NHẮC CON-MộcAnNhiên

Gieo Mầm Ơn Gọi

Mình chỉ là hạt bụi

Giữa nhân sinh vô thường

Thế gian thì rộng lớn

Hãy khiêm nhường nha con!

 

Con làm nhiều một chút

Nói ít đi một lời

Những lúc lòng mỏi mệt

Đừng viết điều không vui.

 

Hãy nghĩ suy tích cực

Nhìn theo hướng thiện lành

Đang ở cơn tức giận

Đừng trút lời si – sân.

 

Người ta chê hãy ngẫm

Người ta khen tự nhìn

Đừng vội vàng ngộ nhận

Tưởng mình là “siêu linh”.

 

Mẹ đi qua cuộc sống

Trải nghiệm lắm sự đời

Nhắc con luôn điềm tĩnh

Để trưởng thành con ơi!

 

MộcAnNhiên


 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

7 BÀI HỌC ĐỂ TỈNH NGỘ TRONG CUỘC ĐỜI

  1. Bất hiếu với cha mẹ: Thờ cúng vô ích

Bạn có thể thắp hàng trăm nén nhang, làm bao nhiêu mâm cỗ cúng tổ tiên, nhưng nếu không sống trọn tình trọn nghĩa với cha mẹ khi họ còn sống, tất cả chỉ là vô nghĩa. Đừng đợi đến khi cha mẹ nằm xuống, rồi mới tỏ lòng hiếu kính. Khi đó, mọi thứ chỉ còn là hư ảo.

  1. Anh em bất hòa: Bạn bè nhiều vô ích

Bạn có bao nhiêu bạn bè đi nữa, nhưng anh em trong nhà không hòa thuận, thì những mối quan hệ bên ngoài cũng chẳng giúp ích được gì. Máu mủ ruột rà, đó mới là chỗ dựa thật sự trong những lúc khó khăn. Đừng để khoảng cách trở nên quá xa giữa anh em mình.

  1. Tâm còn chưa thiện: Phong thủy vô ích

Dù bạn có đặt bao nhiêu linh vật phong thủy, sửa sang nhà cửa thế nào, nhưng nếu tâm bạn chưa thiện, chưa tử tế với người khác, thì mọi sự may mắn cũng không đến. Sống tử tế, chân thành là cách tốt nhất để tạo ra phong thủy cho chính mình.

  1. Làm việc bất chính: Đọc sách vô ích

Bạn có đọc bao nhiêu sách, học bao nhiêu điều hay lẽ phải, nhưng nếu vẫn làm những việc bất chính, lừa gạt người khác, tất cả chỉ là vô nghĩa. Tri thức chỉ có giá trị khi đi đôi với hành động chính trực.

  1. Bỏ mặc người thân: Từ thiện vô ích

Bạn có thể quyên góp bao nhiêu tiền, làm bao nhiêu việc thiện, nhưng nếu không chăm lo cho gia đình, người thân cận, thì từ thiện cũng trở thành vô nghĩa. Làm từ thiện không chỉ là cho đi tiền bạc, mà còn là sự chăm sóc, quan tâm đến những người gần gũi nhất với mình.

  1. Không giữ nguyên khí: Thuốc bổ vô ích

Bạn uống bao nhiêu thuốc bổ, chăm sóc sức khỏe thế nào đi nữa, nhưng nếu không giữ gìn nguyên khí – sức khỏe tinh thần và thể chất, thì cũng vô dụng. Cuộc sống không phải chỉ có cơ thể khỏe mạnh, mà còn là tinh thần và sự cân bằng nội tại.

  1. Thời vận không thông: Mưu cầu vô ích

Đôi khi, mọi sự cố gắng và mưu cầu trong cuộc sống đều không mang lại kết quả, vì thời vận chưa đến. Khi đó, hãy biết chờ đợi, kiên nhẫn và không cưỡng cầu. Đôi khi, buông bỏ lại là cách nhanh nhất để nhận lại.

#kinhdoanhonline  #kinhdoanh #modung

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

TRÁI TIM-Song Như.

Kimtrong Lam

Ai cũng có một trái tim

Trái tim chưa bao giờ nằm im

Vì công việc được phân phó

từ 70 đến 190 nhịp đập theo nhu cầu …

.

Ai cũng có một trái tim

Làm việc không tỵ hiềm

Chưa bao giờ ngừng vài phút

Mệt cũng không dám nghỉ …

.

Ai cũng có một trái tim

Rất yêu thương chủ thể

Lưu thông máu và oxy toàn thân

Tim chưa bao giờ than mệt…

.

Nếu yêu thương tim mình

Bạn có dám hy sinh

Cho tim một ngày nghỉ

Cho đậm đà thâm tình…!!!

.

Làm việc 24 giờ

Tuyệt tác của tình thơ

Thương tim ăn ít muối

Nếu không tim sụi lơ…

.

Ai nói tim vô cảm

Tim nhạy lắm bạn ơi

Nơi nào cần chuyển máu

Nhiều ít làm không lời…

.

Nếu tim buồn nghỉ chơi

Chủ thể sẽ tiêu đời

Toàn châu thân oằn oại

Ra đi không một lời…

.

Nếu tim bỏ ta đi

Trở về với cát bụi

Đời ta có là chỉ

Chỉ đau thương ngậm ngùi…

.

Liverpool.22-10-2024.

Song Như.


 

Bàn với ChatGPT về khái niệm “Con Người” và “quyền tư hữu” của con người

Ba’o Tieng Dan

Nghiêm Huấn Từ

22-10-2024

Người đối thoại: Xin hỏi ChatGPT, câu nói “Tư hữu là một quyền cơ bản của Con Người”. Có nghĩa là, đứng trước “Con Người”, “con vật” không còn quyền tư hữu nữa?

ChatGPT: Câu hỏi về quyền tư hữu và ai có quyền này thuộc lĩnh vực triết, luật và đạo đức. Dưới đây là một số điểm chính liên quan đến quyền tư hữu:

1) Quyền tư hữu của con người thường được coi là một quyền cơ bản, được con người tự ý ghi nhận trong nhiều tài liệu pháp lý và tuyên ngôn nhân quyền.

2) Đối tượng không có quyền tư hữu là giới động vật. Theo pháp luật và đạo đức thông thường, động vật bị coi là tài sản của con người, do đó, không thể sở hữu tài sản.

Người đối thoại: “Con Người” là khái niệm sinh ra ngay từ khi loài người tự thấy mình khác hẳn với con vật. Đó là thời điểm con người biết thuần phục động vật và chăn nuôi chúng để sử dụng mọi thứ vốn thuộc sở hữu của chúng (lông, da, xương, sừng, thịt, sức kéo) … Còn việc nhìn “Con Người” dưới nhãn quan triết, luật và đạo đức – như ChatGPT kể lể ở trên – là chuyện về sau (nếu thích, sẽ bàn vào lúc khác). Còn ở đây, nói cụ thể, khái niệm “con người” được hình thành ngay từ khi con người biết chăn nuôi – cách nay đã 12 ngàn năm.

ChatGPT: Bạn có lý khi nhấn mạnh rằng khái niệm “con người” đã bắt đầu hình thành từ sau giai đoạn “săn bắn và hái lượm”, khi bước vào giai đoạn chăn nuôi và trồng trọt. Đây là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự phát triển của nền văn minh nhân loại.

Người đối thoại: ChatGPT dùng “săn bắn – hái lượm” là cách phổ biến ở Việt Nam – do thói quen, mà cũng do trình độ nhận thức vấn đề. Đúng ra, phải là “săn bắt – hái lượm”.  Săn và bắt là hai cách kiếm thức ăn đơn giản nhất, có ngay từ thời mông muội nhất. Ví dụ, mò cua, bắt ốc. Còn săn và bắn nói lên con người đã có phương tiện giết con vật từ một khoảng cách.

ChatGPT: Bạn có lý khi nhấn mạnh rằng các từ “săn” và “bắt” có thể mang ý nghĩa khác nhau khi muốn nêu bối cảnh khởi đầu của loài người.

Người đối thoại: Nhưng thôi, xin hãy quay lại đề tài “Con Người” và “quyền tư hữu”. Cụ John Locke (1602-1734) là người đầu tiên nói câu tổng kết: “Con Người có quyền Sống, quyền Tự Do và quyền Tư Hữu”. Đây là bước tiến về lý trí, đưa ra được cách phân biệt vừa đơn giản, vừa căn bản, giữa “Con Người” với “con vật”. Hàng trăm năm sau, trong Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, tổng thống Mỹ đã thay thế “quyền Tư Hữu” bằng “quyền theo đuổi hạnh phúc”.

Chat GPT hãy cho biết: Vì sao tổng thống Mỹ lại thay thế như vậy? Cụ thể, nếu bị truất quyền Tư Hữu, con người có thể tự mưu hạnh phúc cho mình?

ChatGPT: Tổng thống Mỹ đã thay thế “quyền Tư Hữu” bằng “quyền theo đuổi hạnh phúc” trong Tuyên Ngôn Độc Lập để nhấn mạnh rằng: Nếu bị truất quyền tư hữu, con người có thể gặp khó khăn trong việc tự mưu cầu hạnh phúc, vì không có quyền kiểm soát tài sản và nguồn lực để theo đuổi những mục tiêu cá nhân, trong đó quan trọng nhất là hạnh phúc.

Người đối thoại: Câu ở trên của ChatGPT cần dứt khoát: “Nếu bị truất quyền tư hữu, con người có thể gặp khó khăn trong việc tự mưu cầu hạnh phúc”. Xin biết thêm rằng: Con người sở hữu cơ thể mình, sức khỏe của mình, các khả năng sinh học của mình (như tiếng nói, thị giác) … Rồi tới những gì con người học được (như kiến thức, kỹ năng). Và cuối cùng là sở hữu tài sản kiếm được. Không tư hữu những thứ đó, con người thành vô dụng, sống được là nhờ sự cưu mang của đồng loại. Do vậy, không chỉ là “có thể gặp khó khăn” đâu…

ChatGPT: Đúng! Bạn đã chỉ ra một điểm quan trọng. Con người không chỉ sở hữu tài sản mà còn sở hữu cơ thể, sức khỏe, kiến thức và kỹ năng. Khi mất đi những tư hữu này, con người bị lệ thuộc hoàn toàn vào người khác. Nếu con người bị tước quyền tư hữu, không chỉ là gặp “khó khăn” mà còn mất khả năng độc lập để tạo ra hạnh phúc và cuộc sống cho chính mình.

Người đối thoại: Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ năm 1776, do một vĩ nhân 33 tuổi, là tác giả chính, viết ra. Chất trí tuệ được cả nhân loại khâm phục (Tiện thể, nói thêm: Ở Việt Nam có Nguyễn Ái Quốc: Cũng đưa danh ngôn của tổng thống Hoa Kỳ vào Tuyên Ngôn Độc Lập 1945).

Đang yên, đang lành, bỗng 72 năm sau cụ Marx cũng viết Tuyên Ngôn khi mới 30 tuổi, nhưng lời văn và mục tiêu đầy kích động và gây chiến. Cụ nói thẳng: Lý thuyết của cụ có thể tóm lại bằng một câu (rất dễ hiểu, dễ thuộc, dễ thực hiện). Đó là: Tước bỏ mọi tư hữu (bằng bạo lực đấu tranh giai cấp). Do vậy, dân nghèo chỉ nghe đã nức lòng, tầng lớp cơ bắp chỉ muốn vung búa liềm thực hiện ngay. Vốn dĩ bản chất lương thiện, họ rất dễ bị xúi giục.

ChatGPT: Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776) và Tuyên Ngôn Cộng Sản của Karl Marx và Friedrich Engels (1848) nêu hai quan điểm giống nhau về mục tiêu (cả hai đều mong tạo ra một xã hội tốt đẹp) nhưng trái ngược về biện pháp.

Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ (1776) khẳng định: Hoa Kỳ phải là quốc gia lấy việc tôn trọng quyền tư hữu của mỗi cá nhân làm nguyên tắc cao nhất, để mỗi người tự mình chủ động vạch ra cho mình cách thức theo đuổi hạnh phúc mà cá nhân mong muốn.

Tuyên Ngôn Cộng Sản của Marx (1848) coi tư hữu là tội ác, đưa đến bóc lột và bất bình đẳng. Tuyên ngôn này kêu gọi đấu tranh giai cấp để tước bỏ quyền tư hữu của giai cấp tư sản và xây dựng một xã hội không có giai cấp, mọi tài sản đều là công hữu. Mỗi con người chỉ cần lao động theo năng lực, nhưng vẫn được hưởng thụ theo mọi nhu cầu. Đã được ban phát thì không cần phấn đấu.

Người đối thoại: Khi Tuyên Ngôn Cộng Sản ra đời, mỗi cá nhân phải tự chọn:  

1) Nếu đồng ý đấu tranh xóa bỏ tư hữu, xã hội mới sẽ cho phép mỗi cá nhân cứ theo năng lưc sẵn có của mình mà làm việc; nhưng vẫn được cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu.

2) Nếu đấu tranh bảo vệ tư hữu do mình kiếm được, phải tiếp tục dùng tư hữu sẵn có mà tự mưu cầu hạnh phúc. Marx đã thành công khi kích động dân nghèo đang chiếm tuyệt đa số trong xã hội lúc ấy.

ChatGPT: Đúng vậy, hai khả năng mà bạn nêu lên để thảo luận đã thể hiện hai cách tiếp cận khác nhau về mối quan hệ giữa cá nhân, tư hữu và hạnh phúc. Tổng thống Mỹ, qua các tuyên bố về quyền con người, đã ngầm chỉ trích khả năng đầu tiên (dù khi đó Marx chưa sinh ra) và ủng hộ khả năng thứ hai, điều này thể hiện một triết lý chính trị và kinh tế rất rõ ràng.

Người đối thoại: Chủ nghĩa của cụ Marx cũng hứa hẹn một xã hội bình đẳng và công bằng. Vậy, thế nào là bình đẳng? Thế nào là công bằng?

ChatGPT: 1. Bình đẳng trong bối cảnh Marx chủ yếu đề cập đến việc mọi người có cùng quyền lợi và cơ hội. Điều này có thể được hiểu như sau: Ai cũng có quyền được tiếp cận các nguồn lực và cơ hội, không bị phân biệt giai cấp, chủng tộc, giới tính hay bất kỳ yếu tố nào khác. Ví dụ: quyền được giáo dục miễn phí. 2. Công Bằng liên quan đến việc phân phối tài nguyên và cơ hội theo cách mà mọi người đều cảm thấy được đối xử công bằng. Ví dụ, trong phân phối: Tài nguyên và cơ hội được phân phối dựa trên nhu cầu và nỗ lực của mỗi người.

