KẺ THÙ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

KẺ THÙ CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC

(Bài do một trí thức Trung Quốc viết)

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Trung Quốc, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Trung Quốc, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy-Lạp thời nay với người Hy-Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai-Cập cũng vậy. Nhưng người Trung Quốc hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Trung Quốc cổ đại. Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo nguợc, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.

Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương – thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Trung Quốc ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.

Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ hồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.

Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!

Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chối tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?”. Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Trung Quốc nằm trong tay thế hệ các con đấy!”

Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời ? Đến đời nào thì mới thật khá lên được ? Tại Trung Quốc đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, dầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú

Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng-Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.

Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?

Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Trung Quốc (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?

Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái. Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:

“Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!”

Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử”. Lại nhìn về trẻ con ở Trung Quốc lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?

Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình”. Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.

Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi-măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.

Lúc chết, Chúa Giê-Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu”. Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Trung Quốc sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.

Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì ? Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.

Tôi nghĩ người Trung Quốc chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Trung Quốc thoát khỏi khổ nạn?

Nguyên do vì sao?

Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Trung Quốc có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.

Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!”. Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp-sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.

Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Trung Quốc chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!

Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Trung Quốc đến ở là những người khác phải dọn đi. Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Pa-ri sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Trung Quốc). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”

Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.

Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: ” Chúng tôi đang thì thầm với nhau”.

Tại sao tiếng nói người Trung Quốc lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?

Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Trung Quốc bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.

Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Trung Quốc. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.

Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại người Trung Quốc không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Trung Quốc mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.

Cho nên, có thể nói, mỗi người Trung Quốc đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư.

Người Trung Quốc ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi – nơi không cần quan hệ với người khác – thì lại có thể phát triển tốt.

Nhưng nếu ba người Trung Quốc họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Trung Quốc có biệt tài đấu đá lẫn nhau.

Chỗ nào có người Trung Quốc là có đấu đá, người Trung Quốc vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Trung Quốc không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Trung Quốc vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.

Người Trung Quốc không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.

Ở Trung Quốc có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống”. Người đông thì dùng để làm gì? Người Trung Quốc trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.

Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học – anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước… –

Ngày hôm sau tôi bảo:

“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!”. Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!”. Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”.

Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Hoa cắn xé nhau là một đặc trưng nghiêm trọng.

Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Trung Quốc tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Trung Quốc với nhau.

Bán rẻ người Trung Quốc, hăm dọa người Trung Quốc lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa.

Tại Ma-lai-xi-a có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Ma-lai-xi-a tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?”. Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”

Cho nên kẻ thù của người Trung Quốc lại là người Trung Quốc.

Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Trung Quốc với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Trung Quốc và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù”. Điều này phải chia làm hai phần:

Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy nghìn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.

Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Trung Quốc thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng I-xra-en vẫn tổ chức bầu cử.

Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.

Tại Trung Quốc chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco. Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở I-xra-en cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Trung Quốc thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”

Người Trung Quốc không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Trung Quốc ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.

Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi”. Có ai nghe thấy người Trung Quốc nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Trung Quốc nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.

Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.

Người Trung Quốc không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che dấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy gẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai ? Dĩ nhiên của đối phương.

Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!”. Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?

Người Trung Quốc không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Trung Quốc không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Trung Quốc thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.

Họ liên miên khoa trương về dân Trung Quốc, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Trung Quốc, nào là có thể khuếch trương thế giới,v.v…Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.

Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Trung Quốc thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh -ND] thì người Trung Quốc gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).

Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Trung Quốc lại độc ác và hạ lưu đến thế?”

Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!”. Còn người Trung Quốc sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.

Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.

Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.

Trung Quốc diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Trung Quốc lại có một tâm địa thật hẹp hòi.

Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Trung Quốc có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Trung Quốc không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?

Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Trung Quốc đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.

Mọi người Trung Quốc đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”

Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Trung Quốc và đã biến dân tộc Trung Quốc thành một dân tộc hèn mọn.

Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.

Xem thêm: soha.vn

Văn nghệ ‘vô cảm’

Văn nghệ ‘vô cảm’
June 02, 2014

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương
“Nhìn cái xấu cái ác mà không bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi ai lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy!”

Những dòng chữ các bạn vừa đọc không phải là một định nghĩa lấy ra từ một cuốn từ điển nào mà chỉ là những ý tưởng của một em học sinh lớp 9 tại Việt Nam, trình bày trong một bài luận văn về tính “vô cảm,” là tĩnh từ mới, không thấy trong những tự điển cũ để nói về một trạng thái thờ ơ, tê cứng của tâm hồn trước những những điều đang xảy ra chung quanh mình, được thấy hoặc được nghe.

Một thanh niên tham gia biểu tình gần Tòa Ðại Sứ Trung Quốc ở Hà Nội bị công an chìm bắt đi. (Hình minh họa: An Nam/AFP/Getty Images)

Thái độ này là thái độ của kẻ bàng quan đứng ngoài cuộc, cũng có thể xem là thái độ “tọa sơn quan hổ đấu,” mặc dù không có tính cách thủ lợi như trong một thành ngữ của Trung Quốc ngày xưa, nhưng rõ ràng là một thái độ thờ ơ, không thân thiện, không có trách nhiệm cũng không muốn dây dưa phiền toái đến mình. Một đứa trẻ qua đường bị xe đụng, bị thương nằm giữa đường, tài xế đã vô trách nhiệm bỏ chạy, khách qua đường cũng để mặc, thờ ơ, đi thẳng. Thái độ này phát sinh từ tâm trạng một phần không muốn dính líu đến sự việc như phải khai báo, làm chứng, mặt khác đã mất thời giờ mà chẳng lợi ích gì cho cá nhân mình. Ðây chính là lối sống “ung dung tự tại,” hay kiểu “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại,” “sống chết mặc bây” mà chúng ta vẫn thường nghe thấy.

Ðối với quần chúng, nhất là trong các quốc gia thiếu văn minh, không được hưởng một nền “công dân giáo dục,” chuyện này cũng dễ hiểu, nhưng đối với các nhà lãnh đạo, nhất đối với những người tự cho mình là kẻ sĩ, điều này không thể tha thứ được.

Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư kể chuyện Vua Lý Thánh Tông, một năm trời trở lạnh, nhà vua nghĩ đến những phạm nhân đang chịu án trong ngục thất, ra lệnh cho các quan đem chăn chiếu phát thêm cho tù và nói rằng: “Trẫm ở trong cung, ăn mặc thế này mà còn thấy rét, những kẻ nghèo khó, những tù phạm phải trói buộc, cơm không có đủ ăn, áo không có mà mặc, thì khổ sở đến đâu!” Trong một câu chuyện khác, nhà vua nhân một buổi du hành ban đêm mùa Ðông ra ngoài cung điện, thấy một kẻ ăn mày nằm co ro lạnh lẽo ở vệ đường, vua bèn cởi long bào đắp cho người ấy.

Những câu chuyện kể này có thể chỉ là giai thoại, nhưng quả thật nếu cấp lãnh đạo không biết thương dân, không biết nghĩ đến quyền lợi của dân, lo cho dân no ấm, “vô cảm” với nỗi nhục nhằn của dân thì chẳng khác chi một lũ cướp ngày có quyền lực trong tay.

Trong xã hội, kẻ sĩ là người dẫn đầu. Khổng Phu Tử yêu cầu kẻ sĩ sống phải có trách nhiệm với xã hội, với cuộc đời, với đồng loại, với con người. Dù xã hội này, cuộc đời này có thế nào đi chăng nữa thì kẻ sĩ vẫn phải tận lực nhập thế, nỗ lực dấn thân vào cuộc đời chứ không thể lấy lý do “tránh đời ô trọc” để lẩn tránh trách nhiệm kẻ sĩ: con người không thể tồn tại ngoài thế giới người, cũng tức là, con người không thể sống ngoài xã hội của chính mình. Tiêu chuẩn đầu tiên của kẻ sĩ này là biết nhục, biết xấu hổ, hiểu rõ rằng không biết nhục không phải là người.

Giới văn nghệ được xem như thành phần của kẻ sĩ dù xưa hay nay. Người trí thức, văn nghệ sĩ náu mình, thoát ly thực tế đời sống, ôm ấp những tri thức của sách vở, xa rời thực tế, được gọi là văn nghệ sĩ sống trong “tháp ngà.” Ở đây chúng tôi không nhắc lại các quan điểm “nghệ thuật vị nhân sinh” và “nghệ thuật vị nghệ thuật” đã được tranh luận nhiều. Nhưng nếu thực sự văn chương, kịch nghệ là một điều gì không ăn nhập với thời thế, nhất là thời thế hiện nay thì quả thật đó là một thứ trang trí không cần thiết cho con người. Thời bình, chúng ta đã nghe định nghĩa về một người nghệ sĩ là một kẻ “ru với gió, mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây” nhưng trong một đất nước đã đau khổ vì – chiến tranh, tù đày, chia ly, chết chóc và ngày nay, là áp bức, bất công, khốn cùng, sa đọa, vô đạo-văn chương, kịch nghệ có còn là thứ đứng bên lề cuộc chiến, bên lề cuộc đời, “trùm chăn,” không thấy, không nghe, không nói, không muốn dính dấp đụng chạm gì đến nỗi vui buồn của vận nước, hay “không dính đến chính trị” như cách nói của nhiều ca sĩ “mất trí nhớ” đương thời.

Bài thơ “Thạch Hào Lại”của Ðỗ Phủ lại tả cảnh bắt lính của thời chiến tranh trong một đêm khi nhà thơ ghé qua Thạch Hào thôn, là một bài thơ hay được truyền tụng, vì mô tả được hoạt cảnh của một thời, để lại trong ta chút ngậm ngùi:

“Ðêm khuya tiếng nói im rồi,
Vẫn nghe nức nở tiếng người khóc thương.

Sáng mai khách bước lên đường,
Chỉ cùng ông lão bẽ bàng chia tay.”

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Ðỗ Mục, một đêm trăng ghé qua bến Tần Hoài, buồn trách bọn xướng ca không nhớ đến nhục mất nước, bên sông vẫn đàn ca xướng hát:

“Thương nữ bất tri vong quốc hận,
Cách giang do xướng ‘Hậu Ðình Hoa.’”

Nhà phê bình Nguyễn Mạnh Trinh đã viết về nhà văn Phan Nhật Nam, như là một nhà văn nhập thế, chia sẻ những nỗi đau của đồng đội, đồng bào: “Tôi muốn nói về một người lính và viết văn có lửa. Những tác phẩm của ông là kết tinh của xương máu, tủy, da của một người lính đã trải qua những thống khổ của cuộc chiến. Văn chương của ông không phải là một thứ cưỡi ngựa xem hoa mà là cuộc đời thực, của cảm xúc thực.”

Phải xem Việt Khang, một người nhạc sĩ trẻ ở trong nước như một kẻ sĩ:

“Tôi không thể ngồi yên
Khi nước Việt nam đang ngả nghiêng
Dân tộc tôi sắp đắm chìm
Một ngàn năm hay triền miên tăm tối.

(Việt Nam Tôi Ðâu?)

Trước năm 1960, ở miền Nam chúng ta có kịch tác gia Vũ Ðức Duy với những vở kịch ngắn nói về hiện trạng xã hội và thẳng thắn nói đến những thói hư tật xấu của con người. Ở miền Bắc, Lưu Quang Vũ với những vở kịch lừng danh, phê phán thẳng vào con người trong xã hội, cũng được coi như kê kích thẳng vào chế độ cộng sản, đã đổi lại sự “dấn thân” của ông với cái chết của chính ông, vợ, Xuân Quỳnh, và một đứa con.

Tại hải ngoại, kịch nói không có cơ hội phát triển, có thể nói thảm cảnh chiến tranh, tù binh, vượt biển, những cảnh đổi đời sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975 ở hải ngoại và trong nước là những đề tài xúc động vô tận mà các nhà viết kịch có thể khai thác, nhưng tiếc thay, chúng ta thiếu những nhà viết kịch có tài. Khán giả dễ dãi bằng lòng với những vở kịch “xưa hơn trái đất” như “Trà Hoa Nữ” (La Dame aux Camélias) cả 166 năm, hay thời Pháp thuộc như “Ông Cò Quận 9,” “Lá Sầu Riêng,” “Ðời Cô Lựu!”

Trong khi ngư dân của chúng ta bị đánh đập, xô đẩy, mất mạng ngoài Biển Ðông, dân oan và người biểu tình quằn quại dưới roi vọt của nhà cầm quyền Hà Nội, thì ở trong nước cũng như hải ngoại, trên sân khấu, ca sĩ vô cảm vẫn oằn oại với trong những tư thế khích dục, lõa lồ, có khi phơi bày cả “nội y.”

Trong khi mỗi ngày chúng ta nghe những nguồn tin về phận người xót xa ở trong nước, thì trên màn ảnh người ta dễ dãi với những tràng cười không dứt với những lời nói châm chọc, thậm chí chửi bới nhau giữa hai anh hề diễu, không bài bản, không biên kịch và không hề có một ý nghĩa nào. Trong khi tàu giặc đã vào Biển Ðông, thảm họa mất nước đã đến nơi thì thương nữ, văn nhân còn muốn về làm đẹp cho chế độ, ca hát, vẽ vời cho cái nơi chốn mà họ đã trốn chạy lúc ra đi.

Câu nói mà chúng ta đã nghe quá nhiều lần này, lại là của Karl Marx: “Chỉ có súc vật mới có thể quay lưng lại nỗi khổ đau của đồng loại mà chăm lo riêng cho bộ lông của mình.”

Sự quay lưng đó chính là thái độ “vô cảm” của những nhà lãnh đạo, sĩ phu và trí thức trong hiện tình đất nước hôm nay: “Nhìn cái xấu cái ác mà không bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Thấy cảnh tượng bi ai lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can!”

 

LỬA THÁNH THẦN

LỬA THÁNH THẦN

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã nhiều lần hứa sẽ gửi Thánh Thần đến an ủi các môn đệ.  Quả thật, các ngài không phải chờ đợi lâu.  Vào ngày lễ Ngũ Tuần, Chúa Thánh Thần xuống đầy tràn trên các ngài.  Ơn Chúa Thánh Thần thật mãnh liệt.  Chúa Thánh Thần đã đụng chạm đến các ngài.  Chúa Thánh Thần như nguồn nhựa sống thấm tẩm vào từng chân tơ kẽ tóc làm cho các ngài thay đổi da thịt, trở thành con người mới.  Các ngài đã cảm nghiệm được sự tác động ấy.  Đó là cảm nghiệm về một ngọn lửa.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa thanh luyện.

