50 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (I)-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Mẹ trẻ ôm con thơ trên chiếc trưc thăng chạy khỏi Tuy Hòa, 22 Tha’ng 3, 1975 Nguồn: AP Photo/ Nick Ut.

Trong dip kỷ niệm 50 năm này, hy vọng bài sau đây sẽ giúp mọi người Việt di tản nhớ lại mình, nhớ lại những đồng đội, nhớ lại cả một quá khứ vinh quang cũng như tủi nhục.

LỜI MỞ ĐẦU

Thật ra mới chỉ là 49 năm. Nhưng tính cho tròn số nên chọn là 50 năm. Có nhiều cách để ghi lại những ngày chót trước khi mất Sài gòn. Có tác giả ghi lại qua các tài liệu sách vở, hoặc người khác qua trải nghiệm sống của mỗi người. Mỗi cách ghi lại có cái hay và hữu ích của nó.

Riêng bài viết sau đây phần lớn dựa trên những bản tin, bài bình luận của các phóng viên, các tác giả ngoại quốc có mặt ở Việt Nam đã viết trong khoảng thời gian hơn một tháng khi mất Sài Gòn. Những bản tin này thường vắn, gọn cô đọng mang tính thông tin nhiều hơn. Nhưng khi viết thành một bài viết dựa theo thứ tự thời gian, người đọc có thể hiểu tận tường diễn tiến các biến cố ấy đã được diễn ra thực sự trên đất nước của mình như thế nào.

Nó có thể thiếu mức độ rung động tình cảm như thương, ghét, giận, buồn. Nhưng bù lại nó khá trung thực và có thể giúp người đọc gạt bỏ được những nhận thức quá khứ nhiều khi do nghe nói.

Trong dip kỷ niệm 50 năm này, hy vọng bài sau đây sẽ giúp mọi người Việt di tản nhớ lại mình, nhớ lại những diễn tiến thời sự như một chuỗi biến cố nối tiếp nhau dồn dập, như một chuỗi giây chuyền, nhớ lại hoàn cảnh bi kịch của những đồng đội, nhớ lại cả một quá khứ vinh quang cũng như tủi nhục.

Thoạt đầu, dẫn đầu đoàn tuần hành chống chiến tranh Việt Nam có bác sĩ Benjamin Spock, cao lớn, người đàn ông tóc bạc trắng, và Tiến sĩ Martin Luther King Jr., thứ ba từ bên phải, trong một cuộc diễn hành trên đường State ở Chicago, Ill., March 25, 1967. Bác sĩ Spock là đồng chủ tịch của Ủy ban Quốc gia về chính sách hạt nhân đúng mực. (AP Photo)

  • Câu chuyện mở đầu từ nước láng giềng Cambodia

Thật sự thì người Việt Nam nói chung ít quan tâm đến tình hình của nước láng giềng Cambodia lắm. Từ Sài gòn sang Cambodia, đường bộ chỉ hơn trăm cây số mà mấy người đã đi qua thăm láng giềng. Quan hệ buôn bán làm ăn, quan hệ du lịch, quan hệ liên quan đến an ninh, đến chiến tranh cũng ít ai quan tâm cho đủ.

Nhưng nay câu chuyện có thể khác. Những gì đang xảy ra, sắp xảy ra ở bên Cambodia cũng là những điềm dự báo thời cuộc cho Việt Nam.

Time is running out | Ngày 7/3/1975

Time is running out, Đại sứ quán Mỹ cảm thấy sẽ mất Campuchia. By SYDNEY H. SCHANBERG New York Times Service PHNOM PENH

Đây là một bản tin của hãng AP gửi đi từ Hoa Thạnh Đốn cảnh báo tình hình ở Cambodia xem ra hết sức bi quan. Phóng viên đăng tải tin này với hàng tít Time is running out.

Đó là tựa đề nhạy cảm về tình hình nước bạn láng giềng. Người bi quan nghĩ rằng vận may có vẻ không còn nữa. Tổng thống Ford được coi là càng ngày càng bị lẻ loi, bất lực vì không hy vọng giàn xếp để có được tối thiểu 220 triệu đô la để giúp cho nước Cambodia có thể cầm cự được.

Tổng thống Ford vào tối thứ ba cảnh cáo tuần này, tức ngày 7 tháng 3 rằng nếu không có số tiền đó thì nội trong 10 ngày sắp tới, Cambodia sẽ rơi vào tay cộng sản.

Cảnh cáo như thế mà xem ra Quốc Hội Hoa Kỳ hầu như có vẻ không quan tâm gì.

Cũng theo thông tin của phóng viên Sydney H.Schanberg của tờ New York Times tại Cambodia thì tòa đại sứ Mỹ ở đây đang cố gắng hết sức mình để sau cuộc đầu hàng có thể giải cứu được một số người ra đi một cách an toàn và nhân đạo.

Ông đại sứ Mỹ tại Cambodia, John Gunther Dean, xem ra hết hy vọng vào lời hứa cứu trợ cấp tốc 220 triệu đô la! Không có số tiền đó cũng là một cách chấm dứt chuyện người Mỹ có mặt trong 5 năm cuộc chiến tranh với bọn phiến loạn (bọn Khmer rouge – Khmer đỏ).

Một bên ngay tại nước Mỹ ông Tổng thống Mỹ lo có tiền để cứu trợ khẩn cấp, một bên tòa đại sứ Mỹ tại Cambodia lại lo tính chuyện di tản. Mà như thể hai cái lo đó chẳng dính dáng gì đến nhau cả? Tính tình người Mỹ cũng có cái lạ, họ làm tới cùng cho đến khi không còn chút hy vọng gì!

  • Cái lo của Cambodia cũng là cái lo của các cấp lãnh đạo miền Nam như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Cái lo ấy ông Thiệu cũng đã tìm đủ mọi cách xoay sở. Ông Thiệu cũng đã gửi tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng sang Mỹ vận động, tìm nguồn tài trợ từ Ngân hàng Thế giới, từ Paris cựu thực dân ở Việt Nam, từ Nhật Bản.

Và từ vua dầu lửa Arabia bằng cách gửi đại sứ Vương Văn Bắc đi vay tiền các nước Ả Rập.

Và cái lo cuối cùng không biết làm thế nào, ông tính thế chấp 16 tấn vàng để có tiền mua vũ khí đạn dược! Ông cũng nghĩ xa gần đến việc khai thác dầu hỏa ở Vũng Tàu.

Nghĩ lại trong suốt 21 năm cầm cự với cộng sản, đây là thời gian gay go nhất cho chính thể Đệ II Cộng hòa. Gay go không phải tại người, tại kém trí, tại thiếu can đảm mà chỉ tại không có tiền mua súng đạn.

Nếu cứ theo phúc trinh của ông thượng nghĩ sĩ đảng cộng hòa Paul Norton “Pete” McCloskey, Jr. thì:

Theo Ngũ giác đài thì quân đội VNCH có số quân bằng 3 so với 1 của phía quân đội miền Bắc.

Trong tài khóa 1973-1975, ngay sau khi ký thỏa ước đình chiến Ba Lê, Sài Gòn nhận được 3,98 tỉ tiền viện trợ từ phía Mỹ. Hà Nội chỉ nhận được 1,48 từ phía Tầu cộng và Nga Xô cộng lại.

Xét về mặt hỏa lực, ‘firepower superiority ratio’, cũng kể từ sau Hiệp Định Ba Lê, là 7 so với 1 của phía bên kia. Đấy là chưa kể đến khả năng của không quân Việt Nam.

Vậy thì xem bảng so sánh trên, chả có lý do gì Việt Nam lại thua cuộc. Ông nghị đảng Cộng hòa Mỹ đưa ra những lý do tinh thần xem ra chẳng thuyết phục được ai cả.

Đó là vì cộng quân dù thua vì ‘outgunned’, ‘outnumbered” nhưng lại hơn về aggressiveness, will và sense of purpose.

Riêng người Việt chúng ta ngày hôm nay cũng nên suy xét về điều này để hiểu rõ ta và địch.

Chúng ta đi giầy để đánh cộng sản. Họ đi chân đất. Rồi có lúc thằng đi chân đất chạy nhanh hơn thằng đi giầy.

Xem ra tiền không giải quyết được mọi chuyện, nhất là chuyện chiến tranh! Chuyện chiến tranh đôi khi không hẳn là chuyện võ khí mà cần thêm yếu tố con người nữa.

Ngày 5/3/1975. Tin AP Tinh Hình Cambodia trở nên nguy kịch

Theo tin Thông Tấn Xã AP, tình hình chính trị bên Cambodia càng bất ổn và ít hy vọng. Để trả lời cho niềm hy vọng của tuyệt vọng của ông đại sứ Mỹ, bọn phiến loạn tiếp tục pháo kích liên tục vào phi trường và thủ đô Phom Penh.

Trong khi đó, theo John Burns, đặc phái viên của tờ The Journal tại Bắc Kinh, Ieng Sary, một nhân vật cộng sản cao cấp làm trung gian giữa Khmer đỏ và thái tử Sihanouk từng bảo đảm rằng trừ một thiểu sổ nhóm người lãnh đạo của Thống chế Lon Nol, tất cả những người còn lại đều được đối xử một cách nhân đạo.

Vì thế, thái tử Sihanouk nói:

Khmer đỏ long trọng tuyên bố với toàn thể thế giới rằng họ sẽ không có cảnh tắm máu khi họ vào Phnom Penh, trừ khi bọn chống cộng có sự kháng cự bằng vũ khí. Còn lại, Khmer đỏ sẵn sàng tha thứ cho mọi người, trừ 7 người.

(The Khmer rouge have declared very solemnly before the whole world that they will not make any blood-bath when they enter Phnom Penh unless the anti-communist there resist with weapon. Otherwise, The Khmer rouge are ready to pardon everybody, except seven people.)”

Tin cuối cùng, cũng theo hãng AP, Tổng thống Lon Nol đã yêu cầu Thủ tướng Long Boret giải tán chính phủ. Trung tướng Sosthène Fernandez, Tham mưu trưởng quân đội Cambodia trước tình hình vô phương cứu vãn đã xin từ nhiệm. Nhiều nguồn tin cho hay là chính người Mỹ yêu cầu ông Lon Nol làm điều này.

Sau đó Thủ tướng Long Boret đã tuyên bố là chính phủ của ông đã không thể nào điều hành được nữa. Nhiều vị tỉnh trưởng đã thay đổi người mà không có sự đồng ý của Thủ tướng. Nhiều lính Cambodia đã đà ngũ. Và sau khi ông Long Boret xin từ chức thì Tổng thống Lon Nol tức khắc lại chỉ định ông Long Boret lập chính phủ mới.

Diễn tiến câu chuyện của nước láng giềng

Thủ tướng Long Boret bị Khmer Đỏ bắt và xử tử hình ngày 17 tháng Tư, 1975. Nguồn: executedtoday.com

Diễn tiến câu chuyện của nước láng giềng Cambodia xem ra sẽ xảy ra tại Việt Nam không mấy khác chăng?

Hồi chuông báo tử của Cambodia cũng là hồi chuông báo tử cho Việt Nam không bao lâu sau? Lời hứa xạo của bọn Khmer đỏ có khác chi lời hứa của cộng sản Bắc Việt sau này.

Phần tôi, tôi không dám nghĩ tiếp. Tôi vẫn tin tưởng, Việt Nam không phải Cambodia. Bên Cambodia, chính phủ bắt lính ngay cả những trẻ em 13, 14 tuổi. Tình trạng ấy đã không xảy ra như thế ở Việt Nam. Các sĩ quan quân đội VNCH đều được huấn luyện kỹ càng và bài bản.

Từ trước đến nay, binh sĩ VNCH luôn có mấy khi thua! Được thì nhiều, thua thì ít. Tỉ lệ tử vong là một đổi ba, có khi lên đến một đổi năm và đến một đổi mười. Luôn gặt hái được những chiến thắng trong nhiều trận đánh. Các sĩ quan về thành phố nghỉ phép trong thái độ hiên ngang, nhiều khi đến ngang tàng!

Cái oai hùng như thế, cả một thời cuốn hút theo nhiều thế hệ thanh niên.

Cá nhân người viết, nhiều khi đi với bạn bè sĩ quan không khỏi hãnh diện. Họ làm nên giới trẻ một thời.

  • Ngày 10-3, 1975 | Nay thì đến lượt Việt Nam

Cuộc tấn công chiếm Trại Mai Hắc Đế ở thị xã Buôn Ma Thuột trong chiến dịch Tây Nguyên, tháng Ba năm 1975. Một ảnh từ Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.

Hôm nay ngày 10 tháng ba, 1975, một ngày đáng ghi nhớ, một ngày mở đầu cho những nỗi bất hạnh đổ xụp xuống miền Nam.

Cộng sản Bắc Việt với xe tăng và đại pháo đã tấn công Ban Mê Thuột, một tỉnh ở Cao Nguyên Trung Phần. Cộng sản đã rót 10.000 đại pháo vào quận lỵ Đức Lập cách Ban Mê Thuột 30 dặm về phía Bắc và các căn cứ quân sự của tỉnh.

Bản tin của AP chỉ cho biết vắn tắt như thế và cho biết thêm có 8 vị truyền giáo người Mỹ còn bị kẹt ở lại. Và số phận họ được bảo đảm an toàn.

Nghĩ bụng 8 vị truyền giáo dù mạng sống họ cũng quan trọng, nhưng so với số phận con dân miền Nam thì có nghĩa gì?

Nếu ti’nh từ khi ký hiệp định Ba Lê thì Đức Lập được kể là quận lỵ thứ 13 bị rơi vào tay cộng sản.

  • Viện trợ và chiến tranh

Chiến tranh thì có gì liên quan đến viện trợ? Vậy mà nay chúng ta mới hiểu một cách chua chát là Viện trợ và Chiến tranh đi đôi với nhau như nước với lửa. Bản tin này cho phép nổi lên trong tôi một thắc mắc, giả dụ không có tiền thì không đánh nhau chăng? Và nếu bớt tiền thì bớt đánh? Bớt nữa thì cho bớt luôn chăng? Có nghĩa là quăng súng, không đánh nữa, muốn ra sao thì ra chăng?

Có cái giá nào cho biết là bao nhiêu thì tiếp tục đánh? Giả dụ nếu không có giá thì ta có thể liệu cơm gắm mắm được chăng? Cha ông ta đã đánh giặc như thế nào? Có bao nhiêu ta đánh bấy nhiêu chăng?

Kèm theo tin này, hãng tin AP cũng cho biết viện trợ Mỹ cho ngoại quốc kể từ khi thế chiến hai chấm dứt đến nay là 164 tỉ đô la! Trong khi đó, CIA phúc trình cho James R. Schlesinger là nếu không có quân viện lập từc thì quân đội VNCH chỉ có thể cầm cự trong vòng một tháng nữa. Tổng thống Ford trong buổi họp Hội Đồng An ninh Quốc Gia yêu cầu Quốc Hội Hoa Kỳ chuẩn chi 722 triệu đô la, số tiền cần thiết để duy trì cuộc chiến này.

VNCH đang đứng trên bờ vực thẳm về sự thất bại quân sự.

