chốn thị thành nhiều người biết. Lắm người hâm mộ. Ngài không màng trở thành trung tâm thu hút mọi người. Cũng chẳng muốn đạt tiếng tăm, thành quả.

Nhưng, Ngài chỉ đến nơi nào, dân chúng thực sự có nhu cầu. Và cứ thế, Ngài đi khắp nơi chỉ để phục vụ, hết mọi người. Những ai được Ngài phục vụ, rồi cũng sẽ học được bài học ấy, mà phục vụ người khác.

Sống phục vụ, là sống có ý nghĩa. Sống phục vụ, là có giờ để nguyện cầu, suy tư, và đến gần với Chúa. Trong cuộc sống như thế, mới có giờ để san sẻ với người khác bằng lời nói và hành động. Sống như thế, mới bỏ giờ ra mà dựng xây, chữa lành và hoà giải.

Thực tế, không ai là không biết học hỏi cách sống đích thực, như thế. Sống đích thực, là sống như ông Gióp hay như Đức Giê-su? Và, câu hỏi đặt ra cho mọi ngưòi, vẫn là: ta có giống như ông Gióp không? Có giống ông ta, khi cuộc sống của mình trở nên ngán ngẫm, trì trệ, sống như cái máy…? Sống đích thực, phải là sống giống như Đức Giê-su.

Sống có ý nghĩa. Có định hướng. Sống để rồi, sẽ cảm thấy hạnh phúc tràn đầy khi gia nhập làm thành viên cộng đoàn. Quyết tập trung tạo cho cuộc sống nên tốt đẹp. Ở đây. Bây giờ.

Trong quyết tâm sống đời hạnh phúc có phục vụ, ta hân hoan cất tiếng hát mừng một hành động:

“Một đoàn trai đi khi xuân tới

Hẹn rằng gieo tình thương khắp nơi

Non nước tuy xa vời

Ta đã yêu thương đời

Đừng e nắng gió sương bạn ơi . Bạn ời!”

(Văn Phụng – Vó câu muôn dặm)

Hãy quyết tâm mà ra đi. Ra đi, để phục vụ. Và để, “gieo tình thương khắp nơi”. Bởi, một khi đã rắc gieo yêu thương và phục vụ, ta sẽ nhận ra được rằng: “Hạnh phúc tuyệt vời, giờ em hiển lộ” và “Sợi xích vàng khóa tim, chặt với nhau”. Xích vàng cho nhau yêu thương hạnh phúc. Suốt đời.

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch

PAPA GIOAN PHAOLÔ 2 VÀ NGƯỜI HÀNH KHẤT LINH MỤC

PAPA GIOAN PHAOLÔ 2 VÀ
NGƯỜI HÀNH KHẤT LINH MỤC

Trích EPHATA 639

lẽ nhiều người đã có nghe nhắc đến tên Tiến Sĩ Scott Hahn ( Ảnh chụp ). Ông là người Hoa Kỳ, sinh ngày 28.10.1957, là một học giả Kinh Thánh và Mục Sư của phái Trưởng Lão ( Presbyterian ) thuộc Giáo Hội Cải Cách ( Reform Church ), sau này đã gia nhập Công Giáo. Ông và người vợ Kimberly Hahn, là đồng tác giả cuốn sách nổi tiếng “Rome Sweet Home”. Scott Hahn có một người bạn là Linh Mục, vị Linh Mục đó đến viếng thăm Giáo Đô Roma. Và dưới đây là câu chuyện có thật vị Linh Mục ấy đã thuật lại…

“Hôm ấy, tôi sắp được gặp gỡ Papa Gioan Phaolô 2. Vào ngày hẹn, tôi có nhiều thời gian rảnh rỗi. Giống như mọi du khách, tôi quyết định đi tới một Nhà Thờ Chính Toà để kính viếng thăm và cầu nguyện. Trên những bậc thềm của Nhà Thờ thường hay có những người hành khất, cảnh này rất quen thuộc ở Roma.

Nhưng thật tình cờ và bất ngờ, tôi đã nhận ra một người có gương mặt rất quen trong số những người hành khất. Sau khi vào Đền Thánh cầu nguyện, khuôn mặt người hành khất đó cứ luẩn quẩn trong tâm trí tôi. Tôi cố nhớ lại xem mình đã gặp người hành khất đó ở đâu đó. Cuối cùng, tôi đã nhớ ra, chạy vội đến người hành khất đang ngồi ở ngoài Vương Cung Thánh Đường và hỏi: “Tôi biết anh. Hình như chúng ta đã học chung ở Chủng Viện phải không ?”

Người hành khất ấy gật đầu xác nhận. Tôi lại nói với người hành khất: “Như vậy anh là một Linh Mục !” Người hành khất trả lời: “Tôi không còn là một Linh Mục nữa. Tôi đã sa ngã và mọi sự đã kết thúc rồi. Làm ơn để cho tôi yên !”

Tôi chợt nhớ cuộc hẹn sắp tới của mình với Papa Gioan Phaolô, tôi bảo: “Tôi đi đây và tôi sẽ cầu nguyện cho anh…” Sau đó, tôi đành bỏ lại người hành khất trên bậc thềm và đi dự buổi tiếp kiến Đức Thánh Cha.

Những cuộc tiếp kiến với Papa Gioan Phaolô 2 thường thì rất long trọng nhưng ngắn ngủi. Ví dụ bạn được đặc ân gặp gỡ riêng, khi Đức Thánh Cha tiến về phía bạn, vị thư ký sẽ trao cho ngài một cỗ tràng hạt đã thánh hóa và ngài sẽ tận tay trao cho bạn. Vào lúc này, bạn có thể hôn nhẫn của Đức Thánh Cha và nói điều gì đó cách chân thành, chẳng hạn xin ngài cầu nguyện cho bạn, nói rằng bạn đang cầu nguyện cho ngài, hay cám ơn ngài về sự phục vụ cho Giáo Hội v.v…

Tuy nhiên lần này, với tôi, khi Đức Thánh Cha đến gần, tôi đã không cầm được lòng và bộc phát: “Xin Đức Thánh Cha cầu nguyện cho bạn con.” Không chỉ thế, tôi đã vắn tắt kể toàn bộ câu chuyện. Papa Gioan Phaolô có vẻ đăm chiêu và ngài hứa sẽ cầu nguyện cho người hành khất đó. Khi ra khỏi phòng, ngài thì thầm điều gì đó với một người trợ tá ở lối đi.

Chiều tối hôm đó, tôi nhận được cú điện thoại từ một nhân viên của Toà Thánh Vatican. Họ nói với tôi rằng tôi và người hành khất được mời tới để dùng bữa tối với Papa Gioan Phaolô. Phấn khởi và bồn chồn, tôi chạy vội tới Nhà Thờ nơi tôi đã gặp người bạn học của mình. Chỉ còn lại vài người ăn xin, thật là may mắn, đúng hơn, do ơn Chúa, người bạn tu học năm xưa của tôi vẫn còn đó.

Tôi tới gần bạn mình và nói: “Tôi đã gặp Đức Thánh Cha và ngài nói sẽ cầu nguyện cho anh. Nhưng còn hơn thế nữa, ngài đã mời cả hai chúng ta tới gặp gỡ riêng để ăn tối với ngài.” Người hành khất nói: “Không thể nào, nhìn kỹ tôi đi. Tôi chỉ là đổng giẻ rách. Tôi đã không tắm gội từ lâu rồi… Rồi quần áo cùa tôi… ”

Nhận ra sự nghiêm trọng của tình huống, tôi nói: “Tôi đang mướn một phòng ở khách sạn gần đây, ở đó anh có thể tắm rửa và cạo râu, và tôi có quần áo vừa vặn cho anh.” Một lần nữa, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, người hành khất đồng ý. Sau đó, chúng tôi cùng tới dùng bữa tối với Papa Gioan Phaolô…

Vào lúc bữa ăn kết thúc, trước khi ăn tráng miệng, Đức Thánh Cha đi về phía tôi nhưng tôi không hiểu ngài đang có ý gì. Cuối cùng, vị thư ký của Đức Thánh Cha phải đến nói nhỏ với tôi: “Ngài muốn chúng ta ra khỏi phòng”. Và Đức Thánh Cha đã ở lại một mình với người hành khất.

