(Những bí mật thú vị về) Báo “Nhân Dân” ?

(Những bí mật thú vị về) Báo “Nhân Dân” ?

Sao Hồng:

Với nghề báo và nhà báo đúng nghĩa, viết tự do theo tư duy
của mình và thực tế cuộc sống xã hội thì viết được rất nhanh và sản
phẩm thường hay. Nhưng sẽ rất khó được in, thậm chí có khi còn vô tù
vì một bài báo. Viết theo khuôn khổ đã định hướng thì rất khó viết
được nhanh. Nhưng bài viết rất dễ được in và thường là nhạt nhẽo. Nhân
“89 năm ngày Báo chí Cách mạng”, ngày tờ báo THANH NIÊN của Thanh Niên
Đồng minh Hội ra số đầu tiên (21/6/1925 – 21/6/2014), mình post lại
bài viết năm ngoái về tờ báo Nhân Dân.

1. Ký ức đọc “Nhân Dân”

“Nhân Dân”, (gọi tắt cho nó gọn), đó là tờ báo in mình tiếp xúc đầu
tiên trong “sự nghiệp… đọc báo” của mình.

Những năm 1960s, khi máy bay Mỹ bắt đầu leo thang đánh phá Quảng Bình
– Vĩnh Linh. Nhà mình hay có cán bộ về bám cơ sở. Họ thường có báo
mang theo. Sau hiệp định Paris lại có Tín dụng xã mượn làm “trụ sở”.
Thế là mình được đọc “Nhân Dân” thường xuyên hơn.

Thời ở lính luôn có 30 phút đọc báo mỗi ngày. Nhưng ở bệnh viện tiền
phương cái lệ này có châm chước, vì báo cũng không có thường xuyên cho
các khoa. Muốn đọc mình hay ghé phòng chính trị để mượn. Khi ra quân,
cơ quan mình vẫn còn đọc báo đầu giờ. Đọc tập trung tại mỗi phòng ban.
Cũng chỉ có “nhân dân”, “quân đội nhân dân”.

Về tên báo, tiền thân, vốn là tờ “SỰ THẬT”. Không biết vì sao lại đổi
sang “Nhân Dân’. Có lẽ vì Sự Thật không phản ánh đúng lối phương pháp
tuyên truyền của báo chăng (?). Mình chẳng nhớ từ bao giờ tờ báo in
này treo cái câu dài thòng dưới hai chữ “Nhân Dân”: “cơ quan trung
ương của Đảng Cộng Sản Việt Nam, tiếng nói của đảng, nhà nước và nhân
dân Việt Nam”. Sự ngoa ngôn đó mới nảy nòi đâu gần đây thôi. Chứ hồi
trước chỉ đơn giản là “cơ quan ngôn luận của Đảng Lao động/… trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam” (xem hình 2).

20/3/1979, dưới “Nhân Dân” chỉ một câu ngắn gọn: “CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM” (đổi sang tên “Công Sản” từ ĐH 4 (1976)
Về hình thức, “Nhân Dân” thời trước chỉ “giấy trắng mực đen”. Màu giấy
cũng hun hun không trắng lắm. Tùy trang có từ 4 đến 5 cộtbáo. Thỉnh
thoảng có ảnh hoặc tranh minh họa. Vì đen trắng nên chất lượng ảnhcũng
không như bây giờ. Kiểu chữ nhỏ nhưng khá rõ ràng. Có từ 4 đến 8
trang. Sau này đến thời kỳ “đổi mới” mới tăng dần số trang.

Nội dung thì cũng chỉ đưa tin tức “sản xuất và chiến đấu” của “hậu
phương và tiền tuyến lớn”. Toàn thành tích và chiến thắng; hoặc gương
“người tốt việc tốt”, “hai giỏi”. Luôn luôn có cột xã luận trang nhất
ở cột đầu tiên bên trái. Tranh châm biếm hay đã kích trang cuối. Tuyệt
đối không có mẫu quảng cáo nào. Về nội dung, cho đến bây giờ, Nhân Dân
cũng không thay đổi bao nhiêu so với thời đó.

Về phát hành, “Nhân Dân” được “phát không” cho các tổ chức thuộc hệ
thống “chính quyền nhân dân”. Gọi “phát không”, có nghĩa là dùng ngân
sách nhà nước. Phát hành cũng qua kênh bưu chính nhà nước, nên thường
đến tay bạn đọc rất trễ. Hết cả tính thời sự của báo chí, dù thuộc
diện “ưu tiên hỏa tốc”.

Trước đây, ngày hôm sau hoặc hai ba ngày sau, “Nhân Dân” mới đến tay
cán bộ. Bây giờ tỉnh nào, vùng nào cũng có nhà in kèm “Nhân Dân” và
phát hành trong ngày. Nhưng đến trưa hoặc đầu giờ chiều mới đến tay…
trực cổng. Vẫn rất trễ so với các nhật báo chủ động kinh doanh như
Tuổi Trẻ, Thanh Niên hay Thể Thao Hằng Ngày,… Thực ra, người đọc
“Nhân Dân” rất ít, nên cũng chẳng ai cần sớm làm gì.

Bây giờ, hầu hết các cơ quan doanh nghiệp nhà nước đều mua “Nhân Dân”.
Có cắt giảm chi tiêu thì “Nhân Dân” cũng phải có hàng ngày. Có những
nơi cả năm, chẳng ai sờ tới “Nhân Dân”, vẫn cứ phải mua. Vì “Nhân
Dân”là “ngôn luận của đảng”. Nhiều doanh nhân bỏ tiền túi ra mua “Nhân
Dân” cốt theo dõi tình hình và “định hướng” chủ trương chính sách của
nhà nước. Cũng có thể là lấy le làm đẹp long với nhà nước…

2. Dụng “Nhân Dân” như dụng mộc.

Có hai chuyện mà mình chứng kiến.

Khi ra quân về cơ quan dân sự, mình làm trợ lý giám đốc. Mỗi giao ban
đầu tuần, mình để ý một ông phó phòng dáng rất chỉnh chu hay đến sớm.
Ông rút trong cái cặp ra tờ “Nhân Dân”. Ông vuốt mái tóc ngược ra sau,
rồi vuốt phẳng phiu tờ báo và chăm chú đọc. Có khi đó là số báo của
tuần trước.Trong giờ giao ban, tờ báo để trước mặt, ông chăm chú ghi
ghi chép chép những lời sếp nói. Thỉnh thoảng ông giơ tay xin phát
biểu. Câu mở đầu muôn thuở là “tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của…”
(ai đó). Sau một hồi, ổng lại đế thêm câu “theo như báo nhân dân
nói…”. Nghĩa là tất tần tật, ông đều lấy “Nhân Dân” làm chuẩn. Nói thế
thì chẳng ai dám bảo là nói sai. Thì đấy, vật chứng “Nhân Dân” nằm
trước mặt ông đó thôi. “Nhân Dân” nói nghĩa là… đảng nói. Cấm có cãi!
He he…

Sau mình mới biết, ổng chẳng phải đảng viên; cũng chẳng có bằng cấp
chuyên môn chi. Chỉ láu cá thế mà “sống lâu lên lão làng”. Vì ông là
tín đồ của… “Nhân Dân”, và lấy “Nhân Dân” làm… le với mọi người.

Về sau, mình lại chứng kiến một sếp dụng “Nhân Dân”như dụng mộc.

Sếp vốn hiếm khi đọc báo, nhưng vì làm sếp không thể không có… “Nhân
Dân” theo mình. Mỗi sáng đến sở làm, văn thư đã đặt “Nhân Dân” lẫn tạp
chí, “công văn đến” trên bàn làm việc. Đến cuối ngày, thậm chí cuối
tuần, “Nhân Dân” vẫn còn “nguyên đai”. Hôm nào có lịch làm việc với
khách tỉnh hoặc thành phố, nhất là khách từ thành ủy, sếp lại lấy
“Nhân Dân” để ngay ngắn trước mặt, phía bên trái. Nếu khách ngồi ngay
đối diện bên phải, “Nhân Dân” vô tình… đập vào tầm mắt của khách. Nếu
ngồi ở bàn nước, “nhân dân” đang ở góc bàn hoặc lăn lóc trên ghế nệm
và đang mở trang nào đó. Trang đó lại có nét bút“vòng tròn đỏ”, đánh
dấu ở cột xã luận hay tiêu đề một bài báo “giật gân” nhất.Y như cái
hình “ông Cụ ngồi ghế mây đọc báo dưới bóng cây”. Ông sếp cũng dùng
“Nhân Dân” làm trang sức để lấy le. Hehe…

3. Mô hình tổng công ty.

Hiện nay, hệ thống “tiếng nói… nhân dân” có đều khắp 63 tỉnh thành.
Ngoài báo in còn có báo mạng (online/điện tử). Đó là những báo địa
phương nhưng có xì-lâu-gân giống hệt nhau và gần giống với “Nhân Dân”
trung ương: “tiếng nói/(cơ quan ngôn luận) của đảng bộ, chính quyền và
nhân dân tỉnh X, Y”.

Nhưng cái tên “Nhân Dân” thì là độc quyền của trung ương thôi. Các
tỉnh thành thì lấy tên địa danh hành chính của mình đặt cho “Nhân Dân”
địa phương. Thế nhưng có hai nơi như muốn “ta đây vẫn có sự khác biệt”
nên có tên hơi khác các tỉnh.

Ví như ở Hà Nội, “tiếng nói của đảng bộ,… & nhân dân” lại có tên là
“Hà Nội Mới”. Vì lỡ mang tên “Hà Nội Mới” nên từ địa giới hành chính
đến chính sách của thủ đô cứ thay đổi xoành xoạch theo từng nhiệm kỳ
của… đảng bộ Hà Nội Mới. Còn thành phố Hồ Chí Minh thì “tiếng nói…
nhân dân” lại là “Sài Gòn Giải Phóng”. Nghĩa là Sài Gòn xưa cứ phải
“giải phóng” dài dài mà chẳng biết bao giờ mới được… giải phóng?!

Hằng năm, “Nhân Dân” trung ương vẫn tổ chức cho“nhân dân địa phương”
các hội nghị dạng “MICE” theo khu vực. Đó là một hình thái “giao ban”
con nhà giàu. Vừa triển khai “chủ đề” vừa vui chơi nghỉ dưỡng có… định
hướng. Để đảm bảo tính “thống nhất”, “tư tưởng chỉ đạo từ trung ương
đến địa phương”.

Mới đây mình xuôi theo Lý Thái Tổ để ra đê Nghi Tàm lên Ha Noi Club
Hotel dự hội thảo. Chạy qua Lò Sũ đến phố gì đó mình thấy cái tên
“Công ty TNHH MTV Nhà in Nhân Dân”.

Hệ thống này đích thị là một “tổng công ty” mang tên “Nhân Dân”. Không
là tên gọi “doanh nghiệp Nhân Dân” hay “tập đoàn truyền thông Nhân
Dân”, nhưng hoạt động như một tổng công ty nhà nước theo mô hình “công
ty mẹ công ty con”. Chỉ có cái khác cơ bản nhất với các tờ báo tự chủ
tài chính và mang tính kinh doanh là ngốn “ngân sách nhà nước” và (để)
đảm bảo “tính đảng” trong sản phẩm của mình.

4. Ai đọc “Nhân Dân”?

Quay trở lại chuyện ai đọc “nhân dân”. Nói gì thì nói, hiện nay ở nông
thôn vẫn còn nhiều người yêu mến “Nhân Dân”. Dĩ nhiên là phải miễn
phí. Chẳng có giáo chức hay cựu chiến binh nào tự trích đồng hưu ít ỏi
của mình ra để mua… “Nhân Dân”. Họ đều quy ra thóc cả. Người mê “Nhân
Dân” có khi chỉ vì có con em, bà con mình đã và đang làm việc tại
“Nhân Dân”. Gì chứ ở quê mà có người bà con làm việc tại “cơ quan ngôn
luận của đảng” là tự hào và hãnh diện lắm.

Làng mình có bà cô vốn là nữ sinh Đồng Khánh đi theo cách mạng rồi trở
thành… cán bộ tiền khỡi nghĩa, ở luôn Hà Nội. Con gái đầu của bà có
thâm niên làm biên tập viên “ngôn luận của đảng”. Chị học MGU về rồi
làm ở đó cho đến lúc hưu. Chức danh cao nhất ngang cấp vụ trưởng là
“Trưởng ban biên tập…”.

Bà con anh em ở quê rất tự hào về chị. Khi có bài của chị là mọi người
ở quê báo cho nhau tìm để đọc. Về sau, sự nóng lạnh của xã hội, kinh
tế, chính trị cũng kéo theo nhiều bức xúc. “Nhân Dân” vẫn được bà con
theo dõi. Những chuyện bức xúc mà chưa thấy “Nhân Dân” lên tiếng là
cậu em họ của chị bốc máy gọi điện ra chất vấn chị. Sao không thấy
“Nhân Dân” lên tiếng? Khổ quá, ngay cả Tổng biên tập cũng phải chờ
“ông chủ” bật đèn xanh mới lên tiếng, chứ chị mình thì làm được gì?

Một lần mình ra Hà Nội đến thắp hương cho bà cô. Mình hỏi ông em rể
của chị, chú T. ở quê có còn gọi điện ra chất vấn “Nhân Dân” nữa
không? “Hết rồi, “Nhân Dân” của cậu hưu rồi. “Nhân dân” mất hết niềm
tìn rồi, chất vấn làm gì nữa”. He he…

5. “Đích” đến cuối cùng của “Nhân Dân”.

Hồi còn ở cơ quan, mình được coi là “mọt sách, mọt báo” vì là người
chăm đọc, chăm đi thư viện. Thư viện cũng chẳng cập nhật gì mới, nhất
là sách, tài liệu chuyên môn. Nhưng từ lâu, mình phát hiện ra nguồn
“tài liệu mới” từ đống báo thải đang chờ… bà “ve chai” ở thư viện cơ
quan.

Hàng tuần, tạp vụ hay văn thư dọn dẹp sách báo từ phòng giám đốc rồi
tống vào thư viện. Trong đống “ve chai” đó, có những bì thư chứa tài
liệu, tạp chí chuyên môn từ nước ngoài gửi cho sếp, chưa hề bóc tem.
Nhiều tập “Nhân Dân” phủ bụi nhưng còn “nguyên đai”, y như khi bưu tá
phát mỗi ngày. Làm sếp nhà nước bây giờ ai rỗi hơi đâu mà đọc “Nhân
Dân”! Lâu dọn dẹp thư viện đống “nhân dân” lại chuyển đổi sở hữu cho
bà ve chai.

Có lần một bạn còm trong status của mìnhrằng: “ông bố em 80 tuổi, lão
thành cách mạng được thành phố cho chọn một trong ba tờ báo miễn phí:
nhân dân, quân đội nhân dân và hà nội mới”. Có lẽ, ngoài được dùng để
lấy le và làm cảnh ở các cơ quan công sở, bạn đọc “Nhân Dân” bây giờ
chỉ còn mấy cụ hưu trí và “lão thành cách mạng” thôi?

Ở phố biển “quê” mình, từ lâu “tiếng nói của đảng bộ và nhân dân… địa
phương” cũng được biếu không cho mỗi đảng viên có danh hiệu 30 tuổi
đảng trở lên. Ở khu mình ở, có một cặp đôi trên 80, con cháu ở riêng,
lại không có thùng thư báo. Mắt mờ chân chậm chẳng đọc được gì, cũng
được phát không hai tờ “nhân dân địa phương”.

Mỗi sáng họ thảy vô thùng báo của mình hai tờ. Các cụ bảo mình giữ một
tờ mà đọc còn một tờ các cụ thỉnh thoảng… trải bàn nước khi đến bữa
ăn.

Rồi các cụ quy tiên mà báo vẫn đến hàng ngày. Thế là mình hưởng hai
suất “40, 50 tuổi đảng” miễn phí đến hơn một năm mới được cho… nghỉ.

Thực ra, địa chỉ nhận cuối cùng của “nhân dân địavphương” là các bà
đồng nát, ve chai! He he…

Sang thế kỷ 21, mới có thêm cái câu dài thòng và ngoa ngôn như thế,
dưới… “Nhân Dân”.

Sao Hồng
Theo FB Sao Hồng

Lâm Kim Trọng gởi

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trong cuộc mít-tinh của Hiệp Hội Hữu Nghị Nhân Dân Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 15-5-2014, tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) Tập Cẩm Bình tuyên bố rằng: “Không có gene xâm lược trong máu người Trung Quốc”.