Nhưng ai cũng có thể khẳng định là quân đội miền Nam đang chiến đấu một cách kiên cường với những gì họ có được. Số tiền 722 triệu là để cung cấp 744 đại bác, 466 xe tăng và thiết giáp, 100 ngàn súng cá nhân và 5 ngàn súng đại liên, 11 ngàn súng phóng lựu M. 79, 12 ngàn xe chuyên chở và 120 ngàn tấn bom, đạn đủ loại.

Con số vũ khí viện trợ coi như là lớn lắm! Nhưng nghĩ cho cùng, tiềm năng quân sự của nước Mỹ có thể làm nhiều hơn thế nữa. Người ta còn nhớ khi Mỹ quyết định tham dự thế chiến thư hai, Mỹ lúc đó chỉ có 1800 máy bay. Roosevelt đã quyết định đưa con số ít ỏi 1200 thành 50.000 máy bay một năm. Khi nói Mỹ ở đây là nói tới hai nhân tố, ông Tổng thống Mỹ và Quốc Hội Mỹ.

Việc từ chối viện trợ cho Việt Nam không phải từ ông Tổng thống mà đến từ phía Quốc Hội với những người như bà dân biểu Bella Abzug.

  • Phái đoàn Thượng nghị sĩ có bà Abzug sang Việt Nam

Từ trái, Bella Abzug, Gloria Steinem, và Mike Nichols trong một cuộc diến hành ở Manhattan, May 10, 1975.

Bà có tên đầy đủ là Bella Abzug là dân biểu đại diện cho bang Manhattan cùng với Paul Norton “Pete” McCloskey, Jr. Bà và ông “Pete” đều có tiếng là chống chiến tranh Việt Nam. Sự có mặt của bà ở Việt Nam lúc này là một điều bất lợi cho Việt Nam. Chúng ta vẫn muốn chiến đấu. Bà nói không.

Tiếng nói không của bà và đồng viện trị giá 722 triệu đô la.

Chúng ta bắt đầu thua từ tòa nhà Quốc Hội Mỹ. Nói thế cũng không sai đâu.

Bà sang Việt Nam chẳng đem lại một tin tưởng gì cho ông Thiệu và chính phủ Nam Việt Nam. Sau đó bà và phái đoàn Thượng Viện Hoa Kỳ vào trại Davis gặp phái đoàn cộng sản, bàn về số tù binh Mỹ còn bị Bắc Việt giam giữ, 1.300 người. Phái đoàn cộng sản đã triệu tập 76 nhà báo do họ mời đến. Con số áp đảo với phía nhà báo Mỹ. Buổi họp giữa hai bên lạnh nhạt và đã hẳn chẳng thu được kết quả gì.

Cũng theo nguồn tin của UPI, ông thượng nghị sĩ Hubert Horatio Humphrey Jr. cho hay rằng viện trợ Mỹ chi ra như thế, nhưng Mỹ cũng đã bán ra một số vũ khí cho 69 quốc gia trên thế giới. Số tiền lên đến 8 tỉ, 300 triệu đô la trong tài khóa năm nay.

Bà Abzug về hôm trước hôm sau thì cộng quân tấn công Ban Mê Thuột

  • Bài diễn văn của Tổng thống Mỹ với những mỹ từ trống rỗng

Theo nguồn tin cũng của AP, Tổng thống Ford sẽ đọc một bài diễn văn ở Đại Học Notre Dame – một đại học mà người ta ghi nhận số sinh viên ngoại quốc gồm hơn 60 quốc tịch khác nhau theo học ở đây – trong đó ông tin tưởng và thúc dục dân chúng Mỹ là nước Mỹ vẫn có khả năng giải quyết những vấn đề nội bộ của nước Mỹ mà không cần quay lưng với thế giới bên ngoài.

Bài diễn văn là nhắn gửi đến Việt Nam hay muốn trấn an và thoa dịu những đồng minh của Mỹ trên thế giới?

Ford khẳng định chắc chắn là vẫn có thể viện trợ quân sự cho Cambodia và Việt Nam.

Bài diễn văn này được đọc với những mỹ từ văn hoa, cao đẹp nhất của một Tổng thống Mỹ dành cho các dân tộc trên thế giới!

Ngày 16- 3, 1975. Another Dunkirk?(1)

Đó là nhan đề một bài báo của ký giả bình luận gia James M. Markham của tờ New York Times. Bài báo ví von một cách ác độc coi như hình ảnh thảm khốc của trận rút quân ở Dunkirt. Làm sao một quân đội hùng mạnh như thế, đã từng chiến thắng trong nhiều trận, đã từng chiến đấu dũng cảm trong 21 năm rút cuộc lại có thể thua trong vài tuần lễ.

Đó là câu hỏi mà nhiều người đã đặt ra và tìm câu trả lời. Làm sao lại có thể rút lui và thua một cách dễ dàng như vậy? Ai trách nhiệm sự thua trận và rút lui này?

Nếu nói xa một chút thì nay Hoa Kỳ, hay nói trắng ra là Kissinger đang dồn mọi nỗ lực cho Trung Đông. Kissinger đã cam đoan là sẽ giải quyết được xung đột giữa Israel-Ả Rập.

 Và những số tiền rút ra từ viện trợ cho Việt Nam thì nay viện trợ cho Do Thái. Một tỷ rưỡi đô la đã được rót thêm cho Do Thái với số dân chưa tới 6 triệu người?

Người ta cho rằng, ‘There is the possibility that Kissinger might make a new Middle- East peace bid before the mandate – of the Un peacekeeping forces expires on april 25 in the Sinai and at the end of may on the Golan Heights.’

Chọn lựa ưu tiên giữa chiến tranh Việt Nam và cuộc xung đột Trung Đông, Mỹ Kissinger rõ ràng nghiêng về phía một giải pháp cho hòa bình ở Trung Đông.

Phải chăng Kissinger là người bán đứng Việt Nam cho cộng sản Bắc Việt trong tháng Tư sắp tới?

  • Tổng thống Thiệu và trách nhiệm rút quân khỏi Tây Nguyên

Tăng T-54 của Cộng quân tiến vào Ban Mê Thuột. Nguồn: wikiwand.com

Sau khi cộng quân tấn công vào Ban Mê Thuột, người ta nói rằng Tổng thống Thiệu đã có dự định trong đầu về một cuộc tái phối trí. Nay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đứng trước hai chọn lựa không dễ chọn.

Một, Tổng thống Thiệu muốn duy trì bằng mọi giá, dù là đắt giá (risky move), phải tái chiếm lại Ban Mê Thuột. Nhưng cho đến chiều thứ sáu thì quyết định này xem như bị loại bỏ.

Hai, quyết định rút lui khỏi các vùng Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột, Darlac – một quyết định không kém can đảm – và trong cuộc rút lui này, mang theo vũ khí được chừng nào hay chừng nấy.(2)

Cuộc rút quân khỏi Pleiku ngày 16 tháng này, chỉ sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột một tuần đã để lại nhiều câu hỏi và nhiều nghi vấn?

Có người cho đây là màn tháu cáy người Mỹ của ông Thiệu.

Tôi không tin như vậy. Không thể mang sự sống chết của binh lính để tháu cáy chính trị. Ông Thiệu vốn là một quân nhân không thể nghĩ hạn hẹp như vậy được.

Có thể ông nghĩ là không có viện trợ thì không thể tiếp tục chiến tranh. Các vị chỉ huy VNCH đã chọn con đường số 7B, một con đường đã bỏ hoang từ sau thời Pháp nên nhiều chỗ như cầu cống, đường xá cần có công binh đi trước để dọn đường, làm cầu. Thế rồi công binh, pháo binh, thiết vận xa, hàng ngàn xe camion chở binh lính, súng ống đạn dược, các lực lượng đặc biệt quân đội các binh chủng, gia đình các quân nhân này và cả dân chúng nữa ước định khoảng 100.000 đến 200.000 người chen lấn nhau mà đi.

Tưởng Ngô Quang Trưởng có viết bài Tại sao tôi bỏ quân đoàn I. Ông cho đó là trách nhiệm của riêng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Tướng Phú muốn tạo sự bất ngờ cho cộng sản, nhưng đó là một tính toán sai lầm; vì dân chúng được tin quân đội rút quân đã vội vã chạy ùa theo. Tình cảnh này làm cho cuộc rút quân thêm chậm trễ và khó khăn.

Yếu tố bất ngờ không còn nữa.

  • Bình luận của nhà báo Drew Middleton, “President Thieu. Is he fit to lead?”

Trong một bài bình luận của Drew Middleton, bình luận gia của tờ N.Y. Times cho rằng, mặc dầu tinh thần binh sĩ có xuống. Nhưng chỉ trong vòng ba ngày tấn công Ban Mê Thuột, các phóng viên nhận thấy mặc dầu có sự tấn công vũ bão của cộng quân, nhưng người ta không thấy một sự đáp trả đúng mức của các đơn vị quân đội trong khu vực.

Không có dấu hiệu có sự chống cự và chỉ cho thấy sự rút lui một cách hoảng loạn. Các sĩ quan chỉ huy đã bỏ trốn và binh đội còn sót lại thì đầu hàng.

Chắc hẳn việc Ban Mê Thuột mất vào tay cộng sản chỉ sau một ngày giao tranh của binh sĩ VNCH tại Ban Mê Thuột ảnh hưởng tới những quyết định của ông Thiệu một cách sâu xa. Gần như thể, ông ta bị cô lập bởi các phụ tá và cố vấn. Và rồi ông đã tự mình đưa ra những quyết định mà không tham khảo với ai cả (Cho dù có tham khảo tướng Cao Văn Viên và hai tướng thuộc vùng I, vùng II, nhưng ông là người quyết định một mình) và cũng không đưa ra một lời giải thích cũng không đề xướng ra một cuộc rút quân có chuẩn bị kỹ càng.

Người ta tự hỏi ông Thiệu có còn thích hợp để lãnh đạo nữa hay không? Đó là nhan đề bài báo President Thieu, Is he fit to lead?

Trong một buổi họp ở Nha Trang gồm có Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Khiêm, tướng Cao Văn Viên, các tướng Tư lệnh vùng như Ngô Quang Trưởng, vùng I, Nguyễn Văn Phú, vùng II. Sau khi nghe tướng Phú thuyết trình về tình trạng Ban Mê Thuột và xin thêm quân. Cả ông Thiệu và ông Khiêm từ chối tăng viện binh vì không có người.(3)

Theo tướng Cao Văn Viên sau này tiết lộ thì đã có đến ba đề nghị rút quân nếu không có viện trợ.(4)

Một thắc mắc nữa không kém quan trọng là ông Nguyễn Văn Thiệu có hỏi ý kiến người Mỹ khi rút quân ra khỏi Tây Nguyên không?

Theo Frank Snepp, ký giả chuyên viên phân tích của CIA ở Saigon, sau này cho biết thì ông Thiệu đã tự ý quyết định một mình mà không hỏi ý kiến người Mỹ.

Cũng theo Frank Snepp cho thấy là tinh thần binh sĩ quân đội miền Nam sa sút trầm trong. (Morale in the army was on the verge of collapse).(5)

Việc rút quân như thế cho thấy một thái độ tuyệt vọng của ông Thiệu vào thiện chí của người Mỹ.

Một thái độ tự tử chính trị của một người lãnh đạo quốc gia miền Nam.

Ngay đại sứ Graham Martin cũng ngạc nhiên về quyết định của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Trong bài viết của ông, The attack on Ban Me Thuot and Thieu’s decision to withdraw from the central highland came as a complete surprise to me. […] I don’t know who convinced him of this. But throughout all of this he didn’t tell us any thing.(6)

  • Sense of doom engulfs Saigon

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tháng 4, 1975. Nguồn: © Bettmann/CORBIS

Chính việc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rút quân đoàn I và đã tạo cái cảnh tượng mà trong một bài viết nhan đề Sense of doom engulfs Saigon, trong đó phóng viên tờ N.Y. Times News Services mô tả tình trạng: The army is mad with fear and panic. It’s all collapsing before our eyes’. ( Quân đội rơi vào tình trạn điên loạn sợ hãi và sụp đổ trước mắt chúng tôi.)

Binh sĩ có làm loạn vì hoảng sợ thì đó không phải là lỗi của họ. Lỗi là cấp chỉ huy, các tướng lãnh và sĩ quan cao cấp đã không làm tròn trách nhiệm của mình. Mỗi một sĩ quan cao cấp trong ngày 30 tháng Tư phải tự hỏi mình về trách nhiệm trước binh lính, quân đội.

Câu hỏi quan trọng nhất vẫn là tìm hiểu xem Tổng thống Thiệu ra lệnh rút quân mà không tham khảo với người Mỹ!

Theo Frank Snepp tiết lộ, tình báo Mỹ không biết tin về cuộc triệt thoái này. Ngay cả Đại sứ Martin là người có đủ thẩm quyền để được tham khảo về quyết định quan trọng này cũng không hề biết.

Việc rút quân này xem ra có những khuyến điểm sau đây:

  • Việc rút quân quá vội vã thiếu chuẩn bị. Nếu cần cho công binh đi trước vài ngay san sửa đường, đặt cầu.
  • Thứ hai, không có kế hoạch để di tản gia đình binh sĩ đi theo. Đến khi họ biết thì dân chúng hốt hoảng chạy theo binh lính, gây trở ngại và làm chậm trễ cuộc rút quân. Tại Phủ Lý, Nam Định, khi người Pháp tính rút quân. Họ đã chuẩn bị cho gia đình các quân nhân đi trước bằng xe camion, sau đó mới đến lượt các quân nhân đi theo. Cuộc rút quân êm thắm vào lúc gần sáng và không bị Việt Minh tấn công, cản đường. Đây đúng là lỗi lầm của tướng Nguyễn Văn Phú.
  • Ngày 17 tháng ba, 1975. Những giây phút cuối cùng của sự có mặt của người Mỹ ở Phnom Penh

Theo tin AP, ngày 17 tháng ba, tòa đại sứ Mỹ tại Phnom Penh đã cho nhân viên đốt tất cả các tài liệu và chuẩn bị đưa những người Mỹ cuối cùng ra khỏi Cambodia. Và mặc dầu bị pháo kích vào phi trường bằng nhiều quả pháo kích.

Theo nguồn tin của UPI trong một nhan đề bài báo: Airlift resumes to Phnom Penh, foreigners flee cũng viết lại tương tự như hãng AP.

  • Ngày 20 tháng ba, 1975: South Viet Nam continues to Shrink

Hôm nay là ngày 20 tháng 3, năm 1975, nguồn tin của hãng thông tấn AP với tựa đề S. Vietnam continues to Shrink cho thấy tình trạng miền Nam càng thêm bi quan và có nguy cơ sụp đổ. Ngoài các tỉnh cao nguyên Trung phần đến lượt Huế Quảng Trị, nay có thêm tỉnh Bình Long, chỉ cách phía Bắc, Sài gòn có 60 dặm. Cạnh đó, Phước Long đã bị tràn ngập bởi cộng sản từ hồi tháng giêng. 17.000 dậm vuông đã rơi vào tay cộng sản với số dân là 1.700.000 dân, một phần 10 dân số miền Nam.

Sai Gòn nay phải nuôi thêm số dân cả nửa triệu người từ các nơi kéo về. Thực phẩm khan hiếm kéo vật giá leo thang. Và nhiều nhà đã bắt đầu lo tích trữ gạo, cá khô. Những người có thân nhân hoặc có tiền thì cũng tạm ổn. Còn những người không có thân nhân ở Sài Gòn thì chắc phải tạm trú ở những nơi công cộng.

