XIN LỖI, TÔI CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI CHUYỂN QUÀ!

XIN LỖI, TÔI CHỈ LÀ MỘT NGƯỜI CHUYỂN QUÀ!

Tác giả: Lm. Jos.Tuấn Việt,O.Carm

Vào một buổi sáng Chúa Nhật, với ly cà phê nóng bên khung cửa sổ của căn nhà cuối phố, Viễn chợt nhận ra một sự thật. Mới đầu nó nhẹ nhàng, rồi bỗng phũ phàng, rồi chợt bẽ bàng, nhưng cuối cùng thì giải thoát rộn ràng.

Quán cà phê nhỏ cuối phố có cái tên ngắn ngủn mà hay hay: Quà. Viễn thắc mắc tại sao tên quán lại như vậy vì chưa thấy chủ quán tặng quà cho khách hàng hay khách hàng tặng quà cho chủ quán bao giờ. Chắc phải có một ý gì đó.

Thong thả nhấp miếng cà phê nóng đang tỏa ra thơm phức, Viễn nhìn qua khung cửa sổ. Bóng dáng của người ăn xin mà anh mới “tặng một chút quà” đang khuất xa dần. Hồi trước khi cho ai chút tiền thì Viễn gọi đó là bố thí như nhiều người vẫn còn làm hôm nay. Nhưng sau lần chính bản thân Viễn, một thằng đàn ông đầy tự hào, ngay tại cái quán nước này, phải ngửa tay xin giúp đỡ thì anh đã thay đổi hẳn. Cũng may anh đã trải qua kinh nghiệm đó nên mới thấu hiểu được nhiều việc để rồi bây giờ mỗi khi giúp đỡ ai thì anh tìm cách giúp thế nào để người được giúp không cảm thấy mặc cảm. Nghĩ lại, cái khó cái nhục hóa ra là cái cần cái phúc mà trời cao gửi cho anh để giúp anh lớn lên về mặt nhân cách. Một món quà cuộc sống vậy.

Thả hồn theo làn hơi nóng thơm của ly cà phê đang nghi ngút tỏa, Viễn tận hưởng những dòng ký ức tươi sáng của những năm tháng gần đây. Có lần Viễn mua giúp một bà cụ bán vé số trong chợ năm tấm vé liền rồi tặng lại cho bà, cầu chúc bà may mắn. Bà cụ ngạc nhiên. Nụ cười của bà cụ gầy guộc làm vui tâm hồn Viễn. Có lần anh đứng ra hòa giải cho một gia đình hàng xóm. Sau này họ cho biết nhờ lời khuyên sáng suốt của anh mà họ đã khắc phục được bất hòa trong nhà. Rồi có lần cha xứ gọi điện cảm ơn Viễn đã quảng đại hiến tặng cho nhà thờ một bức tượng thánh Giuse bằng đá cẩm thạch thật đẹp giúp bà con cầu nguyện sốt sắng hơn…. Những điều thiện ích khác thi nhau chảy về trong lý ức khiến anh cảm thấy vừa tự hào vừa vui mừng. Mình cũng khá lắm đấy chứ, anh tự nhủ. Làm ơn cho người này người kia. Người này người khác biết ơn mình. Có ý nghĩa! Hay! Viễn mỉm cười, gật gù, toại nguyện với cuộc sống. Nhấp thêm miếng cà phê thơm phức nữa cái coi. Ái chà, ngon! Không, theo ngôn ngữ trẻ thời nay thì chính xác phải nói: Đó là một cái ĐÃ không hề nhẹ!!!

Bỗng nhiên Viễn nheo mày, nhăn mặt. Một sự việc cách đây bảy tháng chen ngang vào dòng xúc cảm đang lâng lâng. Nhớ lại mà tức sôi cả máu. Viễn dành dụm bao nhiêu ngày tháng mới để được một số tiền tính cuối năm cưới vợ và xây dựng sự nghiệp. Hôm đó thằng Nhân bạn học nói có việc gấp cần mượn tiền. Nó hứa sẽ trả lại trong vòng một tháng. Chỗ quen biết, lúc bạn có nạn thì ra tay tương trợ. Nó mượn ba ngàn đô la, tức là hơn một nửa số tiền Viễn đã dành dụm suốt bốn năm trời. Một tháng không thấy nó trả. Đòi thì nó khất. Muốn gặp mặt thì nó tránh. Dọa nạt thì nó trốn biệt tăm luôn. Mất. Tiền bạc mất. Tình nghĩa mất. Mồ hôi nước mắt và tín nhiệm. Mất hết.

Trong tích tắc, ly cà phê bỗng trở nên đắng ngắt. Người hành khất ban nãy cũng không còn thấy bóng dáng nữa. Tiếng nhạc du dương chỉ còn là những âm thanh rời rạc vô nghĩa vô tâm. Bàn tay Viễn nắm chặt lại vì tức giận. “Đúng là cái thứ vong ơn bội nghĩa, ăn cháo đá bát”, anh lẩm bẩm.

Xét cho cùng, Viễn đâu phải người nhẫn tâm đến nỗi phải lấy lại bằng được số tiền đó khi bạn bè còn túng quẫn. Thậm chí Viễn có thể cho nó luôn nếu thật sự nó rơi vào hiểm nghèo bế tắc. Nhưng tức lắm, tức ở chỗ nó vô ơn. Viễn là bạn mà nó đối xử như một kẻ chỉ có giá trị lợi dụng. Viễn càng tức thêm vì thấy mình đặt lòng tốt sai chỗ để bây giờ bị rơi vào tình thế khó khăn. Tiền mất tật mang. Nếu biết trước thì Viễn đâu có ngu gì giúp đỡ nó. Nhưng đâu có ai biết trước được mọi chuyện. Ai mà biết trước mọi việc chứ! Viễn tự nhủ như thế để bớt trách mình. Ý nghĩ này bỗng làm dịu sự tức giận của Viễn. Ừ nhỉ, có ai biết trước được mọi chuyện bao giờ. Biết đâu thằng bạn đáng trách này cũng bị rơi vào tình thế không thể ngờ trong hoàn cảnh của nó.

Cơn giận từ từ hạ xuống. Hương cà phê thơm phức cũng dần trở về lại trong ly. Tuy vậy, Viễn vẫn làu bàu: “Chúa, tại sao nó phụ ơn của con?”

“Ơn của con?” một hồi âm vọng lại trong tâm trí Viễn. Có một điều gì đó tự nhiên làm Viễn bối rối, khó chịu, suy nghĩ.

Chính đây là khoảnh khắc vừa bẽ bàng vừa giải thoát. Anh bắt đầu nhận ra điều không ổn trong tâm thức của mình xưa nay. Nói rõ hơn, anh bắt đầu nhận ra một sự thật, một sự thật về bản thân con người anh và về Chúa. Kể cũng lạ, mỗi một giải thoát của con người đều xuất phát từ việc nhận ra mình và nhận ra Chúa.

“Ơn của con?” Câu hỏi ấy lại dội về trong tâm trí Viễn.

Đúng là anh đã đổ mồ hôi sôi nước mắt để có một số tiền quý giá. Đúng là anh đã đưa số tiền ấy cho thằng Nhân. Đúng là anh đã thực hiện những hành động ý nghĩa để giúp đỡ những người cơ nhỡ trong cuộc đời này. Nhưng, “ơn của anh”, đúng không nhỉ? Nếu anh gọi những việc mình làm cho người khác là “ơn” thì cũng được thôi vì người ta ở đời vẫn nói đến “làm ơn”, “mang ơn”, “biết ơn”, “trả ơn”… Nhưng, nguồn gốc của cái gọi là “ơn” nằm ở đâu? Ở con người? Không. Lý luận ấy không ổn tí nào. Nhưng tại sao lại không ổn?

Trong lúc loay hoay với chính suy nghĩ đang bối rối của mình, Viễn nhận ra câu trả lời trong những câu hỏi gợi lên trong đầu: Nếu Chúa không ban cho sức khỏe, làm sao tôi có thể làm việc kiếm tiền sinh sống, nói chi đến việc có cơ hội giúp đỡ người khác? Nếu không có Thần Khí của Ngài hoạt động trong tâm hồn, làm sao tôi có thể tự mình trở nên tốt bụng mà sẻ chia? Nếu Chúa không gửi người túng thiếu đến thì làm sao tôi có được cơ hội rộng mở lòng mình và cảm nghiệm được niềm vui sâu xa của chia sẻ? Nếu Ngài không ban trí thông minh, làm sao tôi có sự  sáng suốt mà khuyên giảng cho người khác? Nếu Ngài không tha thứ trước cho tôi cả trăm vạn lần, làm sao tôi có khả năng thứ tha cho người khác vài ba lần? Nếu Ngài đã không làm tất cả cho tôi trước thì tôi sẽ chẳng thể làm được bất cứ điều gì cho chính mình hay tha nhân.

Người ta vẫn quen dùng từ “làm ơn” cho nhau nhưng sự thật thì chẳng có ai làm ơn cho người khác cả. Con người là thân phận thụ tạo không có khả năng tự tạo ra bất cứ một ơn gì. Sự thật không thể phủ nhận được là: tất cả mọi người từ cổ chí kim, từ lớn đến nhỏ, đều là những kẻ đã nhận ơn trước từ một Đấng Ban Ơn. Không có ai ngoại lệ đối với điều này. Trước khi tôi có thể làm được một việc gì đó cho người khác, tôi đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành từ Đấng Yêu Thương rồi. Ơn là từ Chúa chứ không phải từ tôi. Tôi có điều kiện và cơ hội để làm được điều gì cho người khác thì trước hết đó cũng là một ơn huệ Chúa ban cho tôi. Nghĩ đến đây, bên ly café nóng, Viễn chợt giật mình tự nhủ: “Úi, mình phải cẩn thận để không giành công của Chúa!”

Việc nhận ra rằng ơn không phải là từ thân phận con người của mình khiến Viễn bẽ bàng vì đó cũng là lúc anh thấy ‘quyền’ mong đợi người khác biết ơn mình bị vuột mất khỏi tầm tay. Ai giúp người mà chẳng mong nhận lại ít là một thái độ biết ơn nào đó chứ. Nhưng, dù thế nào đi nữa thì chân lý vẫn không hề thay đổi: Chỉ có một Đấng Ban Ơn và xứng đáng nhận sự biết ơn mà thôi. Viễn nhớ lại lời Thầy đã dạy: “Anh em đã lãnh nhận một cách nhưng không thì cũng phải cho đi một cách nhưng không.” (Mt 10:8) Chân lý này giải thoát Viễn khỏi sự hụt hẫng vừa luẩn quẩn vừa vô lý khi gặp phải thái độ vô ơn. Nó đem lại tự do cho tâm hồn Viễn.

Anh tự rút ra một hướng sống cho mình: Cứ cố gắng làm cho người khác điều tốt đẹp theo tinh thần của Chúa nhưng sẽ không còn chờ mong bất cứ một sự biết ơn nào. Nếu họ thể hiện một thái độ biết ơn nào đó thì mừng cho họ vì họ đang sống điều cần thiết cho tâm hồn. Còn nếu họ vô ơn thì mong lời ông bà đã dạy sẽ cảnh tỉnh nhân cách họ:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mình trồng

Những người phụ nghĩa quên công

Dẫu đeo trăm đóa hoa hồng cũng vẫn chẳng thơm.

Về khía cạnh công bằng xã hội, khi mượn thì cần phải trả, khi nhận thì cần phải thể hiện sự trân trọng biết ơn, biết ơn Đấng Ban Ơn và người làm ơn. Đó là một điều đúng và tốt. Bản thân Viễn còn muốn đi xa hơn vì anh là một Kitô hữu: Ai đã giúp cho anh bất cứ điều gì thì anh sẽ luôn ghi lòng tạc dạ và cầu nguyện cho họ, ngay cả trong trường hợp bây giờ họ không còn tốt với anh nữa hoặc đang gây khó gây khổ cho anh. Kitô hữu là thế! Một khi đã biết Thầy thì con đường cần đi là con đường hướng lên những tầm vóc mới của tình yêu thương quảng đại, cho dù trước mặt là đồi cao của lòng người hiểm trở.

+++++

Reng reng reng…

Điện thoại di động của Viễn trên bàn cà phê rung rung. Số này lạ nên Viễn không trả lời. Đến lần thứ ba thì Viễn bắt máy. Hơi bực mình.

“Alô. Ai vậy?”

“Alô.  Anh Viễn phải không ạ?”

“Vâng, tôi đây.”

“Tôi tên là Tâm, mẹ của cháu Phúc. Cách đây mấy tháng, con tôi gặp nạn trên đường bị gãy chân. Anh nhớ không?”

Viễn nghe mơ hồ, chẳng nhớ ra chuyện như thế. Chị Tâm tiếp tục:

“Lúc ấy anh đã tốt bụng xuống xe, gọi taxi và yêu cầu chở con tôi vào bệnh viện để chữa trị. Anh còn đưa cho cháu Phúc một trăm đô-la để chữa trị. Thật không thể ngờ thời buổi này mà có người tốt như anh! Hôm nay thì cháu Phúc đã đi lại được. Tôi xin lỗi đã không thể gọi điện cám ơn anh sớm hơn. Vô cùng cảm ơn anh!”

Viễn không nhớ đã giúp ai bị tai nạn. Chắc là có sự nhầm lẫn nào đó.

“Dạ, xin cho hỏi làm sao chị biết số điện thoại và tên tôi?”

“Dạ, cháu Phúc nói hôm ấy lúc anh lấy tiền trong túi ra để giúp cháu thì anh đã làm rơi một tấm giấy có tên và số điện thoại này của anh. Cháu nói là chú Viễn tuy đi chiếc xe cũ nhưng đeo kính cận nhìn hiền lành lắm.”

“Ồ! Kính cận! Chẳng lẽ là thằng Nhân?” Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu Viễn. Chị Tâm nói tiếp:

“Một lần nữa, vô cùng biết ơn anh đã ra tay cứu giúp con tôi! Nhà chúng tôi ở gần quán Quà cuối phố. Tôi xin chân thành mời anh ghé ăn bữa cơm đạm bạc và xin được gửi lại món quà anh đã rộng lượng giúp cháu lúc hoạn nạn.”

“Dạ, chị đừng lo nghĩ gì nhé. Cháu bình phục thì mừng rồi.”

“Dạ, tôi hiểu khi anh đã quyết định giúp đỡ thì không có nghĩ đến chuyện lấy lại hoặc được báo đáp nhưng món quà đó là một món tiền lớn mà anh cũng có nhiều thứ để trang trải trong thời buổi khó khăn này.”

“Ồ, không cần đâu chị.” Viễn cảm thấy một ánh sáng trong lòng soi chiếu.

Người phụ nữ đầu dây bên kia có vẻ hơi ngạc nhiên, chưa biết nên ứng xử thế nào gì thì Viễn nói tiếp:

“Xin lỗi chị, tôi không thể nhận lại vì tôi cũng chỉ là một người chuyển quà mà thôi. Chúc chị và gia đình luôn hạnh phúc. Xin chào chị nhé!”

Viễn cúp điện thoại.

Chị Tâm: …

+++++

Dòng đời tiếp tục trôi như mọi ngày nhưng có người đã được biến đổi.

Quán nước Quà vẫn ở gần nhà chị Tâm. Viễn thỉnh thoảng vẫn đến đó để uống một ly cà phê ấm. Chẳng ai biết ai nhưng có ai biết một lúc nào đó họ cùng có mặt trong quán và cùng chiêm ngẫm về những điều kỳ diệu vẫn diễn ra trong cuộc sống. Biết đâu lúc Viễn đang ngồi nhìn ra khung cửa sổ cuối phố nghĩ về những món quà do Đấng Yêu Thương nhờ anh chuyển giúp thì đâu đó trong quán nước này có một người khác đang thầm nghĩ: Người chuyển quà đúng là một lời tỏ tình đặc biệt của Người Tặng Quà gửi đến trong dòng đời. Và một nụ cười nhẹ nở trên môi.

Giuse Việt

[200A+V614]

Blog: http://only3minutes.wordpress.com/

BTT CGVN xin hân hạnh giới thiệu tác phẩm “Ngủ Trên Sóng” của tác giả Cát Thường.