Một lúc sau, người hành khất rưng rưng nước mắt bước ra khỏi phòng. Tôi hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra vậy ?” Người ăn xin nức nở: “Đức Thánh Cha xin tôi giải tội cho ngài”.

Sau khi lấy lại bình tĩnh, người hành khất nói tiếp:

“Tôi nói với ngài: Thưa Đức Thánh Cha, hãy nhìn con đi. Con chỉ là đứa ăn xin. Con không còn là một Linh Mục. Ngài nhìn tôi và nói rằng: Con ơi, một lần là Linh Mục thì suốt đời là Linh Mục, và con nhớ, không phải chỉ có con là kẻ ăn xin. Trước mặt Chúa, ta cũng là một kẻ ăn xin, ta cầu xin Chúa tha thứ tội lỗi cho ta”. Tôi nói với ngài tôi không xứng đáng ở trong Giáo Hội, nhưng ngài bảo đảm với tôi rằng với tư cách là Giám Mục Rôma, ngài có quyền phục chức cho tôi ngay lúc đó và tại đó… Đã lâu lắm rồi tôi đã không giải tội đến độ Đức Thánh Cha đã phải giúp tôi đọc lời xá giải.

Tôi tiếp tục hỏi bạn tôi: “Nhưng anh ở trong đó khá lâu. Chắc chắn việc xưng tội của Đức Thánh Cha đâu có lâu như vậy ?” Người Linh Mục hành khất mới nói: “Không, việc xưng tội của Đức Thánh Cha không có lâu như vậy đâu, nhưng sau khi tôi đã giải tội cho ngài xong, đến phiên chính tôi đã quỳ xuống xin ngài giải tội cho tôi”.

Những lời nói cuối cùng của Papa Gioan Phaolô với người con hoang đàng này là một mệnh lệnh. Ngài đã giao cho vị Linh Mục mới được hoà giải, nhiệm vụ đầu tiên: “Con hãy đi và làm mục vụ cho những người vô gia cư và ăn xin trên bậc thềm ở chính ngôi Thánh Đường mà con đã ở đó…”

Lm. Giuse LÊ QUANG UY, biên tập lại từ một bản dịch
theo catholicmom.com/pope-john-paul-ii-and-the-beggar-priest

Luật hóa chạy chức: Ngộ nhận mơ hồ?

Luật hóa chạy chức: Ngộ nhận mơ hồ?

Nguyễn Duy Xuân

Chức nhỏ chạy nhỏ, chức to chạy to. Cái “giá trị” kiểu chạy chức chạy quyền mà PGS.TS nói ở trên được đo bằng tiền chứ không phải bằng tài năng.

Trong bối cảnh xã hội hiện nay, bỗng nhớ lại cách đây đúng một năm, trả lời phỏng vấn của báo chí về chuyện chạy chức mà bây giỡ vẫn nóng bỏng tính thời sự, ông Nguyễn Hữu Tri, PGS.TS, Viện phó phụ trách Viện Xã hội học và Khoa học quản lý, đã đề xuất ý tưởng “luật hóa” cho phép chạy chức chạy quyền công khai. (’Cần luật hóa cho phép chạy chức, chạy quyền’). Lập luận mà ông PGS.TS đưa ra trong bài trả lời phỏng vấn của mình là:

– Thứ nhất: Chạy chức chạy quyền không riêng gì ở Việt Nam mà thế giới cũng đã chạy nhiều ví như “Obama phải ‘chạy’ vào Nhà Trắng, Putin phải ‘chạy’ vào nhà đỏ”.

– Thứ hai: Chạy chức chạy quyền không có gì là xấu, đó là cơ hội để người chạy “đóng góp được nhiều hơn”. Ông thừa nhận: “Bản thân tôi cũng từng nói với nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu rằng tôi cũng muốn chạy để có chức.”

– Thứ ba: Kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có cung cầu, có cạnh tranh, có giá trị thì công tác tổ chức cán bộ lẽ nào lại không vận hành theo, điều đó cũng không có gì là xấu vì nó vẫn là quan hệ cung cầu.

– Thứ 4: Nếu thiết lập theo luật định chuyện chạy chức chạy quyền thì tiền sẽ nổi lên, Nhà nước quản lý được, không chảy vào túi của riêng ai.

– Thứ 5: Tất cả những điều trên: Chạy chức chạy quyền là đương nhiên, cần luật hóa để thu tiền cho nhà nước.

Thoạt đọc, lí lẽ mà PGS.TS đưa ra có vẻ rất thuyết phục, nhưng ngẫm nghĩ lại thì thấy có một số điều cần bàn lại:

Thứ nhất, PGS.TS ngộ nhận việc “chạy” vào Nhà trắng của tổng thống Mỹ hay Nhà đỏ của tổng thống Nga cũng giống như việc chạy chức ở ta. Nhưng chuyện “chạy” vào Nhà trắng của ông Obama như thế nào cả thế giới đều biết, khác với “chạy” chức chạy quyền ở ta.

Thứ hai, chạy chức chạy quyền ở ta là có thật nhưng xưa nay đều dấm dúi giữa một nhóm người có tiền, có quyền với nhau hòng giành ghế mưu lợi cho cá nhân. Chạy như thế mà “không có gì xấu” ư, thưa PGS.TS? Vô hình chung, ông lại khuyến khích cho việc chạy chức – một vấn nạn đang làm nhức nhối xã hội hiện nay?

Thứ ba, không phải cứ vin vào cơ chế thị trường để rồi áp đặt mọi hoạt động trong xã hội cũng phải theo cơ chế này trong đó có công tác tổ chức nhân sự. Từ khi xã hội loài người có thể chế, có nhà nước, chưa thấy chế độ nào đồng tình với việc chạy chức chạy quyền cả. Thời phong kiến tuy cũng có chuyện mua bán quan tước, nhưng quan tước do mua bán chỉ là phẩm hàm mà không được trao chức vụ, nghĩa là hữu danh vô thực. Còn bây giờ, chức vụ gắn với quyền lực và bổng lộc. Chức càng to thì quyền càng lớn, lộc càng nhiều và tất nhiên, để “đấu thầu” được phải bỏ ra cả một núi tiền. Cứ làm theo đề xuất của ông thì xã hội sẽ vận hành ra sao?

Thứ tư, PGS.TS nói luật hóa chạy chức để thu tiền cho nhà nước. Ý tưởng của PGS.TS khiến tôi bỗng nhớ đến một câu nói của ông Hoài Thanh, nhà phê bình văn học nổi tiếng khi bàn về cái xã hội bị chi phối bởi đồng tiền trong truyện Kiều: “Cả một xã hội chạy theo đồng tiền”. Chả nhẽ điều đó sẽ thành hiện thực trong nay mai nếu thực hiện theo ý tưởng của PGS.TS Tri? Lúc ấy chỉ có tiền là trên hết. Hiền tài – nguyên khí quốc gia sẽ bị triệt tiêu nếu không có tiền để “chạy”?

Trong bài trả lời phỏng vấn, PGS.TS có nói đại ý: ông đã từng nhiều lần đặt câu hỏi khi giảng bài cho các học trò rằng tại sao lại phê phán việc chạy chức chạy quyền. Thế giới “chạy” được thì Việt Nam cũng “chạy” được, chẳng có gì là xấu. Và ông cũng thừa nhận chính ông cũng từng muốn chạy để có chức, có quyền. Thưa PGS.TS! nghĩ đến đã có bao nhiêu thế hệ cán bộ quản lí ông “gieo mầm” tư tưởng chạy chức chạy quyền? Nghĩ thế, bỗng thấy rùng mình. Thiện tai! Thiện tai!