Gia đình chúng tôi cũng có thêm anh em chạy từ Nhatrang về. Một số bạn bè từ Huế, Nha Trang, Phan Thiết, Quy Nhơn, lâu lắm không có dịp gặp nhau, nay có dịp họp mặt đông đủ.

Nhưng tôi còn nhớ rõ cái cảm giác lúc bấy giờ. Lo thì có lo nhưng vẫn có lý do chủ quan là Sài Gòn không thể nào mất được. Quân đội VNCH còn mạnh lắm.

Cái niềm tin tưởng biến thành cái mà Lewis gọi là thần thoại. Đó là điều mà ký giả Anthony Lewis đã viết một bài nhan đề Myth and Reality.

Mấy học trò cũ ở Nha Trang về vẫn rủ nhau đi ciné, vẫn đi ăn nhậu với mấy người bạn từ xa về.

Mất ở đâu thì mất, Sài Gòn không mất được!

Tôi vẫn ngây ngô tin tưởng rằng không bao giờ Mỹ bỏ rơi Việt Nam. Tin tưởng vào những lời tuyên bố trấn an của Tổng thống Ford như thuốc an thần, tin tưởng vào phái đoàn quân sự do tướng Frederick Carlton Weyand với những lời trấn an, tin tưởng vào những tin tức thế giới như, U.S. Aid decision soon. những trận đánh oai húng trong quá khứ như trận Quảng Trị 1972, Tết Mậu Thân 1968.

Mỹ đã bỏ ra 150 tỉ đô la và 50.000 xác người Mỹ tử trận ở đây lại không thể có một cố gắng cuối cùng sao?

  • Thiệu trước công chúng Sài gòn

Nếu có một cuộc thăm dò dư luận về ông Thiệu. Chắc ông chỉ nhận được một lá phiếu ủng hộ ông thì đó là lá phiếu của bà Thiệu.

Kể từ sau quyết định triệt thoái khỏi Tây Nguyên. Dân chúng oán ghét ông không ít.

Sợ bị ám toán, với bản tính đa nghi, ông phải đổi chỗ ở luôn.

Trong buổi nói chuyện với dân chúng Sài gòn vỏn vẹn trong vòng 5 phút, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho rằng lực lượng quân số của Bắc Việt đông gấp 4 lần quân số của VNCH. Hà Nội đã gửi vào Nam 5 binh đoàn trong số 8 binh đoàn trừ bị.

Sau 5 phút vắn vỏi nói với dân chúng, ông Thiệu vội vàng rời dinh độc lập chui vào chiếc xe Limousine chống đạn (bullet proof limousine) xe hướng về một chỗ ẩn náu riêng, kín đáo của ông gần Hotel Majestic.

Tại nơi đây, ông lo ngại về việc ông Kỳ có thể nổi loạn chống lại ông. Bởi vì sáng nay, Kỳ đã công khai yêu cầu ông Thiệu phải từ chức. Sau đó cảnh sát đã bắt vài người trong nhóm của ông Kỳ cùng với ba nhà báo. Nhưng những thành phần thân cận nhất của ông Kỳ thì vẫn không bị đụng tới.

Xem ra việc bắt bớ này chỉ là một đòn cảnh cáo.

Phải nhìn nhận là miền Nam sắp bị chìm, nhưng các vị lãnh đạo xem ra chỉ lo cho bản thân mình.

  • Sài Gòn có nguy cơ rối loạn như Đà Nẵng

Để bảo đảm trật tự an ninh cho thành phố Sài Gòn, lệnh giới nghiêm là từ 10 giờ đêm thay vì 12 giờ đêm, vì ’because of the present emergency situation and security requirements’. Tin của AP đã loan báo như thế.

Nguồn tin của UPI cho hay, tòa đại sứ Anh tại xứ ‘Chùa Tháp’ đã đóng cửa và quyết định di chuyển toàn bộ nhân viên sứ quan về Sài Gòn.

Quyết định này chẳng biết là một quyết định khôn ngoan hay có tính giai đoạn?

UPI với tựa đề một bản tin ngày 20-3: Lon Nol won’t quit. Mặc dầu có nhiều áp lực đòi ông từ chức để may ra tình trạng có thể khá hơn không? Nhưng nguồn tin trên cho hay Lon Nol nhất định ngồi lại để đối phó với tình hình.

Mặc dầu nói mạnh miệng như vậy, nguồn tin ngoại giao cho hay, ông Lon Nol sẽ chuẩn bị rời Cambodia trong thời gian không bao lâu nữa.

Việc ra đi của ông coi như dấu hiệu sự đầu hàng cộng sản giống hệt trường hợp TT. Nguyễn Văn Thiệu.

Thật vậy, 85 phần trăm lãnh thổ Cambodia nay ở dưới quyền kiểm soát của quân phiến loạn cộng sản.

Với tình hình không mấy sáng sủa gì, bị bao vây bởi cộng sản, Phnom Penh phải đầu hàng. Chỉ còn con đường dẫn sang Saigòn, dọc sông Mé Kông là tương đối còn an toàn.

Nhiểu người việt sinh sống tại Cambodia cũng đã tìm cách chạy trốn về Sài Gòn. Nhiều già đình Việt Nam làm ăn khá giả ở Cambodia nay tìm cách chạy sang Việt Nam. Một nơi mà cho đến lúc này được coi là còn an toàn.

Mẹ trẻ ôm con thơ trên chiếc trưc thăng chạy khỏi Tuy Hòa, 22 Thàng 3, 1975 Nguồn: AP Photo/ Nick Ut.

  • Indochina, Light goes out

Trong một bài bình luận tổng quát của UPI về tình hình miền Nam: Indochina: Light goes out . Phóng viên cho hay, nếu tính toàn Đông Dương thì nay 75% đất đai đã thuộc về cộng sản và ánh sáng đang đứng về phía họ. Nay thì 50 % các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên đã rơi vào tay cộng sản. Người ta còn nhớ vào năm 1968, quân đội VNCH đả truy đuổi những tên cộng sản cuối cùng ra khỏi Huế. Pleiku cũng là nơi mà McNamara đã cho cộng quân biết thế nào là sức mạnh của vũ khí Mỹ. Quảng Trị ngày nào cũng là nơi chôn vùi không biết bao nhiêu bộ đội cộng sản, vào bao nhiêu chết bấy nhiêu.

Vậy mà nay tình trạng hầu như đã đổi khác, vai trò đã đổi.

  • Ngày 25, tháng ba. Huế thất thủ: Mass execution reported in Hue

Sáng ngày 25, chính quyền loan báo Huế thất thủ.

Quân đội Nam Việt lấp đầy mọi không gian có sẵn trên một con tàu di tản họ từ biển Thuận An, gần Huế, Đà Nẵng như Cộng quân tiến vào tháng Ba, 1975. (AP Photo / Cung)

Thuân An cách Huế chừng 10 dặm, kể từ chiều thứ hai, hàng ngàn người bằng đủ phương tiện đã tìm đến cửa Thuận An. Lính của quân đoàn một chạy cùng với gia đình nhốn nháo không biết thuộc đơn vị nào. Mạnh ai nấy chạy.

Phóng viên Peter Arnett nói đến một biển người ( an ocean of people) đang chờ đợi để được bốc đi khỏi Huế. Có một chiếc tầu đậu ngoài xa cách bờ biển khoảng 500 mét. Nhiều người đã cởi bỏ quần áo tìm cách bơi ra tàu.

Hàng ngàn xe cộ, súng ống đủ loại còn để lại chung quanh Huế, làm thế nào có thể chở di hết được? Chắc là sẽ bỏ lại hết để rơi vào tay cộng quân?

Hầu như có một sự bỏ rơi của cấp chính quyền và quân đội trong giờ phút này. Plei ku dã thế, nay Huế cũng vậy. Không thấy có một giới chức cao cấp nào có mặt để chỉ đạo các cuộc trốn chạy này.

Sau này, một số người chạy đến được bãi biển Đà Nẵng, cách Huế 50 dặm. Họ kêu gào, khóc lóc thảm thiết vì lạc mất người thân. Một số lính tráng bơi được ra tầu thủy thì nay không có quần áo, giầy bốt. Phần lớn không có súng.

Đến buổi chiều thứ hai thì có khoảng 3000 người tới Đà Nãng và người ta hy vọng đến đêm và sáng mai thì sẽ có thêm nhiều người hơn

Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau khi tuyên bố Huế thất thủ, vậy mà cờ của Mặt trận giải phóng miền Nam được kéo lên.

Trước đây cờ này cũng đã được kéo lên một lần trong vòng hai tháng. 7 năm sau nó lại được kéo lên một lần nữa . Và lần này chắc không phải chỉ hai tháng!

Xa hơn nữa về phía Nam, Chu Lai và và Quảng Ngãi tự động bỏ ngỏ, rút lui.

Sau này, khi được tin Huế thất thủ, phía bên kia cho hay Văn Tiến Dũng đã không kìm giữ được xúc động. khóc và ông đã viết: Tôi đã đốt một điếu thuốc lá mà từ lâu tôi đã bỏ không hút.

Và Văn Tiến Dũng chắc còn phải khóc và hút thuốc nhiều lần nữa. Khóc đến không kịp khóc nữa.

Theo tin của thông tấn xã UPI khi Cộng quân chiếm thị xã Huế. Chúng đả xâm nhập một bót cảnh sát ở ngoại ô thành phố về phía Đông.

Theo lời một nhân chứng sau này vào được Saì gòn, ông cũng là một cảnh sát viên và đã chứng kiến 5 sĩ quan cảnh sát cùng một thiếu niên 18 tuổi bị chặn bắt trên bãi biển. Chúng bắt họ xếp hàng và sau đó đã hành quyết tửng người một như giết một con chó.

Những người dân Huế chắc không thể nào quên được cuộc thảm sát ở Huế. Nhưng mãi 18 tháng sau , vào mùa thu 1969, vụ thảm sát Huế mới nổ bùng ra và kết quả cho thấy không phải hàng ngàn mà hàng vài ngàn dân Huế đã bị thảm sát bởi cộng sản.

Huế đối với tôi vẫn là miền đất bất hạnh. Sinh ra ở đâu cũng được nhưng đừng sinh ra ở Huế.

  • Ngày 26 tháng 3, 1975 Disordely retreat..một cuộc rút quân hỗn loạn

Nay Đà Nẵng trở thành bị cô lập!!

Theo thông tấn xã AP thì đây là một cuộc rút quân hỗn loạn. (Disordely retreat)

Trong một cuộc tháo chạy hỗn loạn thì ai là người anh hùng, ai là kẻ hèn nhát. Thật khó để đưa ra một lời phê phán.

Trước cái chết gần kề, phản ứng của con người có thể là anh hùng và cũng có thể là ngược lại.Vì thế, có một bản tin khác cũng của AP do ký giả Peter O’Loughlin bình luận từ Tuy Hòa như sau:

Heroism, Cowardice, Bitter refugees.

Trước cái sống và cái chết. Ai cũng chọn cái sống còn. Ai cũng muốn chạy thoát thân. Đó phải chăng là trường hợp dành cho đại tá Lữ Đoàn trưởng, và trung tá Lữ đoàn phó Thủy quân lục chiến mà dưới quyền họ có khoảng 4000 thủy quân lục chiến, đã đào ngũ khi đối diện với quân địch? Tòa án quân sự nào sẽ xử tử hình theo quân luật? Đó là nỗi nhục nào chỉ riêng cho đại tá Lữ đoàn trưởng Thủy Quân lục chiến? Nếu biết rằng sống chết không tùy thuộc vào khả năng của mình thì sẽ phải hành xử như thế nào? Và người ta sẽ dựa vào đâu để sống? Sống hèn hay chết can đảm? Chỗ nào là tình người? Chỗ nào là tình chiến hữu?

Đã có nhiều người bất lực trước những chọn lựa khó khăn đó. Nhưng cũng đã có những người đã chọn lựa thành anh hùng và cũng đã có người chọn lựa sống hèn?

Hay là kết luận cuối cùng vẫn là những người tỵ nạn nếm mùi cay đắng!

Có thể khi rút quân, tướng lãnh miền Nam cũng lo sợ rơi vào tình trạng hỗn loạn mà kinh nghiệm về quân sử còn để lại cho họ. Nhưng không một ai muốn tiên đoán trước về một thảm họa như thế.

Ai anh hùng, ai hèn nhát? Nay không phải là lúc mở hồ sơ để kết tội?

  • Thiệu abandoned us

Có lẽ trong cuộc tháo chạy này, kẻ bị oán ghét nhiều nhất không ai khác là ông Nguyễn Văn Thiệu. Nhiều người đã ghét ông trong vai trò tổng thống. Kissinger là người lãnh đạo cao cấp của Mỹ cũng ghét cay, ghét đắng ông Thiệu. Nhưng có lẽ sự thù ghét này chỉ thực sự oán ngút trời đối với tất cả những ai rơi vào hoàn cảnh người dân chạy cộng sản từ lúc thoát chạy khỏi Tây Nguyên.

Theo ký giả Peter O’Loughlin hàng ngàn người tỵ nạn chạy trốn đã sống sót sau cuộc truy đuổi của cộng quân. Nhiều người trong số họ đã lớn tiếng chửi bới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: Thieu abandoned us. Một người đàn bà đã nói như thế.

Và có thể nhiều người khác cũng nói như thế. Ông Thiệu, ông Khiêm đều là những ngưới quá khôn ngoan nên biết tham sống mà sợ chết.

Và có thể mọi người dân khốn khổ chạy trên truyến đường 7B hướng về phía Tuy Hòa đều có tâm trạng như người đàn bà này. Tâm trạng cảm thấy bị đem con bỏ chợ, giữa rừng núi, giữa các con đường mà đôi khi cấu cống chưa sửa chữa, rơi vào thế kẹt. Đi không được, lui cũng không được.

Và rồi các binh lính trên các xe thiết vận xa đã thiếu kiên nhẫn, tức tối cán bừa lên bất cứ trở ngại nào đang cản đường họ để tiến về phía trước. Xe cộ, xác người bị cán. Bất kể. Cán hết. Tiến về phía trước.

  • Disordely retreat

Trước khi Đà Nẵng thất thủ thì số dân nay phồng lên đến 2 triệu người. Dưới quyền tướng Trưởng nay chỉ còn 25 ngàn quân. Đà Nẵng có lợi thế hơn Huế vì có hải cảng và việc quân xem ra thuận lợi hơn nhiều. Và nhờ thế có thể giảm áp lực của số dân tỵ nạn khi cần rút lui. Nhưng trong việc rút quân này, cộng sản rút kinh nghiệm ở Huế cũng dùng áp lực dân chúng sợ hãi gây thêm gánh nặng cho chính quyền và quân đội Quốc Gia.

Thời gian nay là yếu tố quan trọng nhất của thành công hay thảm bại của cuộc lui quân. Đại tướng Smith đã gửi ra Đà Nẵng vào ngày 25 tháng ba 5 tàu kéo, 6 sà lan và ba tàu thủy. Phần Air America cho biết không có đủ phương tiện máy bay để ra Đà nẵng.

