NHỮNG NGỌN ĐUỐC SOI ĐƯỜNG

NHỮNG NGỌN ĐUỐC SOI ĐƯỜNG

Như vậy, không chỉ là hàng triệu người dân phải bỏ quê hương ra đi trong tương lai vô định, mà ở trong nội quốc đất nước xinh đẹp và đã từng là một quốc gia giàu có nhất, đã có nhiều người phải đổ máu hoặc hy sinh khi đứng lên đấu tranh đòi quyền được sống và quyền được tự do cho chính mình và con cháu mình.

Trong đó, cái chết (năm 2014) của cô gái xinh đẹp từng là Hoa hậu du lịch khi xuống đường biểu tình để giành lấy quyền làm chủ đất nước từ tay những kẻ độc tài lưu manh trên sự khốn cùng của nhân dân, đã cho ta thấy lòng quả cảm và sự kiên cường của người dân nơi đây, khi họ bị dồn tới đường cùng với tình cảnh đói khát triền miên và hỗn loạn diễn ra khắp nơi, cả trong hiện tại cũng như những vực thẳm phía trước vẫn còn đang chờ sẵn nếu họ tiếp tục chờ đợi và cam chịu sự dẫn dắt và đàn áp của chế độ phi nhân tính của Maduro.

Giống như cái chết của một nhân vật của Hungary thời còn theo chủ nghĩa cộng sản dưới sự thống trị của Liên Xô (đem quân đội vào tàn sát những người nổi dậy đòi độc lập năm 1956), anh ta đã tự thiêu (năm 1969) trở thành ngọn đuốc cho dân tộc và đã đánh thức được lòng yêu nước của nhân dân trong nước và từ đó tạo ra làn sóng đấu tranh rộng khắp trên toàn quốc. Và rồi cuối cùng, nhân dân đất nước này đã tìm thấy được tự do và tương lai tự quyết cho chính mình (năm 1989), nhờ việc đứng lên đấu tranh và phế truất được chính quyền độc tài đến tàn bạo mà chúng tự nhân danh nhân dân để cầm quyền.

Trên con đường giành độc lập, tự do và dân chủ, những hy sinh cao cả của mỗi cá nhân như những ngọn đuốc thắp lên ánh sáng soi đường và thúc giục những người sống đấu tranh và tiếp tục con đường, lý tưởng tươi đẹp đó để nó không bao giờ bị lãng quên hay nguội tắt. Vì tự do không hề miễn phí, và những chiếc bánh mỳ được phân phát từ chế độ độc tài không phải là tương lai của một dân tộc.

Những cánh tay giơ lên, ngày càng nhiều thêm, là gần kề tới ngày chế độ độc tài phải bị khuất phục và bị phế bỏ bởi nhân dân.

Fb Luân Lê

Image may contain: 1 person
Image may contain: 4 people, crowd and outdoor
Image may contain: 5 people
Image may contain: 1 person

Em bé có ước mơ gì cho năm mới sắp đến

44 mins

Image may contain: one or more people and outdoor

Quỳnh Như

Có một người lạ mặt nhắn tin hỏi em bé có ước mơ gì cho năm mới sắp đến không, em trả lời: nếu có ước mơ em ước đất nước việt nam không còn cộng sản nữa chỉ vậy thôi 😊😊 vì nhìn những đứa trẻ thế này em xót lắm và đức từng đoạn ruột, 😢😢những hình ảnh này sao không ai chia sẻ

NĂM CÁCH THỨC ĐƠN GIẢN ĐỂ ĐEM CẦU NGUYỆN VÀO TRONG NGÀY SỐNG

NĂM CÁCH THỨC ĐƠN GIẢN ĐỂ ĐEM CẦU NGUYỆN VÀO TRONG NGÀY SỐNG

Young boy’s bedtime prayer.

Bạn quá bận và không có giờ để cầu nguyện? Dưới đây là năm cách đơn giản giúp bạn có thể thực hiện giờ cầu nguyện ngắn trong ngày.

1/ Xét mình trước giờ ăn trưa, ăn tối hay trước khi đi ngủ. Bạn dừng lại đôi chút để tạ ơn Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban trong buổi sáng, trong ngày hôm nay, và duyệt xét lại xem Thiên Chúa đã hiện diện với bạn ở đâu, vào thời khắc nào trong ngày. Thái độ biết ơn là thái độ cốt lõi của cầu nguyện.

2/ Thong dong. Bạn đang có một cuộc hẹn? Thay vì vội vã, bạn hãy thong thả hơn và chú ý vào những ơn thường hằng: cây cối, bầu trời, con người và tất cả những gì đang diễn ra xung quanh bạn. Đối với những nơi gần, bạn có thể đi bộ thay vì đi xe. Thiên Chúa đang gặp gỡ bạn ở đâu trên con đường ấy? Nơi công việc, nơi sự thay đổi của từng người mà bạn quan sát giống như bạn nhận ra sự thay đổi của các mùa và sự thay đổi của những tia sáng xuyên qua những cành lá.

3/ Thức dậy sớm hơn mười phút. Ngồi lại với Chúa trong thinh lặng trước khi ngày mới bắt đầu. Sự thinh lặng giúp chúng ta nghe tiếng Chúa rõ ràng hơn; đồng thời, sự thinh lặng tự nó cũng “nói” với cõi lòng chúng ta bằng sự giao tiếp vượt trên ngôn từ.

4/ Tập trung vào hơi thở. Mặc dù có những kỹ thuật tuyệt vời giúp tập trung cầu nguyện, nhưng bạn hãy thử áp dụng cách thức đơn giản này: khi hít vào, hãy tưởng tượng bạn đang hít tình yêu và sự săn sóc của Thiên Chúa; khi thở ra, bạn đang trao dâng tình yêu lại cho Ngài. Bạn hãy thử làm như vậy trong khoảng năm phút hoặc lâu hơn.

5/ Lắng nghe. Thiên Chúa hiện diện ở trong các mối tương quan của chúng ta với những người khác. Vì vậy, thông thường chúng ta cần phải chú ý những gì chúng ta muốn nói, nhưng một cách đơn giản hơn, việc chăm chú lắng nghe những gì người khác nói cũng có thể giúp chúng ta nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa hiện diện ở đâu trong tư tưởng, hy vọng hay lòng khao khát của những người chúng ta đang trò chuyện?

Ta cần một khoảng thời gian dài thinh lặng cầu nguyện trước khi bắt đầu ngày mới. Không có khoảng thời gian như vậy, thật khó để ta là chính mình. Tuy vậy, điều này không phải lúc nào cũng khả thi, ví dụ khi bạn đang chăm con nhỏ. Nhưng ngay cả khi có nhiều thời gian hơn, những cách cầu nguyện nhỏ này sẽ giúp bạn đụng chạm đến một Thiên Chúa sống động như bạn đã gặp gỡ Ngài trong ngày sống. Dù chúng ta có ít hay nhiều thời gian, Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi chúng ta đi vào trong tương quan thân tình với Ngài trong từng giây phút của ngày sống.

Chuyển ngữ: Pr. Nguyễn Văn Đương, (S.J dongten.net)

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thằng Bất Hảo

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thằng Bất Hảo

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Nhiều người cho rằng, Cambodia đã đi trước Việt Nam một bậc về mặt dân chủ, rằng xã hội dân sự đã nở hoa, rằng quốc gia này sẽ là người tiên phong của vùng Đông Dương về tự do, dân chủ và sự phát triển kinh tế – kinh trị. Vài năm sau, chúng ta bắt đầu khóc than về một nền dân chủ kiệt sức và hấp hối. Điều gì đã xảy ra?

Nguyễn Quốc Tấn Trung

Bởi tính hà tiện (và cũng vì thói quen luôn thức sớm) tôi hay rời Bangkok lúc trời còn tối, và đến Phnom Penh khi vừa sáng bạch. Chuyến bay đầu ngày bao giờ cũng rẻ, ít ra thì cũng rẻ hơn được năm/bẩy Mỹ Kim. Đỡ được đồng nào hay đồng đó.