Trong khi các báo điện tử trong nước, hoặc các blog tư nhân đưa tin nầy thì nhà nước Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các chức sắc, Ban Khoa giáo trung ương đảng, Bộ Thông tin văn hóa, và các chuyên viên của nhà nước CS nín khe. Có lẽ họ cho lời tuyên bố của Tập Cẩm Bình là chuyện nội bộ Trung Quốc, CSVN không xía vào. Họ quên rằng từ khi nước Việt lập quốc, Trung Quốc đã bao lần xâm lược Việt Nam. Hay đó là chuyện thời quân chủ phong kiến, chẳng liên quan gì đến chế độ CS anh em giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc hiện nay? Thế thì người CSVN cố tình quên rằng năm 1979, CSTQ thổi kèn trên thế giới và thổi kèn ngoài mặt trận, tràn quân tàn phá sáu tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam là gì?

Gần đây hơn nữa, ngày 8-6-2014, trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm (05) bằng chứng CSVN đã nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Tài liệu nầy được viết bằng tiếng Anh và được Đài Phát Thanh Quốc Tế Trung Quốc (China Radio International -CRI) dịch qua tiếng Việt. Năm bằng chứng đó là:

1) Ngày 16-5-1956, trong buổi tiếp đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội là Lý Chí Dân, thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Nam là Ung Văn Khiêm đã nói: “Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc“. Vụ trưởng Á châu vụ Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Lộc còn tiếp lời: “Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống”.

2) Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958.

3) Tuyên bố của Bắc Việt Nam ngày 9-5-1965 về việc quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam, có đoạn viết: “Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ”, đây là đe dọa trực tiếp “đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng”.

4) Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa.

5) Cuối cùng là sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974, trong chương “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”, mục “Điều kiện tự nhiên”, ở trang 4, có đoạn viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc. (Hiện nay, Đài loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung quốc, của Viễn đông và miền tây Thái bình dương). (Dân Làm Báo, trích ngày 13-6-2014) (Xin mời vào Google.com, dùng tiếng Việt đánh chữ khóa “Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng về Hoàng Sa và Trường Sa”, thì có nhiều thông tin về vụ việc nầy.)

Việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm bằng chứng CSVN nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc theo trong kế hoạch từng bước rất lớp lang của đảng CSTQ.

Đầu tiên, sau khi Trung Quốc cắm giàn khoan 981 ở vùng biển Hoàng Sa và bị dân chúng Việt Nam biểu tình dữ dội, đồng thời bị nhà cầm quyền CSVN lên tiếng phản đối, thì CSTQ cho người đưa ra công hàm Phạm Văn Đồng (bước thừ nhứt). Nhà cầm quyền CSVN một mặt cấm biểu tình chống Trung Quốc ở trong nước, một mặt thủ tướng CSVN lên tiếng đòi kiện Trung Quốc để vuốt ve tự ái dân chúng, thì CSTQ đưa ra vụ sách giáo khoa (bước thứ hai). Cộng sản Việt Nam vẫn còn hậm hực, chưa chịu yên, thì bộ Ngoại giao Trung Quốc bồi thêm đòn thứ ba, đưa ra năm bằng chứng kể trên.

Cách thức đe dọa của Trung Quốc từ từ theo liều lượng nặng dần dần, và ngang đây bắt đầu có hiệu lực. Trước những bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ngày 8-6-2014, lần nầy Bộ chính trị đảng CSVN đành im lặng, nhà nước CSVN im lặng, quốc hội Việt Nam do đảng CSVN kiểm soát im lặng. Các quan chức cao cấp; tổng bí thư đảng CSVN, chủ tịch nước CSVN, chủ tịch Quốc hội CSVN, thủ tướng CSVN cũng tịnh khẩu, không nói năng thêm gì nữa. Báo chí trong nước và các web trong nước có lẽ được lịnh của nhà nước CS cũng im lặng. Thật là một sự im lặng tuyệt đối từ trên xuống dưới.

Các nhà lãnh đạo đảng CSVN phải im lặng vì há miệng mắc quai, và nếu không im lặng thì CSTQ chắc chắn sẽ tung thêm ngón đòn thứ tư độc địa hơn nữa. Đó là“Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước”, ký kết tại Hội nghị Thành Đô (Chengdu), thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) vào ngày 4-9-1990, giữa đại diện đảng CSVN gồm có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đại diện đảng CSTQ gồm có Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) và Lý Bằng (Li Peng).

Hai bên cam kết giữ bí mật nội dung văn bản nầy, nhưng nếu đảng CSVN không tôn trọng những điều đã bí mật cam kết, thì đảng CSTQ không có lý do gì mà giữ bí mật văn bản nầy nữa. Cho đến nay, người Việt Nam chưa biết nội dung văn bản Thành Đô, nhưng chắc chắn đảng CSVN đã cam kết những điều gì đó để được Trung Quốc giúp đỡ nhằm duy trì quyền lực của đảng CSVN, dầu có hại cho đất nước. Đây cũng có thể là một văn tự bán nước sau công hàm Phạm Văn Đồng, vì bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đều rất thất vọng, chán nản, nhưng chỉ nói xa nói gần chứ không dám nói thẳng ra. Kết quả là một người bị cất chức, còn người kia xin từ chức vì không muốn liên hệ đến tội phản quốc.

Có một điều lạ nữa là ngay sau công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì khoảng gần 2 giờ sáng ngày 9-6-2014, Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt (XNBĐĐL) bị cháy nặng nề, tiêu hủy một phần ba (1/3) tòa nhà đồ sộ làm khu văn phòng, xưởng chế bản, hệ thống máy tính…

Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt thuộc Bộ Quốc phòng CSVN, số 14 đường Yersin Đà Lạt. Trụ sở xí nghiệp nầy được xây dựng năm 1939 và hoàn thành năm 1943 thời còn Pháp thuộc, tường dày, rất kiên cố. Trước năm 1975, đây là Nha Địa Dư Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Báo chí trong nước đưa tin nầy sáng 9-6-2014, và cho biết thượng tá Vũ Đình Hợi, giám đốc Cục Bản Đồ Đà Lạt, tuyên bố rằng: “Những tài liệu quan trọng liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia đã được chuyển giao Bộ Quốc phòng quản lý… Sau trận hỏa hoạn mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Vị trí xảy ra vụ hỏa hoạn là nơi làm việc của nhân viên, không phải nơi lưu trữ như dư luận đồn đoán…”

Ông giám đốc nói thế là đúng sách vở, chứ không lẽ ông giám đốc lại thú nhận là đã cháy nhiều tài liệu quý hiếm lưu trữ trong XNBĐĐL? Một câu hỏi được đặt ra là tại sao XNBĐĐL lại cháy ngay sau ngày Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng bán nước của đảng CSVN, và cháy vào buổi khuya chẳng có người làm việc? Cháy do tai nạn hay do phá hoại? Ai là kẻ gây ra tai nạn hay chủ mưu phá hoại? Phá hoại để làm gì? Phải chăng phá hoại nhắm tiêu hủy tài liệu gốc về bản đồ? Liệu những tài liệu gốc về bản đồ vùng biên giới Việt Nam Trung Quốc và về bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa có bị cháy chưa? Không ai có thể xác minh điều nầy trừ chính đảng CSVN.

Một điều đặc biệt nữa là từ năm 1960, nghĩa là hai năm sau công hàm Phạm Văn Đồng, và cùng một năm đảng Lao Động (tức đảng CSVN) tuyên bố quyết định tấn công VNCH, thì phủ thủ tướng Hà Nội nhận người do Trung Quốc gởi sang làm chuyên gia cho Cục Đo đạc và Bản đồ. Hồ sơ lưu trữ thấy có một người tên là Trương Hồng Kiên làm chuyên gia tại Cục Đo đạc và Bản đồ. Nói cách khác, từ năm 1960, chuyên viên Trung Quốc đã nằm vùng trong Cục Đo Đạc và Bản đồ ở Hà Nội. Sau đây là giấy chứng nhận của phủ thủ tướng Hà Nội:

Sự hiện diện của chuyên gia Trung Quốc tại Cục Đo đạc và Bản đồ có liên hệ gì đến việc thực hiện các bản đồ trong tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa? Và có liên hệ gì đến sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974 không? Có chuyên viên Trung Quốc khi XNBĐĐL bị cháy sáng sớm 9-6-2014?

Trở lại với công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì chúng ta cần tách bạch làm hai phần rõ rệt: 1) Phải thẩm định lại giá trị của các tài liệu nầy, ví dụ bản công bố nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc từ thời nhà Tống là điều hoàn toàn phi lý, vì cho đến năm 1974, VNCH vẫn còn quản lý hai quần đảo nầy. Trung Quốc đem hạm đội đến đánh cướp ngày 19-1-1974. Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, và sách Địa lý lớp chin phổ thông toàn tập là của Bắc Việt Nam, chứ không phải của Nam Việt Nam tức VNCH. Trước năm 1974, Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc tổ chức hành chánh của VNCH và không bao giờ có tên Tây Sa và Trường Sa. 2) Dù đúng hay sai, bốn bằng chứng sau do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra gồm công hàm Phạm Văn Đồng, tuyên bố ngày 9-5-1965 của Bắc Việt cộng sản, tập Bản đồ thế giới năm 1972, và sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập năm 1974 của Bắc Việt Nam là chuyện giữa nhà nước CSVN Bắc Việt Nam với Trung Quốc, chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Phải tách nhân dân Việt Nam ra khỏi chuyện nầy vì nhân dân Việt Nam luôn luôn xem Hoàng Sa và Trường Sa là di sản do tổ tiên để lại, là lãnh thổ Việt Nam.

Bốn bằng chứng nầy cho thấy ĐẢNG CSVN CHỦ TRƯƠNG BÁN NƯỚC CÓ KẾ HOẠCH từ thời Hồ Chí Minh cho đến ngày nay, và cũng cho thấy rằng HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHẲNG YÊU NƯỚC mà họ chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam nhằm thỏa mãn cuồng vọng quyền lực của đảng CSVN và để phục vụ cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, mà đại diện là Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Duẫn đã có lần xác nhận với đám cận thần sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”.

Vì vậy, cuộc chiến tranh ba mươi năm (1946-1975) do CSVN hai lần gây ra là cuộc chiến hoàn toàn phi lý, không có chính nghĩa và chỉ là cuộc chiến ý thức hệ để thiết lập một chế độ độc tài toàn trị, và nhất là nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc. Việc CSVN nhượng đảo, nhượng biển cho Trung Quốc càng làm sáng lên chính nghĩa quốc gia, dân tộc và nhân bản của các chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa, dầu các chính thể nầy chưa được hoàn hảo, nhưng luôn luôn bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ do tổ tiên để lại.

Trước đây, khi bất cứ ai tố cáo CSVN bán nước thì đảng CSVN, báo chí CSVN, và cả những người thiên tả, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản đều phản bác lại, cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền chống nhà nước “cách mạng” CSVN. Bây giớ, với bằng chứng rành rành như thế nầy, thì không còn chối cãi gì nữa. Vì vậy, đã đến lúc toàn dân dân Việt Nam phải có thái độ dứt khoát rõ ràng với chế độ CSVN vì không thể để cho CSVN tiếp tục phản dân hại nước.

Trước hết, là những người yêu nước đã lên đường năm 1945, đi theo “cách mạng” vì lầm tin chủ nghĩa cộng sản, lầm tin vào đảng CSVN, đã trọn đời hy sinh vì một lý tưởng xấu, để rồi cuối cùng bị phản bội một cách trắng trợn. Những tội lỗi của chế độ CSVN có phần trách nhiệm của quý vị vì chính quý vị đã dày công xây dựng chế độ nầy. Xin quý vị ít nhất vào cuối đời, quý vị hãy lên tiếng để bày tỏ cho con cháu biết rõ sự thật, giúp con cháu khỏi bị một lần nữa lầm đường lạc lối như thế hệ quý vị năm 1945.

Những thức giả (chứ không phải là trí thức) dưới chế độ CSVN hiện nay, như những sĩ quan quân đội, những giáo sư đại học, những chuyên viên các ngành, những nhà nghiên cứu, các văn thi sĩ, các nhà bình luận, ký giả báo chí; xưa nay quý vị lơ là với tình hình đất nước, và làm thinh cộng sinh với chế độ CSVN, nay chắc chắn hơn ai hết, quý vị biết rõ CSVN bán nước, hại dân, thì quý vị còn chờ đợi gì nữa mà chưa ly khai với đảng CSVN? Quý vị tiếp tục cộng sinh với đảng CSVN là quý vị tiếp sức cho CSVN gây họa cho tương lai đất nước.

Những sinh viên thiên tả thời VNCH, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, ở Đại học Sài Gòn cũng như Đại học Huế, biểu tình rầm rộ chống chính thể VNCH trong thập niên 60 và 70, nay trước những bằng chứng phản quốc cụ thể của CSVN, sao quý vị không xuống đường như thời VNCH, và quý vị cũng chẳng lên tiếng tý nào, nghĩa là làm sao? Hãy can đảm tiếp nối hành động cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng, để chuộc lại những lỗi lầm của quý vị một thời phá hoại nền tự do dân chủ VNCH .

Không ai có thể trách các thế hệ trẻ ngày nay, vì từ năm 1974, các anh chị em đã bị CSVN nhồi sọ rằng Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc, các anh chị em đâu có biết Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở đâu? Vì vậy giới du học sinh Việt Nam từ trong nước ra ngoài du học, trong các ngày gần đây đi biểu tình chống Trung Quốc sau vụ giàn khoan 981, vì lòng yêu nước của anh chị em, chứ anh chị em đâu có biết chuyện Hoàng Sa và Trường Sa. Các anh chị em cũng không biết là cái lá cờ đỏ mà các anh chị em vác trên vai đi biểu tình chống Trung Quốc, chính là lá cờ của chế độ đã nhượng Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc cho Trung Quốc từ lâu rồi. Các anh chị em nghĩ sao về các bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc
đưa ra? Anh chị em hãy thử đặt câu hỏi với các tòa đại sứ CSVN vể các bằng chứng nầy, và thêm một câu hỏi nữa là tại sao trong nước cấm biểu tình chống Trung Quốc mà ở Hải ngoại, các tòa đại sứ CSVN lại ra lịnh du học sinh vác cờ đi biểu tình?

Các anh chị em theo dõi, quan sát sự im lặng nhịn nhục của lãnh đạo đảng CSVN trước công bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8-6-2014, chắc chắn anh chị em đã hiểu nội tình rồi. Các anh chị em đừng để cho CSVN lợi dụng làm con cờ thí cho CSVN. Các anh chị em là những người ra nước ngoài học hành, hiểu nhiều, biết rộng, vậy hãy thức tỉnh và hãy đoạn tuyệt với CSVN ngay từ bây giờ để sau nầy khỏi hối hận. Các bậc cha chú, các bậc đàn anh của anh chị em đã hy sinh cho một lý tưởng xấu. Các anh chị em đừng phục vụ cho một chế độ xấu.

Tình trạng đảng CSVN ngày nay không còn có thể cứu vãn được nữa. Cứu vãn cũng vô ích. Chủ nghĩa CS đã bị dẹp bỏ từ mấy chục năn nay ở ngay đất nước của Marx, của Lenin, của Stalin. Chủ nghĩa CS bây giờ chỉ là cái vỏ bọc của những chế độ độc tài tàn bạo như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên. Chủ nghĩa CS bây giờ ở Việt Nam chỉ gồm những tên tay sai của Bắc Kinh từ thời kẻ sáng lập là Hồ Chí Minh. Đã ký văn tự bán nước thì không còn lý do gì mà chống chế với Trung Quốc.

Nếu còn đảng CSVN thì còn làm tay sai cho Trung Quốc, còn những mật ước giữa CSVN với Trung Quốc mà nhân dân Việt Nam không biết đâu mà lường trước được. Việt Nam chúng ta muốn chấm dứt tình trạng nầy, thì nhân dân Việt Nam phải xóa sổ chế độ CSVN, để chấm dứt những cam kết bí mật của chế độ nầy với Trung Quốc.