Giống như ngọn lửa thanh luyện vàng và kim loại khỏi các tạp chất, ngọn lửa Thánh Thần tẩy sạch con người cũ của các tông đồ.  Trước kia các tông đồ là những người nhỏ nhen ích kỉ, ham hố danh vọng, thường tranh nhau chỗ cao chỗ thấp.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài trở nên quảng đại, hy sinh quên mình, chỉ nghĩ đến phục vụ Nước Chúa.  Trước kia các Tông đồ là những người nhút nhát, dễ thay đổi.  Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các Ngài đã trở nên cam đảm, trung thành làm cho Chúa đến nỗi dám hy sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa.  Hơi ấm của Chúa Thánh Thần băng bó những vết thương làm cho tâm hồn các Ngài liền da liền thịt, sạch hết mặc cảm, trở nên những con người hoàn toàn mới.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa soi sáng.

Ai đã có lần đi trong hang động tối tăm mới hiểu được nỗi khổ của người mò mẫm lần từng bước dò đường đi.  Những tảng đá lởm chởm, những thú vật độc ác, những vực sâu hiểm nghèo đang rình chờ cướp mạng sống của người mạo hiểm.  Hạnh phúc biết bao khi có ánh sáng tới.  Đường đi xuất hiện rõ ràng.  Khách bộ hành an tâm mạnh dạn tiến bước.

Trước kia, các Tông đồ giống như người đi trong đêm tối, không biết đường biết hướng về đâu.  Lửa Chúa Thánh Thần đến soi sáng trí khôn biến những bác ngư phủ quê mùa trở nên sáng suốt thông minh, hiểu biết Lời Chúa.  Lửa Chúa Thánh Thần soi sáng đường đi, biến những môn đệ mất Thầy như bầy ong vỡ tổ trở nên những người lãnh đạo dẫn đường cho một đoàn dân mới tiến về Quê Trời.

Chúa Thánh Thần là ngọn lửa sự sống.

Sau ngày Chúa Giêsu chịu chết, các Tông đồ sợ hãi tản lạc tứ phía.  Các ngài phải trốn chạy.  Các ngài phải ẩn nấp, Các ngài sống trong sợ sệt lo âu.  Các ngài phải đóng kín cửa nhà vì sợ người Do thái.  Các ngài sống như tựa như đã chết.  Các ngài giống như cái xác không hồn.  Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ngài nhận được nguồn sống.  Các ngài bừng tỉnh như sau một giấc ngủ.  Các ngài mạnh mẽ như người hồi phục sau cơn trọng bệnh.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các ngài không còn có thể bó gối ngồi một chỗ, nhưng mạnh mẽ mở cửa ra đi rao giảng Lời Chúa.  Sự sống mãnh liệt trào tuôn khiến các cộng đoàn phát triển mau chóng.  Ngọn lửa Chúa Thánh Thần đã đem lại sự sống, sự sống lại và là sự sống mới cho các Tông đồ, cho các tín hữu.

Ngày nay chúng ta cảm ơn Chúa Thánh Thần hơn bao giờ hết.  Trong bản thân cũng như trong cộng đoàn chúng ta có nhiều tì tích hoen ố.  Chỉ có ngọn lửa của Chúa Thánh Thần mới có thể thanh luyện tâm hồn chúng ta.  Thế giới hôm nay đầy những bóng tối.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới có thể soi sáng cho chúng ta biết đường lối mà đi.  Thế giới hôm nay chứa đầy văn minh sự chết, đưa con người tới huỷ diệt.  Chỉ có ngọn lửa Chúa Thánh Thần mới hồi phục, đưa ta vào sự sống mới trong Đức Kitô.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.  Amen!

TGM Ngô Quang Kiệt

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

“Em gắng chờ khi nào anh về,”

Dù cho bao năm bao tháng có lê thê.

Xuân đến Hè sang rồi Thu lạnh lùng,

Vẫn bên lòng một nỗi nhớ nhung.”

(Văn Phụng – Chung Thuỷ)

(RTm 12: 12-13)

Kể ra thì cũng lạ. Lạ ở chỗ, là: tác giả viết lên nhạc bản ở trên lại cứ nhắn với người “em” của mình: hãy “gắng chờ khi nào anh về”, dù đời người có lê thê, hay gì gì đi nữa, người vẫn “bên lòng một nỗi nhớ nhung”. Nhớ nhung đây, chỉ một nỗi mà thôi, chứ không đếm tới hai, ba bao giờ. Chao ôi là âm nhạc! Ối dào, là thi ca! Những là, tình tứ, mong chờ nhiều nỗi nhớ.

Hát thế vẫn chưa xong, người anh của đàn “em” trong làng nhạc lại cứ hát thêm:

“Em vẫn chờ khi nào anh về,

Về thôn xưa nghe tiếng sáo đê mê.

Bên mái nhà tranh hàng cau thơm vàng,

Vui êm đềm đời sống mơ màng.”

(Văn Phụng – bđd)

Thế đó, là thuỷ chung/chung thủy, ở thời trước. Còn hôm nay, nếu có ai hỏi rằng: còn chăng những người anh và “em” như thế nữa không? Thì đây, câu trả lời xin dành cho bạn và cho tôi, là bầu bạn đang nghe ý-kiến rất phản hồi này như câu tiếp “phê” hơn, vẫn bảo rằng:

“Nhớ chăng bên giàn hoa?

Vẫn còn chim yến vẫn còn sơn-ca.

Nhớ chăng bên bờ ao?

Vẫn hòn đá cũ vẫn hàng cây cao.”

(Văn Phụng – bđd)

Hôm nay đây, bần đạo sẽ thôi không còn hỏi câu tương-tự, với ai hết. Nhưng, chỉ dám thưa với bạn đọc và bạn nghe đọc ở đây rằng: ta nên đi dần vào chốn lan-man tình-tứ, cũng rất “phiếm”. Phiếm nhiều điều, cả về đạo lẫn đời, để cho qua đi những tháng ngày vất vả vật-lộn với giòng tư-tưởng những là thần-học và học rất thần (sầu) mãi về sau.

Hôm nay nữa, sau những ngày rong chơi tản-mạn rất nhiều chốn miền xa xôi có nền văn-minh gần gũi với người mình, bần đạo thấy mình thật nhỏ bé cả về hình tượng lẫn tâm-thân, đành im hơi lặng tiếng, không còn dám hứa hẹn viết lách gì nhiều về các cuộc rong chơi với bất cứ ai.

Cảm tạ Ơn Trên, bần đạo được đi đây đó cũng khá nhiều, không những chỉ biết được nhiều thứ của xứ người, lại còn thưởng-thức cái hay cái đẹp cũng như những cái còn chưa đẹp của người ở xứ khác. Tuy nhiên bần đạo lại chẳng có được năng-khiếu ghi chép thành ký-sự, nên chỉ dám mời bạn/mời tôi, ta vào xem các bài tường-thuật do cây viết có tên là Anthony Trần ở “Duc in Altum” trên trang mạng Gia Đình An Phong, sẽ biết về các chuyến đi xa của bần đạo, rất nhộn-nhạo. Ở đó, bầu bạn sẽ gặp thấy các thiên phóng-sự “nóng hổi” của cây viết rất trẻ này.

Nói thế rồi, nay bần đạo bầy tôi lại xin “đổi đề tài”, để mời bà con ta đi xa hơn chút nữa mà vào vườn cây khô khan những học thần/thần học quả thật sơ-cứng. Vườn này, bạn và tôi ta sẽ thấy toàn những cây khô đét-đèn-đẹt được gọi là “triết-thần”, hoặc học về thần cho lắm rồi chỉ nói toàn chuyện triết-lý viển vông, lông ngông không bông đùa.

Quả thật rất đúng. Trong lúc bần đạo thấy “lúng túng” đặt mãi vấn đề cốt lõi là: làm sao ta đi Đạo cho vui tươi, sung sướng, nhẹ nhàng, lại đã bắt gặp ngay câu dặn dò của chàng trai nào đó có kinh-nghiệm yêu-thương vợ hiền mình đến độ ly-dị vợ rồi mới thấy cần thiết thương-yêu “bà xã” mình nhiều hơn nữa. Biết rồi, chàng mới có câu nói mà bần đạo đây thấy có thể áp-dụng chuyện đạo rất triết/thần như sau:

“Đừng có mà khùng điên/dại khờ mà tự hành-hạ mình một cách quá ư là nghiêm-khắc. Hãy cười cho thật nhiều và hãy làm mọi cách để người-mình-yêu-dấu cũng cười thành tiếng, giống như mình. Bông đùa/cười vui, sẽ khiến mọi việc trở nên nhẹ nhõm, dễ chịu.”

Dĩ nhiên, những người hoặc những điều mình thương-yêu hôm nay không hẳn là chuyện đạo những triết/thần rất “thần-học”, mà học mãi vẫn chỉ thấy vẩn vơ lưng chừng, mà thôi. Nói cách khác, nếu đi vào địa hạt thần-học rất Thánh-kinh mà không mang tính vui tươi/bông đùa chút nào, hẳn người học thần và triết sẽ không bị khùng điên/dại khờ là may lắm rồi.

Nay, bần đạo mời bạn và tôi, ta đi vào địa-hạt thần-học và triết-lý hoặc thánh kinh với một đề-nghị đừng dở khùng dở điên nữa, nhưng hãy vui tươi, nhẹ nhàng một khẳng-định đầy quyết tâm, như khẳng-định mới đây của vị cựu Giám-tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế Úc từng viết như sau:

“Đức Giáo Hoàng Phanxicô vừa tạo một tầm nhìn mới cho Giáo hội mình. Ngài muốn tặng cho Giáo-hội một thứ “đổi-thay dáng vẻ bề ngoài” cho dễ nhận. Dễ nhận diện, ở chỗ: nay ta phải ra khỏi tính nghiêm-khắc khó lay-chuyển để về với Đạo Chúa từng biết tự kỷ, ngõ hầu chuyển lay/thay đổi cho đúng nghĩa. Đức Giáo-hoàng Phanxicô muốn Giáo hội mình trở-thành “hiền-thê” mang dáng vẻ trong sáng, nổi bật, nhiều sắc mầu tươi vui hơn trước. Dáng vẻ này, không chỉ là vẻ là dáng có thoáng chốc hiện-diện trước ống-kính máy hình, có đèn nháy chỉ một chốc lát để bắt mắt thiên-hạ thôi. Nhưng, một Giáo-hội được thêu-đan cẩn-thận bằng đường nét tinh-tế mà Đức Kitô muốn Giáo hội phải như thế, với thế-giới thời hậu-cận-đại.

Bằng vào tông-thư “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Phanxicô đã phác-hoạ nên chiến-lược cho Giáo hội tương-lai mai ngày. Chiến-lược đây, không để chinh-chiến hoặc đấu-tranh giành lợi-lộc mà đưa ra lời chỉ-dẫn để Giáo-hội sống Phúc Âm giữa thế kỷ 21 đầy thách-thức. Đức Giáo Hoàng Phanxicô còn căn-dặn Giáo-Hội ta phải mãi mãi đi vào trạng-thái thừa-sai/mục-vụ rất phục-vụ. Là Kitô-hữu, mỗi người và mọi người sẽ quyết-tâm ra ngoài để đến với những người từng xa rời Giáo-hội và cả những người bị xã-hội bỏ bê, chê-bai, vùi dập. Không ai được phép loại-trừ bất cứ người nào khỏi Giáo-hội, tức: cộng-đoàn tình-thương của muôn người. Mỗi người và mọi người có bổn-phận tỏ-bày với tất cả chúng-dân gần xa niềm thương-yêu xót xa, đầy trìu mến. Và, cho phép mình tự-do trở thành người cận thân và cận lân với tất cả mọi chúng-dân. Ta làm thế, vì Chúa đã và đang hướng-dẫn ta mang Tin Mừng vui-tươi hạnh-đạo đến với mọi loài. Ta làm thế với xác-tín rằng: Tin Mừng lành thánh, vẫn cống-hiến cho nhân-loại cung-cách lành-đẹp để cùng sống. Và, Tin Mừng đối với ta là những kẻ rất tin-tưởng chuyện ấy, đã và sẽ là nguồn hoàn-thành chức-năng lớn của con người” (Xem Lm Michael Gilbert, A Joyful Church, The Majellan Family, April-June 2014, tr. 1-5).

Chính đó là vấn đề của thế hệ ngày hôm nay. Thế đấy, là bận tâm của con người hiện tại, cả ở trong Đạo lẫn ngoài đời. Bận-tâm chính, là: làm sao “đem vui tươi vào chốn sầu buồn”, cả đời người. Nghĩ thế rồi, nay mời bạn/mời tôi ta đi thêm vài bước nữa mà phiếm cho sâu cho sát, để rồi ở cuối con đường tăm tăm-tối, sẽ thấy loáng thoáng ngọn đèn suy-tư,hầu tìm ra chút ánh sáng của niềm vui.

Suy tư, là suy-nghĩ rất tư-lự bằng vào ý-kiến của nhiều người như tôi, như bạn trong cõi đời đầy những “phiếm”. Nhưng, trước khi “phiếm loạn” điều gì, lại cũng xin đề-nghị bạn và tôi, ta nghe câu tiếp ở nhạc-bản về những đợi chờ, thuỷ chung, lung linh tình tứ như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, nay ta dõi-theo ý-kiến của một đấng-bậc khác từng có vai vế, nay chỉ muốn những vế và vai kéo dài đến mọi người bằng cảm-kích viết thành lời, rằng:

“Bạn Homer Simpson thân mến,

Tôi vẫn nghĩ là bạn sẽ chẳng nề-hà gì khi tôi viết cho bạn những giòng chữ sau đây với tư-cách một người cha gửi đến một người cha khác, để trao-đổi.