Người đối thoại: Sao cứ phải dài dòng, mà vẫn không cụ thể? Chẳng qua, bình đẳng là tuyệt đối ngang nhau về mọi mặt (cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền hạn) giữa hai cá nhân. Ông thợ mộc nối cái chân ghế bị gãy cũng hưởng đãi ngộ ngang với ông bác sĩ nối một cái chân người. Đây là chuyện ở xã hội cộng sản (mà tín đồ của cụ Marx đang phấn đấu). Còn công bằng là phải đãi ngộ khác nhau giữa ông thợ mộc và ông thầy thuốc, vì công sức bỏ ra khác nhau.

Thôi dài rồi, mặc dù chuyện vẫn chưa hết. Cám ơn và hẹn gặp lại. 

ChatGPT: Cảm ơn bạn đã chia sẻ quan điểm rất dễ hiểu về bình đẳng và công bằng. Bạn đã nêu rõ ràng trong một xã hội cộng sản lý tưởng, mọi người sẽ được đối xử ngang nhau bất kể công việc hoặc cống hiến của họ. Ngược lại, công bằng thì yêu cầu sự đãi ngộ khác nhau dựa trên đóng góp và nỗ lực của từng cá nhân.


 

Người & Rác – Tưởng Năng Tiến/SGN

Tưởng Năng Tiến/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 20, 2024

Trong Chuyện Kể Năm 2000 – tập II – của Bùi Ngọc Tấn, tôi “nhặt” được câu danh ngôn đắt giá như sau: “Đồng chí Tổng Bí Thư nói nếu nhìn một phụ nữ đẩy xe bò mà lòng không xúc động thì không còn là người cộng sản nữa.”

Tôi hỏi tác giả:

-TBT nào đã phát biểu một câu để đời như thế?

Công cười nụ:

-Ông TBT nào mà chả nói y như thế.

Ah! Thì ra thế. Tuy thế, mọi người đều biết rằng mấy ổng nói vậy thôi chớ hổng phải vậy đâu. Bởi vậy nên những phụ nữ đẩy xe bò hay xe rác lềnh khênh, khắp mọi nẻo đường, từ hơn hai phần ba thế kỷ qua mà chả thấy có đồng chí nào xúc động (hay xúc cảm) gì ráo trọi. Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam chỉ mang lại một thay đổi duy nhất cho giới người này là họ được đổi tên từ “phu quét đường” thành “công nhân vệ sinh đường phố” thôi.

(Hình: tác giả cung cấp)

Làm phu quét rác thì vô tư nhưng khi đã trở thành công nhân (lực lượng tiên tiến và tiên phong của Đảng) lại được Mặt Trận Tổ Quốc giao thêm rất nhiều trọng trách: “là lực lượng quan trọng, là tai mắt đường phố, có thể góp phần giữ vững an ninh chính trị, phòng chống, phát hiện các đối tượng tệ nạn xã hội… được công an quận tập huấn một số kỹ năng như: hướng dẫn nắm bắt vụ việc, nhận diện hiện tượng, con người liên quan đến an ninh chính trị; về hoạt động băng nhóm hoặc nghi vấn đối tượng trộm cắp, cướp giật tài sản cũng như công tác bảo vệ hiện trường.”

Vừa thôi chớ!

Họ vừa phải đẩy xe rác làm vệ sinh đường phố, lại vừa kiêm nhiệm luôn công việc của ngành an ninh tình báo, và bảo vệ hiện trường nữa nên (lắm lúc) không tránh được tai nạn giao thông thảm khốc – theo tin loan của trang Tin Tức Việt Nam:

“Trên địa bàn Hà Nội, một chiếc ô tô Hyundai từ phố Vĩnh Hồ đi về đường Láng, hướng Cầu Giấy đã đâm liên hoàn nhiều phương tiện khiến chị Lê Thị Thu Hà (42 tuổi, Đặng Văn Ngữ, Hà Nội) đang là công nhân quét rác thuộc Công ty TNHH MTV Môi trường đô thị Hà Nội – Chi nhánh Đống Đa tử vong…

Hoàn cảnh của chị Lê Thị Thu Hà rất đáng thương. Ly thân chồng, chị phải một mình nuôi hai con còn đang ăn học và mẹ già bị bệnh nặng. Gia đình bốn người sống trong căn nhà cấp 4 lụp xụp, lợp ngói dột nát, tường nhà toàn bộ bong tróc, nứt toác. Khi còn sống, chị Hà mong ước có thể sửa sang lại căn nhà cho mẹ và các con nhưng lại ngặt nỗi chẳng có tiền.

Tiền lương từ nghề vệ sinh môi trường không đủ để lo cho các con ăn học nên chị phải làm cả việc khác để kiếm thêm tiền. Hàng ngày, chị đi quét rác đến 2-3h sáng mới về. Chợp mắt được vài tiếng, chị gắng dậy, chạy xe ôm Grab…

Sự việc của chị Lê Thị Thu Hà như một hồi chuông cảnh báo xã hội cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường. Để cho cuộc sống chúng ta sạch đẹp, họ phải đối mặt với nhiều nguy hiểm khi ngày ngày ra giữa đường phố quét rác. Chị Hà không phải người lao công đầu tiên gặp tai nạn giao thông.

(Hình: tác giả cung cấp)

Đã có rất nhiều trường hợp tương tự xảy ra khi các công nhân môi trường ra đường lao động để mang lại mỹ quan đô thị cho người dân. Đấy là chưa kể đến những mối tiềm tàng bệnh tật do hàng ngày đối mặt với rác thải độc hại.”

Úy Trời/Đất/Quỉ/Thần ơi! Cái xã hội này có ai dòm ngó gì đến đám phu quét đường bao giờ đâu mà nói “cần quan tâm hơn nữa đến những công nhân vệ sinh môi trường,” cha nội? Ngoài việc “đối mặt với rác thải độc hại” – hằng ngày – họ còn phải gánh chịu biết bao là nỗi tủi nhục và đắng cay khác nữa. Ký giả  Đào Thanh Tuy tường thuật:

“Có lần tận mắt chứng kiến một chiếc ô tô đẹp đi trong ngõ, ngang qua xe phu rác đang đẩy. Xe chậm lại, từ trong xe, một ả hạ kính rồi lẳng ngay chiếc bỉm vàng khè vào xe rác. Bởi xe không dừng hẳn nên cú ném ấy không trúng đích mà trúng đầu phu rác. Uất ức, phu rác chửi. Xe dừng, thằng chồng phi xuống vớ ngay cái xô rác ở gần đó vụt tới tấp vào đầu phu rác. Phu rác chỉ biết thụp xuống ôm mặt khóc.”

Không bao lâu sau, báo Pháp Luật loan tin :

“Một đoạn video xuất hiện trên mạng xã hội, được cho là quay tại Quảng Trị. Theo đó, khi chủ một shop quần áo vứt rác ra đường thì bị một công nhân vệ sinh nhắc nhở, sau đó chủ shop trên đã lao vào hành hung và mắng chửi người công nhân vệ sinh.”

Chả hiểu khi bị “hành hung và mắng chửi” hay bị ném “chiếc bỉm vàng khè vào đầu” (giữa phố đông người) đám phụ nữ đẩy xe rác có ai nghĩ đến lời khuyên của ông cựu Bí Thư Thành Ủy Nguyễn Thiện Nhân không: “Những lúc khó, cực, lúc không hài lòng với công việc, hãy nghĩ tới Bác.”

Bác chính là vị Tổng Bí Thư đầu tiên của ĐCSVN và là tác giả Hồ Chí Minh Toàn Tập. Trong tác phẩm này (bản in lần thứ ba, do nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia tái bản năm 2011) nơi trang 12 có câu: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.”

Cố TBT Nguyễn Phú Trọng cũng đã từng cập nhật “tình hình” (không mấy lạc quan) như sau: “Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” nữa” Chuyện giải phóng phụ nữ ở Việt Nam, như thế, đành phải đợi đến… cuối thế kỷ sau vậy!


 

 Doris Day: Danh Vọng, Tình Yêu & Định Mệnh-Vương Trùng Dương/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 20, 2024

Vương Trùng Dương/SGN

“Chữ tài chữ mệnh khéo mà ghét nhau” (Kiều – Nguyễn Du)

Nhắc đến danh ca, minh tinh Doris Day, khán thính giả trên thế giới liên tưởng đến ca khúc Que Sera, Sera ((Whatever Will Be, Will Be) trong phim The Man Who Knew Too Much đã gắn liền với tên tuổi của bà.

Phim The Man Who Knew Too Much của hãng Paramount do đạo diễn Alfred Hitchcock với tài tử James Stewart và minh tinh Doris Day. Ca khúc Que Sera, Sera với điệu Valse của Jay Livingston & Ray Evans do Doris Day trình bày với giọng ca mềm mại du dương, thánh thót trong phim được nhận giải Oscar nhạc phim hay nhất năm 1956. Ca khúc nầy với lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy tựa đề Biết Ra Sao Ngày Sau rất phổ biến ở miền Nam Việt Nam.

Theo Hartman thì “Que sera sera” không bắt nguồn từ tiếng Tây Ban Nha, tiếng Italia, tiếng Pháp là câu tục ngữ tiếng Anh khi đề cập đến tương lai. Câu tiếng Anh của lời nói “Whatever is destined to happen will happen, do what you may to prevent it” hay câu tiếng Pháp là “Tout ce qui doit arriver arrivera, quels que soient vos efforts pour l’éviter” với ý nghĩa “Ðiều gì phải đến sẽ đến, dù cho bạn có cố làm gì để ngăn chặn nó” về định mệnh con người.

“Que sera, sera. The future’s not ours, to see. Que sera, sera…” rất quen thuộc của thời tuổi trẻ thời đó của chúng tôi trả lời trong hoàn cảnh chiến tranh.

*

Doris Mary Ann Kappelhoff sinh năm 1922 ở tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ trong gia đình bố mẹ là người Đức nhập cư. Bà có năng khiếu âm nhạc, nghệ thuật từ nhỏ, năm 1939 xuất hiện dòng nhạc Big Band (loại nhạc Jazz) mang tên Sentimental Journey với danh xưng Doris Day rồi trở nên nổi tiếng. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, năm 1945, bà trở thành giọng ca chính của nhóm Les Brown and His Band of Renown và nhanh chóng nổi tiếng qua nhiều ca khúc.

Ngoài ra, nhóm có một số ca khúc khác đứng đầu bảng xếp hạng Billboard như: My Dreams Are Getting Better All the Time, Tain’t Me, Till The End of Time, You Won’t Be Satisfied (Until You Break My Heart), The Whole World is Singing My Song, I Got the Sun in the Morning.

Năm 1947, Doris Day rời nhóm để hát solo. Trong 20 năm, bà ra mắt hơn 600 tác phẩm, trong đó nhiều ca khúc được phổ biến khắp nơi trên thế giới.

Doris Day còn nổi tiếng cho những ca khúc trong phim và từ thập niên 1960 đóng phim, trở thành minh tinh điện ảnh. Doris Day có vẻ đẹp tự nhiên rực rỡ với tóc vàng, trong hình ảnh “Tóc vàng sợi nhỏ. Mong em chín đỏ trái sầu” (thơ Cung Trầm Tưởng).

Doris Day trở thành thần tượng của khán thính giả trong âm nhạc và điện ảnh trong suốt những thập niên, danh vọng tỏa sáng nhưng trải qua bốn cuộc tình cay nghiệt!

Doris Day kết hôn lần đầu năm 1941 với nghệ sĩ kèn trombone Al Jorden. Hai người gặp nhau khi cùng tham gia biểu diễn tại một chương trình ca nhạc ở thành phố Cincinnati, tiểu bang Ohio năm bà 16 tuổi. Khi kết hôn, bà chỉ mong cuộc sống yên bình bên chồng.

Sau những tháng ngày hạnh phúc, vợ chồng bà thường xuyên cãi vã vì ghen tuông. Bà từng chia sẻ bị chồng cũ đánh đập. Al Jorden thường bỏ Doris ở nhà và dẫn theo người tình trong những chuyến lưu diễn. Cuộc hôn nhân diễn ra gần hai năm. Hai người ly dị vào Tháng Ba, 1943 khi bà mới 21 tuổi.

Doris Day có với Al Jorden một con trai, cũng là con duy nhất của bà – Terry Melcher (sinh năm 1942). Al Jorden từng có ý định giết Doris vì không chịu phá thai. Bà không thể nào ngờ sự nhẫn tâm của người chồng độc ác như vậy!

Năm 2004, Terry qua đời sau nhiều năm chống chọi các căn bệnh tuổi già. Khi còn sống, Terry là ca sĩ và nhà sản xuất âm nhạc thành công. Đây là vết thương lòng đau nhất trong cuộc đời bà ở tuổi già 80.

Năm 1946, Doris Day kết hôn lần hai với George Weidler, nhạc công kèn saxophone. Bà bước vào điện ảnh trong giai đoạn này. Doris tham gia bộ phim đầu tiên, Romance on the High Seas, năm 1948.

Bà đề nghị chồng cùng đến Los Angeles sống để phát triển công việc. Tuy nhiên, George ghen tuông, không hứng thú với sự nghiệp của vợ. Hai người mâu thuẫn và ly thân. Bà chuyển đến New York và theo đuổi diễn xuất. George đổ lỗi cho Doris Day bỏ bê gia đình và đòi ly dị vào năm 1949. Sau đó, bà trở thành diễn viên nổi tiếng tại Hollywood. Bà được công chúng đón nhận với những bộ phim như My Dream Is Yours (năm 1949), Love Me or Leave Me (năm 1955).

Năm 1951, Doris kết hôn lần thứ ba đúng sinh nhật tuổi 29. Chồng mới của bà là Martin Melcher, nhà sản xuất phim nổi tiếng. Ông hỗ trợ nhiều bộ phim thành công của Doris Day trong giai đoạn này. Martin cũng là người nuôi dưỡng và hướng Terry Melcher trở thành ca sĩ, vì vậy bà cả tin tấm lòng của người chồng.

Sống với Martin cho đến khi ông qua đời vào năm 1968, cũng là cuộc hôn nhân dài nhất của Doris. Tuy nhiên, sau khi Martin mất, bà phát hiện chồng và đồng nghiệp mưu toan chiếm đoạt các khoản tiền cát-xê của bà trong suốt 17 năm chung sống.