Khi nhân dân Việt Nam không thừa nhận chế độ CSVN, chứng tỏ nhân dân Việt Nam cũng không thừa nhận những cam kết bán nước của chế độ CSVN. Lúc đó, mới có thể nói chuyện đòi đất, đòi biển trở lại. Đã đến lúc những đảng viện CSVN phải đánh giá lại đảng CSVN và ly khai đảng nầy. Đã đến lúc các thức giả trong nước phải đoạn tuyệt với chế độ CSVN để khỏi mang tội đồng lõa với phản quốc. Đã đến lúc thanh niên sinh viên Việt Nam phải tranh đấu để xóa sổ chế độ CSVN để xây dựng một tương lai tười đẹp hơn. Đã đến lúc nhân dân Việt Nam phải dứt khoát hành động! Nếu không, thời kỳ bắc thuộc đen tối đang chờ đợi Việt Nam.

TRẦNGIAPHỤNG
(Toronto, Canada)

 

TÌM KIẾM MỘT LỜI ĐẦY HIỆN THỰC

TÌM KIẾM MỘT LỜI ĐẦY HIỆN THỰC

Đức tin không phải là điều bạn đạt được.  Nếu bạn cố gắng đóng chặt nó xuống, nó sẽ trỗi dậy và ra đi với chiếc đinh.  Đức tin hoạt động theo cách này: Có lúc bạn đi trên mặt nước, có lúc bạn chìm nghỉm như tảng đá giữa dòng.  Nhà thơ Rumi đã nói, bạn sống với một bí mật sâu thẳm, có lúc bạn biết, có lúc bạn không biết, rồi lại biết.  Đôi khi bạn cảm thấy có một sự hiện diện thật sự, đôi khi bạn thấy trống vắng thật sự.  Tại sao như vậy?

Vì, giống như tình yêu, đức tin là một cuộc hành trình, luôn mãi thăng trầm, với những giai đoạn luân phiên giữa tha thiết và lãnh đạm, với an ủi và cô quạnh, có những lúc cảm nhận ân sủng Thiên Chúa hiện diện hiển nhiên, có lúc như đêm dài tăm tối khi Thiên Chúa vắng mặt.  Đó là một tình trạng lạ lùng: đôi khi bạn thấy mình kết chặt với Chúa, chặt chẽ vô cùng, lúc khác bạn thấy mình như rơi tự do khỏi tất cả những gì an toàn, và rồi khi mọi thứ chạm đáy, một lần nữa, bạn lại cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Tại sao đức tin phải có động lực mơ hồ này?  Không phải là Thiên Chúa ác độc, đang đùa giỡn với chúng ta, muốn thử thách lòng trung tín của chúng ta, hay muốn chúng ta phải làm việc gì đó khó khăn để kiếm được ơn cứu độ.  Không, những thăng trầm đức tin phải đi cùng với nhịp điệu của đời sống bình thường, đặc biệt là nhịp điệu của tình yêu.  Tình yêu cũng như đức tin, có những giai đoạn tha thiết và đêm đen tăm tối.  Tất cả chúng ta đều biết, bên trong giao kết lâu dài nào (hôn nhân, gia đình, tình bạn, hay giáo hội), đều có những ngày, những mùa nào đó, khi tâm hồn và tâm trí chúng ta không còn giữ giao kết đó, dù vẫn ở trong nó.  Tâm trí và tâm hồn của chúng ta phai mờ đi dần, nhưng chúng ta cảm nghiệm tình yêu, xét cho tận cùng, là một điều không dựa vào tâm trí, cái đầu, hay thậm chí là tâm hồn, quả tim.  Có một sự gì đó sâu kín hơn giữ lấy chúng ta, và một lúc nào đó, giữ chúng ta ra ngoài tầm của những suy nghĩ trong tâm trí hay cảm giác trong tâm hồn.

Trong bất kỳ giao kết tình yêu nào được duy trì, thì tâm trí và tâm hồn của chúng ta sẽ phai mờ lúc lên lúc xuống.  Đôi khi tha thiết, đôi khi lạnh nhạt.  Đức tin cũng hoạt động như vậy.  Đôi khi chúng ta cảm nhận và nhận thức thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm trí và tâm hồn, đôi khi cả tâm trí và tâm hồn đều lạnh nhạt và lãnh đạm.  Nhưng đức tin là một cái gì thâm sâu hơn là hình dung hay cảm nhận có sự hiện diện của Thiên Chúa.  Nhưng làm sao chúng ta đạt đến đó?  Chúng ta phải làm gì những khi cảm thấy như thể Thiên Chúa vắng mặt.

Nhà thần nghiệm vĩ đại, Gioan Thánh Giá, đã cho chúng ta lời khuyên này.  Nếu bạn muốn tìm ra sự hiện diện của Thiên Chúa một lần nữa vào những lúc bạn cảm thấy Ngài vắng mặt, thì bạn hãy lắng nghe lời tràn đầy hiện thực và chân lý thâm sâu khôn lường.

Gioan Thánh Giá nói thế nghĩa là gì?  Làm sao lắng nghe được lời tràn đầy hiện thực và chân lý thâm sâu khôn lường?  Làm sao tìm được một lời như thế?  Thành thực mà nói, cho dù lời của ngài bùng lên nhiều ý nghĩa trong đầu tôi, nhưng tôi không hoàn toàn chắc về ý của ngài.  Sẽ dễ giải nghĩa hơn nếu ngài bảo chúng ta hãy tìm kiếm một cảm nghiệm thâm sâu và đầy thực tế, ví dụ việc sinh một đứa trẻ, chết lặng trước vẻ đẹp khôn lường, hay tan vỡ tâm hồn khi mất mát hay đối diện cái chết.  Những dạng cảm nghiệm này có thật, tồn tại thật mà chẳng thể hiểu được, và chúng bật chúng ta vào một nhận thức sâu sắc hơn.  Và như thế, nếu Thiên Chúa để cho con người tìm kiếm, thì chẳng phải sẽ tìm thấy Thiên Chúa chính ở nơi đó hay sao?

Nhưng Gioan không hướng dẫn chúng ta đến với cảm nghiệm thiếu chiều sâu, ngài đang yêu cầu chúng ta tìm kiếm một lời hiện thực và thâm sâu.  Như thế nghĩa là khi chúng ta dao động và hoài nghi, chúng ta phải săn tìm những bản văn (trong kinh thánh, thần học, linh đạo, hay văn học và thơ ca thế tục) nói với chúng ta theo một cách tái truyền thụ cho chúng ta một nhận thức nền tảng rằng Thiên Chúa hiện hữu và yêu thương chúng ta, và do đó, chúng ta phải sống trong yêu thương và hy vọng. Chẳng phải là vậy hay sao?

Tôi nghĩ đây mới chính là ý của ngài.  Thiên Chúa độc nhất, chân thật, tốt lành, và tuyệt mỹ, và như thế lời thật về sự hiệp nhất, sự thật, tốt lành, hay vẻ đẹp phải có sức mạnh giữ vững tâm trí và tâm hồn lay động của chúng ta.  Lời thật có thể khiến Ngôi Lời thành xác phàm lần nữa.

Nhưng những lời nào có sức mạnh như thế cho chúng ta?  Chúng ta tất cả đều khác nhau, và như thế không phải ai cũng tìm thấy sự thật và thâm sâu theo cách giống nhau.  Vì thế, mỗi một người trong chúng ta phải tự thực hiện cuộc tìm kiếm riêng mình, vô cùng riêng của mình.

Về bản thân tôi, có nhiều lời của các tác giả khác nhau đã truyền tải dạng chân lý này cho tôi trong nhiều giai đoạn của cuộc sống.  Quyển Câu chuyện một Linh hồn của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã giữ vững tôi trong những khi tôi nao núng.  Quyển Chùm nho Phẫn nộ của John Steinbeck, có thể tái định hướng tầm nhìn của tôi để nó được phẳng lặng khi nó bị vẩn đục.  Những đoạn văn khác nhau của Karl Rahner, John Shea, Raymond Brown, Henri Nouwen có thể con tàu của tôi được vững vàng khi nó bị chòng chành.  Và một vài lời của Dag Hammarskjold có thể làm cho tôi muốn sống sao để phản ánh lại những điều tốt đẹp trong đời hơn nữa.

Nhưng, bằng cách riêng của mình, mỗi chúng ta cần phải tìm kiếm những lời đầy tràn hiện thực và sự thật khôn dò thấu, để khơi lên cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa.

Fr. Ron Rolheiser

 

Muốn thoát Trung phải thoát mọi chế độ độc tài

Muốn thoát Trung phải thoát mọi chế độ độc tài

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-19

06192014-to-free-fr-cn.mp3

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cúi chào tại buổi lễ chào đón khi ông đến thăm Trung Quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 2013

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cúi chào tại buổi lễ chào đón khi ông đến thăm Trung Quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 2013.

AFP

Sự kiện giàn khoan HD 981 và viễn ảnh lệ thuộc Trung Quốc như một chư hầu khiến cho giới trí thức Việt Nam đặt vấn đề “thoát Trung”. Câu hỏi đặt ra Việt Nam có thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc mà vẫn duy trì ý thức hệ Cộng sản hay không. Nam Nguyên ghi nhận một số ý kiến liên quan.

Giải Cộng

Đặt vấn đề muốn thoát Trung phải giải Cộng như một điều kiện tiên quyết, thì dễ thấy mục tiêu này có khoảng cách khá xa với thực tại. Nhưng các sử gia đã dẫn chứng những trường hợp thoát Cộng, từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa đã nhiều lần diễn ra trên thế giới. Điển hình là sự sụp đổ Liên bang Xô viết năm 1991, khi tình hình còn chưa ngã ngũ thì một số nước Cộng hòa, từng bị ép đi theo con đường Cộng sản đã nhanh chóng tuyên bố độc lập và sau đó người dân bầu chọn chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Sự từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn tất ở tất cả 15 nước Cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết, kể cả Liên bang Nga.

Nếu Liên Xô cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản phải mất 70 năm mới tan rã thì Campuchia lại khác, Xứ Chùa Tháp bị nhuộm đỏ nhanh chóng sau năm 1975 và cũng nhanh chóng thoát Cộng trong vòng 15 năm. Cho nên đối với những ai dị ứng với chế độ Cộng sản, vấn đề giải Cộng ở Việt Nam cũng không phải là chuyện viễn tưởng.

Theo tôi, về lâu về dài không có con đường nào khác phải thoát khỏi chế độ toàn trị này, xây dựng một chế độ dân chủ thực sự trong đó có đa nguyên đa đảng, đảm bảo các quyền con người và chỉ có trên cơ sở ấy thì mới có cơ hội để thoát ra những cái ràng buộc với Trung Quốc

TS Nguyễn Quang A

Trò chuyện với chúng tôi, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự từ Hà Nội trình bày ý kiến của ông:

“Tôi nghĩ rằng, thoát khỏi Trung Quốc là một vấn đề rất bức thiết. Nhưng cũng là một vấn đề không thể vội vàng làm ào ào được. Theo tôi, về lâu về dài không có con đường nào khác phải thoát khỏi chế độ toàn trị này, xây dựng một chế độ dân chủ thực sự trong đó có đa nguyên đa đảng, đảm bảo các quyền con người và chỉ có trên cơ sở ấy thì mới có cơ hội để thoát ra những cái ràng buộc với Trung Quốc và những ảnh hưởng không có lợi của Trung Quốc đối với Việt Nam.”

Các nhà lãnh đạo cộng sảng Việt Nam, (hàng đầu từ phải) Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Các nhà lãnh đạo cộng sảng Việt Nam, (hàng đầu từ phải) Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Tuy vậy, TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh rằng người Việt Nam cần hết sức thận trọng, tránh bài học thoát Cộng nhưng vẫn không thoát độc tài. Ông nói:

“Người ta nói rằng phải thoát Cộng, tôi cũng đồng ý như thế nhưng cái đó chỉ mới là một nửa thôi. Có thể không có Cộng sản nhưng mà lại có một chế độc độc tài khác, một đất nước không thể phát triển được trên cơ sở chế độ độc tài. Cho nên tôi nghĩ rằng phải thoát cái gọi là toàn trị, thoát cái độc tài và đấy là một quá trình không thể ngày một ngày hai. Tôi nghĩ là không có biện pháp nào nói rằng ngày mai, hay hai năm nữa, hay sáu tháng nữa mà có thể đạt được. Bởi vì nếu mà còn một chế độ độc tài như thế này, thì thực sự Việt Nam không có bạn, trơ trọi và như thế khó mà có thể vươn lên được và có thể có mối quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được.”

Cũng có những ý kiến quan ngại sự giải Cộng hay xóa bỏ chế độ Xã hội Chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam sẽ có xáo trộn rất lớn. Hơn nữa không phải người dân Việt Nam nào cũng muốn giải cộng, giải tán chế độ hiện tại. Luồng ý kiến này lập luận rằng Việt Nam hiện có 3,6 triệu đảng viên cộng sản, mỗi gia đình trung bình 4 người, kéo theo họ hàng quyến thuộc và những kẻ ăn theo, tổng số người chịu ảnh hưởng quyền lợi nhờ chế độ Cộng sản hiện nay có thể lên tới mười mấy, hai chục triệu người. Thật ra để biết được người dân Việt Nam thực sự nghĩ gì, mong muốn gì đối với việc lựa chọn thể chế chính trị thì có lẽ phải có một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức nghiêm túc. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam không muốn phải đối mặt, do vậy mà mấy chục năm Quốc hội Việt Nam không hình thành được Luật Trưng cầu Dân ý hay Luật Biểu tình. Dù bản Hiến pháp nào của Việt Nam cũng đều có qui định các quyền  công dân này.

Thoát Trung?

Đáp câu hỏi của chúng tôi là để thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc rất nặng nề cả về chính trị và kinh tế, có ý kiến cho là Việt Nam phải cải tổ để có một chế độ dân chủ thực sự thì mới có thể không còn ngán ngại trong việc bảo vệ chủ quyền. TS Trần Đình Bá, thành viên Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

Tình hình bây giờ khác với thời kỳ 1979….Ngay bây giờ, thí dụ TQ mà xâm lược Việt Nam ở trên bộ thì người dân VN sẽ đoàn kết lại bất kể Chính phủ như thế nào. Chuyện ấy đụng tới vấn đề xâm lược, nhưng mà như thế không có nghĩa là thoát Trung. Sau năm 1979, thì đâu có thoát

TS Nguyễn Quang A

“ Không, theo tôi không cần thiết. Tôi nghĩ bây giờ ở các cơ chế đa phương, các quốc gia đều được tự do bình đẳng về quyền lợi quốc tế của mình, tất cả các hiệp định của quốc tế. Tôi nghĩ mỗi quốc gia có thể chế riêng của mình không sao cả, các nước ASEAN cũng thế thôi.”

Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong quá khứ là đồng chí môi hở răng lạnh với Trung Quốc và nhận viện trợ về vũ khí và nhân sự rất lớn từ Trung Quốc. Thế nhưng sau khi Bắc Việt Cộng sản chiến thắng thống nhất đất nước thì đến năm 1979 thì Trung Quốc lại mở cuộc tấn công xâm lăng, gây ra cuộc chiến khốc liệt ở biên giới Việt-Trung.

Với ý kiến cho rằng, nước Việt Nam độc tài đảng trị nhưng vẫn đẩy lùi được quân xâm lược Trung Quốc bảo vệ chủ quyền vào năm 1979. Tình hình lấn chiếm hiện nay qua vụ giàn khoan HD 981 có thể xem là lịch sử đang tái diễn hay không. TS Nguyễn Quang A phân tích:

“ Tôi nghĩ tình hình bây giờ khác với thời kỳ 1979 và lúc ấy Trung Quốc xâm lược ở trên bộ, còn bây giờ ở xa ngoài biển và chuyện đó khác xa. Ngay bây giờ, thí dụ Trung Quốc mà xâm lược Việt Nam ở trên bộ thì người dân Việt Nam sẽ đoàn kết lại bất kể Chính phủ như thế nào. Chuyện ấy đụng tới vấn đề xâm lược, nhưng mà như thế không có nghĩa là thoát Trung. Sau năm 1979, thì đâu có thoát mà ảnh hưởng Trung Quốc từ xa xưa lắm rồi và tôi nghĩ không thể có một biện pháp đơn giản nào để làm việc này có kết quả ngay lập tức.”

Thoát Trung mà phải từ bỏ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ vai trò lãnh đạo toàn diện Việt Nam chắc chắn không phải chọn lựa của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản. Nhà nước sẽ làm gì để thoát khỏi ảnh hưởng lệ thuộc Trung Quốc. Người dân Việt Nam rất mong muốn được thông tin về vấn đề này.

Đáp số của những sự im lặng

Đáp số của những sự im lặng

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-06-18

06182014-hoaai.mp3

000_Hkg9926949-600.jpg

Hai người Trung Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu Lào Cai hôm 09/5/2014.