Trước tiên, phải nói ngay ở đây rằng: tôi cần ý-kiến bạn để tư-vấn. Bởi, con cháu tôi chúng bỏ quá nhiều giờ ra nghe bạn nói chuyện hơn ngồi nghe cha mẹ chúng dạy dỗ. Cả tôi nữa, tôi từng chào thua và nhận ra được là: bạn có nhiều cái mà tôi không thể nào tạo ra cho mình được. Tôi cũng có máy truyền-hình và ghế bành để ngả dài ra mà thưởng ngoạn chương-trình cười vui của bạn. Nhưng, chỉ có bạn mới là người khiến nhiều kẻ giống như tôi đã xài tối-đa hai thứ đó, mà không tiếc tiền. Bạn từng bảo với người nghe, rằng: “Thật khó đánh lừa được các bà bầu hoặc các đứa trẻ đang gặp rắc rối với nhiều nhiều chuyện; nhưng, tôi có thể lấp kín 8 tiếng đồng hồ một ngày dài bằng chuyện tiếu-lâm trên truyền-hình!” Thêm vào đó, nếu bạn không ngại để cho tôi nói thêm đôi lời, thì: tôi sẽ bảo với bạn rằng: bạn không là người để lại ấn-tượng của kẻ lanh-lợi nhất hành-tinh này từng sống hoặc không sống giống tôi hoặc làm bất cứ thứ gì thích-hợp để vẽ lên cá-tính của nhân-vật trong hoạt-hình. Tôi nhớ cái lần gặp tình-trạng khẩn-cấp hôm ấy, bạn cứ ới gọi người quay phim mà hét lên rằng: “Ấy ông thu hình ơi, gọi gấp cho tôi số điện-thoại khẩn-cấp 911 ngay được không?”…

Đa số các bậc cha mẹ sống thực trên đời, đang phải sống khổ sở vì chứng căng-thẳng thần-kinh mình gặp phải và cứ mong đợi mãi mà chẳng thấy được cái ngày giờ họ ở vào địa-vị thực để mà sống. Trong khi đó, thì bạn lại quay về hướng đối nghịch với họ, để rồi cứ khơi khơi nói rằng: chẳng cần phải làm như thế mới sống vui, sống khoẻ.  Bạn thuộc loại bậc thày chuyên đi đường tắt, vẫn không ngừng khai-thác chỗ nước cạn của đời sống để biết được đâu là chiều sâu của đời sống. Biếng nhác như bạn là thế, mà bạn cũng sản-sinh được đến hơn 500 phim tập. Mỗi tập phim Simpsons đưa ra là để bạn có thể giảng và dạy dỗ rất sâu rất sát, cả chuyện đạo đức của tôn-giáo nữa, cũng không gờm.

Homer bạn hiền quí mến,

Tôi đây rất thích cung-cách làm cha làm mẹ của bạn khi bạn ứng-xử với bọn trẻ con trong xóm. Bạn chẳng bao giờ thiếu lời khuyên-nhủ dành cho chúng, thế mà một số nhỏ trong bọn chúng lại toả ánh vượt xa cả gia đình chúng nữa, là khác. Có lần bạn có nói với Lara, con gái yêu của bạn, rằng: “Nếu con không thích các công-việc mình làm, thì đừng phấn-đấu nữa mà làm gì. Hãy cứ bước vào đó mỗi ngày, rồi chỉ cần làm phân nửa công việc thôi, là được rồi. Và, đó là cung-cách mà người ở Mỹ vẫn làm thế đấy”.

Tôi dám cá rằng: người từng dàn dựng nên chương-trình này thường vẫn sử-dụng lời tư-vấn của bạn để châm-chích cung-cách làm cha làm mẹ cách tuyệt-hảo mà lâu nay vẫn được cổ-suý. Điều này khiến một số cha mẹ đâm nghi-ngờ và lo-ngại cho khả-năng của họ nữa, ít ra, thì bạn cũng từng làm mẫu cho một ông bố tồi-tệ đến là thế. Bọn tôi đây vẫn thấy mình ở “trên cơ” của bạn rất nhiều. Còn nhớ, có lần bạn còn nói với vợ mình rằng: “Em à, em đừng làm thằng bé nhà mình nó nản-chí nam-nhi đấy nhé! Như như con chồn chui ống với những việc quan trọng hơn cả chuyện học hành, nữa là khác. Đó là điều tách bọn mình ra khỏi giống vật, ngoại trừ con chồn chui ống, thôi.”

Dưới đây, còn nhen-nhúm cả một chỉ-dẫn rất “bá-đạo” hơn thế nhiều, như câu nói mà bạn từng bảo với con mình: “Con à, nếu con thật sự muốn có thứ gì trên đời này, thì phải làm việc cho cật-lực để đạt được điều con muốn. Nay, thì hãy câm mồm lại! Kìa, họ đang công bố số lô-tô trúng giải độc-đắc kia kìa!…”

“Này bọn con trẻ, phải chăng bọn con vẫn muốn làm tốt hết mọi sự, chứ? Nhưng, tất cả sẽ thất-bại một cách thảm não, cho mà coi! Hãy học nơi đây bài học này, là: đừng bao giờ thử thời-vận như thế hết.”

“Nay ta muốn truyền cho các con ba điều ngắn ngủi, con cần phải giữ suốt đời mình. Thứ nhất, là: Hãy bảo vệ lấy chính mình! Thứ hai, là: Ý-kiến hay đấy, ông chủ à! Và, thứ ba, là: Cái đó giống như khi ta tới đó, rồi cũng biết thôi.”

“Này Bart, với 10 ngàn đô-la, ta sẽ trở-thành triệu-phú chỉ mấy hồi! Nghĩa là, ta có thể mua tất cả mọi thứ rất hữu sự, như: tình yêu! Đấy à nghen”

“Sách vở là những thứ vô-tích-sự, chẳng lợi lộc. Ta đây, lâu rày, chỉ đọc mỗi cuốn: “Hãy giết con chim nhại tiếng người! mà thôi; nhưng rồi sách-vở cũng chẳng mang đến cho ta ý-tưởng gì để giết những con chim nhại tiếng người kia ấy. Đúng rồi. Nó dạy ta, không chỉ có mỗi cách-thức phê-bình người khác qua màu da của họ…, nhưng bằng những gì tốt đẹp mà người ấy đem đến cho ta, thôi.”

Homer à,

Đôi khi tôi đây lại cũng nghĩ, rằng: lý do khiến con cháu của tôi chúng thích nghe lời bạn hơn cả tôi nữa, chỉ vì bạn chuyên môn tìm phương-cách nào dễ chịu để mọi người thực hiện, cho thoải mái. Trong khi đó, bọn tôi cứ buộc phải nói,đó cũng là thách-thức không nhỏ, đối với bọn trẻ. Thế đó, là công việc tôi phải làm. Và tôi đây, sẽ khiến bọn trẻ chúng nó chán ngấy cả tôi nữa, khi tôi chỉ thích dán mũi vào màn ảnh truyền hình hơn là lo chuyện giáo-dục bọn trẻ con. Nhưng tôi chẳng nề-hà gì khi phải cho chúng biết là: đi học về đến nhà, là phải bỏ bao bị xuống, sắn tay áo ra mà rửa bát dĩa, rồi tự tổ-chức sắp xếp hầu chuẩn-bị cho ngày mai lại lên trường, và làm bài tập ở nhà cho xong rồi cả nhà mới được xem chương-trình “The Simpsons” nửa tiếng, cũng không sao…” (xem Michael McGirr, A Letter to Homer Simpson, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 8).

Điều mà nhà mô-phạm Michael McGirr muốn nói với tay hài thời đại là Homer ở phim hoạt hoạ nhiều tập The Simpsons mỗi điều này: không biết tại sao nhà-giáo chúng tôi học bao nhiêu thứ trên đời, để rồi cố truyền lại cho đám trẻ nhà mình, mà sao bọn chúng chẳng thích thứ nào do bọn tôi đưa ra hết. Phải chăng: bọn tôi vẫn còn thiếu chất “hài” là cái hấp-dẫn nhất trên đời? Phải chăng đó là món thời-thượng cho mọi người được dễ sống chuỗi ngày đáng nản?

Hỏi thế, khác nào trở về với câu của con trẻ từng đưa ra với cha cố bé ở nhà thờ hôm đó, rằng: Thưa cha/thưa cố, giữ đạo Chúa và đi nhà thờ hôm nay cũng là một thứ, phải không ạ? Và hôm nay đi nhà thờ có gì vui không mà sao người lớn cứ bắt con đi như thế tối ngày, vậy?

Thật ra thì, câu hỏi của trẻ bé nghe qua cứ tưởng chỉ là chuyện của con trẻ, chẳng cần suy-nghĩ làm gì cho bận trí óc với tâm-can. Nhưng, thời đại hôm nay, nếu diễn rộng, có thể đó cũng là câu để đời, khiến ta suy-tư mà tự cật vấn. Cật và vấn, để rồi tự mình tìm ra câu trả lời cho thoả-đáng, rất hữu-dụng.

Hỏi thế, có là hỏi nhau những câu hỏi rất thường-thức, trong Đạo/ngoài đời rất như sau:

-Danh hài nào là người mà bạn thích nhất, trên sân khấu cuộc đời?

-Những gì trong đời làm ta cười vui, nhiều nhất? Bạn có giống thế không?

-Tại sao cứ bảo: vui tươi/cười đùa là quà tặng mình tạo cho đời?

-Cười vào chính mình có là chuyện dễ làm hơn cười vào người khác?

-Hãy thử lấy ví-dụ thế nào là vui tươi/cười đùa dù xấu/tốt?

-Có bao giờ ta nghĩ: Chúa cũng hóm hỉnh, cười vui như con người?

Trả lời cho các câu hỏi này, nhiều vị cũng không ngại đưa ra thêm câu trả lời, rất để đời. Như, Đức Bênêđíchtô thứ 16 có lần nói: “Tôi tin một cách chắc-chắn rằng Thiên-Chúa của ta cũng đầy tính hóm-hỉnh, cười vui như mọi người. Ngài vẫn muốn mọi người coi mọi sự nhẹ nhàng, dễ chịu để còn sống” (x. Anne Rennie, The Life of the party, Australian Catholics số Summer 2014, tr. 15).

Nhìn vào Kinh Sách, hẳn người người đều thấy rõ: Đức Giêsu cũng từng lân-la ăn uống với tất cả mọi hạng người, từ giới bê tha, thấp hèn, phường đĩ điếm, cũng đâu sao! Ngài chắc cũng là nghệ-sĩ rất đáng kể mới lôi cuốn cả ngàn người đến nghe Ngài giảng dạy đến độ bụng đói cồn cào mà vẫn cứ đi theo. Ngài còn có tài kể chuyện ngụ ngôn, nhẹ nhàng, dễ nghe khiến giới “mày râu nhẵn nhụi” như Kinh Sư Biệt Phái, phải khó chịu?

Đức Giêsu phải là người vui vẻ hết mình mới dám “khuyến mại” về Vương Quốc Nước Trời của Ngài đã gần kề? Mới khuyên bảo được mọi người hãy hối cải, đổi đời và trỗi dậy làm cuộc sống mới. Ngài phải là Đấng có tài ăn nói cuốn hút mọi người quyết tâm đi vào cuộc sống triệt-để có hồi tâm, canh cải để “chui qua lỗ kim nhỏ” của Nước Chúa, đầy vui tươi?

Trả lời được các câu vấn-nạn cho đời mình như thế, ắt hẳn người người sẽ hồi-tâm biến đời mình thành những chuỗi ngày vui có bạn bè vây quanh, mỗi ngày đều là ngày của Chúa, chứ?

Và, khi người người đi Đạo đã có thể biến cuộc sống mỗi ngày của mình thành những ngày vui có Chúa, có anh có em ở với mình rồi, thì khi ấy tha hồ mà kể cho nhau nghe những câu truyện tưởng rằng đứng-đắn, khó khăn, nhưng dễ cười như truyện đời được kể, như sau:

“Tôi và bạn gái tôi đã hẹn hò được hơn một năm. Và, chúng tôi đã quyết-định đi đến hôn-nhân trong thời-gian tới. Mọi thứ đều tươi đẹp đối với tôi trong thời-gian này, chỉ duy có một điều làm tôi phân tâm, đó là… cô em gái dịu dàng, xinh đẹp của vị hôn-thê của tôi.

Cô em vợ tương lai của tôi năm nay 22 tuổi, có “gu” ăn mặc gọn gàng, lại rất “chuẩn” về tính đài-các, nết na, lẫn sắc đẹp. Ngoài những điều ấy ra, cô còn tỏ ra rất dễ chịu với mọi người kể cả những vị rắp ranh làm anh rể của cô nữa.

Một ngày đẹp trời nọ, cô em vợ tương-lai bé bỏng đẹp xinh của tôi đã gọi điện-thoại cho riêng tôi và mời tôi đến nhà để kiểm-tra giấy mời và thiệp báo hỷ cho đám cưới của tôi và chị cô. Khi tôi đến, thấy chỉ có mình cô ở nhà. Cô đến gần bên tôi rồi thì thầm đôi điều rằng: chính ra cô cũng rất yêu tôi và không thể cưỡng lại được tình-cảm riêng-tư của mình… Cô còn nói: cô muốn gần-gũi tôi dù chỉ một vài phút phù-du trong đời, trước khi tôi làm đám cưới với người chị của cô.

Lúc ấy, tôi không thốt ra được lời nào và càng lung-túng hơn nữa, khi cô nói: “Bây giờ em lên phòng riêng của em trên gác, nếu anh không ngại thì hãy lên đó với em một chốc lát, nhé.

Tôi đứng im như pho tượng gỗ và nhìn cô thoăn thoắt bước lên gác, trước một mình. Tôi cứ đứng đó một lúc, không biết phải làm gì cho xứng hợp với thân-phận mình. Cuối cùng, tôi quyết-định thẳng bước tiến ra cửa trước. Tôi mở cửa và đi thẳng đến chiếc xe của mình, dự tính lấy cái gì đó làm bằng, cho xong.

Vừa quay lại, thì lạ chưa, trước mắt tôi là cả gia đình nhà vợ chưa cưới của tôi đang đứng đó vỗ tay cười. Với đôi mắt hơi rơm rớm nước mắt và bằng một giọng nói xúc động, bố vợ tương-lai của tôi bảo với tôi, rằng: “Gia đình ta cảm-thấy rất vui khi con đã vượt qua được bài kiểm-tra nhỏ của ta. Ta sẽ không thể tìm đâu ra được một người rể tốt lành và xứng-đáng hơn cho con gái ta. Chào mừng con đến với gia-đình!” Tôi đã vượt qua được bài “kiểm” trước đám cưới. Thật hú vía và … tôi quả là người may mắn nhất trong đời. Đời của con người cố sống tốt lành với… nhà vợ!” (trích bài chia-sẻ tâm-tình của một người trong buổi “Thăng Tiến Hôn-Nhân”, rất tận tình).