Phi đạo vắng ngắt nhưng phi trường thì ồn ào hơn thường lệ vì có nguyên cả một đoàn du khách Trung Hoa (gần cả trăm người) đang lào xào trò chuyện hơi lớn tiếng. Tôi gặp họ hoài, ở khắp mọi nơi, nghe riết cũng quen nên không có gì để phàn nàn cả. Hơn nữa – tự thâm tâm – tôi tận tình chia sẻ với nỗi “hạnh phúc vỡ oà thành tiếng” của hằng tỉ con người (vừa được xổ lồng) sau hơn nửa thế kỷ bị giam cầm, trong bức màn sắt

Khác với Lào hay Thái, tuk tuk ở xứ Cao Miên nhiều quá – tá lả khắp nơi – nên tiếng mời chào (khẩn thiết) nghe mà thương cảm. Tôi phóc đại lên cái xe gần nhất, nói nhỏ:

  • River side! Ra mé sông!

Gọn ghẽ vậy thôi nhưng cũng đủ cho chú em tài xế biết rằng tuy khách hàng bộ dạng hơi lớ ngớ nhưng là dân bụi đời chuyên nghiệp, khỏi cần phải ra giá (hay mặc cả) lôi thôi. Ngoài Việt Nam và California ra, Phnom Penh – có lẽ – là nơi tôi chôn chân lâu nhất, đủ lâu để biết về phố xá (gần) như dân bản xứ.

          Nam Vang đi dễ khó về

          Trai đi có vợ, gái về có con

Tui đã quá cái tuổi vợ con từ lâu lắm rồi nhưng vẫn lui/tới đây hoài hoài vì người Việt của mình ở đây đông quá, và khổ lắm. Nước sạch nhiều người cũng không có mà uống nữa, chớ đừng nói chi đến chuyện xa xôi như ăn chơi hay ăn học. Đến với họ, đôi lúc, cho nó có cái tình – tình đồng bào – chớ tôi đã ớn thức ăn của Miên (cũng như của Lào và của Thái) tới tận ngón chân út luôn rồi!

Tuy hơi mất công (chút xíu) nhưng tôi buộc phải tìm cho ra thức ăn Việt Nam, bằng mọi cách và mọi giá. Trên đường Preah Sisovath, dọc bờ sông, tiệm Chiang Mai Riverside có món Vietnamese Sour Soup (bảo đảm là không dở) dù cả chủ nhân lẫn đầu bếp đều không phải là người Việt. Tuy còn hơi sớm, tôi vẫn gọi một tô canh chua cá (sao tui không ưa canh chua tôm nha) với lời căn dặn “cho nhiều rau ngổ, càng nhiều càng tốt.”  Thực đơn chiều tui cũng tính luôn rồi: cá rô kho tộ của Ngon Restaurant (trên đại lộ Sihanouk Boulevard) tiêu rắc lấm chấm như mè, cay suýt xoa, thơm đậm đà, và ngon thấm thía.

Sáng thì tôi có chuyện phải vô làng nổi Kampong Luong, nằm cuối Biển Hồ, thuộc tỉnh Pursat. Từ Phnom Penh đến đây chỉ cỡ chừng 150KM nhưng dám có tới cả trăm bức hình của Hun Sen: khi ngồi, lúc đứng. Xen giữa là những bảng hiệu của Cambodian People’s Party (Đảng Nhân Dân Cam Bốt) với ảnh phóng lớn của đảng phó, và đảng trưởng. Lại cũng chính là cái bản mặt của thằng chả luôn, chớ còn ai vô đó nữa!

Không thấy vua cha Norodom Sihanouk, hoàng hậu Norodom Monineath hay vua con Norodom Sihamoni đâu ráo trọi. Trên thế giới này – có lẽ – chưa bao giờ, và không nơi đâu, có một quốc gia theo chế độ quân chủ lập hiến nào khác mà hoàng gia lại mờ nhạt (và thủ tướng lộng hành) như thế cả.

Hồi đầu năm ngoái, ở những tỉnh lỵ heo hút – lâu lâu – tôi còn thấy lưa thưa vài tấm bảng trưng Cambodia National Rescue Party. Nay thì hết nhẵn, cái đảng này đã bị Hun Sen “giải thể” hồi tháng 11 năm ngoái. Tờ Cambodia Daily cũng vậy, cũng bị đánh (thuế) cho “sụp tiệm luôn rồi. Phnom Penh Post thì đã sang tay qua một ông chủ mới (nghe đâu) cũng là chỗ quen biết, và thân thiết, với Hun Sen.

Thiệt là quá đáng nhưng … chưa hết!

Tất cả 125 dân biểu quốc hội đều là người của Đảng Nhân Dân Cam Bốt, 58 trong số 62 thượng nghị sỹ cũng vậy, cũng đều nằm trong túi áo của Hun Sen ráo trọi. Còn chính Hun Sen thì đã chui gọn trong túi quần của Tập Cận Bình.

Photo: AFP/Tang Chhin Sothy

Coi như là tiêu tan một giấc mơ dân chủ.

Nguyễn Quốc Tấn Trung, bỉnh bút của tạp chí Luật Khoa, nhận xét:

“Nhiều người cho rằng, Cambodia đã đi trước Việt Nam một bậc về mặt dân chủ, rằng xã hội dân sự đã nở hoa, rằng quốc gia này sẽ là người tiên phong của vùng Đông Dương về tự do, dân chủ và sự phát triển kinh tế – kinh trị. Vài năm sau, chúng ta bắt đầu khóc than về một nền dân chủ kiệt sức và hấp hối.”

Tới bữa nay thì, cái “nền dân chủ” này đã chết (“ngắc”) rồi, tôi thầm nghĩ vậy khi đi tà tà ngang qua Court of Appeal Office of the Prosecutor General – nằm cạnh bờ sông Tonle Sap. Mới vài ba năm trước (chính xác là ngày 10 tháng 12 năm 2014, Ngày Quốc Tế Nhân Quyền) tôi chứng kiến cả chục ngàn người dân Cam Bốt – sau khi tuần hành – đã tụ tập nơi đây để đòi hỏi chính quyền phải phóng thích những tù nhân lương tâm của xứ sở họ.

Cũng chính tôi –  ngay chiều hôm đó – đã vui sướng viết bài tường thuật (“Dư Âm Của Một Ngày Lễ Lớn”) cho RFA, với những lời có cánh: “Ai mà dè cái xứ Chùa Tháp này lại đàng hoàng và văn minh dữ dội vậy, Trời?”

Ảnh (tnt) chụp hôm 10/12/2014

Những ngày vui, cũng như niềm vui, thường ngắn. Riêng nỗi hân hoan vui mừng mà tôi dành cho nước Cambodia e hơi quá ngắn. Tôi cay đắng (nghĩ thêm) như thế, sau khi đọc xong bài báo (“Thái Lan Hành Trình Dân Chủ Gập Ghềnh”) của L.S Nguyễn Văn Thân.

Tuy gập ghềnh và với nhiều sóng gió nhưng nước Thái Lan vẫn kiên tâm đi tới. Còn Hun Sen thì dẫn đất nước Cambodia bước lùi, theo lộ trình chuyên chế, cùng với Trung Hoa Lục Địa của Tập Cận Bình.

Nguyễn Quốc Tấn Trung, tác giả bài báo “Nền Dân Chủ Cambodia Hấp Hối” còn viết thêm: “Bắt đầu những năm 2010, Trung Quốc trỗi dậy như một thế lực có tầm ảnh hưởng quốc tế, và Cambodia trở thành một trong những ‘chư hầu’ nhận viện trợ đều đặn từ Bắc Kinh. Giới lãnh đạo Cambodia dần được tháo bỏ xiềng xích phương Tây, và trở mặt.”

Đoạn văn thượng dẫn khiến tôi chợt nhớ đến bức thư của Thủ Tướng Sirik Matak, gửi đại sứ Hoa Kỳ John Gunther Dean, hồi cuối thế kỷ trước:

Nam Vang, ngày 16 tháng 4, năm 1975.

Thưa Quý Ngài và Ông Bạn,

Tôi thành thật cảm tạ ngài đã viết thư và còn đề nghị giúp tôi phương tiện đi tìm tự do. Than ôi! Tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như vậy! Đối với Ngài và nhất là đối với xứ sở vĩ đại của Ngài, không bao giờ tôi lại có thể tin rằng quý vị đã nhẫn tâm bỏ rơi một dân tộc đã lựa chọn tự do. Quý vị từ chối bảo vệ chúng tôi và chúng tôi chẳng thể làm được gì hết. Ngài ra đi, tôi cầu chúc Ngài và xứ sở của Ngài được hạnh phúc dưới bầu trời này. Nhưng xin Ngài nhớ cho rằng nếu tôi phải chết ngay đây và trên đất nước tôi yêu dấu thì tuy đó là điều đáng tiếc, nhưng tất cả chúng ta đều sinh ra và cũng sẽ chết vào một ngày nào đó. Tôi chỉ ân hận một điều là đã lỡ lầm đặt niềm tin quá lớn ở nơi quý vị, những người bạn Hoa Kỳ!