Chạy chức chạy quyền đang là vấn nạn của xã hội và là một trong những nguyên nhân sâu xa của quốc nạn tham nhũng mà Đảng và Nhà nước ta đang ra sức phòng chốnghiện nay. Chức nhỏ chạy nhỏ, chức to chạy to. Cái “giá trị” kiểu chạy chức chạy quyền mà PGS.TS nói ở trên được đo bằng tiền chứ không phải bằng tài năng. Chẳng ai dại gì bỏ tiền túi ra đấu giá chức quyền, mà lại không tính đến chuyện thu hồi cả vốn lẫn lãi trong tương lai. Nguồn thu hồi vốn và lãi ấy ở đâu chẳng nói thì ai cũng biết. Và, cái ý tưởng khác người “luật hóa cho phép chạy chức chạy quyền” như trên “rằng hay thì thật là hay” nhưng xem ra… không ổn lắm cho sự tiến bộ của xã hội.

Bàn về “Nhân Duyên” trong nạn tham nhũng

Bàn về “Nhân Duyên” trong nạn tham nhũng

(Trao đổi với tác giả Nguyễn Duy Vinh)

Nguyễn Đình Cống

Tôi vừa đọc bài “Giải trình vấn nạn tham nhũng VN qua lăng kính nhân duyên” của Nguyễn Duy Vinh đăng trên Bauxite ngày 29/1/2015. Ông đã dựa vào cách đặt liên tiếp các câu hỏi “tại sao?” và thuyết “Duyên khởi” với 4 duyên quan trọng để tìm nguồn gốc sâu xa của tham nhũng và đã chỉ ra 10 duyên (tóm tắt : 1- Lòng tham; 2 – Pháp luật lỏng lẻo; 3 – Đảng độc quyền; 4 – Người có quyền được bảo vệ; 5 – Báo chí không tự do; 6; 7; 8; 9; 10 – Tham nhũng lan rộng). Tôi tán thành cách làm đó, chỉ xin thảo luận và bổ sung vài ý.

Thông thường để giải thich một hiện tượng người ta hay tìm nguyên nhân. Có nguyên nhân gần, (trực tiếp), nguyên nhân xa (gián tiếp), nguyên nhân gốc(cơ bản). Theo “Duy thức luận” thì để có một kết quả cần có cả NHÂN và DUYÊN. Trong bài “Nguyên nhân gốc của những tệ nạn” ( đã đăng trên Bauxite VN ngày 27/1/2015) tôi đã trình bày vấn đề này và cho rằng “Nguyên nhân gốc của nhiều tệ nạn ở VN hiện nay là sự kết hợp, sự cộng hưởng giữa một số tính xấu của người Việt và những phần độc hại của Chủ nghĩa Mác Lênin”. Đó cũng là nguyên nhân gốc của nạn tham nhũng.

Xem xét 10 “duyên” do ông Vinh đưa ra tôi thấy trừ duyên 1 ( tham lam ) có tính độc lập, các duyên còn lại ( từ 2 đến 10 ) là có cùng một nguồn gốc, đó là sự độc quyền toàn trị của Đảng CS, mà sự này là do Chủ nghĩa Mác Lênin mang lại. Các duyên từ 2 đến 10 thực ra đều là những nguyên nhân gần, trực tiếp và nếu tìm thì còn phát hiện ra một số nữa, đó chưa phải là nguyên nhân gốc, cơ bản. Cái duyên 1(tham lam) không nằm trong Chủ nghĩa Mác, nó thuộc tính xấu của người Việt nói riêng và của nhân loại nói chung. Tính xấu đó, cái NHÂN đó gặp được cái DUYÊN là những phần độc hại trong Chủ nghĩa Mác thì phát triển nhanh chóng và rộng rãi. Tính xấu đó là từ trong phần yếu kém của nền văn hóa dân tộc. Những yếu tố độc hại của Chủ nghĩa Mác gặp được sự yếu kém này càng phát huy tác hại mạnh mẽ.

Sự tham nhũng cũng xẩy ra ở một số nơi khác trên thế giới vì có cái nhân tham lam, còn cái duyên thì mỗi nơi một khác. Lòng tham lam trong mỗi con người, trong mỗi dân tộc đều có nhiều hay ít, tuy vậy tham nhũng như ở Việt Nam hiện nay thì hiếm khi gặp.

Khi có nền chính trị trong sáng, nghiêm minh, dân chủ thì lòng tham bị ngăn ngừa, bị hạn chế, được giảm bớt. Nó chỉ bùng phát khi gặp DUYÊN thuận lợi.

Chủ nghĩa Mác Lênin mang một số mầm mống độc hại về đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản. Những mầm đó khi chưa có điều kiện thuận lợi, khi Đảng Cộng sản chưa giành được chính quyền, thì còn nằm im, chưa phát huy tác hại. Khi ĐCS đã có chính quyền thì những mầm mống độc hại bắt đầu nẩy nở, nhưng nếu không gặp môi trường thích hợp (dân trí thấp, người cầm quyền tham lam và đểu cáng) thì nó cũng chỉ gây tác hại vừa phải. Cũng là chịu thống trị của Chủ nghĩa Mác Lênin nhưng ở Cu ba, các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây nạn tham nhũng tuy cũng có nhưng không trầm trọng như ở Việt Nam hiện nay.

Cuối bài của mình, ông Nguyễn Duy Vinh có đề nghị thảo luận và viết là sẽ chuẩn bị đề tài cho lần tới. Có một vài ý kiến trao đổi, hy vọng sẽ được đọc tiếp những ý kiến sâu sắc của ông.

N.Đ.C.

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc

Đaminh Nguyễn Đức Thông

Một bài chia sẻ Tin Mừng rất sâu sắc của cha Đaminh Nguyễn Đức Thông trong Thánh lễ nhậm chức Tân Giám Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam của Linh mục Giuse Nguyễn Ngọc Bích

Lúc 10 giờ ngày 15.01.2015, tại Nhà nguyện tỉnh dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn, cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích đã chủ tế Thánh lễ Nhậm chức Tân Giám Tỉnh và ra mắt Hội đồng Cố vấn của ngài.
Cha Đaminh Nguyễn Đức Thông, Phó Giám tỉnh chia sẻ Lời Chúa trong thánh lễ. Ngài nhắc lại nội dung lá thư của ĐTC Phanxicô gửi trong dịp khai mạc Năm Thánh Hiến cho những người sống đời thánh hiến, trong đó có 5 điều mơ ước mong đợi:

– Nhìn vào quá khứ để tạ ơn Chúa, để biết mình là ai, để củng cố sự hiệp nhất, củng cố cảm thức được thuộc về, và nhìn lại quá khứ để tạ tội.

Sống giây phút hiện tại với niềm hăng say, sống được điều đó hãy theo Chúa Giêsu sát Chúa Giêsu, chọn Chúa Giêsu làm lý tưởng, lấy Tin mừng của Ngài làm quy luật tuyệt đối, tìm mọi cách gắn kết với Ngài và luôn luôn trăn trở tự hỏi Chúa Giêsu có còn là mối tình đầu duy nhất của tôi không.

Ấp ủ tương lai với niềm hy vọng, xây dựng trên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Ngài cũng mong đợi chúng ta năm điều:

+ Ở đâu có tu sĩ ở đó có niềm vui.
+ Hãy trở thành các tiên tri để thức tỉnh thế gian.
+ Các con là chuyên gia của sự hiệp thông, hãy biến tu viện của các con thành ngôi nhà hiệp thông, trở thành môi trường dẫn đến sự hiệp thông.
+ Đi ra khỏi vùng trung tâm đến các vùng ngoại biên.
+ Hãy tự hỏi mình, Hội Thánh và con người đang đòi hỏi gì nơi tôi.

Chắc chắn hôm nay, khi khai mạc nhiệm kỳ chúng ta cũng có nhiều mục tiêu, những mong đợi khác nhau. Cha Giám tỉnh Giuse chắc chắn cũng có những mục tiêu những định hướng cho 4 năm trong nhiệm kỳ của mình, ngài chọn bài Tin mừng hôm nay. Chắc chắn khi chọn bài Tin mừng này, chắc chắn ngài sẽ tránh những gì mà Giacôbê và Gioan chạm phải, ở trong Tin Mừng chúng ta vừa nghe sẽ không tìm kiếm mình, tìm kiếm quyền lợi dành cho mình như Gioan và Giacôbê. Trong bài Tin Mừng này Chúa Giêsu nói: “ Những thủ lãnh thế gian thì dùng quyền mà thống trị, còn giữa anh em những người làm lớn hãy làm người phục vụ, người làm đầu hãy làm đầy tớ .” Chắc chắn cha Giuse cũng mong ước điều đó.