Tác giả Cát Thường chính là bút hiệu của Lm. Giuse Tuấn Việt, O.Carm, một linh mục rất gần gũi với các ban trẻ, và luôn hướng lòng về với các bạn trẻ. Ngủ trên Sóng không phải chỉ là một kinh nghiệm sống của một đời thường, nhưng là của một tâm hồn có niềm tin mãnh liệt vào Đức Kito, Đấng đã làm nên mọi sự và vẫn còn đang tiếp tục đồng hành với bất cứ ai tin theo Ngài.

Các bạn có thể tìm gặp tập sách nhỏ rất dễ thương này tại các nhà sách công giáo. Nếu bạn thực tâm muốn đi tìm bình an hạnh phúc trong cuộc đời luôn đầy biến động này, hãy cùng với Cất Thương  chia sẽ “Ngủ Trên Sóng”

Chúc nhau bình an và thật nhiều may mắn.

BBT CGVN

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BIẾT SỢ

NHỮNG NGƯỜI KHÔNG BIẾT SỢ

Nói đến hai thánh Tông Đồ cả Phêrô và Phaolô, người ta thường chăm chú đến những khác biệt nơi hai Ngài để rồi hướng đến quyền năng của Thiên Chúa.  Đây là một cái nhìn truyền thống có căn bản thần học đã góp phần cho đoàn tín hữu xác tín vào quyền năng của Thiên Chúa.  Mạo muội có một cái nhìn về những điểm chung của hai Ngài xem ra khá táo bạo, thế nhưng nếu có cơ sở thì cũng đáng cho ta ghi nhận điều gì đó.  Xin được chia sẻ một nét chung nơi tính cách của hai “cột trụ” của Hội Thánh đó là “không biết sợ”.

1. Không sợ sai để dám nói: Những người quá cẩn trọng thì thường tự biện minh là “nói nhiều sai nhiều, nói ít sai ít.”  Tuy nhiên cũng có thể nếu cẩn trọng cách quá đáng như kiểu luôn thủ thân thì rất dễ đi đến chỗ “không nói gì” để khỏi phải sai lầm.  Có ngờ đâu, không nói gì cả khi cần phải nói thì lại là một sự sai lầm rất tai hại.
Đọc Tin Mừng thì không ai lại không chân nhận tính “mau miệng” của tông đồ Phêrô.  Không thể nói là Chúa Kitô đã minh nhiên đặt Ngài làm đầu nhóm 12 trong thời gian rao giảng, vì cũng trong thời gian này nhóm 12 luôn tranh giành nhau về vị thế làm đầu.  Chưa chính thức làm đầu, thế mà Phêrô thường là người thay mặt anh em để lên tiếng.  Có khi nói đúng thì được Thầy khen, nhưng cũng có khi chệch choạc thì bị Thầy lên tiếng quở trách nặng nề (x. Mt 16, 13-23).  Thế nhưng Phêrô vẫn cứ lên tiếng.  Đúng là không biết sợ.

Thánh Phaolô thì sao đây?  Có thể nói Ngài là vị “nhỏ người mà lớn miệng.”  Ngài đã nhiều lần tự biện hộ cho mình về việc lên tiếng quá nhiều và hình như không biết “kiêng dè.”  Ngay cả với Phêrô mà Ngài cũng chẳng tha (x. Gal 2, 11-14).  Có khi hăng say rao giảng đạt kết quả và cũng có khi nhiệt tình lý luận thì bị mời đi chỗ khác chơi ( x.Cvtđ 17, 22-34).  Thánh nhân vẫn không ngừng lên tiếng, khi thuận lợi cũng như lúc không thuận lợi.  Thật chẳng biết sợ là gì.

2. Không sợ thất bại để dám làm: Dù biết rằng thất bại là mẹ thành công nhưng sự thường không ai là không ngại thất bại.  Không chỉ ngại thất bại mà người cơ hội thường thích ẩn mình để chờ thời cơ. Không làm gì cả thì chẳng mất lòng ai và nếu có bầu bán vị trí vai trò quan trọng nào trong các tổ chức xã hội hay tôn giáo cũng dễ kiếm nhiều phiếu hơn.  Một sự thật không thể nói là cá biệt hay đặc thù chút nào nếu không muốn nói ngược lại.

Nếu là Thầy, xin truyền cho con đi được trên nước… và Phêrô mạnh dạn bước đi trên sóng biển (x. Mt 15, 22-33).  Trước đám đông quân lính hùng hổ, Phêrô dứt khoát rút gươm bảo vệ Thầy.  Dù cho bạn đồng môn tìm cách trốn lánh thì Phêrô vẫn quyết định dõi theo chân Thầy vào sân vị Thượng tế.  Làm nhiều ắt gặp thất bại không ít, nhưng Phêrô vẫn quyết tâm đi tới.

Việc làm của Phaolô thật khó có ai bì.  Ba chuyến hành trình truyền giáo cùng với bao gian khó vất vả là một minh chứng rõ ràng.  Bị đòn roi, bị ném đá, bị ngồi tù hay lênh đênh trên biển cả… tất cả không ngăn được bước chân của vị Tông đồ nhiệt thành.  Thành công rất nhiều và thất bại cũng chẳng thiếu, nhưng Phaolô bỏ tất cả đằng sau để một mực lao về phía trước.  Ngài đã từng khẳng định “bất cứ những gì người ta dám làm thì Ngài cũng dám làm” (2 Cor 11, 21).

3. Không sợ thua thiệt để dám yêu:  Đây chính là nền tảng căn bản để hai thánh Tông đồ dám nói, dám làm không sợ hãi.  Yêu là chết trong lòng một ít.  Câu ngạn ngữ trên một cách nào đó nói về sự hy sinh trong tình yêu.  Đã yêu là không thể thiếu sự quảng đại hy sinh và quên mình vì người mình yêu.

Vì yêu mến Thầy hơn các môn đệ khác Phêrô chấp nhận cảnh phận “phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn Ngài đến nơi Ngài chẳng muốn” (Ga 21, 18).  Cho dù bị thua thiệt nhưng tình yêu sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi (x. 1 P 4, 8)

Vì yêu mến Đức Kitô, Phaolô chấp nhận mọi thua thiệt.  Phaolô sẵn sàng chịu mọi gian truân khốn khó vì yêu mến đồng loại và mong cứu thoát được một số người.  Thánh nhân cảm nghiệm tình yêu là cao trọng hơn cả vì yêu thương là chu toàn mọi lề luật (x.Rm 14, 8).

Hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô được Hội Thánh nhìn nhận là hai trụ cột chính của Tòa Nhà Hội Thánh.  Hội Thánh là đoàn dân của Thiên Chúa.  Có thể nói đó là tập thể những con người sống đạo yêu thương.  Tình yêu thì loại trừ mọi nỗi sợ hãi.  Đã yêu thì không còn e ngại sự gì.  Đã yêu thì không ngại các thiệt thua.  Vì yêu thương nên không sợ sai khi phải nói điều phải nói.  Vì yêu thương nên không sợ thất bại khi quyết làm điều chính đáng và phải đạo.

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

VietCatholic.net

From: KittyThiênKim & Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

PHÊRÔ, PHAOLÔ, BẠN VÀ TÔI

PHÊRÔ, PHAOLÔ, BẠN VÀ TÔI

Tại sao hai thánh tông đồ cả lại mừng lễ chung với nhau?

Một số thánh nhân, vì là anh em với nhau, vì cùng tử đạo, vì là mẹ con, vì có những điểm chung nhất, nên được mừng lễ trùng ngày với nhau hoặc sát gần nhau. Vậy thánh Phêrô và thánh Phaolô tương quan với nhau thế nào mà lại có ngày lễ kính cùng với nhau?

Đức Tổng Giám Mục Patrick Flores đã từng đặt câu hỏi này với giáo dân trong bài giảng của mình.  Và rồi ngài tự trả lời cách hóm hỉnh: “bởi vì hai thánh nhân không thể sống chung với nhau được trên thế gian, nên Chúa bắt các ngài phải chung với nhau trên thiên đàng.”(!)

Câu chuyện hài hước này rất có cơ sở. Thánh kinh cho thấy hai ông thật sự khác biệt nhau về tính cách, chênh lệch nhau về đẳng cấp:

·     Người kém văn hóa, kẻ trí thức cao

·     Người đã có vợ, kẻ vẫn độc thân

·     Người rút gươm bảo vệ Chúa, kẻ phóng ngựa truy giết những ai theo Chúa

·     Người giảng dạy cho giới đã cắt bì, kẻ loan Tin Mừng cho dân ngoại.

Chính thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Galata đã thừa nhận sự đụng độ với thánh Phêrô ở Antiokia.  Ông đã cự lại thánh Phêrô vì đã không dám công khai dùng bữa với lương dân như trước khi nhóm cắt bì đến (từ cự lại là nguyên văn của Phaolô trong Gl 2, 11).

Điều rất dễ thương là, trong tất cả sự khác biệt cũng như cãi vã đó, thánh Phaolô luôn nhìn nhận vị trí quan trọng của thánh Phêrô với tư cách là người đầu tiên được Chúa Giêsu cho thấy Người đã phục sinh (1Cr 15, 5), một tư cách xứng đáng với cương vị thủ lĩnh.  Một sự trân trọng rất tuyệt đến nỗi tính cách khác biệt không hề làm cản trở sứ mạng và lý tưởng của hai thánh nhân.  Phần mình, thánh Phêrô cũng không kém cao thượng khi bắt tay Phaolô để tỏ dấu hiệp thông (Gl 2,10).  Điểm độc đáo này được Giáo Hội đưa vào kinh tiền tụng trong ngày lễ 29/06: “các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Ðức Kitô.”  Để rồi từ những khác biệt tính cách và mâu thuẫn đường lối đó, các ngài đã trở thành:

Hai người tiên phong, hai sao sáng đi đôi và hai tướng anh hùng.

Thế còn anh và em?  Còn bạn và tôi thì sao?

Dĩ nhiên chúng ta thế nào cũng có các điểm khác biệt, và dĩ nhiên chúng ta đã từng cãi vã, giận hờn.  Không ít lần chúng ta đặt câu hỏi tại sao và tại sao người mà mình trọn niềm tin tưởng lại cư xử như thế.  Đã nhiều lần ta như muốn buông một bàn tay thân yêu, rời xa một bờ vai thân thiết, phớt lờ một ánh mắt thân thương.  Chỉ vì chúng ta khác biệt nhau, không hiểu nhau.

Phải chăng ta khác biệt nhau và rồi ta so đo tính toán với nhau?  Để rồi ta hát mãi điệp khúc sau đây:

·     Đúng là anh giầu có hơn tôi thật, tôi không quên được đâu vì anh thường xuyên nhắc tôi về điều đó, nhưng anh cũng biết tôi có rất nhiều tài, còn về sắc đẹp thì không cần bàn cãi là ai hơn nhé!

·     Dĩ nhiên em chu đáo tỉ mỉ, nhưng cũng vì thế em thường sa đà vào các tiểu tiết và chi li, tính toán, phê bình đến mức nhỏ nhen.

·     Anh nghĩ chuyện to lớn trên trời, nhưng chuyện trước mắt, ngay trong nhà, anh có thấy đâu?

·     Sao em nói nhiều như vậy mà anh cứ ngồi im thin thít thế kia?

·     Và còn bạn nữa! Chúng ta có còn là bạn nữa không, mà sao khi lòng dạ mình rối bời lên thì bạn cứ trơ trơ như không cảm xúc vậy?

·     Có nhiều điều mình muốn nói, nhưng không nói ra vì mình nghĩ bạn chẳng thể nào hiểu được.

Khác biệt giữa Phêrô và Phaolô làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng trở nên phong phú hơn.  Các khác biệt của chúng ta lẽ ra là để bổ sung cho nhau và để làm cho đời ta thêm màu hương sắc, cũng như các giới hạn của cá nhân là để chúng ta cần đến nhau hơn trong cuộc trần này.  Điều quan yếu là ta biết trân trọng người khác và chiến thắng cái tôi ích kỷ.

Phêrô và Phaolô, hai ngôi sao “chỏi” đều tỏa sáng trên bầu trời Thiên quốc, hai con người Phêrô và Phaolô trở thành đồng trụ và bàn thạch cho tòa nhà Giáo Hội.  Tình yêu đối với Chúa Giêsu làm nên điều kỳ diệu này.  Chỉ có tình yêu đủ lớn mới có thể làm cho các bất đồng giữa vợ chồng, giữa bạn bè trở thành một liên kết phong nhiêu, một tương giao phong phú.  Tất cả rồi sẽ qua đi, chỉ có tình yêu còn ở lại.

Anh và em, bạn và tôi đã giận hờn, tranh cãi, thậm chí căm thù nhau trong quá khứ.  Có những điều cứ tái đi tái lại nhiều lần như một căn bệnh mãn tính, nan y.  Chúng ta có quá nhiều khác biệt mà.  Vẫn biết gương vỡ khó lành, vẫn biết ly nước đổ ra không thể lấy lại hết, nhưng tình yêu sẽ bù đắp tất cả và tình yêu sẽ làm cho tấm gương và ly nước lấy lại sau đó trở nên kỳ thú hơn, ngon lành hơn.

Có bao giờ chúng ta trân trọng nhau cho đúng mức không?  Có bao giờ anh và em cầu nguyện cho nhau rồi nói với Chúa về những lỗi lầm, yếu đuối của nhau chưa?  Có bao giờ bạn và tôi, chúng mình cùng cầu nguyện với nhau để chấp nhận các khác biệt của nhau mà mưu cầu công ích, mà lo cho đại cuộc không?  Đã bao giờ tôi nhìn ra được khía cạnh tốt đẹp của sự khác biệt, để yêu mến những gì “bất thường” nơi anh em, và phát huy những gì “cá biệt” của tôi nhằm hướng tới những điều cao quý hơn chưa?

Xin hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô cầu cho chúng con.

Pr. Nguyễn Đức Thắng

From: ngocnga_12 & Anh chị Thụ Mai gởi

Người Việt chống Trung Quốc khắp nơi

Người Việt chống Trung Quốc khắp nơi

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-06-26

hoaai06262014.mp3

protest-at-china-embassy-305.jpg

Người Việt biểu tình trước Đại sứ quán Trung Quốc ở Washington DC hồi đầu tháng 6 năm 2014.

RFA

Sau cuộc gặp gỡ chính thức giữa đại diện lãnh đạo VN và Trung Quốc để giải quyết vụ việc giàn khoan Hải Dương 981 đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN hôm 18/6, người Việt trong và ngoài nước bày tỏ sự thất vọng với Chính phủ Hà Nội cũng như đẩy mạnh các hành động tự phát để thể hiện tinh thần chống lại sự bành trướng của Bắc Kinh ở biển Đông.

Thắng lợi ngoại giao?

Hai ngày sau cuộc gặp gỡ giữa đại diện cấp cao của VN và ông Dương Khiết Trì-Ủy viên Quốc Vụ viện Trung Quốc tại Hà Nội, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh trong cuộc phỏng vấn với Thông tấn xã VN rằng Trung Quốc đã đơn phương vi phạm thỏa thuận cấp cao giữa 2 nước về những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề trên biển cũng như vi phạm luật pháp quốc tế; nói thêm rằng Đảng, Nhà nước và nhân dân VN kiên quyết không để một tấc đất, tấc biển nào của Tổ quốc bị xâm phạm.

Tuy nhiên, trong cùng ngày 20/6, truyền thông Trung Quốc mô tả chuyến đi của ông Dương Khiết Trì đến VN là một thắng lợi ngoại giao lẫn thắng lợi tinh thần. Tờ The Diplomat trích dẫn tờ Hoàn Cầu của Hoa Lục viết về cuộc gặp gỡ hôm 18/6 với câu chữ “Trung Quốc thúc giục ‘đứa con hoang đàng hãy trở về nhà’”. Thông điệp truyền thông Trung Quốc gửi đi là VN nên đáp ứng một cách đúng đắn với những đề nghị của Trung Quốc bằng cách chấm dứt quấy rối và phản kháng với giàn khoan HD 981.