Con số tàu như thế khéo lắm chỉ đủ chuyên chở người Mỹ và nhân viên phụ cận là cùng. Số còn lại hàng nửa triệu người dân muốn được di tán là một bài toán không có đáp số.

Ngày 26 thì tướng Trưởng chỉ kịp cho vợ con cùng với vợ con lãnh sự Mỹ và Philip Custer  (bí danh của Trưởng cơ sở CIA ở Đà Nẵng), với Terry Tull được đi trên một chuyến bay đặc biệt của DAO.

Xem tiếp phần II, III

1) Tác giả gợi lại hình ảnh trận chiến rút lui của liên quân Anh và Pháp bị sa lầy ở bãi biển Dunquerque từ 21 tháng 5 đến 4 tháng sáu năm 1940.
(2) Xem báo Đi Tới, số 32, năm 2000, trang 12. Tướng Ngô Quang Trưởng sau này có tiết lộ trong bài Tại sao tôi bỏ quân đoàn 1. Ông cho biết ngay từ ngày 13 tháng ba, năm 1975, ông được lệnh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gọi vào trình diện ở Sài Gòn và ra lệnh: ‘Phải rút khỏi Quân Đoàn I càng sớm càng tốt. Lệnh phải rút về Phú Yên, ngày 14-3 lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới.’ Lệnh này chỉ có Tổng thống, Thủ tướng, Đại tướng Cao Văn Viên, tôi (Tư lệnh Quân Đoàn I và tư lệnh quân đoàn II, tướng Phạm Văn Phú biết mà thôi. Đến ngày 18-3, tướng Cao Văn Viên theo chỉ thị Tổng thống ra lệnh bỏ Huế.
(3) Tướng Lê Quang Lưỡng, tư lệnh sư đoàn Dù, trước 1975 trong một bài viết, Thiệu xé rách sư đoàn Dù làm gì? Trong đó tướng Lưởng nhận lệnh trực tiếp của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Đưa sư đoàn Dù về Sài gon. Trích báo Đi Tới, số 32, 2000.
(4) Cao Văn Viên, Những ngày cuối của VNCH, trang 130. Đề nghị của tướng Đồng Văn Khuyên, tổng cục tiếp vận đề nghị co cụm lại cho tương xứng với sự cắt giảm viện trợ. Đề nghị thứ hai của tướng John Murray một sơ đồ tương tự như của tướng Khuyên. Đề nghị thứ ba của tướng Ted Sarong, Úc Dại Lợi một kế hoạch tương tự.
(5) Frank Snepp, Decent Interval, trang, 149.
(6) Larry Engelmann, Tears before the rain, trang 53

Nguyễn Văn Lục


 

Vài suy nghĩ về giải Nobel- Trịnh Khả Nguyên

Ba’o Tieng Dan

19/10/2024

Trịnh Khả Nguyên

Giải Nobel và chính sách giáo dục

Hằng năm, cứ vào khoảng tháng 10 thì bên Thụy Điển, Na Uy công bố tên các vị được nhận giải Nobel về y học, hóa học, vật lý, kinh tế, văn chương, hòa bình của năm đó.

Đây là một tin vui cho các vị được nhận cái giải cao quý kia và cho các nước liên quan đã đành, mà nó còn là tin vui cho cả thế giới nữa. Nhiều nước cũng bắt chước, đã lập và trao một số loại giải thưởng, nhưng chỉ một thời gian thì các giải này tự động chết mòn, hoặc chẳng ai mặn mà gì. Những người được trao loại ấy cũng chẳng có danh tiếng gì. Còn giải Nobel, dù do một cá nhân, một nhà khoa học, ông Alfred Nobel lập ra, nhưng đó là giải thưởng có uy tín, danh giá, có thể là danh giá nhất trên thế giới, trong các lĩnh vực đã kể.

Chỉ một việc giải Nobel được tôn vinh hơn một trăm năm qua, đủ chứng minh điều ấy. Hầu hết những người đoạt giải là những nhân tài, họ là những “đỉnh cao trí tuệ” của loài người. Đó là nhận xét chung, tuy nhiên trong quá khứ cũng có một vài tranh cãi, tai tiếng khi đề cử, chấm chọn, đặc biêt ở hai lĩnh vực văn chương và hòa bình, ví dụ như giải Nobel văn chương trao cho ông Jean-Paul Sartre năm 1964 và giải Nobel Hòa Bình năm 1973 cho một nhân vật ở Việt Nam, gây tranh cãi.

Thông thường một giải thưởng có hai chiều. Giải Nobel cũng thế, nó vinh danh một hay nhiều cá nhân. Ngược lại, những người đoạt giải, với tài năng, sự đóng góp của mình cũng làm cho giải có uy tín và có giá trị hơn. Còn những loại giải chẳng ra gì thì cũng chẳng làm cho người nhận được thêm tí hãnh diện nào, hoặc những người chẳng ra gì mà được phát một giải nào đấy thì cái giải kia cũng chẳng ra gì cả.

Giải Nobel mang lại danh dự cho một cá nhân và đất nước. Chính vì thế, nước nào cũng mong có người của mình đoạt Nobel. Nhìn lại bảng danh sách những người đến từ các nước đoạt giải Nobel, từ khi giải này được thành lập đến nay, có thể thấy rằng họ đã đóng góp nhiều phát minh, sáng kiến cho thế giới. Nếu không có họ thì thế giới hôm nay như thế nào? Như thế nào thì không biết, nhưng chắc không như thế nầy, nghĩa là thế giới cần đến những con người kia, chứ không phải có hay không những vị đó thì cũng chẳng “chết ai”, kiểu “không mợ chợ cũng đông”. Tương tự như bên thể thao, nếu không có các danh thủ, các “cường quốc thể thao” thì World Cup, Euro Cup… chắc buồn lắm.

Cũng có một số người, một số nước muốn có giải Nobel để có “danh gì với núi sông”, kể cả danh hảo để họ huênh hoang, để tự sướng. Thậm chí, họ chỉ mong được đề cử thôi, cũng đã hãnh diện lắm rồi.

Các nước có người đoạt giải Nobel tất nhiên là các nước đó có nhân tài. Nhưng người tài ở đâu ra? Có sẵn trong nước hay du nhập vào? Các nước đó có cách thu hút người giỏi. Họ có một nền giáo dục tốt, có tự do dân chủ cho người ta thoải mái làm việc, bày tỏ chính kiến. Họ không đầu tư mở trường chuyên, lớp chọn, không có các trại sáng tác, trung tâm luyện “gà đá” để đi thi. Ngoài việc có được người đoạt giải danh giá như giải Nobel, cần có một nền giáo dục tốt, một môi trường sống tốt là yếu tố để phát triển đất nước.

Giải Nobel Văn chương và Hòa bình

Giải Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học, y học, kinh tế thì cao sâu, chuyên biệt nên khó hiểu đối với đại đa số, nhưng giải Nobel về văn chương và hòa bình là tương đối phổ thông. Trước năm 1975, ở miền Nam có những cuốn sách được dịch ra từ các tác phẩm hay, nếu sách đó được giải Nobel, thì chúng thường được quấn quanh bởi một cái ruy băng có câu “Giải Nobel năm …”, để “câu” người đọc.

Còn nhớ, giải Nobel văn chương năm 1964 định trao cho nhà văn, triết gia hiện sinh Jean-Paul Sartre, nhưng bị ông ta từ chối. Trong thập niên 1960, triết gia, nhà văn Sartre có một thời thiên tả. Có lẽ đây là lý do ông từ chối nhận giải Nobel năm 1964 và việc từ chối này cũng là một cách tự đề cao mình (hơn cả giải Nobel). Vào những năm đó, ông cùng với nhiều nhân vật thiên tả ở châu Âu chống chiến tranh Việt Nam. Họ được gọi là những người yêu chuộng hòa bình, là “loài người tiến bộ” đại diện cho “lương tâm của nhân loại, lương tri của thời đại”. Nhưng sau năm 1975 thì các vị này đổi thái độ. Ngay tại miền Nam Việt Nam vào những năm đó cũng có phong trào tranh thủ hòa bình.

Giải Nobel hòa bình không lạ với người Việt chúng ta; năm 1973 đã có người Việt Nam được đề cử cùng nhận giải này với một người khác, nhưng người Việt đó từ chối, không phải là vì lý do “cùng nhận”, mà vì lý do riêng. “Cùng nhận” là chuyện xảy ra bình thường đối với các vị nhận giải Nobel. Trớ trêu thay, năm 1973 giải Nobel hòa bình cho Việt Nam chỉ có ở Thụy Điển; còn ở Việt Nam lúc đó chẳng có hòa bình, mà ngược lại, chiến tranh còn ác liệt hơn. Phải chăng nhân vật này biết rằng, ông ta đang cùng với lãnh đạo của mình chuẩn bị gây chiến thêm, thay vì kết thúc, cho nên đã từ chối giải thưởng kia?

Cách hơn chục năm, Trung Quốc cũng đã dựng lên giải Nobel Hòa bình Khổng Tử để đối trọng với giải Nobel hòa bình thế giới. Không biết giải hòa bình mang tên vị hiền triết kia phát được mấy lần, tồn tại được bao nhiêu năm và trao cho những ai, nhưng năm 2011 họ đã trao cho Putin, nhân vật đã và đang tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Ukraine gần 3 năm qua, gây bất ổn trong khu vực châu Âu.

Về giải Nobel Hòa bình Khổng Tử, điều mỉa mai là, trước đó tư tưởng của Khổng Tử bị đánh cho lên bờ xuống ruộng, bị phê đến không còn chỗ phê, cái tượng của ông ở quê nhà cũng bị đập phá. Thế mà khi cần, tên ông lại mang ra đặt cho giải thưởng hòa bình.

Giải Nobel Hòa bình năm nay được trao cho tập thể Nihon Hidankyo của Nhật Bản hôm 11/10/2024. Nihon Hidankyo là tổ chức những người Nhật Bản sống sót sau các vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki hồi Đệ Nhị Thế Chiến. Hiện có người còn sống, còn chịu thương tật nặng nề. Chính vì thế, họ rất sợ vũ khí hạt nhân và họ đang kêu gọi cho một thế giới không sử dụng loại vũ khí nầy. Nguy hiểm đang chực chờ không phải Hiroshima và Nagashaki đã qua, mà là do hiện nay có người mang vũ khí hạt nhân ra hù dọa về thế chiến thứ ba.

Ông Toshiyuki Mimaki, chủ tịch tổ chức Nihon Hidankyo, chủ nhân giải Nobel Hòa bình 2024. Ảnh trên mạng

Ngày 6/8/1945 Mỹ thả một quả bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima, ba ngày sau, ngày 9/8/1945 Mỹ lại thả quả thứ hai xuống Nagasaki. Số người chết và bị thương rất lớn, ước chừng 140.000 người, cả quân nhân và dân thường, nhưng đến nay vẫn chưa thống nhất về con số nạn nhân vì nhiều lý do. Hằng năm, đến ngày 6/8 nước Nhật tổ chức lễ tưởng niệm các nạn nhân kia. Các buổi lễ đều diễn ra ôn hòa, nhằm mục đích kêu gọi không sử dụng vũ khí hạt nhân, chứ không phải mang tính kích động thù hận “đến tận xương tủy”.

Người đại diện cho phía ném bom, Tổng thống Mỹ, cũng đã có lần đến viếng nơi ấy. Ngày 27/5/2016, tại Công viên Tưởng niệm Hòa bình Hiroshima, Nhật Bản, Tổng thống Obama đã đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm và nhắm mắt, cúi đầu dành một phút mặc niệm, tưởng nhớ những nạn nhân thiệt mạng sau khi Mỹ thả quả bom nguyên tử thứ nhất xuống Hiroshima vào ngày 6-8-1945. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cũng đến đặt vòng hoa tưởng niệm tại đây.

Và mới đây, ngày 20/5/2023 các nước G7 (dĩ nhiên có Mỹ và Nhật) đã chọn Hiroshima để họp bàn về hợp tác toàn cầu, kêu gọi hòa bình, không để chiến tranh hạt nhân xảy ra. Hai “cựu thù” Mỹ – Nhật đều xem sự việc Hiroshima và Nagashaki là “quá vãng nhi bất thuyết”, bây giờ là lúc cần hợp tác “hòa giải, hòa hợp để cùng tiến bộ, nhằm tránh điều đáng tiếc đã xảy ra. Trong khi đó, dư luận tại một số nước thì hành xử ngược lại, hằng năm cứ đến ngày 6/8 họ nhắc lại sự kiện Hiroshima để khoét sâu nỗi đau của người dân Nhật.

Hiện nay, vài nước trên thế giới đang chịu đựng chiến tranh xâm chiếm do sự hiếu chiến, tham vọng phục hồi đế chế của một số lãnh đạo độc tài; các lãnh đạo này đem vũ khí hạt nhân ra hù dọa. Dù chỉ là hù, nhưng thế giới cũng cảm thấy bất an và cảnh giác. Trong bối cảnh đó, giải Nobel hòa bình năm nay vinh danh tổ chức Nihon Hidankyo, nạn nhân của bom nguyên tử năm 1945, thật có ý nghĩa.

Việc làm này không nhằm mục đích nhắc lại chuyện cũ để gây hận thù, chia rẽ, mà là kêu gọi cho một thế giới không dùng vũ khí hạt nhân và cũng là một cách trả lời cho những lời đe dọa dùng bom nguyên tử một cách vô trách nhiệm của một số lãnh đạo độc tài ở một số nước trên thế giới.


 

Trung Quốc gây hấn Biển Đông: Bóng ma quá khứ đang hiện hữu-Sonnie Tran/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

October 15, 2024

Sonnie Tran/SGN

Mùa thu năm 2024, lịch sử như “cô đặc lại” thành nỗi uất hận bị kìm nén từ năm 2014  bỗng lại “bùng nổ” và tái diễn trên Biển Đông. Vụ việc tàu Trung Quốc tấn công dã man ngư dân Việt Nam ở vùng biển Hoàng Sa vào cuối Tháng Chín đã khơi dậy những ký ức đau buồn về những ngày Tháng Năm năm 2014, khi Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan 981 trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Căng thẳng leo thang, và bóng ma của quá khứ đang phủ bóng lên hiện tại, đặt ra câu hỏi: Liệu Biển Đông có đang bước vào một giai đoạn bất ổn mới?

Những năm gần đây, Trung Quốc liên tục gia tăng các hành động quyết liệt nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền phi lý của mình trên Biển Đông. Bắc Kinh không chỉ đơn thuần tuyên bố chủ quyền với hầu hết diện tích Biển Đông, mà còn tích cực triển khai các hoạt động nhằm hiện thực hóa tham vọng bá quyền này.

Lịch sử quay lại sau 10 năm

Từ ngày thay đổi lãnh đạo trên thượng tầng Ba Đình, người dân Việt Nam vốn ngại đụng chạm đến chính trị vì lo ngại đàn áp bỗng có đôi chút trông chờ một sự thay đổi từ chuyến đi Mỹ và các chuyến công du quốc tế của ông Tô Lâm.