Lúc Martin còn sống, ông đầu tư làm ăn thất bại nhưng không cho vợ hay biết, ông cũng không nộp thuế thu nhập dù là nhà quản lý chính thức, do vậy Doris Day vào năm 45 tuổi lại lâm vào cảnh nợ nần chồng chất. Bà buộc phải đóng phim truyền hình nhiều tập The Doris Day Show từ năm 1968 đến năm 1973, cho dù bà chưa bao giờ ký hợp đồng với các đài truyền hình, rốt cuộc bao nhiêu tiền thù lao cũng chỉ để trả nợ. Doris Day rơi vào tình cảnh nợ nần và gần như phá sản. Năm 1979, bà mới nhận lại được khoản tiền sau khi thắng kiện.

(Hình: tác giả cung cấp)

Sau thời kỳ khó khăn này, Doris Day quyết định giải nghệ. Bà lui về sống ẩn dật tại thị trấn Carmel by the Sea, tiểu bang California, nơi đây có bãi biển Carmel Sunset đẹp tuyệt vời. Vào năm 1975, Doris Day phát hành quyển hồi ký “Doris Day: Her Own Story” cho thấy sự nghiệp và cuộc đời của bà không phải là một dòng sông phẳng lặng êm ả như người ta thường nói.

Cuốn tự truyện viết rất thật, ghi lại quãng đời Doris Day từ thời thơ ấu với những khó khăn phải trải qua trong gia đình và những đam mê âm nhạc từ nhỏ. Sự nghiệp điện ảnh khi bước vào lãnh vực nầy có lúc gập ghềnh, có khi may mắn với những đồng nghiệp và đạo diễn nổi tiếng mang đến danh vọng trong nghệ thuật thứ bảy.

Trong cuộc sống cá nhân không suông sẻ trong tình trường với ba cuộc hôn nhân và những mất mát trong cuộc đời, và cuối cùng tình yêu động vật.

Năm 1973, Doris Day giải nghệ, bà dành thời giờ cho công tác bảo vệ động vật thông qua việc thành lập tổ chức phi chính phủ mang tên Doris Day Animal Foundation – quỹ động vật mang tên bà – một tổ chức phi lợi nhuận nhằm mục đích giúp đỡ động vật trên khắp nước Mỹ.

Năm 1976, Doris Day kết hôn với Barry Comden. Hai người quen nhau vì thường tới nhà hàng do Barry làm quản lý. Cuộc hôn nhân kéo dài trong sáu năm. Hai người ly dị Tháng Tư 1982. Barry chia sẻ lý do chia tay là Doris chỉ quan tâm chăm sóc lũ thú cưng thay vì lo lắng cho chồng. (Có giai thoại cho rằng khi bà ngán ngẩm tình đời, bà nuôi thú cưng trong nhà, có lần con chó cưng chết, bà cắt đứt mọi liên lạc trong suốt ba tháng vì thương xót).

Sau bốn đời chồng: Al Jorden (1941-1943), George Weidler (1946-1949), Martin Melcher (1951-1968), Barry Comden (1976-1981), Doris Day tiếp tục sự nghiệp âm nhạc. Tuy ở tuổi 60 còn trẻ đẹp nhưng bà ngán ngẩm với hôn nhân, sống trong khu đất rộng khoảng 10 mẫu, thỉnh thoảng bước đi trên phố với hàng đàn chó, mèo lạc vây quanh. Trang phục giản dị khác hẳn hình ảnh huyền thoại màn bạc và trên sân khấu.

Minh tinh Pháp Brigitte Bardot và Doris Day là hai hình ảnh tiêu biểu cho quyền bảo vệ động vật. Năm 1986, Brigitte Bardot thành lập Quỹ Brigitte Bardot nhằm chăm sóc và bảo vệ động vật. BB đã lên án những nước Á châu còn “man rợ” ăn thú cưng trong nhà như chó, mèo… Ở Mỹ, hành hạ thú cưng trong nhà cũng bị phạm luật đừng nói gì đến giết hại, làm thịt.

Vào tuổi 90, Doris Day nhận được vinh dự trở lại vào năm 2011, khi tuyển tập chọn lọc của bà My Heart được lọt vào Top Ten thị trường Anh quốc, đĩa hát này chọn lọc những bài hát từng được Doris Day ghi âm vào những năm 1980. Album My Heart gồm 13 ca khúc: Hurry, It’s Lovely Up Here, Daydream, The Way I Dreamed It, Heaven Tonight, My One and Only Love, My Heart, You Are So Beautiful, Life Is Just a Bowl of Cherries, Disney Girls, Stewball, My Buddy, Happy Endings, Ohio.

Tối ngày 13 Tháng năm, 2019, Doris Day qua đời ở tuổi 97 tại Carmel Valley, California. Bà siêng tập thể dục nên sức khỏe tốt cho đến khi bị viêm phổi trầm trọng.

Doris Day khởi đầu sự nghiệp điện ảnh trong vai diễn đầu tiên của phim Romance on the High Seas và những thập niên tiếp theo khoảng 30 phim.

My Dream Is Yours (1949) phim âm nhạc, trong đó Doris Day thủ vai một ca sĩ đang tìm cách khởi nghiệp. Tea for Two” (1950), On Moonlight Bay (1951), By the Light of the Silvery Moon (1953), April in Paris (1952). Phim âm nhạc Calamity Jane (1953) với ca khúc Secret Love trong phim đã giành giải Oscar. Love Me or Leave Me (1955), The Man Who Knew Too Much (1956) vừa diễn viên và ca sĩ trở thành “biểu tượng” gắn liền với bà. Pillow Talk (1959), Please Don’t Eat the Daisie (1960), Lover Come Back (1961), The Thrill of It All (1963), Send Me No Flowers (1964), That Touch of Mink (1962), Do Not Disturb (1965), Caprice” (1967), The Ballad of Josie (1967), With Six You Get Eggroll (1968) phim cuối cùng của Doris Day trước khi giải nghệ… Trong đó, một số cuốn phim nầy với tiếng hát của diễn viên kiêm ca sĩ Doris Day.

Nguồn thu nhập về điện ảnh không bằng âm nhạc, Doris Day cùng hát với nam danh ca Frank Sinatra, người có thu nhập cao nhất cao nhất trong những thập niên đó.

Vào giữa thập niên 1950’ và 1970’ Sài Gòn nhập phim ngoại quốc nhập từ Pháp. Vì vậy phim Mỹ lại nói tiếng Pháp, đôi khi nói tiếng Anh và có phụ đề (sous-titre) Việt ngữ, tờ flyer giới thiệu các diễn viên và tóm lược nội dung… để khán giả có thể theo dõi.

Trong những cuốn phim đề cập trên có vài phim được trình chiếu và những ca khúc do Doris Day hát cũng được phổ biến nên tên tuổi bà rất quen thuộc.

Tôi viết về Doris Day, không thuần túy về văn học nghệ thuật mà đề cập đến nhân vật tài danh trên đỉnh cao danh vọng được mọi người ái mộ nhưng định mệnh lại khắt khe “Chữ tài liền với chữ tai một vần” và “Đã mang lấy nghiệp vào thân. Thì đừng trách lẫn trời gần đất xa” như lời thơ thi hào Nguyễn Du.

Đó là lẽ thường tình của cuộc đời trên thế gian. Với thuyết tài mệnh tương đối không chừa bất cứ ai, ngay cả Doris Day, danh vọng, tình yêu & định mệnh với nỗi đau qua bốn cuộc tình, không thể nào ngờ. Trong đỉnh cao danh vọng, cả danh và lợi, nhưng không mang lại hạnh phúc trong tình yêu!

Que Sera Sera

“… When I was just a little girl

I asked my mother, what will I be

Will I be pretty, will I be rich

Here’s what she said to me

Que sera, sera, whatever will be, will be…”.

“Nào ai biết ngày sau, đời ta sẽ về đâu…”

Khi Doris Day qua đời, tất cả tài sản của bà hiến cho quỹ từ thiện The Doris Day Animal Foundation (DDAF), thể hiện tình yêu thương của bà với động vật.

Little Saigon, October 2024


 

50 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (I)-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Mẹ trẻ ôm con thơ trên chiếc trưc thăng chạy khỏi Tuy Hòa, 22 Tha’ng 3, 1975 Nguồn: AP Photo/ Nick Ut.

Trong dip kỷ niệm 50 năm này, hy vọng bài sau đây sẽ giúp mọi người Việt di tản nhớ lại mình, nhớ lại những đồng đội, nhớ lại cả một quá khứ vinh quang cũng như tủi nhục.

LỜI MỞ ĐẦU

Thật ra mới chỉ là 49 năm. Nhưng tính cho tròn số nên chọn là 50 năm. Có nhiều cách để ghi lại những ngày chót trước khi mất Sài gòn. Có tác giả ghi lại qua các tài liệu sách vở, hoặc người khác qua trải nghiệm sống của mỗi người. Mỗi cách ghi lại có cái hay và hữu ích của nó.

Riêng bài viết sau đây phần lớn dựa trên những bản tin, bài bình luận của các phóng viên, các tác giả ngoại quốc có mặt ở Việt Nam đã viết trong khoảng thời gian hơn một tháng khi mất Sài Gòn. Những bản tin này thường vắn, gọn cô đọng mang tính thông tin nhiều hơn. Nhưng khi viết thành một bài viết dựa theo thứ tự thời gian, người đọc có thể hiểu tận tường diễn tiến các biến cố ấy đã được diễn ra thực sự trên đất nước của mình như thế nào.

Nó có thể thiếu mức độ rung động tình cảm như thương, ghét, giận, buồn. Nhưng bù lại nó khá trung thực và có thể giúp người đọc gạt bỏ được những nhận thức quá khứ nhiều khi do nghe nói.

Trong dip kỷ niệm 50 năm này, hy vọng bài sau đây sẽ giúp mọi người Việt di tản nhớ lại mình, nhớ lại những diễn tiến thời sự như một chuỗi biến cố nối tiếp nhau dồn dập, như một chuỗi giây chuyền, nhớ lại hoàn cảnh bi kịch của những đồng đội, nhớ lại cả một quá khứ vinh quang cũng như tủi nhục.

Thoạt đầu, dẫn đầu đoàn tuần hành chống chiến tranh Việt Nam có bác sĩ Benjamin Spock, cao lớn, người đàn ông tóc bạc trắng, và Tiến sĩ Martin Luther King Jr., thứ ba từ bên phải, trong một cuộc diễn hành trên đường State ở Chicago, Ill., March 25, 1967. Bác sĩ Spock là đồng chủ tịch của Ủy ban Quốc gia về chính sách hạt nhân đúng mực. (AP Photo)

  • Câu chuyện mở đầu từ nước láng giềng Cambodia

Thật sự thì người Việt Nam nói chung ít quan tâm đến tình hình của nước láng giềng Cambodia lắm. Từ Sài gòn sang Cambodia, đường bộ chỉ hơn trăm cây số mà mấy người đã đi qua thăm láng giềng. Quan hệ buôn bán làm ăn, quan hệ du lịch, quan hệ liên quan đến an ninh, đến chiến tranh cũng ít ai quan tâm cho đủ.

Nhưng nay câu chuyện có thể khác. Những gì đang xảy ra, sắp xảy ra ở bên Cambodia cũng là những điềm dự báo thời cuộc cho Việt Nam.

Time is running out | Ngày 7/3/1975

Time is running out, Đại sứ quán Mỹ cảm thấy sẽ mất Campuchia. By SYDNEY H. SCHANBERG New York Times Service PHNOM PENH

Đây là một bản tin của hãng AP gửi đi từ Hoa Thạnh Đốn cảnh báo tình hình ở Cambodia xem ra hết sức bi quan. Phóng viên đăng tải tin này với hàng tít Time is running out.

Đó là tựa đề nhạy cảm về tình hình nước bạn láng giềng. Người bi quan nghĩ rằng vận may có vẻ không còn nữa. Tổng thống Ford được coi là càng ngày càng bị lẻ loi, bất lực vì không hy vọng giàn xếp để có được tối thiểu 220 triệu đô la để giúp cho nước Cambodia có thể cầm cự được.

Tổng thống Ford vào tối thứ ba cảnh cáo tuần này, tức ngày 7 tháng 3 rằng nếu không có số tiền đó thì nội trong 10 ngày sắp tới, Cambodia sẽ rơi vào tay cộng sản.

Cảnh cáo như thế mà xem ra Quốc Hội Hoa Kỳ hầu như có vẻ không quan tâm gì.

Cũng theo thông tin của phóng viên Sydney H.Schanberg của tờ New York Times tại Cambodia thì tòa đại sứ Mỹ ở đây đang cố gắng hết sức mình để sau cuộc đầu hàng có thể giải cứu được một số người ra đi một cách an toàn và nhân đạo.

Ông đại sứ Mỹ tại Cambodia, John Gunther Dean, xem ra hết hy vọng vào lời hứa cứu trợ cấp tốc 220 triệu đô la! Không có số tiền đó cũng là một cách chấm dứt chuyện người Mỹ có mặt trong 5 năm cuộc chiến tranh với bọn phiến loạn (bọn Khmer rouge – Khmer đỏ).

Một bên ngay tại nước Mỹ ông Tổng thống Mỹ lo có tiền để cứu trợ khẩn cấp, một bên tòa đại sứ Mỹ tại Cambodia lại lo tính chuyện di tản. Mà như thể hai cái lo đó chẳng dính dáng gì đến nhau cả? Tính tình người Mỹ cũng có cái lạ, họ làm tới cùng cho đến khi không còn chút hy vọng gì!

  • Cái lo của Cambodia cũng là cái lo của các cấp lãnh đạo miền Nam như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Cái lo ấy ông Thiệu cũng đã tìm đủ mọi cách xoay sở. Ông Thiệu cũng đã gửi tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng sang Mỹ vận động, tìm nguồn tài trợ từ Ngân hàng Thế giới, từ Paris cựu thực dân ở Việt Nam, từ Nhật Bản.

Và từ vua dầu lửa Arabia bằng cách gửi đại sứ Vương Văn Bắc đi vay tiền các nước Ả Rập.

Và cái lo cuối cùng không biết làm thế nào, ông tính thế chấp 16 tấn vàng để có tiền mua vũ khí đạn dược! Ông cũng nghĩ xa gần đến việc khai thác dầu hỏa ở Vũng Tàu.

Nghĩ lại trong suốt 21 năm cầm cự với cộng sản, đây là thời gian gay go nhất cho chính thể Đệ II Cộng hòa. Gay go không phải tại người, tại kém trí, tại thiếu can đảm mà chỉ tại không có tiền mua súng đạn.