Khi Trung Quốc xâm lược cảm nhận được đúng tinh thần bất khuất của người Việt thì nó sẽ nản chí thôi, tức là đến hơi thở cuối cùng thì người Việt vẫn cứ chống.
-Anh Tuyến

Trong khi không một đại diện nào của Chính phủ VN lên tiếng về giọng điệu của truyền thông Trung Quốc về cuộc hội đàm chính thức giữa đại diện 2 quốc gia thì người Việt trong và ngoài nước bày tỏ sự phẫn nộ trước hành động “vừa ăn cướp vừa la làng’ của người hàng xóm xấu bụng nhưng là đồng chí “4 tốt-16 chữ vàng” của Đảng CSVN.

Kể từ khi Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD 981 hôm mùng 2/5 cho đến nay, người Việt trong và ngoài nước đã và đang lên tiếng mạnh mẽ để chống trả hành động ngang tàng của Trung Quốc ở biển Đông. Cộng đồng người Việt hải ngoại biểu tình khắp nơi ở các nước họ định cư. Nhiều người dân trong nước dù không được biểu tình ôn hòa sau cuộc bạo động ở Bình Dương và Hà Tĩnh, họ thể hiện tinh thần chống đối Bắc Kinh bằng cách ký tên vào các tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược lãnh thổ VN và yêu cầu Nhà nước VN kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế. Có người đã chọn cách biến mình thành ngọn đuốc như bà Lê Thị Tuyết Mai đã tự thiêu tại Sài Gòn hôm 23/5 và ông Hoàng Thu vừa tự thiêu hôm 20/6 tại Bang Florida, Hoa Kỳ.

Vào ngày 22/6, anh Đinh Quang Tuyến một mình cầm biểu ngữ “Chần chừ kiện Trung Quốc ra tòa là phản bội dân tộc” tại khu vực Nhà thờ Đức Bà. Anh Tuyến hô to “Đả đảo Trung Quốc Xâm lược” thì bị công an đến xiết cổ và bị đưa lên xe chở về tạm giữ ở phường Bến Nghé. Trao đổi với Hòa Ái, anh Tuyến cho biết động cơ khiến anh đơn độc biểu tình ôn hòa chống Trung Quốc:

976260_DSC_0304-305.jpg

Hàng ngàn công nhân ở Đồng Nai xuống đường phản đối Trung Quốc hôm 13/5/2014.

“Đó là xuất phát từ lòng yêu nước, từ sự thất vọng đối với Chính phủ. Bây giờ nhân dân làm và mình sẽ làm, 1 người cũng làm”.

Hành động đơn phương thể hiện tinh thần yêu nước của mình khiến anh Tuyến bị câu lưu hơn 5 giờ đồng hồ. Dù được công an giải thích hành động biểu tình ôn hòa của mình là gây rối trật tự nhưng anh Tuyến quả quyết sẽ có rất nhiều người trong số 90 triệu dân ở trong nước VN hành động giống như anh. Anh Tuyến lập luận tinh thần yêu nước của người Việt như anh hùng Nguyễn Trung Trực đã tuyên bố “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người Nam đánh Tây” thì chỉ khi nào Trung Quốc nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người VN chống Trung Quốc. Anh Tuyến nói:

“Trong cái rổ trứng ấp thì có 1 con nở ra, thấy có 1 con thôi nhưng phải hiểu rằng là có rất nhiều con sắp nở. Dĩ nhiên gà mẹ có ấp thì trứng sẽ nở thôi. Cái trứng này nở trước, cái trứng kia nở sau, rồi tất cả các con gà con đều sẽ nở và sẽ lên tiếng gáy. Khi Trung Quốc xâm lược cảm nhận được đúng tinh thần bất khuất của người Việt thì nó sẽ nản chí thôi, tức là đến hơi thở cuối cùng thì người Việt vẫn cứ chống”.

Gây tiếng vang cho thế giới

Có phải những hành động tự phát thể hiện tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm phương Bắc trong suốt chiều dài lịch sử 4.000 năm qua như của bà Lê Thị Tuyết Mai, của ông Hoàng Thu hay của anh Tuyến là đơn độc hay thực sự lan tỏa đến tâm hồn của mỗi người con đất Việt? Từ Úc, cô Nguyễn Thị Thanh Nhàn, một trong những người phát động chiến dịch “Selfie for Vietnam” qua hình thức chụp hình mỗi gương mặt với biển hiệu “ChinagetoutofVietnam”, cho biết tất cả các bức hình khắp năm châu gửi về được đăng tải qua trang mạng xã hội như Facebook, Youtube để gây một tiếng vang cho thế giới về tinh thần đoàn kết chống Trung Quốc của người VN. Cô Thanh Nhàn chia sẻ:

Hành động chụp hình này chỉ là một trong những phương thức thúc đẩy sự đoàn kết của mọi người và gây nên tiếng vang tất cả người VN đều đoàn kết trong việc chống Trung Quốc.
-Cô Thanh Nhàn

“Tôi nghĩ những hình ảnh này chắc chắn không thể nào đem giàn khoan ra khỏi bờ biển của VN được nhưng quan trọng một trong những mục đích chính là thúc đẩy sự đoàn kết của những người trẻ ở khắp năm châu, ai cũng có thể tham gia được hết. Đó là tinh thần đoàn kết mà những người Cộng Sản VN và Trung Quốc, họ đều sợ sự đoàn kết của tất cả người Việt ở năm châu. Hành động chụp hình này chỉ là một trong những phương thức thúc đẩy sự đoàn kết của mọi người và gây nên tiếng vang tất cả người VN đều đoàn kết trong việc chống Trung Quốc qua xâm lược VN”.

Ở trong nước, lên tiếng với báo giới, Anh hùng quân đội Nhân dân VN, Thiếu tướng Lê Mã Lương cho rằng lâu lắm mới thấy được lòng dân thể hiện tình yêu đối với biển đảo quê hương như thế. Thiếu tướng họ Lê khẳng định Việt Nam sẽ tiếp tục kiên trì con đường đấu tranh hòa bình, không bao giờ chủ động tấn công Trung Quốc trước. Tuy nhiên, ông này nhấn mạnh bản thân ông cùng với 4 triệu cựu chiến binh sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước một khi Trung Quốc gây hấn bằng võ lực. Kiến trúc sư Trần Thanh Vân ở Hà Nội kể lại ghi nhận này với đài RFA sau khi tham dự cuộc hội đàm về tình hình biển Đông do Trung tâm Minh Triết Việt tổ chức, có sự tham dự của Thiếu tướng Lê Mã Lương:

“Thiếu tướng- Anh hùng quân đội Lê Mã Lương đến và có nói rằng hiện nay có 4 triệu cựu chiến binh sẵn sàng xông ra mặt trận bất cứ lúc nào, và quân đội sẽ theo họ chứ không theo ông Phùng Quang Thanh. Dân mạnh lắm”.

Qua những hành động thực tiễn của mỗi cá nhân hay một tập thể ở trong và ngoài nước cho thấy người Việt sẵn sàng đối đầu với Trung Quốc. Và câu hỏi đặt ra liệu Chính phủ VN có đứng cùng chiến tuyến với người Việt hay chăng?

Mơ thấy mình là người Việt Nam’

thấy mình là người Việt Nam’

Nguyễn Hưng Quốc

25.06.2014

Thời chiến tranh, từ 1954 đến 1975, ở miền Bắc, bộ máy tuyên truyền của nhà nước lúc nào cũng rang rảng khoe là ở Việt Nam (nghĩa là miền Bắc và “vùng giải phóng” ở miền Nam), chỉ cần bước ra ngõ là gặp ngay anh hùng; còn trên thế giới thì hầu như mọi người đều ngưỡng mộ Việt Nam; nhiều người, tối ngủ, nằm mơ thấy mình làm người Việt Nam!

Trong số những người nằm mơ thấy mình là người Việt Nam ấy, từ cái nhìn của miền Bắc, có cả Susan Sontag (1933-2004), một nhà trí thức và là một nhà văn nổi tiếng của Mỹ.

Sontag nổi tiếng trong nhiều lãnh vực. Với tư cách một nhà văn, bà là người sáng tác khá đa dạng, từ kịch bản đến truyện phim và tiểu thuyết (một số tác phẩm của bà được giải thưởng lớn, ví dụ giải National Book Award năm 2000); bà còn là một nhà phê bình văn học sắc sảo; một lý thuyết gia văn học, với bài tiểu luận “Chống diễn dịch” (Against Interpretation) được xem là một trong những người tiên phong của chủ nghĩa hậu hiện đại; một nhà phân tích văn hoá, bao quát nhiều phạm vi khác nhau, từ xã hội đến nhiếp ảnh, bệnh hoạn và vấn đề phái tính, v.v… Cuối cùng, bà còn là một nhà hoạt động xã hội, trong đó, nổi bật nhất là các hoạt động liên quan đến chiến tranh Việt Nam: Bà được xem là một trong những gương mặt phản chiến lừng danh nhất tại Mỹ.

Trong tất cả các lãnh vực trên, ở đâu Sontag cũng để lại những dấu ấn sâu sắc. Ngày bà mất, nhiều tờ báo lớn khen bà là một trong những người có tính khiêu khích và ảnh hưởng lớn nhất trong thế hệ của bà, thế hệ những người sinh ra trong thập niên 1930 và trưởng thành trong thập niên 1960, thời điểm của nhiều cuộc cách mạng văn hoá, chính trị và xã hội, trong đó, trung tâm là sự xuất hiện của phong trào tự do tình dục, phong trào nữ quyền cũng như sự thức tỉnh của quần chúng (đặc biệt qua các cuộc xuống đường của thanh niên sinh viên tại Pháp vào năm 1968).

Trong các hoạt động của Sontag, đáng kể nhất là các hoạt động phản chiến: Bà tham gia biểu tình rồi thuyết trình rồi xuất hiện trên các cơ quan thông tin đại chúng phản đối việc Mỹ tham chiến tại Việt Nam. Nhờ uy tín của một nhà văn và nhà báo, một giáo sư và một diễn giả có tài hùng biện, bà dần dần trở thành một trong những gương mặt phản chiến tiêu biểu nhất tại Mỹ trong nửa sau thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970.

Năm 1968, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Susan Sontag, qua đó, lợi dụng tiếng tăm của bà để thu phục nhân tâm tại Mỹ, nhà cầm quyền miền Bắc đã mời Sontag sang thăm Việt Nam trong hai tuần, từ ngày 3 đến ngày 17 tháng 5. Về lại Mỹ, bà viết cuốn “Trip to Hanoi” (Chuyến đi Hà Nội), thoạt đầu đăng trên tờ Esquire vào cuối năm 1968; sau, in trong cuốn “Styles of Radical Will” năm 1969; sau nữa, in riêng thành một cuốn sách mỏng.

Trong cuốn sách mỏng, chưa tới 100 trang ấy, Sontag ghi chép lại những gì bà nghe, thấy và suy nghĩ về Việt Nam. Dù ở Việt Nam chỉ một thời gian rất ngắn, nhưng với óc quan sát tinh tế, Sontag cũng ghi nhận được rất nhiều những nét khác biệt văn hoá giữa miền Bắc và Tây phương. Không phải điều gì cũng làm bà hài lòng. Bà không thích những cách nhìn hẹp hòi, một chiều và cứng nhắc, đầy tính công thức của những cán bộ và trí thức bà được gặp. Nhưng nói chung, bà không giấu giếm sự ngưỡng mộ đối với lòng yêu nước và sự anh hùng của họ. Cuối cuốn sách, bà cho chuyến đi thăm Hà Nội đã mở rộng tầm mắt của bà. Bắc Việt được xem như một Cái Khác Lý Tưởng (ideal Other) đối lập với một nước Mỹ đang phản bội lại chính những lý tưởng thời lập quốc của mình.

Cùng với cuốn Hanoi (1968) của Mary McCarthy, cuốn sách của Sontag đã gây ảnh hưởng lớn lên giới trí thức, sinh viên và quần chúng Mỹ, góp phần làm cho phong trào phản chiến tại Mỹ càng ngày càng dâng cao, và cuối cùng, đủ để tạo thành sức ép nặng nề lên chính phủ Mỹ khiến chính phủ phải tìm mọi cách rút quân ra khỏi Việt Nam. Chắc chắn Bắc Việt lúc ấy vô cùng cảm kích trước món quà to lớn của Susan Sontag. Trong những lời tuyên truyền của chính phủ Việt Nam cho nhiều người Tây phương, kể cả người Mỹ, cũng ngưỡng mộ Việt Nam và ao ước được sinh ra là người Việt Nam, không chừng có cả hình ảnh của Sontag.

Có điều, đó không phải là toàn bộ sự thật.

Mới đây, tôi đọc cuốn “As Consciousness Is Harnessed to Flesh” bao gồm nhiều trích đoạn từ các cuốn nhật ký và sổ tay Susan Sontag viết trong những năm từ 1964 đến 1980 do con trai của bà, David Rieff biên tập, được Farrar Straus Giroux xuất bản tại New York năm 2012. Trong cuốn này có một số đoạn ghi chép của Sontag thời gian thăm viếng Hà Nội. Một số ghi chép đã được sửa và phát triển thành cuốn Trip to Hanoi; nhưng một số khác thì không. Tôi thích những đoạn không được đưa vào sách, hoặc đưa, nhưng bị sửa chữa khá nhiều: Chúng thực hơn.

Chẳng hạn, bà ghi nhận, tất cả những người Việt Nam bà được gặp, dù toàn là những trí thức hàng đầu và những cán bộ lãnh đạo thuộc loại cao cấp nhất, đều có những cách nói và nội dung giống hẳn nhau (tr. 240), khiến bà cảm thấy bà chẳng học hỏi được gì ở họ (tr. 241). Nói chuyện với họ, nhiều lần bà tự hỏi: Liệu họ có tin những gì họ nói? (tr. 242). Bà có cảm giác họ như những đứa con nít đẹp đẽ, ngây thơ và bướng bỉnh (tr. 242). Nói chuyện, lúc nào họ cũng khẳng định, không bao giờ biết nghi vấn điều gì (tr. 245). Bà so sánh Bắc Việt và Cuba và thừa nhận bà thích Cuba hơn hẳn Bắc Việt: Bà cảm thấy những người cộng sản Cuba “người” hơn, thân thiện hơn, hoạt bát hơn (tr. 245-6).

Sau này, từ những năm cuối thập niên 1970, quan điểm của Susan Sontag về chủ nghĩa cộng sản thay đổi hoàn toàn. Trong một cuộc họp tại Town Hall ở New York vào năm 1982, bà nói một câu gây chấn động giới khuynh tả Tây phương: “Chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa phát xít với gương mặt người” (Communism was fascism with a human face). Bà lớn tiếng phê phán giới trí thức Tây phương, đặc biệt những người khuynh tả – vốn là các “đồng chí” của bà – là họ vô trách nhiệm trước những tội ác do cộng sản gây ra và vô lương tâm trước các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, bao gồm những người phản kháng và những người tị nạn, những người bị giết chết và những người bị tù đày.

Một lần, đi xa hơn, bà cho các trí thức khuynh tả đã nói dối về thực trạng các nước cộng sản; sau đó, bà khẳng định: “Người ta phải chống lại chủ nghĩa cộng sản: Nó đòi chúng ta phải nói dối” (One must oppose communism: it asks us to lie).

Trong những lời nói dối ấy, chắc chắn có những câu đại loại: Mơ thấy mình làm người Việt Nam mà bộ máy tuyên truyền của Việt Nam không ngớt lải nhải suốt cả mấy chục năm trước đây.

 

Người Nhật ‘thoát Á’ và người Việt ‘xấu xí’

Người Nhật ‘thoát Á’ và người Việt ‘xấu xí’

Cao Huy Huân

23.06.2014

Trước đây, thời còn là nghiên cứu sinh, những lúc rảnh rỗi tôi hay dạo quanh các diễn đàn với chủ đề đại loại như “nước Việt Nam lớn hay nhỏ”. Quả thật đó là một chủ đề bất tận để mà bàn cãi và tranh luận. Ngay cái tên của chủ đề cũng đã thấy có nhiều vấn đề cần được mổ xẻ và bình luận rồi. Lại thêm cái cảnh người Việt rất thích tranh luận trên thế giới ảo nên tha hồ mà tôi đọc được các ý kiến đủ mọi loại. Qua những diễn đàn này tôi cũng được vinh dự biết đến những thành công của người Việt trên quy mô quốc tế. Rồi còn yêu thêm những tinh hoa trong ẩm thực Việt Nam đang dần dần chinh phục những thực khách khó tính nhất trên thế giới. Liệu như vậy đã đáng tự hào? Đáng chứ! Sao lại không? Tuy nhiên, tôi cũng không quá tự hào mà quên mất, chính người Việt chúng ta cũng đang làm xấu đi hình ảnh của dân tộc mình trong tâm tưởng của công dân toàn cầu.