Các cuộc gặp gỡ và phát biểu “thừa nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ” của ông Tô Lâm, đặc biệt là những là cái bắt tay của ông với Tổng Thống Zelensky đánh dấu một dấu hiệu nhỏ nhoi về thay đổi lập trường trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga, tạo ra một số kỳ vọng về lập trường cứng rắn hơn của Việt Nam trước các hành vi xâm phạm chủ quyền biển đảo của Trung Quốc.

Việc Thủ Tướng Trung Quốc Lý Cường tức tốc đến Hà Nội sau chuyến công du “gây xôn xao dư luận” của ông Tô Lâm, đã khiến người dân kỳ vọng vào việc chính quyền Việt Nam sẽ bày tỏ thái độ thẳng thắn và nghiêm khắc trước những vụ việc Trung Quốc đối xử tàn bạo với ngư dân Việt Nam trong những tháng gần đây.

Nhưng rồi mọi mong mỏi lại trở về với thất vọng khi phía Việt Nam hoàn toàn “lờ đi” cơ hội tiếp tục lên tiếng và gây sức ép với Trung Quốc và hành vi gây phẫn nộ cho nhân dân Việt Nam.

Nhớ 10 năm trước, ký ức về những ngày Tháng Năm năm 2014 vẫn còn in đậm trong tâm trí nhiều người Việt Nam, như một vết sẹo không thể nào phai mờ. Vụ việc giàn khoan Hải Dương 981, một minh chứng rõ ràng cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, khơi dậy trong lòng người dân Việt Nam một ngọn lửa yêu nước sục sôi, làn sóng biểu tình phản đối Trung Quốc lan rộng trên cả nước. Ngay tại Hà Nội những ngày Tháng Năm năm ấy cũng sục sôi không khí hừng hực khắp nơi. Từ sáng đến trưa, các đoàn biểu tình chia thành từng đợt, nối đuôi nhau diễu hành qua nhiều con phố lớn, từ Đại Sứ Quán Trung Quốc tại Vườn hoa Chí Linh lên tận Nhà Hát Lớn của Hà Nội.

Họ hô vang những khẩu hiệu “Đả đảo Trung Quốc xâm lược!,” “Trung Quốc cút khỏi Biển Đảo của Việt Nam!,” “Vì Biển Đông quên mình, vì Biển Đông hy sinh!,” tiếng hô vang vọng khắp không gian, hòa vào nhau tạo nên một bản hùng ca bất khuất.

Ở phương Nam, tại trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP.HCM, cuộc mít tinh khổng lồ với sự tham gia của đông đảo cán bộ, sinh viên đã khơi dậy và giáo dục cho thế hệ trẻ niềm tự hào dân tộc, tình yêu quê hương đất nước, trách nhiệm và bổn phận của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; đồng thời thể hiện lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ Quốc; phản đối Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép Hải Dương – 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.

“Chia sẻ Tương lai” nào với Trung Quốc?

Bắc Kinh có những hành động ngang ngược, vi phạm luật pháp quốc tế trên ngư trường truyền thống của Việt Nam, dựa trên những tuyên bố chủ quyền phi lý và các hành vi áp đặt.

Trung Quốc đơn phương tuyên bố quyền thống trị trên thực tế đối với hầu hết diện tích Biển Đông, bao gồm cả vùng đặc quyền kinh tế rộng 370 km của bảy quốc gia ASEAN ven biển, trong đó có Việt Nam.

Theo tờ Asia Sentinel, việc Trung Quốc đầu tư nâng cấp căn cứ hải quân Ream ở Campuchia, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự chiến lược, gây ra nhiều lo ngại về việc Trung Quốc có thể sử dụng căn cứ này để triển khai lực lượng quân sự, kiểm soát vùng biển chiến lược, đe dọa an ninh khu vực. Trung Quốc khiến các lực lượng Mỹ khó đi lại tự do hơn và thách thức cấu trúc an ninh hiện tại do Hoa Kỳ lãnh đạo ở khu vực Indo-Pacific.

Bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven biển, Trung Quốc ban hành luật tuần tra hàng hải mới vào năm 2021, cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc tự ý định ra luật lệ, quy tắc và quy định quản lý hành vi trong 3.5 triệu km vuông biển – nơi có lượng hàng hóa thương mại ước tính 3 – 5 nghìn tỷ đôla mỗi năm đi qua.

Luật tuần tra hàng hải của Trung Quốc cho phép lực lượng bảo vệ bờ biển nước này có quyền bắt giữ tàu thuyền ngoại quốc và giam giữ các tàu và cá nhân này lên đến 60 ngày nếu nghi ngờ họ xâm nhập trái phép vào vùng biển mà Trung Quốc tự nhận là “lãnh thổ không thể tranh cãi” dựa trên đường chín đoạn phi pháp – yêu sách đã bị Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ hoàn toàn vào năm 2016.

Vụ tấn công ngư dân Việt Nam gần đây là một minh chứng rõ ràng cho việc Trung Quốc sẵn sàng sử dụng vũ lực để thực thi những luật lệ ngang ngược này, coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền của các quốc gia ven Biển Đông.

Kể từ khi cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực vào năm 1974, Trung Quốc nhanh chóng triển khai chiến lược “tằm ăn dâu” trên quần đảo này, từng bước biến nó thành một căn cứ quân sự kiên cố, bất chấp luật pháp quốc tế và chủ quyền của Việt Nam.

Bắc Kinh thiết lập sự hiện diện thường trực trên Hoàng Sa, xây dựng các tiền đồn, cơ sở hạ tầng quân sự, hệ thống radar, đường băng, và các tổ hợp tên lửa, biến quần đảo này thành một “hàng không mẫu hạm” bất khả xâm phạm trên Biển Đông.

Không dừng lại ở đó, Trung Quốc còn ngang nhiên sáp nhập Hoàng Sa vào hệ thống hành chính của tỉnh Hải Nam và chính thức coi Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của mình, đồng thời khai thác tài nguyên thiên nhiên tại vùng biển xung quanh, bao gồm ngư trường và các mỏ dầu khí.

Trung Quốc liên tục sử dụng các biện pháp ngoại giao và quân sự để khẳng định quyền kiểm soát Hoàng Sa, bác bỏ phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế năm 2016, phủ nhận các yêu sách biển của các nước láng giềng.

Trong bối cảnh đó, liệu Việt Nam có thể đặt niềm tin vào “Cộng đồng chia sẻ tương lai” với Trung Quốc?

Khái niệm này được Bắc Kinh đưa ra như một tầm nhìn về sự hợp tác và thịnh vượng chung cho khu vực, nhưng thực tế lại đang đối nghịch với những hành động gây hấn của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trong khi Trung Quốc ra rả tuyên truyền về hợp tác và phát triển, thì họ lại liên tục có những hành động đơn phương, vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền của các quốc gia láng giềng. Điều này khiến cho “Cộng đồng chia sẻ tương lai” trở thành một khẩu hiệu sáo rỗng, thiếu tính thuyết phục và không tạo được lòng tin từ các quốc gia trong khu vực.

Thời gian gần đây, các động thái gây sức ép của Trung Quốc đối với Việt Nam xem ra có vẻ thô bạo và “phản ngoại giao” hơn thời Tổng Trọng.

Trước chuyến công du New York của ông Tô Lâm, trang Facebook của Tổng Lãnh Sự quán Trung Quốc tại Đà Nẵng đăng lại video vu cáo đại học Fulbright Việt Nam, kèm theo thông điệp cảnh báo về “cách mạng màu.”

Sau đó, Trung Quốc lần đầu tiên cho một thiết bị bay không người lái UAV bay dọc theo lãnh hải Việt Nam mà không gặp bất kỳ sự phản đối nào từ phía Việt Nam. Hành động này được xem là một động thái mang nhiều hàm ý, vừa phô trương sức mạnh, vừa thể hiện rõ ý đồ răn đe của Bắc Kinh, muốn khẳng định Biển Đông vẫn nằm trong tầm kiểm soát của họ và Hà Nội vẫn nằm trong tầm ngắm của Bắc Kinh. Đồng thời cảnh báo liên minh Mỹ – Philippines – những quốc gia đang có xung đột mạnh mẽ với Trung Quốc trên Biển Đông – rằng Trung Quốc vẫn còn nhiều quân bài chiến lược khác.

Ngay sau sau cuộc gặp giữa ông Tô Lâm và Tổng Thống Joe Biden hồi Tháng Chín, Trung Quốc phóng tên lửa hạt nhân như là một lời cảnh cáo gửi đến cả Việt Nam và Mỹ, nhằm thể hiện sức mạnh quân sự và quyết tâm bảo vệ yêu sách chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên Biển Đông.

Nhân dịp Bộ Trưởng Công Thương Nguyễn Hồng Diên tham dự kỳ họp lần thứ 13 Ủy Ban Hợp Tác Kinh Tế Thương Mại Việt Nam – Trung Quốc ở Bắc Kinh, ngày 30 Tháng Chín, Bộ Trưởng Công Nghiệp và Công Nghệ Trung Quốc kêu gọi Việt Nam hợp tác với Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất và chế tạo máy bay.

Trước “mong muốn” này, Hà Nội sẽ phải đối mặt với áp lực không nhỏ từ các quốc gia phương Tây, đặc biệt là từ Hoa Kỳ. Bất kỳ sự hợp tác quá gần gũi nào với Bắc Kinh trong các lĩnh vực công nghệ cao, chẳng hạn như vũ trụ và hàng không, có thể gây ra những hệ quả đối với quan hệ Việt – Mỹ.

Trước những thách thức to lớn này, Việt Nam đang đối mặt với bài toán khó trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và lợi ích quốc gia khi phải  duy trì một chiến lược “ngoại giao cân bằng bền,” tiếp tục thu hút đầu tư và hỗ trợ từ phương Tây, đồng thời không để mối quan hệ với Trung Quốc trở nên căng thẳng quá mức.

Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông được cho là chưa đủ hiệu quả để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Quốc. Việc duy trì quan hệ hữu nghị với Trung Quốc trong khi vẫn kiên quyết bảo vệ chủ quyền là một thách thức lớn. Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc về kinh tế và thương mại, khiến cho việc phản ứng mạnh mẽ trước các hành động của Trung Quốc trở nên khó khăn.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng chính sách đối ngoại của Việt Nam trong vấn đề Biển Đông còn thiếu sự linh hoạt và chủ động. Việc quá tập trung vào việc duy trì quan hệ song phương với Trung Quốc, trong khi chưa khai thác hết tiềm năng hợp tác đa phương với các nước lớn khác như Mỹ, Philippines và các nước Đông Á có chung tranh chấp vùng biển với Trung Quốc…, đã vô hình trung tạo điều kiện cho Trung Quốc gia tăng sức ép lên Việt Nam.

Chính sách “bốn không” trong quốc phòng (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) được một số nhà phân tích cho là đang hạn chế khả năng của Việt Nam trong việc tranh thủ sự ủng hộ của các nước lớn, tạo ra thế cân bằng lực lượng trên Biển Đông.

Việc chưa tận dụng tối đa các diễn đàn quốc tế và khu vực để lên án hành vi sai trái của Trung Quốc, cũng được xem là một điểm yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Biển Đông đang trở thành điểm nóng địa chính trị, nơi các cường quốc cạnh tranh ảnh hưởng và lợi ích. Việt Nam cần phải có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, tăng cường năng lực quốc phòng, và tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của mình.

Bóng ma của quá khứ đang hiện hữu trên Biển Đông, và tương lai của vùng biển này vẫn còn là một ẩn số.


 

Từ giải thưởng Nobel kinh tế, lại nghĩ đến Việt Nam-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba đồng sở hữu Nobel kinh tế

“Tiền là Tiên là Phật ». Chẳng ai phản đối câu nói dân dã này của người Việt Nam. Nói tóm lại Kinh tế quyết định tất cả. Sự thành bại của một cá nhân, của một quốc gia phụ thuộc vào kinh tế.

NHƯNG CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ THÀNH BẠI CỦA KINH TẾ

Câu trả lời nằm trong giải Nobel kinh tế 2024

Giải Nobel Kinh tế năm 2024 đã được trao cho Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì những nghiên cứu của họ về tầm quan trọng của các thể chế đối với sự thịnh vượng của các quốc gia. Họ chỉ ra rằng các thể chế dân chủ, bảo vệ quyền sở hữu và hạn chế lạm dụng quyền lực, giúp thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế lâu dài. Ngược lại, các thể chế chiếm đoạt, tập trung quyền lực và tài sản vào một số giới nào đó thường kìm hãm sự phát triển kinh tế. Những nghiên cứu của họ được thể hiện trong cuốn sách “Why Nations Fail: The origins of Power, Prosperity, and Poverty”(Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói).

Tôi không muốn đi sâu vào các chi tiết của cuốn sách, chỉ biết rằng cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 2012 được dịch ra hơn 30 thứ tiếng(kể cả tiếng Việt). Cuốn sách đã có 1 ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và phát triển.
Đã có biết bao nhiêu bài báo, sách vở chỉ trích chế độ độc tài, nguyên nhân của sự nghèo đói và kém phát triển. Nhưng cuốn sách này là một cuốn nghiên cứu sâu rộng, khoa học với các dẫn chứng cụ thể và nó đã xứng đáng đạt giải Nobel. Như vậy, giải Nobel cũng đã chính thức vạch mặt chỉ tên độc tài.

Bây giờ tôi muốn nói đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của các chế độ độc tài.
Các chế độ độc tài, dù có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài, cuối cùng cũng có xu hướng sụp đổ vì nhiều lý do mang tính cấu trúc. Về bản chất, các chế độ này không ổn định, giống như một thứ cân bằng không bền, mà đã có lần tôi đã dùng đến trong một bài viết trước đây.(Người đi trên dây là một thí dụ cân bằng không bền. Quả lắc đồng hồ là 1 thí dụ về cân bằng bền). Lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta nhiều thí dụ về tính không ổn định và sự sụp đổ không tránh khỏi của các chế độ độc tài.

Một cách ngắn gọn nhất, Các chế độ độc tài sụp đổ vì :
1. Điểm yếu đầu tiên là nó thiếu tính chính danh từ nhân dân, tính chính danh dân chủ. Khác với các chế độ dân chủ, các chế độ độc tài thường cướp chính quyền và duy trì quyền lực bằng bạo động và đàn áp. Đây là những nguyên nhân gây ra bất mãn và các phong trào phản kháng của nhân dân. Khi những bất mãn này đạt đến đỉnh điểm, chế độ sẽ sụp đổ dưới áp lực của các cuộc đấu tranh, biểu tình của nhân dân.
2. Điểm yếu thứ hai của độc tài là nó tập trung quyền lực vào tay của một cá nhân hay một nhóm. Điều này dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng tràn lan. Thiếu sự kiểm soát và đối trọng, các chế độ này trở nên mục nát từ bên trong, sẽ đến lúc không thể nào cứu vãn được.
3. Điểm yếu thứ ba chính là điều mà giải thưởng Nobel kinh tế 2024 đã nói đến, Kinh tế kém hiệu quả. Các chế độ độc tài không thể đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tự do cá nhân bị bóp nghẹt, tự do sáng tạo sẽ bị hạn chế. Tham nhũng làm bộ máy kinh tế không thể nào hoạt động một cách bình thường.