AFP photo

Đã 6 tuần trôi qua kể từ khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc hạ đặt trong vùng biển thuộc chủ quyền của VN. Dư luận cho rằng phản ứng từ cấp lãnh đạo đến cả người dân trong nước trước tình hình căng thẳng ở biển Đông hiện nay chỉ là sự im lặng.

“Tình hình biển Đông bây giờ dân thì cũng nhiều người như tôi, người ta mặc kệ, chán rồi, chán chả buồn nói nữa vì 1 tháng rồi có làm được gì đâu. Nghe tivi nói nhiều nhảm nhí suốt ngày, súng phun nước chỉ bắn được có 1 lần, cứ rêu rao đi rêu rao lại mà cứ để bị lấn lướt như thế thì người ta cũng chán. Biểu tình thì không cho. Nhiều người kể cả công an về hưu cũng nói ‘rồi chẳng đi đến đâu’. Những lời nói của truyền thông như kiểu mị dân là ‘sợ bị Trung Quốc đánh’. Còn bao nhiêu nước, Liên Hiệp Quốc, có đánh mình chết được ngay đâu? ‘Kiến nghị hòa bình, 4 tốt’: ông Bộ trưởng nói kiểu quỳ lụy Trung Quốc quá thành ra dân cũng chán. Mình là người dân thấp cổ bé họng chẳng làm được gì cả”.

Vừa rồi là chia sẻ của 1 tài xế lái taxi tên Vũ ở Hà Nội. Do tính chất công việc, anh Vũ có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhiều độ tuổi và nhiều thành phần khác nhau trong xã hội nhưng đa số những người anh Vũ gặp hằng ngày có cùng thái độ im lặng giống như anh trước tình hình căng thẳng ở biển Đông hiện nay.

…ở đâu không biết chứ ở Nha Trang-Khánh Hòa, người ta nói sao Nhà nước VN không lên tiếng mà cứ im lặng.
– Một người chạy xe ôm ở Nha Trang

Người dân im lặng không phải vì họ hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và Nhà nước VN với phương châm “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” như lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong ngày bế mạc Hội nghị Trung ương 9 khóa XI hôm 14/5.

Dân chúng im lặng vì họ không thể thực hiện quyền công dân đi biểu tình chống Trung Quốc một cách ôn hòa, cho thế giới thấy tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế của họ trước sự xâm lấn chủ quyền biển đảo VN của Bắc Kinh. Công luận trong nước im lặng do không biết Chính phủ VN sẽ chọn phương sách nào giải quyết vụ việc giàn khoan HD 981 khi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh khẳng khái tại Đối thoại Shangri-La hồi cuối tháng 5, cho rằng Việt Nam-Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp, vẫn duy trì quan hệ giữa 2 nước và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông đôi khi có những va chạm gây căng thẳng giống như mỗi gia đình có những mâu thuẫn, bất đồng nên các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi. Nhiều người dân trong nước mà đài ACTD tiếp xúc đều cho rằng họ rất bất mãn trước những lời tuyên bố trong quốc nội cũng như trong những diễn đàn quốc tế của các quan chức lãnh đạo hiện nay. Ngoài sự im lặng, người dân không còn cách nào khác để bày tỏ sự bất mãn của mình.

“Há miệng mắc quai?”

1-TBT-(2)-250.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

Câu hỏi đặt ra có phải sự im lặng này là một sự buông xuôi trước vận mệnh của quốc gia? Trao đổi với Hòa Ái, một người hành nghề chạy xe ôm ở Nha Trang không cho là như vậy. Người thanh niên này cho biết:

“Trung Quốc khi đặt giàn khoan Hải Dương 981 thì dân chúng rầm rộ đi biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn nhưng sau này cũng lắng dịu. Tuy nhiên đây không phải là sự lắng dịu quên lãng đâu mà đây là sự âm thầm giống như lò áp suất hơi vậy đó, sẽ bùng phát hồi nào không hay, chứ không đơn giản bình thường. Người ta không dám nói nhưng bàn tán ngầm, ở đâu không biết chứ ở Nha Trang-Khánh Hòa, người dân có sự chú ý nhiều đến biển Đông, người ta nói sao Nhà nước VN không lên tiếng mà cứ im lặng. Người dân bây giờ đang nghi ngại Nhà nước những vấn đề như vậy đó”.

Một trong những người đại diện cho Nhà nước là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, được người dân đặc biệt nhắc đến trong thời gian từ khi giàn khoan HD 981 xuất hiện ở khu vực biển cách đảo Lý Sơn 120 hải lý. Nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng CSVN được nhắc tên vì sự im lặng của ông.

Có nhiều đồn đoán cho rằng ông Nguyễn Phú Trọng không đăng đàn nói được lời nào vì bị “há miệng mắc quai”. Thậm chí dư luận mặc cả rằng ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục giữ im lặng chính là bằng chứng “cõng rắn cắn gà nhà” của một Lê Chiêu Thống trong lịch sử VN, thế kỷ 21.

Tình hình biển Đông bây giờ dân thì cũng nhiều người như tôi, người ta mặc kệ, chán rồi, chán chả buồn nói nữa vì 1 tháng rồi có làm được gì đâu.
– Một tài xế taxi ở Hà Nội

Còn có dự đoán sau giữa tháng 8 vào lúc thời tiết không thuận lợi cũng như giàn khoan HD 981 đã tròn nhiệm vụ khoan thăm dò và rút đi thì Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ xuất hiện trước truyền thông để lên tiếng trấn an người dân rằng Đảng Cộng Sản và Nhà nước VN đã giải quyết thắng lợi tình trạng căng thẳng ở biển Đông đồng thời trỗi lên những lời ca tụng tình hữu nghị “4 tốt-16 chữ vàng” với người bạn láng giềng Trung Quốc.

Cho đến ngày 18/6 là ngày gặp gỡ chính thức đầu tiên giữa Ủy viên Quốc Vụ viện Trung Quốc, ông Dương Khiết Trì và đại điện quan chức cấp cao gồm Thủ tướng VN và Tổng Bí Thư Đảng CSVN thì ý nghĩa sự im lặng của ông Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa được giải mã.

Một ngày trước cuộc gặp gỡ giữa các đại diện cấp cao của Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận liên quan đến việc Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu HD 981 ở vùng biển tranh chấp, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cảnh báo VN nên chú trọng đến lợi ích lớn hơn trong quan hệ song phương để làm việc cùng Trung Quốc trong tình hình căng thẳng hiện nay. Trước đó, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc của VN nói với báo giới trong nước rằng “vụ giàn khoan trái phép đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử. Nó phơi trần mọi sự lừa bịp được công phu bày vẽ lâu nay”.

Người dân trong nước bày tỏ vẫn đang thầm lặng chờ đợi xem phản ứng của những người đại diện Nhà nước VN trong cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với đại diện của Trung Quốc như thế nào và họ cũng thầm hy vọng những lời tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp gỡ này sẽ không đồng nghĩa với sự im lặng suốt những tuần vừa qua khi biển đảo quê hương bị xâm chiếm.

Trần Trung Đạo: Món nợ tuổi hai mươi

Trần Trung Đạo: Món nợ tuổi hai mươi

(Đọc Mãi mãi tuổi hai mươi, nhật ký của Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở chiến trường Quảng Trị 1972)

Tôi đọc nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của anh Nguyễn Văn Thạc, người lính miền Bắc chết ở Quảng Trị lần đầu trên chuyến bay từ California về lại Boston một thời gian ngắn sau khi phát hành 2005. Nhật ký dày 296 trang, tính cả phần giới thiệu, bắt đầu từ ngày 2 tháng 10 năm 1971, 28 ngày sau khi anh nhập ngũ, đến trang cuối cùng ở Ngã Ba Đồng Lộc ngày 3 tháng 6 năm 1972. Tôi đã có lần đề cập đến Mãi mãi tuổi hai mươi trong một bài viết khác, nhân dịp 30-4 muốn viết một bài riêng.

Anh Nguyễn Văn Thạc sinh ngày 14 tháng 10 năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội. Cha mẹ anh có đến 14 người con, vốn là chủ nhân một xưởng dệt nhỏ, có thuê người làm nhưng khi chiến tranh bùng nổ phải bán hết và dọn về xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm. Gia đình đông đúc, đời sống khó khăn, mẹ anh phải đi cắt cỏ bán lấy tiền. Dù nghèo khó, anh Thạc học rất giỏi tất cả các môn, nhất là môn văn. Ngày 6 tháng 9 năm 1971, anh gia nhập bộ đội. Tháng 4 năm 1972 anh được đưa vào Nam. Anh viết cuốn nhật ký từ ngày 2 tháng 10 năm 1971 đến ngày 3 tháng 6 năm 1972. Trước khi tham gia chiến trường Quảng Trị, anh đã gửi cuốn nhật ký cùng nhiều lá thư về cho anh trai từ ngã ba Đồng Lộc. Hai tháng sau, ngày 30 tháng 7 năm 1972 anh chết tại mặt trận Quảng Trị sau khi chưa tròn một năm trong đời quân ngũ.

Các hệ thống truyền thông của Đảng tuyên truyền rằng trong “một trận đánh ác liệt bên Thành cổ Quảng Trị, chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc đã bị trọng thương mảnh pháo đã cắt ngang đùi trái trận chiến đẫm máu và hy sinh tại Cổ Thành Quảng Trị”. Thật ra, theo lời anh Nguyễn Văn Hà người thương binh cùng trung đội truyền tin và cũng là người đã mai táng anh Nguyễn Văn Thạc kể lại với phóng viên báo Tiền Phong, anh Thạc không tham gia trận chiến đẫm máu tại Cổ Thành và cũng chưa bắn một viên đạn nào. Khẩu AK, bốn băng đạn vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi vượt sông Ba Lòng, anh Thạc là người đầu tiên trong đơn vị bị pháo binh VNCH bắn trúng. Cũng theo lời anh Nguyễn Văn Hà, anh Thạc còn rất tỉnh táo tuy bị thương ở đùi. Máu ra nhiều nhưng không có y tá để giúp đở, không một viên thuốc cầm máu hay giảm đau, và như thế anh Thạc ra máu cho đến chết.

Anh đặt tên nhật ký là Chuyện đời nhưng được thay bằng Mãi mãi tuổi hai mươi khi phát hành vào năm 2005. Giống như Nhật ký Đặng Thùy Trâm, nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Nguyễn Văn Thạc qua bộ máy tuyên truyền của đảng đã trở một tác phẩm có số lượng phát hành kỷ lục và gây tiếng vang lớn tại Việt Nam.

Anh Thạc thú nhận “ước mơ thầm kín” của anh là trở thành nhà văn. Cũng vì tập làm nhà văn nên văn trong nhật ký của anh không có được nét tự nhiên. Anh tả cảnh hơi nhiều. Ví dụ, ngày 20 tháng 11 năm 1971 anh tả trong nhật ký: “Cơn gió thổi từ phía đồi mặt trời qua hồ cá. Sương mù thốc nhẹ lên rặng phi lao ven đường… Con trâu đi ngang, con cá trắng bơi dọc, và những vòng sóng hình tròn toả rộng chung quanh… Sự sống hiện ra ở khắp mọi chiều. Và chỗ nào mà chẳng có mầm xanh, chỗ nào mà chẳng có giọt nắng hình quả trứng lăn nghiêng”; hay ngày 4 tháng 2 năm 1972, thay vì ghi lại những gì xảy ra trong ngày, anh tả một cơn gió mùa: “Cả rừng bạch đàn vặn mình. Những cây bạch đàn thân nâu lốm đốm trắng nghiêng ngả. Những chiếc lá thon dài nằm ngang trong gió. Thấp thoáng trong rừng những mái nhà gianh và những lều bạt. Gió mạnh phần phật những tấm tăng đã cũ. Gió reo vù vù…”

Ngoại trừ tình yêu say đắm dành cho chị Như Anh mà tôi sẽ không nhắc trong bài viết này vì tôn trọng tình cảm riêng tư, anh Thạc là sản phẩm kiểu mẫu của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Anh không được đi ra nước ngoài dù đi Liên Xô, đi Tiệp. Anh chỉ nghe đài phát thanh Hà Nội, học tập lý luận chính trị từ các bài diễn văn của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, đọc truyện dịch của các tác giả Liên Xô, đọc thơ Tố Hữu, Phạm Tiến Duật, các nhà thơ Liên Xô, ngoài ra không có một nguồn tư liệu nào khác. Anh tả nhiều hơn viết, một phần cũng vì ở tuổi còn nhỏ sự gần gũi và va chạm với xã hội còn khá ít.

Thần tượng tuổi trẻ của anh Thạc là Paven, tức Pavel Korchagin trong Thép đã tôi thế đấy của Nikolai Ostrovsky. Lại cũng Paven!

Ngày 24 tháng 12 năm 1971 anh viết về thần tượng Paven của anh: “Dạo ấy Paven mới 24 tuổi. Ba năm của thời 20, anh đã sống say sưa, sống gấp gáp và mạnh mẽ. Cưỡi trên lưng con ngựa cụt hai tai trong lữ đoàn Buđionni anh đã đi khắp miền đất nước. Cuộc sống của anh là một dòng mùa xuân bất tận giữa cuộc đời. Đó là cuộc sống của người Đảng viên trẻ tuổi, cuộc sống của một chiến sỹ Hồng quân. Mình thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn đời mình cho Đảng, cho giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của cuộc đời riêng.”

Thép đã tôi thế đấy là một trong những tác phẩm anh Thạc mang theo trên đường vào Nam và được anh trích dẫn khá nhiều. Anh xem đó như là nhựa sống: “Mêrétxép và Paven… Những người đầy nghị lực và có thể nói được họ đã đi tới mục đích của đời mình!” Anh hổ thẹn vì chưa được thành đảng viên CS giống như Paven: “Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu. Mình chưa phải là một đảng viên!”.

Ước mơ của chàng thanh niên Việt Nam 20 tuổi Nguyễn Văn Thạc là được sống như Paven Korchagin. Chẳng lẽ anh không biết một số rất đông anh hùng dân tộc Việt Nam, đã sống, chiến đấu và hy sinh cho độc lập tự do của đất nước trong khi còn rất trẻ. Trần Quốc Toản (1267–1285) “phá cường địch báo hoàng ân” năm 18 tuổi. Trần Bình Trọng (1259–1285) “thà làm quỷ nước Nam hơn làm vua đất Bắc” khi 26 tuổi. Nguyễn Thái Học (1902–1930) “chết vì tổ quốc chết vinh quang” lúc 28 tuổi. Cuộc đời họ là những bản hùng ca tuyệt vời gấp ngàn lần hơn anh chàng Nikolai Ostrovsky bị tẩy não kia.

Đọc phóng sự Vua An Nam (Le Roi d’Annam, Nguyễn Duy Chính dịch) của ký giả Jean Locquart đăng trên Le Monde ngày 23 tháng 2 năm 1889 để biết tuổi trẻ Việt Nam đã sống và chết trung liệt như thế nào. Ký giả Jean Locquart tường thuật khá chi tiết cảnh biệt đội Pháp do Đại úy Boulangier chỉ huy bắt sống vua Hàm Nghi chiều ngày 1 tháng 11 năm 1888:

Một buổi chiều biệt đội của đại uý được tin là sau khi bị đội lính dõng thiện chiến truy kích liên tục, cựu hoàng lẩn trốn cùng với người tuỳ viên là Tôn Thất Thiệp con trai cựu phụ chính Thuyết tại một làng hẻo lánh và kín đáo trong rừng núi cao nguyên Giai. Biệt đội của Boulangier liền bao vây nơi nhà vua ở và khi cửa chính bị đạp tung ra thì thấy Thiệp đã thức giấc vì tiếng động của vụ tấn công còn vua Hàm Nghi đang ngủ say ở bên cạnh. Cả hai người đều để gươm trần ở bên cạnh và trong tay có khí giới nhưng không chống trả được gì.Thấy chủ soái thất thế, và để tránh cảnh tủi nhục khi bị bắt đem đi, Thiệp toan đâm chết ông [vua Hàm Nghi], nhưng vì quân Pháp dự tính bắt sống nên lập tức nổ súng hạ gục Thiệp. Sau đó họ chặt đầu Thiệp và đem bêu trên cọc tre ở ngoài chợ Dang-Kha là một nơi sầm uất và còn đang xao động.