Nhân đọc một bài báo nói về tinh thần tự giác giữ gìn vệ sinh công cộng và bảo vệ môi trường của người Nhật, tôi lại càng cảm thấy cần có một sự thay đổi trong tư duy của người Việt Nam. Bài báo đại loại chia sẻ những hình ảnh chụp các cổ động viên người Nhật của World Cup 2014 đang diễn ra tại Brazil. Sau khi đội bóng nước nhà thua trận trước các tuyển thủ đến từ Bờ Biển Ngà, chẳng những không tỏ vẻ tức giận, những cổ động viên Nhật Bản còn đồng loạt nhặt rác ở khu vực khán đài của sân vận động nơi diễn ra trận bóng, và sân vận động đó tất nhiên là ở Brazil. Hình ảnh này sau đó được chia sẻ với tốc độ khủng khiếp trên các trang mạng xã hội trên toàn thế giới và ngay tại Việt Nam.

Hình ảnh người Nhật cúi người nhặt rác không làm cho họ thấp hơn trong mắt cư dân toàn cầu, mà ngược lại còn làm cho họ trở thành những người đáng kính nể và khâm phục. Đơn giản thôi, một hành động chẳng có gì to tát nhưng lại khiến cho danh tiếng của một dân tộc lại càng thêm sáng chói. Thời còn học tập tại Mỹ, tôi thường được  nghe các giáo sư của mình bày tỏ niềm kính trọng đối với người Nhật, nhất là sau khi đất nước Mặt Trời Mọc phải hứng chịu thảm họa sóng thần vào năm 2011. Ý thức dân tộc của họ quá tuyệt vời giúp họ nhanh chóng khắc phục những hậu quả của thảm họa và nhanh chóng quên đi đau thương để bước tiếp.

Trước đây, khi còn nhỏ, trong tâm tưởng tôi người Nhật là dân tộc có ngoại hình xấu, thể trạng nhỏ và rất kì quặc. Là vì những người lớn đã gieo vào đầu tôi hình ảnh đó. Thậm chí phim ảnh Việt Nam lúc bấy giờ luôn khắc họa hình ảnh người Nhật là những người lùn độc tài. Có lẽ dân Việt luôn chỉ muốn khắc họa một hình ảnh phát xít Nhật xấu xí như vậy. Lạ lùng thật! Trong khuôn khổ bài viết này, tôi không muốn nhắc đến những vấn đề liên quan đến tính lịch sử chính trị, chỉ xin phép nói đến những vấn đề liên quan đến tư duy, thói quen và ý thức của các dân tộc.

Do vô tình, một lần được đọc về con đường phát triển của Nhật Bản, tôi được biết, quốc gia này là quốc gia Đông Á duy nhất được cho là đã “thoát Á”. Đầu tiên, xin giải thích chút ít về cụm từ “thoát Á”. “Thoát Á” là cụm từ dùng để chỉ việc thoát khỏi vòng kềm kẹp của nền văn hóa tiểu nông (một nền văn hóa lạc hậu cổ hủ, nặng tính hình thức giả tạo và coi trọng hư danh, điển hình là Trung Quốc) để hội nhập với phương Tây và bước ra cùng thế giới. Phải nói là trước đó, tôi đã có suy nghĩ rất trái ngược về đất nước Nhật Bản. Tôi đã nghĩ họ là dân tộc tự tôn đến mức cổ hủ, không cho phép văn hóa Tây phương được phép len lỏi vào đời sống của người dân nước họ. Rõ ràng là một suy nghĩ sai lầm trầm trọng!

Thực ra học thuyết Thoát Á, hay còn được gọi là Thoát Á Luận khởi nguồn từ một bài viết được đăng báo của học giả FukuzawaYukichi giữa thế kỷ 19. Ông là nhà tư tưởng có ảnh hưởng rất lớn đến xã hội Nhật Bản ngày nay. Tư tưởng tiến bộ của ông đã tác động rất nhiều đến phong trào Khai Sáng ở Nhật Bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Có thể nói, xã hội Nhật Bản ngày nay là một xã hội vừa văn minh tiến bộ, vừa giữ gìn truyền thống tốt đẹp. Sự hội nhập của Nhật Bản với phương Tây là một sự hội nhập đúng đắn và tạo tiền đề cho sự phát triển vượt bậc của công nghệ, kỹ thuật và nền kinh tế của người khổng lồ châu Á. Đáng ngưỡng mộ!

Tôi còn nhớ ngày tôi còn ở Mỹ, một anh bạn người Mỹ đã hỏi tôi: “Ở Việt Nam, các cậu có ăn vận như chúng tôi không?” Câu hỏi đó đã làm tôi vừa buồn cười vừa khó chịu. Buồn cười vì ở đất nước văn minh như vậy lại có một thanh niên hỏi một câu hỏi ngô nghê. Khó chịu vì cảm thấy tủi hổ khi tất cả những gì đại chúng Mỹ biết về Việt Nam là qua cuộc chiến tranh Việt Nam – Hoa Kỳ. Vậy dân Mỹ có quan tâm đến Việt Nam không? Câu trả lời là không.

Cách đây mấy ngày, tôi có đọc một bài viết về suy nghĩ của một chủ doanh nghiệp người Nhật đối với những lao động người Việt Nam. Bài viết khởi đầu rất ấn tượng khi cho rằng, người Việt Nam đừng nên tự ảo tưởng mình với những lời khen ngợi mang tính ngoại giao của các quan chức cao cấp mà hãy nghe chính những người bình thường, trực tiếp tiếp xúc với dân Việt nói về người Việt. Theo đó, vị sếp người Nhật này đánh giá người lao động Việt Nam là những người “chỉ biết nghĩ đến những cái lợi lộc nhỏ của cá nhân mà không biết nghĩ đến cái lợi lớn của chung”.  Chính vì đánh giá lao động Việt như vậy, cho nên phân tích của vị sếp Nhật này cũng xuất phát từ những cái nhỏ. Ông so sánh thú vị rằng một cái tua vít của doanh nghiệp nhập về giá 40 ngàn đồng bị các nhân viên Việt Nam dẫm lên, thậm chí đá lăn đi mất chỉ vì đó không phải là tài sản của họ. Trong khi đó họ sẵn sàng cúi xuống nhặt một điếu thuốc lá đang hút dở dang chỉ đáng giá 1.000 đồng, vì đó là tài sản của họ. Rồi đến chuyện ăn cắp tài sản của doanh nghiệp mang ra ngoài bán. Và cuối cùng ông kể câu chuyện về anh tài xế đã khai khống quãng đường đi và ăn chặn tiền xăng của ông trong suốt 5 năm ông làm việc tại Việt Nam như thế nào.

Trước khi về nước, ông đã mang quà đến tặng cho người tài xế đó và cảm ơn vì suốt thời gian qua người này đã đảm bảo an toàn tính mạng của ông khi lưu thông trên đường phố. Những việc làm sai trái của người tài xế đều được ông lưu tâm nhưng suốt 5 năm qua không hề nói ra. Nhưng thay vì tăng lương cao hơn cho anh ta, ông đã tăng rất ít. Hỡi người Việt Nam, chúng ta đừng suy nghĩ thiển cận rằng họ không nói ra là họ không hề biết. Một khi đã là chủ doanh nghiệp, tức là đầu óc của họ đã hơn người công nhân các anh rồi, dễ dàng qua mặt được họ sao? Thật đáng hổ thẹn!

Rồi những cửa hàng tại Nhật Bản trưng bảng tiếng Việt cảnh báo hành vi ăn cắp, những nhà hàng ở Thái Lan cũng trưng bảng tiếng Việt yêu cầu khách đừng phung phí thức ăn. Chúng ta trở nên xấu xí như vậy sao? Những hành vi tùy tiện, tham lam, nhỏ nhen và ích kỷ của một bộ phận không nhỏ người Việt đã vô hình trung làm người nước khác đánh giá chúng ta là một dân tộc xấu xí.

Thêm nữa, đại đa số người Việt chúng ta vẫn còn tư tưởng “tiểu nông”. Những người luôn sợ mất mặt với bà con, làng xóm, xã hội. Những người thấy đám đông vây quanh một vụ tai nạn cũng sẽ nhanh chóng chạy đến tham gia, tuyệt nhiên không màng đến việc cả một quãng đường bị tắt. Những người sẵn sàng vứt rác ra đường thay vì bước vài bước đến thùng rác công cộng, tuy nhiên nhà cửa lúc nào cũng phải đẹp và chỉn chu bề ngoài để khách đến phải trầm trồ khen ngợi. Những người sẵn sàng phóng xe mô tô không cần mũ bảo hiểm vì sợ hư mái tóc bồng bềnh xinh đẹp. Những người sẵn sàng đánh chết người chỉ vì ăn trộm chó, nhưng vẫn thản nhiên nhậu thịt chó ngon lành… Còn rất nhiều những điều kỳ quặc như vậy.

Để kết thúc bài viết này, tôi muốn mượn một câu nói nổi tiếng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài nói rằng:

Hãy cẩn thận với những suy nghĩ, vì chúng biến thành lời nói.
Hãy cẩn thận với lời nói, vì chúng biến thành hành động.
Hãy cẩn thận với hành động, vì chúng biến thành thói quen.
Hãy cẩn thận với thói quen, vì chúng biến thành tính cách.
Hãy cẩn thận với tích cách, vì chúng biến thành số phận của bạn.

Người Nhật Bản đã không những “thoát Á” để vận dụng những tư tưởng văn minh vào công cuộc xây dựng đất nước mà họ còn dạy cho con cháu họ những tính cách quý báu để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp. Dẫu biết là “giang sơn dễ đổi bản tính khó dời”, nhưng khó không có nghĩa là chúng ta không làm được. Người lớn không thay đổi được thì lớp trẻ sẽ thay đổi được. Tôi tin là sẽ đến một ngày, Việt Nam cũng sẽ “thoát Á”.

Chệch Hướng & Ngược Hướng

Chệch Hướng & Ngược Hướng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Không thể cải cách giáo dục nếu chỉ nghĩ đến sự tồn vong của chế độ.

Huy Đức

Năm 1882 – khi bước chân đến Mỹ – Oscar Wilde nói với nhân viên hải quan ở New York rằng: “Ngoài thiên tài ra, ông không có gì để khai báo cả.” (I have nothing to declare except my genius).

Một trăm năm sau, tại phi trường San Francisco, tôi cũng nghe một câu hỏi tương tự (Do you have anything to declare?) nhưngchỉ buồn bã lắc đầu thay cho câu trả lời vì tôi hoàn toàn không có tài sản hay tài ba gì ráo (để khai báo) ngoài khả năng … chịu đói.

Cái khả năng “đặc biệt” này, chắc chắn, cũng được tập thành bởi rất nhiều người Việt. Xứ sở của chúng tôi là nơi mà nghèo đói hiển hiện ở mọi thời, và hầu như ở khắp cả mọi nơi.

Hồi tháng Giêng năm nay, báo chí trong nước ái ngại đi tin: “Mười một tỉnh (Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Kom Tum) đồng loại xin cứu đói.”

Hai tháng sau, cái đói lan tới tuốt Hậu Giang: “Bốn Mươi Bốn Công Nhân Nhập Viện Vì Quá Đói.” Dù đói tới cỡ đó nhưng nhờ khả năng nhịn đói triền miên nên giới công nhân (thỉnh thoảng) vẫn bị Nhà Nước “cấu” bớt một hai ngày lương để giúp đỡ đồng bào vùng lũ lụt, để xây trường mầm non cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, để cất nhà tình nghĩa cho gia đình nghèo khó, để  tặng quà cho qúi bà mẹ Việt Nam anh hùng, để làm cầu cho đồng bào sắc tộc (ở vùng xa, vùng sâu vùng căn cứ cách mạng) hay để ủng hộ (thêm một ngày lương nữa) cho chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” tri ân liệt sĩ (của ta) và những người lính Việt Nam Cộng Hoà – như lời của ông Đặng Ngọc Tùng – Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam (trên báo Lao Động) vào hôm 12 tháng 3 năm 2014.

Tuy cuộc chiến Bắc/Nam đã qua gần bốn mươi năm nhưng (có lẽ) đây là lần đầu tiên “đám lính Sài Gòn”– hay còn bị gọi một cách xách mé hơn là “bọn ngụy quân” – được một quan chức cao cấp của Nhà Nước nhắc đến với đôi chút trọng thị và tình nghĩa: “Máu của những người con đất Việt dù trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã đổ xuống để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam yêu dấu.”

Sự tử tế khó ngờ (và đột ngột) của nhà đương cuộc Hà Nội khiến cho nhiều độc giả ngỡ ngàng, và không ít kẻ vô cùng … thất vọng:

21 năm chiến đấu trong mưa bom bão đạn, hàng triệu người Việt Nam đã ngã xuống mới có ngày 30.4.1975. Hôm nay tại sao ông Tùng và báo Lao Động lại kêu gọi ủng hộ tri ân những người lính của chế độ VNCH?

Mới mấy chục năm đã vội quên quá khứ rồi sao? Hay mọi sự qua rồi, thì chúng ta nên thực hiện “hoà hợp”, phải cào bằng giá trị lịch sử? Các vị đang đánh đồng xương máu của những người chiến đấu cho chính nghĩa, cho dân tộc và xương máu của những kẻ chiến đấu cho bọn phản quốc. Trắng – đen, phải – trái, chính- tà cần được khẳng định rõ ràng, chứ không được lập lờ và bẻ cong lịch sử !

© An Nam ( Nghệ An)

Ngôn ngữ sắt thép của ông An Nam khiến tôi nhớ đến không khí sắt máu trong phong trào “phóng tay phát động quần chúng để thực hiện chính sách cải cách ruộng đất” (cũng ở Nghệ An) vào năm 1953, theo như ghi nhận của một nhà văn:

“Một lũ ngồi lúc nhúc ở giữa vòng vây người nung nấu căm thù, nóng rực như vòng lửa. Người xem đông quá là đông. Sóng người xô dồn lên, rồi dạt ra phía sau, rồi lại cuộn xoáy, ôm nhau, níu áo nhau. Không thể nào nghe được dân quân đang tra khảo tội nhân điều gì? Chỉ nghe nhứng tiếng quát lớn;’Mi có khai không? Mi có khai không?’ trộn lẫn với tiếng đấm đá huỳnh huỵch…”

‘Tổ cha cái đồ phản động cái đồ Việt gian’ – có tiếng người hét to như muốn vỡ ngực vỡ họng. Chính cái người hét to ấy đang ôm một gốc cây phi lao sần sùi mấu lao từ trên bức tường xuống như con mạnh thú vồ mồi, giơ cao gốc cây phang một cú vào ngực người bị treo ngược. Người bị treo rú lên một tiếng thất thanh và hai tay run rẩy như con nhái trước lúc chết. Thịch! Sợi dây đứt. Người bị treo ngược rơi xuống, sọ đập trên đất lổn nhổn cứt sắt… Người bị treo ngược bây giờ thành cái xác nằm sõng xoài trên đất ….”  (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. California: Tạp Chí Văn Học, 2006).

Ông An Nam, tất nhiên, không phải là một nhân vật từ trên trời (vừa) rơi xuống nước Việt. Ông là thành quả hiển nhiên của nỗ lực và quan niệm  trồng người (thụ nhân chi kế) đã được Chủ Tịch Hồ Chí Minh du nhập vào Việt Nam từ giữa thế kỷ trước: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa.”

Những con người (mới) xã hội chủ nghĩa hôm nay, theo giáo sư Đỗ Mạnh Tri, chính là di sản của Mác –xít tại Việt Nam. Di sản này hiển hiện khắp nơi, kể cả nghị trường.

Nguyễn Bắc Việt, đai biểu Quốc Hội tỉnh Ninh Thuận. Ảnh: Anh Ninh Thủ Đô

Sau việc Trung Cộng Quốc ngang nhiên đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam, ông Nguyễn Bắc Việtđại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận – đã “tham gia một số ý kiến” như sau:

Một, phải xác định cho rõ nguyên nhân, phải biết đau lòng với tình hình hiện nay của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hai nước xã hội chủ nghĩa lình xình với nhau như thế này, ai có lợi?