Sự phồn thịnh hay đói nghèo của một đất nước hay một dân tộc không phụ thuộc vào vị trí địa lý, chủng tộc hay tôn giáo hay sự ngắn dài của lịch sử mà là kết quả của thể chế chính trị. Nước Mỹ chỉ có hơn 200 năm lịch sử, nước ta trên 4.000 năm…

Tuy nhiên, một số đặc điểm riêng của VN(văn hóa, lịch sử, xã hội…) đã làm cho chế độ cộng sản có thể bám rễ lâu hơn so với các nước khác. Tôi mạo muội đưa ra một số đặc điểm sau:

  1. Chế độ cộng sản không coi trọng cá nhân(trong nhân dân) và luôn luôn đề cao tính tập thể. Đặc điểm này có vẻ như hợp với người VN. Từ ngàn đời, người Vn ta có truyền thống sống trong các làng xã nhỏ bé, nơi mà mọi người biết rõ nhau, thậm chí có quan hệ huyết thống với nhau và cùng hỗ trợ nhau để tồn tại. Sự đoàn kết chặt chẽ này giúp hình thành tinh thần tập thể mạnh mẽ và dễ đồng nhất với tư tưởng cộng sản, vốn coi trọng tập thể và cộng đồng hơn cá nhân. Chế độ cộng sản đã khéo léo khai thác đặc tính này, sử dụng nó như một công cụ để duy trì sự thống nhất và kiểm soát xã hội.
  2. Tinh thần yêu nước và chống ngoại xâm: Người Vn có truyền thống yêu nước, có lịch sử lâu dài chống lại thành công các cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Chính quyền cộng sản đã rất thành công trong việc động viên, kích động nhân dân trong các cuộc chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. HỌ KÉO LÉO GẮN KẾT NHỮNG THÀNH CÔNG ĐÓ VỚI TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN, kiến nhiều người dân tin rằng Đảng với tư tưởng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của ngoại bang. Yêu nước trở thành yêu Đảng, Yêu CNXH. Chủ nghĩa yêu nước của VN tự nhiên trở thành một yếu tố quan trọng củng cố tính chính danh của chế độ, hóa giải được điểm yếu chí mạng của một chế độ độc tài.(Yếu tố số 1 nêu trên).
  3. Chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Nước ta là một nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu. Người Vn quen với việc chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Ngày xưa thì có vua, bây giờ thì có đảng. Trong cấu trúc xã hội VN, sự tuân thủ và tôn trọng quyền lực đã trở thành một phần của văn hóa. Chính quyền cộng sản đã kế thừa và khai thác mô hình quyền lực này, áp đặt quyền lực mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương. Điều này khiến cho người dân có xu hướng dễ chấp nhận và ít chống đối sự cai trị từ trên.
  4. Tính linh hoạt, khôn lỏi và thích nghi với hoàn cảnh. Trên đây là tôi tạm thời liệt kê một vài yếu tố có tính chất xã hội, cộng đồng, nói chung. Còn về cá nhân, người Việt có tính khôn lỏi rất cao để thích nghi với hoàn cảnh. Họ có thể chấp nhận điều chỉnh cuộc sống của mình dưới bất kỳ chế độ nào, luồn lách, tìm cái lợi riêng trong một thể chế chung tồi tệ. Người ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước những bất công của xã hội, miễn là mình còn có lợi. Hơn nữa, trong xă hội Việt Nam, gia đình là một yếu tố trung tâm rất quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Nhiều người tìm cách sống khôn lỏi, an phận để bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Chế độ cộng sản cũng khéo léo lợi dụng yếu tố này để duy trì sự ổn định, thậm chí khuyến khích việc giám sát lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
  5. Tính kiên nhẫn và sức chịu đựng. Chắc chắn chúng ta là một dân tộc có tính kiên nhẫn và chịu đựng rất cao. Nói một cách dân dã “thà đói khổ nằm nhà còn hơn là đi đấu tranh đòi hỏi một cái gì đó chống lại chính quyền”.

6 Dân trí. Dưới đây là một đoạn trích trong báo Tiền Phong, Cơ quan trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh : “Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng nề và dai dẳng của dân tộc: Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn quan tham lại nhũng: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/Cho nên quân nó dễ làm quan”.(trích nguyên văn)

Rõ ràng dân trí của chúng ta vẫn đang là một vấn nạn khổng lồ của ngày hôm nay. Xã hội chỉ thay đổi được trước những đòi hỏi mãnh liệt của quần chúng nhân dân.

Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, nhưng dân trí của ta có thể vẫn ở mức độ cách đây vài trăm năm của Châu Âu. Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ nhưng nếu dân trí không khá hơn thì chúng ta vẫn tiếp tục “xứng đáng được hưởng” những “thành quả” của CNXH và tiếp tục tiến tới CNCS, thiên đường.

Giải thưởng Nobel là giải thưởng quốc tế danh giá nhất giành cho những công trình nghiên cứu có những đóng góp lớn lao trong việc làm cho xã hội loài người tốt hơn. Phủ nhận các giải thưởng Nobel đồng nghĩa với phủ nhận sự tiến bộ của nhân loại. Vậy mà, theo tôi được biết, cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói” do Tiến Sỹ Nguyễn Quang A dịch đầu tiên, sau đó được nhóm khác có bản quyền dịch, xuất bản ở VN đã không được tái bản, thậm chí đang bị âm thầm thu hồi.

(Hình minh hoạ tranh vui của Nga “Cái hoạ không phải là ở chỗ ở bên trên nói láo mà ở chỗ bên dưới lại tin”).


 

Thế Giới Này Có Gì Lạ?

Đến châu Âu mới biết đi shopping không sợ hàng giả

  • Đến Bắc Âu mới biết mặt trời cũng thích ngủ nướng
  • Đến Hong Kong mới biết minh tinh nào cũng đeo Mask
  • Đến Hà Lan mới biết mực nước biển cao hơn mặt đất
  • Đến Thái Lan mới biết thì ra con cú cũng có gai
  • Đến Pháp mới biết trêu hoa ghẹo nguyệt cũng có phong cách
  • Đến Nga mới biết Vodka chỉ là một loại nước giải khát
  • Đến Hawaii mới biết phụ nữ không cần phải mua áo lót (ngực)
  • Đến Nam Hàn mới biết phụ nữ đẹp không phải do bẩm sinh
  • Đến Brazil mới biết mặc đồ thiếu vải cũng chẳng có gì phải thẹn thùng
  • Đến Anh quốc mới biết kết cục hạnh phúc mãi mãi về sau trong truyện cổ tích đều là hư cấu
  • Đến Nhật Bản mới biết ngay cả tội phạm Cảnh sát cũng đối xử vô cùng lịch sự lễ độ
  • Đến Mexico mới biết có thể đi đến Mỹ bằng đường hầm
  • Đến Canada mới biết diện tích lãnh thổ lớn hơn Trung Quốc, nhưng dân số còn kém hơn tiểu bang Cali
  • Đến Trung Quốc mới biết 10 người hết 9 người lừa đảo, người còn lại đang luyện tập ngày đêm
  • Đến Mỹ mới biết bất kể là ai, bạn đều có thể kiện họ ra toà
  • Đến Úc mới biết chuột túi và các loại động vật khác nhiều như đông quân Nguyên, dễ khiến con người phát điên
  • Đến Thuỵ Sĩ mới biết mở tài khoản ngân hàng, nếu có ít hơn 1 triệu USD sẽ bị cười thúi mũi
  • Đến Ý mới biết Gucci & Prada còn ít hơn Trung Quốc
  • Đến Áo mới biết người ăn xin nào cũng có thể đàn ít nhất một bản nhạc
  • Đến Vatican mới biết dù đứng ở bất kỳ vị trí nào trong nước cũng có thể bắn chết chim ở tận nước Ý.
  • Đến thiên đàng xã nghĩa  Việt Nam mới biết có lò đốt quan tham Việt Cộng… nhưng đốt hoài không bao giờ hết !

Kim Hoa 

From: Phi Phuong Nguyen


 

SÔNG CÓ THỂ CẠN-THÁI BÁ TÂN

Nghiem Huynh

Trong “Đèn Cù” có đoạn

Nói về Chu Văn Biên,

Trùm cải cách Nghệ Tĩnh,

Bắc ghế ngồi trên thềm.

 

Hắn chỉ vào mặt mẹ

Đang cúi lạy dưới sân:

“Mày là đứa bóc lột,

Kẻ thù của nhân dân.

 

Không mẹ con gì hết.

Tao phải tiêu diệt mày.”

Vì cái thành tích ấy

Chu Văn Biên sau này

 

Được đề bạt thứ trưởng

Bộ nông nghiệp nước nhà.

Mẹ cắn lưỡi tự tử.

Thật tội nghiệp bà già.

*

Một chính quyền xúi giục

Con cái đấu mẹ cha,

Người ở đấu ông chủ,

Cháu chắt đấu ông bà,

 

Thử hỏi chính quyền ấy

Là thứ chính quyền gì?

Một tội ác man rợ

Thuộc vào hàng tru di.

 

Và sông có thể cạn,

Và núi có thể mòn,

Tội ác man rợ ấy

Sẽ được nhớ, trường tồn.

THÁI BÁ TÂN

BÀ HẰNG, ÔNG VIỆT…- NGUYỄN TIẾN TƯỜNG

Những câu chuyện ý nghĩa

Bà Nguyễn Thị Phương Hằng vừa đi tù về, tự khoác cho mình một “sứ mệnh” vì dân. Tôi không biết bà vì dân là vì điều gì khi rõ ràng rằng bà đi tù vì tội xúc phạm nhân phẩm và vu khống người khác.

Lương dân, nên là những người biết đúng sai phải quấy, không nên là những người vì lòng hiếu kỳ mà tung hê một người chỉ vì họ giàu có và nanh nọc.

Tương tự, ông Vương Tấn Việt, kẻ không có mặt trong kỳ thi cấp 3 trở thành tiến sĩ. Ông sắm nhiều vai vĩ cuồng, nhiều sứ mệnh mông lung huyễn hoặc. Trong đó ông đứng đầu một hệ thống nhằng nhịt dẫn dắt “chúng thanh niên”.

Tôi không xem họ là những người mộ đạo, họ chỉ là những người mê lầm, trót tin vào những bài pháp xiêu vẹo của ông Việt.

Dân của bà Hằng, chúng thanh niên của ông Việt, chỉ là một nhóm người có nhu cầu của riêng họ, không ai được phép khoác chung vào một chữ “nhân dân”.

……

Ông Việt mắng sư Minh Tuệ “thằng ba trợn”, bà Phương Hằng đòi “quất”. Cả hai, với ngôn ngữ bặm trợn cục súc của mình, đã phô bày với thiên hạ rằng sự giàu có và đạo mạo không làm nên cái sang. “Sang” là cả một quá trình hội tụ nhiều yếu tố, trong đó nền tảng học vấn và tu tập nắm phần quan trọng.

Cả hai người đều dính nặng “tam độc” tham, sân, si. Vì quá tham hư danh, hai người múa may quay cuồng, làm đủ thứ chuyện nhố nhăng, mạ lị.

Vì tham nên sân, cả hai đem lòng đố kỵ với một nhà sư bình dị, vốn chẳng liên quan gì đến mình.

Sư Minh Tuệ là người tự thấp mà cao, không tranh mà được, không cầu mà đắc. Đó chính là đỉnh cao của trí huệ giải thoát. Còn người như bà Hằng, ông Việt đến trí tuệ còn chưa kịp sắm, thì đường đến trí huệ còn rất gian nan.

Đến cây cỏ côn trùng mà sư Minh Tuệ còn không muốn giẫm lên thì bà Hằng ông Việt không bao giờ có cơ hội đến gần gót chân ông ấy.

Xin đừng nghĩ tôi có ý xúc phạm. Bởi vì chúng sinh bình đẳng, cây cỏ côn trùng sống an vui và thanh cao hơn những người dính vào tam độc. Địa ngục không ở đâu xa cả, địa ngục là ngọn lửa tham hận luôn cháy trong lòng.

……

Sư Minh Tuệ sẽ luôn chúc phúc cho mọi người, cho dù có ghét ông đi nữa. Cũng giống như đức Phật luôn mềm mỏng với kẻ phỉ báng mình, vì Phật hiểu rằng họ sẽ phải đối mặt với nhân quả của họ.

Ông Việt, chỉ gieo nhân 3 chữ “thằng ba trợn”, đã nhận lại một quả đắng thân bại danh liệt trốn chui trốn nhủi như chuột nhắt.

Bà Hằng tự huyễn hoặc mình đang ở “đỉnh cao”. Một lời khuyên cho bà là hãy tận hưởng đỉnh cao của mình, tự do trong khuôn khổ. Có hai thứ bà không bao giờ nên đụng vào là tự do và đức tin của người khác.

Nhân quả pháp luật, nhân quả đức tin là hiển hiện và rất chóng vánh. Quay đầu, là bờ!

NGUYỄN TIẾN TƯỜNG

Giải mã hiện tượng Nguyễn Phương Hằng-*Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

October 16, 2024

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Nguyên thủy, trong phiên tòa cấp sơ thẩm, bà Nguyễn Phương Hằng, chủ Khu du lịch Đại Nam (Bình Dương) đã bị kết án 3 năm tù giam về tội danh theo điều 331 Bộ luật Hình sự “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm…”.

Đến Tháng Tư 2024, dù không kháng cáo, nhưng phiên tòa cấp phúc thẩm đã “linh động” giảm cho bà Hằng 3 tháng tù giam, còn lại 2 năm 9 tháng tù giam. Tuy vậy, đến cuối trung tuần Tháng Chín 2024, khi đã thụ án 2 năm 6 tháng tù giam, thì bà được chế độ Cộng Sản trong nước trả tự do sớm khi được giảm hình phạt thêm 3 tháng nữa.

Bà Nguyễn Phương Hằng bị kết án 3 năm tù ngày 23 Tháng Chín 2023 nhưng sau đó được giảm án dù không xin.(Hình: Hải Dương)

Như bù lại những ngày lao tù kéo dài đến 2 năm 6 tháng, cho nên, chỉ sau 10 ngày được tự do, ngày 29 Tháng Chín 2024, bà đã tổ chức lại buổi livestream khá ồn ào tại Khu du lịch Đại Nam, nơi bà và chồng là chủ sở hữu. Để công chúng hâm mộ có thể chia vui với sự tự do của mình và để bảo đảm buổi livestream có lượng khán giả đông đảo, bà đã mở cửa miễn phí cho khách vào tham quan khu du lịch.

Video quay hình về buổi livestream của bà Nguyễn Phương Hằng được chia sẻ tràn ngập các nền tảng mạng xã hội phổ biến như Facebook, Youtube, Tiktok… Khiến công chúng nhớ lại những ngày bà cũng đã làm mưa gió trên các nền tảng mạng xã hội tại thời điểm trước khi bị bắt giữ vào hạ tuần Tháng Ba 2022.

Khi ấy, số lượt theo dõi các kênh riêng của bà, cũng như số lượt xem từng video do các kênh ấy đăng tải lên đến số hàng chục vạn, thậm chí, tiếp tục tăng dần lên đến con số hàng triệu người xem sau đó. Người theo dõi và xem các buổi livestream của bà không chỉ là người Việt trong nước mà cả người Việt đang sinh sống ở nước ngoài.