Hai người gánh cả một non sông trong giai đoạn lịch sử vô cùng bi tráng đó đều chỉ mới 18 tuổi, còn nhỏ tuổi hơn anh Thạc. Tôi tự hỏi, khi dừng chân nghỉ ngơi trong hành trình đầy gian khổ ở Quảng Trị vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thiệp nói chuyện gì với nhau. Một ông vua trẻ trước đây chưa từng ra khỏi Huế và một chàng vệ sĩ còn trong tuổi vị thành niên hẳn không có nhiều điều trao đổi. Nhưng có một điều chắc chắn họ đã từng chia sẻ, đó là mơ ước một ngày dân tộc Việt Nam sẽ không còn làm nô lệ cho Tây. Giọt máu của Tôn Thất Thiệp nhỏ xuống trên chiếc cọc tre cắm ngoài chợ Dang-Kha và giọt nước mắt của vua Hàm Nghi nhỏ xuống bên thành tàu Biên Hòa trên đường đi đày cùng có một mùi đắng cay, tủi nhục giống nhau.

Là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội và từng là học sinh giỏi văn nhất miền Bắc hẳn anh biết Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản, Hàm Nghi, Tôn Thất Thiệp là ai, rất tiếc anh không được uốn nắn để sống theo những tấm gương trung liệt đó.

Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, hàng trăm ngàn đồng bào Quảng Trị phải bồng bế, gồng gánh nhau chạy vào Huế và Đà Nẵng, những quận Đông Hà, Gio Linh và các khu vực chung quanh Cổ thành Quảng Trị đã trở thành những bãi chiến kinh hồn nhưng trong nhật ký ngày 4 tháng 4 năm 1972, anh hãnh diện chép lại bản tin của đài phát thanh Hà Nội: “Đài phát thanh truyền đi tin chiến thắng rực rỡ của tiền tuyến ở mặt trận Trị-Thiên-Huế ở đường 9, Cam Lộ, Gio Linh, đã diệt 5.500 tên địch; 10 vạn đồng bào nổi dậy – Đài phát thanh tiếng nói Việt Nam đã phải mở thêm các buổi phát thanh để truyền tin chiến thắng của miền Nam anh hùng.”

Anh Thạc tin một cách chân thành rằng những tin tức đó là thật. Nếu có một nhà sưu tầm nào thu thập các bản tin chiến sự của đài phát thanh Hà Nội trong suốt cuộc chiến và cộng lại, tổng số tổn thất của quân đội VNCH ít nhất cũng bằng nửa dân số miền Nam.

Trong nền giáo dục CS, anh Thạc không phải mất công tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc của mình vì Đảng đã có sẳn các câu trả lời cần thiết cho suốt cuộc đời anh. Trong nhật ký ngày 12 tháng 1 năm 1972, khi ưu tư về tương lai, anh Thạc trích ngay câu nói của Lê Duẩn: ”Thanh niên hãy lấy sự hy sinh phấn đấu cho cách mạng làm hạnh phúc cao cả nhất của đời mình, đừng để cho tình cảm cách mạng nguội lạnh vì những tính toán được mất cho cá nhân.” Không có tình cảm riêng tư nào cả, cách mạng là hạnh phúc cao cả nhất. Anh viết câu nói của Lê Duẩn vào nhật ký một cách trang trọng tưởng chừng y đang ngồi trước mặt và sau đó yên tâm đi tiếp, không thắc mắc gì thêm.

Dù trong bất cứ một hoàn cảnh nào, cuộc tranh đấu giữa thiện và ác diễn ra không ngừng trong mỗi con người cũng như trên phạm vi xã hội. Cũng có lúc các đặc tính nhân bản, tự do bẩm sinh trong con người anh đứng lên chống lại các yếu tố ác độc, nô dịch của ý thức hệ CS đang dồn dập tấn công. Trong nhật ký ngày 27 tháng 4, anh viết những câu đau xót cho cuộc đời mình: “Phải hết sức trấn tĩnh, tôi mới không xé hoặc không đốt đi cuốn Nhật ký này. Trời ơi! Chưa bao giờ tôi chán nản và thất vọng như buổi sáng nay, như ngày hôm nay cả. Tôi không giải thích ra sao nữa. Người ta giải thích được cần phải trấn tĩnh mới hiểu lý do và lung tung. Còn tôi rời rã tôi chán nản với hết thảy mọi điều, mọi thứ trên trái đất này. Phải, tôi hiểu rằng, với một người con trai đang khoẻ mạnh, đang sung sức, đang ở giữa mùa xuân của đời mình thì buồn nản, thì chán đời là một điều xấu xa và không thể nào tưởng tượng được – Người ta đã chửi rủa biết bao lần những thanh niên như thế – Nhưng tôi biết làm sao khi chính bản thân tôi đang buồn nản đến tận cùng này. Tôi lê gót suốt con đường mòn – Con đường mòn như chính cuộc đời tôi đang mòn mỏi đi đây – Tôi ngồi bệt xuống bờ sông, con sông cạn đang rút nước. Tôi vốc bùn và cát ở dưới lòng sông, và qua kẽ ngón tay tôi nó rớt xuống, rớt xuống. Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông.”

“Tôi muốn khóc, khóc với dòng sông”, khóc cho anh, cho thế hệ anh đang lê gót trên con đường mòn. Nhưng thiện tính bẩm sinh trong con người anh Thạc mong manh như một nhánh tre non giữa cuồng phong thù hận. Anh bị tiêm thuốc độc vào người từ thuở mới sinh ra, biết đọc, biết viết cho đến tuổi hai mươi. Những vi trùng Pêlêvôi (Người mẹ cầm súng), Marétxép (Anh hùng phi công Marétxép) đã mê hoặc anh bằng một loại chủ nghĩa anh hùng không tưởng. Thiện tính trong anh không chống đở nổi, đã gục xuống, đầu hàng để rồi vài hôm sau trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972 anh lại mơ được “Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.” Anh Thạc không thể thoát ra khỏi được quỹ đạo của bộ máy tuyên truyền CS tinh vi. Mà cũng ít người thoát ra được.

Trong số 8 người bạn học đi thi giỏi văn toàn miền Bắc, phần lớn được đi học nước ngoài, riêng anh và một người bạn khác phải đi bộ đội. Trong nhật ký ngày 24 tháng 5 năm 1972, anh tự hỏi chính mình: “Thạc còn buồn không? Có còn buồn bã vì những năm tháng phải xa trường đại học, vì không được ra nước ngoài học tập – Vì các bạn Thạc, người đi đây, người đi đó, sống êm ả, sung tức với tập giáo trình. Ngày mai, các bạn về, các bạn có kiến thức, các bạn là kỹ sư, là các nhà bác học, còn Thạc sẽ chỉ là một con người bình thường nhất, nếu chiến tranh không cướp đi của Thạc một bàn chân, một bàn tay…” Anh không thể tự trả lời. Tuy nhiên, đoạn nhật ký trong cùng ngày đã giải thích lý do một học sinh hạng A1, giỏi toàn diện và từng đoạt giải giỏi văn nhất miền Bắc như anh lại không được đi học nước ngoài: “Lại nói tiếp về những trang lý lịch – Người ta bắt khai tỉ mỉ hết sức – Nào là ông, bà, cô dì, chú bác. Làm sao mà nhớ được cơ chứ – Ngay cả cái tên mình cũng khó mà nhớ được Nữa là phải nhớ cả ngày tháng năm sinh. Nhớ cả sinh hoạt vật chất và chính trị của các cụ ấy từ ngày mình có lẽ chưa có một chút gì trên trái đất này, ngay cả đó là những tế bào đầu tiên đơn sơ nhất!”

Anh Thạc nhiều tài năng đã chết một cách oan uổng chỉ vì như anh viết “vết đen của quá khứ gia đình đè trĩu hai vai”. Cha mẹ anh chẳng phải phạm tội cướp của giết người gì cả nhưng từng có xưởng dệt, mướn thợ làm công và như thế trên quan điểm Marx-Lenin, anh thuộc thành phần tư sản bóc lột, tội ác.

Anh Thạc chưa được kết nạp vào đảng và cũng chưa được làm đối tượng đảng. Anh viết trong nhật ký ngày 7 tháng 5 năm 1972:“Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề. Có người sẽ bảo: Thì đấy, anh được đi bộ đội đó thì sao? Chẳng lẽ anh không được Đảng tin cậy mà lại trao nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc à? Không, đừng ai nói thế! Chuyện gì cũng có điều tế nhị của nó. Nói ra ư, không khéo thì trở thành phản cách mạng mất. Có đi trong quân đội mới cảm thấy nỗi khổ của những người không phải Đỏ hoàn toàn.” Trong cùng ngày, anh viết: “Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn tận sâu xa.”

Anh Thạc nhắc đi nhắc lại đến mười một lần hai chữ “lý lịch” trong nhật ký và điều đó cho thấy “vết đen” lý lịch ám ảnh anh sâu đậm đến mức nào. Anh khổ tâm, đau đớn vì lý lịch gốc tư sản của cha mẹ anh trước đây cũng là điều dễ hiểu. Trong xã hội miền Bắc, Đảng là chiếc thang duy nhất đại diện cho quyền lực và quyền lợi mà mọi người phải chen nhau, đạp nhau và ngay cả giết nhau để được trèo lên cao.

Chủ nghĩa CS và chủ nghĩa Quốc Xã Đức giống nhau một điểm quan trọng, đó là sự tin tưởng vào mỗi cá nhân đặt cơ sở trên lý lịch. Chính trị lý lịch (Bio-politics) không chỉ bảo đảm tính kế tục về giòng giống nhưng còn bảo đảm mụch đích của chế độ được hoàn thành trong ngắn hạn cũng như dài hạn. Chính Adolf Hitler, đối thủ hàng đầu của Stalin, đã từng bày tỏ sự thán phục dành cho Stalin và ca ngợi y trong việc làm thuần khiết hóa đảng CS Liên Xô qua việc loại bỏ các mầm mống Do Thái như Leon Trotsky, Grigory Zinoviev, Lev Kamenev, Karl Radek khỏi nội bộ lãnh đạo đảng. Stalin phê bình quan điểm chủng tộc Aryan siêu việt của Hitler và gọi đó là Phát Xít nhưng chính y lại biện hộ cho chính trị lý lịch dựa trên giai cấp xã hội.

Anh Thạc có yêu nước không? Tôi tin là có. Không những anh Thạc mà rất đông tuổi trẻ miền Bắc tình nguyện lên đường “giải phóng miền Nam” cũng vì lòng yêu nước. Nhưng tình yêu nước của các anh không phát xuất từ trái tim trong sáng của tuổi hai mươi mà được dạy để yêu nước theo quan điểm giai cấp. Miền Nam mà các anh được Đảng mô tả là địa ngục trần gian chứ không phải là những cánh đồng bát ngát, những vườn cây sai trái, những dòng sông nhuộm đỏ phù sa. Người dân miền Nam mà Đảng vẽ trong nhận thức các anh là những người đang rên siết trong gông xiềng “Mỹ Ngụy” chứ không phải là mấy chục triệu người chơn chất hiền hòa chỉ mong được yên ổn để xây dựng cuộc sống mới sau gần một thế kỷ bị thực dân đô hộ. Cũng trong nhật ký ngày 24 tháng 5, anh Thạc tin rằng Sài Gòn ngày đó là một “Sài Gòn tăm tối, dưới ách quân thù”.

Anh Thạc hiểu thế nào là tổ quốc? Trong bài thi học sinh giỏi văn miền Bắc in ở phần cuối của nhật ký, anh phân tích tổ quốc: “Được mang ngòi bút của mình phục vụ Tổ Quốc, nhằm giáo dục lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho nhân dân ta, các nhà thơ ta, bằng nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã tái hiện cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của dân tộc ta đang chiến đấu theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, và dưới ánh sáng đường lối văn nghệ, chính trị của Đảng” hay trong nhật ký ngày 7 tháng 1 năm 1972, anh viết “Tổ quốc vẫn dựng xây và đánh giặc hai hòn gạch vẫn gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản.”

Tổ quốc gắn liền với “lập trường và nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa” hay “gắn chặt vào nhau nhờ nhiệt tình của con người cộng sản” như anh viết nằm bên sông Volga, sông Hoàng Hà chứ không phải sông Hồng, sông Cửu. Đoạn văn anh viết được trích gần như nguyên văn từ các đề cương văn hoá, nghị quyết, bài giảng kinh tế chính trị ở trường mà anh đã nhập tâm. Không phải chỉ một mình anh Nguyễn Văn Thạc mà phần lớn nhà văn miền Bắc không ít thì nhiều đều phạm tội đạo văn của Đảng.

Anh Thạc không phân biệt được sự khác nhau, nói chi đến mâu thuẫn, giữa Tổ quốc và Đảng, giữa ý thức dân tộc nhân bản và chủ nghĩa Marx-Lenin độc tài toàn trị. Đọc bài văn đoạt giải nhất này để thấy bộ máy tuyên truyền của Đảng không những có khả năng điều khiển hành động mà còn có thể sai khiến cả nhận thức của anh. Trong nhật ký ngày 15 tháng 11 năm 1971 anh viết:“Thằng Mỹ, nó thế nào? Trời ơi, sao lâu quá. Bây giờ cái khao khát nhất của ta – cái day dứt nhất trong ta là khi nào được vào miền Nam, vào Huế, Sài Gòn – xọc lê vào thỏi tim đen thủi của quân thù”. Anh không biết “Thằng Mỹ, nó thế nào” và vẫn muốn “xọc lê vào thỏi tim đen thủi” của nó. Khủng khiếp thật. Ai dạy anh viết những câu sắc máu vượt qua tuổi tác của anh như thế, chắc chắn không phải cha mẹ anh nhưng từ bộ máy tuyên truyền của Đảng.

Anh Thạc là nạn nhân của một chính sách thuần hóa tinh vi. Mục tiêu hàng đầu của tuyên truyền tẩy não CS là đào tạo những con người biết tuân phục. Thuần khiết toàn xã hội qua sách lược trồng người là mục đích tối hậu của nền giáo dục CS. Đó là lý do tại sao các lãnh tụ CS thích hôn nhi đồng. Từ Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành cho đến Fidel Castro, Pol Pot đều thích hôn nhi đồng. Hình ảnh “hiền từ” của họ bên cạnh nhi đồng là hình ảnh phổ biến nhất tại các nước CS. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện tả cảnh “hôn nhi đồng” tại miền Bắc trong bài thơ ông viết năm 1970:

Bác Hồ rồi lại bác Tôn
Cả hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước da hai bác màu hồng
Nước da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa hai cái mặt bành bành
Những khăn quàng đỏ bay quanh cổ cò.

Bộ máy tuyên truyền của CSVN là thành quả được “vận dụng một cách sáng tạo” từ cả hai hệ thống tuyên truyền CS Liên Xô và Trung Cộng nên không lạ gì họ đã lừa gạt bao nhiêu thế hệ thanh niên miền Bắc một cách dễ dàng. Đọc lại nhật ký của anh Nguyễn Văn Thạc để thấy, CSVN vào được Sài Gòn trong ngày 30 tháng 4 năm 1975 bằng nhiều phương tiện nhưng hữu hiệu nhất là phương tiện tuyên truyền.

Trang nhật ký cuối cùng ghi ngày 25 tháng 5 năm 1972, anh Thạc viết: ”Kẻ thù không cho tôi ở lại – Phải đi – Tôi sẽ gởi về cuốn Nhật ký này, khi nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã trải qua từ khi xa nó, xa cuốn Nhật ký thân yêu đầu tiên của đời lính. Ừ, nếu như tôi không trở lại – Ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng này? Tôi chỉ ước ao rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như những trang giấy này.”

Anh Thạc không trở lại. Nhật ký ngày 3 tháng 6 năm 1972 chỉ là địa chỉ “Ngã ba đồng lộc”. Hết. Những trang giấy còn lại của cuốn nhật ký cũng không phải là những dòng vui vẻ đông đúc như anh muốn. Anh ngã xuống ở Quảng Trị và trên vùng đất đó, máu của nhiều thanh niên miền Nam cũng đã đổ xuống để giành lại Cổ thành Đinh Công Tráng, giành lại Cam Lộ, Đông Hà, Triệu Phong và những vùng đất miền Nam thân yêu khác.