Truyện kể ở trên cũng “tếu”, cũng “buồn cười” và cũng “bé cái lầm” nhưng không “buồn” và “cứng” như bao câu truyện kể của đấng bậc giảng dạy vào các Tiệc Thánh Thể ở nhà Đạo.

Nói cho cùng, suốt đời đi Đạo nghe giảng dạy mà không vui tươi, cười đùa thì cũng chưa hẳn là đã tuân theo lời dặn dò của bậc thánh-hiền cho đúng cách, khi thánh-nhân từng bảo ban:

“Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng,

cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân,

và chuyên cần cầu nguyện.

Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh

đang lâm cảnh thiếu thốn,

và ân cần tiếp đãi khách đến nhà.”

(Rm 12: 12-13)

Nói cho cùng, thì: để ra một đời đi đạo, mà chẳng có được giây phút vui tươi, bông đùa, cười giỡn thì cũng uổng. Uổng, cho những tháng ngày có cầu mà không nguyện, cũng không biết. Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta hãy vùng đứng, trỗi dậy mà hát lên những câu ca nhè nhẹ, ngăn ngắn có chút vui, như sau:

“Khi nắng chiều hôm ngả chân đồi

Lòng bâng khuâng em trông ngóng xa xôi

Mơ thấy nhạc vang lừng khúc khải hoàn

Tim rộn ràng tưởng bóng anh về (anh đã về).”

(Văn Phụng – bđd)

Hát thế rồi, bạn và tôi, ta cứ ra đi mà truyền-bá những điều vui đi Đạo, để người người mãi rồi sẽ phấn-chấn với tháng ngày nguyện cầu rất chuyên-chăm. Hạnh đạo.

Trần Ngọc Mười Hai

Và một quyết-tâm

Cũng nhẹ nhàng như thế.

Để sống đạo.

 

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,”

“Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.”

(Dẫn từ thơ Thâm Tâm)

Ga 3: 16-18

Sương rơi quá, nhưng lòng anh nay bình-thản lại rồi, và tâm-tư anh nay cũng đã khác. Lòng nhà Đạo, lại không thế. Vẫn không khác và không đổi, vì Ba Ngôi Đức Chúa vẫn diễn tả một tình thương tuy suộc sống nhiều diễn biến.

Trình-thuật tác giả thánh hôm nay cũng ghi lại một diễn biến rất sinh động trong cuộc sống thường nhật. Sống thường nhật, nhiều lúc con người vẫn hiểu rằng ngôn ngữ và biểu tượng không thể diễn tả được các chân lý sâu thẳm của con người, cho đúng đắn. Nhất thứ, là khi chân lý ấy lại thuộc địa hạt tín lý, thần học.

Nhiều năm trước, tôi đã có dịp đến với các em học sinh lớp nhỏ thuộc trường tiểu học công lập, ở Tiểu bang. Đến, để rút kinh nghiệm giảng dạy môn giáo lý cơ bản cho các em trong/ngoài nhà Đạo. Hôm ấy, tôi bắt đầu giờ dạy bằng một câu hỏi rất ngắn để xem các em có tiếp cận được các kiến thức sơ đẳng, hay không. Câu hỏi tôi chọn, chỉ đơn giản có thế này: “Mỗi khi làm dấu thánh giá, các em đọc gì?” Cả lớp nhao lên: “Thưa, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần!”

Cũng khá! Sẵn đà, tôi hỏi luôn: “Các em tuyên xưng: Cha, Con và Thánh Thần. Thế thì, ý nghĩa của lời tuyên xưng ấy, như thế nào?” Cả lớp đều lặng thinh. Tôi bèn thay đổi, bằng câu khác dễ hiểu hơn: “Mỗi lần làm dấu thánh giá, các em nghĩ gì?” Cả lớp lại im lặng. Thứ im lặng dễ sợ, tôi hằng ngao ngán.

Bỗng một chú bé con, xem ra có vẻ thông minh, giơ tay nói: “Dạ thưa, cũng giống như một cụ già, một tay hảo hán và con chim trắng!” Tôi cảm thấy hỡi ôi khi nghe em nói, nhưng không dám trách móc ai, vì biết chắc có người lớn nào đó đã nhét vào đầu em, hình ảnh Ba Ngôi Đức Chúa, thật thiếu xót. Thật nghèo nàn.

Nhiều người lớn, lâu nay vẫn mang trong đầu những hình ảnh sai lạc, có được từ tranh vẽ hoặc ảnh tượng, do nghệ nhân nào đó, nghĩ ra. Sự huyền nhiệm về Ba Ngôi Đức Chúa -còn gọi là Nhiệm tích Đức Chúa Trời Ba ngôi – hàm ngụ trong câu nói của em bé, chứng tỏ là ta đã hình-tượng-hóa Cha, ConThánh Thần Chúa theo kiểu cách không xứng hợp, và không diễn tả đủ ý nghĩa của nhiệm tích.

Không ai hình dung ra được một ảnh hình chính xác, về Đức Kitô. Các bức ảnh ta có, cũng như ngôn từ ta sử dụng để nói về Ba Ngôi Đức Chúa, phần lớn đều do những suy nghĩ rút từ sự tin tưởng, mà ta hằng bồi đắp; hơn là, chân lý chung cuộc, về Đức Chúa.

Sự thật về Ba Ngôi Đức Chúa, lúc nào cũng đầy tràn sự sung mãn vượt trên các danh xưng ta đặt cho Ngài; và, siêu thăng ở trên mọi ý niệm triết học, ta suy diễn. Nhận thức đặc biệt, mà ta tập trung mừng kính hôm nay để mừng Chúa Ba Ngôi, là trọng tâm ý thức giúp ta nhận biết Đức Chúa là ai? Ba Ngôi là gì?

Các tín hữu Hội thánh tiên khởi, phải mất 400 năm mới nhận biết được lý lẽ: tại sao Đức Giê-su luôn đề cập đến tương quan Ngài vẫn có, với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Các tín hữu phấn đấu lắm, mới hiểu được lý do tại saotheo cung cách nào Đức Chúa có tới 3 diện mạo, mà lại hiện hữu trong cùng chỉ một hữu thể.

Ba Ngôi yêu thương sống động chỉ như Một. Ba Ngôi vẫn hành xử như Một. Và, cộng đoàn Dân Chúa, đã cảm nhận được bản chất của Ba Ngôi Đức Chúa, qua các chỉ dẫn cho ta biết ngôi vị của Đức Chúa rõ ràng “cùng đồng đều”, “cùng thực tiễn” “cùng vĩnh hằng”, như nhau.

Các tín hữu tiên khởi, đã thẩm định được “tại sao” Đức Chúa lại có đến Ba Ngôi. Định được như thế, là nhờ có suy tư và kinh nghiệm, rằng: tương quan giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là một thách thức của Tình thương. Cộng đoàn tiên khởi nhận thức rất rõ bản chất nòng cốt của Đức Chúa, không phải là một ý niệm suông; hoặc, một nguyên tắc cứng ngắc; nhưng là tương quan sống động. Và, các tín hữu hiểu ra rằng: họ được mời gọi để tháp nhập vào tương quan này.

Những gì là sự thật đối với tín hữu tiên khởi, cũng là chân lý cho chúng ta, hôm nay. Và chân lý ấy, là như thế này: Đức Chúa đã tạo dựng, cứu độ và bảo bọc thế giới con người. Ngài luôn tìm cách gặp gỡ chúng ta để kêu mời chúng ta tháp nhập vào tương quan sinh động của Ngài. Tức là kết hợp với tình yêu thương của Ngài.

Làm như thế, Ngài đem đến cho ta giá trị cao quý nhất. Đồng thời, hành động của Ngài hối thúc chúng ta san xẻ lời mời gọi gửi đến những người mà ta vẫn gặp gỡ trong cuộc đời. Thử hỏi, còn gì ưu ái hơn? Có gì quý trọng hơn lời mời gọi ấy? Có vị thần linh nào như Đức Chúa không?

Cũng nên thêm một điều: nếu các tương quan trong đời người, được đưa vào trọng tâm tương quan giữa Ba Ngôi Đức Chúa; và, nếu chúng ta biết chấp nhận lời mời tháp nhập vào tương quan của Ba Ngôi Đức Chúa, thì mọi tương quan ta có với mọi người, cũng sẽ mang ý nghĩa của tình thương yêu, nòng cốt. Có như thế, chúng ta sẽ không bị tách lìa khỏi tương quan lòng mến của Đức Chúa, nhờ vào niềm tin yêu ta có. Và nhờ vậy, chúng ta mới trở thành người con ngoan, mới được làm môn đệ dấu yêu, của Ba Ngôi Đức Chúa.

Cuối cùng, có am hiểu thấu đáo ý nghĩa của lễ hội mừng kính Ba Ngôi Đức Chúa hay không; và, am hiểu đến mức độ nào, điều này còn tùy thái độ của ta, có quan tâm bày tỏ tương quan mật thiết với người khác không. Và, cũng tùy theo tương quan ta thực hiện, có mang tính xã hội, thân mật và chuyên môn, không? Có đượm mầu sắc dân gian, hoặc quốc tế hay không?

Mỗi khi làm bất cứ việc gì, để thiết lập tương quan mới cho tốt đẹp, hãy nhớ đến những tương quan lâu nay gãy đổ. Hãy tiếp tay, hàn gắn giúp đỡ họ. Hãy tái tạo, tình yêu sâu thẳm và dồi dào cho họ.

Một cách chí tình hơn, hãy vui hưởng các tương quan tốt đẹp, ta đang có. Bởi, ta vừa khám phá ra chân lý nền tảng này, là: lễ Ba Ngôi Đức Chúa là lễ hội đem lại cho ta những tâm tình thân thương, đầy khích lệ. Tâm tình này, các thánh đã hơn một lần khẳng định:

“Đức Chúa đã thương yêu loài người đến độ Ngài phú ban Con Một Ngài, cho ta. Ngài không chỉ ban Con Một Ngài mà thôi, nhưng cả Thánh Thần của Con Một Ngài, đã được kết thành nơi hình hài Đức Kitô. Thánh Thần Chúa ở trong ta, để ta kêu lên:“Abba! Lạy Cha! để biểu tỏ tương quan Ba Ngôi Đức Chúa, là: Cha, Con và Thánh Linh.”

Chúng ta có hiểu được điều ấy không? Chúng ta có cổ vũ tương quan này không? Và, chúng ta có trân trọng lẫn nhau không? Đó chính là tinh thần của lễ hội hôm nay.

Trong tâm tình cảm và thong những điều vừa diễn-tả, cũng nên ngâm nga lời thi-ca, rằng:

“Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,

Nhưng lòng anh đã bình thản lại rồi.

Hết đau buồn và cảm thấy sục sôi,

Niềm uất hận của một thời lưu-lạc.”

(Thâm Tâm – Dang Dở)

Sương có rơi, trời có lạnh, nay lòng anh đã bình-thản lại rồi. Bình thản hơn, khi anh lại nhận ra được tình Chúa thương-yêu hết mọi người, như Ba Ngôi Đức Chúa vẫn yêu-thương nhau suốt mọi thời, thật vĩnh cửu. Và, tình thương nơi Ba Ngôi sẽ còn dàn trải mãi đến muôn người, trong mọi chiều.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch.

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

CHÚA THÁNH THẦN VỚI NGƯỜI CHƯA BIẾT CHÚA

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

Thánh Phaolô dạy : Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ. Thật vậy,

Chỉ có một Thiên Chúa,

Chỉ có một Đấng trung gian

Giữa Thiên Chúa và loài người,

Và cũng là người thật, Đức Giêsu Kitô,

Đấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người.

(I Tm 2,4-6)

như vậy, mạc khải đã khẳng định tuyệt đối : mọi người được ơn cứu độ là nhờ Đức Giêsu Kitô mà thôi, không có ơn được cứu độ ngoài trung gian duy nhất là Đức Giêsu Kitô, Đáng Cứu độ nhân loại . Ta tin vào Chúa Kytô , ta tin mình đươc cứu độ , còn số phận dân ngoại ?

Giáo lý của Công đồng Vatican II nói về dân ngoại :

Sau cùng, những ai chưa lãnh nhận Phúc âm cũng được an bài bằng nhiều cách để thuộc về dân Thiên Chúa” (Lumen gentium, số 16)

Điều nói trên (hoạt động của Thánh Thần và ơn Phục Sinh) không phải chỉ có giá trị cho các tín hữu nhưng cho tất cả những ai có thiện chí được ơn thánh hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn. Thưc vậy, Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực sự là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào Mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (Gaudium et Spes, số 22, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người Kitô hữu thì Chúa Thánh Thần cũng hoạt động nơi người chưa biết Chúa Kitô để họ có khả năng tham dự Mầu Nhiệm Phục Sinh, để họ được ơn cứu độ.

Cũng vậy, đối với các  tôn giáo ngoài Kitô Giáo

Những kẻ đang tìm kiếm Chúa trong bóng tối và qua ngẫu tượng, Thiên Chúa mà họ không biết, cả những kẻ ấy, Ngài cũng không xa họ, bời vì chính Ngài ban cho họ sự sống, hơi thở và tất cả mọi sự (x. CvTđ 17,25-28), và vì là Đấng Cứu Thế, Ngài muốn mọi người đều được cứu rỗi (x 1 Tm 2,4). Thực thế, những kẻ vô tình không nhận biết Phúc âm  của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu độ” (Lumen Gentium, số 16).

Từ xưa tới nay, người ta nhận thấy nơi nhiều dân tộc khác nhau một cảm thức về quyền lực tiềm ẩn trong vòng chuyển biến của sự vật và trong những biến cố của đời người, đôi khi cảm thấy cả sự nhìn nhận một vị thần Linh Tối Cao hay một Người Cha. Cảm thức và sự nhìn nhận đó làm cho cuộc sống họ thấm nhuần ý nghĩa tôn giáo. Phần các tôn giáo có liên quan mật thiết với tiến bộ văn hóa thì cố gắng giải đáp những vấn đề trên bằng những ý niệm cao siêu và bằng thứ ngôn ngữ ngày càng tinh tế… Giáo hội công Giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Với lòng kính trọng chân thành, giáo hội xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiếu điểm khác nhau với chủ trương mà giáo Hội duy trì, nhưng cũng đem lại ánh sáng của chân lý, chân lý chiếu soi mọi người” (Tuyên ngôn Nostra Aetate. Số 2, Bản dịch của Giáo Hoàng học viện).