Thành tín,

Sirik Matak

Bằng vào kinh nghiệm máu xương của người tiền nhiệm thì Hun Sen có thể “trở mặt” với cứ phương nào (bất kể Đông/Tây) khi cần, nếu vì quyền lợi của đất nước Cambodia. Đương sự, tiếc thay, lại “trở mặt” ngay với chính đồng bào và dân tộc của mình, chỉ để bảo vệ cho tài sản của gia đình và phe nhóm. Đó mới là chuyện đáng buồn, và đáng nói: thằng khốn nạn!

Mồ Côi

Image may contain: one or more people
Ngoc Hoang Vu

Mồ Côi

Nó…thân phận đứa trẻ mồ côi
Ánh đèn hàng xóm đã lên ngôi
Nó vẫn lang thang nơi nghĩa địa
Nuốt nghịch cảnh sự tình thấm thía
Bụng đói cơm,nghĩa địa là nhà
Cố mím môi nước mắt vẫn oà
Cay đắng mất mẹ cha là thế
Mỗi bữa ăn thay canh bằng lệ
Mẹ cha ơi nỡ để con côi
Nhìn bè bạn dạ nó bồi hồi
Chúng diễn phúc,trời ơi diễm phúc
Đây thiên đường,đây là địa ngục
Đời vô thường giây phút khác nhau
Kẻ giàu sang phú quý …cơ cầu
Nó bất hạnh cút côi là thế
Đảng vinh quang,phải chăng trong chuyện kể
Hay chỉ là để lừa mị,.. nó và tôi

Bài phiếm luận Năm Hợi Nói chuyện Heo

 Bài phiếm luận Năm Hợi Nói chuyện Heo của Duy Hân

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

 

Trong năm vừa qua mọi người rất là xôn xao về các cuốn sách dạy tiếng Việt tại quê nhà. Ngoài bài học vỡ lòng gồm các ô vuông, tam giác – không phải chữ viết a, b, c – các trẻ em còn được dạy đánh vần sai như con dơi bị viết lộn ra thành “con rơi”, hình con heo được ghi chú là “Chú Ỷ”. Bậc phụ huynh thắc mắc có ai ra chợ muốn mua một ký thịt heo mà lại nói là bán cho tôi một ký “chú ỷ” bao giờ. Thế mà sách Việt Cộng lại dạy như thế. Giữa lúc các vấn đề sách giáo khoa, tiếng Việt theo lối Bùi Hiền tạm thời lắng đọng để mọi người hồ hởi mừng các trận đá banh,  có nàng vui đến nỗi cởi hết cả quần lẫn áo, thì năm mới Kỷ Hợi lại đang đến. Chúng ta sắp sửa đón thêm một cái Tết, dù buồn hay vui, dù giàu hay nghèo, dù ở Việt Nam hay Hải Ngoại thì mùa Xuân truyền thống cũng về. Thôi thì hãy tạm quên các chuyện rắc rối trong năm cũ, để cùng nhau bàn về chuyện “Chú Ỷ” trong Xuân Kỷ Hợi 2019 này nhé.

 Chuyện xưa kể rằng khi Ngọc Hoàng mở đại hội và triệu tập các loài vật để đặt tên cho 12 con giáp, thì con chuột là con vật đến phó hội sớm nhất nên được đứng đầu bảng. Vì thế người ta bắt đầu đếm từ Tý, rồi tới Sửu, Dần, Mẹo…. cuối cùng là Hợi vì con heo chậm chạp nên đến sau cùng. Thế nhưng trong thực tế Heo có chậm nhất không, có ở dơ không, có ngu không? Mời bạn cùng tôi điểm qua các sách báo, thơ nhạc về loài thú đặc biệt này nhé.

Từ xưa, tục ngữ ca dao ta đã nhắc nhiều tới loài heo qua các câu:

“Đàn bà không biết nuôi heo là đàn bà nhác”

“Con gà cục tát lá chanh, con lợn ủ ỉn mua hành cho tôi”.

“Cưới em một thúng xôi vò, một con lợn béo, một vò rượu tăm”.

hoặc câu “Nói toạc móng heo”. 

Người ta cũng so sánh miệng lưỡi cứ “trơn như mỡ heo”, “đẻ như heo” “mập như heo”, “làm biếng như heo”, hoặc chê trách người gian dối “mượn đầu heo nấu cháo”, vụng về chữa “lợn lành thành lợn què”, vô duyên gian tà mắt nhìn “thao láo như mắt lợn luộc”, “lấc cấc như quạ vào chuồng lợn”. Để hù các ông lôi thôi ham hố nhiều vợ, người ta cũng đã có câu “Hai vợ nằm chèo queo, ba vợ ra chuồng heo mà nằm!” coi bộ rất đúng với thực tế.

Thời trước, con lợn được vẽ trên các bức tranh dân gian Đông Hồ, trên tấm lịch treo tường của gia đình là để thể hiện sự sung mãn, hạnh phúc. 

Thời thơ Đường Luật còn thịnh hành, nhà thơ Nguyễn Khuyến trong thơ gửi bạn đã viết:

Ai lên nhắn hỏi bác Châu Cầu

Lụt lội năm nay bác ở đâu?

Mấy ổ lợn con rày lớn bé,

Vài gian nếp cái ngập nông sâu? Ông đã nhắc tới “ổ lợn” tức là hình ảnh điển hình trong căn nhà ở vùng quê Việt Nam.

Thi sĩ nổi tiếng Vũ Hoàng Chương cũng nhắc tới con heo trong bài Vịnh tranh gà lợn:

Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành

Gà lợn om sòm rối bức tranh.

 

Một nhân vật đặc biệt trong tiểu thuyết Tây Du Ký là Trư Bát Giới – với hình ảnh con heo trên đường đi thỉnh kinh với Tam Tạng – cũng rất đáng nhắc tới trong bài tản mạn này. Bát Giới luôn làm những người đi chung bị rắc rối vì tính lười biếng, thói háu ăn và háo sắc trước những cô gái đẹp. Thế mà cuối cùng chàng mặt heo Trư Bát Giới cũng đã tu thành chánh quả. Điều này cho thấy dù hoàn cảnh, tâm tính có xấu như thế nào, vẫn còn nhiều cơ hội để tu thân tích đức, miễn đừng cố chấp không nhận ra mình sai và phải biết mở lòng ra để thay đổi. Sau này, các Tú Bà ở Trung Hoa có thói quen cúng Trư Bát Giới để cầu nguyện cho làm ăn được khấm khá. Chắc vì muốn thân chủ mang chút “lợn lòng”, có máu hiếu sắc như họ Trư nên bà chủ Hooker mới van vái cùng ông Tổ họ Trư như thế.

Trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu đã dùng một chuyện ngụ ngôn về đứa con trai hoang đàng để nói lên lòng nhân từ của Chúa. Câu chuyện này hầu như ai đạo Công Giáo cũng biết và có liên hệ tới con heo. Sau khi đòi người cha chia gia tài rồi ăn chơi hết tiền, cậu em đã phải xin làm người chăn lợn thuê. Nó đói quá muốn ăn nồi cám của lợn như không ai cho. Sau này đứa con hoang đàng hối hận quay về và người cha nhân từ đã tha thứ. Cũng trong Phúc âm ghi lại một chuyện khác, Chúa Giêsu đã thực hiện một phép lạ đuổi quỷ ám để con quỷ phải nhập vào một bầy lợn, sau đó bầy lợn này đã phải chết.

Ở Hy Lạp từ thời thượng cổ, theo trường ca Odyssée của Homère, lợn được cho là quý và không nuôi trong chuồng mà thả rong (nếu theo kiểu ngày nay thì nói là “Lợn đi bộ”, giống như nuôi gà đi bộ – thịt ngon không bị mềm như gà công nghệ). Nhiều chuyện thần thoại, truyền thuyết về các thần có liên hệ đến heo đã được truyền tụng.