Khi Chúa Giêsu thực hiện sứ vụ công khai Ngài cũng chịu nhiều áp lực, nhiều thách thức, áp lực từ phía lãnh đạo Do thái họ muốn kéo Ngài về phía họ để làm cuộc cách mạng lật đổ đế quốc Rôma đưa dân Israel lên làm thống trị muôn dân nước. Không phải chỉ giới lãnh đạo Do Thái mà cả các môn đệ cũng đợi chờ Ngài điều này. Nên khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại các môn đệ đã hỏi Chúa Giêsu: thưa Thầy đây có phải là lúc Thầy khôi phục nước Israel không. Chúa Giêsu sống lại các tông đồ vẫn mong ước một cuộc cách mạng theo kiểu chính trị, còn Chúa Giêsu vẫn trung thành với sứ vụ Cha ủy thác . Chính vì vậy mà Chúa Giêsu đã đưa ra những nấc thang giá trị trái với ước mơ của con người .

Người ta đi tìm sang trọng, phú quý, Chúa bảo phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó. Người ta đi tìm lạc thú, Chúa bảo phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch. Người ta hiếu chiến, thì Chúa bảo phúc cho những người hiền lành, phúc cho người tác tạo hòa bình.

Người ta đi tìm sự yên ổn, Chúa bảo phúc cho những ai chịu bách hại vì Tôi và vì Tin Mừng. Hơn nữa Chúa đưa ra một logic khác hẳn logic của người phàm. Chúa bảo ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Ai tìm kiếm mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng thì sẽ tìm lại được cho mình sự sống.
Chúng ta không thể đi một con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã mở ra. Đi con đường nào khác chúng ta tự đánh mất chính mình, đi lạc, làm hỏng sứ vụ đã được ủy thác cho tất cả chúng ta. Ta cầu xin Chúa cho tất cả anh em, đặc biệt cho cha Giám tỉnh và Ban Quản trị đi con đường Chúa Giêsu vạch ra và đi cho đến cùng, mặc dù gặp những khó khăn thử thách.
Thế nhưng, phục vụ theo cung cách thế nào? Trong bài đọc thứ nhất, trích thứ nhất của thánh Phêrô nói rằng:

“Anh em thân mến, cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai . (1 Pr 5,1)

“ Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. (1 Pr 5,2)

“ Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên . (1 Pr 5,3)

“ Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát. ” (1 Pr 5,4)

Nhưng trong Văn thư chuẩn nhận cha Bề trên Tổng quyền nói với cha Tân Giám tỉnh, với tư cách là người mục tử, người lãnh đạo, điều phối viên của mọi cộng đoàn và mọi thành viên trong tỉnh dòng, tôi xin cha hãy sẵn sàng với mọi anh em, hãy khuyến khích anh em sống đúng với ơn kêu gọi giúp đảm nhận và hoàn thành ơn kêu gọi. Ngài mong đợi nơi cha Giám Tỉnh là khích lệ anh em giúp anh em chu toàn ơn gọi và sứ mạng. Ơn gọi này được nói rõ trong Hiến pháp 23: tu sĩ DCCT được mời gọi tiếp nối sự hiện diện của Chúa Giêsu trên trần gian, chọn Đức Kitô là trung tâm bản vị của đời mình. Hay như ĐTC Phanxicô nói với chúng ta: “ Ta hãy chọn Đức Kitô làm lý tưởng, lấy Tin Mừng của Ngài làm giá trị tuyệt đối, gắn bó mật thiết với Ngài và tự hỏi Đức Kitô có còn là mối tình đầu của ta không, duy nhất của ta không.” Còn Thánh bộ Tu sĩ trong năm nay cũng nói với chúng ta phải mang lấy, phải biến các giá trị và những logic có vẻ gây kinh ngạc của Chúa Giêsu thành của mình, nghĩa là mang lấy những gì Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong Bài giảng trên núi nghĩa là mang lấy nỗi lòng của Chúa Giêsu tâm sự của Chúa Giêsu để sống cuộc đời, sống ơn gọi của mình. Chắc chắn đây không phải là chuyện dễ đối với anh em, đối với Ban Quản Trị Tỉnh.

Vì vậy mà Thánh Phê-rô trong bài đọc chúng ta vừa nghe nói với chúng ta: “ Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để người cất nhắc anh em khi đến thời người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự .”

Vì vậy hôm nay khai mạc nhiệm kỳ mới, cha Giám tỉnh đã chọn “phục vụ” và phục vụ không phải vì miễn cưỡng vì lợi lộc thấp hèn, nhưng phục vụ vì lời kêu gọi Chúa và phục vụ là giúp cho anh em chúng ta từng người một sống ơn gọi trở thành những người tiếp nối sự hiện diện của Thiên Chúa giữa trần gian. Muốn như thế ta phải có đời sống cầu nguyện, phải khiêm tốn với nhau, khiêm tốn dưới bàn tay của Thiên Chúa. Cần tỉnh thức và tiết độ vì ma quỷ tìm cách làm cho ta xa lìa nhiệm vụ và sứ mạng mà Chúa ủy thác. Xin Chúa ở với chúng ta ban Thánh Thần cho chúng ta, để chúng ta có đủ can đảm mang lấy giá trị của Chúa Giêsu, mang lấy logic đáng kinh ngạc của Ngài hầu chúng ta xứng đáng là những tiên tri cảnh tỉnh, thức tỉnh thế gian hôm nay.
Amen

Đaminh Nguyễn Đức Thông

MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI

MA QUỶ THỜI ĐẠI MỚI

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Từ ngàn xưa, ma quỷ luôn luôn là một mối bất hạnh cho con người.  Ma quỷ luôn tìm cách làm hại con người không những bằng xúi giục con người làm điều tội lỗi mà còn hành hạ, khống chế, trói buộc, bắt con người làm nô lệ cho chúng.  Trong cuộc chiến với ma quỷ, con người không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc.  Ngay trong trận chiến đầu tiên, hai ông bà nguyên tổ đã thua mưu chước ma quỷ.  Từ đó, con người chẳng thể nào tự mình thoát được nanh vuốt ma quỷ giam hãm.

Đức Giêsu đến mở đầu một kỷ nguyên mới: Nước Thiên Chúa đến chiến thắng nước ma quỷ.  Ngay khi Đức Giêsu xuất hiện, ma quỷ mở lại bài cũ cám dỗ Đức Giêsu đi vào con đường kiêu ngạo, phô trương, cậy sức mình, ham hố danh, lợi, thú.  Nhưng ngay trong lần đầu tiên giáp chiến, ma quỷ thất bại nặng nề.  Đức Giêsu đã toàn thắng vì Người cương quyết đi theo con đường vâng phục thánh ý Chúa Cha, sống khiêm tốn, đơn sơ, khiêm nhường, phó thác.  Từ đó, Đức Giêsu đi đến đâu là khuất phục ma quỷ, giải thoát con người đến đấy.

Đọc trong Tin Mừng, ta thấy Đức Giêsu giải thoát con người ở các khía cạnh sau đây.

Người trực tiếp giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của satan. Hôm nay, Người xua đuổi thần ô uế công khai trước mặt mọi người trong hội đường.  Lần khác, Người xua đuổi cả một đạo quân quỷ dữ.  Chúng đã xin nhập vào đàn heo đang ăn bên bờ biển, và cả đàn heo lăn xuống biển chết hết.

Người gián tiếp giải thoát con người khỏi ách thống trị của satan qua việc chữa bệnh. Theo quan niệm của người Do Thái, bệnh tật là dấu chỉ của tội lỗi.  Vì thế, người bệnh là người sống dưới ách satan.  Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều người bệnh.  Nhiều lần Người nói với người bệnh: “Tội con đã được tha”.