Rõ ràng Giáo Hội Chúa Kitô rất tôn trọng các tôn giáo ngoài Kitô Giáo. Ơn Chúa hoạt động trong các tôn giáo đó. Đối với các tín hữu theo các tôn giáo đó, trước Công Đồng vatican II, thần học  vẫn nghĩ rằng nếu họ sống tốt lành theo tiếng nói lương tâm ngay thật của họ, họ được ơn cứu độ vì vô tri bất khả thắng, Công Đồng vatican II xem những người thuộc tôn giáo đa thần là “kẻ tìm kiếm Thiên Chúa qua ngẫu tượng” (Lumen Gentium, số 16), Thiên Chúa hiện diện nơi họ.

Công Đồng không giải thích ơn cứu độ làm sao có trong các tôn giáo ngoài Kitô Giáo.

một số thần học gia đưa ra lý thuyết Đức Kitô hiện diện trong các tôn giáo (théorie de la présence du Christ dans les religions) do Chúa Thánh Thần hoạt động .

Dĩ nhiên các truyền thống tôn giáo của nhân loại là hiện tượng xã hội và đâm rễ sâu trong xã hội,  ảnh hưởng tới xã hội và đã tạo ra những hình thức xã hội nữa, tạo ra thể chế xã hội.  Tôn giáo  lấy con người làm cứu cánh, giúp con người sống tốt dẹp  trừ ra có tôn giáo  tạo ra giai cấp , một thứ định mệnh khắc nghiệt cho con người.

Nhờ sự hiện diện của Chúa Kytô và hoạt động của Chúa Thánh Thần  các tôn giáo có giá trị cứu độ  nghĩa là Chúa Kitô hoạt động, Chúa Thánh  Thần ban ơn mặc dầu họ không có kinh thánh mạc khải, không có Tin Mừng của Chúa Kitô. Đây là các tôn giáo (ngoài Kitô Giáo) có ơn cứu độ không có Phúc Âm. Không thể nói các tôn giáo đó có ơn cứu độ không cần Chúa Kitô. Nhà thần học Karl Rahner gọi là “Kitô giáo vô danh” (Christianisme anonyme).

Như vậy, Chúa Kitô thật  là Đấng cứu độ cho mọi người. Ngài chết cho mọi người và sống lại để ban phát ơn cứu độ cho mọi người.

Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Chúa Kitô mang lấy vật chất, Ngài “thần linh hóa vũ trụ”, Ngài mang lấy bản tính nhân loại, Ngài thu hút tất cả mọi người. Trong Mầu nhiệm Phục Sinh, cường độ nhập thể và nhập thế của Ngài không còn bị cản trở. Dầu mầu nhiệm Nhập thể và Phục Sinh mới được thực hiện sau này, nhưng đã ảnh hưởng tới tất cả trong quá khứ của vũ trụ và đã hướng tất cả về mầu nhiệm đó. Do đó, chỉ có một lịch sử do Thiên Chúa và cũng do con người tạo ra.

Chúa Kitô mạc khải về Chúa Thánh Thần như là Đấng Bảo Trợ (Paraklêtos) khác ( x. Gioan  14,16) , từ Chúa Cha gửi đến  (Gioan  14,16) và chính Chúa Kytô cũng là Đấng Bảo trợ  (I Gioan 2,1) trước tòa Thiên Chúa. Chính Ngài dạy các môn đệ ở lại thành cho đến khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần  (x. Lc 24,49 ; CvTđ  1,8) rồi hãy thi hành lời Ngài dạy :” Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy, làm phép Rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt  28,19-20) .

Sách Tông đồ Công vụ đã cho ta thấy hoạt động của Chúa Thánh Thẩn khi hiện xuống : biến đổi các Tông đồ thành người  học thức (nói tiếng lạ),  giảng dạy có khả năng thu hút lòng người , can đảm. làm phép lạ .

Thành công đầu tiên đưa khoảng ba nghìn người Do Thái vào Đạo Chúa, rồi đến người Samaria,  và các dân ngoại .  Ngày nay, sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại vẩn còn đó, nhất là giúp cho người có Đạo sống Đạo :  phải trung thành với lời Chúa Kytô dạy tức lá  nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn .

Lời nguyện trong tháng sáu nầy : Giáo Hội cầu nguyện cho những người thất nghiệp và cầu cho lòng tin ở Âu châu(Xin cho châu Âu  tìm lại được nguồn cội  Kitô giáo của mình nhở chứng từ Đức tin của người tín hữu ). Cụ thể, người Âu châu vẫn tin Chúa nhưng họ không tới nhà thờ ….Xem đá banh thì khán già chật ních sân trường , năm nào cũng vậy , thế mà đến nhà thờ thì không ! Giá mà không có n.t để các linh mục coi xứ phải làm tạm thời một nhà gần sân banh rồi dùng loa mời người  ta đến sân banh hãy đến dự lễ , trước giờ vào sân ……Gương của các nhà truyền giáo cầu nguyện cho công việc truyền giáo rồi đi đến nơi giúp người ta hiểu Chúa , Không đến với họ, chác chắn chẳng có ai trở lại ?  Xin Chúa Thánh Thần giúp chúng con đang ở Việt Nam giáo dân đến nhà thờ ngày Chúa nhật có nơi đật tới 120% (có người đi hai lễ) đừng rơi vào cảnh ngày Chúa nhật ở Âu châu .

Lm Fx Nguyễn hùng Oánh

 

Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nỗi sợ hãi của Đảng và Nhà nước Việt Nam

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-06

namnguyen06062014.mp3

thien-an-mon-vne-305B.jpg

Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress trước khi bị gỡ xuống hôm 4/6/2014.

RFA Screen Capture

Trong bối cảnh Trung Quốc xâm lấn chủ quyền Việt Nam hạ đặt giàn khoan HD 981 đã hơn một tháng, ngày 4/6/2014 hàng loạt thông tin và hình ảnh kinh hoàng đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên các báo mạng đã đồng loạt bị gỡ xuống.

Nhận định về sự kiện này, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội dân sự phát biểu:

“Rất ngạc nhiên trong việc báo chí đưa tin về một sự thực đã xảy ra đúng một phần tư thế kỷ và người ta không bịa đặt bất kể cái gì, mà cảnh sát tư tưởng ở Việt Nam, tức bên tuyên giáo của đảng cộng sản lệnh cho các báo đã đăng phải rút bài đó xuống. Điều đó chứng tỏ rằng những thế lực trong Đảng Cộng sản Việt Nam còn gắn rất chặt với Trung Quốc. Tôi tin chắc chắn là họ nghe theo lệnh của Bắc Kinh để họ làm như vậy.”

Thái độ của nhà cầm quyền VN

Tin ghi nhận các báo điện tử như VnExpress, Thanh Niên, Người Lao Động, Tiền Phong, Giáo Dục và nhiều trang mạng khác đã phải gỡ bỏ những bài về vụ thảm sát Thiên An Môn 4/6/1989. Bức ảnh 200.000 người biểu tình đòi dân chủ ở Quảng trường Thiên An Môn đầy ấn tượng, hoặc hình ảnh hàng trăm xe tăng mở trận càn giải tán người biểu tình, hình ảnh xác người chết chồng chất trên xe tải, xe kéo, trên đường phố dường như đã chỉ xuất hiện được trong một khoảng thời gian ngắn, sau đó người đọc không còn truy cập được nữa.

Nhận định về sự kiện báo chí Việt Nam bị gỡ bài và hình ảnh vụ thảm sát Thiên An Môn, nhà báo Nguyễn Quốc Thái nguyên Tổng Thư Ký báo Doanh Nghiệp từ Saigon phát biểu:

“Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền VN trong quan hệ với TQ.
-Nguyễn Quốc Thái”

“Vụ Thiên An Môn là một vết nhơ trong lịch sử của Trung Quốc. Những người Trung Quốc tử tế và có lương tâm khi nhớ lại sự kiện này họ đều xấu hổ. Xấu hổ vì văn minh của loài người bị chà đạp, tự do của con người đã bị phỉ nhổ một cách tàn tệ. Việc báo chí Việt Nam mà không đưa được lâu dài thời lượng về vụ Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng có thể vì nhà cầm quyền Việt Nam vẫn nói đó là tình hữu nghị giữa hai nước. Nhưng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói là không thể có sự hữu nghị viển vông. Sự kiện Thiên An Môn sau 25 năm được nhớ lại, nhắc lại và đưa trên báo chí và bị gỡ xuống là một điều cần phải suy nghĩ về sự chọn lựa và thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc.”

Bên cạnh việc sợ mất lòng Trung Quốc, có những ý kiến cho rằng Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam lo ngại hình ảnh hàng trăm ngàn người biểu tình đòi dân chủ ở Thiên An Môn và bị đập tan bằng vũ lực, còn có thể tác động lên phong trào biểu tình vừa phản kháng Trung Quốc vừa đòi dân quyền ở Việt Nam. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái nhận định:

“Ông nghĩ là những hình ảnh đó che dấu được nhân dân Việt Nam sao? Không một tờ báo, không một mạng truyền thông nào đưa hình ảnh đó lên thì từ 25 năm qua những hình ảnh đó vẫn không rời khỏi tâm trí người Việt Nam yêu tự do và dân chủ. Tôi không nghĩ đưa hình ảnh đó lên hay không đưa hình ảnh đó lên là một sự lựa chọn khôn khéo của nhà cầm quyền. Bởi vì nhà cầm quyền biết rằng không thể nào che dấu được hình ảnh bi tráng đó ở quảng trường Thiên An Môn cách đây 25 năm, nghĩ rằng những hình ảnh đó được chuyển tải lại trong lúc này thì không thích hợp với tình hình ở Việt Nam. Tôi nghĩ suy nghĩ đó là một suy nghĩ non nớt.”

Không tuân thủ hiến pháp?

thien-an-mon-vne-250B.jpg

Màn hình sau khi chính quyền Việt Nam cho gỡ Bài báo đánh dấu 25 năm sự kiện Thiên An Môn trên báo mạng VNExpress hôm 4/6/2014. RFA Screen Capture.

Một ngày sau thời điểm 25 năm sự kiện Thiên An Môn mà báo chí bị gỡ bài, chiều 5/6/2014 Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức họp báo quốc tế ở Hà Nội để cập nhật tình hình Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế thềm lục địa Việt Nam kéo dài đã hơn 1 tháng. Người phát ngôn Lê hải Bình cho biết phía Trung Quốc vẫn tiếp tục và có hành vi hung hăng hơn và cũng đưa ra những luận điệu sai trái về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Tại cuộc họp báo, các giới chức Việt Nam đã trả lời vòng vo câu hỏi của các nhà báo nước ngoài, về việc chính quyền ngăn cản người dân biểu tình phản kháng Trung Quốc. Ông Lê Hải Bình phủ nhận việc này và nói rằng người dân Việt Nam hoàn toàn có quyền biểu thị lòng yêu nước của mình theo đúng qui định pháp luật. Khi được hỏi thế nào là biểu tình đúng pháp luật ông Lê Hải Bình nói rằng Việt Nam có những qui định pháp luật về biểu tình.

Nhận định về vấn đề vừa nêu TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:

“Sở dĩ mà họ phải nói lắt léo như vậy là vì họ không dám thừa nhận rằng họ không muốn có bất kể một cuộc biểu tình nào. Trong khi quyền biểu tình được hiến định rành rành từ các Hiến pháp trước chứ không phải chỉ từ Hiến pháp bây giờ. Thay vì họ phải ra Luật để tạo điều kiện cho người dân được biểu tình một cách văn minh thì họ không làm như vậy. Họ ra một Nghị định mà Nghị định ấy thực sự là cấm biểu tình, họ gọi là tụ tập đông người. Như vậy lỗi hoàn toàn thuộc về nhà cầm quyền họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.”

Đáp câu hỏi của chúng tôi, nghĩ gì về những lời tuyên bố của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình xác định là nhà nước không cấm dân chúng biểu tình, khi mà cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc dự kiến vào ngày 18/12014 đã bị dẹp từ trong trứng nước. Nhà báo Nguyễn Quốc Thái thuộc nhóm nhân sĩ trí thức TP.HCM, người từng tham gia nhiều cuộc biểu tình phản kháng Trung Quốc và bị trấn áp phát biểu:

“Tôi không nhắc đến ngày 18/1/2014 hôm đó không có một cuộc biểu tình nào xảy ra ở Việt Nam, bởi vì trước đó nhà nước đã dùng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có trong tay và cơ quan an ninh khuyến cáo nhân dân không xuống đường vào ngày đó. Nhưng những cuộc xuống đường trước ngày 18/1/2014 và trong ba năm trở lại đây không có một cuộc biểu tình chống Trung Quốc nào được lực lượng an ninh của Việt Nam yểm trợ cả. Chắc ông có thể nhìn thấy cảnh những người biểu tình bị đàn áp đánh đập, thậm chí chưa đi biểu tình cũng bị đàn áp đánh đập như cá nhân tôi chẳng hạn. Như vậy nói không có đàn áp người biểu tình là nói dối nhân dân. Bởi nhân dân họ chứng kiến những người xuống đường bị đàn áp, bị đánh đậy bị bắt giữ, hà cớ gì phải chối những điều mình đã dám làm, thiếu một sự dũng cảm đó là điều đáng khinh.”

” Họ đã coi thường người dân, coi thường quyền của người dân. Họ đã không làm được chức năng chính của họ là tuân thủ Hiến pháp tuy rằng còn chưa ra gì do chính họ thông qua.
-TS Nguyễn Quang A “

Tại cuộc họp báo ngày 5/6 tại Hà Nội, trả lời câu hỏi của hãng thông tấn nước ngoài là phía Việt Nam có kỳ vọng vào Mỹ sẽ đóng vai trò hỗ trợ Việt Nam bảo vệ chủ quyền của mình. Người phát ngôn Lê Hải Bình đáp lời rằng: “Việc duy trì ổn định, an ninh và an toàn hàng hải của khu vực là lợi ích, là nghĩa vụ của tất cả quốc gia liên quan trong và ngoài khu vực.