Tại nước Pháp, lợn cũng được thả đi lại tự do tại ngay thủ đô Paris. Mãi đến năm 1131 khi đàn heo gây tai nạn lưu thông làm thiệt mạng con của vua Louis le Gros thì mới bị cấm. Thế đấy, chết bao nhiêu phó thường dân thì luật cấm vẫn chưa có, cho đến khi con vua mất mạng thì triều đình thấy quan tài mới đổ lệ, nên mới cho ra luật cấm heo đi lang thang. Nước Pháp ngày nay cũng đang phải đối đầu với nhiều rắc rối, dân chúng biểu tình rất bạo động gây rối loạn. Tội nghiệp ông tổng thống trẻ Macron. Ông rất thông minh giỏi giang, được cô giáo dạy học lớn hơn mình 24 tuổi vừa làm vợ, vừa làm cố vấn mà cũng chưa giải quyết được “loạn”. Đáng khen là ông Macron đã dám đứng lên chính thức nhận mình nói sai, xin lỗi dân chúng. Có người nói cứ đem những người dân Pháp quá khích, đòi hỏi quá đáng về Việt Nam để bị Cộng sản đàn áp, sẽ “thuần” được ngay!

Từ xưa, thịt heo là một thực phẩm ngon lành bổ dưỡng cho loài người. Ở Việt Nam, thịt heo được dùng rất nhiều đặc biệt trong cưới hỏi, lễ giỗ, đình đám, có thể chế biến ra hàng trăm món khác nhau. Từ giò heo, da heo, lỗ tai heo, lòng heo … hầu như không bỏ sót phần nào, được chế biến thành các món ăn rất độc đáo. Bên cạnh những lợi ích về mặt dinh dưỡng, ngày nay một số bộ phận của heo cũng được các nhà khoa học sử dụng để thay thế những bộ phận hư hỏng của con người qua phương pháp ghép dị chủng “xenotransplantation”. 

Lợn quý như vậy, nhưng người Hồi giáo lại coi là con vật dơ bẩn, cấm không được ăn thịt. Trong đạo Do Thái cũng cấm không cho ăn thịt heo. Ngược lại Kinh Thánh Công giáo lại cho phép vì trong Matthew đoạn 15, câu 10 đã giải thích “Không có gì đi vào miệng của con người làm cho con người dơ bẩn. Chỉ có những gì đi ra từ miệng người mới có thể làm con người dơ bẩn.” 

Cũng như có tôn giáo thờ bò, có đạo kiêng không dám động tới con chuột, trong khi đối với người khác thì thịt bò là ngon số một, chuột là loài vật dơ dáy ghê tởm, điên gì mà thờ! Bởi mới thấy tư tưởng phong tục các nơi rất trái ngược nhau. Không ai có thể khẳng định đâu là sai, đâu là đúng, chỉ phải hiểu biết và hành xử “theo thuở, theo thì” thì mới tránh rắc rối mà thôi. 

Người Tây Đức đã thành công trong việc huấn luyện heo ngửi mùi để tìm ra ma túy thay cho chó quân cảnh nhưng người đạo Hồi lại phản đối, nên chương trình này ngưng phát triển

Báo chí cũng đăng đã có người làm phụ tá hành chánh cho công ty Rising Star – một cơ sở có liên hệ mật thiết với Hồi giáo – bị sa thải vì ăn thịt heo. Và mặc dù Kinh Qur’an chỉ cấm ăn thịt heo, nhưng chuyện cấm kỵ nhiều khi đã leo thang tới mức cấm cả hình tượng, sách truyện viết về heo. Như tại thành phố Leicester miền Trung nước Anh, cảnh sát đã tịch thu một bộ sưu tập gồm 17 con heo làm bằng sứ, được trưng bày tại cửa sổ nhà bà Nancy Bennett. Căn nhà này nằm trên cùng con đường với một ngôi đền Hồi giáo. Tín hữu đi qua, cảm thấy bộ heo sứ xúc phạm tới tôn giáo của mình, bèn yêu cầu cảnh sát ra tay. Thế mới rõ mỗi tôn giáo, mỗi người đều suy nghĩ rất khác nhau, mình nên tôn trọng và ngược lại cũng đừng bắt người khác phải nghĩ theo cách của mình.

Theo tin báo The Guardian, bà Barbara Harris, hiệu trưởng trường Park Road ở Batley, Tây Yorshire, đã ra lệnh cho nhân viên loại bỏ hết sách vở có liên hệ tới heo, như cuốn sách nổi tiếng Ba Chú Heo Con (Three Little Pigs), vì sợ xúc phạm tới trên 60% học sinh theo Hồi giáo. Ủy Ban Hồi giáo Anh quốc (Muslim Council of Britain) đã phải can thiệp để sửa lại lệnh cấm, cho giữ lại sách truyện trẻ em về heo, chỉ cấm ăn thịt.

Thế nhưng một đoạn trong phim “Peppa Pig” cũng là phim hoạt họa nổi tiếng cho trẻ em làm tại Anh cũng đã bị cấm chiếu. Gia đình Heo con trong phim chuyện này rất dễ thương, cả thế giới theo dõi và đồ chơi, hình tượng “Peppa Pig” bán khắp nơi, thậm chí được xâm trên người giới trẻ. Nơi bị cấm là nước Úc khi chiếu đoạn phim cho là loài nhện rất dễ thương, vô hại trong khi tại Úc có nhiều giống nhện độc, sợ các em lầm mà chơi với nhện độc. Cũng có đoạn phim bị chỉ trích vì vẽ gia đình “Peppa Pig” ngồi xe hơi mà không cài dây an toàn (seat belt). Thế mới biết giáo dục trẻ em rất là quan trọng, các nước Tây Phương quan tâm từng chi tiết, còn giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa hiện nay thì sao?

Một chuyện khác cũng xảy ra tại Anh, vào tháng 3 năm 2005. Ông Leroy Trought, chủ tiệm rượu ở Bristol bị quan tòa bắt phải đổi tên bãi đậu xe từ “Porking Yard” thành “Parking Yard”. Ông Trought bị kết tội vì đặt tên bãi đậu xe của mình có chữ “pork” là thịt heo, làm phiền lòng các tín đồ Hồi giáo người Somali – thường lui tới ngôi đền gần đó. Thế đấy, đâu phải ở xứ Tự Do rồi muốn làm gì thì làm. Chẳng hạn muốn đặt tên con cái là gì thì đó quyền chọn lựa của cha mẹ, nhưng hình như chưa thấy ai dám đặt tên con là Hồ Chí Minh. Thế nhưng mới đây ở Canada lại có người viết sách ca tụng Hồ Chí Minh theo lệnh của Đảng, dù biết là ngày nay sự thật đã phơi bày, hiếm có ai tin vào huyền thoại bác Hồ nữa. Biết sai, biết gian dối mà vẫn cứ làm thì bị liệt kê vào “tội trọng” đó quý vị ạ!

Tại Liên Xô, Tổng bí thư Nikita Khrushchev đã hãnh diện về nguồn gốc chăn lợn của mình, kể chuyện thuở ấy đi chăn heo tiền lương rất rẻ. Chắc quý vị cũng biết Tổng bí thư nhà nước Việt cộng Đỗ Mười xuất thân từ nghề hoạn lợn. Khác cái là bí thư nước Nga không ngại nói về quá khứ của mình, còn ai ở Việt Nam mà dám nói xấu về nghề xưa của bí thư Đỗ Mười thì chắc phải đổ tới mười cuốn lịch trong khám, cũng không ai dám viết tắt hai chữ Đỗ Mười thành Đ.M.

Một vài nhân vật cầm tinh con lợn khá nổi tiếng như tổng thống Mỹ Ronald Reagan, sinh năm Tân Hợi – 1911, Lý Quang Diệu của Singapore sinh năm Quý Hợi – 1923. Tưởng Giới Thạch – Tổng thống Trung Hoa, Cựu Thống Đốc Arnold Schwarzenegger (California, USA) cũng sinh vào năm Hợi. Những nhân vật này không làm biếng, không ăn hại như heo mà đã tạo tên tuổi.

Nam tài tử đẹp trai George Clooney trong điện ảnh Hollywood đã khóc thảm thiết khi chú heo mọi nặng 136 ký mà ông nuôi trong 18 năm, tên là Max từ giã cõi sống. Max được xem là “người tình” của George Clooney, có mối quan hệ với ông lâu hơn bất cứ một phụ nữ nào khác.