Anh Nguyễn Văn Thạc đã chết. Hàng triệu thanh niên miền Bắc đã chết. Hàng trăm ngàn cựu thương binh miền Bắc may mắn hơn nhưng phải sống phần đời còn lại trong khó khăn túng thiếu với số tiền phụ cấp chỉ vỏn vẹn sáu trăm ngàn và nhiều nhất là ba triệu đồng một tháng cho cả gia đình. Tất cả những mất mát và chịu đựng đó chỉ để hoàn thành mục tiêu CS hóa Việt Nam như đã xác định từ cương lĩnh đảng CSVN 1930, cương lĩnh 1935 và lần nữa khẳng định trong cương lĩnh 1991: “Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghịa” . Sau 39 năm, ngoại trừ những kẻ bị tẩy não, một người có nhận thức và theo dõi thời cuộc đều đã nhận ra khẩu hiệu “chống Mỹ cứu nước” chỉ là một chiêu bài và “độc lập, tự do, hạnh phúc” chỉ là chiếc bảnh vẽ.

Xương máu của nhiều thế hệ thanh niên miền Bắc đổ xuống chỉ để hôm nay mọc lên những biệt thự nguy nga, sang trọng của các chủ tịch, bí thư, ủy viên trung ương, ủy viên bộ chính trị, những kẻ sống xa hoa trên một đất nước độc tài, tham nhũng, lạc hậu và bị phân hóa đến tận cùng. Đảng CSVN nợ những người đã chết và còn sống trong tật nguyền đau đớn quá nhiều thứ nhưng món nợ lớn nhất mà Đảng không thể nào trả nỗi, đó là, món nợ tuổi hai mươi.

Trần Trung Đạo

Kinh Lạy Cha – lời kinh tuyệt vời.

Kinh Lạy Cha – lời kinh tuyệt vời.

Tác giả:  Lm Nguyễn Hữu An

Trong chuyến hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm Nhà Thờ Kinh Lạy Cha tại Giêrusalem. Tảng đá Chúa ngồi dạy Kinh Lạy Cha vẫn còn đó. Nhà thờ này do các Soeur Dòng Kín Cát Minh người Pháp coi sóc. Nơi đây có 114 phiến đá ghi Kinh Lạy Cha bằng 114 ngôn ngữ. Có bản kinh bằng tiếng Việt do Đức cố Giám mục Phạm Ngọc Chi đặt từ năm 1959.

Thánh Luca xếp hoàn cảnh Kinh Lạy Cha ngay sau trình thuật bữa ăn ở nhà Matta, Maria. Câu chuyện xảy ra ở vùng núi Ôliu. Nơi chốn và thời gian của Kinh Lạy Cha là: “Mọi người trở về nhà mình, còn Chúa thì đến và qua đêm ở núi Ôliu.” Cả ngày Chúa giảng trong đền thờ. Đêm đến Thầy trò kéo nhau về núi Ôliu. Bấy giờ các môn đệ hỏi Chúa cách cầu nguyện. Chúa đã dạy Kinh Lạy Cha. Đây là lời kinh duy nhất Chúa để lại.

Kinh Lạy Cha, một lời kinh tuyệt vời và phong phú vì chất chứa bao điều huyền nhiệm.

Kinh Lạy Cha bao gồm: một lời thân thưa, hai lời nguyện ước và ba lời cầu xin.

Lời thân thưa

Thiên Chúa được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau : Thiên Chúa vĩnh cửu, Thiên Chúa quyền năng, Thiên Chúa tạo dựng, Thiên Chúa thánh thiện… Mỗi danh hiệu nói lên một ưu phẩm, một đặc tính của Thiên Chúa.

Nhưng không một danh hiệu nào lại đậm đà, trìu mến, ý nghĩa, hy vọng cho bằng danh hiệu Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ là mỗi khi cầu nguyện hãy thân thưa :  Lạy Cha chúng con ở trên trời.

Lời mạc khải mối liên hệ chiều sâu giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha. Lời diễn tả một chiều kích thiêng liêng, các môn đệ được đi vào đời sống thân mật, liên kết với Chúa Cha và Chúa Con.

Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Từ ngữ Cha gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm vô cùng.

Từ đây, lời thân thương “Lạy Cha” luôn vang vọng mãi nơi môi miệng của người Kitô hữu. Lời gắn kết họ với Thiên Chúa. Lời nối kết tương quan cha con trong tình yêu. Hồng ân thật cao quý Chúa muốn ban cho con người. Được gọi Thiên Chúa là Cha, được làm con cái của Thiên Chúa. Đó là tư cách rất riêng của những ai là môn đệ Đức Giêsu. Ơn gọi làm con là ơn gọi căn bản nhất, ơn gọi cao trọng nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua Đức Giêsu. Vì thế chúng ta phải sống hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha và huynh đệ với tha nhân là anh chị em. Vì chưng toàn thể nhân loại chỉ có một Cha và tất cả đều là anh em chị em của nhau.

Hai lời nguyện ước

“Xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển” và “Triều đại Cha mau đến” là hai lời nguyện ước của những người con thảo hiếu hướng về Cha mình.

Thiên Chúa không cần đến lời chúng ta cầu nguyện để nhờ đó danh Người và triều đại Người mới được hiển thánh, được tôn vinh. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần đến những lời cầu xin của chúng ta, có hay không, danh Người mãi mãi vẫn rạng ngời vinh hiển.

Vậy thì chúng ta cầu nguyện như thế để làm gì? Chắc một điều đó là vì phần ơn ích cho chúng ta.

Hai lời nguyện ước là xin cho danh Thiên Chúa được hiển thánh nơi chính con người chúng ta. Thiên Chúa là Đấng Thánh. Là con Thiên Chúa, được gọi Thiên Chúa là Cha, người con xin Cha thánh hoá, xin Cha kiện toàn mỗi ngày để con được nên thánh, được tham dự vào cuộc sống thần linh với Cha. Người con cần sống hiếu thảo. Biết quan tâm, chăm lo đến những công việc thuộc về Cha của mình. Là con của Cha trên trời thì chúng ta phải làm cho Danh Cha được cả sáng và Nước Cha trị đến, Ý Cha được thực hiện. Cha rất vui, hài lòng khi có những người con biết sống hiếu thảo như thế.

Ba lời cầu xin.

“Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hàng ngày; xin tha tội cho chúng con, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.

Xin cho những nhu cầu chính đáng phần xác phần hồn: lương thực hằng ngày, ơn thứ tha tội lỗi, ơn vượt thắng cám dỗ và ơn thoát khỏi sự dữ. Thân xác cần cơm bánh lương thực. Linh hồn cần ơn thánh. Ba lời cầu xin rất thiết thực đối với sự sống của nhân loại. Lời cầu xin cho có cơm bánh hằng ngày, thiết thực và hữu ích cả trên bình diện thiêng liêng lẫn cuộc sống đời thường. Bởi ngoài nhu cầu thiết yếu của con người là cơm bánh ra, người Kitô hữu cần đến một thứ thần lương tuyệt vời khác chính là Bánh Hằng Sống, là Thánh Thể Chúa Kitô.

Ơn tha thứ thật cần thiết. Trước mặt Thiên Chúa, con người là tội nhân. Tha thứ cho nhau là điều kiện cần và đủ để chúa tha thứ cho mình. Được Cha yêu thương chăm sóc và thứ tha các lỗi lầm, con noi gương Cha sống yêu thương tha thứ cho anh em của mình. Như thế mới trọn vẹn tình con thảo hiếu.

Cạm bẫy và cám dỗ vẫn bủa vây tư bề. Cần tỉnh thức trước mọi cơn cám dỗ. Ơn Chúa là nguồn trợ lực là sức mạnh để con người vuột thắng mọi cám dỗ.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Vinh danh và thánh ý Chúa được đặt trên hết. Các nhu cầu của con người được đặt sau.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Con người được gọi Thiên Chúa là Cha. Mỗi người là con cái của Thiên Chúa.

Kinh Lạy Cha là một lời kinh tuyệt vời. Xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn; xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa chước cám dỗ ở tương lai.

Kinh lạy Cha là lời kinh tuyệt vời và huyền nhiệm nối kết con người với Thiên Chúa. Đây là lời kinh đến từ Thiên Chúa, là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Chính vì thế, Thiên Chúa ưa thích và không ngừng ban muôn ơn cho con người thông qua lời kinh thân thương, đơn giản và dễ hiểu này.

Lạy Cha,

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con chưa nhận thấy được.

Con biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con. Amen.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nếu chiến tranh Việt-Trung xảy ra…

Nếu chiến tranh Việt-Trung xảy ra…

Song Chi.

Nếu chiến tranh Việt-Trung lại xảy ra một lần nữa trong tình hình như hiện nay, VN sẽ thua hay thắng?

Có thể cho đến giờ phút này nhiều người VN, vì yêu nước, vì lòng tự hào dân tộc, hay thậm chí vì vẫn còn niềm tin mơ hồ vào “đảng ta, chính phủ ta” đã từng đánh thắng hai đế quốc to Pháp, Mỹ, sau đó lại chiến đấu ngang ngửa, thậm chí còn trội hơn trong cuộc chiến biên giới với Trung Cộng năm 1979, nên nghĩ rằng VN có thể sẽ thua lúc đầu nhưng sau đó sẽ thắng, rồi nào Trung Hoa đã từng đô hộ ta cả ngàn năm nhưng ta cũng có bị xóa sổ đâu, ta vẫn là ta v.v…

Người viết bài này thì nghĩ khác. Nếu chiến tranh Việt-Trung lại xảy ra một lần nữa, VN chắc chắn sẽ thua và cái thua lần này sẽ dẫn tới một hậu quả bi đát hơn rất nhiều, nếu nhìn vào hình ảnh của các nước Tây Tạng, Tân Cương…hiện nay.

Lý do vì sao trước đây đảng cộng sản VN thắng được Pháp, Mỹ, cho đến bây giờ có lẽ đã có quá nhiều bài viết chỉ ra sự thật phía sau cái “hào quang chiến thắng” này, tưởng chỉ cần nói vắn tắt: Thứ nhất, bởi vì ít ra lúc đó cũng còn khá nhiều người VN tin rằng đảng cộng sản thực tâm vì dân vì nước, bản thân nhiều người trong hàng ngũ đảng cộng sản lúc đó chân thành tin vào đảng, vào lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, vào tương lai tươi sáng sau khi giành được độc lập, thống nhất đất nước. Thứ hai, nói thẳng ra, chỉ trừ thịt da máu xương là của người Việt còn lại từ phong lương khô, quân trang quân dụng của người lính cho đến đạn dược, súng ống, vũ khí các loại, kể cả cố vấn…cũng là của các đồng minh trong khối XHCN anh em, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc chi viện cho, đúng với cụm từ “Chống “ngoại xâm” bằng “ngoại nhân” trong một bài viết trên RFA trước đây.

Quan trọng nhất, lúc đó đảng cộng sản như những kẻ lên đồng, không sợ Pháp sợ Mỹ. Có thể nói họ tàn ác, sắt máu khi sẵn sàng thí quân trong các trận đánh theo kiểu “mười chọi một”, hoặc sẵn sàng đặt bom, nổ mìn, pháo kích, ám sát các yếu nhân…tại các thành thị cho tới nông thôn miền Nam mà không chùn tay, nhưng khó có thể nói họ hèn.

Còn bây giờ. Đối mặt với Trung Cộng, VN sẽ thua cũng vì quá nhiều lý do rõ ràng không kém. Không chỉ thua về tiềm lực quân sự, vũ khí, kỹ thuật, tiền của sẽ phải đổ vào cho cuộc chiến. Không chỉ thua vì không có bạn bè đồng minh thực sự như trước đây đã có Liên Xô, Trung Quốc và cả khối XHCN. Có thể Trung Cộng, mặc dù là một cường quốc nhưng cũng cô độc không kém gì VN trên thế giới, nhưng Trung Cộng có thừa tiền để nếu không mua được bạn bè đồng minh thì cũng khiến cho nhiều quốc gia cảm thấy ngần ngại không muốn mất đi một đối tác thương mại lớn, một thị trường kinh tế khổng lồ…nếu xen vào giữa cuộc tranh chấp, thậm chí chiến tranh nếu có, giữa hai nước Việt-Trung.

Thua về mặt quân sự, thua luôn về truyền thông. “Cái loa” tuyên truyền của Bắc Kinh từ trước đến nay luôn luôn to hơn, mạnh mồm hơn “cái loa” của Hà Nội, về nghệ thuật vu cáo, nói ngược, đổi trắng thay đen… thì Trung Cộng luôn luôn là thầy của Việt Cộng. Mọi mánh khóe của Hà Nội Bắc Kinh đều hiểu rõ, vì cùng một giuộc như nhau.

Thua về mặt pháp lý. Tranh chấp về lãnh thổ lãnh hải, trong lúc VN chần chờ, lưỡng lự chưa dám kiện Trung Quốc thì Trung Quốc đã đi trước, kiện VN ra trước Liên Hiệp Quốc. Một động thái hoàn toàn trái ngược so với việc theo đuổi đường lối chính sách khăng khăng chỉ giải quyết mọi chuyện song phương từ trước đến nay của họ, mà ví dụ mới nhất là từ chối không chịu tham gia vào vụ kiện do Philippines khởi xướng về quyền hàng hải.

Tại sao? Vì suốt trong mấy chục năm qua, khi đảng cộng sản VN u mê mù quáng tin tưởng vào tình hữu nghị giữa hai đảng, hai nhà nước, thì đảng cộng sản Trung Quốc đã âm thầm “gài bẫy” đảng cộng sản VN bằng rất nhiều cách khác nhau. Và hậu quả là những bằng chứng bán nước từ công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đến bản đồ, sách giáo khoa…của nước VNDCCH thừa nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Quốc mà Bắc Kinh vừa mới trưng ra. Đó là chưa nói đến những bản thỏa thuận ký kết bí mật giữa hai đảng, hai nhà nước cộng sản, đặc biệt là trong Hội nghị Thành Đô 1990…Nên khác với vụ kiện của Philippines, Trung Cộng tự cho là họ có đủ tự tin để đi kiện VN.

Nhưng cái lý do chính yếu nhất, là từ sự khác nhau của chính nhà cầm quyền VN khi đương đầu với Trung Cộng, so với khi còn đánh nhau với Pháp, Mỹ. Bây giờ họ hèn. Cái hèn của họ nhân dân đều thấy, thế giới cũng phải nhận thấy.

Họ hèn, họ bạc nhược một cách lạ lùng.

Cái hèn ấy một phần do bị ràng buộc về ý thức hệ, về mối quan hệ “anh em đồng chí 16 chữ vàng” mà Bắc Kinh thì đã vứt vào sọt rác từ lâu, nhưng Hà Nội vẫn chưa dám và chưa thể thoát ra, do bị vướng mắc bởi những món nợ từ sự viện trợ, giúp đỡ của Trung Cộng dành cho VN thời chiến tranh, mặc dù tính ra thì Trung Quốc mới chính là kẻ phải mang ơn VN từ cuộc chiến tranh đánh Mỹ. Nghĩa là đảng và nhà nước cộng sản VN chưa thể thoát “ta” thì nói gì đến “thoát Trung”?

Từ mưu mô tham vọng cho tới tầm nhìn, chiến lược của nhà cầm quyền Trung Quốc từ lâu đã là của một nước lớn, tính toàn chuyện đường dài, chơi canh bạc lớn và vì thế, họ đã âm thầm chuẩn bị mọi đường đi nước bước từ hàng chục năm trước khi xuất chiêu. Trong khi đó, nhà cầm quyền VN vẫn tư duy theo kiểu nước nhỏ, quen thói đu dây, dựa dẫm vào nước khác, lúc thì Liên Xô lúc thì Trung Quốc, không nhìn thấy hoặc giả có nhìn thấy trước âm mưu xâm lược của Tàu thì cũng không chuẩn bị nên khi chuyện xảy ra là lại lúng túng, bị động. Từ cuộc chiến biên giới Việt-Trung từ năm 1979 cho tới câu chuyện giàn khoan HD 981, vụ kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế hay việc chuẩn bị cho các bước tiếp theo như thế nào, khi Trung Cộng xây xong các căn cứ quân sự khổng lồ tại Hoàng Sa-Trường Sa chặn bít lối ra biển của VN…tất cả đều cho thấy sự lúng túng, bị động, tầm nhìn kém cỏi đó của nhà cầm quyền VN.

Cái hèn ấy một phần do các thế hệ lãnh đạo VN kém tầm hơn các thế hệ lãnh đạo Trung Quốc, nhưng họ lại còn tự hù dọa mình trước nguy cơ phải đương đầu với Trung Quốc và bằng mọi giá tìm cách né tránh điều này. Nhưng họ có né tránh được không? Thực tế trong bao nhiêu năm qua và trong những ngày gần đây đã là câu trả lời.