Người tha thiết với việc cứu con người khỏi ách nô lệ tội lỗi, nên Người thường lui tới với những người thu thuế.  Người không chỉ nói lời tha thứ bên ngoài, nhưng thực sự hoán cải họ từ bên trong. Nhất là Người giải thoát họ khỏi những mặc cảm và giúp họ tái hội nhập vào đời sống cộng đoàn.

Qua những việc làm của Đức Giêsu, ta thấy Người không chỉ giải thoát con người khỏi bàn tay hung ác của ma quỷ mà còn quan tâm cứu chữa con người khỏi những thế lực đen tối của chúng.

Cuộc chiến giữa con cái Thiên Chúa và ma quỷ vẫn tiếp tục, nên Đức Giêsu khi sai các Tông đồ đi rao giảng, vẫn luôn kèm theo mệnh lệnh xua đuổi ma quỷ.  Hôm nay, Người sai chúng ta tiếp bước các Tông đồ, đi chiến đấu chống lại ma quỷ.  Ma quỷ không hiện hình cho ta thấy, nhưng chúng ẩn nấp trong các sự dữ, sự ác còn tồn tại trên thế giới.

Có thứ quỷ nghèo đang trói buộc con người, không cho họ sống một cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm con người.  Có thứ quỷ đói đang giết chết nhân loại dần mòn.  Có thứ quỷ dốt giam cầm những người thất học trong tù ngục tối tăm.  Có thứ quỷ bệnh không ngừng hành hạ và đẩy con người vào hố sâu tuyệt vọng.

Ngày nay, ma quỷ rất tinh khôn nên thường xuất hiện dưới những hình dáng bên ngoài xinh đẹp, hấp dẫn.  Chúng xuất hiện dưới những đồng tiền bất chính và hứa hẹn cho ta một cuộc sống thoải mái. Chúng xuất hiện dưới chiêu bài tự do hưởng thụ để xúi giục ta lao mình vào những nơi ăn chơi độc hại. Chúng kích thích sự tò mò của thanh niên muốn thử sức với ma túy.

Với bàn tay nham hiểm, ma quỷ âm thầm len lỏi vào tận đáy tâm hồn, khơi lên những làn sóng chia rẽ, ganh ghét, thù hận, bất hòa.  Chúng kích thích lòng tham lam vô đáy, đưa ta đến chỗ trộm cắp, kiện cáo và tranh giành.  Chúng khơi dậy thói kiêu căng, lòng tự ái để ta ham hố vinh danh và quyền lực. Chúng vuốt ve thói ích kỷ để xui giục ta chỉ nghĩ đến bản thân mình, làm ngơ trước những nhu cầu của người khác.  Chúng lừa gạt ta để ta coi thường tội lỗi, mất ý thức về tội.

Hôm nay, Chúa muốn ta tiếp tục công việc của Chúa, xua trừ ma quỷ ra khỏi đời sống chúng ta. Hãy cùng nhau xua đuổi quỷ đói, quỷ nghèo ra khỏi thế giới.  Hãy góp phần tích cực diệt trừ quỷ dốt, quỷ bệnh ra khỏi xã hội con người.

Hãy tỉnh táo nhận ra ma quỷ dưới những khuôn mặt đẹp đẽ của vật chất, tiền bạc, hưởng thụ, cám dỗ.

Nhất là, hãy trục xuất khỏi tâm hồn ta những con quỷ gây chia rẽ, bất hòa, tham lam, kiêu căng, tự mãn, gian trá, giả hình, hám danh, ích kỷ, dửng dưng.

Tự sức riêng, ta khó mà chiến thắng được ma quỷ.  Muốn chiến thắng ma quỷ, ta phải nhờ ơn Chúa giúp.  Ta múc lấy sức mạnh nơi Chúa bằng ăn chay và cầu nguyện.  Ta rèn luyện tinh thần bằng khiêm nhường từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin thương xót con, xin cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Điều nhắc nhở từ Kinh Lạy Cha

Điều nhắc nhở từ Kinh Lạy Cha

Chuacuuthe.com

VRNs (28.01.2015) – Sài Gòn – Trong cuốn “A Story of God and All of Us” (Câu Chuyện của Thiên Chúa và Tất Cả Chúng Ta), các tác giả Roma Downey và Mark Burnett phản ánh về cuốn sách vĩ đại nhất mà thế giới đã biết: Kinh Thánh. Trong đó, Kinh Lạy Cha được chọn là khuôn mẫu hoàn hảo đối với đời sống cầu nguyện của các Kitô hữu.

Đây là 7 điều nhắc nhở mà Chúa Giêsu dạy chúng ta qua một bài giảng hùng hồn nhất trong Kinh Thánh.

150127002

Lạy Cha (của) chúng con ở trên trời

Ngài là Thiên Chúa toàn năng, là Cha của chúng ta. Ngài yêu thương, đề cao và động viên các con cái của Ngài.

Chúng con nguyện Danh Cha cả sáng

Ngài toàn năng và quyền phép. Danh Ngài vô song, và Ngài xứng đáng được chúc tụng.

Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời

Hãy hướng về Thiên Chúa hằng ngày, mọi nơi và mọi lúc. Hãy để Ngài biến đổi thế giới qua Vương Quốc và sự công chính của Ngài.

Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày

Hãy xác nhận rằng Thiên Chúa sẽ thỏa mãn mọi nhu cầu của chúng ta, dù lớn hay nhỏ, Ngài rất vui mừng cung cấp cho con cái của Ngài.

Và tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con

Hãy mau mắn tha thứ cho người khác, bởi vì chính Cha trên trời luôn mau mắn tha thứ tội lỗi cho chúng ta, ngay khi chúng ta thành tâm sám hối.

Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ

Thiên Chúa là Đấng bảo vệ chúng ta, Ngài phù hộ chúng ta mỗi khi chúng ta gặp cơn cám dỗ.

Thiên Chúa vinh thắng

Chắc chắn Thiên Chúa chiến thắng, Vương Quốc Ngài sẽ đến với chúng ta, quyền năng và vinh quang Thiên Chúa vĩnh tồn. Cuối cùng, Thiên Chúa sẽ thống trị và Vương Quốc Ngài bền vững thiên thu vạn đại.

TRẦM THIÊN THU

(Viết theo Beliefnet.com)

Chơi để quên đi nghèo khó

Chơi để quên đi nghèo khó

GS Nguyễn Văn Tuấn

28-01-2015

 Ông Phan Đăng Long - Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội. Nguồn: báo Soha

Ông Phan Đăng Long – Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội. Nguồn: báo Soha

Thỉnh thoảng các quan chức tuyên giáo cũng có vài câu nói đáng chú ý. Ví dụ như trả lời câu hỏi về bắn pháo bông có lãng phí quá chăng, một vị quan chức tuyên giáo Hà Nội nói rằng bắn pháo bông là một cách phục vụ cho toàn dân chứ không phải chỉ cho người giàu có. Còn đối với người nghèo, vị này nói thêm rằng bắn pháo bông “giúp [người nghèo] quên đi cái nghèo, cái khó“. Bắn pháo bông nói cho cùng là một trò chơi. Câu nói của vị quan chức đó có thể hiểu rằng trò chơi giúp cho người nghèo khó quên đi thực tại của mình. Suy nghĩ của ông làm nhiều người ngạc nhiên.

Không ai có thể phủ nhận rằng ở VN mình có rất nhiều người nghèo. Nếu chỉ quanh quẩn ở Quận I Sài Gòn thì chắc ai cũng thấy VN bây giờ giàu có quá. Nhưng đó là ấn tượng “phồn hoa giả tạo” – mượn chữ của giới tuyên giáo ngày xưa. Thật vậy, chỉ cần 5 phút ra ngoài khu đó thì sẽ thấy một bức tranh hoàn toàn khác, rất Việt Nam và rất thật. Người dân bươn chãi để kiếm sống qua ngày. Trong khi có đại gia bỏ ra vài tỉ đồng để mua cái túi xách tay, thì 50% người dân phải sống với thu nhập 40,000 đồng/ngày. Đi về vùng quê sẽ thấy buồn hơn nữa. Những căn chòi xiêu vẹo, những đứa trẻ còi cọc, đen đúa, ở truồng, ánh mắt lơ láo trông thật thắt lòng. Chả thế mà có nhạc sĩ từng thốt lên câu “Bao năm giải phóng như thế này phải không anh”.