Trong Tam Quốc Chí, cũng có câu chuyện liên hệ tới Lợn. Đó là chuyện Tào Tháo đa nghi giết lầm cả nhà Lữ Bá Xa gồm 8 người, chỉ vì họ Lữ chuẩn bị giết heo đãi quan quân của Tào Tháo, mà Tháo tưởng lầm họ đang tìm cách giết mình. Ôi tiếc thay “tấm lòng” của Lữ đã bị “tống lầm” vào cõi chết chỉ vì sự nghi kỵ. Bản thân tôi cũng có khi nghi ngờ, ghen hờn, hiểu lầm sự việc. Năm mới này tôi sẽ quyết tâm sửa tánh xấu này.

Tôi cũng để ý tìm xem trong chuyện Chưởng của Kim Dung có bộ môn võ công nào nhắc tới con heo như thế giới võ lâm đã có bộ môn võ Hầu của con khỉ, Đả cẩu bổng pháp của Cái Bang theo cử động của loài chó, mà chưa tìm ra. Thế nhưng trong ngành Võ của Việt Nam ta, nổi tiếng có võ sư Phan Thọ đã hạ gục một con heo rừng rất hung tợn phá hoại mùa màng hoa màu, tấn công cả người. Con heo này nặng gần 2 tạ hung hăng xông vào húc Phan Thọ, không hổ danh là “Người có bộ tay hay nhất Bình Định”, ông đã chiến thắng và để lại di tích để chưng bày là bộ răng nanh dài quá khổ của nó.

Người ta vẫn chê nhau là “Ngu như Heo”, có cha mẹ chửi con là “Tao có cho mày ăn cám heo đâu mà mày ngu dữ vậy hả con?” Điều này oan cho heo vì thực tình nó là giống vật rất tinh khôn.

Từ xưa heo rừng đã biết chà thân mình vào cây thông có nhựa, rồi nằm xuống cát để lông trở thành chiếc áo giáp chai cứng bảo vệ mình. Như vậy có phải heo đã rất tân tiến trong ngành “fashion” tạo quần áo thời trang cho mình không? Heo cũng rất thông minh đoàn kết, chúng biết cùng nhau kết hợp để đẩy sập hàng rào cùng trốn thoát. Nói tới hai chữ “đoàn kết” tôi lại hỡi ơi, trong công cuộc tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ Việt Nam hiện nay, đoàn kết rất cần thiết nhưng rất khó để làm được. Đôi khi vô tình lại đánh lộn, tức là đánh lầm, đánh sai “target” trúng người phe ta, không đánh trúng kẻ thù chung là Cộng Sản. Mong rằng khi lộn rồi thì hãy tỉnh táo ngưng ngay, đừng đánh đấm nhau nữa.

Cũng có câu chuyện bà Jo Altsman sống một mình, bà nuôi con heo con để làm bạn. Vào một buổi sáng, bà bị ngất xỉu vì bệnh tim. Chú heo con này liền chạy thẳng ra đường, nằm giả chết cho người ta chú ý. Thế nên có một thanh niên dừng lại nhìn. Con heo chồm lên, cắn quần anh ta lôi vào nhà. Chàng thanh niên nhờ thế đã gọi được xe cấp cứu đến giúp bà lão. 

Hiện nay có một vài loại heo Việt Nam được bán tại Hoa Kỳ làm thú vật nuôi trong nhà như “pet” với giá khá mắc. Heo này được huấn luyện rất tinh khôn. 

Heo cũng là một trong những động vật nuôi con bằng sữa mẹ và biết thương con, có tình mẫu tử chăm lo cho đàn con. Loài này cũng bị cho là ở dơ như heo, nằm đâu ị đó nhưng thực ra heo rất thích sạch sẽ, ưng được người ta vỗ về, gãi lưng và nói chuyện. Mỗi khi được tắm sạch sẽ, chúng kêu ủn ỉn sung sướng và “ngoan” hẳn ra. Sỡ dĩ heo thường hay ủi vào các vũng sình là vì nó muốn dùng cách đó để chống thoát nước khi trên mình heo không có tuyến bài tiết mồ hôi. Vậy giống lợn này thông minh lắm chứ nhỉ!

Dưới thời vua Boabdil (1482-1492), có câu chuyện về chàng thiếu niên tên là Benito đã ráng đi săn lợn rừng dâng lên cho vua để cứu mạng em gái. Khi đi săn, Benito đã gặp một con lợn rừng bẩm sinh mù cả hai mắt, ngậm đuôi con lợn rừng đi trước để được dắt đi, nghĩa là chúng biết nương tựa, giúp đỡ lẫn nhau.

Thời Việt Vương Câu Tiễn, nếu trong nhà có con gái mới sanh sẽ được làng thưởng cho 2 bình rượu và một con heo, nếu đẻ con trai thì được thưởng một con chó. Vậy tính ra đẻ con gái được lợi hơn phải không?

Năm 1918, trận dịch cúm Tây Ban Nha (Spanish Flu) đã giết hại hơn 20 triệu người trên khắp thế giới mà virus gây ra dịch này có nguồn gốc từ bệnh cúm heo. Gần đây năm 1998, virus Nipah xuất phát từ heo đã làm trên 100 người thiệt mạng ở Mã Lai, ngoài ra còn có dịch “lở mồm long móng” rất nguy hiểm. Ấy chết, con người cũng có bệnh lở mồm, long móng đó, khi mồm miệng ác độc nói gian nói xấu hại nhau, khi dùng móng vuốt hãm hại người ngay, thay vì động viên khuyến khích nhau cùng làm người Việt nở mày nở mặt, thì biến nhau thành “lở này, lở mặt”!

Một bất công khác nữa là hình ảnh heo trong thơ nhạc rất hiếm hoi. Trong chuyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, người ta thống kê được 49 loài vật như Uyên, Phượng, Rồng, Hùm, Sói, Mèo, Gà, Trâu, Ngựa …. nhưng thi hào không hề nhắc tới Heo Lợn trong tác phẩm lớn này. Trong các bài hát ngoại trừ nhạc thiếu nhi như nhạc sĩ Ngọc Lễ trong bài “Con heo đất” thì ít thấy hình tượng con heo trong đó. Khi tôi “gú-gồ” ráng tìm có câu hát nào thì thấy được mấy bài có chữ Heo, nhưng là heo… may, tức là loại gió nhẹ không dính líu gì tới loài lợn cả! 

Cuối cùng thì thấy được bài Đám Cưới Trên Đường Quê của Hoàng Thi Thơ có câu:

Chà! nhà ai có ông rể quý. 

Chà! nhà ai có cô dâu hiền. 

Ồ! ngộ thay có con lợn quay… 

Bạn có biết thêm bài hát nào khác không? Các nhạc sĩ năm nay xin hãy sáng tác thêm nhạc có tên loài heo này, 12 năm nữa nếu còn sức tôi sẽ viết bài nhắc tới tác phẩm của quý nhạc sĩ.

Khi loài người đóng phim nhà nghèo không mặc quần áo để khiêu dâm, thì người ta lại gọi đó là phim “con heo”. Tội con heo chưa, nếu tính tới chuyện ấy thì heo thua xa các con thú khác mà. Sẵn đây cũng xin mở ngoặc là báo chí Tây phương đã báo động sự việc ghiền phim con heo đã trở thành một căn bệnh của thế kỷ 21. 

Ngộ cái là loại thịt heo “Ba Chỉ” tức là 3 lớp thịt, lớp mỡ liền với nhau, tiếng Anh lại gọi là Bacon- cũng bắt đầu cùng bằng chữ “Ba”, không biết có liên hệ ý nghĩa gì đây! Sẵn đây cũng xin nhắc tới món thịt heo xông khói, món “ham”, “hotdog”, “saugage” rất nổi tiếng của Tây phương nhiều chất bổ, ít chất béo, ăn liền không phải tốn nhiều giờ chuẩn bị. Phía ta thì có món cháo lòng dồi rất khoái khẩu, ăn kèm với đĩa lòng heo luộc chấm mắm tôm thì tuyệt vời. Người ta đo được bộ ruột con heo có thể dài tới 21 mét, tha hồ làm thành dồi! Rồi tới giò chả tức là món chả lụa, chả quế, xong ăn thêm vào cái nem nướng cuốn bánh tráng thì “hết phản”. Ngày Tết thì phải có món thịt heo cổ truyền kho Tàu với trứng, Tàu ở đây không phải là ba Tàu Trung Cộng đâu nhé. Rồi phải kể tới món lỗ tai heo ngâm dấm mà dân nhậu rất thích:  

Ngày tư, ngày Tết,

Mứt ngọt ăn ớn chết

Thủ cái tai heo

Nhậu kiệu, ngon ra phết!