Cái hèn ấy do trong hàng ngũ đảng cộng sản VN có qua nhiều những kẻ vì lợi ích của bản thân đã chọn con đường thân Tàu, thậm chí như nhân dân đã vạch ra, là những Lê Chiêu Thống thế kỷ XXI, sẵn sàng bán nước để giữ đảng, giữ chế độ và giữ ghế.

Cuối cùng, cái hèn ấy còn do suốt trong bao năm qua, VN đã trở nên lệ thuộc Trung Quốc nặng nề về mọi mặt, nhất là kinh tế, khiến mọi sự trả đũa của Bắc Kinh đều có thể khiến VN phải trả giá đắt v.v…

Nghĩa là lý do chủ quan là chính. Chưa kể, nguồn sức mạnh lớn nhất mà đảng cộng sản VN từng sử dụng rất hiệu quả là lòng yêu nước, chí quật cường của nhân dân trước mọi kẻ thù xâm lược thì bây giờ, chính họ đã hủy diệt lòng yêu nước ấy bằng sự bịt miệng, đàn áp…bao nhiêu năm, cộng thêm chính sách ngu dân, khinh dân, không muốn cho dân tham gia vào việc nước “Mọi chuyện đã có đảng và nhà nước lo”. Nên bây giờ một bộ phận dân chúng có thờ ơ, vô cảm, không hiều biết về tình hình thế sự hay nhút nhát sợ hãi không dám bộc lộ lòng yêu nước thì đó là lỗi của nhà cầm quyền.

Chưa kể, lòng dân đa phần đã không còn tin tưởng vào đảng cộng sản, chán ghét đảng cộng sản, chán ghét chế độ. Người VN muôn đời vẫn nồng nàn lòng yêu nước nhưng liệu bây giờ chiến tranh xảy ra, nhân dân có sẵn lòng hy sinh dưới ngọn cờ của đảng cộng sản một lần nữa?

Thế nên VN sẽ thua là vì vậy.

Cho đến thời điểm hiện tại, nói thẳng ra, VN chẳng có gì nhiều để mà chơi lại trong ván bài Việt-Trung và biển Đông, VN chỉ còn có một con đường, một sự lựa chọn duy nhất đúng, như nhiều người cũng đã phân tích, đó là phải thoát Cộng và thoát “ta” trước khi thoát Trung. Ngoài lý do để tập trung được tối đa sức mạnh đoàn kết của nhân dân, có thêm bạn bè đồng minh thực sự từ các nước dân chủ thì ai cũng thấy rõ, chỉ khi nào chế độ này không còn tồn tại nữa thì mọi ràng buộc, nợ nần ân oán cho đến mọi văn bản, ký kết, thỏa thuận giữa hai đảng, hai nhà nước cộng sản mới trở nên vô giá trị, VN mới có thể đường hoàng thắng Trung Cộng về mặt pháp lý, ngoại giao mà thôi.

 

‘Đến lúc dỡ lệnh cấm vũ khí với VN’

‘Đến lúc dỡ lệnh cấm vũ khí với VN’

Thứ tư, 18 tháng 6, 2014

Ted Osius (phải) là một nhà ngoại giao kỳ cựu

Người sắp trở thành đại sứ mới của Mỹ ở Việt Nam phát biểu hôm thứ Ba ngày 17/6 rằng có thể đã đến lúc Washington xem xét dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, hãng tin Mỹ AP cho biết.

‘Có tiến bộ’

Phát biểu trong phiên điều trần trước Thượng viện trước khi Thượng viện quyết định có phê chuẩn ông cho vị trí này hay không, ông Ted Osius nói Hoa Kỳ đã nói rõ với chính phủ độc đoán ở Việt Nam rằng lệnh cấm này sẽ không được dỡ bỏ nếu Việt Nam không có những tiến triển đáng kể về nhân quyền.

Tuy nhiên, ông nói đã có tiến bộ trong ba hoặc bốn trong tổng số chín lĩnh vực mà Mỹ muốn Việt Nam cải thiện, trong đó có quyền lao động, đối xử với người khuyết tật, tạo không gian nhiều hơn cho xã hội dân sự và cho phép các giáo hội tôn giáo hoạt động.

“Điều này có nghĩa là đã đến lúc xem xét khả năng dỡ bỏ lệnh cấm,” ông nói nhưng nhấn mạnh rằng tốc độ thực hiện công việc này tùy thuộc vào Ủy ban Đối ngoại Thượng viện.

Ông đưa ra bình luận này khi trả lời câu hỏi của Thượng nghị sỹ John McCain, người ủng hộ dỡ bỏ lệnh cấm, trong phiên điều trần.

Bất cứ động thái dỡ bỏ lệnh cấm vũ khí nào đối với Việt Nam có thể sẽ làm cho Trung Quốc, vốn đang có tranh chấp chủ quyền với Việt Nam trên Biển Đông, tức giận.

Hồi năm 2007, Mỹ đã mở đường cho việc buôn bán vũ khí phòng vệ không sát thương cho Việt Nam tùy từng trường hợp nhưng vẫn cấm bán hay chuyển giao vũ khi sát thương cho Việt Nam.

Luật sư Lê Quốc Quân là một trong số các tù nhân chính trị mà Mỹ đòi Việt Nam thả

Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã yêu cầu Chính quyền Obama dỡ bỏ những hạn chế này và xem đây là một bước đi quan trọng để hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước.

‘Còn khiêm tốn’

Các tổ chức nhân quyền vẫn chỉ trích rất nhiều thành tích nhân quyền của Việt Nam. Đất nước này vẫn duy trì chế độ độc đảng vốn bóp nghẹt bất đồng.

Tổ chức Theo dõi Nhân quyền cho biết số người bị bỏ tù trong các phiên tòa chính trị ở nước này đã tăng liên tục qua hàng năm kể từ năm 2010 và rằng 63 người bị kết án tù chỉ vì bày tỏ chính kiến một cách hòa bình hồi năm ngoái.

Ông Osius thừa nhận rằng những tiến bộ mà Việt Nam đạt được cho đến nay vẫn còn ‘khiêm tốn’ nhưng cũng nói rằng ‘bây giờ là lúc’ Washington gây sức ép để Việt Nam tiếp tục cải thiện hơn nữa về nhân quyền và quản trị quốc gia bởi vì xét trên sự sốt sắng muốn gia nhập Hiệp định đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) của Hà Nội và vì ‘tình hình chiến lược’ mà nước này đang đối diện với Trung Quốc.

“Thật sự không có lúc nào tốt hơn lúc này do Việt Nam rất muốn làm sâu sắc hơn mối quan hệ đối tác với Mỹ,” ông nói.

Ted Osius là một nhà ngoại giao kỳ cựu từng làm việc ở Indonesia, Ấn Độ, Việt Nam, Thái Lan và Philippines.

Đề cử ông cho vị trí đại sứ Mỹ tại Hà Nội còn chờ được Ủy ban đối ngoại cũng như toàn thể Thượng viện Mỹ phê chuẩn.

 

Hậu quả của một nền giáo dục duy ý thức hệ

Hậu quả của một nền giáo dục duy ý thức hệ

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-17

06172014-sgk-kinhhoa.mp3

000_Hkg8782036-600.jpg

Các bản đồ cổ được trưng bày tại một cuộc triển lãm về Trường Sa và Hoàng Sa tại Bảo tàng Quân đội Hà Nội vào ngày 10 tháng 7 năm 2013.

AFP photo

Ngày 9/6/2014 Trung Quốc tung một đòn mới trên phương diện pháp lý và ngoại giao nhằm củng cố vị thế của họ trong các tranh chấp chủ quyền ở biển Đông. Đó là việc họ đề nghị lưu hành tại Liên hiệp Quốc các tài liệu bản đồ và sách giáo khoa được nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa phát hành, tức là miền Bắc Việt Nam lúc đất nước chưa thống nhất. Nội dung các tài liệu này được Trung Quốc diễn dịch rằng Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo Hoàng sa và Trường sa, mà tên theo Trung Quốc gọi là Tây sa và Nam sa.

Nguyên văn đoạn văn trong cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đưa ra như sau:

“Vòng cung đảo từ các đảo Nam Sa, Tây sa đến các đảo Đài Loan, Hải Nam, quần đảo Hoàng bồ Châu sơn,… làm thành một bức Trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc.”

Trong cuộc họp báo chiều ngày 16/6/2014, các viên chức ngoại giao Việt Nam tiếp tục đưa các tài liệu khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo tranh chấp, tuy nhiên vẫn chưa có lời giải thích chính thức nào được đưa ra để giải thích nội dung cuốn sách giáo khoa địa lý lớp chín mà TQ đang viện dẫn.

Một cựu quan chức bộ ngoại giao Việt Nam là Trần Công Trục trong một bài trả lời báo Giáo dục nói rằng đó chỉ là những tài liệu dùng để dạy học. Giáo sư Trần Hữu Dũng từ Hoa Kỳ có nhận định về lý lẽ của ông Trục rằng:

Trong một Quốc gia mà chính nhà nước sọan, in và phân phát những tài liệu này thì khó lòng mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước.
– Giáo sư Trần Hữu Dũng

“Trong một Quốc gia mà chính nhà nước sọan, in và phân phát những tài liệu này thì khó lòng mà nói rằng đó không phải là chủ trương của nhà nước.”

Trong phần cuối của bài đăng trên báo Giáo dục, Tiến sĩ Trần Công Trục còn nói:

“Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…”

Câu phát biểu này của ông Trục được minh họa bằng đoạn sau đây trong cuốn sách giáo khoa mà Trung Quốc dùng làm chứng cớ chuyện Việt Nam công nhận chủ quyền của họ:

“Hiện nay Đài Loan và các đảo xung quanh còn bị đế Quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung Quốc, của Viễn Đông và miền Tây Thái Bình Dương.”

image-250.jpg

Bản đồ hiển thị vị trí giàn khoan HD 981 của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông được trưng bày tại Bộ Ngoại Giao Việt Nam hôm 05/6/2014. AFP photo

Tuy nhiên khó có thể lấy lý do cho việc tranh chấp chủ quyền bằng …Ý thức hệ.

Ông Phùng Hoài Ngọc, một người học tập và lớn lên ở miền Bắc trước năm 1975, nguyên trưởng khoa ngữ văn đại học An giang nói với chúng tôi về việc chi phối của ý thức hệ trong nền giáo dục Việt Nam, nhất là ở miền Bắc trước kia:

Các môn khoa học xã hội nhân văn ở miền Bắc rõ ràng mang tính chính trị quá nặng, rõ ràng là nó bị chính trị áp đặt quá nặng rồi. Cái điều này là quá rõ.”

Và theo ông Ngọc thì môn Địa lý vẫn thường được xem là một môn nằm trong khối khoa học xã hội nhân văn.

Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFA, kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn, một người rất quan tâm đến ngành giáo dục Việt Nam cho rằng tính chính trị hóa là một trong nững điểm yếu kém của giáo dục Việt Nam hiện tại. Một nhà giáo khác là Tiến sĩ Hà Sĩ Phu nói về mục tiêu giáo dục của ngành giáo dục Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam như sau:

Đảng mở ra cái giáo dục chẳng qua là để đào tạo những công cụ, những người phục vụ cho cái công cuộc mà Đảng chủ trương.”

Các môn khoa học xã hội nhân văn ở miền Bắc rõ ràng mang tính chính trị quá nặng, rõ ràng là nó bị chính trị áp đặt quá nặng rồi. Cái điều này là quá rõ.
– Ông Phùng Hoài Ngọc

Dĩ nhiên sách giáo khoa làm ra là để phục vụ cho mục tiêu giáo dục. Trong trường hợp của nước Việt Nam cộng sản là phục vụ cho các chủ trương của đảng. Điều này đảng cộng sản Việt Nam cũng không hề giấu giếm trong các tuyên bố của các quan chức của họ. Một trong những mục tiêu của đảng trong những năm chiến tranh lạnh chính là quan hệ đồng minh ý thức hệ với Trung Quốc.

Trớ trêu thay người đồng minh ý thức hệ đó vào năm 1979 đã phát động một cuộc chiến tranh biên giới ngắn nhưng đẫm máu với người anh em cùng lý tưởng của mình. Năm 2014 về nguyên tắc cả hai Quốc gia vẫn là đồng minh ý thức hệ của nhau, và đối lập với họ, vẫn là đế Quốc Hoa kỳ và tay sai như trong sách giáo khoa địa lý của năm 1974. Nhưng cũng chính người đồng minh ý thức hệ từ Bắc Kinh nay lại giương cao trang sách địa lý thấm đẫm nghĩa tình ý thức hệ mà đòi biển đảo.

Thực tế đã diễn ra không như ý thức hệ, nước Việt Nam 40 năm sau ngày in cuốn sách giáo khoa ấy đã khác, sách giáo khoa địa lý lớp chín hiện nay cũng không còn những dòng chữ đó. Nhưng sự bao trùm của ý thức hệ trong giáo dục Việt Nam đã để lại hệ lụy khó lường cho Việt Nam hiện nay, vì theo như lời Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn từ Úc nói rằng cái cách biện giải giấy tờ, tài liệu có liên quan đến chủ quyền theo kiểu ý thức hệ là không thuyết phục.

 

TỬ BIỆT

TỬ BIỆT

Câu Chuyện Thầy Lang

Bác sĩ Nguyễn Ý-ÐỨC

Cổ nhân ta vẫn thường nói tới chu kỳ kín của đời người “Sinh, Lão, Bệnh, Tử”.

Vâng: có sinh thì có tử, nhưng “sinh thì hữu kỳ, tử thì vô hạn”. Nặng bụng cưu mang chín tháng mười ngày là biết rằng con sẽ “nhập thế cuộc”, chào đời. Còn mặc áo mới vĩnh viễn ra đi thì chẳng biết khi nào, ra sao.

Sinh ly, tử biệt. Vào đời là tạm thời chia ly với cơ thể người mẹ. Rời khỏi cuộc đời là tạm biệt với nhân gian. Hẹn lại cùng nhau gặp ở “cõi thật xa”: Niết Bàn, Thiên Ðàng, Aara, Elysium, Soma, Jahannan…Hoặc Ðịa Ngục để mặt đối mặt với Diêm Vương, luận tội kể công.

Với thân xác, bệnh tật thì học giả Ngô Tất Tố đã thoát dịch bốn câu thơ của vua Trần-Thái-Tôn như sau:

“Cũng bởi có thân mà có bệnh

Ví bằng không xác quyết không đau.

Phép tiên chớ vội khoe không chết,

Thuốc thánh còn chưa chắc sống lâu”.

Chưa chắc sống lâu thì có ngày phải biệt tử.

Mà Voltaire đã nói “Lúc ta chào đời là đã một bước đi về cõi chết”. Ðúng chăng là con người bắt đầu chết ngay từ lúc sinh ra và trong chu kỳ kín, cái kết cuộc nối liền với khởi điểm.

Guillaume Amerye (Abbé de Chaulieu) thì rõ ràng hơn “Cái chết chỉ là sự kết thúc cuộc đời; Nỗi thống khổ, niềm sung sướng không cùng mang theo”-.La mort est seulement le terme de la vie; De peine ni de biens elle n’est point suivie”.

Với Napoleon Ðại Ðế “Chết là giấc ngủ không mơ” và Shakespeare:“ Kẻ nào chết rồi là sạch nợ”.

Nói vậy thì chết cũng đơn giản như sanh, đôi khi ồn ào, lộn xộn hơn.

Có người đã ví sự chết của cơ thể như sự tắt của một nhà máy với những động cơ, giây điện. Nhà máy không im lặng ngưng hoạt động khi ta ngắt nút kiểm soát tắt mở mà mọi bộ phận còn cót két rên rỉ kêu trong khi chậm lại rồi ngưng.

Ngoại trừ bất thần chết vì tai nạn, thương tích hoặc cơn dột quỵ suy tim, cơ thể cũng cót két, rên xiết trước khi sự sống hoàn toàn ngưng.Vì thế Dylan Thomas có nhận xét rằng “Chúng ta không nhẹ nhàng đi vào tử biệt mà thịnh nộ, nổi khùng trước sự tắt lịm của ánh sáng”.

Nhưng có người tin rằng ở nội tâm thì lại bình an.Tuy ồn ào nhưng sự chết luôn luôn xác thực. Nhiều người đã tìm được bình an và chân giá trị trong sự xác thực này.