Mỹ là cường quốc của thế giới, cùng với cộng đồng quốc tế, Mỹ cũng có tiếng nói nhằm ổn định an ninh khu vực. Chúng tôi mong muốn Mỹ có hành động mạnh mẽ hơn, đóng góp vào an ninh, an toàn hàng hải khu vực, giải quyết tranh chấp của khu vực thông qua luật pháp quốc tế.”

Có mặt trong cuộc họp báo ông Trần Duy Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia khi trả lời bao chí đã hàm ý cho thấy ít có khả năng Việt Nam khởi động biện pháp lý đối với Trung Quốc. Ông Hải nói các vụ kiện quốc tế đều rất phức tạp, nếu chủ tàu Đà Nẵng kiện Trung Quốc là vụ án dân sự. Nhưng vụ giàn khoan liên quan đến chủ quyền, cần chọn phương án nào tối ưu nhất bảo vệ quyền lợi đất nước.

Nhận định về vấn đề vừa nêu, TS Nguyễn Quang A từ Hà Nội phát biểu:

“Cũng tương tự như chuyện về Thiên An Môn, tôi nghĩ rằng chắc chắn phải có ý kiến của Bắc Kinh thì người ta mới run sợ và người ta bảo báo chí phải rút xuống. Có lẽ cũng tương tự như thế Bắc Kinh như ông tướng Vịnh đã nói, Bắc Kinh nhiều lần yêu cầu Việt Nam là không được đưa ra kiện. Tôi không hiểu giữa Bắc Kinh và Hà Nội có những điều gì ngầm với nhau hay không và có thể có cái gì đó mà họ dọa là họ sẽ đưa ra, thì có thể rất là mất mặt…Và chần chừ ngày nào về việc khởi kiện Trung Quốc thì Việt nam thực sự đầu hàng từ ngày đó.”

Công luận Việt Nam đang đặt câu hỏi với đảng Cộng sản và nhà nước về các biện pháp tiếp theo mà cho đến nay chưa hé lộ. Vì đã hơn 5 tuần lễ, Trung Quốc vẫn duy trì giàn khoan trong vùng biển chủ quyền Việt Nam, đã khoan thăm dò và dịch chuyển đến vị trí khác vẫn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Người dân lo ngại nhịn nhục mãi, coi chừng chẳng còn tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển nào lành lặn mà chấp pháp trên biển.

Giới học giả và trí thức nói rằng, những biện pháp tiếp theo có gì bí mật đâu mà không thể công bố, hay nó cũng bí mật như thỏa thuận Thành Đô 1990 giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bí mật gì ghê gớm đến vậy, khiến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc đó từng phải thốt lên: “Một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã khởi sự.”

Gặp gỡ với ĐTC: Ơn Đạo Đức

Gặp gỡ với ĐTC: Ơn Đạo Đức

Chuacuuthe.com


VRNs (05.06.2014) – Sài Gòn – Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi tiếp kiến chung hôm qua (04.06), ngài tiếp tục bài giáo về bảy ơn ban của Chúa Thánh Thần. Tuần trước vì vừa kết thúc chuyến hành hương Đất Thánh nên ĐTC ôn lại chuyến đi của Ngài đến Đất Thánh. Tuần này ngài trở lại bài giáo lý về ơn Đạo Đức trong bảy ơn ban của Chúa Thánh Thần.

Dưới đây là bài giáo lý đầy đủ của ĐTC

1

Anh Chị em thân mến,

Hôm nay tôi muốn dừng lại ở ơn Đạo Đức là một trong bảy ơn ban của Chúa Thánh Thần mà thường bị hiểu sai và bị xem một cách hời hợt; thay vì nó đụng chạm đến tâm hồn và cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.

Là điều cần thiết để làm rõ hơn về ý nghĩa của Ơn ban này, nó không phải là việc có chút lòng lòng từ bi đối với một ai đó, có lòng trắc ẩn với người hàng xóm chẳng hạn, nhưng nó cho thấy chúng ta thuộc về Thiên Chúa và sự gắn kết sâu thẳm của chúng ta với Ngài, một sự gắn kết mang lại ý nghĩa cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta và giữ chúng ta trong sự kiên định, trong sự hiệp thông với Ngài, cũng như trong những lúc khó khăn nhất.

1. Sự gắn kết này với Chúa không phải là một nhiệm vụ hay một sự áp đặt. Nó là một sự gắn kết đến từ bên trong. Đó là một mối liên hệ sống động trong tâm hồn: đó là tình bạn với Thiên Chúa, ban cho chúng ta Chúa Giêsu; một tình bạn mà thay đổi cuộc sống của chúng ta và đổ đầy nơi chúng ta sự nhiệt tình và niềm vui. Vì vậy, ơn Đạo Đức gợi lên trong chúng ta, trước hết, lòng biết ơn và ca khen. Thực ra động lực và ý nghĩa đích thực nhất của hành vi chúng ta là thờ phượng Thiên Chúa. Khi Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta cảm nhận được sự hiện diện của Chúa và tình yêu của Ngài dành cho chúng ta, Ngài sưởi ấm tâm hồn chúng ta và đưa dẫn chúng ta gần hơn đến việc cầu nguyện và ca tụng Chúa một cách rất tự nhiên. Do vậy Ơn Đạo đức đồng nghĩa với tinh thần tôn giáo đích thực, là lòng con thảo đặt hoàn toàn tin tưởng nơi Chúa, là khả năng để cầu nguyện với Ngài bằng tình yêu và sự đơn sơ mà chỉ có nơi những ai khiêm tốn trong lòng.

2. Ơn Đạo Đức làm cho chúng ta phát triển trong mối liên hệ và hiệp thông với Thiên Chúa và dẫn đưa chúng ta sống như con thảo của Ngài, đồng thời nó giúp chúng ta trao ban tình yêu cho tha nhân và nhận ra họ là anh chị em với mình. Chúng ta được thúc đẩy bởi lòng đạo đức – không phải là chủ thuyết duy đạo đức – trong việc cư xử với những người xung quanh và những ai chúng ta gặp mỗi ngày. Tại sao tôi nói là lòng đạo đức chứ không phải chủ thuyết duy đạo đức?

Bởi vì một số người nghĩ rằng để có sự đạo đức là nhắm mắt lại, nghiền ngẫm và làm cho khuôn mặt mình trở nên siêu thoát như một vị thánh. Trong một tác phẩm nào đó mô tả đạo đức như thể là nhắm mắt lại, đầu lắc lư như lên đồng. Đó không phải là ơn Đạo Đức của Chúa Thánh Thần. Ơn Đạo Đức có nghĩa là có khả năng vui với những người vui, khóc với người khóc, để giúp đỡ những người cần trợ giúp. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa ơn đạo đức và sự hiền lành. Ơn Đạo Đức mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta làm cho chúng ta trở nên nhu mì, điềm tĩnh, kiên nhẫn, bình an trong Thiên Chúa, và phục vụ người khác bằng sự hiền lành.

Anh chị em thân mến, trong Thư gửi tín hữu Rôma, Thánh Tông Đồ Phaolô khẳng định: “Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Vì Thần Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ sệt như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được kêu lên: “Ápba! Cha ơi!”(Rm 8:14-15).

Chúng ta hãy cầu xin với Chúa xin Chúa Thánh Thần ban ơn Đạo Đức để chúng ta có thể khuất phục nỗi sợ hãi, sự không chắc chắn, nỗi bồn chồn, tinh thần thiếu kiên nhẫn và làm cho chúng ta diễn tả ​​niềm vui của Thiên Chúa và tình yêu của chính mình, cùng tôn thờ Chúa trong sự thật và trong việc phục vụ tha nhân, với sự hiền lành và nụ cười trên môi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần ban cho tất cả chúng ta ơn Đạo Đức.

Hoàng Minh

 

Hoa Kỳ cần có vai trò tích cực hơn tại Đông Nam Á

Hoa Kỳ cần có vai trò tích cực hơn tại Đông Nam Á

Việt Hà, phóng viên RFA
2014-06-04

vietha06042014.mp3

IMG_6460-305.jpg

Các đại biểu tại Hội thảo Philippines, Việt Nam và những tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington DC vào sáng ngày 3 tháng 6 năm 2014.

RFA

Một cuộc hội thảo có tên Philippines, Việt Nam và những tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông vừa được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington DC vào sáng ngày 3 tháng 6. Cuộc hội thảo có sự tham dự của những diễn giả đến từ Philippines, Việt Nam, Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Bất đồng giữa Mỹ và Trung Quốc

Căng thẳng gần đây ở biển Đông giữa Trung Quốc và nước láng giềng Việt Nam xung quanh vụ giàn khoan HD 981 cho thấy sự bất đồng ngày càng lớn giữa hai cường quốc là Mỹ và Trung Quốc. Đó là nhận định mở đầu buổi hội thảo của ông Robert Daly, Giám đốc Viện Kissinger về Trung Quốc và Mỹ thuộc Trung Tâm Quốc tế Woodrow Wilson:

“Trong vài tuần qua chúng ta đã chứng kiến tranh chấp lâu nay đe dọa trở thành một khủng hoảng quốc tế. Những lo lắng của vụ tranh chấp, tương đương như những lo lắng về sự triển khai rầm rộ các loại tàu và sự kiên quyết trong khẳng định chủ quyền cũng tương đương như nỗi lo về một thực tế  là hai nước lớn Mỹ, Trung Quốc không thể đồng ý với nhau về những điểm bất đồng. Chúng ta thậm chí cũng chưa bắt đầu thảo luận đến việc điều hòa những bất đồng này một cách hòa bình. Hai bên cũng chưa có được thống nhất về điểm nào bao gồm một thực tế, đâu là quy định chung về dẫn chứng, và cái gì bao gồm trong một lập luận hợp lý, và vai trò của luật quốc tế ra sao….”

Theo chuyên gia Robert Daly, Hoa Kỳ liên tục đưa ra những lập luận hợp lý mang tính xây dựng nhưng đều bị khước từ trong khi Trung Quốc tin là những lập luật của họ xung quanh cái gọi là chủ quyền mang tính lịch sử không thể chối cãi đã bị lờ đi.

Trong vài tuần qua chúng ta đã chứng kiến tranh chấp lâu nay đe dọa trở thành một khủng hoảng quốc tế.
-Ông Robert Daly

Sau khi Trung Quốc đặt giàn khoan HD 981 gần quần đảo Hoàng Sa đang tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc hồi đầu tháng năm vừa qua, giới chức Hoa Kỳ đã nhiều lần lên tiếng cáo buộc đây là hành động gây hấn đơn phương từ phía Trung Quốc gây bất ổn cho khu vực. Để đáp lại những lên án từ Hoa Kỳ, tại đối thoại Shangri-la, diễn ra cuối tháng 5 đầu tháng 6 tại Singapore, bà Phó Oánh, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Trung Quốc đã cảnh báo Hoa Kỳ không nên can thiệp vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Tiến sĩ Aileen San Pablo-Baviera, thuộc trường đại học Philippines, trong bài phát biểu tại hội thảo thì cho rằng những căng thẳng gần đây tại biển Đông cho thấy rõ hơn những thách thức về an ninh trong khu vực. Bên cạnh những thách thức liên quan đến các tranh chấp về chủ quyền là thách thức về sự đối đầu giữa các cường quốc, nổi bật là Mỹ và Trung QUốc. Tiến sĩ Braviera cáo buộc các hành động đơn phương gần đây của Trung Quốc đã gây căng thẳng cho khu vực.

Tiến sĩ Baviera nói Trung Quốc đã gia tăng đòi hỏi chủ quyền trong khu vực đường 9 đoạn với việc sử dụng đông đảo các tàu bán quân sự, trong khi các tàu quân sự sẵn sàng đáp ứng khi cần thiết. Tiến sĩ Baviera cũng nhìn nhận Hoa Kỳ đã đưa ra lập trường rõ ràng và mạnh mẽ hơn liên quan đến những hành động gần đây của Trung Quốc và bảy tỏ quyền lợi của Mỹ ở khu vực, cũng như khẳng định cam kết hỗ trợ cho đồng minh của mình tại khu vực, mà cụ thể là Philippines, trước những thách thức từ Trung Quốc.

Trung Quốc gây bất ngờ với ASEAN

Đến từ Việt Nam, diễn giả Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao cho rằng Việt Nam và các nước ASEAN đã hoàn toàn bất ngờ trước hành động mới của Trung Quốc tại biển Đông:

“Hành động của Trung quốc làm ASEAN bất ngờ. Một mặt chúng tôi nhìn thấy hy vọng, tương lai phát triển quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, nhưng thật bất ngờ khi quan hệ giữa hai phía bị chuyển sang một hướng khác mà không một ai đoán trước…”

IMG_6473-250.jpg

Tiến sĩ Aileen San Pablo-Baviera, thuộc trường đại học Philippines (trái) và diễn giả Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Ngoại giao Việt Nam tại Hội thảo Philippines, Việt Nam và những tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông được tổ chức tại Trung tâm Wilson ở Washington DC vào sáng ngày 3 tháng 6 năm 2014. RFA PHOTO.

Học giả Việt Nam đưa ra những bằng chứng về cơ hội cho sự phát triển quan hệ hai phía thời gian qua. Theo ông Tuấn, với một thị trường hơn 600 triệu dân và GDP hơn 2 ngàn 300 tỷ đô la, ASEAN có thể trở thành một thị trường lớn trên thế giới và là  nền tảng cho sự phát triển quan hệ với Trung Quốc. Đó là chưa kể tiềm năng kim ngạch hai chiều giữa ASEAN và Trung Quốc ước tính ở mức 400 tỷ đô la có thể được đưa lên mức 1.000 tỷ đô la vào năm 2020. Mặt khác, học giả Việt Nam cũng nhìn nhận những tín hiệu tích cực từ những lãnh đạo mới của Trung Quốc thể hiện bằng các chuyến viếng thăm các nước ASEAN sau khi nhậm chức vào cuối năm 2012. Ông Hoàng Anh Tuấn cũng cho rằng những lời hứa về hợp tác giữa Trung Quốc và Việt Nam, hay đường dây nóng đã trở thành vô nghĩa khi nó không thể được thực hiện như mục đích ban đầu được đặt ra.