Các món bún với thịt heo thì có bún mọc, bún thang, bún thịt nướng vừa thơm, vừa béo, vừa đậm đà. Ấy là còn chưa kể tới món thịt đông không thể thiếu trong những ngày đầu năm, món sườn sốt chua ngọt, thịt heo nấu với măng hầm, cơm tấm bì, mà bì là làm từ da heo… Các bà đẻ ăn kiêng mà có thịt heo kho khô thì rất đúng sách vở. Nếu nhà có đám cưới, tiệc tùng mà đặt nguyên con heo quay thì sang ơi là sang. Nếu tô phở miền Bắc nổi tiếng nhờ thịt bò, thì món hủ-tíu thịt heo của người miền Nam cũng vang danh không kém. Đến bánh ngọt mà cũng có loại bánh Tai Heo dòn rụm ngọt ngào, không được gọi là bánh Tai Lợn hay Tai Chú Ỷ bạn nhé, tên bánh Tai Heo đã được cầu chứng rồi, đổi khác không ai hiểu đâu. Ngược lại bánh có ba lớp có màu xanh lá cây, màu trắng với lớp nước dừa béo ngậy thì phải gọi là bánh Da Lợn, không phải bánh Da Heo đâu nhé!

Thời quý anh chiến sĩ, công chức Việt Nam Cộng Hòa bị bắt đi tù Cải tạo, nếu người nhà dành dụm được tiền để làm món “chà bông” (người miền Bắc gọi là ruốc) đi thăm nuôi thì quý vô cùng. Tới bây giờ ở Canada đã gần 40 năm, tôi vẫn mê món chà bông này. Một người bạn từng sống ở trong trại “Lao động Cải tạo” kể lại chuyện họ đói rách khổ nhục vô cùng. Mỗi năm ngày Tết hoặc “Lễ Độc Lập 2 tháng 9” tù cải tạo mới được vài miếng thịt heo nhỏ bằng ngón tay. Món canh rau dại hôm ấy mới có chút váng mỡ do cán bộ luộc thịt ăn với nhau, còn nước luộc bỏ rau vào nấu canh cho anh em tù. Anh bạn bảo nồi canh hôm đó đã được “heo lội ngang” qua. Nhờ heo “quá cảnh” mà dù sao cũng có chút nước béo, chất thịt. Lao động nói lái lại là Long Đạo, hèn chi Cộng Sản không tiếc lời ca tụng Lao động là vinh quang!

Ngày 1 tháng 1, 2019 luật An Ninh Mạng được chính thức áp dụng tại Việt Nam. Luật này đã thêm vào để gọng sắt kềm kẹp của Cộng Sản đối với người dân càng mạnh hơn. Chữ an ninh mạng đọc gần giống như chữ “animal” trong tiếng Anh – nghĩa là thú vật – nên dân cư mạng gọi là luật Súc Vật. Người luôn trà trộn vào các diễn đàn, sinh hoạt cộng đồng, gây xáo trộn mất đoàn kết trong hàng ngũ chống Cộng bị gọi là “Dư Lợn Viên” (bắt nguồn từ chữ “Dư Luận Viên”). Mới đây vụ cưỡng chiếm vườn rau Lộc Hưng đã làm biết bao người uất ức. Thật khổ với chế độ tàn ác này, năm mới này chúng ta nên có thái độ ra sao?

 Người Nhật nổi tiếng có món thịt bò Kobe, tức là bò được nuôi bằng âm nhạc, đấm bóp và thức ăn đặc biệt nên mềm ngon và rất mắc tiền. Người ta gần đây cũng thí nghiệm cho heo nghe nhạc. Chưa biết kết quả rõ ràng ra sao, nhưng chủ trại chăn nuôi thấy chúng ăn uống đều, lớn nhanh và tốt nhất là đằm tính hẳn. Khi heo đằm tính thì các hiện tượng như cắn nhau, nhảy loạn xạ, nổi điên giảm xuống tránh được các hiện tượng gãy chân, dập xương. Kể cả người làm trong trại chăn nuôi cũng thấy dễ chịu hẳn khi đi trong trang trại có tiếng nhạc, quả là một công đôi ba chuyện.

Người lớn, nhất là trẻ em thường để dành tiền lẻ trong cái ống heo hay con heo đất, khi được khá nhiều tiền thì đập ra mà xài. Báo Việt Nam có loan tin những màn ”đập heo” trăm triệu tặng vợ khiến bà con rất ngưỡng mộ.

“Nuôi heo chọn giống, đẻ con chọn dòng” loài heo đực Yorshire, Ladrace, Duroc với bảo đảm 100% giống Mỹ rất được nhà chăn nuôi ưa chuộng.

Nếu heo nhà mắc chứng heo gạo, hay nhiễm vi khuẩn tiêu chảy, chứng cảm cúm thì người nuôi rất khổ tâm. Người quen với tôi kể chuyện nuôi heo ở quê nhà, có khi phải cho heo ăn lá cần sa để chữa bệnh. Cứ kiểu này ăn thịt heo coi chừng bị ghiền cần sa. Sẵn đây cũng xin nhấn mạnh tiếng Việt khi dùng phải cẩn trọng, đừng đánh dấu lộn, thí dụ viết:

Heo, Gạo là món ăn chính của người Việt, nếu bỏ mất dấu phẩy ở giữa thành: Heo gạo là món ăn chính của người Việt thì bỏ bu! Ăn heo mắc bệnh gạo thì không tốt chút nào, nói chi là món ăn chính!

Nghĩ lại đời một con heo cũng sung sướng, không phải cày sâu cuốc bẫm, được chăm sóc nằm ăn cho béo, dù bị “thịt” sau đó nhưng người đời phải mang ơn vì đã cống hiến thực phẩm quý cho con người.  Đến chất thải của heo cũng được dùng làm phân bón trồng trọt rất tốt.

Có một giống cá đặc biệt tiếng Anh tên là Dolphin, không hiểu sao tên tiếng Việt là cá Heo. Có lẽ vì giống cá này có vú và tròn trùng trục giống như heo? Cá heo rất thông minh, diễn được nhiều trò hay. Nếu bạn chưa đi thăm Marine Land ở Niagra Falls Canada, SeaWorld ở San Diego California, hoặc Florida Hoa Kỳ xem cá voi múa, thì nên đi sớm đi nhé, hay lắm.

Để tạm kết bài tản mạn năm Hợi nói chuyện heo này, tôi xin ghi lại một câu chuyện rất ác xảy ra thời Lưu Bang Hán Cao Tổ. Lưu Bang hồi ấy rất sủng ái người phi tần tên là Thích Cơ. Vì ghen ghét nên sau khi Lưu Bang băng hà, Thích Cơ đã bị Lữ Thái hậu (vợ Lưu Bang) sai người chặt chân tay, móc mắt, đốt tai, bắt uống thuốc thành câm, cho ở nơi tối tăm dơ dáy rồi gọi đó là “Nhân Trư”, nghĩa là người lợn.

Lữ thái hậu cho gọi Huệ Đế vào để xem nhân trư, biết đó là Thích phu nhân, Huệ Đế phải khóc rống lên. Bị ám ảnh, Huệ Đế mắc bệnh và chết yểu khi mới 22 tuổi. Thế mới biết lòng ghen hờn đã làm người ta trở nên xấu xa tàn ác như thế nào. Trong cuộc sống, chúng ta có thể không quá ác như bà họ Lữ này, nhưng “ác với dân” như bọn cầm quyền hiện tại, ác với nhau cũng hay xảy ra. Làm sao để tránh làm việc ác và chống cái ác?