Câu hỏi đặt ra là những người nghèo khó đó có quên đi thực tại nếu họ xem bắn pháo bông? Nếu họ ở gần cầu Nhật Tân thì may ra (chỉ “may ra” thôi) họ có thể thấy pháo bông. Nhưng nếu họ ở xa cầu Nhật Tân thì làm sao họ có thể thấy mà quên đi cái nghèo của mình? Nhưng hãy giả định rằng 50% những người nghèo ở Hà Nội nhìn thấy pháo bông, và giả định một cách xa xỉ rằng những màu mè của pháo làm cho họ quên đi nỗi buồn nghèo khổ, thì sau đó là gì? Sau niềm vui khi được thấy pháo bông là gì? Dĩ nhiên, sau vài phút hân hoan, họ sẽ quay về với thực tế của cuộc sống: phải bươn chãi kiếm tiền nuôi con và nuôi chính bản thân họ. Pháo bông không làm cho họ giàu hơn đồng nào. Như vậy, bắn pháo bông đâu có giúp gì cho họ về lâu dài; nó chỉ là trò chơi đắt tiền của người có quyền có chức muốn chứng tỏ rằng Hà Nội là thủ đô, là niềm tự hào của cả nước. Xem ra, cách thức thể hiện đó tốn tiền quá. Ai tự hào thì tôi không biết, chứ chắc chắn một điều là 99.9% dân số VN không có dịp xem pháo bông Nhật Tân.

Cái câu nói “ru ngủ” người nghèo của vị quan tuyên giáo làm tôi nhớ đến chuyện xưa. Xưa kia, giới tuyên truyền thường hay lớn tiếng nói chuyện cao đạo rằng bọn Mĩ Ngụy chúng ra sức ru ngủ thanh niên miền Nam bằng cách tạo ra một nền văn hoá ham vui và lai căng. Họ nói rằng mấy phim ảnh và sách báo tràn lan ở miền Nam là chỉ nhằm ru ngủ và dẫn thanh niên đi tìm một lối thoát, lẩn trốn trước thời cuộc.

Xem ra những gì họ lớn tiếng phê phán miền Nam trước kia được lặp lại y chang và với cường độ cao hơn ngày nay. Ngày nay, bật tivi lên chúng ta chỉ thấy toàn là những phim tình cảm sướt mướt của Hàn Quốc, thậm chí của Tàu. Vào nhà sách thì thấy rất nhiều sách tử vi, bói toán, phong thuỷ, sách dịch từ mấy cuốn tiểu thuyết ba xu ở nước ngoài. Sách nghiêm chỉnh của các tác giả VN thì rất khó tìm. Hệ quả là thanh thiếu niên ngày nay chạy theo những cái bóng, cái mốt của Hàn và Tàu. Một Võ Tắc Thiên tàn ác và ghê rợn trở thành thần tượng của thanh niên VN, đến nỗi họ bắt chước cách ăn mặc và nói năng của mụ Võ. Thật khó tin vào mắt mình khi thấy cảnh tượng thiếu niên đứng chờ các ngôi sao nhạc của Hàn Quốc, và khóc như mưa khi được thần tượng họ … cầm tay! Tôi đoán những thanh thiếu niên này chẳng biết đất nước mình đang bị đe doạ bởi cái nước đã sản sinh ra cái mụ mà họ thần tượng. Họ cũng chẳng ý thức rằng VN bây giờ là một trong những nước nghèo trên thế giới và nợ nần chồng chất, và chỉ làm gia công cho người ta làm giàu.

Ai chịu trách nhiệm về sự sao lãng đó, nếu không là những du nhập các giá trị văn hoá lai căng từ ngoài? Đáng lí ra những người có trách nhiệm phải tìm cách để vực dậy tiềm năng của dân tộc, để gieo niềm tự hào văn hoá và lịch sử dân tộc, thì người ta lại đi tìm những biện pháp màu mè và xa hoa để xoa dịu, để làm quên đi thực tại nghèo khó trong vài phút. Phải công nhận rằng đó là một “biện pháp” vừa đắt tiền lại vừa tối dạ.

Nguồn: FB Que Diêm

Chết vì cô đơn – bi kịch của cuộc sống hiện đại

Chết vì cô đơn – bi kịch của cuộc sống hiện đại

Trong những nghiên cứu mới nhất, cô đơn đang là tác nhân gây ra nhiều cái chết ở loài người. Cô đơn khiến tuổi già của nhiều người trở thành bi kịch.
Cụ già chết 6 tháng trong nhà không ai biết
Hồi ký của cụ bà 89 tuổi chết lạnh lẽo trên sàn bếp và chỉ được phát hiện sau 6 tháng trong tình trạng thối rữa đã bộc lộ cái nhìn sâu sắc về nỗi cô đơn mà người già phải gánh chịu. Cụ già kém may mắn này sống tại Sydney, Úc, đã viết hàng ngàn trang nhật ký bày tỏ nỗi cô đơn khi sống một mình trong bốn bức tường.
Cuốn nhật ký của bà chia sẻ: “Trở về nhà từ cửa hàng trong tình trạng nặng nề, cả thân thể chỉ dựa trên cây gậy của mình, tôi tự hỏi liệu tuổi già là phước lành hay một lời nguyền? Cuối cùng, cái chết sẽ là một phước lành nhưng không ai nhìn nhận điều này”.
Bà từng theo học ngành y, lấy chồng người Ai Cập, làm công việc dịch thuật tại Morocco trước khi cùng chồng di cư đến Úc vào năm 1957. Hai người không có con. Vào năm 2001, người chồng qua đời, chấm dứt những ngày hạnh phúc và mở ra giai đoạn cô đơn cùng cực trong cuộc đời bà.
“Bắt gặp một nụ cười và lời chúc một ngày tốt lành, hay một bàn tay giúp đỡ là điều hiếm hoi và nó đặc biệt như được nhìn thấy một con cá voi trắng”- cụ bà ghi trong quyển nhật ký.
Cô đơn đang là căn bệnh nguy hiểm đối với loài người. Bằng cách này hay cách khác, nó đang hủy hoại sức khỏe con người. Với trường hợp của cụ bà vừa kể trên, sự cô đơn như những đòn tra tấn. Còn với nhiều người khác, cô đơn đang tác động trực tiếp đến sức khỏe của họ.
Chết vì cô đơn gấp đôi béo phì
Giáo sư Robert Putnam tại Đại học Harvard nói rằng:”Phần quan trọng nhất của hạnh phúc là cảm giác con người được liên kết với thế giới xung quanh”. Theo nhận xét này, hiểu theo chiều ngược lại, cô đơn là đỉnh cao của bất hạnh.
Điều đáng báo động là một khi “mắc bệnh cô đơn”, “con bệnh” sẽ rơi vào vòng luẩn quẩn. Người cô đơn sẽ mất tự tin nên sợ các hoạt động xã hội và do đó lại tự càng cô lập mình hơn.
Ngày càng nhiều người đối mặt với sự cô đơn và sống trong tình trạng cô lập khi về già, một nghiên cứu dành cho người lớn tuổi của Trung tâm Quốc tế tuổi già (ILC-UK) cho biết.
Theo kết quả phân tích dữ liệu, vào năm 2030 tại Anh sẽ có khoảng 65% cụ ông sống một mình. Điều đáng lưu ý là xu hướng phụ nữ chết sớm hơn đàn ông đang tăng cao và đây được gọi là “cuộc khủng hoảng thay đổi cơ cấu tuổi tác giữa nam và nữ”.
Một nghiên cứu của Independent Age chỉ ra, sự cô đơn ngày càng đe doạ nước Anh, làm thiêu rụi cuộc sống của 700.000 đàn ông và 1,1 triệu phụ nữ trên 50 tuổi. Và con số này đang tăng lên đáng kể với tốc độ kinh ngạc.
Sự cô lập xã hội hình thành những tiềm năng gây ra cái chết sớm ở con người như thể chúng ta đang hút 15 điếu thuốc mỗi ngày. Các nghiên cứu khác cho thấy, chết vì cô đơn nhiều gấp đôi số người chết vì béo phì.
Theo những nghiên cứu mới nhất, cô đơn không chỉ là cảm xúc mà nó được xếp vào như một nhu cầu sinh lý bởi cảm giác cô đơn và cảm giác đói được chi phối bởi cùng một bộ phận não.
Nghiên cứu của giáo sư John Cacioppo thuộc Đại học Chicago (Mỹ) với đề tài Những thay đổi sinh học khi cô đơn, cho thấy những người cô đơn có thành mạch máu giòn hơn, dẫn đến cao huyết áp; cơ thể dễ viêm nhiễm cũng như trí nhớ giảm sút.