Nếu cứ theo phúc trinh của ông thượng nghĩ sĩ đảng cộng hòa Paul Norton “Pete” McCloskey, Jr. thì:

Theo Ngũ giác đài thì quân đội VNCH có số quân bằng 3 so với 1 của phía quân đội miền Bắc.

Trong tài khóa 1973-1975, ngay sau khi ký thỏa ước đình chiến Ba Lê, Sài Gòn nhận được 3,98 tỉ tiền viện trợ từ phía Mỹ. Hà Nội chỉ nhận được 1,48 từ phía Tầu cộng và Nga Xô cộng lại.

Xét về mặt hỏa lực, ‘firepower superiority ratio’, cũng kể từ sau Hiệp Định Ba Lê, là 7 so với 1 của phía bên kia. Đấy là chưa kể đến khả năng của không quân Việt Nam.

Vậy thì xem bảng so sánh trên, chả có lý do gì Việt Nam lại thua cuộc. Ông nghị đảng Cộng hòa Mỹ đưa ra những lý do tinh thần xem ra chẳng thuyết phục được ai cả.

Đó là vì cộng quân dù thua vì ‘outgunned’, ‘outnumbered” nhưng lại hơn về aggressiveness, will và sense of purpose.

Riêng người Việt chúng ta ngày hôm nay cũng nên suy xét về điều này để hiểu rõ ta và địch.

Chúng ta đi giầy để đánh cộng sản. Họ đi chân đất. Rồi có lúc thằng đi chân đất chạy nhanh hơn thằng đi giầy.

Xem ra tiền không giải quyết được mọi chuyện, nhất là chuyện chiến tranh! Chuyện chiến tranh đôi khi không hẳn là chuyện võ khí mà cần thêm yếu tố con người nữa.

Ngày 5/3/1975. Tin AP Tinh Hình Cambodia trở nên nguy kịch

Theo tin Thông Tấn Xã AP, tình hình chính trị bên Cambodia càng bất ổn và ít hy vọng. Để trả lời cho niềm hy vọng của tuyệt vọng của ông đại sứ Mỹ, bọn phiến loạn tiếp tục pháo kích liên tục vào phi trường và thủ đô Phom Penh.

Trong khi đó, theo John Burns, đặc phái viên của tờ The Journal tại Bắc Kinh, Ieng Sary, một nhân vật cộng sản cao cấp làm trung gian giữa Khmer đỏ và thái tử Sihanouk từng bảo đảm rằng trừ một thiểu sổ nhóm người lãnh đạo của Thống chế Lon Nol, tất cả những người còn lại đều được đối xử một cách nhân đạo.

Vì thế, thái tử Sihanouk nói:

Khmer đỏ long trọng tuyên bố với toàn thể thế giới rằng họ sẽ không có cảnh tắm máu khi họ vào Phnom Penh, trừ khi bọn chống cộng có sự kháng cự bằng vũ khí. Còn lại, Khmer đỏ sẵn sàng tha thứ cho mọi người, trừ 7 người.

(The Khmer rouge have declared very solemnly before the whole world that they will not make any blood-bath when they enter Phnom Penh unless the anti-communist there resist with weapon. Otherwise, The Khmer rouge are ready to pardon everybody, except seven people.)”

Tin cuối cùng, cũng theo hãng AP, Tổng thống Lon Nol đã yêu cầu Thủ tướng Long Boret giải tán chính phủ. Trung tướng Sosthène Fernandez, Tham mưu trưởng quân đội Cambodia trước tình hình vô phương cứu vãn đã xin từ nhiệm. Nhiều nguồn tin cho hay là chính người Mỹ yêu cầu ông Lon Nol làm điều này.

Sau đó Thủ tướng Long Boret đã tuyên bố là chính phủ của ông đã không thể nào điều hành được nữa. Nhiều vị tỉnh trưởng đã thay đổi người mà không có sự đồng ý của Thủ tướng. Nhiều lính Cambodia đã đà ngũ. Và sau khi ông Long Boret xin từ chức thì Tổng thống Lon Nol tức khắc lại chỉ định ông Long Boret lập chính phủ mới.

Diễn tiến câu chuyện của nước láng giềng

Thủ tướng Long Boret bị Khmer Đỏ bắt và xử tử hình ngày 17 tháng Tư, 1975. Nguồn: executedtoday.com

Diễn tiến câu chuyện của nước láng giềng Cambodia xem ra sẽ xảy ra tại Việt Nam không mấy khác chăng?

Hồi chuông báo tử của Cambodia cũng là hồi chuông báo tử cho Việt Nam không bao lâu sau? Lời hứa xạo của bọn Khmer đỏ có khác chi lời hứa của cộng sản Bắc Việt sau này.

Phần tôi, tôi không dám nghĩ tiếp. Tôi vẫn tin tưởng, Việt Nam không phải Cambodia. Bên Cambodia, chính phủ bắt lính ngay cả những trẻ em 13, 14 tuổi. Tình trạng ấy đã không xảy ra như thế ở Việt Nam. Các sĩ quan quân đội VNCH đều được huấn luyện kỹ càng và bài bản.

Từ trước đến nay, binh sĩ VNCH luôn có mấy khi thua! Được thì nhiều, thua thì ít. Tỉ lệ tử vong là một đổi ba, có khi lên đến một đổi năm và đến một đổi mười. Luôn gặt hái được những chiến thắng trong nhiều trận đánh. Các sĩ quan về thành phố nghỉ phép trong thái độ hiên ngang, nhiều khi đến ngang tàng!

Cái oai hùng như thế, cả một thời cuốn hút theo nhiều thế hệ thanh niên.

Cá nhân người viết, nhiều khi đi với bạn bè sĩ quan không khỏi hãnh diện. Họ làm nên giới trẻ một thời.

  • Ngày 10-3, 1975 | Nay thì đến lượt Việt Nam

Cuộc tấn công chiếm Trại Mai Hắc Đế ở thị xã Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên, tháng Ba năm 1975. Một ảnh từ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.

Hôm nay ngày 10 tháng ba, 1975, một ngày đáng ghi nhớ, một ngày mở đầu cho những nỗi bất hạnh đổ xụp xuống miền Nam.

Cộng sản Bắc Việt với xe tăng và đại pháo đã tấn công Ban Mê Thuột, một tỉnh ở Cao Nguyên Trung Phần. Cộng sản đã rót 10.000 đại pháo vào quận lỵ Đức Lập cách Ban Mê Thuột 30 dặm về phía Bắc và các căn cứ quân sự của tỉnh.

Bản tin của AP chỉ cho biết vắn tắt như thế và cho biết thêm có 8 vị truyền giáo người Mỹ còn bị kẹt ở lại. Và số phận họ được bảo đảm an toàn.

Nghĩ bụng 8 vị truyền giáo dù mạng sống họ cũng quan trọng, nhưng so với số phận con dân miền Nam thì có nghĩa gì?

Nếu ti’nh từ khi ký hiệp định Ba Lê thì Đức Lập được kể là quận lỵ thứ 13 bị rơi vào tay cộng sản.

  • Viện trợ và chiến tranh

Chiến tranh thì có gì liên quan đến viện trợ? Vậy mà nay chúng ta mới hiểu một cách chua chát là Viện trợ và Chiến tranh đi đôi với nhau như nước với lửa. Bản tin này cho phép nổi lên trong tôi một thắc mắc, giả dụ không có tiền thì không đánh nhau chăng? Và nếu bớt tiền thì bớt đánh? Bớt nữa thì cho bớt luôn chăng? Có nghĩa là quăng súng, không đánh nữa, muốn ra sao thì ra chăng?

Có cái giá nào cho biết là bao nhiêu thì tiếp tục đánh? Giả dụ nếu không có giá thì ta có thể liệu cơm gắm mắm được chăng? Cha ông ta đã đánh giặc như thế nào? Có bao nhiêu ta đánh bấy nhiêu chăng?

Kèm theo tin này, hãng tin AP cũng cho biết viện trợ Mỹ cho ngoại quốc kể từ khi thế chiến hai chấm dứt đến nay là 164 tỉ đô la! Trong khi đó, CIA phúc trình cho James R. Schlesinger là nếu không có quân viện lập từc thì quân đội VNCH chỉ có thể cầm cự trong vòng một tháng nữa. Tổng thống Ford trong buổi họp Hội Đồng An ninh Quốc Gia yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn chi 722 triệu đô la, số tiền cần thiết để duy trì cuộc chiến này.

VNCH đang đứng trên bờ vực thẳm về sự thất bại quân sự.

Nhưng ai cũng có thể khẳng định là quân đội miền Nam đang chiến đấu một cách kiên cường với những gì họ có được. Số tiền 722 triệu là để cung cấp 744 đại bác, 466 xe tăng và thiết giáp, 100 ngàn súng cá nhân và 5 ngàn súng đại liên, 11 ngàn súng phóng lựu M. 79, 12 ngàn xe chuyên chở và 120 ngàn tấn bom, đạn đủ loại.

Con số vũ khí viện trợ coi như là lớn lắm! Nhưng nghĩ cho cùng, tiềm năng quân sự của nước Mỹ có thể làm nhiều hơn thế nữa. Người ta còn nhớ khi Mỹ quyết định tham dự thế chiến thư hai, Mỹ lúc đó chỉ có 1800 máy bay. Roosevelt đã quyết định đưa con số ít ỏi 1200 thành 50.000 máy bay một năm. Khi nói Mỹ ở đây là nói tới hai nhân tố, ông Tổng thống Mỹ và Quốc Hội Mỹ.

Việc từ chối viện trợ cho Việt Nam không phải từ ông Tổng thống mà đến từ phía Quốc Hội với những người như bà dân biểu Bella Abzug.

  • Phái đoàn Thượng nghị sĩ có bà Abzug sang Việt Nam

Từ trái, Bella Abzug, Gloria Steinem, và Mike Nichols trong một cuộc diến hành ở Manhattan, May 10, 1975.

Bà có tên đầy đủ là Bella Abzug là dân biểu đại diện cho bang Manhattan cùng với Paul Norton “Pete” McCloskey, Jr. Bà và ông “Pete” đều có tiếng là chống chiến tranh Việt Nam. Sự có mặt của bà ở Việt Nam lúc này là một điều bất lợi cho Việt Nam. Chúng ta vẫn muốn chiến đấu. Bà nói không.

Tiếng nói không của bà và đồng viện trị giá 722 triệu đô la.

Chúng ta bắt đầu thua từ tòa nhà Quốc Hội Mỹ. Nói thế cũng không sai đâu.

Bà sang Việt Nam chẳng đem lại một tin tưởng gì cho ông Thiệu và chính phủ Nam Việt Nam. Sau đó bà và phái đoàn Thượng Viện Hoa Kỳ vào trại Davis gặp phái đoàn cộng sản, bàn về số tù binh Mỹ còn bị Bắc Việt giam giữ, 1.300 người. Phái đoàn cộng sản đã triệu tập 76 nhà báo do họ mời đến. Con số áp đảo với phía nhà báo Mỹ. Buổi họp giữa hai bên lạnh nhạt và đã hẳn chẳng thu được kết quả gì.

Cũng theo nguồn tin của UPI, ông thượng nghị sĩ Hubert Horatio Humphrey Jr. cho hay rằng viện trợ Mỹ chi ra như thế, nhưng Mỹ cũng đã bán ra một số vũ khí cho 69 quốc gia trên thế giới. Số tiền lên đến 8 tỉ, 300 triệu đô la trong tài khóa năm nay.

Bà Abzug về hôm trước hôm sau thì cộng quân tấn công Ban Mê Thuột

  • Bài diễn văn của Tổng thống Mỹ với những mỹ từ trống rỗng

Theo nguồn tin cũng của AP, Tổng thống Ford sẽ đọc một bài diễn văn ở Đại Học Notre Dame – một đại học mà người ta ghi nhận số sinh viên ngoại quốc gồm hơn 60 quốc tịch khác nhau theo học ở đây – trong đó ông tin tưởng và thúc dục dân chúng Mỹ là nước Mỹ vẫn có khả năng giải quyết những vấn đề nội bộ của nước Mỹ mà không cần quay lưng với thế giới bên ngoài.

Bài diễn văn là nhắn gửi đến Việt Nam hay muốn trấn an và thoa dịu những đồng minh của Mỹ trên thế giới?

Ford khẳng định chắc chắn là vẫn có thể viện trợ quân sự cho Cambodia và Việt Nam.

Bài diễn văn này được đọc với những mỹ từ văn hoa, cao đẹp nhất của một Tổng thống Mỹ dành cho các dân tộc trên thế giới!

Ngày 16- 3, 1975. Another Dunkirk?(1)

Đó là nhan đề một bài báo của ký giả bình luận gia James M. Markham của tờ New York Times. Bài báo ví von một cách ác độc coi như hình ảnh thảm khốc của trận rút quân ở Dunkirt. Làm sao một quân đội hùng mạnh như thế, đã từng chiến thắng trong nhiều trận, đã từng chiến đấu dũng cảm trong 21 năm rút cuộc lại có thể thua trong vài tuần lễ.

Đó là câu hỏi mà nhiều người đã đặt ra và tìm câu trả lời. Làm sao lại có thể rút lui và thua một cách dễ dàng như vậy? Ai trách nhiệm sự thua trận và rút lui này?

Nếu nói xa một chút thì nay Hoa Kỳ, hay nói trắng ra là Kissinger đang dồn mọi nỗ lực cho Trung Đông. Kissinger đã cam đoan là sẽ giải quyết được xung đột giữa Israel-Ả Rập.

 Và những số tiền rút ra từ viện trợ cho Việt Nam thì nay viện trợ cho Do Thái. Một tỷ rưỡi đô la đã được rót thêm cho Do Thái với số dân chưa tới 6 triệu người?

Người ta cho rằng, ‘There is the possibility that Kissinger might make a new Middle- East peace bid before the mandate – of the Un peacekeeping forces expires on april 25 in the Sinai and at the end of may on the Golan Heights.’

Chọn lựa ưu tiên giữa chiến tranh Việt Nam và cuộc xung đột Trung Đông, Mỹ Kissinger rõ ràng nghiêng về phía một giải pháp cho hòa bình ở Trung Đông.

Phải chăng Kissinger là người bán đứng Việt Nam cho cộng sản Bắc Việt trong tháng Tư sắp tới?

  • Tổng thống Thiệu và trách nhiệm rút quân khỏi Tây Nguyên

Tăng T-54 của Cộng quân tiến vào Ban Mê Thuột. Nguồn: wikiwand.com

Sau khi cộng quân tấn công vào Ban Mê Thuột, người ta nói rằng Tổng thống Thiệu đã có dự định trong đầu về một cuộc tái phối trí. Nay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đứng trước hai chọn lựa không dễ chọn.