Theo Tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn, Trung Quốc sẽ không chỉ dừng lại ở việc đặt giàn khoan tại khu vực thềm lục địa của Việt Nam mà có thể dịch chuyển tới các vùng nước đang tranh chấp với các nước láng giềng khác. Học giả Việt Nam cho rằng vấn đề tranh chấp tại khu vực quần đảo Hoàng Sa bây giờ không còn là vấn đề song phương mà là đa phương vì nó đe dọa đến an ninh chung của toàn khu vực.

Tại sao TQ hành động đơn phương?

Một mặt chúng tôi nhìn thấy hy vọng, tương lai phát triển quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, nhưng thật bất ngờ khi quan hệ giữa hai phía bị chuyển sang một hướng khác.
-Ô. Hoàng Anh Tuấn

Lý giải về những hành động gần đây của Trung Quốc tại biển Đông, đặc biệt là vụ giàn khoan HD 981, học giả Yun Sun, thuộc Trung tâm Stimson nói rằng Trung Quốc quyết định đưa ra các hành động bị các nước gọi là đơn phương và gây hấn là do Trung Quốc nhìn thấy việc kiềm chế hành động đơn phương trong quá khứ đã không cải thiện được vị thế của Trung quốc trong đòi hỏi chủ quyền của mình và với việc Trung Quốc không hành động gì chỉ khiến các nước khác trong khu vực có các hành động gia tăng chủ quyền của mình. Vì vậy đây là hành động nhằm cải thiện vị thế của Trung Quốc trong cuộc chơi và trong các đàm phán tương lai.

Ngoài ra còn có một số lý do khác được học giả Yun Sun đưa ra là chiến lược xây dựng cường quốc biển của  Trung Quốc được đưa ra từ nhiều năm trước. Trong khi việc mở rộng tầm hoạt động của hải quân Trung Quốc gặp trở ngại tại biển Hoa Đông từ phía Nhật Bản, biển Đông là một khu vực được cho là thuận lợi hơn để Trung Quốc thực hiện tham vọng này. Vấn đề tranh chấp biển đảo cũng liên quan đến vấn đề chính trị nội bộ của Trung Quốc khi Chủ tịch Tập Cận Bình muốn sử dụng chính sách ngoại giao để làm cải thiện hơn nữa hình ảnh của mình khi những chính sách cải tổ kinh tế và chống tham nhũng trong nước của ông gặp những trở ngại. Lý do cuổi cùng được đưa ra lý giải cho những hành động gần đây của Trung Quốc là việc Mỹ khó có khả năng can thiệp về mặt quân sự với dẫn chứng về cuộc khủng hoảng Ukraine gần đây và nhất là vụ tranh chấp bãi Scarborough Shoal với Philippines vào năm 2012. Theo học giả Yun Sun, Trung Quốc cho rằng họ có khả năng thực hiện một khủng hoảng có thể kiểm soát được mà không phải đối đầu trực tiếp với Mỹ. Với vụ giàn khoan dầu, Trung Quốc càng có thể làm mạnh khi Việt Nam cũng không phải là đồng minh của Mỹ.

Theo học giả Yun Sun, Trung Quốc đã cân đong những mặt thiệt và hơn trong những hành động gần đây và họ cho rằng mặt lợi đã vượt hơn nhiều so với những thiệt thòi mà họ có thể gánh chịu.

Kêu gọi Mỹ tham gia tích cực hơn

Học giả Philippines và Việt nam cho rằng Mỹ cần đóng một vai trò tích cực hơn trong khu vực. Theo Tiến sĩ Braviera, ASEAN hiện vẫn còn chia rẽ về vai trò của Mỹ ở khu vực. Một số nước hoan nghênh Mỹ, một số thì lo ngại sự tham gia của Mỹ trong khu vực có thể làm tình hình thêm phức tạp.

Tiến sĩ Braviera cho rằng, Mỹ cần cho các nước ASEAN thấy vai trò tích cực của mình trên nhiều mặt bao gồm ngoại giao, kinh tế, môi trường, biến đổi khí hậu và quân sự, qua các diễn đàn đa phương, nhất là cần phải tỏ rõ lập trường của mình qua việc thông qua Công ước về luật biển 1982.

Tiến sĩ Hoàng Anh Tuấn đề nghị Hoa Kỳ giúp đoàn kết ASEAN hơn nữa và khuyến khích Trung Quốc tham gia đàm phán tích cực với ASEAN để giải quyết các vấn đề một cách hòa bình.

httpv://www.youtube.com/watch?v=OFGanVY_AmM

Tinh thần quốc tế cộng sản và xung đột lợi ích quốc gia

Tinh thần quốc tế cộng sản và xung đột lợi ích quốc gia

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-02

06022014-kinhhoa.mp3

000_Hkg9833728-600.jpg

TBT Đảng cộng sản VN Nguyễn Phú Trọng (T) và ông Võ Kim Cự, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, nói chuyện với nhau trước phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội tại Hà Nội vào ngày 19/5/2014.

AFP photo

Một trong những ý tưởng hấp dẫn nhất của học thuyết cộng sản là tinh thần quốc tế của học thuyết này. Theo lý tưởng ấy thì các tầng lớp lao động là công nhân và nông dân khắp nơi trên thế giới đoàn kết lại chống những kẻ tư bản bóc lột, vì thế những người cộng sản từ những quốc gia khác nhau sẽ không phân biệt nhau, bỏ qua lợi ích của quốc gia nhỏ hẹp mà hướng tới một thế giới đại đồng, một quốc tế vô sản, một quốc tế cộng sản. Và dĩ nhiên các đảng cộng sản trên thế giới đều có biểu tượng chung là hình ảnh búa liềm trên nền đỏ.

Trong suốt thời gian tồn tại của phong trào cộng sản, lý tưởng quốc tế cộng sản đã được diễn dịch qua nhiều hành động khác nhau. Đầu tiên có lẽ đó là sự thành lập Đệ tam quốc tế thống lĩnh tất cả các đảng cộng sản trên thế giới. Sau đó là những cuộc chiến tranh, đối đầu, can thiệp, … nhân danh tinh thần quốc tế cộng sản như vụ can thiệp vào Hungary năm 1956, cuộc can thiệp của Quân giải phóng nhân dân Trung hoa vào Triều tiên, các cuộc phiêu lưu quân sự của Cuba ở châu Phi,…

Nhưng ngay cả trong thời kỳ thịnh vượng nhất của khối các quốc gia cộng sản, người ta cũng thấy rằng tinh thần quốc tế của những người cộng sản đôi khi không vượt qua được những ích lợi dân tộc. Một giáo viên người Việt học tập ở Ba Lan nói với chúng tôi rằng người Ba Lan vẫn bực tức về việc miền Đông của nước này bị Hồng quân Liên Xô đánh chiếm hồi năm 1939 và không hề được trả lại. Năm 1969 một cuộc xung đột ngắn nhưng cũng đẫm máu bùng nổ giữa hai nước lớn nhất khối cộng sản là Liên Xô và Trung Quốc, xung đột Việt Nam Trung quốc đến ngày hôm nay vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc…

Song thực nghiệm cộng sản đã thất bại, với sự kiện bức tường Berlin sụp đổ cách đây 25 năm. Cốt lõi chính trị công nông của nó thất bại, và các đảng cộng sản được cho là đã không bảo vệ được những người thợ và nông dân khi họ lên cầm quyền. Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, một nhà bất đồng chính kiến nói về sự thất bại này một cách châm biếm:

“Đảng cộng sản cứ mà nhân danh cái gì đó thì cái đó chết, nhân danh công nhân là giai cấp tiền phong lãnh đạo thì bây giờ khổ nhất là công nhân. Lại nhân danh công nông, trong đó có nông dân thì nông dân bây giờ mất hết cả ruộng đất phải đi làm thuê.”

Đảng cộng sản cứ mà nhân danh cái gì đó thì cái đó chết, nhân danh công nhân là giai cấp tiền phong lãnh đạo thì bây giờ khổ nhất là công nhân.
– Tiến sĩ Hà Sĩ Phu

Một trí thức trẻ rời bỏ đảng cộng sản hồi năm 2013 cũng nói rằng ông cảm thấy những lý luận của đảng cộng sản cầm quyền là không ổn để điều hành quốc gia. Việc điều hành này bao gồm cả những chính sách đối ngoại trong thời đại mới mà Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu cho rằng không thể được thực hiện bởi hai đảng cộng sản với nhau được.

Ông Robert Kaplan viết trong quyển Biển Nam Trung hoa (Biển Đông) nồi thuốc súng của châu Á, rằng những xung đột về địa chính trị và lợi ích quốc gia vẫn đang ngự trị nền chính trị của thế giới trong thế kỷ 21 này. Ông đặc biệt phân tích cách tiếp cận của nước Trung Quốc hiện đại về vai trò đế quốc của mình. Theo ông, nước Trung Quốc được dẫn dắt bởi đảng cộng sản hình dung trật tự mới trong vùng châu Á là một nơi mà Trung Quốc là trung tâm còn xung quanh là các quốc gia lệ thuộc. Một triết lý không khác mấy với đế chế Trung Hoa ngày xưa.

Trật tự này rõ ràng không phải là trong một tinh thần quốc tế cộng sản như lý thuyết cộng sản đề cao.

Nhưng có vẻ như đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn nghĩ tới tinh thần quốc tế vô sản ấy với những khẩu hiệu như Nghĩ tới đại cục mà bỏ qua những bất đồng, khi nói về quan hệ Việt Nam Trung Quốc.

Từ khi quan hệ Trung Quốc Việt Nam được bình thường hóa sau cuộc chiến đẫm máu 1979 đến nay, quan hệ hai đảng cộng sản Việt Trung thường xuyên được ca ngợi và dường như nó chỉ đạo mọi hoạt động đối ngoại của Việt nam.

Mâu thuẫn với lợi ích quốc gia

Sự kiện giàn khoan nước sâu của Trung Quốc kéo vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam đang đẩy những mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia và cái gọi là tinh thần quốc tế cộng sản lên cao nhất. Một nguồn tin được các cơ quan truyền thông lớn trích dẫn nói rằng ông Nguyễn Phú Trọng đã bị những người đồng lý tưởng cộng sản với ông ở Bắc Kinh từ chối gặp gỡ. Đây không phải là một tuyên bố chính thức, nhưng điều chắc chắn là từ khi cuộc khủng hoảng giàn khoan bùng nổ đúng một tháng trước đây, ông Trọng giữ một sự im lặng đáng ngạc nhiên.

Trong khi đó nhiều tiếng nói cất lên yêu cầu từ bỏ những lý tưởng cộng sản và quan niệm quốc tế cộng sản ấy để tìm kiếm một sự cân bằng quyền lực mà đối chọi với Trung quốc. Tiêu biểu cho những ý kiến đó là ông Cù huy Hà Vũ. Ông phát biểu với chúng tôi từ Washington DC rằng trong tình hình hiện nay chỉ có thể liên minh quân sự với Hoa Kỳ mới đương đầu được với Trung Quốc. Ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà địa chất lâu năm rất quan ngại về việc bảo vệ các nguồn tài nguyên cho Việt Nam trong lòng biển Đông cũng cùng quan điểm này với ông Vũ.

Nhà bất đồng chính kiến Hà Sĩ Phu và Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một trong những người chủ xướng trang Bauxite Việt Nam chống việc khai thác bauxite có liên quan đến các công ty Trung Quốc thì cho rằng ngay trong đảng cộng sản Việt Nam cũng có những người muốn thoát ra khỏi sự kiềm chế của Trung Quốc dưới lý tưởng quốc tế cộng sản

Cựu đại tá Bùi Tín của Quân đội nhân dân Việt Nam, trong một cuộc phỏng vấn gần đây với chúng tôi thì nói rằng ông rất nghi ngại về việc đảng cầm quyền ở Việt nam vẫn đang kiên trì đường lối Mác Lê nin trong cuộc khủng hoảng giàn khoan đang diễn ra ngoài biển Đông:

Tôi hoài nghi lắm! Bởi vì cái gánh nặng về giáo điều nó nặng quá. Muốn như vậy thì anh phải bỏ cái Mác-Lê Nin đi chứ

Dĩ nhiên đường lối đối ngoại của một quốc gia sẽ bị chi phối bởi chính sách của đảng cầm quyền. Nhưng liệu xung đột lợi ích quốc gia có được giải quyết bằng tinh thần quốc tế vô sản xưa cũ đã được các nhà triết lý cộng sản nêu lên cách nay hơn 100 năm hay không? Nội dung này đã được ông Bùi Tín đề cập trong cuộc phỏng vấn dành cho chúng tôi và cũng là câu hỏi lớn mà nhiều người dân đang mong đợi câu trả lời từ đảng cầm quyền, và sẽ được minh chứng bằng những gì đang và sẽ diễn ra ngoài biển Đông.

Những người xứ miệt vườn đi bán thận

Những người xứ miệt vườn đi bán thận

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2014-06-03

RFA

mien-tay-305.jpg

Một người lao động thu nhập thấp ở miền Tây.

RFA

Chuyện bán thận của những người nghèo ở miệt vườn Tây Nam Bộ không phải là chuyện mới mẽ gì, nó đã diễn ra gần mười năm nay nhưng mới được phát hiện và báo chí vào cuộc trong vài tháng trở lại đây. Khi báo chí đánh động cũng là lúc mà hậu quả kinh hoàng của nó đã ập lên nhiều số phận, nhiều gia đình ở đây. Hầu như những ai từng bán thận đều có cuộc đời nghèo khổ, trái ngang, mong cứu được sự xuống dốc của gia đình bằng một phần thân thể quan trọng của mình nhưng rồi sau khi bán thận, mọi bi kịch lại ập xuống theo một lối khác.

Bán thân và bán thận

Một người tên Mỹ, ở thành phố Cần Thơ, chia sẻ: “Giống như người ta thiếu nợ, họ bán một của thận khoảng một trăm, nó mua vô một trăm, một trăm mấy nhưng nó mua của người ta năm, bảy chục triệu gì đó! Nhưng bán quả thận rồi thì đâu có còn sức lao động đâu. Như có một ông, ổng nghĩ ổng có sức khỏe đầy đủ, thấy vợ con, gia đình khổ quá, nợ nần nên bán bớt một trái, cuối cùng về mất sức lao động luôn, đâu có làm nổi. Có một số thì chồng đi làm, vợ ở nhà, ở không nên sinh ra cờ bạc, nợ nần, một phần con cái bệnh, nhưng con cái bệnh thì ít, nặng vì vợ thì nhiều, ở không không biết làm gì nên gây ra nợ nần.”