Tư Mã Thiên có ghi: “Nhân cố hữu nhất tử: Tử hoặc trọng ư Thái Sơn, hoặc khinh ư hồng mao”. Do đó mới có nguời khi đối diện với tử thần thì sợ hãi, phủ nhận, cô lập, giận dữ rồi năn nỷ điều đình để rồi cuối cùng cũng phải chấp nhận. Vì số trời đã định.

Y giới thường được huấn luyện để cứu chữa bệnh nhân và kéo dài sự sống trong đó họ đạt được phần thưởng về tinh thần cũng như tài chánh.Nhưng khi không ngăn chặn được sự chết thì họ hết hứng thú và thường chuyển sang đối tượng khác. Và nguời bệnh đôi khi bị quên lãng, đơn độc ra đi trong tình cảm gia đình, tôn giáo.

Mà ra đi thì xác còn đó, hồn đi đâu, chẳng ai hay. Cho nên Shakespeare đã ví “ Chết chỉ là một cuộc du lịch nhưng chẳng ai quay trở lại”. Ðể nói cho nhau biết chết ra sao, như thế nào, và bên kia vui hay buồn, thái bình hay binh đao, độc tài hoặc dân chủ…Chẳng ai “báo cáo” nên người tiễn đưa phải suy luận, tìm hiểu về người ra đi. Ði như thế nào, lúc nào, ra sao.

Từ nhiều thế kỷ, chết được hiểu như là khi con người mất hết các chức năng sống: tim ngừng đập vĩnh viễn, hơi thở không còn. Nhưng khi nào thì mạng sống đó được coi như là không còn sống. Ðó là điều mà giới y, luật gia, triết nhân, các vị học giả, thường dân, người làm chính trị đã và đang ồn ào, hăng say thảo luận, góp ý.

Vì tạm thời tim ngưng đập, hơi thở gián đoạn khoảng 6 phút mà các bộ phận sinh tử chưa bị tổn thương, con người tưởng như đã mãn phần thì y học hiện đại đã phục hồi được các chức năng và cứu sống nhiều người.

Vì vậy tiêu chuẩn não-tử brain death được thêm vào.

Não là trung tâm của hệ thần kinh.

Cuống não kiểm soát các chức năng duy trì sinh lực của các cơ quan, bộ phận.

Não trên điều hòa ý nghĩ, trí nhớ, tình cảm con người.

Năm 1968, Ðại Học Y Khoa Harvard đề nghị bốn tiêu chuẩn cho não tử:

a- Không đáp ứng với cảm giác sờ mó, âm thanh và các kích thích ngoại vi;

b- Không còn cử động và không còn hơi thở tự phát (spontaneous breathing);

c- Không cón tác động phản xạ.

Phản xạ (reflex) là một sinh hoạt tự động hay không chủ ý do một vòng thần kinh tương đối đơn giản gây ra mà không nhất thiết liên quan tới ý thức. Chẳng hạn khi dùng kim chích nhẹ vào tay một người, thì kim đau sẽ gây ra cử động phản xạ tự vệ tức thì để rút ngón tay lại trước khi não có thời gian gửi cảm giác đau tới các cơ quan liên hệ

d- Không còn ký hiệu não điện đồ hoặc bất cứ hoạt động điện năng nào từ tế bào não.

Từ năm 1929, bác sĩ thần kinh tâm trí người Ðức Hans Berger đã khám phá ra là não bộ có những luồng điện phát ra trong khi não hoạt động. Nhưng khi đó không ai tin. Phải đợi tới khi nhà bác học người Anh Edgar Adrian cụ thể chứng minh được sinh hoạt điện năng này của não thì mọi người mới chấp nhận và Edgar được Nobel Prize vào năm 1932 cùng với Sir Charles Sherrington nhờ kết quả việc nghiên cứu này.

Ngày nay nhiều máy móc tối tân đã ghi nhận được các sinh hoạt điện năng của não bộ với các sóng alpha, beta, delta, theta. Rồi lại còn MRI, PET scan ghi lại các tín hiệu cũng như thay đổi hóa chất của não khi nghỉ cũng như khi làm việc.

Trong tương lai gần đây, chắc là các ý nghĩ thầm kín của ta cũng sẽ được máy móc tìm ra, đọc được.

Tiêu chuẩn não-tử của đại Học Harvard cũng không được mọi giới công nhận là một thử nghiệm để kết luận sự chết. Mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn khác nhau.

Từ năm 1981, Hoa Kỳ định nghĩa chết như sự ngưng không đổi ngược của toàn bộ não kể cả phần cuống là nơi điều hòa hô hấp, tuần hoàn và các chức năng khác.Và về pháp lý, các điều kiện trên phải kéo dài sau 12 giờ.

Khi còn ở trong tình trạng thực vật (vegetative state) thì cuống não còn hoạt động và tiếp tục giúp hoàn thành sự hô hấp, tuần hoàn và vài nhiệm vụ khác; nhưng phần não trên điều hòa sự suy tư, thu nhận cảm xúc không còn nữa.

Khi rơi vào tình trạng Permanent vegetative state là tình trạng không có ý thức vĩnh viễn, không đổi ngược trong đó không có cử động tự ý hoặc bất cứ khả năng nhận biết nào; không còn khả năng chủ ý truyền đạt hoặc tương tác với ngoại cảnh. Người bệnh đôi khi rơi vào tình trạng nhìn theo mà không còn biết gì (coma vision.)

Cho nên rơi vào Não Tử thì ít khi thoát lưỡi hái Tử Thần dù có cấp cứu tiến bộ tinh vi; tình trạng thực vật vegetative lại vẫn còn nhờ sự toàn vẹn của cuống não để điều khiển một số chức năng của cơ thể cho nên có thể kéo dài sự sống vật vờ cả nhiều năm…

Tử biệt

Maria được Chúa và Đức Mẹ ban cho tuổi thọ 94, kéo dài sự sống được 10 năm sau khi người chồng thân yêu của bà bình an vĩnh viễn ra đi trong một cơn stroke vào ban đêm. Từ đó bà ở với con này con kia mỗi nơi một vài tháng, nửa năm để bớt đơn côi.

Bà tương đối vẫn mạnh khỏe ngoài vài bệnh thông thường của tuổi già, rất siêng năng lần hạt mân côi và luôn luôn liên lạc, khích lệ con cháu trong sự nghiệp, bổn phận đối với gia đình và xã hội.

Mấy tháng gần đây, bà cảm thấy trong người như không được khỏe cho lắm và bà được đưa vào điều trị tại bệnh viện hơn một tuần rồi xuất viện, về nghỉ ngơi theo dõi bệnh tình ở  Skill Nursing Facility do các nữ tu dòng Franciscan tổ chức có nhân viên tận tình chăm sóc. Bà enjoy nếp sống ở đây, tham gia tất cả các sinh hoạt, vui vẻ với mọi người. Bà luôn luôn điện thoại cho con cháu xa gần, khoe là bà cảm thấy hạnh phúc sung sướng lắm…

Rồi một đêm, người nhà được thông báo là bà cảm thấy trong người mệt mỏi, ngực hơi đau, khó thở, đầu hơi choáng váng và được đưa vào phòng cấp cứu. Bà yếu dần, nằm mấy ngày, rồi nhẹ nhàng ra đi trước sự chứng kiến của các con. Bà đã được gọi về nước Chúa, sau khi đã được chịu các phép bí tích của giáo hội…

Trong khi đó, sự ra đi của Lão Tam, một người thân quen trong gia đình, lại có tính cách kinh điển hơn.

Lão được Trời ban cho tuổi thọ gần bát tuần. Ông tương đối vẫn mạnh khỏe, không bệnh kinh niên, không phải dùng thuốc gì, ngay cả Tam Tinh Hải Cẩu hoặc nhân sâm, cao hổ cốt..

Nhưng từ nửa năm nay, Lão thấy sức khỏe mỗi ngày mỗi giảm.Lão không còn sinh lực như mấy năm trước, ít quan tâm tới mọi sự chung quanh, đôi khi muốn xa lánh mọi người. Khẩu vị giảm, nhai nuốt khó khăn và ông thấy thực phẩm là không cần thiết. Ông rất sợ khi người thân ép uống súp, ăn thịt, chỉ sợ bị nghẹn, ói. Có những ngày ông ngủ li bì, như để tiết kiệm sinh lực cho những chức năng quan trọng.

Ông bồn chồn trong lòng, nằm ngồi không yên như nhớ như quên điều gì muốn làm muốn thôi, muốn nhắc nhở vợ con. Rồi thở dài, ngán ngẫm. Vào đêm khuya vắng, ông dường như thấy cha mẹ ông xuất hiện đâu đây, ân cần nói chuyện với ông.

Có lúc ông lên kinh, chân tay co giựt, hàm cứng lại. Giá có ai bóp tay bóp chân cho mình lúc này nhỉ!.

Ông thấy nhịp tim chậm dần, nhẹ hơn. Hơi thở đôi khi như hụt và nông. Tuần hoàn kém, thân ông giá lạnh vì thiếu máu. Da ông xanh nhợt. Não thiếu oxy nên ông hay choáng váng mày mặt, kèm theo những cơn nhức đầu kéo dài khó chịu. Ngượng ngùng hơn là nhiều lần ông không kềm hãm được đại tiểu tiện, bài tiết trên giường. Người toát ra mùi hôi; nước miếng hoen khóe mép, đóng cặn.

Xương thịt, nội tạng ông đôi khi đau nhức, nhưng không kéo dài lâu. Ông nhớ có người nói, cận tử thì cơ thể tiết ra vài hóa chất giúp giảm sự đau, sự quằn quại khi mô bào, bộ phận bước vào giai đoạn đau đớn của sự chết (agony phase of death). Các bộ phận trong hình hài ông ngưng dần, bộ phận nọ tiếp nối bộ phận kia như những quân bài domino đè lên nhau mà ngả xuống.

Ông mỉm cười chờ đợi. Một ngày đẹp trời nào đó, mắt ông sẽ mờ dần, đồng tử mở rộng nhưng bất động, để đón nhận thêm nhiều ánh sáng. Không gian tối dần, như Victor Hugo than phiền “ Tôi chỉ thấy bóng tối” hoặc Emily Dickinson “…sương mù đang bao phủ quanh tôi”. Bắt chước Goeth, ông kêu lên “ Light! more light”, cho tôi thêm ánh sáng !. Ðể lần cuối nhìn thấy cuộc đời. Rồi ông lịm dần, lịm dần.

Chỉ trong vài giờ, cơ thịt ông co cứng, giá lạnh, xanh lợt. Rồi vài chục giờ sau, cơ thể ông mềm, mô bào tự hủy hoại vì hóa chất tiết ra, rồi thoái rữa vì đám vi khuẩn trong ruột già ruột non đua nhau lan tràn phá phách đó đây.

Rồi thân xác này sẽ được chôn cất dưới lòng đất xâu. Cát bụi lại về cát bụi…

Ông nhớ là cách đây vài tháng, khi linh cảm rằng sẽ đi xa, ông đã làm di chúc. Xin đừng móc dây móc máy vào người tôi khi tôi hấp hối. Cho phép tôi ra đi lành lặn như khi tôi tới. Trên giấy tờ hộ tịch sẽ được ghi tôi chết vì natural cause, rất tự nhiên, điều mà nhiều người mong ước. Và xin cảm ơn mọi người đã chăm sóc tôi, đã lưu tâm tới “những nhu cầu cận tử” nhu cầu của người trên ngưỡng cửa tử vong”.

Lão Tam sẵn sàng ra đi.

Như Thomas Edison reo lên Bên kia thế giới sao mà đẹp “It is beautifull over there”!

Và bình thản đợi chờ như nhà văn lão thành MặcThu viết nhân chuyến “tiễn đưa” nhà văn Mai Thảo.

“Sân ga một đám đứng chờ tàu,

Toàn bạn già xưa biết mặt nhau.

Tàu chật, có người lên được trước;

Chậm chân, kẻ đợi chuyến tàu sau.

Một đi là chẳng quay đầu lại,

Áo trắng trên người đủ kín thân.

Ra đi giống thuở ai vừa đến,

Tàu suốt trăm năm chỉ một lần.

Sân ga thấp thoáng bóng người già,

Họ sẵn sàng về cõi thật xa.

Hình như trong đám trông chờ ấy,

Có bạn thân tình, có cả ta”.

Vâng. Có cả ta.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

 

Yêu kẻ thù (Mt 5, 43-48)

Yêu kẻ thù (Mt 5, 43-48)

Chuacuuthe.com


Y

VRNs (17.06.2014) – Sài Gòn- Điều gì làm nên sự khác nhau giữa người Kitô hữu và những người khác? Điều gì làm nên sự khác nhau giữa Kitô giáo và những tôn giáo khác. Đó chính là ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ đó chúng ta có thể cư xử với người khác không phải là họ xứng đáng nhưng đó là điều mà Thiên Chúa mong muốn họ được đối xử với hết lòng nhân  ái và thương xót.

Thiên Chúa cho mưa rơi xuống trên người tốt cũng như kẻ xấu, người công chính cũng như kẻ bất lương. Tình yêu của Ngài dành cho người thánh thiện và người tội lỗi như nhau. Thiên Chúa tìm kiếm điều tốt nhất nơi chúng ta và dạy chúng ta cũng phải tìm kiếm điều tốt lành nơi người khác, ngay cả những người giận ghét và lạm dụng chúng ta. Tình yêu của chúng ta dành cho người khác ngay cả những người vô ơn bội nghĩa và ích kỷ với chúng ta, phải được đối xử bằng sự tử tế và lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa phú ban cho chúng ta. Thật là dễ để thể hiện lòng tốt và thương xót khi chúng ta có thể mong đợi để hưởng ích lợi khi sống được điều này. Thật khó biết bao khi chúng ta không mong đợi được đáp trả. Lời cầu nguyện của chúng ta dành cho những người làm chúng ta đau khổ,  lời cầu nguyện này phá tan sức mạnh của sự trả thù và chiếu tỏa sức mạnh của tình yêu hướng đến thiện hảo khi đối mặt với sự ác.

Làm thế nào chúng ta có thể yêu thương những người gây thiệt hại hoặc ác ý với chúng ta? với Thiên Chúa mọi sự đều có thể. Ngài ban sức mạnh và ân sủng cho những người tin tưởng và đón nhận những ân huệ của Thánh thần. Tình yêu của Ngài khuất phục tất cả thậm chí khi ta đau, khi ta sợ hãi, định kiến và ưu phiền. Chỉ có thập giá của CGS giải phóng chúng ta khỏi sự chuyên chế của hiểm độc, thù hận, trả thù, oán giận và cho chúng ta can đảm để trở về với điều tốt từ bỏ sự ác. Tình yêu và ân sủng này có sức mạnh để chữa lành và cứu khỏi sự hư mất. Chúng ta có biết sức mạnh của tình yêu cứu chuộc và lòng thương xót của CKT không?

CGS có phóng đại khi nói rằng “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là đấng hoàn thiện không? Ý nghĩa ban đầu của hạn từ “hoàn thiện” trong tiếng Aram là “đầy đủ” hay “trọn vẹn”, “không thiếu những gì là cần thiết”. Thiên Chúa ban cho chúng ta mọi ân huệ trong CKT để chúng ta có thể không thiếu bất cứ điều gì giúp chúng ta sống và sống đạo đức, nhờ được biết Đấng đã dùng vinh quang và sức mạnh của Người mà kêu gọi chúng ta ( x.2 Pr 1, 3). Ngài biết sự yếu đuối và tội lỗi chúng ta hơn chúng ta ý thức về chính mình. Ngài đảm bảo với chúng ta về tình yêu của Ngài, lòng thương xót của Ngài, ân sủng của Ngài để chúng ta hành động theo giáo huấn của Ngài. Chúng ta có muốn triển nở trong tình yêu đối với Ngài và với tha nhân hay không? xin Chúa Thánh Thần đến thay đổi và hòa tan chúng ta trong hình ảnh của Chúa Cha để chúng ta có thể bước đi trong niềm vui và tự do của Tin mừng.

Lạy CGS tình yêu của Ngài mang lại sự tự do và ơn tha thứ. Xin đổ đầy trên chúng con Thánh Thần và đốt nóng tâm hồn chúng con bằng tình yêu của Ngài để không gì có thể làm cho chúng con mất bất an, không gì lấy đi niềm vui của chúng con, cũng không gì làm cho chúng con hằn hộc cay đắng với bất kỳ ai.

Pv. VRNs