Hai, phải tiên định mục tiêu lý tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” như Bác đã căn dặn. Đó là phải làm sao giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng đến nay. Xem nhẹ chúng ta sẽ chệch hướng.

Khi nói đến nạn nhân của Chủ Nghĩa Cộng Sản tại Việt Nam, thiên hạ hay nghĩ đến những người bị đấu tố trong C.C.R.Đ, những kẻ bị vùi dập trong Vụ Án Nhân Văn Giai Phẩm hay Xét Lại, những xác người vùi lấp dưới lòng biển cả và giữa rừng sâu hoặc cạnh những trại tù heo hút (rải rác) khắp nước… nhưng không mấy ai quan tâm đến đến hàng chục triệu nạn nhân  đáng thương khác – những kẻ bị giam cầm suốt đời trong thù hận, tăm tối, và dốt nát – như qúi ông An Nam hoặc Nguyễn Bắc Việt.

Nỗi lo Đảng đang “chệch hướng” của ông đại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận cũng dễ khiến người ta nghĩ đến sự băn khoăn của giáo sư Hoàng Tụy về hiện tượng “lạc hướng” của nền giáo dục hiện nay:

“Giáo dục đang đi lạc hướng, nếu không có bài thuốc nào chữa thì có hết cải tiến rồi lại lùi, đổi mới liên tục nhưng vụn vặt, chắp vá, đổi đi đổi lại chỉ thêm tốn kém tiền của, công sức của dân mà rốt cục lại quay về điểm xuất phát…

Trong thế giới hiện đại, với xu thế toàn cầu hóa không thể đảo ngược được cái lý trên, nước nào không hội nhập, không thích nghi được tất sẽ bị cô lập, bị bỏ rơi, chết lâm sàng rồi từ từ bị đào thải, nếu không sớm tỉnh ngộ.”

Nguồn ảnh: Website Trường Tiểu Học Lê Văn Tám

Không riêng gì giáo sư Hoàng Tụy, nhiều vị thức giả khác cũng đã có lúc bầy tỏ sự quan tâm về hiện tượng “lạc hướng” đáng lo này. Và (chắc) vì vậy nên Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định thành lập Ủy Ban Quốc Gia Đổi Mới Giáo Dục và Đào Tạo. Theo đó, chính ông là Chủ Tịch Ủy Ban,Trưởng Ban Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh và Phó Thủ Tướng Chính Phủ Vũ Đức Đam làm Phó Chủ Tịch Ủy ban – theo như tin loan của Vietnam.net, đọc được vào hôm 27 tháng 5 năm 2014 vừa qua.

Thiệt là … trao duyên lầm tướng cướp!

Ông Nguyễn Tấn Dũng là quan chức đã ký chỉ thị 37 CP cấm tư nhân hoá báo chí. Còn ông Đinh Thế Huynh chính là người làm cho cả dân tộc này “mát mặt” sau khi tuyên bố (trước thềm đại hội ĐCSVN toàn quốc lần thứ 11) rằng: Việt Nam không có nhu cầu đa nguyên, đa đảng và dứt khoát không đa nguyên đa đảng.”

Với cái tâm và cái tầm của Chủ Tịch Uỷ Ban (Nguyễn Tấn Dũng) và Phó Ủy Ban (Đinh Thế Huynh) thì nền giáo dục Việt Nam – phen này – kể như là đi đứt. Nỗi lo “chệch hướng” hay “quay về điểm xuất phát”  (đương nhiên) cũng chấm dứt luôn vì ông Dũng và ông Huynh, chắc chắn, sẽ đi … ngược hướng!

Những thế nào là một nền giáo dục đúng hướng?

Xin mượn lời của ông  Nguyễn Trân Sâm – người tự giới thiệu mình là một thường dân – để trả lời cho câu hỏi (không) khó khăn này:

Xin thưa, đó là nền giáo dục đáp ứng được những yêu cầu hết sức bình thường. Nói ngắn gọn là nó đào tạo được những con người tử tế, tức là có những phẩm chất cơ bản sau: có lòng tự trọng và biết tôn trọng người khác (riêng với cha mẹ, thầy cô và những người cao tuổi còn phải biết lễ phép, nhưng không tuân theo những đòi hỏi phi lý và phi pháp), có năng lực lao động để đem lại lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho chính mình và xã hội (có kiến thức và kỹ năng tốt hoặc đạt yêu cầu về nghề nghiệp), có ý thức tôn trọng pháp luật (nhưng không tuân theo vô điều kiện những luật lệ phản động, lạc hậu).

Trong lịch sử các dân tộc phương Đông như Việt Nam, Trung Hoa,… người ta đã diễn đạt những yêu cầu đó bằng những khái niệm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Chỉ thế là đủ. Chỉ có điều ở thời đại ngày nay, đừng lồng vào những khái niệm đó những nội dung như trung thành tuyệt đối với một cá nhân hay nhóm người nào.

Người tử tế không thể xoen xoét nói những điều nhân nghĩa nhưng trong hành động thì chỉ làm và sẵn sàng làm mọi việc vì quyền lợi bản thân, kể cả chà đạp lên quyền lợi người khác, kể cả lợi dụng quyền lực để đàn áp dân lành. Người tử tế không thể là kẻ bợ đỡ, liếm gót những kẻ có quyền lực, đem tiền đi mua bằng cấp, chức tước, dùng chức tước bòn rút tiền bạc và thành quả lao động của người khác. Người tử tế không thể bắt hàng triệu người phải theo mình, phục vụ mình, tôn thờ mình như thánh. Người tử tế không tự nhận mình là người thông thái nhất, là đỉnh cao trí tuệ.

Quan điểm giáo dục nhân bản bình dị đến vậy cớ sao Đảng và Nhà Nước ta (nói chung) hoặc hai ông Nguyễn Tấn Dũng (nói riêng) lại cứ nhất định dẫn dắt toàn dân đi chệch hướng hay lạc hướng? Vì tự bản chất họ không phải là những người tử tế nên không thể thực hiện được bất cứ điều gì đàng hoàng hay tử tế, chớ sao.

 

Thánh Gioan Tẩy Giả, con người kỳ diệu

Thánh Gioan Tẩy Giả, con người kỳ diệu

st-jean-baptistes

Trong năm phụng vụ chỉ có 3 lễ mừng sinh nhật. Đó là Giáng Sinh của Đức Giêsu ( 25.12), Sinh nhật của Đức Maria ( 8.9) và Sinh nhật của Gioan Tẩy Giả (24.6) .

Cuộc đời và sứ mạng của Gioan gắn liền với cuộc đời và sứ mạng của Chúa Giêsu nên Giáo hội có lý do để sắp đặt việc mừng Sinh nhật của Vị Tiền Hô của Đấng Cứu Thế trở thành một Lễ Trọng trong niên lịch phụng vụ.

Gioan được sinh ra kỳ diệu và ơn gọi cũng kỳ diệu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

1 .Sinh nhật kỳ diệu

Thánh Luca đã nói tới ngày sinh với những dấu hiệu kỳ diệu của Gioan ” Nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời” ( Lc 1,14).

a. Dacaria bị câm

Thân phụ của Gioan bị câm vì nghi ngờ lời Truyền tin của Sứ Thần đang khi ông dâng hương trong đền thờ theo phiên của mình ( Lc 1,5- 23)

b. Khỏi Tội Nguyên tổ

Bà Isave có thai được 6 tháng, Đức Maria đã đến viếng thăm,vừa nghe lời của Đức Maria chào thì thai nhi Gioan đã nhảy mừng trong dạ mẹ ( Lc 1,41) và được đầy tràn Thánh Thần(Lc1,15).Hồng ân này được Giáo hội hiểu là Gioan đã khỏi tội nguyên tổ, một ân huệ cao cả mà ngoại trừ Đức Maria, cả nhân loại không ai có được.

c. Son sẻ mà có con

Hai ông bà Dacaria và Isave là người công chính trước mặt Thiên Chúa,nhưng họ lại không con,vì Bà Isave là người hiếm hoi,cả hai đều đã cao niên ( Lc 1,6- 7).

Vậy mà Bà đã sinh con ” Bà sinh hạ một con trai,nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy,láng giềng và thân thích đều chia vui với bà” (Lc 1,57-58). Trong Cưụ ước cũng có những bà mẹ sinh con kỳ diệu như vậy.Bà Sara mẹ Isaac ( St 11,30;21,1- 7).Bà Rebecca mẹ của Esau và Giacop ( St 25,21- 26).Bà Rakhel mẹ của Giuse ( St 29,21; 30,22- 24).Bà Anna mẹ của Samuel ( 1Sm 1,2- 20).

d. Tên Gioan và hết câm

Gioan sinh được tám ngày, chịu cắt bì và đặt tên là Dacaria nhưng bà mẹ lên tiếng “Không, phải đặt tên cháu là Gioan”. Một tên gọi thật lạ lùng khiến mọi người kinh ngạc vì trong họ hàng của bà không có ai tên đó cả.Khi Dacaria viết tên Gioan trên tấm bảng tức thì miệng lưỡi ông được mở ra,ông hết câm và nói lại được như trước kia ( Lc 1,59- 65).

Mọi biến cố đều kỳ diệu từ khi cưu mang cho đến lúc sinh ra của Gioan vì ” Quả thật,có bàn tay Chúa phù hộ em” ( Lc 1,66).

Sinh nhật Gioan kỳ diệu cũng đúng thôi vì Gioan sẽ lãnh nhận một ơn gọi kỳ diệu là làm Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

2 . Ơn Gọi kỳ diệu

a Ngôn sứ Isaia loan báo

” Có tiếng hô từ nơi hoang địa: hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa,sửa lối cho thẳng để Ngài đi.Mọi thung lũng phải lấp cho đầy,mọi núi đồi phải bạt cho thấp,khúc quanh co phải uốn cho ngay,đường lồi lõm phải san cho phẳng.Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” ( Is 40,3- 5; Mc 1,3; Lc 3,4-6; Mt 3,3) . Isaia đã giới thiệu về Gioan như một vị Tiền Hô dọn đường cho Đấng Thiên Sai đến.

b. Ngôn sứ Malakia tiên báo

” Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con,người sẽ dọn đường cho con đến để làm lòng cha ông quay về với con cháu” ( Ml 3,1- 24; Mt 1,10; Lc 1,17;7,27).Lời Ngôn sứ Malakia nhắc nhở cho người đương thời và hậu thế về ơn gọi của Gioan như vị sứ giả dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến .

c. Sứ Thần Truyền Tin xác nhận

Sứ Thần của Chúa hiện ra với Dacaria,đứng bên phải hương án,xác nhận với ông rằng người con trai của ông sắp chào đời là Gioan Tẩy Giả ” Sẽ đi trước mặt Chúa và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa”( Lc1,17).

e. Thân phụ Dacaria

Dưới tác động của Thánh Thần, Dacaria đã hát lên bài ca chúc tụng “Benedictus” về ơn gọi của người con trai mình “Hài Nhi hỡi,con sẽ đi trước mặt Chúa,mở lối cho Người,bảo cho dân Chúa biết,Người sẽ cứu độ và tha thứ cho họ hết mọi tội khiên” ( Lc 1,76- 77).

f. Gioan khẳng định

Trong một cuộc tranh luận giữa các môn đệ của Gioan và một người Do thái về việc thanh tẩy,tại Enon,gần Salem thuộc miền Giuđê,chính Gioan đã xác nhận ơn gọi của mình : ” Chính anh em làm chứng cho Thầy là Thầy đã nói : Tôi đây không phải là Đấng Kitô mà là kẻ được sai đi trước mặt Ngài” ( Ga 3,28).

Qua sinh nhật và ơn gọi kỳ diệu của Gioan,Thiên Chúa đã đặt Gioan làm gạch nối giữa Cựu ước và Tân ước với sứ vụ đặc biệt đó là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế.

Là một ngôn sứ trong một đất nước đang thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi loạn,dân chúng lầm than,Gioan cũng mang nặng những ưu tư những trăn trở yêu nước thương dân.

Vị vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống loạn luân, lấy vợ của anh mình là Hêrôđiađê. Lương tâm ngôn sứ đã thúc đẩy Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những hành vi sai trái của nhà vua,kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế Gioan đã bị vua chém đầu.

Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất bại. Sứ mạng của ông không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại, cuối cùng chịu chết chém trong tù.Thế nhưng Đức Giêsu đã nói về ông: ” Trong các con cái người nữ sinh ra,chưa từng một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy giả”(Lc 7,28). Như vậy điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái chết.

Sứ mạng ngôn sứ thời nào cũng thế.Đức Giêsu, vị ngôn sứ làm chứng cho sự thật cũng bị bắt bớ, bị hành hạ và bị đóng đinh thập giá. Các Thánh Tử Đạo cũng đã làm chứng cho sự thật, tiếp nối con đường Thầy mình đã đi,cũng gánh lấy tù tội và cái chết. Bởi lẽ “Nếu thế gian đã ghét Thầy,thì thế gian sẽ ghét các con vì các con sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian” ( Ga 15,18 – 19 )

Được sinh ra và lớn lên trong bàn tay phù hộ của Thiên Chúa.Gioan đã sống vai trò ngôn sứ dọn đường cho Chúa Cứu Thế và đã chết vì chân lý.

Người Kitô hữu chúng ta không cần phải làm được những chuyện kỳ vĩ như Gioan hay như các Thánh Tử Đạo, nhưng với tư cách ngôn sứ chúng ta có thể làm chứng cho chân lý, cho công lý, cho tình yêu.Với tư cách là Tẩy Giả,chúng ta có thể góp một chút bột giặt tình yêu tha thứ để làm sạch tấm chăn môi trường đang bị ô nhiễm trầm trọng bởi những thứ bụi bẩn rác rưới ích kỷ, vụ lợi, hưởng thụ sa đoa, ghen ghét hận thù, dối trá lọc lừa. Và như thế chính là góp phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.

Cuộc đời Gioan Tẩy Giả luôn mãi là tấm gương cho chúng ta. Không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cụôc sống.Chúng ta được mời gọi sống lý tưởng của Gioan : Ngài phải lớn lên,còn tôi phải lu mờ đi.

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Anh chị Thụ Mai gởi

“Ca những điệu ngọc vàng, cao sang sảng,”

“Ca những điệu ngọc vàng, cao sang sảng,”

“Lời văng xa, truyền nhiễm đến vô song.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 16: 13-19

Điệu ngọc vàng, nhà thơ đã ca lên, vẫn vang rền những điều truyền nhiễm đến vô song, đầy huyền-nhiệm. Giọng trân-châu, nhà Đạo còn hát mãi đi vào hạo-nhiên lồng-lộng Nước trời, nhiều phấn-kích.

Bài đọc ngày lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, tập-trung tiếng hát vô song, huyền-nhiệm có Đức Chúa ở cùng, nhiều ân-sủng. Ân-sủng Chúa ban, đã giúp đỡ các ngài trở-thành đấng thánh trụ-cột duy-trì thánh Hội, rất nhiều thời.

Thánh Phêrô và Phaolô đều có điểm đặc biệt: vừa giống nhau lại vừa khác-biệt, rất chân-chất. Hai thánh giống nhau ở điểm: cả hai đều là người Do-thái nhiệt-thành, xuất chúng. Trong khi thánh Phêrô, xuất thân từ làng chài bình dị ở Galilê, học hành không nhiều nhưng cung-cách rất riêng tư, khi hành-xử. Còn thánh Phaolô, là vị thánh có quốc-tịch Rôma, từng xuất thân từ trường lớp rất La Mã, nhưng thuộc thế-giới Do-thái hạnh-đạo.

Thánh Phêrô từng dẫn dắt những người theo Chúa Giêsu, nên biết Ngài rất rõ. Còn thánh Phaolô chỉ gặp gỡ Ngài trong thoáng chốc trên đường đi Đa-mát nhưng lại thông-hiểu Chúa Sống lại, hơn ai hết. Thánh Phêrô là con người bồng-bột, giản-dị phạm nhiều sai sót. Trong khi thánh Phaolô thì tính-khí phức-tạp, không dễ gì làm hoà được với nhiều người.