Vấn đề mang tính xã hội khi bà Phương Hằng, không phải là học giả nổi tiếng, không xuất thân từ giới nghệ thuật biểu diễn, cũng không cần công nghệ “lăng-xê”, mà chỉ với sự hoạt ngôn đã trở nên “ăn khách”, thu hút đông đảo số lượng công chúng quan tâm đến mức như vậy?

Nếu căn cứ về nội dung các buổi livestream của bà, có thể tạm chia ra làm 2 giai đoạn.

Trong giai đoạn đầu, bà Phương Hằng “bóc phốt” (vạch mặt) các cá nhân nổi tiếng, đã có các hành vi lừa đảo, bội tín về tài chính đối với công chúng khi điểu trị bệnh tật hoặc tổ chức quyên góp làm từ thiện, cứu trợ … gồm một người thường được gọi là “Thần y” và nhiều nghệ sĩ…

Những buổi livestream trong giai đoạn này đã mang đến những hiệu ứng khá tích cực, được phần lớn công chúng theo dõi đồng tình. Nhiều nghệ sĩ đã vội vàng giải ngân các khoản tiền đã nhận quyên góp để trao gởi đến người dân hoặc xuất trình các khoản thu chi để minh bạch tài chính.

Trong giai đoạn tiếp theo, các buổi livestream của bà trở thành những buổi chửi bới thô tục, đấu tố một chiều về bất kỳ người nào đã từng chỉ trích bà trên mạng xã hội. Kể cả, bà can dự vào các câu chuyện mà được nhờ phát ngôn. Trong đó, bao gồm cả nghi án “loạn luân” tại Thiền Am Bên Bờ Vũ Trụ. Theo đó, bà dự định ban phát công lý khi đến tận nơi tu hành của những tu sĩ tại Đức Hòa, Long An để “hỏi tội”.

Tương tự thế, bà cũng đã làm một chuyến du hành đến tư gia một nữ “đối thủ” cãi vã trên mạng xã hội, cũng để “hỏi tội”. Mỗi chuyến đi như vậy đều được thông báo rộng rãi, thu hút hàng nghìn người dân ủng hộ hoặc hiếu kỳ đến tràn ngập nơi ở của nạn nhân.

Với những người dễ dãi, họ thấy ở bà Phương Hằng có đủ mọi điều nằm trong ước mơ của mình, như sự giàu có, nổi tiếng, dám ăn, dám nói và đầy hào hiệp. Bà vung tay bằng những khoản tiền hậu hĩ để cứu trợ, bà đang sửa trị tệ nạn xã hội, bà ban phát công lý cho người đang phải chịu đựng bất công… Theo đó, bà Phương Hằng đang thay mặt họ thực hiện giấc mơ mà họ biết rằng chẳng bao giờ có được trong cuộc đời này, dưới chế độ này.

Trong đó, bao gồm cả ẩn ức chung của đám đông muốn biểu đạt chính kiến của mình về hàng loạt vấn đề xã hội, về những quan chức bất xứng, về tệ nạn tham nhũng, cửa quyền, về nạn bất công tràn lan đến với họ, với người thân… Nhưng trước sự đàn áp khốc liệt, không cần che dấu của chế độ Cộng Sản đã khiến họ không dám tỏ bày. Nay bà thay mặt họ giải tỏa những ẩn ức đó. Kể cả việc bà gọi đích danh quan chức chính quyền để chỉ trích, phê phán.

Cho nên, đối với họ, bà Phương Hằng chẳng khác gì là người hùng. Và điều đáng nói là chính bà cũng tin như vậy. Nếu không, thì đã chẳng có những ca từ mà bà sáng tác trên nền nhạc của người khác: “Vì sao tôi thương dân, vì sao dân thương tôi”.

Cho đến trước thời điểm bị bắt giữ vài ngày, trong một buổi livestream, bà Phương Hằng phê phán, chỉ trích đích danh ông Phan Văn Mãi, khi ấy đang là người đứng đầu chính quyền Sài Gòn, thành phố lớn nhất quốc gia.

Sự kiện này như giọt nước tràn ly khiến bà bị khởi tố hình sự trong ít ngày ngay sau đó. Vì lẽ, sự thu hút công chúng quá lớn, cả kẻ yêu, người ghét đã đủ để bà đã trở thành mối thách thức, nguy hại tiềm ẩn về an ninh đối với chế độ.

Sau 2 năm 6 tháng thụ án tù giam, bà trở về với tự do. Thế nhưng, sự ảo tưởng của đám đông dễ dãi đối với bà và của bà đối với đám đông hầu như vẫn còn nguyên vẹn, chưa kể rằng, những ngày lao tù giúp cho bà gia tăng “số má” như một nạn nhân của chính quyền. Do đó, bà vẫn tiếp tục lộng ngôn với những lời lẽ đao to, búa lớn. Thậm chí, bà còn hứa hẹn sẽ “bốc phốt” cả hành giả Thích Minh Tuệ, một tu sĩ rất được công chúng mến mộ.

Bà Nguyễn Phương Hằng trong một buổi nói chuyện trực tiếp trên mạng. Công an thành phố Sài Gòn cáo buộc bà “dùng 12 kênh mạng xã hội để livestream xuyên tạc đời tư của nhiều cá nhân”.(Báo Thương trường)

Nhìn chung, dưới khía cạnh xã hội. Nếu quyền tự do ngôn luận được chế độ tôn trọng, tham nhũng bị tiệt trừ, bất công không còn, thì những buổi livestream của bà Phương Hằng sẽ không còn mấy đất sống và cũng không còn được đám đông chờ đợi đón xem để tung hô như đã từng. Vì họ có thể tự lên tiếng chứ không cần mượn nhờ đến ai.

Cũng vậy, nếu có một nền tư pháp hữu hiệu, thì đám đông đã có thể tìm kiếm công lý chứ không cần phải qua sự hào hiệp của bà Phương Hằng… Tương tự như thế với mọi vấn đề khác của xã hội.

Cho nên, nói không quá, hiện tượng Phương Hằng chính là sản phẩm quái thai được sinh ra và dung dưỡng bởi chính chế độ Cộng Sản. Không tin, cứ nhìn ra thế giới bên ngoài sẽ thấy: Trong một xã hội văn minh, tôn trọng tự do, dân chủ và nhân quyền, thì không ở đâu và cũng không khi nào có một hiện tượng tương tự Phương Hằng xuất hiện.

DC, ngày 15 Tháng Mười 2024

Đặng Đình Mạnh


 

ChatGPT trình bày về nguồn gốc Chủ nghĩa Marx-Lenin ở Việt Nam từ 1930 đến nay- Nghiêm Huấn Từ

Ba’o Tieng Dan

Nghiêm Huấn Từ

17-10-2024

Người đối thoại: Xin chào chatGPT, tôi được các cháu giới thiệu, nên đã được đọc rất kỹ bài Chủ nghĩa Mác-Lênin ở Wikipedia.

Xin trích một phần trong nội dung:

Chủ nghĩa Mác-Lênin được Joseph Stalin phát triển từ chủ nghĩa Bôn-sê-vích vào những năm 1920 dựa trên sự hiểu biết và tổng hợp của ông về chủ nghĩa Mác và Lênin chính thống. Sau cái chết của Vladimir Lenin vào năm 1924, chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành một phong trào riêng biệt ở Liên Xô khi Stalin và những người ủng hộ ông giành quyền kiểm soát đảng. Nó bác bỏ quan niệm chung của những người mác xít phương Tây coi cách mạng thế giới là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội, ủng hộ khái niệm chủ nghĩa xã hội ở một nước. Theo những người ủng hộ nó, quá trình chuyển đổi dần dần từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội được thể hiện bằng việc đưa ra kế hoạch 5 năm đầu tiên và Hiến pháp Liên Xô năm 1936.

Vào cuối những năm 1920, Stalin đã thiết lập hệ tư tưởng chính thống trong Đảng Cộng sản Nga (Bolshevik), Liên Xô và Quốc tế Cộng sản để thiết lập chủ nghĩa Mác-Lênin phổ quát. Việc xây dựng phiên bản chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử của Liên Xô vào những năm 1930 bởi Stalin và các cộng sự của ông, chẳng hạn như trong văn bản của Stalin “Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử”, đã trở thành cách giải thích chính thức của Liên Xô về chủ nghĩa Mác, và được những người theo chủ nghĩa Mác-Lênin ở các nước khác lấy làm ví dụ; theo Đại từ điển bách khoa toàn thư Nga, văn bản này đã trở thành nền tảng triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong 1938, sách giáo khoa chính thức của Stalin Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) phổ biến chủ nghĩa Mác–Lênin.

Tôi cũng được các cháu giới thiệu bài Bạo lực và khủng bố dưới thời Stalin, đăng trên trang Nghiên cứu Quốc tế ngày 19-7-2018.

Nay, xin hỏi ChatGPT để biết thêm một số chi tiết: Sau khi cụ Lenin mất, cụ Stalin đặt ra cái Chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm những mục đích cá nhân gì?

ChatGPT: Chủ nghĩa Marx-Lenin là do Stalin thiết lập sau khi Lenin qua đời vào năm 1924. Dù trên bề mặt, Stalin tuyên bố phát triển lý luận để phù hợp với hoàn cảnh mới, nhưng trên thực tế, việc xây dựng chủ nghĩa Marx-Lenin phục vụ nhiều mục đích cá nhân và chính trị. Vắn tắt, đó là:

1) Nắm quyền lực tuyệt đối cho cá nhân và tạo ra tính chính danh cho mình;

2) Loại bỏ, tận diệt các đối thủ chính trị;

3) Biện minh cho các chính sách trái với Marxism (ví dụ, Marx cho rằng cách mạng XHCN phải xảy ra ở một loạt nước tư bản phát triển nhất; còn Stalin chủ trương có thể thực hiện CNXH ở một nước bằng những “kế hoạch 5 năm”);

4) Sử dụng chủ nghĩa Marx-Lenin (đưa vào Hiến Pháp) để kiểm soát xã hội và đàn áp người bất đồng chính kiến;

5) Tạo thần thoại cho cá nhân mình về sự kế thừa Lenin;

6) Thống nhất và kiểm soát toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế.

Người đối thoại: Chủ nghĩa Marx-Lenin gây ra những thảm cảnh gì ở Liên Xô?

ChatGPT: Chủ nghĩa Marx-Lenin dưới thời Stalin đã gây ra hàng loạt thảm cảnh lớn ở Liên Xô, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của hàng triệu người. Những chính sách tập trung quyền lực, đàn áp và kinh tế cưỡng chế được thực hiện nhân danh “xây dựng chủ nghĩa xã hội”, nhưng thực tế đã gây ra khủng hoảng nhân đạo trên quy mô chưa từng có.

1) Chính sách tập thể hóa nông nghiệp cưỡng bức khiến nông dân mất quyền sở hữu đất và không còn động lực sản xuất.

  1. a)Nạn đói Holodomor (1932-1933):Đặc biệt nghiêm trọng ở Ukraine, Kazakhstan, và các khu vực nông nghiệp khác, dẫn đến cái chết của 3-7 triệu người;
  2. b)Chính sách trừng phạt: Stalin ra lệnh tịch thu lương thực từ những người không đáp ứng hạn ngạch, khiến nạn đói càng tồi tệ hơn.
  3. c)Tác động: Đây không chỉ là thảm kịch tự nhiên mà còn được coi là nạn diệt chủng chính trịnhằm đàn áp người Ukraine.

2) Đại thanh trừng (1936-1938);

  1. a) Cưỡng bức lao động trong các trại Gulag;
  2. b) Cưỡng bức Tập thể hóa và tiêu diệt tầng lớp kulak (rất có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp);
  3. Làm suy thoái kinh tế và công nghiệp hóa cưỡng bức;

3) Hạn chế tự do cá nhân và văn hóa;

4) Thiệt hại về nhân mạng trong Thế chiến II (chết 26-27 triệu) do trước đó lực lượng quốc phòng và hậu cần đã bị các chính sách thanh trừng và cưỡng bức kinh tế của Stalin làm thiệt hại lớn.

Người đối thoại: Với phong trào Cộng Sản, cụ Stalin đã áp đăt cái chủ nghĩa Marx-Lenin quá tàn bạo này tới mức nào cho các ĐCS khác khi cụ khi đứng đầu Quốc Tế Cộng Sản (QT3)?

ChatGPT: Khi Stalin lãnh đạo Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III), ông đã áp đặt chủ nghĩa Marx-Lenin một cách tuyệt đối lên các đảng cộng sản thành viên, biến tổ chức này thành công cụ chính trị phục vụ lợi ích của Liên Xô và của cá nhân ông. Việc tuân thủ hệ tư tưởng và đường lối của Liên Xô trở thành yêu cầu bắt buộc, không chỉ về mặt lý thuyết mà cả về mặt thực tiễn chính trị.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Người đối thoại: Ai ở Việt Nam được học chính quy, có hệ thống về chủ nghĩa Marx-Lenin ở Liên Xô? Có phải là Nguyễn Ái Quốc?

ChatGPT: Trần Phú mới đúng là một trong những đảng viên cộng sản Việt Nam đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc gửi sang Liên Xô năm 1927 để học tập chính quy về chủ nghĩa Marx-Lenin. Sau khi tốt nghiệp, ông trở thành Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.

Người đối thoại: Nhưng cụ Nguyễn Ái Quốc mới đúng là người đầu tiên trình bày Chính Cương cho một Hội Nghị 4 người (được gọi là Hội Nghị Hợp Nhất các tổ chức CS) vào tháng 2-1930, trước khi cụ Trần Phú về nước?

ChatGPT: Tại Đại Hội tháng 10-1930, cái Chính Cương tháng 2-1930 của Nguyễn Ái Quốc đã bị bác bỏ hoàn toàn (trong Biên Bản của Đại Hội, ghi là “thủ tiêu”). Đó là vì Chính Cương chưa đủ mạnh mẽ khi nói về đấu tranh giai cấp, mà nặng về đoàn kết nhân dân, đánh đuổi thực dân, để giải phóng dân tộc.

Người đối thoại: Có lẽ, bệnh cả đời của cụ Nguyễn Ái Quốc là “ái quốc”. Cứ suốt đời nhắc đi, nhắc lại hai chữ “đoàn kết”, thì làm sao tiêu hóa nổi cái chủ nghĩa Marx-Lenin?

ChatGPT: Có thể, bạn có lý!

Người đối thoại: Vậy giữa Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú, nói vắn tắt, thì ai là người chính thức đưa chủ nghĩa Marx-Lenin chính thống về Việt Nam?

ChatGPT: Trần Phú.

Người đối thoại: Báo Dân Trí có bài khen ChatGPT rất thông minh, đáp ứng tốt kỳ vọng của người dùng. Có thể tin tưởng được, chỉ cần biết cách sử dụng. Vậy, ChatGPT có thấy mình xứng đáng được như vậy? Xin cám ơn ChatGPT rất nhiều và hẹn gặp lại.

ChatGPT: Cảm ơn bạn đã chia sẻ thông tin! Đó là một lời khen rất đáng quý. Mình tự thấy phải luôn cố gắng học hỏi và cải thiện để hỗ trợ người dùng tốt hơn. Nếu có câu hỏi hoặc cần giúp đỡ gì, bạn cứ tự nhiên nhé! Mong gặp lại.