Năm Kỷ Hợi đang đến, ước gì chúng ta ai cũng ngày một hoàn thiện hơn, đất nước được ánh sáng Tự Do Dân Chủ chiếu soi, Việt Nam có thể bắt đầu lại để phát triển hơn. Tôi vẫn hay bi quan, nghĩ rằng mảnh đất hình chữ S này đã mắc phải lời nguyền, nên nguy cơ bị Tàu Cộng biến thành nô lệ kiểu mới rất có thể xảy ra trong tương lai gần – nếu người dân im lìm không tranh đấu. Bản đồ Việt Nam hình cong như chữ “S”, chữ “S” là bắt đầu của chữ “Sầu”, nhưng thôi năm mới mình hãy cố gắng lạc quan, đổi chữ “S” thành chữ “Sướng”. Muốn sung sướng, phát triển thì phải cố gắng để thực hiện, không phải một sớm một chiều, không phải ngồi chờ sung rụng.  

Có làm thì mới có ăn

Không dưng đâu dễ mà rằng Trời cho!

 

Được làm người, hẳn phải hơn loài vật, loài heo, vậy hãy sống ích lợi nhất trong hoàn cảnh của mình. Vâng, để bản thân, gia đình, đất nước được ích lợi, tốt đẹp, hãy sử dụng cả khối óc và con tim để hành động, đừng chần chừ nữa….

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

Đường Nó Đi Trùng Điệp Bất Nhân

Đường Nó Đi Trùng Điệp Bất Nhân

Nguyệt Quỳnh

23-1-2019

“Tôi biết nó, đồng bào miền bắc này biết nó/ Việc nó làm, tội phạm nó ra sao” — Nguyễn Chí Thiện

Lâu nay, trong tiếng gào khóc của người dân oan khắp ba miền đất nước, hoà trong nước mắt bao giờ cũng có những kể lể, trách mắng, đầy phẫn uất với tiếng “nó”: nó đến kìa; nó rình rập; nó ác lắm… hay chúng nó tàn nhẫn lắm!

Nó là lực lượng cưỡng chế lên đến hàng ngàn người với đầy đủ các ban ngành và với đầy đủ quyết tâm cùng nhẫn tâm, mà anh Hoài Công Trực, một người dân ở vườn rau Lộc Hưng mô tả: “… với lực lượng đó, dùng để đánh lấy lại Hoàng Sa cũng thắng thì làm sao người dân chúng tôi chịu nổi”.

Thời nào cũng vậy, thời nào cũng có những phường cường hào ác bá chuyên đi bóc lột, cướp đất, bức hiếp những người dân thấp cổ bé miệng. Nhưng nay, bọn cường hào lại là kẻ cầm chịch, là chính quyền thì người dân biết đi đâu mà đòi oan sai?

Thế cho nên tự bao giờ, người dân nghèo quê tôi đã oán ghét, gọi chính quyền bằng một đại danh từ chứa đầy cảm xúc của sự rẻ rúng và khinh miệt: “Nó”.

***

Tiếng nức nở ở vườn rau Lộc Hưng lại vang lên như một tiếng chuông gõ vào ký ức của mọi người dân VN. Tiếng gào khóc ấy đã vọng lên từ đất nước này từ lâu lắm rồi, từ những vụ cướp đất ở Cần Thơ, Cồn Dầu, Dương Nội, Tiên Lãng, Long An, Dak Nông, Thủ Thiêm…

Và rồi ngày nay, ở Lộc Hưng, ngay những ngày cận tết. Ngày tết là ngày thiêng liêng, ngày đoàn tụ của gia đình, của ông bà tổ tiên, người khuất mặt. Dân ta bảo “đói muốn chết ba ngày tết vẫn no” hay “giận gần chết ngày tết cũng thôi”. “Nó” quả thực đã không còn là người VN truyền thống. Không thể nhân danh gì để có thể đánh vào đồng bào mình ngay những ngày giáp tết; mà lại nhắm vào những con người lương thiện, nghèo khó, lam lũ!

Nhìn cảnh người dân vườn rau Lộc Hưng nhớ nhà, quay lại nằm ngủ ngay trên cái tổ ấm đã bị đập phá tan nát; không biết bạn có như tôi, chợt đau xót như nhìn thấy chính mình cũng đang cố bám víu vào cái mảnh đất chữ S đã tan hoang, xác xơ đến tội nghiệp này!

Một người dân Lộc Hưng nằm ngủ ngay trên nền nhà của mình vừa bị đập nát. Ảnh trên mạng

Hai trăm hộ dân với hàng trăm con người vừa lâm cảnh đói rét, lang thang vào những ngày cuối năm. Sự yếu đuối, cô thế của họ làm tôi chạnh nhớ đến hình ảnh người mẹ liệt sĩ ở Hà Đông. Khi cùng đường, khi tuyệt vọng, con người ta đành đem cả sự trần trụi, cô thế của mình ra làm vũ khí. Người mẹ này đã khỏa thân gào khóc đến lạc giọng ngay trước trụ sở tiếp dân của trung ương đảng và thanh tra chính phủ: “Con của tôi chết hết rồi. Còn một mình tôi nữa thôi đảng ơi. Tôi ăn gì, uống gì đây đảng ơi. Tôi lấy gì mà sống đây đảng ơi.”

Một người dân oan khỏa thân, gào khóc trước trụ sở tiếp dân của trung ương đảng và thanh tra chính phủ. Ảnh trên mạng

Nhưng oán giận hay gào khóc đâu có thay đổi được gì. Nước mắt và sự khổ đau cùng cực dường như đã có mặt trên đất nước này hơn nửa thế kỷ. Ngay từ những ngày đầu, khi CS mới nắm chính quyền rồi cho phát động chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Câu thơ của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện ngày ấy mà đã thành tiên tri “đường nó đi trùng điệp bất nhân”.

Nhưng nếu bảo cộng sản ác, lãnh đạo cộng sản bất nhân, vậy chúng ta là ai?

Chúng ta là chứng nhân của nửa triệu nông dân chết oan trong Cải Cách Ruộng Đất; chúng ta có mặt khi CS nhân danh cách mạng chôn sống hàng nghìn người dân vô tội trong biến cố Mậu Thân; chúng ta hiện diện khi chúng chia chác, cướp đất, xô đẩy lớp lớp dân nghèo vào cảnh cùng khổ, không nhà không cửa, màn trời chiếu đất…

Với từng đó những tội ác mà chúng ta vẫn im lặng, vẫn làm ngơ thì sự hiện diện của chúng ta cũng hoàn toàn vô nghĩa. Khi coi sự bất công đối với người khác không là sự bất công đối với mình thì nạn nhân kế tiếp sẽ là ai?

Chúng ta là sản phẩm của chính mình.

Một ngày nào đó khi quay trở về nhà, mái ấm của chúng ta cũng chỉ còn là một đống đổ nát như vườn rau Lộc Hưng. Một ngày cuối năm nào đó, chúng ta cũng sẽ co ro trên mảnh đất trống của mình trong khi căn nhà chung VN đã là một bãi rác cho ngoại bang rồi.

Tai họa này sẽ không chừa một ai, ngay cả những đảng viên, cán bộ nằm trong guồng máy của chế độ. Đối với một chính quyền “non yếu” chúng ta còn chung tay góp sức được; nhưng với một chính quyền “bất nhân với đồng bào”, nếu chúng ta không phải là người chận đứng cái ác thì còn ai vào đây? Hãy nhớ đến những cán bộ cao cấp như Đinh La Thăng còn phải cầu xin được đối xử như một con người.

 Chính chúng ta đã tạo nên một xã hội bất ổn, chính chúng ta đã trao quyền lực tuyệt đối vào tay một đảng phái bất xứng. Để rồi ngày hôm nay, với luật ANM, nhiều người dân VN còn tin rằng chúng ta đã “hoàn toàn trắng tay” về những gì gọi là quyền con người!?

Ai đó đã từng nói: “Chúng ta nghĩ mình là gì thì mình sẽ trở thành thế ấy.” Tờ giấy bạc 20 đồng sẽ luôn luôn có cái giá trị của 20 đồng, dù nó được xếp vuốt phẳng phiu hay bị bàn chân người đời dẫm nát. Hãy dám sống với cái hệ giá trị của chính mình. Đây không phải là lần đầu đất nước này, dân tộc này phải sống với thử thách.

Khi luật ANM cấm nói, chúng ta sẽ tiếp tục và phải tiếp tục nói lên sự thật. Hãy bắt đầu một cuộc sống có trách nhiệm, sống với danh dự và nhân phẩm. Chỉ có duy nhất điều này mới có thể nâng tâm hồn chúng ta, nâng dân tộc chúng ta thoát ra khỏi số phận sắp bị diệt vong.