Do có khác-biệt về tính-khí, nên hai thánh đã hiểu lầm, xung-đột và bất đồng chánh-kiến, rất nhiều lần. Tuy thế, các ngài vẫn luôn gắn bó tình mến-thương cùng một Thày Chí Thánh cả vào khi chấp-nhận cái chết cho lòng Đạo Thày răn dạy. Điểm son ấy, lại cũng xuất từ tính giản-đơn và kết-hiệp nơi Đức Kitô, Đấng thiếu vắng tính cao-siêu, phức-tạp. Nét đẹp sáng-tạo là do sự bất-đồng nhưng lại hài-hoà từ sự khác-biệt của các yếu-tố tạo-thành.

Gương lành dị-biệt giữa tín-hữu thời tiên-khởi và đặc biệt giữa thánh Phêrô và Phaolô là lời mời gọi Hội-thánh cũng như mỗi người trong ta hãy tôn-trọng sự đa-dạng nơi lập-trường/quan-điểm, sức bén nhạy và phong-phú nơi nét đặc sắc khác-biệt ấy.

Bài đọc 1, sách Công Vụ cho thấy bầu khí vui tươi ban đầu khi thánh Phêrô sử-dụng quyền-bính với đồ-đệ và người theo Chúa, sau ngày Ngài khuất vãn. Cộng-đoàn khi ấy đều đã kết-hiệp nguyện-cầu ở phòng kín, có cửa đóng then cài. Lúc ấy, duy chỉ mỗi thánh Phêrô vắng mặt vì bị giam-giữ. Nhưng rồi, thánh-nhân thoát ngục cách lạ kỳ như chuyện trinh-thám. Ra tù, là chuyện dễ. Nhưng vào với cộng-đoàn Hội-thánh lại không thế. Bởi, thánh Phêrô là loại người có cung-cách diệu-kỳ luôn thu hút mọi người cả những chuyện không đâu lẫn việc đón-nhận ân-huệ mới, giống con trẻ.

Bài đọc 2, diễn-lộ đoạn cuối công-trình hoạt-động của thánh Phaolô, khi ấy xem chừng cũng đã mỏi mệt, già đi với mộng ước thường có, tính-khí cũng phức-tạp bởi cứ than-phiền là mọi người như thánh Máccô và Barnaba hằng lánh thân để thánh-nhân lại một mình, trơ trọi. Nhưng niềm tin ngài có vào Đức Kitô vẫn không hề chuyển lay và thánh-nhân cũng duy-trì niềm tin sắt-son cho đến chết như thánh Phêrô.

Trình thuật thánh Mát-thêu đưa ta về lại với lời tuyên-tín của thánh Phêrô và sứ-vụ Chúa giao trong đó có trọng trách dẫn dắt thánh hội. Lời thánh Phêrô tuyên xưng là câu đáp-trả khi Đức Giêsu hỏi mãi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” một câu hỏi đượm tính mật-thiết đặt nặng lên từ-vựng “bảo”. Bảo đây, tức nói lên niềm-tin vào Thày mình là “Đức Kitô, Con Thiên-Chúa hằng sống.”

Niềm tin, thật ra không chỉ là động-thái nội tại nơi tâm can, cũng không chỉ là nhận-định mang tính thiêng-liêng, tinh thần. Nhưng vẫn cần nói ra bằng lời nói cũng như hành-động. Bằng ngôn-ngữ riêng-tư, bình dị, của chính ngài thánh Phêrô tuyên-xưng thiên-tính của Đức Giêsu, Thày mình.

Điều đó có nghĩa: Thày chính là Đấng Thiên-Sai. Là, Con Một của Thiên Chúa hằng sống. Và về sau, thánh-nhân còn tuyên-tín như thế cũng rất dài bằng những tháng ngày cuộc sống dẫn đến cả nỗi chết, cũng vì Thày. Tất cả, đều là sự nối dài, nới rộng của lời tuyên-tín rất đáng tin được thánh-nhân phát nên lời.

Hệt như thế, thánh Hội là cộng-đoàn gồm những người, những vị từng lĩnh-nhận thông-điệp về Đức Kitô nơi lời lẽ rất đáng tin của thánh Phêrô. Lời lẽ ấy, là cung-cách khiến thánh cả tuyên-xưng Thày mình đích-thị là Ai, Đấng nào.

Mỗi người chúng ta, là thành-viên cũng như cơ-phận của thánh Hội do Thày Giêsu đặt để, cũng phải biết đáp trả câu hỏi của Đức Giêsu Thày Chí Ái như thánh Phêrô từng làm. Nói bằng lời, là cung-cách giúp ta khẳng-định được niềm tin mình vẫn có xưa nay. Nói bằng lời hay hành-động, còn là chuyển-dịch những lời lẽ ấy vào cuộc sống biết phục-vụ người khác. Là, chuyển-ngữ Lời Chúa thành sự việc rất hiện-thực, trong đời mình.

Hôm nay đây, hai cột-trụ của thánh hội là thánh Phêrô, đại diện cho 12 vị đồ-đệ được Đức Giêsu mời gọi vào thời ấy, và cột-trụ kia là thánh Phaolô là đấng bậc đầu tiên đến với Chúa cũng khá trễ nhưng được gọi để trở thành nhân-chứng cho những gì Đức Giêsu từng làm.

Giống như hai thánh cả là cột-trụ của Hội thánh, mọi người chúng ta cũng được mời gọi ra đi tuyên-xưng và rao truyền Tin Mừng bằng cách sống thực Lời Lẽ của Ngài. Ra đi loan báo Tin Vui cho mọi người, bằng cung-cách sống-thực điều mình rao báo.

Nhưng, như thế vẫn chưa đủ. Ta còn được mời gọi rao truyền bằng lời lẽ, tuyên-xưng niềm tin mỗi ngày và mọi ngày trong đời mình ngang qua phụng-vụ và lời nguyện cầu, dâng lên Chúa. Ta làm nhiều hơn thế trong lời ca chúc tụng ngợi khen, ngang qua Đức Giêsu Kitô Con Một Thiên Chúa, là Chúa chúng ta. Nhiều vị, lại cũng được kêu mời bằng lời rao giảng, hoặc diễn-giải Lời của Chúa, rất hăng say.

Làm cách nào cũng là làm, nhưng điều quan-trọng là nối-kết lời lẽ mình diễn-giải hoặc rao truyền vào với cuộc sống đích-thực hằng ngày. Và, vào với hy-vọng rằng Đức Giêsu sẽ đáp-trả lời ta tuyên-xưng Ngài bằng cách cũng tuyên-dương cảm kích mối thịnh-tình của ta trước Thiên-Chúa-là-Cha Ngài.

Trong tinh-thần phấn-kích quyết tuyên-xưng, ta lại về với lời thơ những ngâm rằng:

“Ca những điệu ngọc vàng cao sang sảng,

Lời văng xa truyền nhiễm đến vô song.

Bầu hạo-nhiên lồng lộng một màu trong,

Không rung động bởi tơ huyền náo nức.”

(Hàn Mặc Tử – Ngoài Vũ Trụ)

Ca vang điệu ngọc cao sang sảng, lại cũng là và mãi mãi là tuyên-xưng niềm tin ta có với Chúa không chỉ bằng lời mà thôi. Nhưng, bằng cả cuộc đời hăng say, cảm-kích rất phấn-chấn được làm con và là đồ đệ của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, rất như thế. Mãi một đời.

Viện phụ Armand Vielleux, OCSO (Scourmont, Bỉ) trước tác.

Mai Tá lược dịch bản tiếng Anh

do Lm Kevin O’Shea CSsR dịch từ tiếng Pháp

“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi,”

“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi,”
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.”

(Trịnh Công Sơn – Một cõi đi về)

(Lc 9: 6tt)

Đặt đầu đề cho bài hát nghe quen như thế, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đâu có tả tình/tả cảnh cái cõi nào đâu mà gọi là “một cõi đi về”.  Có đi và về như thế, mới hát “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Cũng có thể, nghệ-sĩ nhà mình quá mệt mỏi nên cứ ngồi ở nhà mà nhìn mưa rơi, rồi lại hát:

“Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa.

Mưa bay trong ta, bay từng hạt nhỏ.

Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ.

Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.

Đường chạy vòng quanh một vòng tiều tụy.

Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa.

Từng lời tả dương là lời mộ địa.

Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe.

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thế đó, là ý-kiến của nhà thơ khi viết nhạc ở đời thường, có nhiều cõi cứ đi và cứ về. Thêm vào đây, là tư-tưởng của nhà Đạo ở chốn trên cao bên trời Tây xứ ấy, rất như sau:

“Trong thánh-lễ tại nhà nguyện Santa Maria sáng thứ Năm ngày 8 tháng 5, Đức Phanxicô đã trình-bày những suy tư của ngài trên bài trích sách Tông Đồ Công Vụ thuật chuyện ông Philípphê rao giảng Tin Mừng và rửa tội cho một viên thái giám.

Đức Thánh Cha giải thích rằng bất cứ Kitô-hữu nào muốn rao giảng Tin Mừng nên vâng phục ý chí và ân sủng của Thiên Chúa, cũng như mở cửa cho đối thoại.

Đức Giáo Hoàng lấy làm tiếc rằng đôi khi Bộ máy quan liêu trong Giáo hội là một trở ngại  cho những người muốn được gần gũi hơn với ân-sủng của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha nói: “Ông Phillípphê vâng phục, ông ngoan ngoãn và chấp nhận lời mời gọi của Chúa. Chắc chắn ông phải bỏ ngang nhiều thứ đang thực hiện dở dang, bởi vì các Tông Đồ trong khoảng thời gian đó đang rao giảng Tin Mừng rất bận rộn. Ông bỏ lại tất cả mọi thứ và lên đường. Và điều này làm cho chúng ta thấy rằng nếu không có sự vâng phục/hiền lành trước tiếng nói của Thiên Chúa không ai có thể rao giảng Tin Mừng, không ai có thể loan báo Chúa Giêsu Kitô: cùng lắm là chỉ loan báo về chính mình. Chính là Thiên Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta, chính là Thiên Chúa Đấng kêu gọi Phillípphê trên con đường đó. Và Phillípphê đã ra đi. Phillípphê ngoan ngoãn vâng lời.”

“Anh chị em không thể nào rao giảng Tin Mừng mà không đối thoại. Đó là điều không thể. Bởi vì chúng ta phải bắt đầu với xuất xứ của người đuợc Phúc Âm hoá. Điều này rất là quan trọng.” (x. www.tamlinhvaodoi.net, Tình trạng quan liêu của Giáo hội 15/5/2014)

Tư-tưởng và lập-trường của đấng-bậc ở trên cao nơi nhà Đạo thì như thế. Như thế, tức đã diễn tả những khía cạnh hân-hoan/vui mừng của sự việc Phúc-Âm-hoá, tức Tin Mừng. Tin Mừng với người nhà Đạo, là phổ-biến tin nói rằng “Thiên-Chúa-là-Tình-yêu” nay đang trải rộng khắp chốn miền có rao và có giảng. Đồng thời có cả đối-thoại với cả những người không ở trong Đạo.

Tin vui về Tình Thương-yêu, còn trải rộng bên ngoài nhà Đạo, tức nơi cuộc đời gồm đầy những thương-yêu đằm thắm rất thi-ca. Thế đó, là tình yêu-thương đôi lứa rất chí tình được diễn tả bằng lời thơ, nét nhạc đời như tâm-tình của người viết cũng rất thơ, như ở trang thư gửi người tình của mình:

“Đêm đã xuống dày và sương cũng đã bay vào cửa sổ. Lạnh lắm Ánh. Anh cố gắng buộc đời mình vào nỗi đơn độc này để còn Ánh. Trong cuộc sống với số – phần – vực – thẳm này vẫn còn hình – phạt – huyền – nhiệm đó để ru mình vào bình an. Anh không mong gì hơn, Ánh ơi. Ánh ơi.

Bình hoa hồng trước mặt anh có những cánh hoa đều đặn thật đẹp. Anh vẫn thường nghĩ đến hình ảnh một người con gái cầm nhánh hoa hồng buổi chiều đi trên hè phố một mình. Hè phố thì vắng. Hè phố dẫn về một giáo đường. Buổi chiều người con gái tay cầm nhánh hoa hồng, đầu cúi gặp trên hàng ghế gỗ nhà thờ, áo lụa trắng trải dài trên thân thể như một linh – thiêng. Anh ca tụng hình ảnh đó trong anh. Đôi lúc hình ảnh đó mang khuôn mặt của Ánh. Của Ánh. Của Ánh.” (Xem Trịnh Công Sơn, Thư Tình Gửi Một Người, nxb Trẻ 2013 tr. 40)

Ý thơ và giòng nhạc tình là như thế, cứ triển-nở nơi ca-từ anh viết vào hôm trước, ý-tứ vẫn  bảo rằng:

“Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ.
Một chiều ngồi say, một đời thật nhẹ ngày qua.
Vừa tàn mùa xuân, rồi tàn mùa hạ.
Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa.
Mây che trên đầu và nắng trên vai.
Đôi chân ta đi sông còn ở lại.
Con tim yêu thương vô tình chợt mỏi.
Lại thấy trong ta hiện bóng con người.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Mỏi lắm không, con tim yêu thương ấy? Mệt rồi ư, nhưng sao vẫn viết và hát, như sau:

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi.
Đi lên non cao đi về biển rộng.
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn.
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

À thì ra: “trong khi ta về lại nhớ ta đi…”, nhớ cả vào lúc “ôm đời ngủ muộn” để rồi “sớm mai đây lại tiếc xuân thì!” Tiếc hay không, nhà thơ vẫn biết đó là tiếc và thương một cõi đi về? Quan liêu hay cường điệu, phải chăng là trạng-huống của ai đó vẫn cứ sống và cứ giảng rao, nhưng chừng như đã nghe thấy ở đâu đó có ca từ của nghệ sĩ vẫn cứ hát: “đi đâu loanh quanh, cho đời mỏi mệt.”

Mỏi mệt ư? Thế thì, một đời giảng rao/rao giảng “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” cho muôn người có mệt và có mỏi không? Câu trả lời chắc chắn không thể nào có ngay ở đây bây giờ, được. Thế nên, bần đạo bày tôi đề-nghị ta cứ “loanh quanh” đây đó để tìm gặp các lập-trường ý-tưởng và tâm-thức của bà con anh em bầu bạn ở đâu đó, cũng rất lạ.

Trước hết là ý chính của Lời Vàng đấng thánh-hiền khi trước vẫn diễn tả:

“Sau khi thấy thị kiến đó,

lập tức chúng tôi tìm cách đi Makêđônia,

vì hiểu ra rằng

Thiên Chúa kêu gọi chúng tôi

loan báo Tin Mừng cho họ.”

(Cv 16: 10)

Và, ở một đoạn khác, bậc thánh-hiền lại cũng ghi:

“Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai lại,

ban cho các ông năng lực và quyền phép

để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật.2

Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa

và chữa lành bệnh nhân…

Các ông ra đi,

rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng

và chữa bệnh khắp nơi.”

(Lc 9: 6tt)

Thế đó là hiệu lệnh. Thế đấy, lại là thực-tế với thực-tại ở nhiều nơi vẫn như thế. Nhiều nơi, trên thế-giới, vẫn thấy vấn-đề là: thực-tế và thực-tại mà bạn và tôi, ta thấy có gì đáng ngại, và sự thể thực-tế nay ra sao?

Đây là vấn-đề không nhỏ, để tìm-hiểu. Nhưng, cứ từ từ rồi bạn và tôi, ta cũng sẽ tìm ra cung-cách để nắm bắt mối gút từng thắt chặt rồi lần ra được sự thể rất thực-tiễn khá thực-tình và cũng rất thực. Nói thực như thế rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào chốn rất thực ở ngay dưới.

Nhưng, trước khi đi vào chính-đề, tưởng cũng nên ngang qua một vài truyện kể khá lai rai đại loại cũng lễ-mễ để trích và dẫn. Thực ra, truyện kể ở bên dưới không phải để ta diễn tả lý-chứng của sự giận-dữ hay giận-hờn nào khác; nhưng, lại gián-tiếp nói về Tình-Yêu viết Hoa, chứ không chỉ tình đôi lứa, mà thôi. Thôi thì, ta cứ mời nhau nghe truyện kể vẫn nhủ rằng:

“Có vị hiền-triết nọ, một hôm lên tiếng hỏi các đệ-tử của ông, như sau:

-Tại sao trong cuộc đời, nhiều người cứ phải hét cho thật to vào mặt nhau?