“Toa thuốc” chống cô đơn
Các chuyên gia cũng đưa ra lời khuyên rằng người cô đơn hãy bắt đầu “chữa trị” bằng việc “tút” bản thân mình như đi massage, chăm sóc tóc… Đồng thời hãy luôn thư giãn, dọn dẹp nhà cửa thật sạch sẽ, ngăn nắp để biến nơi ở thành nơi bạn cảm thấy an toàn.
Emily White, tác giả sách Cô đơn: học cách sống cô độc, khuyên: “Hãy tìm và theo đuổi những việc làm ý nghĩa. Tự nguyện làm những việc khiến bạn thích thú. Nếu bạn thật sự quan tâm đến những gì mình đang làm, bạn sẽ kết nối được với những người mình đang tiếp xúc hằng ngày”.
Phương pháp chữa trị cũng có thể đơn giản hơn nhiều như tìm đến những người cô đơn hơn bạn, tham gia các hội chia sẻ cùng sở thích hoặc chỉ đơn thuần năng ra tiệm café hơn. Điều quan trọng là hãy bước ra khỏi nhà và cố gắng có các giao tiếp với người khác.
Trong thời đại thông tin, người già cô đơn còn được khuyến khích hãy lên mạng vì ở đó bạn có thể tìm thấy những mối quan hệ đã thất lạc từ lâu hoặc xây dựng những mối quan hệ mới.

VỀ GIÀ Ở VỚI AI?

Ngày xưa phụ nữ không ra ngoài xã hội làm việc, lấy chồng ở nhà nuôi con và nội trợ, dĩ nhiên có thể trông coi và phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ngày nay phụ nữ cũng ra ngoài làm việc như đàn ông nên cả hai vợ chồng đều phải lo nuôi con , tổ chức sinh hoạt nhà cửa chia xẻ với nhau một cách bình đẳng( không biết ở VN thì sao chứ ở nước ngoài chồng vợ đều có những bổn phận như nhau đàn ông cũng phụ trách nuôi con, đi chợ, làm bếp hay quét dọn nhà cửa như đàn bà không có ai cười ai vì ở xã hội văn minh điều đó là công bằng ) , đàn bà cũng xốc vác và làm đủ mọi việc như một người đàn ông chứ không lệ thuộc vào chồng như ngày xưa.
Như thế đời sống xã hội đâu còn giống như trước đây vài chục năm nữa mà đi so sánh? Các cụ lớn tuổi ở nhà một mình đâu có ai trông? cũng không có hàng xóm ở gần nhà như ở VN vì ở nước ngoài nhà nào cũng quanh năm đóng kín cửa chẳng mấy khi gặp mặt nhau, hàng xóm có người chết còn không hay nữa kià như vậy mấy cụ đâu có ai trông chừng trong trường hợp ngã té nếu không hay kịp thì nguy hiễm tánh mạng.
Do tình trạng đó nhà dưỡng lão được thiết lập để gia đình an tâm gửi các cụ vào trong đó có người chuyên môn chăm sóc đêm lẫn ngày, có những tổ chức sinh hoạt cho các cụ vui chơi với nhau rất tốt đẹp. Mỗi ngày có người đem thuốc đến cho các cụ uống đúng giờ, tắm rửa có phương pháp không làm cho các cụ đau đớn và nhanh lẹ. Đời sống nơi viện dưỡng lão bên nây không giống như người trong nước tưởng tượng ra đâu. Mỗi phòng có một hoặc hai người, có điện thoại, TV , DVD , tủ lạnh, phòng tắm và WC riêng rất tiện nghi. Tới giờ có người mang phần ăn đến nếu mình không muốn xuống phòng ăn chung với mọi người .

Tôi còn nhớ, những năm sau đây, nhóm bạn già chúng tôi đã có lập trường vững chắc, đã viết ra một bản nội qui cho hội, và tất cả đều nhất trí – kiểu Việt Cộng – 100% là khi các con cái ra riêng, thì hai vợ chồng già ở mí nhau là hạnh phúc nhất đời. Đó là một sự tự do tìm lại được sau những ngày tháng miên man lo làm bổn phận mà quên mất hạnh phúc riêng tư. Cứ cho như lúc này là một cuộc hôn nhân mới, một tự do son rỗi mới, một tuần trăng mật triền miên. Cần phải biết tận hưởng bằng cách cùng nhau tổ chức những tuần trăng mật thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ vân vân và vân vân cho tới khi nào sụm bà chè không đi được nữa thì sẽ tính.

— Đúng vậy , khi con cái đã thành nhân , đó là thời gian vợ chồng già thảnh thơi hạnh phúc nhất , hạnh phúc còn hơn lúc son trẻ nữa vì không sợ sanh đẻ ngoài kế hoạch , không còn bận rộn lo cơm áo , nuôi dạy con cái , không còn mắc nợ ngân hàng , không phải dậy sớm đi làm , ngày nào cũng là ngày lễ , sung sướng nhất lúc nầy khi sức khỏe còn đầy đủ mình chỉ cần luyện tập về mặt đạo đức nữa để đời sống tinh thần được an lạc là hạnh phúc nhất rồi.

Khi nào một anh bỏ cuộc chơi, lên đường vinh quang thì anh kia sẽ tùy trường hợp, tùy hoàn cảnh mà lo liệu lấy thân. Nhưng tất cả đều đồng thanh, không nên ở với con, cho dù là con trai hay con gái, cho dù là con mình sinh ra toàn là những gương mẫu nhị thập tứ hiếu không à. Cũng không nên ở chung, mất tự do của mình mà lại ảnh hưởng tới hạnh phúc của con. Đấy là chưa kể, trường hợp mình vô phúc, chẳng may, vụng về, khê nát, đẻ ra toàn là hột vịt ung, hột gà thối, thì đừng bao giờ nghĩ chuyện ở chung cho nó thêm phiền não.

— Làm cha mẹ trước hết nên thông cảm với các con mình đừng bao giờ đòi hỏi chúng quá khả năng mà chúng có thể làm được. Những gì cha mẹ làm cho con khi con nhỏ dại còn sống chung với mình thì hãy tạo điều kiện cho con mình làm tốt công việc đó cho con cái của chúng , đừng buồn vì chúng không làm được những điều chúng ta đã làm cho chúng lúc nhỏ. Đó là định luật của tạo hóa . Ví dụ như lúc mình đi làm việc thì chỉ có luật cho phép cha mẹ nghỉ làm khi con cái bị bệnh chứ đâu có luật nào cho mình nghỉ ở nhà để nuôi cha mẹ bệnh đâu. Nếu đầu óc mình biết thông cảm thì sẽ thấy không đứa con nào bất hiếu cả và như vậy mình sẽ không có chút phiền não trong lòng mà con cái của mình cũng thấy vui vẻ không áy náy vì sự phiền hà hờn trách của mình.

Trong đầu óc chúng tôi – những hội viên của hội lão này – cụ nào cũng có một vài ba cái kinh nghiệm của bà con, của bạn bè về những vụ ở chung với con cái. Chuyện nào cũng chẳng có happy ending gì hết, mà đều là bẽ bàng, dại dột. Bố hay mẹ góa, nghe lời ngon ngọt của con – trai hay gái – bán nhà, đem tiền về gửi con, rồi ở với con với cháu cho chúng nó có thì giờ trả hiếu. Nhưng chỉ chừng vài ba tháng trăng mật, khi chúng rút hết tiền trong két nhỏ cũng như công lớn, chúng bèn nhắc nhở, khách ở trong nhà giống y hệt như cá như tôm, chỉ đến ngày thứ ba là ươn, là thối sình lên rồi.