Như có một ông, ổng nghĩ ổng có sức khỏe đầy đủ, thấy vợ con, gia đình khổ quá, nợ nần nên bán bớt một trái, cuối cùng về mất sức lao động luôn, đâu có làm nổi.
-Ông Mỹ

Theo ông Mỹ, cho đến thời điểm hiện tại, vấn đề người nghèo đi bán thận để cứu gia đình đã trở thành một đại nạn của người dân nơi đây. Và đối tượng đi bán thận thường là người lâm vào tình trạng khốn cùng, có nghĩa là nông dân quá nghèo hoặc những người từng giàu có nhưng vì một nguyên nhân nào đó dẫn đến trắng tay, cuối cùng, để cứu gia đình họ thoát khỏi cái nghèo, họ quyết định đi bán thận, họ cứ nghĩ chuyện đi bán thận cũng giống như đi bán máu ở các bệnh viện nhưng lại có mức thu nhập cao hơn chứ chưa hình dung được mức độ nguy hiểm và rủi ro của nó.

Có một đặc điểm là đa phần những người đi bán thận đều có tiền sử đi bán máu ở các bệnh viện thành phố. Nhiều gia đình có hai, ba người lên các bệnh viện bán máu theo định kì. Tuy phải cật lực làm việc, phải bán máu định kì nhưng cái nghèo vẫn cứ ám lấy họ, làm thuê cuốc mướn, gặt lúa thuê, làm đủ các nghề mà nghèo vẫn cứ nghèo.

mien-tay-2-250.jpg

Một xóm có nhiều người bán thận ở Cần Thơ. RFA PHOTO.

Thời gian mười năm trở lại đây, khi người Trung Quốc sang miền Tây ngày càng nhiều thì cũng là lúc mà người dân nghe được một món hàng mới có thể bán kiếm được nhiều tiền. Cô Út Thủy, một người từng bán thận, buồn bã nói với chúng tôi rằng ở xứ của cô, nếu không may rơi phải cảnh nghèo khổ thì chỉ có con đường duy nhất là bán thân, nếu không bán thân thì khổ tới khi xuống mồ. Bây giờ, nghe tin bán thận, cô thấy dù sao bán thận cũng hay hơn bán thân vì bán thận chỉ đau một lần, nó khác xa với việc bán thân phải chịu đau khổ dai dẵng suốt cuộc đời.

Có lẽ chính vì thế mà không ít phụ nữ Tây Nam Bộ ở lứa tuổi còn rất trẻ đã chấp nhận đi bán thận để cứu gia đình. Nhưng rất tiếc là họ đã gặp những tay cò để bán với giá rẻ bèo, số tiền từ sáu chục đến bảy chục triệu đồng, trên thực tế, giá của nó cao gấp nhiều lần so với giá họ bán. Và thường thì họ gặp những tay cò người Trung Quốc biết nói tiếng Việt hoặc thông qua những phiên dịch người Việt, và gặp cả hai loại người này, đều phải bán với giá rẻ bèo vì đây là những tay cò cấp hai, cấp ba và giữa họ có sự thống nhất với nhau về chia chác, giá cả thị trường, nên người chịu thiệt bao giờ cũng là dân nghèo, vừa bị ăn chặn nhiều hướng lại phải lãnh hậu quả lâu dài.

Bị người Trung Quốc lừa đảo?

Một người tên Khải, ở Long Xuyên, An Giang, chia sẻ thêm:“Có một số thì họ bán thận, nghe Trung Quốc hô giá cao quá đó… Có người thì kinh tế khó khăn, nợ nần, đủ thứ việc hết, cho nên sao? Người ta phải bán thận, có người bán một trái, có người bán hai trái, vẫn sống nhưng không lao động được. Gia đình giàu có mà lâm vào cảnh nợ nần mới bán, còn gia đình nghèo thì họ sống rất hạnh phúc, khổ tâm thế! Còn gia đình hồi trước rất giàu nhưng giờ đi bán thận, một là cờ bạc, bài số lâm vào cảnh vợ con, tan nhà nát cửa, buộc phải bán cái quả thận để giải quyết một số nợ, bế tắc.”

Theo anh Khải, những trường hợp bán thận trong hai năm trở lại đây có thân thế khá phức tạp. Nghĩa là không giống như nhiều người bán thận ở Tây Nam Bộ trước đây, đa phần họ là những người từng giàu có, khá giả, nhưng do chơi thân với người Trung Quốc, thậm chí có mối quan hệ làm ăn, dây mơ rễ má với những nhà buôn Trung Quốc, về lâu về dài, làm ăn cẩu thả, đề đóm liên miên đâm ra sự nghiệp tan nát, nợ nần chồng chất, đến đường cùng, chọn giải pháp bán thận để thoát nợ nhưng lại rơi vào bi kịch khác.

mien-tay-3-250.jpg

Nhà sàn ở ngoại ô Cần Thơ. RFA PHOTO.

Vì đa phần những người bán thận xong, khi về nhà thì sức khỏe bị tuột dốc hẳn, không thể làm những công việc trước đây, thậm chí có người đi đứng còn không được bình thường nữa chứ đừng nói gì đến chuyện lao động, làm ăn. Và từ chỗ một người khỏe mạnh, họ trở thành bệnh nhân, thành gánh nặng của gia đình. Số tiền sáu, bảy chục triệu có được nhờ bán thận không những không giúp gia đình trả được nợ mà còn không đủ để chạy chữa bệnh tật sau khi mất đi một phần quan trọng trong cơ thể.

Anh Khải cho biết thêm, sở dĩ đa phần người bán thận phải ra nông nổi như thế là do họ bị mắc vào cái bẫy tiền tài do người Trung Quốc sắp đặt trước đó. Anh cũng thừa nhận là người Trung Quốc quá thâm hiểm và tính toán rất kĩ lưỡng, trong khi đó người Tây Nam Bộ thì tính tình hồn nhiên, thẳng ruột ngựa và sẵn sàng chơi hết mình một khi đã thân thiết, tin tưởng. Lợi dụng sự tin cẩn của bà con, các tay cò người Trung Quốc đã sắp đặt một kịch bản, đầu tiên là sang làm ăn, buôn bán các loại nông sản, hải sản, sau đó rủ rê một số người nhẹ dạ đưa con gái sang Trung Quốc lấy chồng, nếu không có con gái thì rủ con cháu bà con, hàng xóm láng giềng cũng được.

Chính vì khoản tiền kiếm được rất dễ dãi từ chỗ cò người nhà, họ hàng lấy chồng Trung Quốc, dần dà, người Tây Nam Bộ hiền lành lún sâu vào tham vọng kiếm tiền bằng nhiều cách, trong đó có đầu tư lâu dài vào dịch vụ mai mối chồng nước ngoài. Và đây là giai đoạn bao nhiêu tiền kiếm được của họ mang đổ sông đổ bể. Chỉ cần hai lần làm ăn thất bại vì lý do này, lý do nọ, coi như sạch vốn, phải thế chấp nhà cửa để lao theo sự nghiệp cò hôn nhân này. Khi mọi sự đã đến đường cùng, phá sản và nợ nần chồng chất, hết đường, người bạn Trung Quốc kia sẽ khuyên người bạn Việt Nam đi bán thận để trừ nợ.

Lần bán thận cũng là lần cuối người Trung Quốc chơi với người Việt ở đây và là cú hốt hụi chót của họ. Một khi gom được mối từ ba người trở lên chấp nhận bán thận, họ kiếm lãi ít nhất cũng được sáu chục ngàn đô la tiền lãi. Như vậy, coi như khoản lãi ròng đã nhận được, họ quất ngựa truy phong.

Với những người nghèo miệt Tây Nam Bộ, việc bán thận cứ ngỡ là cứu rỗi, là sự vớt vát họ thoát khỏi dòng xoáy của nghèo đói. Thế nhưng họ không hề hay biết là lựa chọn này đã dắt gia đình họ đến chỗ bi kịch không lối thoát và biến họ thành những bệnh nhân, người tàn tật!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

httpv://www.youtube.com/watch?v=PYYGvYaBsbM

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Ưu tiên hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-04

namnguyen06042014.mp3

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc

RFA file

Trước khả năng chính quyền Việt Nam khởi kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về vụ giàn khoan HD 981 xâm phạm vùng biển Việt Nam, nhiều ý kiến từ giới học giả trí thức cho rằng nhà nước phải nhanh chóng  hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958 về việc công nhận lãnh hải Trung Quốc.

Khúc xương mắc nghẹn

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 từng được coi là một khúc xương mắc nghẹn của Việt Nam. Lúc đó Trung Quốc tuyên bố chủ quyền lãnh hải 12 hải lý tính từ đất liền, kể cả các hải đảo như Tây Sa và Nam Sa tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Ngày 14/9/1958, ông Phạm Văn Đồng Thủ tướng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã gởi công hàm ngoại giao tán thành tuyên bố đó của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Sau này Phía Trung Quốc đã sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng như một lợi thế trong mọi tranh chấp chủ quyền biển đảo với Việt Nam.

Qua vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 bất hợp pháp xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở ngoài khơi tỉnh Quảng Ngãi, hôm 23/5/2014 lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Việt Nam họp báo chính thức ở Hà Nội để biện giải công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị. Công luận Việt Nam đưa ra rất nhiều ý kiến tranh cãi phản biện về nội dung công hàm Phạm Văn Đồng và về cách thức làm thế nào để vô hiệu hóa giá trị của nó.

Chúng tôi ghi nhận ý kiến mới nhất của học giả Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu biển Đông hiện sống và làm việc ở Sài Gòn. Ông nói:

Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.
-Thạc sĩ Hoàng Việt

“Dù là người phát ngôn Bộ Ngoại giao hay là Thứ trưởng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao thì đều không có giá trị, phải có một Nghị quyết của Quốc hội phủ nhận hoàn toàn công hàm Phạm Văn Đồng thì mới có thể đấu lại Trung Quốc. Còn công hàm Phạm Văn Đồng đúng hay sai thì kiện ra tòa các nhà luật học sẽ chứng minh công hàm đó đúng hay sai ở mức độ nào trong từng thời điểm của lịch sử. Tôi nghĩ rằng tôi không bênh Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhưng như tôi đã thường nói cái ý thức hệ đồng chí anh em nó đã khiến cho những người lãnh đạo Việt Nam đã phải ký cái công hàm này thì đó là cái giá phải trả rất lớn mà đến ngày hôm nay không rút được kinh nghiệm thì Việt Nam sẽ còn trả những cái giá lớn hơn mất trọn biển Đông.”

Một trong các luận điểm được nhiều học giả Việt Nam và nay cũng là luận điểm của giới chức chính phủ Việt Nam để hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng 1958.  Đó là miền Bắc vào thời điểm 1954-1975 không có thẩm quyền gì đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa do miền Nam tức quốc gia Việt Nam Cộng Hòa quản lý và không thể cho người khác cái gì mà bạn chưa có được. Thạc sĩ Hoàng Việt, giảng viên luật quốc tế Đại học Luật TP.HCM, thành viên Quỹ nghiên cứu biển Đông đã kiên trì với lập luận của mình:

“Không có ông nào ở miền Bắc lúc đó có quyền nói về công nhận Hoàng Sa Trường Sa được cả. Bởi vì lúc đó theo Hiệp định Geneve 1954 chia đôi hai miền Nam Bắc, rõ ràng là một bên từ vĩ tuyến 17 trở ra là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; một bên từ vĩ tuyến 17 trở vào là Việt Nam Cộng Hòa. Rõ ràng hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa thuộc về Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thì có tư cách gì mà nói đến.”

Đề nghị vô hiệu hóa công hàm PVĐ

Untitled-2.jpg

Công hàm Phạm Văn Đồng 1958

Ngày 26/5/2014 ông Trương Nhân Tuấn, một người Việt Nam cư trú ở Pháp đã gởi thư không niêm cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh để góp ý là, các luận cứ của giới chức chính phủ và nhiều học giả khác có thể bất lợi và khó thuyết phục về việc công hàm Phạm Văn Đồng 1958 không có giá trị. Ông Tuấn viện dẫn Hiệp định Geneve 1954 xác nhận Việt Nam là nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất và được tái xác nhận theo Hiệp định Paris 1973. Theo Hiệp định Geneve 1954, Việt Nam là một quốc gia nhưng tạm thời bị phân chia, trong khi chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Từ quan điểm này, ông Trương Nhân Tuấn đề nghị vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.

Trong dịp trả lời Gia Minh đài ACTD, ông Trương Nhân Tuấn phát biểu:

“Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoảng thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và đe dọa toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.”

Rất khác biệt với ý kiến của ông Trương Nhân Tuấn, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng một nhà hoạt động xã hội dân sự từ Đà Nẵng nhận định:

“Lẽ ra mình phải làm ngay chuyện này trước, tức là hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng. Thứ hai là phải thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa để chúng ta có tuyên bố chủ quyền liên tục từ 1954 tới 1975 vì chủ quyền Hoàng Sa từ 1954 tới 1975 Việt Nam Dân Chủ Công Hòa ở phía Bắc không có tuyên bố chủ quyền. Cho nên hai điều quan trọng nhất là phải hóa giải cho được công hàm Phạm Văn Đồng, tức là phải tuyên bố rõ với thế giới là công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị, thứ nhất là không được Quốc hội thông qua. Thứ hai là trong hoàn cảnh VNDCCH phía Bắc đã không sở hữu quần đảo Hoàng Sa này. Và thứ ba để có một tuyên bố chủ quyền liên tục, để tiến tới kiện thì phải có tuyên bố với thế giới, có văn bản thừa nhận chính quyền VNCH. Phải có những tiền đề rồi sau đó cùng với các nước ASEAN, cụ thể là những nước có tranh chấp như Philippines, Malaysia, Indonesia. Những chuyện về các hòn đảo thì mình bàn trước đi để thống nhất tạo một cái luật chơi.”

Công luận Việt Nam, từ báo chí chính thức đến các diễn đàn xã hội đều cho thấy nhà nước Việt Nam phải đặt ưu tiên số một về việc hóa giải công hàm Phạm Văn Đồng, còn làm thế nào để vô hiệu hóa nó thì sự tranh cãi vẫn đang tiếp tục. Liệu Việt Nam có thể khởi kiện Trung Quốc hay không trước khi thực sự hóa giải được công hàm Phạm Văn Đồng 1958.