Một, Tổng thống Thiệu muốn duy trì bằng mọi giá, dù là đắt giá (risky move), phải tái chiếm lại Ban Mê Thuột. Nhưng cho đến chiều thứ sáu thì quyết định này xem như bị loại bỏ.

Hai, quyết định rút lui khỏi các vùng Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Darlac – một quyết định không kém can đảm – và trong cuộc rút lui này, mang theo vũ khí được chừng nào hay chừng nấy.(2)

Cuộc rút quân khỏi Pleiku ngày 16 tháng này, chỉ sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột một tuần đã để lại nhiều câu hỏi và nhiều nghi vấn?

Có người cho đây là màn tháu cáy người Mỹ của ông Thiệu.

Tôi không tin như vậy. Không thể mang sự sống chết của binh lính để tháu cáy chính trị. Ông Thiệu vốn là một quân nhân không thể nghĩ hạn hẹp như vậy được.

Có thể ông nghĩ là không có viện trợ thì không thể tiếp tục chiến tranh. Các vị chỉ huy VNCH đã chọn con đường số 7B, một con đường đã bỏ hoang từ sau thời Pháp nên nhiều chỗ như cầu cống, đường xá cần có công binh đi trước để dọn đường, làm cầu. Thế rồi công binh, pháo binh, thiết vận xa, hàng ngàn xe camion chở binh lính, súng ống đạn dược, các lực lượng đặc biệt quân đội các binh chủng, gia đình các quân nhân này và cả dân chúng nữa ước định khoảng 100.000 đến 200.000 người chen lấn nhau mà đi.

Tưởng Ngô Quang Trưởng có viết bài Tại sao tôi bỏ quân đoàn I. Ông cho đó là trách nhiệm của riêng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Tướng Phú muốn tạo sự bất ngờ cho cộng sản, nhưng đó là một tính toán sai lầm; vì dân chúng được tin quân đội rút quân đã vội vã chạy ùa theo. Tình cảnh này làm cho cuộc rút quân thêm chậm trễ và khó khăn.

Yếu tố bất ngờ không còn nữa.

  • Bình luận của nhà báo Drew Middleton, “President Thieu. Is he fit to lead?”

Trong một bài bình luận của Drew Middleton, bình luận gia của tờ N.Y. Times cho rằng, mặc dầu tinh thần binh sĩ có xuống. Nhưng chỉ trong vòng ba ngày tấn công Ban Mê Thuột, các phóng viên nhận thấy mặc dầu có sự tấn công vũ bão của cộng quân, nhưng người ta không thấy một sự đáp trả đúng mức của các đơn vị quân đội trong khu vực.

Không có dấu hiệu có sự chống cự và chỉ cho thấy sự rút lui một cách hoảng loạn. Các sĩ quan chỉ huy đã bỏ trốn và binh đội còn sót lại thì đầu hàng.

Chắc hẳn việc Ban Mê Thuột mất vào tay cộng sản chỉ sau một ngày giao tranh của binh sĩ VNCH tại Ban Mê Thuột ảnh hưởng tới những quyết định của ông Thiệu một cách sâu xa. Gần như thể, ông ta bị cô lập bởi các phụ tá và cố vấn. Và rồi ông đã tự mình đưa ra những quyết định mà không tham khảo với ai cả (Cho dù có tham khảo tướng Cao Văn Viên và hai tướng thuộc vùng I, vùng II, nhưng ông là người quyết định một mình) và cũng không đưa ra một lời giải thích cũng không đề xướng ra một cuộc rút quân có chuẩn bị kỹ càng.

Người ta tự hỏi ông Thiệu có còn thích hợp để lãnh đạo nữa hay không? Đó là nhan đề bài báo President Thieu, Is he fit to lead?

Trong một buổi họp ở Nha Trang gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Khiêm, tướng Cao Văn Viên, các tướng Tư lệnh vùng như Ngô Quang Trưởng, vùng I, Nguyễn Văn Phú, vùng II. Sau khi nghe tướng Phú thuyết trình về tình trạng Ban Mê Thuột và xin thêm quân. Cả ông Thiệu và ông Khiêm từ chối tăng viện binh vì không có người.(3)

Theo tướng Cao Văn Viên sau này tiết lộ thì đã có đến ba đề nghị rút quân nếu không có viện trợ.(4)

Một thắc mắc nữa không kém quan trọng là ông Nguyễn Văn Thiệu có hỏi ý kiến người Mỹ khi rút quân ra khỏi Tây Nguyên không?

Theo Frank Snepp, ký giả chuyên viên phân tích của CIA ở Saigon, sau này cho biết thì ông Thiệu đã tự ý quyết định một mình mà không hỏi ý kiến người Mỹ.

Cũng theo Frank Snepp cho thấy là tinh thần binh sĩ quân đội miền Nam sa sút trầm trong. (Morale in the army was on the verge of collapse).(5)

Việc rút quân như thế cho thấy một thái độ tuyệt vọng của ông Thiệu vào thiện chí của người Mỹ.

Một thái độ tự tử chính trị của một người lãnh đạo quốc gia miền Nam.

Ngay đại sứ Graham Martin cũng ngạc nhiên về quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong bài viết của ông, The attack on Ban Me Thuot and Thieu’s decision to withdraw from the central highland came as a complete surprise to me. […] I don’t know who convinced him of this. But throughout all of this he didn’t tell us any thing.(6)

  • Sense of doom engulfs Saigon

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tháng 4, 1975. Nguồn: © Bettmann/CORBIS

Chính việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rút quân đoàn I và đã tạo cái cảnh tượng mà trong một bài viết nhan đề Sense of doom engulfs Saigon, trong đó phóng viên tờ N.Y. Times News Services mô tả tình trạng: The army is mad with fear and panic. It’s all collapsing before our eyes’. ( Quân đội rơi vào tình trạn điên loạn sợ hãi và sụp đổ trước mắt chúng tôi.)

Binh sĩ có làm loạn vì hoảng sợ thì đó không phải là lỗi của họ. Lỗi là cấp chỉ huy, các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Mỗi một sĩ quan cao cấp trong ngày 30 tháng Tư phải tự hỏi mình về trách nhiệm trước binh lính, quân đội.

Câu hỏi quan trọng nhất vẫn là tìm hiểu xem Tổng thống Thiệu ra lệnh rút quân mà không tham khảo với người Mỹ!

Theo Frank Snepp tiết lộ, tình báo Mỹ không biết tin về cuộc triệt thoái này. Ngay cả Đại sứ Martin là người có đủ thẩm quyền để được tham khảo về quyết định quan trọng này cũng không hề biết.

Việc rút quân này xem ra có những khuyến điểm sau đây:

  • Việc rút quân quá vội vã thiếu chuẩn bị. Nếu cần cho công binh đi trước vài ngay san sửa đường, đặt cầu.
  • Thứ hai, không có kế hoạch để di tản gia đình binh sĩ đi theo. Đến khi họ biết thì dân chúng hốt hoảng chạy theo binh lính, gây trở ngại và làm chậm trễ cuộc rút quân. Tại Phủ Lý, Nam Định, khi người Pháp tính rút quân. Họ đã chuẩn bị cho gia đình các quân nhân đi trước bằng xe camion, sau đó mới đến lượt các quân nhân đi theo. Cuộc rút quân êm thắm vào lúc gần sáng và không bị Việt Minh tấn công, cản đường. Đây đúng là lỗi lầm của tướng Nguyễn Văn Phú.
  • Ngày 17 tháng ba, 1975. Những giây phút cuối cùng của sự có mặt của người Mỹ ở Phnom Penh

Theo tin AP, ngày 17 tháng ba, tòa đại sứ Mỹ tại Phnom Penh đã cho nhân viên đốt tất cả các tài liệu và chuẩn bị đưa những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Cambodia. Và mặc dầu bị pháo kích vào phi trường bằng nhiều quả pháo kích.

Theo nguồn tin của UPI trong một nhan đề bài báo: Airlift resumes to Phnom Penh, foreigners flee cũng viết lại tương tự như hãng AP.

  • Ngày 20 tháng ba, 1975: South Viet Nam continues to Shrink

Hôm nay là ngày 20 tháng 3, năm 1975, nguồn tin của hãng thông tấn AP với tựa đề S. Vietnam continues to Shrink cho thấy tình trạng miền Nam càng thêm bi quan và có nguy cơ sụp đổ. Ngoài các tỉnh cao nguyên Trung phần đến lượt Huế Quảng Trị, nay có thêm tỉnh Bình Long, chỉ cách phía Bắc, Sài gòn có 60 dặm. Cạnh đó, Phước Long đã bị tràn ngập bởi cộng sản từ hồi tháng giêng. 17.000 dậm vuông đã rơi vào tay cộng sản với số dân là 1.700.000 dân, một phần 10 dân số miền Nam.

Sai Gòn nay phải nuôi thêm số dân cả nửa triệu người từ các nơi kéo về. Thực phẩm khan hiếm kéo vật giá leo thang. Và nhiều nhà đã bắt đầu lo tích trữ gạo, cá khô. Những người có thân nhân hoặc có tiền thì cũng tạm ổn. Còn những người không có thân nhân ở Sài Gòn thì chắc phải tạm trú ở những nơi công cộng.

Gia đình chúng tôi cũng có thêm anh em chạy từ Nhatrang về. Một số bạn bè từ Huế, Nha Trang, Phan Thiết, Quy Nhơn, lâu lắm không có dịp gặp nhau, nay có dịp họp mặt đông đủ.

Nhưng tôi còn nhớ rõ cái cảm giác lúc bấy giờ. Lo thì có lo nhưng vẫn có lý do chủ quan là Sài Gòn không thể nào mất được. Quân đội VNCH còn mạnh lắm.

Cái niềm tin tưởng biến thành cái mà Lewis gọi là thần thoại. Đó là điều mà ký giả Anthony Lewis đã viết một bài nhan đề Myth and Reality.

Mấy học trò cũ ở Nha Trang về vẫn rủ nhau đi ciné, vẫn đi ăn nhậu với mấy người bạn từ xa về.

Mất ở đâu thì mất, Sài Gòn không mất được!

Tôi vẫn ngây ngô tin tưởng rằng không bao giờ Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tin tưởng vào những lời tuyên bố trấn an của Tổng thống Ford như thuốc an thần, tin tưởng vào phái đoàn quân sự do tướng Frederick Carlton Weyand với những lời trấn an, tin tưởng vào những tin tức thế giới như, U.S. Aid decision soon. những trận đánh oai húng trong quá khứ như trận Quảng Trị 1972, Tết Mậu Thân 1968.

Mỹ đã bỏ ra 150 tỉ đô la và 50.000 xác người Mỹ tử trận ở đây lại không thể có một cố gắng cuối cùng sao?

  • Thiệu trước công chúng Sài gòn

Nếu có một cuộc thăm dò dư luận về ông Thiệu. Chắc ông chỉ nhận được một lá phiếu ủng hộ ông thì đó là lá phiếu của bà Thiệu.

Kể từ sau quyết định triệt thoái khỏi Tây Nguyên. Dân chúng oán ghét ông không ít.

Sợ bị ám toán, với bản tính đa nghi, ông phải đổi chỗ ở luôn.

Trong buổi nói chuyện với dân chúng Sài gòn vỏn vẹn trong vòng 5 phút, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng lực lượng quân số của Bắc Việt đông gấp 4 lần quân số của VNCH. Hà Nội đã gửi vào Nam 5 binh đoàn trong số 8 binh đoàn trừ bị.

Sau 5 phút vắn vỏi nói với dân chúng, ông Thiệu vội vàng rời dinh độc lập chui vào chiếc xe Limousine chống đạn (bullet proof limousine) xe hướng về một chỗ ẩn náu riêng, kín đáo của ông gần Hotel Majestic.

Tại nơi đây, ông lo ngại về việc ông Kỳ có thể nổi loạn chống lại ông. Bởi vì sáng nay, Kỳ đã công khai yêu cầu ông Thiệu phải từ chức. Sau đó cảnh sát đã bắt vài người trong nhóm của ông Kỳ cùng với ba nhà báo. Nhưng những thành phần thân cận nhất của ông Kỳ thì vẫn không bị đụng tới.

Xem ra việc bắt bớ này chỉ là một đòn cảnh cáo.

Phải nhìn nhận là miền Nam sắp bị chìm, nhưng các vị lãnh đạo xem ra chỉ lo cho bản thân mình.

  • Sài Gòn có nguy cơ rối loạn như Đà Nẵng

Để bảo đảm trật tự an ninh cho thành phố Sài Gòn, lệnh giới nghiêm là từ 10 giờ đêm thay vì 12 giờ đêm, vì ’because of the present emergency situation and security requirements’. Tin của AP đã loan báo như thế.

Nguồn tin của UPI cho hay, tòa đại sứ Anh tại xứ ‘Chùa Tháp’ đã đóng cửa và quyết định di chuyển toàn bộ nhân viên sứ quan về Sài Gòn.

Quyết định này chẳng biết là một quyết định khôn ngoan hay có tính giai đoạn?

UPI với tựa đề một bản tin ngày 20-3: Lon Nol won’t quit. Mặc dầu có nhiều áp lực đòi ông từ chức để may ra tình trạng có thể khá hơn không? Nhưng nguồn tin trên cho hay Lon Nol nhất định ngồi lại để đối phó với tình hình.

Mặc dầu nói mạnh miệng như vậy, nguồn tin ngoại giao cho hay, ông Lon Nol sẽ chuẩn bị rời Cambodia trong thời gian không bao lâu nữa.

Việc ra đi của ông coi như dấu hiệu sự đầu hàng cộng sản giống hệt trường hợp TT. Nguyễn Văn Thiệu.

Thật vậy, 85 phần trăm lãnh thổ Cambodia nay ở dưới quyền kiểm soát của quân phiến loạn cộng sản.

Với tình hình không mấy sáng sủa gì, bị bao vây bởi cộng sản, Phnom Penh phải đầu hàng. Chỉ còn con đường dẫn sang Saigòn, dọc sông Mé Kông là tương đối còn an toàn.

Nhiểu người việt sinh sống tại Cambodia cũng đã tìm cách chạy trốn về Sài Gòn. Nhiều già đình Việt Nam làm ăn khá giả ở Cambodia nay tìm cách chạy sang Việt Nam. Một nơi mà cho đến lúc này được coi là còn an toàn.

Mẹ trẻ ôm con thơ trên chiếc trưc thăng chạy khỏi Tuy Hòa, 22 Thàng 3, 1975 Nguồn: AP Photo/ Nick Ut.