 

Báo chí cộng sản: kiếp nạn thứ tư của người Việt Nam

Ba’o Nguoi-Viet

October 15, 2024

Trần Anh Quân/SGN

Ở những nước dân chủ, tự do, báo chí được coi là quyền lực thứ tư, sau hệ thống “tam quyền phân lập” (lập pháp, hành pháp và tư pháp), là nơi lên tiếng bảo vệ người yếu thế khi họ bị áp bức, bất công xã hội. Nhưng ở Việt Nam thì khác, theo khoản 2, điều 3, Hiến pháp do CSVN viết thì “quyền lực nhà nước là thống nhất.”

Tức là Việt Nam không có tam quyền phân lập, mà mọi thứ đều nằm trong tay đảng cộng sản, báo chí cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát đó được.

Tuy không phải là quyền lực thứ tư bảo vệ người dân. Nhưng báo chí cộng sản lại trở thành “kiếp nạn thứ tư” của người dân và các doanh nghiệp tư nhân. Chỉ đứng sau thuế vụ; công an quan chức; quản lý thị trường – y tế – môi trường. Lương tháng thì ít, lương tâm thì không có, các phóng viên, nhà báo dùng mọi chiêu trò để moi tiền từ các công ty, doanh nghiệp.

Điển hình mới nhất là vụ cả toà soạn báo bị bắt vì thủ đoạn tống tiền doanh nghiệp với danh nghĩa xin tiền từ thiện. Vụ việc xảy ra tại toà soạn tạp chí Môi trường và Đô thị Việt Nam. Tổng biên tập Đồng Xuân Thụ cùng phó tổng biên tập, trưởng ban kinh tế môi trường, kế toán và 4 phóng viên của tờ báo này bị công an khởi tố, bắt giam với cáo trạng “cưỡng đoạt tài sản” của hàng trăm bị hại, với số tiền lên tới hàng chục tỷ đồng.

Công an cáo buộc ông Thụ đã chỉ đạo lập chương trình gây quỹ “Cây Chổi Vàng” để tôn vinh, ủng hộ, làm công tác từ thiện giúp đỡ công nhân vệ sinh môi trường. Sau đó, giao nhiệm vụ cho các phóng viên, cộng tác viên đi tìm kiếm các dấu hiệu sai phạm của các tổ chức, cá nhân, công ty rồi đe dọa đăng thông tin trên báo. Điều này nhằm gây sức ép buộc họ tham gia tài trợ chương trình “Cây Chổi Vàng”. Các mức đóng “quỹ từ thiện” gồm 300 triệu đồng, 200 triệu đồng, 100 triệu đồng, 50 triệu đồng. Nhận được tiền thì nhóm này sẽ chia nhau rồi chỉ đạo kế toán “chế biến” hóa đơn, giấy tờ để hợp thức hóa với việc vận hành quỹ “Cây Chổi Vàng”.

Ngoài việc đi “xin tiền quỹ từ thiện,” có một thủ đoạn tinh vi hơn là tống tiền doanh nghiệp bằng hình thức “ký hợp đồng hợp tác truyền thông.” Đây là chiêu thức được đa số các tờ báo CSVN sử dụng hiện nay, các công ty rất khó cãi lý vì có hợp đồng ký kết rõ ràng.

Năm 2021, công an đã vạch mặt một vụ tại Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập với chiêu trò hợp pháp hoá việc tống tiền doanh nghiệp bằng các hợp đồng truyền thông. Trong vụ án này, bà Nguyễn Ngọc Diệp, nguyên Trưởng ban PR – Chuyên đề của tờ báo đã tìm kiếm các công ty có dấu hiệu không tuân thủ quy định nhà nước để nhắn tin tống tiền. Nếu phía doanh nghiệp không ký hợp đồng truyền thông và chuyển tiền thì họ sẽ viết bài phanh phui. Nếu đồng ý chuyển tiền thì họ sẽ viết bài quảng cáo cho các công ty đó.

Ngoài ra thì các tờ báo cũng dùng chiêu “sáng đăng, trưa cà phê, chiều xoá bài.” Theo đó, tòa soạn sẽ cho phóng viên đi thu thập thông tin, chụp ảnh các công trình có dấu hiệu sai phạm; rồi phân công người viết và đăng bài. Sau đó nhắn tin, gửi bài viết, hoặc hẹn lãnh đạo công ty đi uống cà phê để đe dọa, uy hiếp phải chi tiền để gỡ bài.

Thời gian gần đây hầu như tháng nào cũng có một vài vụ phóng viên, nhà báo bị bắt vì tống tiền doanh nghiệp. Nhưng vấn nạn này không phải bây giờ mới có, mà trước đây kinh tế sáng sủa, doanh nghiệp chấp nhận chung chi cho báo chí, vừa coi như có chỗ dựa về truyền thông, vừa như là hợp đồng quảng cáo. Để tới bây giờ nền kinh tế bếch bác, làm không ra tiền mà còn phải chịu mấy ách xiềng xích từ thuế má tới quan chức cộng sản, thì doanh nghiệp họ buộc phải trở mặt với báo chí để bớt một phần gánh nặng.

Báo chí tống tiền doanh nghiệp không chỉ là gây áp lực cho doanh nghiệp, mà còn làm khó cho nền kinh tế chung. Khi doanh nghiệp phải chi thêm tiền lo lót cho báo chí thì họ phải tăng giá cả các mặc hàng để bù vào phần thất thoát đó. Vậy rồi cuối cùng người dân lại trở thành nạn nhân chính.

Có thể nói báo chí cộng sản còn thua cả báo chí thời Pháp thuộc. Lúc đó tuy người Pháp đô hộ Việt Nam, nhưng họ vẫn để cho báo chí xứ thuộc địa được tự do. Nhà báo đứng về phía người yếu thế để bảo vệ dân lành. Ví như vụ cánh đồng Nọc Nạng hồi năm 1928, nhờ có phóng viên Lê Trung Nghĩa và nhiều tờ báo độc lập như L’Echo Annamite, Đông Pháp Thời Báo, L’Impartial… gây áp lực mà tòa Đại hình Cần Thơ đã xử thắng cho các gia đình nông dân.

Còn bây giờ, phóng viên, báo chí cộng sản thì tiếp tay cho tham quan cường quyền, hãm hại lại chính đồng bào ruột thịt của mình. Như vụ công an bắn chết ông Lê Đình Kình ở Đồng Tâm (Hà Nội), bị báo chí đưa tin sai sự thật nhằm bảo vệ nhà cầm quyền cộng sản cướp đất giết dân.

Hoặc cũng có khi người dân nhờ nhà báo viết bài lên tiếng thì phải cho tiền rồi báo mới tới viết và đăng bài. Có khi người dân báo thông tin sai phạm cho phóng viên, rồi phóng viên lại bắt tay với phía bị tố cáo gây sức ép ngược lại cho người dân. Như vậy báo chí cộng sản không chỉ là kiếp nạn thứ tư của doanh nghiệp; mà còn là kiếp nạn thứ tư của dân lành, sau toà án, công an và những kẻ tạo ra hệ thống pháp luật rừng rú của CSVN.


 

Cách mạng dân chủ ở Việt Nam rất cần thiết

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Khánh

15/10/2024

Cuộc cách mạng dân chủ sẽ là vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam từ 2700* năm tới nay.

Đầu thế kỷ 20, cuộc cách mạng Tháng 10.1917 do Lê Nin lãnh đạo thành công lập ra nhà nước cộng sản đầu tiên Xô Viết ( Liên Xô), từ đó lan tỏa mạnh mẽ sang Châu Á, Phi, Mỹ la tinh, người dân từ đó nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân đòi độc lập, Việt Nam bị thực dân Pháp đô hộ gần trăm năm, bao cuộc khởi nghĩa bị Pháp dập tắt như khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám, và nhiều cuộc khởi nghĩa trước đó thất bại vì không có dự án và tư tưởng chính trị nên thất bại.

Ông Hồ sau khi sang Pháp làm phụ bếp đã truyền bá tư tưởng chính trị Mác Lê Nin về Việt Nam thành lập đảng cộng sản năm 1930, và lãnh đạo cướp chính quyền của thủ tướng Trần Trọng Kim tháng 8.1945, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Đảng cộng sản tuyên truyền đây là cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến lên thiên đường cộng sản không còn “người bóc lột người, khẩu hiệu ” làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu ” đã hoàn toàn thu hút được người dân nghèo khổ Việt Nam thời đó ủng hộ đảng cộng sản do Hồ Chí Minh lãnh đạo.

Thực tế nhà nước cộng sản xây dựng chế độ độc tài toàn trị còn kém xa chế độ phong kiến thực dân về quyền con người như tự do ngôn luận, tự do báo chí độc lập… nó chuyển từ cai trị ngoại bang sang cai trị do người cùng dân tộc.

Lợi dụng cơ hội Nhật Bản – Pháp bắn nhau và Nhật thua trận trong thế chiến thứ hai, chính quyền cộng sản phát động khởi nghĩa cướp chính quyền về tay đảng cộng sản thành công, bắt buộc chính quyền thủ tướng Trần Trọng Kim thân Nhật Bản phải trao chính quyền cho đảng cộng sản.

Lịch sử gọi ngày (19.8.1945) là cướp chính quyền thành công của đảng cộng sản, xây dựng nhà nước độc tài toàn trị.

Phải khẳng định nếu không có chế độ cộng sản lập ra thì không có nội chiến vô cùng khốc liệt 30 năm (1945 – 1975), Pháp và Mỹ lo sợ chủ nghĩa cộng sản lan sang Đông Nam Á nên can thiệp ủng hộ chế độ Việt Nam cộng hòa.

Đảng cộng sản thành công trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lê Nin trong hoàn cảnh thực tế, dùng chuyên chính vô sản, bạo lực trên nòng súng đàn áp khốc liệt người dân trong suốt gần 80 năm chiếm đóng và cai trị.

Cuộc cách mạng từ độc tài cộng sản chuyển sang chế độ dân chủ tự do ở các nước Châu Âu năm 1989 và Liên Xô năm 1991 thành công không đổ máu, các nước Ba Lan, Tiệp, Bungari, Đức… Chuyển sang chế độ dân chủ làm chấn động thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô sụp đổ hoàn toàn, nhưng vài nước Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Cu ba vẫn không thay đổi một cách ôn hòa, chính quyền cộng sản quyết tâm giữ chế độ độc tài bằng mọi giá.

Việt Nam và Trung Quốc không có cuộc cách mạng dân chủ ?

Nguyên nhân do văn hóa khổng giáo ( nho giáo ) vào tiềm thức con người Việt Nam hàng trăm năm, kẻ làm vua quan như số phận, như được trời ban cho xuống trần gian cai trị muôn dân, người dân phải làm nô lệ, ý vua là ý trời, nếu trái ý bị tru di tam tộc, do vậy đạo đức thần dân phải trung với vua quan triều đình.

Nho giáo với nhiều luật lệ phù hợp với chế độ độc tài cộng sản nên gọi là văn hóa khổng giáo cộng được bộ giáo dục giảng dạy trong trường học nhằm tẩy não con người trở thành ro bot, học thuộc lòng, ngu trung, ngoài ra tầng lớp có học chỉ có thói quen nghe lời, không có trình độ và thái độ trước các vấn đề sai trái của chính quyền cai trị từ địa phương tới trung ương.

Cản trở lớn nhất cho dân tộc Việt Nam là văn hóa khổng giáo, do vậy cuộc cách mạng dân chủ chính là cuộc cách mạng văn hóa chuyển sang văn hóa dân chủ một cách nhanh chóng, văn minh.

Nói một cách đơn giản, văn hóa dân chủ là dám nói thật những vấn đề của xã hội, dám phê phán chính quyền làm sai, không cuồng thần tượng chính trị, hiểu quyền con người phổ quát, tức là nhân quyền không phải ban ơn từ chính quyền, đây là quyền phải có.

“Văn hóa khổng giáo kiểm soát và tha hóa một cách tuyệt đối những người có học thức nhất, họ được giáo dục để coi việc phục tùng một cách tuyệt đối và làm dụng cụ vô điều kiện cho kẻ cầm quyền như một vinh dự và đạo lý.

Đạo đức của kẻ sỹ là trung thành với vua, ngay cả hôn quân bạo chúa. Đây là trở ngại lớn nhất của dân chủ. ” – Dự án tư tưởng tổ chức chính trị THDCDN.

Một ví dụ như Tô Lâm hiện nay minh chứng cho nhận định trên, từ một tướng công an gây nhiều tội ác, không đủ tư cách đại diện cho đảng cộng sản, chưa nói đến đại diện cả dân tộc Việt Nam, nhưng tất cả im lặng, chấp nhận ” hôn quân bạo chúa “** Tô Lâm giữ chức Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư.

Các nước Châu Âu không có văn hóa khổng giáo, nên thay đổi về dân chủ tự do dễ dàng hơn rất nhiều Việt Nam, Trung Quốc .Văn hóa Châu Âu chủ yếu văn hóa Thiên Chúa giáo, tôn trọng quyền con người, khi Đức Giáo Hoàng kêu gọi thì tất cả đoàn kết một khối người biểu tình bãi công kéo dài cho đến khi chính quyền phải đối thoại.Thứ hai là do địa chính trị Châu Âu bị chính quyền cộng sản Xô Viết áp đặt vào nhiều nước tạo thành hệ thống xã hội chủ nghĩa, khác với ông Hồ Chí Minh mang chủ nghĩa Mác Lê Nin vào áp dụng ở Việt Nam, Lào, Campuchia.

Cách mạng dân chủ khó khăn nhưng vẫn phải làm, không thay đổi thì Việt Nam sẽ nằm dưới đáy nền văn minh nhân loại, không bắt kịp kỷ nguyên mới của thế giới dân chủ đa nguyên.

Cuộc cách mạng dân chủ sẽ là lớn nhất , vĩ đại nhất từ trước tới nay trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tấm gương các dân tộc Ba Lan, Séc, Đức … Chuyển mình mạnh mẽ sang dân chủ sẽ thôi thúc mọi người tham gia, đặc biệt tầng lớp có học hàng triệu người với giấc mơ lớn vì một Việt Nam dân chủ đa nguyên, một nước Việt Nam của tất cả mọi người Việt Nam, một không gian liên đới và tương lai chung, hòa giải và hợp dân tộc trên tinh thần tôn trọng và tương kính.

Việt Nam sẽ có cuộc cách mạng dân chủ muộn hơn so với tất cả các dân tộc khác, trong cái rủi có cái may, từ đó rút kinh nghiệm để không mắc sai lầm như trường hợp nước Nga của Putin hiện nay, từ độc tài cộng sản Liên Xô sụp đổ chuyển sang độc tài cá nhân Putin.

Nước Nga bị thế giới dân chủ văn minh cấm vận vì xâm lược Ukraine, vi phạm nhân quyền vì đàn áp tự do ngôn luận trong nước, ám sát thủ tiêu đối lập, tòa án hình sự Quốc tế kết án Putin là tội phạm chiến tranh.

Tháng 10.2024

* 2700 năm: tính từ khi Việt Nam có nhà nước đầu tiên.

** chữ nôm: Hôn nhân bạo chúa tức là Vua chúa ngu muội và tàn ác : bọn hôn quân bạo chúa làm khổ dân.