Sau một hồi suy-nghĩ, một trong các đệ-tử của ông bèn trả lời:

-Thưa, là bởi vì người ta mất bình tĩnh,mất tự-chủ!

Nghe thế, vị hiền-triết không đồng ý lắm với câu trả lời như thế, nên lại hỏi:

-Nhưng, tại sao lại phải hét lên như vậy trong khi cả hai người đang ở cạnh nhau. Tại sao hai người không thể nói bằng âm-thanh vừa đủ cho nhau nghe, thôi?

Các đệ-tử lại ngẫm-nghĩ thêm phút chốc hầu trả lời thày mình, nhưng không ai có được lời giải-thích nào khả dĩ khiến vị thày của họ hài lòng hết. Cuối cùng, ông mới bảo:

-Khi hai người giận nhau, thì trái tim của họ không còn ở gần nhau nữa. Tự thâm-tâm, họ thấy giữa họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên nếu muốn nói cho nhau nghe, họ phải dùng hết sức bình sinh để hét lên cho thật to. Giận dữ càng lớn, thì khoảng cách càng xa và họ lại càng nói to hơn, để tiếng nói của họ bao trùm lên khoảng cách ấy.

Ngưng một lúc, rồi vị hiền-triết lại hỏi:

-Thế, còn khi hai người hai người yêu nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói rất nhỏ nhẹ thế nghĩa là làm sao? Nhỏ nhẹ, là bởi vì trái tim họ nay cận kề bên nhau. Khoảng cách giữa hai người, giờ rất nhỏ…

Nói thế rồi, vị hiền-triết lại tiếp tục:

-Khi hai người yêu nhau thật đậm sâu, thì cả hai không nói nữa mà chỉ thì thầm, vì đã ở gần bên nhau bằng tình yêu của họ. Cuối cùng, ngay cả tiếng thì thầm cũng không cần-thiết nữa, cả hai chỉ cần đưa mắt nhìn nhau, cũng đã đủ. Vì, ngang qua ánh mắt, họ đều đã biết đối phương nghĩ gì, muốn gì rồi… Khi các con bàn cãi với nhau về vấn đề gì đó như tình thân thương chẳng hạn, hãy giữ sao cho trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau nữa… Nếu không thì, một ngày nào đó khoảng cách ấy càn lúc càng nới rộng, càng xa cách và khi ấy các con sẽ không tìm ra con đường nào để quay trở về được nữa rồi…”

Truyện kể về tình thân thương/yêu mến rất ở trên, có thể áp-dụng vào nhiều trường-hợp. Cả những trường-hợp có quyết-tâm trải rộng tin vui mừng về “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” mà mọi người đều biết. Nhưng, vì một lý-do nào đó, lại đã không tiếp tay dàn trải cho người bị quên sót hoặc “mỏi mệt” vì cứ phải “đi loanh quanh” mãi bên lề cuộc đời.

Chẳng thế mà, nghệ-sĩ ngoài đời lại cứ hát mãi câu ca, trước, rằng:

“Trong khi ta về lại nhớ ta đi.
Đi lên non cao đi về biển rộng.
Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng.
Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn.
Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.”

(Trịnh Công Sơn – bđd)

Còn nhớ, có lần truyền-thông báo chí ở Úc lại đã thông-truyền về chuyện đấng bậc vị vọng nó có tên là Bob Maguire từng bảo: “Bạn sẽ không thể nào rao truyền Tin Mừng của Chúa được, nếu không đi ra bên ngoài mà làm cho đôi tay mình lấm bẩn một đôi chút…” Để diễn rộng ý của Lm Bob Maguire, cây viên có tên là Ray Cassin từng viết như thế này:

“Trong tông thư đầy khích-lệ mang tựa-đề là “Niềm Vui Rao Giảng Tin Mừng” Đức Phanxicô có nói: Tôi thích có một Giáo hội bị bầm-dập, đau mình mẩy và lấm bẩn vì từng có mặt ngoài phố chợ hơn là Giáo hội lành mạnh vì cứ giới hạn và bám riết vào chính sự an-toàn của mình…”

Lời của Đức Phanxicô có ý muốn đỡ nâng hàng giáo sĩ cũng như giáo-dân từng để thì giờ ra mà ở giữa những kẻ bị bầm-dập, xúc phạm và lam lũ bẩn thỉu vẫn lớn lên trong giới lao-động thợ thuyền hơn là cứ ngồi ở nơi chốn ổn-định rồi hướng-dẫn/khuyến-khích người khác như giới chức ở giáo-triều. Trong số các đấng bậc hoạt động rất nhiệt-tình ở Úc, có linh mục được biết đến rất nhiều là Lm Bob Maguire.

Lm Bob Maguire không còn là mục-tử dẫn dắt họ đạo thánh Phêrô và Phaolô ở Melbourne nữa, mà chỉ là linh mục đi đứng nhiều hơn là ngồi một chỗ, trong giáo xứ. Ngang qua tổ-chức có tên gọi là “Father Bob Maguire Foundation”, vị linh mục đầy nhiệt-huyết này vẫn tiếp-tục hoạt-động tông-đồ chung đụng với người nghèo khó, vô gia-cư và giới xì-ke ma-tuý đã biến ông trở-thành người nổi tiếng trong giới truyền-thông đại-chúng. Và mới đây, ông còn xuất hiện với tư-cách là ngôi sao điện-ảnh trong bộ phim tài-liệu của Lynn Maree Milburn được ca-tụng rất nhiều là phim “In Bob We Trust”…

Có lần, người thưởng lãm từng tìm-hiểu xem: sau khi không còn là linh mục chánh-xứ nữa, ông sống ra sao? Ông có suy-nghĩ gì khác lạ về Giáo hội và nhất là loại-hình mục-vụ theo kiểu ông đeo đuổi không? Thì được ông cho biết: “Quí vị biết đấy. Đã có lúc tôi giống như đám trẻ mồ-côi bị người khác lấy đi căn-tính/lý-lịch của mình ngay từ nơi mà tôi coi như thánh-địa của mình. Gọi như thế, là vì đó là nơi tôi từng đổ mồ hôi sôi nước mắt do không chỉ mình tôi mà cả các giáo-dân ở nơi đó đã đầu-tư tạo dựng nên. Quả thực, nó là như thế đó.  Nếu nói bằng ngôn ngữ của Công Đồng Vaticăng thứ 2 thì điều đó có thể gọi là “văn-hoá nhập-nội” . Và, thực sự thì: ta không thể nào rao truyền Tin Mừng của Chúa được, nếu không có thứ văn-hoá nhập-nội ấy.”

Bằng vào sự đổi thay văn hoá của pháo-đài trung-ương, thì một khi đã đi vào nền văn-hoá nhập-nội như thế rồi, ta sẽ được coi như đang áp-dụng thứ văn-hoá của Đức Phanxicô Bergoglio. Và khi đó, ta sẽ biến nhà xứ không chỉ thành mỗi chốn miền để nuôi dưỡng người nghèo mà thôi, nhưng còn trở-thành mái ấm tình-thương giống như kiểu của Dorothy Day đang thực-hiện ở bên Mỹ.

Ý của Lm Bob Maguire là: chủ-trương của Công Đồng Vaticăng 2 kéo dài bằng việc mở rộng lòng ra với nhân-loại mà ông coi có là thành-quả của Công đồng này. Ông tin rằng thành-quả ấy đã bị những vị chủ-trương “xét lại” đánh phá dữ dội nên đã để luột mất, nhưng nay lại được Đức Phanxicô đang tìm cách tái-tạo tinh-thần của một Vatican thứ 2 đấy thôi.” (xem Ray Cassin, The Do-It-Yourself Catholic, Australian Catholics số Summer edition năm 2014, tr. 22-23)

Nói đi thì lại nói lại, chuyện phiếm Đạo/đời mà lại nói chuyện Đạo nhiều hơn đời e cũng khó. Khó nuốt trôi, khi những người quan-tâm đến chuyện đạo hay chuyện của Giáo-hội vẫn là những vị còn nằm trong guồng máy của Giáo-hội vì nhiều thứ. Có một thứ nên làm nếu muốn nói đến và nói về “Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu” là cứ nói nhiều về tình-yêu nhưng không theo lối biện-luận hoặc cãi cọ, mà theo cung-cách của truyện kể rất dân gian.

Nếu thế thì, mời bạn và mời tôi, ta cứ thế mà “tự-nhiên như người Hà-Nội” của cha ông tôi, đừng khách sáo. Nay, hãy đi vào vườn truyện kể mà kể cho nhau nghe những chuyện rằng:

“Hôm ấy, trong buổi học, cô giáo dặn các em học sinh là: ngày mai, mỗi người hãy mang theo một dụng-cụ bảo-vệ sức-khoẻ. Hôm sau, cô gọi một em có tên là Cu Tý, mà hỏi:

-Tí à, hôm nay em đem gì vậy?

-Dạ, em đem băng gạt để băng bó vết thương, khi bị nạn.

-Giỏi! Thế còn Tèo thì sao?

-Dạ, em đem Oxy già để rửa vết thương, nếu có bị.

-Tốt! Còn bé Tũn đem gì?

-Dạ thưa cô, em đem bình Oxy!

-Em lấy của ai vậy?

-Dạ, em lấy của Bà em đấy cô!

-Thế lúc em đem đi Bà của em có nói gì không?

-Dạ không! Bà chỉ thở dài rồi phều-phào bảo: Không…được…đem…nó..đi…

-Thế thì em làm sao?

-Dạ, thì cô bảo em đem đi rồi sẽ đem về cũng được.

-Không được! Lập tức em phải đem về cho Bà thở chứ!!!

Còn bé Lan đem gì thế?

-Dạ, em đem theo nụ cười!

-Sao lại thế? Nụ cười thì ai chả có, đem đến đây làm gì?

-Thưa cô, em nghĩ: chỉ có nụ cười mới giải quyết được mọi sự, cả yêu thương lẫn sức khoẻ”.

(truyện kể như của người lớn chế, nhưng đâu sao)

Vâng. Truyện kể, do ai kể mà chả được. Miễn, nó đáp-ứng được nhu-cầu của người nghe, và cả người kể nữa. Vâng. Đúng là như thế. Bởi lẽ, trong quá-trình kể lể những chuyện khá “phiếm” như thế này, thì: truyện kể vẫn cần hơn chuyện biện-luận này khác, dù về Đạo.

Nghĩ thế nên, bần đạo bầy tôi đây hẹn sẽ còn kể lai rai dài dài, nhiều chuyện phiếm, cũng rất “phiếm”, chỉ để vui trong sống Đạo giữa cuộc đời có quá nhiều thứ thiếu vui, như con người. Chí ít, là người đi Đạo và giữ Đạo, nhưng không sống thực một đời người rất có Đạo. Đạo làm người và sống với mọi người trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Có viết nhiều viết ít

Những chuyện phiếm Đạo đời,

Cũng chỉ để cho vui.

Mà thôi.

Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra

Việt Nam lún sâu vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-20

namnguyen06202014.mp3

nguyen-phu-trong-305.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

AFP

Quan điểm khác biệt

Tình hình biển Đông càng nóng hơn sau các cuộc gặp gỡ của ông Dương Khiết Trì Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh. Báo chí trong ngoài nước cho là hai bên giữ nguyên quan điểm khác biệt trong vụ giàn khoan, hay nói cách khác đó là cuộc đối thoại giữa hai người điếc.

TS Phạm Chí Dũng, nhà bình luận độc lập từ Saigon nhận định:

“Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau. Nếu gọi Việt Nam là kẻ khiếm thính thì Trung Quốc còn có thể đóng trai trò một người câm nữa. Tại vì cho tới ngày hôm nay thì thêm một giàn khoan nữa đã được kéo vào biển Đông Việt Nam đó là giàn khoan Nam Hải 9 và tôi cho là hiện nay ở biển Đông Việt Nam có tới ba giàn khoan. Thứ nhất là Hải Dương 981 thứ hai là Nam Hải 9 và còn một giàn khoan sống đi bằng hai chân mang tên là Dương Khiết Trì tại Hà Nội nữa.”

Tôi cho là đó là cuộc nói chuyện giữa hai người khiếm thính thì đúng hơn, họ nói họ nghe nhưng họ không hiểu nhau và có vẻ như họ cố tình không hiểu nhau.
-TS Phạm Chí Dũng

Theo báo chí tường thuật, hai ông Phạm Bình Minh và Dương Khiết Trì gọi nhau là đồng chí và luôn cùng sử dụng nhóm từ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đảng luôn luôn đứng đầu khi hai ông nêu các quan điểm về vấn đề biển Đông. Có vẻ ý thức hệ Cộng sản vẫn chi phối quan hệ Việt Trung rất sâu đậm. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa ở Hà Nội nhận xét:

“Trong quan hệ quốc tế bình thường giữa hai quốc gia, khi xưng hô, người ta sẽ gọi là ông, là ngài, là tôi chứ không thể có chuyện cho đến thời điểm này, cứ gọi nhau là đồng chí như thể ý thức hệ lệ thuộc hay mình là đàn em phải nịnh người ta không bằng. Nó cho thấy kiểu xưng hô khiếp nhược.”

Từng là Đảng viên Đảng Cộng sản cho tới khi xin ra khỏi Đảng hồi gần đây, TS Phạm Chí Dũng có cách nhìn riêng về sự ràng buộc ý thức hệ Việt Nam-Trung Quốc. Theo lời ông, đó là một sự bế tắc cả về mặt xưng hô lẫn từ vựng cũng như văn hóa giữa hai quốc gia. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

000_Hkg9950036-250.jpg

Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh (phải) tiếp Ủy viên Quốc vụ viện TQ Dương Khiết Trì tại nhà khách chính phủ ở Hà Nội ngày 18 tháng 6 năm 2014. AFP PHOTO / POOL / LƯƠNG THÁI LINH.

“Nếu tính từ năm 1950 trở lại đây, có thể nói hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc đã từng bế tắc nhiều lần và cứ mỗi lần bế tắc như vậy thì họ lại thay đổi cách xưng hô, đặc biệt từ đồng chí hay là 4 tốt 16 chữ vàng hay là tất cả những từ tương tự như vậy, đều đại diện cho một sự bất nhất mà họ có thể dùng bất cứ lúc nào, nhưng đồng thời cũng phản ánh cho sự trả giá trong nội bộ của họ.

Tôi muốn nói đây là nội bộ giữa Hà Nội và Bắc Kinh vì đồng chí với nhau nhưng không bao giờ là tốt cả. Và khi người ta dùng từ đồng chí thì có thể hiểu người ta đang phê phán nhau, như là truyền thống ở trong các cuộc họp chi bộ. Còn khi người dùng từ anh em thì có thể hiểu là còn có một chút tinh thần môi răng. Nhưng khi ông Phạm Bình Minh dùng từ đồng chí với người Trung Quốc, thì tôi nghĩ là không báo trước một điềm lành gì cả mà điều đó chắc chắn là sẽ dẫn tới những hiểm họa khác và sẽ kéo dài hơn trong thời gian tới. Tóm lại cuộc gặp này không mang lại một kết quả gì khả quan, tốt đẹp hơn mà chỉ làm cho Bộ Chính trị Hà Nội lún sâu hơn vào bãi lầy do Trung Quốc tạo ra.”

Người dân thất vọng?

Trong lúc ông Dương Khiết Trì đang có mặt tại Hà Nội, một tiếng nói đơn độc cất lên từ Quốc hội Việt Nam đề nghị ra nghị quyết về biển Đông. Theo VnExpress và VnEconomy bản tin trên mạng ngày 19/6/2014, Đại biểu TP.HCM Luật sư Trương Trọng Nghĩa nói rằng, nếu lần này Quốc hội không có tuyên bố chính thức hay nghị quyết về biển Đông thì chắc chắn nhân dân rất thất vọng. Được biết Quốc hội Việt Nam chỉ còn 3 ngày làm việc trước khi bế mạc kỳ họp thứ 7 nhưng hoàn toàn không có mục nào dành cho biển Đông.