  • Indochina, Light goes out

Trong một bài bình luận tổng quát của UPI về tình hình miền Nam: Indochina: Light goes out . Phóng viên cho hay, nếu tính toàn Đông Dương thì nay 75% đất đai đã thuộc về cộng sản và ánh sáng đang đứng về phía họ. Nay thì 50 % các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên đã rơi vào tay cộng sản. Người ta còn nhớ vào năm 1968, quân đội VNCH đả truy đuổi những tên cộng sản cuối cùng ra khỏi Huế. Pleiku cũng là nơi mà McNamara đã cho cộng quân biết thế nào là sức mạnh của vũ khí Mỹ. Quảng Trị ngày nào cũng là nơi chôn vùi không biết bao nhiêu bộ đội cộng sản, vào bao nhiêu chết bấy nhiêu.

Vậy mà nay tình trạng hầu như đã đổi khác, vai trò đã đổi.

  • Ngày 25, tháng ba. Huế thất thủ: Mass execution reported in Hue

Sáng ngày 25, chính quyền loan báo Huế thất thủ.

Quân đội Nam Việt lấp đầy mọi không gian có sẵn trên một con tàu di tản họ từ biển Thuận An, gần Huế, Đà Nẵng như Cộng quân tiến vào tháng Ba, 1975. (AP Photo / Cung)

Thuân An cách Huế chừng 10 dặm, kể từ chiều thứ hai, hàng ngàn người bằng đủ phương tiện đã tìm đến cửa Thuận An. Lính của quân đoàn một chạy cùng với gia đình nhốn nháo không biết thuộc đơn vị nào. Mạnh ai nấy chạy.

Phóng viên Peter Arnett nói đến một biển người ( an ocean of people) đang chờ đợi để được bốc đi khỏi Huế. Có một chiếc tầu đậu ngoài xa cách bờ biển khoảng 500 mét. Nhiều người đã cởi bỏ quần áo tìm cách bơi ra tàu.

Hàng ngàn xe cộ, súng ống đủ loại còn để lại chung quanh Huế, làm thế nào có thể chở di hết được? Chắc là sẽ bỏ lại hết để rơi vào tay cộng quân?

Hầu như có một sự bỏ rơi của cấp chính quyền và quân đội trong giờ phút này. Plei ku dã thế, nay Huế cũng vậy. Không thấy có một giới chức cao cấp nào có mặt để chỉ đạo các cuộc trốn chạy này.

Sau này, một số người chạy đến được bãi biển Đà Nẵng, cách Huế 50 dặm. Họ kêu gào, khóc lóc thảm thiết vì lạc mất người thân. Một số lính tráng bơi được ra tầu thủy thì nay không có quần áo, giầy bốt. Phần lớn không có súng.

Đến buổi chiều thứ hai thì có khoảng 3000 người tới Đà Nãng và người ta hy vọng đến đêm và sáng mai thì sẽ có thêm nhiều người hơn

Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau khi tuyên bố Huế thất thủ, vậy mà cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam được kéo lên.

Trước đây cờ này cũng đã được kéo lên một lần trong vòng hai tháng. 7 năm sau nó lại được kéo lên một lần nữa . Và lần này chắc không phải chỉ hai tháng!

Xa hơn nữa về phía Nam, Chu Lai và và Quảng Ngãi tự động bỏ ngỏ, rút lui.

Sau này, khi được tin Huế thất thủ, phía bên kia cho hay Văn Tiến Dũng đã không kìm giữ được xúc động. khóc và ông đã viết: Tôi đã đốt một điếu thuốc lá mà từ lâu tôi đã bỏ không hút.

Và Văn Tiến Dũng chắc còn phải khóc và hút thuốc nhiều lần nữa. Khóc đến không kịp khóc nữa.

Theo tin của thông tấn xã UPI khi Cộng quân chiếm thị xã Huế. Chúng đả xâm nhập một bót cảnh sát ở ngoại ô thành phố về phía Đông.

Theo lời một nhân chứng sau này vào được Saì gòn, ông cũng là một cảnh sát viên và đã chứng kiến 5 sĩ quan cảnh sát cùng một thiếu niên 18 tuổi bị chặn bắt trên bãi biển. Chúng bắt họ xếp hàng và sau đó đã hành quyết tửng người một như giết một con chó.

Những người dân Huế chắc không thể nào quên được cuộc thảm sát ở Huế. Nhưng mãi 18 tháng sau , vào mùa thu 1969, vụ thảm sát Huế mới nổ bùng ra và kết quả cho thấy không phải hàng ngàn mà hàng vài ngàn dân Huế đã bị thảm sát bởi cộng sản.

Huế đối với tôi vẫn là miền đất bất hạnh. Sinh ra ở đâu cũng được nhưng đừng sinh ra ở Huế.

  • Ngày 26 tháng 3, 1975 Disordely retreat..một cuộc rút quân hỗn loạn

Nay Đà Nẵng trở thành bị cô lập!!

Theo thông tấn xã AP thì đây là một cuộc rút quân hỗn loạn. (Disordely retreat)

Trong một cuộc tháo chạy hỗn loạn thì ai là người anh hùng, ai là kẻ hèn nhát. Thật khó để đưa ra một lời phê phán.

Trước cái chết gần kề, phản ứng của con người có thể là anh hùng và cũng có thể là ngược lại.Vì thế, có một bản tin khác cũng của AP do ký giả Peter O’Loughlin bình luận từ Tuy Hòa như sau:

Heroism, Cowardice, Bitter refugees.

Trước cái sống và cái chết. Ai cũng chọn cái sống còn. Ai cũng muốn chạy thoát thân. Đó phải chăng là trường hợp dành cho đại tá Lữ Đoàn trưởng, và trung tá Lữ đoàn phó Thủy quân lục chiến mà dưới quyền họ có khoảng 4000 thủy quân lục chiến, đã đào ngũ khi đối diện với quân địch? Tòa án quân sự nào sẽ xử tử hình theo quân luật? Đó là nỗi nhục nào chỉ riêng cho đại tá Lữ đoàn trưởng Thủy Quân lục chiến? Nếu biết rằng sống chết không tùy thuộc vào khả năng của mình thì sẽ phải hành xử như thế nào? Và người ta sẽ dựa vào đâu để sống? Sống hèn hay chết can đảm? Chỗ nào là tình người? Chỗ nào là tình chiến hữu?

Đã có nhiều người bất lực trước những chọn lựa khó khăn đó. Nhưng cũng đã có những người đã chọn lựa thành anh hùng và cũng đã có người chọn lựa sống hèn?

Hay là kết luận cuối cùng vẫn là những người tỵ nạn nếm mùi cay đắng!

Có thể khi rút quân, tướng lãnh miền Nam cũng lo sợ rơi vào tình trạng hỗn loạn mà kinh nghiệm về quân sử còn để lại cho họ. Nhưng không một ai muốn tiên đoán trước về một thảm họa như thế.

Ai anh hùng, ai hèn nhát? Nay không phải là lúc mở hồ sơ để kết tội?

  • Thiệu abandoned us

Có lẽ trong cuộc tháo chạy này, kẻ bị oán ghét nhiều nhất không ai khác là ông Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều người đã ghét ông trong vai trò tổng thống. Kissinger là người lãnh đạo cao cấp của Mỹ cũng ghét cay, ghét đắng ông Thiệu. Nhưng có lẽ sự thù ghét này chỉ thực sự oán ngút trời đối với tất cả những ai rơi vào hoàn cảnh người dân chạy cộng sản từ lúc thoát chạy khỏi Tây Nguyên.

Theo ký giả Peter O’Loughlin hàng ngàn người tỵ nạn chạy trốn đã sống sót sau cuộc truy đuổi của cộng quân. Nhiều người trong số họ đã lớn tiếng chửi bới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Thieu abandoned us. Một người đàn bà đã nói như thế.

Và có thể nhiều người khác cũng nói như thế. Ông Thiệu, ông Khiêm đều là những ngưới quá khôn ngoan nên biết tham sống mà sợ chết.

Và có thể mọi người dân khốn khổ chạy trên truyến đường 7B hướng về phía Tuy Hòa đều có tâm trạng như người đàn bà này. Tâm trạng cảm thấy bị đem con bỏ chợ, giữa rừng núi, giữa các con đường mà đôi khi cấu cống chưa sửa chữa, rơi vào thế kẹt. Đi không được, lui cũng không được.

Và rồi các binh lính trên các xe thiết vận xa đã thiếu kiên nhẫn, tức tối cán bừa lên bất cứ trở ngại nào đang cản đường họ để tiến về phía trước. Xe cộ, xác người bị cán. Bất kể. Cán hết. Tiến về phía trước.

  • Disordely retreat

Trước khi Đà Nẵng thất thủ thì số dân nay phồng lên đến 2 triệu người. Dưới quyền tướng Trưởng nay chỉ còn 25 ngàn quân. Đà Nẵng có lợi thế hơn Huế vì có hải cảng và việc quân xem ra thuận lợi hơn nhiều. Và nhờ thế có thể giảm áp lực của số dân tỵ nạn khi cần rút lui. Nhưng trong việc rút quân này, cộng sản rút kinh nghiệm ở Huế cũng dùng áp lực dân chúng sợ hãi gây thêm gánh nặng cho chính quyền và quân đội Quốc Gia.

Thời gian nay là yếu tố quan trọng nhất của thành công hay thảm bại của cuộc lui quân. Đại tướng Smith đã gửi ra Đà Nẵng vào ngày 25 tháng ba 5 tàu kéo, 6 sà lan và ba tàu thủy. Phần Air America cho biết không có đủ phương tiện máy bay để ra Đà nẵng.

Con số tàu như thế khéo lắm chỉ đủ chuyên chở người Mỹ và nhân viên phụ cận là cùng. Số còn lại hàng nửa triệu người dân muốn được di tán là một bài toán không có đáp số.

Ngày 26 thì tướng Trưởng chỉ kịp cho vợ con cùng với vợ con lãnh sự Mỹ và Philip Custer  (bí danh của Trưởng cơ sở CIA ở Đà Nẵng), với Terry Tull được đi trên một chuyến bay đặc biệt của DAO.

Xem tiếp phần II, III

1) Tác giả gợi lại hình ảnh trận chiến rút lui của liên quân Anh và Pháp bị sa lầy ở bãi biển Dunquerque từ 21 tháng 5 đến 4 tháng sáu năm 1940.
(2) Xem báo Đi Tới, số 32, năm 2000, trang 12. Tướng Ngô Quang Trưởng sau này có tiết lộ trong bài Tại sao tôi bỏ quân đoàn 1. Ông cho biết ngay từ ngày 13 tháng ba, năm 1975, ông được lệnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gọi vào trình diện ở Sài Gòn và ra lệnh: ‘Phải rút khỏi Quân Đoàn I càng sớm càng tốt. Lệnh phải rút về Phú Yên, ngày 14-3 lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới.’ Lệnh này chỉ có Tổng thống, Thủ tướng, Đại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân Đoàn I và tư lệnh quân đoàn II, tướng Phạm Văn Phú biết mà thôi. Đến ngày 18-3, tướng Cao Văn Viên theo chỉ thị Tổng thống ra lệnh bỏ Huế.
(3) Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh sư đoàn Dù, trước 1975 trong một bài viết, Thiệu xé rách sư đoàn Dù làm gì? Trong đó tướng Lưởng nhận lệnh trực tiếp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đưa sư đoàn Dù về Sài gon. Trích báo Đi Tới, số 32, 2000.
(4) Cao Văn Viên, Những ngày cuối của VNCH, trang 130. Đề nghị của tướng Đồng Văn Khuyên, tổng cục tiếp vận đề nghị co cụm lại cho tương xứng với sự cắt giảm viện trợ. Đề nghị thứ hai của tướng John Murray một sơ đồ tương tự như của tướng Khuyên. Đề nghị thứ ba của tướng Ted Sarong, Úc Dại Lợi một kế hoạch tương tự.
(5) Frank Snepp, Decent Interval, trang, 149.
(6) Larry Engelmann, Tears before the rain, trang 53

Nguyễn Văn Lục


 

Vài suy nghĩ về giải Nobel- Trịnh Khả Nguyên

Ba’o Tieng Dan

19/10/2024

Trịnh Khả Nguyên

Giải Nobel và chính sách giáo dục

Hằng năm, cứ vào khoảng tháng 10 thì bên Thụy Điển, Na Uy công bố tên các vị được nhận giải Nobel về y học, hóa học, vật lý, kinh tế, văn chương, hòa bình của năm đó.

Đây là một tin vui cho các vị được nhận cái giải cao quý kia và cho các nước liên quan đã đành, mà nó còn là tin vui cho cả thế giới nữa. Nhiều nước cũng bắt chước, đã lập và trao một số loại giải thưởng, nhưng chỉ một thời gian thì các giải này tự động chết mòn, hoặc chẳng ai mặn mà gì. Những người được trao loại ấy cũng chẳng có danh tiếng gì. Còn giải Nobel, dù do một cá nhân, một nhà khoa học, ông Alfred Nobel lập ra, nhưng đó là giải thưởng có uy tín, danh giá, có thể là danh giá nhất trên thế giới, trong các lĩnh vực đã kể.

Chỉ một việc giải Nobel được tôn vinh hơn một trăm năm qua, đủ chứng minh điều ấy. Hầu hết những người đoạt giải là những nhân tài, họ là những “đỉnh cao trí tuệ” của loài người. Đó là nhận xét chung, tuy nhiên trong quá khứ cũng có một vài tranh cãi, tai tiếng khi đề cử, chấm chọn, đặc biêt ở hai lĩnh vực văn chương và hòa bình, ví dụ như giải Nobel văn chương trao cho ông Jean-Paul Sartre năm 1964 và giải Nobel Hòa Bình năm 1973 cho một nhân vật ở Việt Nam, gây tranh cãi.

Thông thường một giải thưởng có hai chiều. Giải Nobel cũng thế, nó vinh danh một hay nhiều cá nhân. Ngược lại, những người đoạt giải, với tài năng, sự đóng góp của mình cũng làm cho giải có uy tín và có giá trị hơn. Còn những loại giải chẳng ra gì thì cũng chẳng làm cho người nhận được thêm tí hãnh diện nào, hoặc những người chẳng ra gì mà được phát một giải nào đấy thì cái giải kia cũng chẳng ra gì cả.