— Dĩ nhiên chuyện gì thì cũng có thể xảy ra , những đứa con vô lương tâm như thế chắc không có nhiều trên đời thì đừng đem chuyện đó ra mà phô trương hoài tội nghiệp các đứa con khác. Bây giờ đa số con cái của chúng ta giàu có hơn cha mẹ vì phần đông cha mẹ già là thành phần người VN tị nạn ra khỏi nước với hai bàn tay trắng gầy dựng sự nghiệp nuôi con từ số 0. Theo cách giáo dục tự lập bên nầy con cái phần đông không đứa nào cần đến tiền bạc của cha mẹ ngoại trừ những đứa con cờ bạc , hút sách , lêu lỏng , thất học….

Thế là ông bà già tức tưởi, khăn gói quả mướp ra đi với hai bàn tay trắng theo đúng nghĩa đen cũng như nghĩa trắng. Hỏi đến tiền chúng cứ tảng lờ như không hiểu bố mẹ nói gì. Cụ nào cũng tắc lưỡi nói, vẫn biết đây là chuyện hàng xóm, con mình chả đến nỗi thế, nhưng nó ở nhà mình thì mình là chủ những nó vẫn coi là nhà của nó, nhưng mình ở nhà nó là không được, vì nhà nó là nhà nó, không phải là nhà mình, nó là chủ mà mình là người ở nhờ.

— Đúng là nhà của cha mẹ là nhà của con cái nhưng nhà của con cái không phải là nhà của cha mẹ.

Có cụ thành thật chia sẻ. Ở nhà nó thì khi mình còn sức khỏe, làm vú em, làm chị sen, chị bếp cho chúng được thì vui, nhưng mà trông cháu coi vậy mà không phải vậy, mệt cầm canh. Nhất là khi mỗi đứa một loại tuổi, đứa thì bú sữa, thay tã, đứa thì thoáng một cái là chạy mất tiêu mất hút, chẳng biết đâu mà tìm, đứa đi đá banh, đứa đi học võ. Ông hàng ngày đưa đi, đón về, lái xe còn nhiều hơn cả tài xế taxi. Cụ nào như cụ ấy, ai cũng nghĩ không nên và không thể ở được với con.

— Tôi chỉ mong có nhiều sức khỏe để giúp con cháu của mình như vậy thấy mình còn có ích góp phần gián tiếp giúp xã hội tiến bộ. Tôi làm tự nguyện do tình thương không nghĩ đó là sự lợi dụng của con cái. Chúng nó đều là ruột thịt máu mủ của mình sao lại có thể cho là lợi dụng chứ?! Tôi vui với việc tôi làm và hạnh phúc với việc làm đó chứ không phải là hy sinh gì hết !

Thế mà lâu lâu vẫn có cụ bị mắc lỡm, bị vào tròng. Đã bảo là miệng thì khôn, nhưng đôi khi hành động lại không khôn. Cho nên, lâu lâu vẫn có cụ bị con lừa, ngậm một mối căm hờn trong nhà dưỡng lão. Và đề tài câu chuyện của các cụ trong nhà dưỡng lão luôn luôn vẫn là những chuyện nhị thập tứ bất hiếu thời nay.

— Mấy ông bà luôn luôn bất mãn con cái của mình sẽ là những người đau khổ cho đến chết !và đó là lý do đẩy con cháu càng lúc càng xa mình thêm. Lòng thông cảm bao dung nhân ái sẽ đem hạnh phúc đến cho mọi người.

Nhưng mà, cụ cũng đừng coi những chuyện trên đây là thông lệ hay ngoại lệ, chỉ biết rằng lâu lâu lại có một chuyện như thế. Cụ nào không may thì gặp phải loại con Lý Tường, chứ không phải đứa con nào cũng là Lý Tường cả. Thôi thì cứ cho là, kiếp trước mình nợ nó, bây giờ nó trở vào làm con mình để nó đòi nợ. Chứ thực ra thì, con tôi đâu có thế, mà con cụ cũng đâu có vậy. Tuy nhiên, dù sao thì cũng chẳng nên lợi dụng lòng tử tế của nó. Cứ ở một mình là yên chuyện. Trừ khi nào không thể ở được một mình nữa thì hãy tính.

— Đừng nói rằng ai nợ ai , tình thương cha mẹ dành cho con cái là thứ tình cảm thiêng liêng , chính vì họ nghĩ là mắc nợ con của mình nên mới khổ ,chứ nếu chúng ta cho đi mà không đòi hỏi nhận lại thì có phải cao thượng lắm không? Tại sao mình làm cha mẹ mà đòi hỏi con cái mình phải giống mình? Mỗi thời đại mỗi khác , tổ chức xã hội khác , quan niệm khác thì mình phải sáng suốt nhận định để có cuộc sống vui và hạnh phúc.

Nếu trời bắt u mê chẳng còn biết ai vào với ai, thì ở đâu mà chả giống nhau, ở nhà nó hay ở nhà mình, mà cho dù có ở trong viện dưỡng lão, thối tha, bẩn thỉu thì cũng có biết gì nữa đâu mà chịu mí lị không chịu!

— Tôi không biết nhà dưỡng lão ở xứ khác thì sao chứ nhà dưỡng lão ở Canada đẹp đẻ , sạch sẽ , đầy đủ tiện nghi ,nhân viên phục vụ tử tế , không có gì đáng phàn nàn.

Tôi luôn luôn lấy làm mãn nguyện, luôn miệng cám ơn Trời, đã thương tôi cho tôi những đứa con – chả được như nhị thập tứ hiếu, nhưng cũng không đến nỗi thuộc loại nhị thập tứ bất hiếu – chúng là những đứa con có tình, biết điều, có giáo dục, nói tóm lại là có hiếu.

— Đa số là những đứa con bình thường là như vậy.

Nhiều cụ nghe tôi khoe con, có vẻ lấy làm cay cú, hỏi mát tôi rằng, con cụ hiếu thảo thế, nhà cửa chúng lại đầy đủ tiện nghi, sao cụ không dọn về ở với một đứa, có phải vừa ấm cúng lại vừa đỡ tốn tiền thuê nhà không? Câu hỏi rất có lý, nhưng mà tôi cũng đã suy đi tính lại nát ra rồi cụ ạ. Tôi thấy cái lý luận con ở với bố mẹ thì bố mẹ vẫn là chủ, nó là con, còn bố mẹ ở chung với con thì nó là chủ mà mình là người ở nhờ. Đúng không thể chê vào đâu được.

— Vợ chồng già còn đủ đôi đủ cặp thì có nhà riêng được thoải mái sống tự do không ai dòm ngó hưởng thời ky` trăng mật cuối mùa vẫn hơn là sống chung với con cái vừa ồn ào vừa mất mất tự do.

Ở với con không được vì con tôi đứa thì có gia đình cả 35 năm nay, thằng út cũng lấy vợ năm nay là 20 năm rồi. Đứa nào cũng có một nếp sống riêng tư của chúng, tôi cũng có những thói quen của tôi. Chẳng ai có thể bỏ nếp sống quen thuộc của mình mà hòa nhập vào một nếp sống khác. Cho nên, nếu tôi muốn thoải mái, cứ sống một mình là khỏe.

— Nếu một ngày nào sức khỏe không cho phép chúng tôi sẽ vui vẻ chọn cho mình một nhà già để vào ở nương thân những ngày cuối đời bên cạnh những người bạn già khác ,chúng tôi sẽ vẫn được sống cạnh nhau , vui vẻ ăn những bữa cơm của viện dưỡng lão và sinh hoạt ở đó cho đến ngày ra đi để các con của tôi an tâm làm việc và lo nuôi dưỡng các cháu của tôi được tốt đẹp.