Đối với sự kiện vừa nêu TS Phạm Chí Dũng nhận định rằng, Quốc hội Việt Nam không có vai trò trong các quyết định quan trọng của quốc gia. Quốc hội được coi là sân sau của Bộ Chính trị và luôn luôn chờ chỉ đạo của Bộ Chính trị. Năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói Cương lĩnh Đảng cao hơn Hiến Pháp! TS Phạm Chí Dũng phát biểu:

Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này.
-TS Phạm Chí Dũng

“Tôi hoàn toàn không ngạc nhiên về tỷ lệ 1/499 Đại biểu Quốc hội đưa ra vấn đề nghị quyết biển Đông vào thời điểm này. Khi mà cuối năm 2013 chỉ có hai người bỏ phiếu không đồng thuận với bản Hiến pháp được sửa đổi. Chúng ta có thấy được là một bản Hiến pháp lạc hậu phản ánh ngược chiều với quyền lợi của nhân dân lại được thông qua với tỷ lệ cao đến áp đảo như thế. Do vậy hoàn toàn không ngạc nhiên khi chỉ có mình ông Trương Trọng Nghĩa đưa ra vấn đề này.”

Khi trả lời báo chí vào sáng 19/6 bên hành lang Quốc hội, theo VnExpress LS Trương Trọng Nghĩa nói rằng, qua Nghị quyết biển Đông Quốc hội phải vạch rõ âm mưu độc chiếm biển Đông, kiểm soát biển Đông của Trung Quốc. Vấn đề không chỉ là một cái giàn khoan, không chỉ là dầu khí. Quốc hội Việt Nam cần tuyên bố với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới lập trường chính nghĩa của Việt Nam. Lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, âm mưu của Bắc Kinh mà LS Trương Trọng Nghĩa mô tả là: “vừa đấm vừa xoa, vừa đánh vừa đàm, vừa ăn cướp vừa la làng.”

000_Hkg9950512-600.jpg

Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng (P) tiếp Ủy viên Quốc vụ Viện Trung Quốc Dương Khiết Trì tại Hà Nội hôm 18/6/2014

Vẫn theo LS Trương Trọng Nghĩa, Quốc hội cần lên án hành vi của Trung Quốc đã đi ngược lại tất cả những gì nước này cam kết và thỏa thuận với Việt Nam cũng như các nước ASEAN. Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực và kéo giàn khoan phi pháp vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.

Trao đổi với chúng tôi,  Nhà giáo Đỗ Việt Khoa từ Hà Nội nhận định là Trung Quốc vừa ăn cướp vừa la làng, nhưng tuyên truyền có hệ thống nên ngay cả người dân Trung Quốc cũng tin rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của họ. Ngược lại ở Việt Nam những năm qua rất nhiều blogger, nhà báo bị bắt giam, truy tố hay trù dập vì dám nói lên sự thật, Trung Quốc xảo trá cướp đất, cướp biển của Việt Nam. Theo nhà giáo Đỗ Việt Khoa, trước năm 1975 miền Bắc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sai lầm khi có một số văn kiện công nhận chủ quyền Trung Quốc về Hoàng Sa Trường Sa, lúc ấy miền Bắc cho là đất nằm trong tay địch thì Trung Quốc chiếm cũng tốt. Nhà giáo Đỗ Việt Khoa tiếp lời:

“Chúng tôi thế hệ bây giờ cho rằng miền Bắc miền Nam anh em một nhà đánh nhau để cho hàng xóm nó cướp đất. Miền Bắc im lặng thậm chí cổ vũ cho thằng hàng xóm ăn cướp đó thì anh có tội với dân tộc. Nói thẳng ra những người ký văn bản đó là có tội với quốc gia dân tộc, lịch sử sẽ phán xét họ. Tuy nhiên xét về tài liệu cũng như các lý luận khác thì chúng ta có thể khẳng định rằng, từ hàng nghìn năm nay, các văn bản của các triều đại, các chính quyền, chưa bao giờ Hoàng Sa Trường Sa biển Đông lại thuộc về Trung Quốc cả. Họ luôn khẳng định đó là của Việt Nam.”

Sau hội nghị Việt Trung 18-19/6 tại Hà Nội, tất cả báo chí do Nhà nước quản lý đều chạy tít lớn dựa theo phát biểu của các nhà lãnh đạo Việt Nam: “Lập trường của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa: Không thay đổi và không thể thay đổi.” Báo chí hiện nay được phép đưa nhiều tin bài với lập luận mạnh mẽ, như phải thoát lệ thuộc Trung Quốc, phản kháng Trung Quốc xâm chiếm biển đảo. Đây là sự kiện đáng ngạc nhiên vì nhiều blogger hiện vẫn đang ngồi tù vì những bài viết trước đây với các nội dung tương tự. Phải chăng chính quyền Việt Nam cởi mở hơn với báo chí, trong khi Đảng và Chính phủ lại vẫn mong muốn cầu hòa với Trung Quốc. TS Phạm Chí Dũng nhận định:

“Tôi cho là không hẳn là vũ khí mà là công cụ hỗ trợ được nhà nước Việt Nam đang dùng đến. Thứ nhất vì tinh thần không thể chủ chiến của họ và thứ hai như người ta nói, không cẩn thận thì Việt Nam sẽ đi bằng đầu gối. Đó là chính sách ngoại giao đầu gối mà một số nước phương tây đã phải dùng để phê phán Việt Nam cho một hành động mà họ gọi là khó có thể nhu nhược hơn.”

Biển Đông sẽ đi về đâu sau cuộc hội đàm Việt Trung không mang lại kết quả. Ngay trong khi Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì còn đang có mặt ở Hà Nội thì Trung Quốc đã đẩy mạnh hơn điều gọi là phép thử giàn khoan. Trung Quốc đã tăng cường một giàn khoan mới trên vùng biển gần Việt Nam và có khả năng được đưa vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra Bắc Kinh còn loan báo cấp quyền sử dụng đất cho người Hoa tại quần đảo Hoàng Sa và tất cả các đảo bãi đá ở Trường Sa mà Trung Quốc lấn chiếm bằng vũ lực của Việt Nam. Những dự báo về vấn đề này hoàn toàn không sáng sủa cho chính quyền và người dân Việt Nam.

Một Chút Tình Riêng Về Miền Sơn Cước

Một Chút Tình Riêng Về Miền Sơn Cước

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Chẳng hiểu em nói cái gì
nhìn môi một cụm xuân thì cũng thương
em xinh như đóa hướng dương
mọc hoang theo lối về buôn bản nghèo

‘H ‘ Na Cô Gái Tây Nguyên’

Tác giả những câu thơ vừa dẫn, thi sĩ Phan Ni Tấn, là một người vô cùng may mắn. Vô số kẻ đã đến miền sơn cước nhưng có lẽ chỉ riêng mình thằng chả là có mối duyên tình với nàng sơn nữ (”xinh như một đóa hướng dương”) dù rằng hai bên  – hoàn toàn và tuyệt đối – bất đồng ngôn ngữ.

Tôi biết một nhân vật khác, cũng lặn lội lên đến cao nguyên, và đến nơi rất sớm nhưng không có cái diễm phúc tương tự. Ðó là nhạc sĩ Văn Trí, người viết bản Hoài thu – vào năm 1951.

Ðà Lạt (ở thời điểm này) theo như lời mô tả của tác giả là một nơi “núi rừng thâm xuyên,” với những “bầy nai ngơ ngác, lá vàng rơi đầy miên man,” và… chấm hết! Tuyệt nhiên, không hề thấy bóng dáng bất cứ một cô sơn nữ nào (hết trơn hết trọi) kể cả những cô mà nhan sắc chỉ ở mức trung bình – hoặc dưới trung bình chút xíu – cũng không.

Tôi ra đời sau tác phẩm Hoài thu, và dưới một ngôi sao (vô cùng) xấu. Dù sinh trưởng ở miền sơn cước, tôi chưa bao giờ có hân hạnh được trao (và nhận) những lời yêu thương đến cô gái H’ Na – như Phan Ni Tấn. Tương tư suông, nghĩa là yêu đơn phương, cũng miễn có luôn.

Tôi cũng không được cái vinh dự nhìn thấy nét man dại, trinh nguyên của một vùng đất mới như ông Văn Trí. Sự hoang dã của cao nguyên Lâm Viên, đối với những kẻ sinh sau đẻ muộn như tôi (có chăng) chỉ là dư âm – qua những câu chuyện kể, đại khái như:

“Hồi đó, ở Ðà Lạt, cọp thiếu mẹ gì. Nhiều bữa, con nít đang lơn tơn đến trường bỗng thấy mấy ông cọp bự nằm chơi phơi nắng. Vậy là đám lật đật nín thở, nhè nhẹ quay lưng, và chầm chậm… đi về.”

Khoẻ!

Sự gần gũi (giữa cọp và người) như thế – tiếc thay – không kéo dài luôn, và cũng không kéo dài lâu. Trong những tháng ngày thơ ấu, mỗi sáng đi học, tôi đều cầu nguyện và van xin (Phật, Chúa,Thánh, Thần…) để được nhìn thấy vài ông cọp bự – cũng đang ngồi chơi phơi nắng, giữa đường – như “những ngày xưa thân ái” đó.

Dù tôi hết sức chí tình, sự khẩn cầu này – than ơi – chưa bao giờ ứng nghiệm. Lòng tin của tôi vào các đấng thiêng liêng giảm sút (không ngừng) kể từ thưở ấy.

Khi tôi được “bế” lên Ðà Lạt, vào giữa thập niên 1950, thành phố này đã bị đô thị hóa.Voi, cọp, heo, beo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, chồn… không còn chung sống với người. Người Thượng (nói chung) và những cô sơn nữ (nói riêng) cũng không mấy khi xuất hiện trên đường phố. Họ ở cách xa, nơi những bản làng heo hút.

Văn hóa miền núi, tất nhiên, có nhiều nét dị biệt với miền xuôi; do đó, khi giao tiếp (đôi lúc) giữa người Thượng và người Kinh đã có những hiểu lầm – vô cùng đáng tiếc!

Thuở ấu thơ, tôi đã có lần chứng kiến cảnh một chàng thanh niên từ miền sơn cước xuống chợ miền xuôi, và bị “tiếng sét ái tình” với một cô gái bán hàng. Chàng đứng ngẩn ngơ, chân không thể bước. Trước tình huống đó, có người buột miệng nói đùa:

– Người Kinh không có “bắt chồng” như người Thượng đâu. Muốn “bắt vợ” thì tuần trăng sau phải mang hai con trâu tới đây mới được.

Chàng trai miền núi mừng rỡ gật đầu, hăm hở quay về. Không hiểu phải qua bao nhiêu đường đất, và gặp bao nhiêu khó khăn ở thôn bản của mình nhưng đúng hẹn chàng trở lại. Nhác trông thấy người xưa – dắt theo hai con trâu, như giao ước – cô gái vội vàng bỏ trốn!

Chờ hoài không thấy cố nhân, chàng thẫn thờ (mãi) rồi lặng lẽ dắt trâu đi. Một chuyện tình buồn thảm thiết như thế mà khi kể xong vẫn có người cười. Nói thiệt: sao tôi cười… không nổi! Cách đùa cợt đó, ngay từ khi còn bé, tôi đã cảm thấy có cái gì rất là không ổn. Sau này, lúc đã cắp sách đến trường, cũng đã có lần tôi suýt khóc khi đọc một câu thơ trào phúng :

Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe!

Tú Xương sinh năm 1870 và mất năm 1907. Câu thơ (thượng dẫn) có thể được viết từ cuối thế kỷ XIX. Vào thời điểm này, khi mà mọi phương tiện truyền thông và giao thông đều vô cùng giới hạn nên cách nhìn lệch lạc của thi sĩ về một người đồng bào miền núi – tôi cố nghĩ – có thể thông cảm được.

Đến đầu thế kỷ XXI, theo bài viết về “Mọi” của Duy Ngọc (đọc được trên talawas, vào hôm 13/07/2009) thì tình cảm của người Việt đối với “những đồng bào thuộc sắc tộc ít người’ (hoàn toàn) không có gì thay đổi: “Thử lên Tây Nguyên sống vài tháng sẽ thấy cái nhìn kỳ thị như thế trong rất nhiều người Kinh đối với các cộng đồng người dân tộc thiểu số vẫn còn nặng nề như thế nào.”

Khỏi phải “thử lên Tây Nguyên sống vài tháng” làm chi, cho má nó khi. Cứ ngồi nhà google vài chữ – “thằng mọi, thằng mán, thằng mường” – là sẽ tìm được vô số định kiến vô cùng đáng tiếc. Tự thâm tâm, có lẽ, những người thuộc dân tộc Kinh ở Việt Nam chưa bao giờ coi đồng bào Thượng là đồng bào (thiệt).

Tòng Thị Phóng (khi còn là Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Dân vận Trung ương) cũng đãlớn tiếng kêu gọi:

Quan tâm đặc biệt đến vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến trước đây; tăng cường cơ sở khám bệnh, cán bộ y tế cho các xã, thôn ấp, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc thiểu số; khuyến khích trồng và sử dụng các loại thuốc dân gian; từng bước ngăn chận tình trạng suy giảm dân số, suy giảm đời sống của một số dân tộc thiểu số.”

Bà Phóng (cũng) nói cho nó đã miệng vậy thôi chớ sáu năm sau, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới thì “các sắc dân thiểu số ở Việt Nam có tỉ lệ người nghèo cao hơn 5 lần tỉ lệ của người Kinh.”

Và người Kinh, ở miền xuôi, không ít kẻ đang sống (và chết) dở. Nói chi đến những sắc dân ở những miền núi xa xôi. Cạch đây chưa lâu báo Tiền Phong (buồn bã) loan tin: “THPT Đinh Tiên Hoàng nằm sâu trong hẻm núi xã Sơn Dung, huyện Sơn Tây, nơi phần lớn là người dân tộc K’dong sinh sống, cách thành phố Quảng Ngãi hơn 100 km, không có học sinh nào đậu tốt nghiệp trong kỳ thi vừa qua.”

Nguyên do, theo lời của thầy hiêu trưởng Nguyễn Hải Thịnh: “Đây là hệ quả tất yếu của một hệ thống đào tạo có chất lượng thấp.” Nói cách khác là “gạo nào cơm nấy,” thế thôi.

Còn ông Phạm Tấn Hoàng, chủ tịch UBND huyện, cho biết thêm: “Sơn Tây có 6/6 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, tỉ lệ nghèo đói còn 78% trên tổng số 3.706 hộ. Do địa bàn cách trở giao thông, điều kiện kinh tế học sinh khó khăn, nơi ăn ở cho học sinh chưa có nên các em không an tâm học tập.”

An tâm gì nổi, hả Trời! Đời sống có những ưu tiên sắp sẵn: ăn – mặc, ăn – học. Cơm áo lo chưa xong, nói chi đến học – mấy cha?

Theo tường trình của Ủy ban Dân tộc thì ”người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu chỉ  còn lại… vài trăm!” Nhà văn Nguyên Ngọc, trong bài “Phát triển bền vững ở Tây Nguyên” (đọc được ở diendan.org, ngày 20 tháng 8 năm 2008) cho biết thêm: “Người Châu ở trong thung lũng Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80…”

Ngoài bờ biển phía Đông ra, phần biên giới còn lại của Việt Nam đều là nơi cư ngụ của những dân tộc thiểu số tự ngàn xưa. Với cuộc sống đơn giản và hài hoà với thiên nhiên, họ đã giữ cho môi trường sinh thái được quân bằng và tạo một “vòng đai xanh” cho cả nước.  Cũng chính họ là những tuyến đầu, và là vòng đai an ninh cho tố quốc. Cớ sao toàn Đảng (cũng như toàn dân) tỏ thái độ khinh thị, và cương quyết tìm mọi cách đẩy họ đến bước đường cùng như thế?

“Khi bọn bành trướng Bắc Kinh tràn sang hồi năm 1979, một bộ phận không nhỏ dân tộc thiểu số, sống ở vùng biên giới, đã đồng loạt ngả theo, làm tay sai cho ngoại bang. Ðó chính là hậu quả của chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” (Lý Hồng Xuân. Nhận diện chân dung nhà văn. Văn Nghệ: California 2000,177).

“Bọn bành trướng Bắc Kinh” (xem chừng) đang sắp sửa muốn tràn sang lần nữa, và “những chính sách sai lầm trong lãnh vực sắc tộc” thì mỗi lúc lại càng tệ hại hơn!

Tưởng Năng Tiến