Giải Nobel mang lại danh dự cho một cá nhân và đất nước. Chính vì thế, nước nào cũng mong có người của mình đoạt Nobel. Nhìn lại bảng danh sách những người đến từ các nước đoạt giải Nobel, từ khi giải này được thành lập đến nay, có thể thấy rằng họ đã đóng góp nhiều phát minh, sáng kiến cho thế giới. Nếu không có họ thì thế giới hôm nay như thế nào? Như thế nào thì không biết, nhưng chắc không như thế nầy, nghĩa là thế giới cần đến những con người kia, chứ không phải có hay không những vị đó thì cũng chẳng “chết ai”, kiểu “không mợ chợ cũng đông”. Tương tự như bên thể thao, nếu không có các danh thủ, các “cường quốc thể thao” thì World Cup, Euro Cup… chắc buồn lắm.

Cũng có một số người, một số nước muốn có giải Nobel để có “danh gì với núi sông”, kể cả danh hảo để họ huênh hoang, để tự sướng. Thậm chí, họ chỉ mong được đề cử thôi, cũng đã hãnh diện lắm rồi.

Các nước có người đoạt giải Nobel tất nhiên là các nước đó có nhân tài. Nhưng người tài ở đâu ra? Có sẵn trong nước hay du nhập vào? Các nước đó có cách thu hút người giỏi. Họ có một nền giáo dục tốt, có tự do dân chủ cho người ta thoải mái làm việc, bày tỏ chính kiến. Họ không đầu tư mở trường chuyên, lớp chọn, không có các trại sáng tác, trung tâm luyện “gà đá” để đi thi. Ngoài việc có được người đoạt giải danh giá như giải Nobel, cần có một nền giáo dục tốt, một môi trường sống tốt là yếu tố để phát triển đất nước.

Giải Nobel Văn chương và Hòa bình

Giải Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học, y học, kinh tế thì cao sâu, chuyên biệt nên khó hiểu đối với đại đa số, nhưng giải Nobel về văn chương và hòa bình là tương đối phổ thông. Trước năm 1975, ở miền Nam có những cuốn sách được dịch ra từ các tác phẩm hay, nếu sách đó được giải Nobel, thì chúng thường được quấn quanh bởi một cái ruy băng có câu “Giải Nobel năm …”, để “câu” người đọc.

Còn nhớ, giải Nobel văn chương năm 1964 định trao cho nhà văn, triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre, nhưng bị ông ta từ chối. Trong thập niên 1960, triết gia, nhà văn Sartre có một thời thiên tả. Có lẽ đây là lý do ông từ chối nhận giải Nobel năm 1964 và việc từ chối này cũng là một cách tự đề cao mình (hơn cả giải Nobel). Vào những năm đó, ông cùng với nhiều nhân vật thiên tả ở châu Âu chống chiến tranh Việt Nam. Họ được gọi là những người yêu chuộng hòa bình, là “loài người tiến bộ” đại diện cho “lương tâm của nhân loại, lương tri của thời đại”. Nhưng sau năm 1975 thì các vị này đổi thái độ. Ngay tại miền Nam Việt Nam vào những năm đó cũng có phong trào tranh thủ hòa bình.

Giải Nobel hòa bình không lạ với người Việt chúng ta; năm 1973 đã có người Việt Nam được đề cử cùng nhận giải này với một người khác, nhưng người Việt đó từ chối, không phải là vì lý do “cùng nhận”, mà vì lý do riêng. “Cùng nhận” là chuyện xảy ra bình thường đối với các vị nhận giải Nobel. Trớ trêu thay, năm 1973 giải Nobel hòa bình cho Việt Nam chỉ có ở Thụy Điển; còn ở Việt Nam lúc đó chẳng có hòa bình, mà ngược lại, chiến tranh còn ác liệt hơn. Phải chăng nhân vật này biết rằng, ông ta đang cùng với lãnh đạo của mình chuẩn bị gây chiến thêm, thay vì kết thúc, cho nên đã từ chối giải thưởng kia?

Cách hơn chục năm, Trung Quốc cũng đã dựng lên giải Nobel Hòa bình Khổng Tử để đối trọng với giải Nobel hòa bình thế giới. Không biết giải hòa bình mang tên vị hiền triết kia phát được mấy lần, tồn tại được bao nhiêu năm và trao cho những ai, nhưng năm 2011 họ đã trao cho Putin, nhân vật đã và đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine gần 3 năm qua, gây bất ổn trong khu vực châu Âu.

Về giải Nobel Hòa bình Khổng Tử, điều mỉa mai là, trước đó tư tưởng của Khổng Tử bị đánh cho lên bờ xuống ruộng, bị phê đến không còn chỗ phê, cái tượng của ông ở quê nhà cũng bị đập phá. Thế mà khi cần, tên ông lại mang ra đặt cho giải thưởng hòa bình.

Giải Nobel Hòa bình năm nay được trao cho tập thể Nihon Hidankyo của Nhật Bản hôm 11/10/2024. Nihon Hidankyo là tổ chức những người Nhật Bản sống sót sau các vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Hiện có người còn sống, còn chịu thương tật nặng nề. Chính vì thế, họ rất sợ vũ khí hạt nhân và họ đang kêu gọi cho một thế giới không sử dụng loại vũ khí nầy. Nguy hiểm đang chực chờ không phải Hiroshima và Nagashaki đã qua, mà là do hiện nay có người mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa về thế chiến thứ ba.

Ông Toshiyuki Mimaki, chủ tịch tổ chức Nihon Hidankyo, chủ nhân giải Nobel Hòa bình 2024. Ảnh trên mạng

Ngày 6/8/1945 Mỹ thả một quả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima, ba ngày sau, ngày 9/8/1945 Mỹ lại thả quả thứ hai xuống Nagasaki. Số người chết và bị thương rất lớn, ước chừng 140.000 người, cả quân nhân và dân thường, nhưng đến nay vẫn chưa thống nhất về con số nạn nhân vì nhiều lý do. Hằng năm, đến ngày 6/8 nước Nhật tổ chức lễ tưởng niệm các nạn nhân kia. Các buổi lễ đều diễn ra ôn hòa, nhằm mục đích kêu gọi không sử dụng vũ khí hạt nhân, chứ không phải mang tính kích động thù hận “đến tận xương tủy”.

Người đại diện cho phía ném bom, Tổng thống Mỹ, cũng đã có lần đến viếng nơi ấy. Ngày 27/5/2016, tại Công viên Tưởng niệm Hòa bình Hiroshima, Nhật Bản, Tổng thống Obama đã đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm và nhắm mắt, cúi đầu dành một phút mặc niệm, tưởng nhớ những nạn nhân thiệt mạng sau khi Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ nhất xuống Hiroshima vào ngày 6-8-1945. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng đến đặt vòng hoa tưởng niệm tại đây.

Và mới đây, ngày 20/5/2023 các nước G7 (dĩ nhiên có Mỹ và Nhật) đã chọn Hiroshima để họp bàn về hợp tác toàn cầu, kêu gọi hòa bình, không để chiến tranh hạt nhân xảy ra. Hai “cựu thù” Mỹ – Nhật đều xem sự việc Hiroshima và Nagashaki là “quá vãng nhi bất thuyết”, bây giờ là lúc cần hợp tác “hòa giải, hòa hợp để cùng tiến bộ, nhằm tránh điều đáng tiếc đã xảy ra. Trong khi đó, dư luận tại một số nước thì hành xử ngược lại, hằng năm cứ đến ngày 6/8 họ nhắc lại sự kiện Hiroshima để khoét sâu nỗi đau của người dân Nhật.

Hiện nay, vài nước trên thế giới đang chịu đựng chiến tranh xâm chiếm do sự hiếu chiến, tham vọng phục hồi đế chế của một số lãnh đạo độc tài; các lãnh đạo này đem vũ khí hạt nhân ra hù dọa. Dù chỉ là hù, nhưng thế giới cũng cảm thấy bất an và cảnh giác. Trong bối cảnh đó, giải Nobel hòa bình năm nay vinh danh tổ chức Nihon Hidankyo, nạn nhân của bom nguyên tử năm 1945, thật có ý nghĩa.

Việc làm này không nhằm mục đích nhắc lại chuyện cũ để gây hận thù, chia rẽ, mà là kêu gọi cho một thế giới không dùng vũ khí hạt nhân và cũng là một cách trả lời cho những lời đe dọa dùng bom nguyên tử một cách vô trách nhiệm của một số lãnh đạo độc tài ở một số nước trên thế giới.


 

Trung Quốc gây hấn Biển Đông: Bóng ma quá khứ đang hiện hữu-Sonnie Tran/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 15, 2024

Sonnie Tran/SGN

Mùa thu năm 2024, lịch sử như “cô đặc lại” thành nỗi uất hận bị kìm nén từ năm 2014  bỗng lại “bùng nổ” và tái diễn trên Biển Đông. Vụ việc tàu Trung Quốc tấn công dã man ngư dân Việt Nam ở vùng biển Hoàng Sa vào cuối Tháng Chín đã khơi dậy những ký ức đau buồn về những ngày Tháng Năm năm 2014, khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Căng thẳng leo thang, và bóng ma của quá khứ đang phủ bóng lên hiện tại, đặt ra câu hỏi: Liệu Biển Đông có đang bước vào một giai đoạn bất ổn mới?

Những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng các hành động quyết liệt nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền phi lý của mình trên Biển Đông. Bắc Kinh không chỉ đơn thuần tuyên bố chủ quyền với hầu hết diện tích Biển Đông, mà còn tích cực triển khai các hoạt động nhằm hiện thực hóa tham vọng bá quyền này.

Lịch sử quay lại sau 10 năm

Từ ngày thay đổi lãnh đạo trên thượng tầng Ba Đình, người dân Việt Nam vốn ngại đụng chạm đến chính trị vì lo ngại đàn áp bỗng có đôi chút trông chờ một sự thay đổi từ chuyến đi Mỹ và các chuyến công du quốc tế của ông Tô Lâm.

Các cuộc gặp gỡ và phát biểu “thừa nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ” của ông Tô Lâm, đặc biệt là những là cái bắt tay của ông với Tổng Thống Zelensky đánh dấu một dấu hiệu nhỏ nhoi về thay đổi lập trường trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga, tạo ra một số kỳ vọng về lập trường cứng rắn hơn của Việt Nam trước các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo của Trung Quốc.

Việc Thủ Tướng Trung Quốc Lý Cường tức tốc đến Hà Nội sau chuyến công du “gây xôn xao dư luận” của ông Tô Lâm, đã khiến người dân kỳ vọng vào việc chính quyền Việt Nam sẽ bày tỏ thái độ thẳng thắn và nghiêm khắc trước những vụ việc Trung Quốc đối xử tàn bạo với ngư dân Việt Nam trong những tháng gần đây.

Nhưng rồi mọi mong mỏi lại trở về với thất vọng khi phía Việt Nam hoàn toàn “lờ đi” cơ hội tiếp tục lên tiếng và gây sức ép với Trung Quốc và hành vi gây phẫn nộ cho nhân dân Việt Nam.

Nhớ 10 năm trước, ký ức về những ngày Tháng Năm năm 2014 vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam, như một vết sẹo không thể nào phai mờ. Vụ việc giàn khoan Hải Dương 981, một minh chứng rõ ràng cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, khơi dậy trong lòng người dân Việt Nam một ngọn lửa yêu nước sục sôi, làn sóng biểu tình phản đối Trung Quốc lan rộng trên cả nước. Ngay tại Hà Nội những ngày Tháng Năm năm ấy cũng sục sôi không khí hừng hực khắp nơi. Từ sáng đến trưa, các đoàn biểu tình chia thành từng đợt, nối đuôi nhau diễu hành qua nhiều con phố lớn, từ Đại Sứ Quán Trung Quốc tại Vườn hoa Chí Linh lên tận Nhà Hát Lớn của Hà Nội.

Họ hô vang những khẩu hiệu “Đả đảo Trung Quốc xâm lược!,” “Trung Quốc cút khỏi Biển Đảo của Việt Nam!,” “Vì Biển Đông quên mình, vì Biển Đông hy sinh!,” tiếng hô vang vọng khắp không gian, hòa vào nhau tạo nên một bản hùng ca bất khuất.

Ở phương Nam, tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM, cuộc mít tinh khổng lồ với sự tham gia của đông đảo cán bộ, sinh viên đã khơi dậy và giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, trách nhiệm và bổn phận của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; đồng thời thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc; phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép Hải Dương – 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

“Chia sẻ Tương lai” nào với Trung Quốc?

Bắc Kinh có những hành động ngang ngược, vi phạm luật pháp quốc tế trên ngư trường truyền thống của Việt Nam, dựa trên những tuyên bố chủ quyền phi lý và các hành vi áp đặt.

Trung Quốc đơn phương tuyên bố quyền thống trị trên thực tế đối với hầu hết diện tích Biển Đông, bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế rộng 370 km của bảy quốc gia ASEAN ven biển, trong đó có Việt Nam.

Theo tờ Asia Sentinel, việc Trung Quốc đầu tư nâng cấp căn cứ hải quân Ream ở Campuchia, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự chiến lược, gây ra nhiều lo ngại về việc Trung Quốc có thể sử dụng căn cứ này để triển khai lực lượng quân sự, kiểm soát vùng biển chiến lược, đe dọa an ninh khu vực. Trung Quốc khiến các lực lượng Mỹ khó đi lại tự do hơn và thách thức cấu trúc an ninh hiện tại do Hoa Kỳ lãnh đạo ở khu vực Indo-Pacific.

Bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven biển, Trung Quốc ban hành luật tuần tra hàng hải mới vào năm 2021, cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc tự ý định ra luật lệ, quy tắc và quy định quản lý hành vi trong 3.5 triệu km vuông biển – nơi có lượng hàng hóa thương mại ước tính 3 – 5 nghìn tỷ đôla mỗi năm đi qua.

Luật tuần tra hàng hải của Trung Quốc cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển nước này có quyền bắt giữ tàu thuyền ngoại quốc và giam giữ các tàu và cá nhân này lên đến 60 ngày nếu nghi ngờ họ xâm nhập trái phép vào vùng biển mà Trung Quốc tự nhận là “lãnh thổ không thể tranh cãi” dựa trên đường chín đoạn phi pháp – yêu sách đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ hoàn toàn vào năm 2016.

Vụ tấn công ngư dân Việt Nam gần đây là một minh chứng rõ ràng cho việc Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để thực thi những luật lệ ngang ngược này, coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven Biển Đông.

Kể từ khi cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974, Trung Quốc nhanh chóng triển khai chiến lược “tằm ăn dâu” trên quần đảo này, từng bước biến nó thành một căn cứ quân sự kiên cố, bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của Việt Nam.

Bắc Kinh thiết lập sự hiện diện thường trực trên Hoàng Sa, xây dựng các tiền đồn, cơ sở hạ tầng quân sự, hệ thống radar, đường băng, và các tổ hợp tên lửa, biến quần đảo này thành một “hàng không mẫu hạm” bất khả xâm phạm trên Biển Đông.

Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn ngang nhiên sáp nhập Hoàng Sa vào hệ thống hành chính của tỉnh Hải Nam và chính thức coi Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của mình, đồng thời khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng biển xung quanh, bao gồm ngư trường và các mỏ dầu khí.

Trung Quốc liên tục sử dụng các biện pháp ngoại giao và quân sự để khẳng định quyền kiểm soát Hoàng Sa, bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016, phủ nhận các yêu sách biển của các nước láng giềng.

Trong bối cảnh đó, liệu Việt Nam có thể đặt niềm tin vào “Cộng đồng chia sẻ tương lai” với Trung Quốc?

Khái niệm này được Bắc Kinh đưa ra như một tầm nhìn về sự hợp tác và thịnh vượng chung cho khu vực, nhưng thực tế lại đang đối nghịch với những hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trong khi Trung Quốc ra rả tuyên truyền về hợp tác và phát triển, thì họ lại liên tục có những hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền của các quốc gia láng giềng. Điều này khiến cho “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trở thành một khẩu hiệu sáo rỗng, thiếu tính thuyết phục và không tạo được lòng tin từ các quốc gia trong khu vực.

Thời gian gần đây, các động thái gây sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam xem ra có vẻ thô bạo và “phản ngoại giao” hơn thời Tổng Trọng.

Trước chuyến công du New York của ông Tô Lâm, trang Facebook của Tổng Lãnh Sự quán Trung Quốc tại Đà Nẵng đăng lại video vu cáo đại học Fulbright Việt Nam, kèm theo thông điệp cảnh báo về “cách mạng màu.”

Sau đó, Trung Quốc lần đầu tiên cho một thiết bị bay không người lái UAV bay dọc theo lãnh hải Việt Nam mà không gặp bất kỳ sự phản đối nào từ phía Việt Nam. Hành động này được xem là một động thái mang nhiều hàm ý, vừa phô trương sức mạnh, vừa thể hiện rõ ý đồ răn đe của Bắc Kinh, muốn khẳng định Biển Đông vẫn nằm trong tầm kiểm soát của họ và Hà Nội vẫn nằm trong tầm ngắm của Bắc Kinh. Đồng thời cảnh báo liên minh Mỹ – Philippines – những quốc gia đang có xung đột mạnh mẽ với Trung Quốc trên Biển Đông – rằng Trung Quốc vẫn còn nhiều quân bài chiến lược khác.

Ngay sau sau cuộc gặp giữa ông Tô Lâm và Tổng Thống Joe Biden hồi Tháng Chín, Trung Quốc phóng tên lửa hạt nhân như là một lời cảnh cáo gửi đến cả Việt Nam và Mỹ, nhằm thể hiện sức mạnh quân sự và quyết tâm bảo vệ yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.

Nhân dịp Bộ Trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự kỳ họp lần thứ 13 Ủy Ban Hợp Tác Kinh Tế Thương Mại Việt Nam – Trung Quốc ở Bắc Kinh, ngày 30 Tháng Chín, Bộ Trưởng Công Nghiệp và Công Nghệ Trung Quốc kêu gọi Việt Nam hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo máy bay.

Trước “mong muốn” này, Hà Nội sẽ phải đối mặt với áp lực không nhỏ từ các quốc gia phương Tây, đặc biệt là từ Hoa Kỳ. Bất kỳ sự hợp tác quá gần gũi nào với Bắc Kinh trong các lĩnh vực công nghệ cao, chẳng hạn như vũ trụ và hàng không, có thể gây ra những hệ quả đối với quan hệ Việt – Mỹ.

Trước những thách thức to lớn này, Việt Nam đang đối mặt với bài toán khó trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia khi phải  duy trì một chiến lược “ngoại giao cân bằng bền,” tiếp tục thu hút đầu tư và hỗ trợ từ phương Tây, đồng thời không để mối quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng quá mức.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông được cho là chưa đủ hiệu quả để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Việc duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc trong khi vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền là một thách thức lớn. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về kinh tế và thương mại, khiến cho việc phản ứng mạnh mẽ trước các hành động của Trung Quốc trở nên khó khăn.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông còn thiếu sự linh hoạt và chủ động. Việc quá tập trung vào việc duy trì quan hệ song phương với Trung Quốc, trong khi chưa khai thác hết tiềm năng hợp tác đa phương với các nước lớn khác như Mỹ, Philippines và các nước Đông Á có chung tranh chấp vùng biển với Trung Quốc…, đã vô hình trung tạo điều kiện cho Trung Quốc gia tăng sức ép lên Việt Nam.

Chính sách “bốn không” trong quốc phòng (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) được một số nhà phân tích cho là đang hạn chế khả năng của Việt Nam trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn, tạo ra thế cân bằng lực lượng trên Biển Đông.

Việc chưa tận dụng tối đa các diễn đàn quốc tế và khu vực để lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, cũng được xem là một điểm yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Biển Đông đang trở thành điểm nóng địa chính trị, nơi các cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích. Việt Nam cần phải có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, tăng cường năng lực quốc phòng, và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của mình.

Bóng ma của quá khứ đang hiện hữu trên Biển Đông, và tương lai của vùng biển này vẫn còn là một ẩn số.


 

Từ giải thưởng Nobel kinh tế, lại nghĩ đến Việt Nam-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba đồng sở hữu Nobel kinh tế

“Tiền là Tiên là Phật ». Chẳng ai phản đối câu nói dân dã này của người Việt Nam. Nói tóm lại Kinh tế quyết định tất cả. Sự thành bại của một cá nhân, của một quốc gia phụ thuộc vào kinh tế.

NHƯNG CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ THÀNH BẠI CỦA KINH TẾ

Câu trả lời nằm trong giải Nobel kinh tế 2024

Giải Nobel Kinh tế năm 2024 đã được trao cho Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì những nghiên cứu của họ về tầm quan trọng của các thể chế đối với sự thịnh vượng của các quốc gia. Họ chỉ ra rằng các thể chế dân chủ, bảo vệ quyền sở hữu và hạn chế lạm dụng quyền lực, giúp thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế lâu dài. Ngược lại, các thể chế chiếm đoạt, tập trung quyền lực và tài sản vào một số giới nào đó thường kìm hãm sự phát triển kinh tế. Những nghiên cứu của họ được thể hiện trong cuốn sách “Why Nations Fail: The origins of Power, Prosperity, and Poverty”(Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói).

Tôi không muốn đi sâu vào các chi tiết của cuốn sách, chỉ biết rằng cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 2012 được dịch ra hơn 30 thứ tiếng(kể cả tiếng Việt). Cuốn sách đã có 1 ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và phát triển.
Đã có biết bao nhiêu bài báo, sách vở chỉ trích chế độ độc tài, nguyên nhân của sự nghèo đói và kém phát triển. Nhưng cuốn sách này là một cuốn nghiên cứu sâu rộng, khoa học với các dẫn chứng cụ thể và nó đã xứng đáng đạt giải Nobel. Như vậy, giải Nobel cũng đã chính thức vạch mặt chỉ tên độc tài.

Bây giờ tôi muốn nói đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của các chế độ độc tài.
Các chế độ độc tài, dù có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài, cuối cùng cũng có xu hướng sụp đổ vì nhiều lý do mang tính cấu trúc. Về bản chất, các chế độ này không ổn định, giống như một thứ cân bằng không bền, mà đã có lần tôi đã dùng đến trong một bài viết trước đây.(Người đi trên dây là một thí dụ cân bằng không bền. Quả lắc đồng hồ là 1 thí dụ về cân bằng bền). Lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta nhiều thí dụ về tính không ổn định và sự sụp đổ không tránh khỏi của các chế độ độc tài.

Một cách ngắn gọn nhất, Các chế độ độc tài sụp đổ vì :
1. Điểm yếu đầu tiên là nó thiếu tính chính danh từ nhân dân, tính chính danh dân chủ. Khác với các chế độ dân chủ, các chế độ độc tài thường cướp chính quyền và duy trì quyền lực bằng bạo động và đàn áp. Đây là những nguyên nhân gây ra bất mãn và các phong trào phản kháng của nhân dân. Khi những bất mãn này đạt đến đỉnh điểm, chế độ sẽ sụp đổ dưới áp lực của các cuộc đấu tranh, biểu tình của nhân dân.
2. Điểm yếu thứ hai của độc tài là nó tập trung quyền lực vào tay của một cá nhân hay một nhóm. Điều này dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng tràn lan. Thiếu sự kiểm soát và đối trọng, các chế độ này trở nên mục nát từ bên trong, sẽ đến lúc không thể nào cứu vãn được.
3. Điểm yếu thứ ba chính là điều mà giải thưởng Nobel kinh tế 2024 đã nói đến, Kinh tế kém hiệu quả. Các chế độ độc tài không thể đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tự do cá nhân bị bóp nghẹt, tự do sáng tạo sẽ bị hạn chế. Tham nhũng làm bộ máy kinh tế không thể nào hoạt động một cách bình thường.

Sự phồn thịnh hay đói nghèo của một đất nước hay một dân tộc không phụ thuộc vào vị trí địa lý, chủng tộc hay tôn giáo hay sự ngắn dài của lịch sử mà là kết quả của thể chế chính trị. Nước Mỹ chỉ có hơn 200 năm lịch sử, nước ta trên 4.000 năm…

Tuy nhiên, một số đặc điểm riêng của VN(văn hóa, lịch sử, xã hội…) đã làm cho chế độ cộng sản có thể bám rễ lâu hơn so với các nước khác. Tôi mạo muội đưa ra một số đặc điểm sau:

  1. Chế độ cộng sản không coi trọng cá nhân(trong nhân dân) và luôn luôn đề cao tính tập thể. Đặc điểm này có vẻ như hợp với người VN. Từ ngàn đời, người Vn ta có truyền thống sống trong các làng xã nhỏ bé, nơi mà mọi người biết rõ nhau, thậm chí có quan hệ huyết thống với nhau và cùng hỗ trợ nhau để tồn tại. Sự đoàn kết chặt chẽ này giúp hình thành tinh thần tập thể mạnh mẽ và dễ đồng nhất với tư tưởng cộng sản, vốn coi trọng tập thể và cộng đồng hơn cá nhân. Chế độ cộng sản đã khéo léo khai thác đặc tính này, sử dụng nó như một công cụ để duy trì sự thống nhất và kiểm soát xã hội.
  2. Tinh thần yêu nước và chống ngoại xâm: Người Vn có truyền thống yêu nước, có lịch sử lâu dài chống lại thành công các cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Chính quyền cộng sản đã rất thành công trong việc động viên, kích động nhân dân trong các cuộc chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. HỌ KÉO LÉO GẮN KẾT NHỮNG THÀNH CÔNG ĐÓ VỚI TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN, kiến nhiều người dân tin rằng Đảng với tư tưởng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của ngoại bang. Yêu nước trở thành yêu Đảng, Yêu CNXH. Chủ nghĩa yêu nước của VN tự nhiên trở thành một yếu tố quan trọng củng cố tính chính danh của chế độ, hóa giải được điểm yếu chí mạng của một chế độ độc tài.(Yếu tố số 1 nêu trên).
  3. Chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Nước ta là một nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu. Người Vn quen với việc chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Ngày xưa thì có vua, bây giờ thì có đảng. Trong cấu trúc xã hội VN, sự tuân thủ và tôn trọng quyền lực đã trở thành một phần của văn hóa. Chính quyền cộng sản đã kế thừa và khai thác mô hình quyền lực này, áp đặt quyền lực mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương. Điều này khiến cho người dân có xu hướng dễ chấp nhận và ít chống đối sự cai trị từ trên.
  4. Tính linh hoạt, khôn lỏi và thích nghi với hoàn cảnh. Trên đây là tôi tạm thời liệt kê một vài yếu tố có tính chất xã hội, cộng đồng, nói chung. Còn về cá nhân, người Việt có tính khôn lỏi rất cao để thích nghi với hoàn cảnh. Họ có thể chấp nhận điều chỉnh cuộc sống của mình dưới bất kỳ chế độ nào, luồn lách, tìm cái lợi riêng trong một thể chế chung tồi tệ. Người ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước những bất công của xã hội, miễn là mình còn có lợi. Hơn nữa, trong xă hội Việt Nam, gia đình là một yếu tố trung tâm rất quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Nhiều người tìm cách sống khôn lỏi, an phận để bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Chế độ cộng sản cũng khéo léo lợi dụng yếu tố này để duy trì sự ổn định, thậm chí khuyến khích việc giám sát lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
  5. Tính kiên nhẫn và sức chịu đựng. Chắc chắn chúng ta là một dân tộc có tính kiên nhẫn và chịu đựng rất cao. Nói một cách dân dã “thà đói khổ nằm nhà còn hơn là đi đấu tranh đòi hỏi một cái gì đó chống lại chính quyền”.

6 Dân trí. Dưới đây là một đoạn trích trong báo Tiền Phong, Cơ quan trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh : “Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng nề và dai dẳng của dân tộc: Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn quan tham lại nhũng: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/Cho nên quân nó dễ làm quan”.(trích nguyên văn)

Rõ ràng dân trí của chúng ta vẫn đang là một vấn nạn khổng lồ của ngày hôm nay. Xã hội chỉ thay đổi được trước những đòi hỏi mãnh liệt của quần chúng nhân dân.

Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, nhưng dân trí của ta có thể vẫn ở mức độ cách đây vài trăm năm của Châu Âu. Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ nhưng nếu dân trí không khá hơn thì chúng ta vẫn tiếp tục “xứng đáng được hưởng” những “thành quả” của CNXH và tiếp tục tiến tới CNCS, thiên đường.

Giải thưởng Nobel là giải thưởng quốc tế danh giá nhất giành cho những công trình nghiên cứu có những đóng góp lớn lao trong việc làm cho xã hội loài người tốt hơn. Phủ nhận các giải thưởng Nobel đồng nghĩa với phủ nhận sự tiến bộ của nhân loại. Vậy mà, theo tôi được biết, cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói” do Tiến Sỹ Nguyễn Quang A dịch đầu tiên, sau đó được nhóm khác có bản quyền dịch, xuất bản ở VN đã không được tái bản, thậm chí đang bị âm thầm thu hồi.

(Hình minh hoạ tranh vui của Nga “Cái hoạ không phải là ở chỗ ở bên trên nói láo mà ở chỗ bên dưới lại tin”).