ỨNG NGHIỆM LỜI CHÚA

ỨNG NGHIỆM LỜI CHÚA 

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 

Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.  Tin Mừng nhiều lần đề cập đến điều này.  Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện.  Hôm nay được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilê.  Trở về Nagiaréth, Người đọc Sách Thánh trong hội đường đúng đoạn nói về Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn.  Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần.  Nhờ đâu được như thế?  Một phần nhờ việc đọc Sách Thánh.

Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh.  Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi Chúa Giêsu đến Nagiaréth, là nơi Người sinh trưởng.  Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh.”  Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh hoạt với mọi người trong hội đường.  Yêu mến và gắn bó với Sách Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh.  Còn hơn thế nữa, sau khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người.  Đó là nếp sinh hoạt bình thường của Người.  Nếp sinh hoạt này đã thành thói quen từ khi Người còn nhỏ bé.  Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối đáp với các bậc tiến sĩ trong Đền Thờ Giêrusalem.

Chúa Giêsu kính cẩn đọc Sách Thánh.  Chúa Giêsu không đọc Sách Thánh theo thói quen.  Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn.  Ta hãy chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. N gười mở ra và đọc… Người cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống.  Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người.  Người bắt đầu nói với họ.”  Thật là trang nghiêm kính cẩn.  Thái độ của Người ảnh hưởng đến cả hội đường.  Nên khi Người đọc mọi người chăm chú nhìn Người.  Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao thức tìm thánh ý Chúa Cha.  Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn cho cuộc đời.  Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha.  Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh.  Người cố đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.

Chúa Giêsu nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh.  Khi nói với mọi người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói đến hai điều.  Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đoạn Sách Thánh.  Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia.  Biết lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình.  Điều thứ hai: Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành.  Người coi đó là chương trình hành động.  Người coi đó là chỉ nam hướng dẫn.  Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết hoàn thành.  Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này.  Vì thế đoạn sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.

Đây là mẫu gương cho ta.  Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần.  Hãy thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa.  Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi.  Nhất là hãy quyết tâm thực hành Lời Chúa mà ta đã đọc.  Ta sẽ được tràn đầy Ơn Chúa Thánh Thần.  Thật vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần lôi cuốn.  Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần soi sáng.  Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ.  Như một phản hồi hai chiều.  Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh.  Càng say mê Kinh Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời.  Cuộc đời sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân.  Đó chính là cuộc đời đạt được mục đích cao quý nhất.

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt 

From Langthangchieutim

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chiều Tảo Mộ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Chiều Tảo Mộ

 blank

Ai liều tảo mộ chiều nay

Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn

Phùng Cung

 
“Vừa rồi tôi có đi Tây Nguyên dự lễ bỏ mả của gia đình ông Y Ngông Niết Đam. Người Eđê có một tục lệ rất đặc biệt. Khi nhà có người chết, gia đình con cháu hàng ngày vẫn nuôi nấng, vẫn mang cơm nước ra mộ, khi có điều kiện họ làm lễ bỏ mả. Đó là bữa tiệc linh đình chia tay vĩnh viễn với người chết. Sau đó họ không quan tâm đến ngôi mộ ấy nữa, để linh hồn người chết được siêu thoát, không còn vướng víu cõi trần.” (Trần Đăng Khoa. Chân Dung và Đối Thoại. Hà Nội: Thanh Niên, 1988).

Bãi mả, thực ra, không phải là “một tục lệ rất đặc biệt của người Eđê” mà là tập tục chung của nhiều sắn dân bản địa – ở Việt Nam:

“Đối với người Roglai – sắc dân sống rải rác các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, và Lâm Đồng – lễ cúng bỏ mả có nghĩa là người sống từ giã người chết. Lễ này được cử hành sau mùa gặt hái đầu tiên, tính từ ngày người chết qua đời. Mùa gặt hái hoàn tất, mọi người đều rảnh rang nên lễ cúng bỏ mả làm linh đình lắm. Có giết trâu mổ bò, mới thầy cúng làm lễ cho người khuất rồi đãi làng nước. Sau lễ bỏ mả là hết, ngôi mộ không được ai chăm sóc nữa.

Người Rhadé, đa số sinh sống tỉnh Darlac và Quảng Đức, cũng có lệ bỏ mả vào mùa gặt năm sau. Người nhà ra mộ khóc lóc một lần cuối rồi mộ bị bỏ hẳn. Kỷ niệm của người chết cũng chìm dần vào quên lãng.

Người Bahnar – sắc dân sống ở Đông Nam Kômtum, Tây Bắc Pleiku, và phía Tây Bình Định – cũng chỉ chăm sóc mộ phần một năm… Sau đó họ làm lễ tạ rồi san phẳng, và từ đây không còn ai ngó tới.” (Toan Ánh. “Tang Lễ Của Đồng Bào Thượng. Nhật báo Cách Mạng Quốc Gia, Sài Gòn 01 Sept 1963).

Bỏ mả, hay bãi mả là điều bắt buộc trong nếp sống du canh. Tục tảo mộ hằng năm, chắc chắn, chỉ bắt đầu khi nhân loại tiến đến giai đoạn định canh. Còn tôi thì phải  mãi cho đến cuối 2014, mới được rủ đi tảo mộ (lần đầu) khi đang lơ ngơ giữa một chiều Xuân, nơi đất lạ.

Cái nắng của những buổi chiều cuối năm thường khiến tôi hay bị nặng lòng, dù ở bất cứ đâu. Nhưng phải trải qua một buổi chợ chiều, chợ tết, ở một làng quê nơi đất lạ thì mới hiểu ra thế nào là nỗi buồn xa xứ.

Dân Việt túm tụm dọc mé sông Tonle Sap, đoạn chẩy qua xã Phsar Chhnang (tỉnh Kampong Chhnang) có thể đông đến vài ngàn. Tuy thế, cái đám người trôi sông lạc chợ nhếch nhác, te tua, rách nát này không tạo nổi không khí Tết cho khu chợ cạnh bờ.

 blank

Kampong Chhnang 2014
May mà vẫn còn vài cái cặp đèn lồng đỏ, năm bẩy cây quất, và mấy chậu cúc vàng của những gia đình gốc Hoa nên hè phố trông cũng đỡ phần ảm đạm. Tôi cứ nhìn mãi một em gái nhỏ, đứng bán đôi cành mai đã héo mà không khỏi cảm thấy có đôi chút bận lòng.

Như mọi người Việt khác ở bến sông này, tôi cũng là kẻ phiêu bạt không nhà nên chả có chỗ để cắm hoa. Muốn biếu em một số tiền nho nhỏ, đủ để sắm sửa một bữa cơm chiều cuối năm tươm tất cho gia đình nhưng đang loay hoay biết chưa biết cách sao cho tế nhị thì chợt nghe tiếng đồng hương quen thuộc:

–        Sao ông thầy lang thang gì mình ên vậy ? Đi tảo mộ với tụi em nha, gần xịt  thôi hà.

Thấy tôi hơi ngần ngừ, bà vợ rụt rè thêm:

–        Dạ, sẵn bữa nay có làm gà với mua được xị rượu để cúng nên mới dám mời ông thầy …

Nghe cách xưng hô nên tôi đoán là họ có con đang theo học ở trường làng Kandal, dưới bến sông. Không ai biết tôi tên gì cả, họ chỉ thấy ông già này thường lui tới ngôi trường này và hay chơi đùa với lũ trẻ con nên gọi tôi bằng “thầy” cho nó tiện việc sổ sách – thế thôi.

Phải nhìn thấy cảnh nuôi gà trên những túp lều nổi tả tơi, và những bữa cơm đạm bạc quanh năm (toàn với khô hay cá vụn nhỏ li ti) của những người suốt đời sống lênh đênh thì mới hiểu được rằng được mời ăn gà là một hân hạnh không thể chối từ – dù tôi chả mặn mà gì với gà và vịt!

May mà từ chợ đến nghĩa địa gần thật, chỉ chừng hơn cây số. Đang là mùa khô, nước rút nên mới lộ ra vài chục tấm mộ bia thô kệch và xấu xí. Chải ai sống qua tuổi sáu mươi. Khi còn tại thế (chắc) họ chưa bao giờ được giáp mặt với một ông nha sĩ, hay bác sĩ – dù chỉ một lần.

blank

Kampong Chnnang 2014

Sau khi thắp hương, nhổ cỏ, vun sới mộ phần, mọi người ngồi quanh chuyện trò ăn uống. Dường như ai cũng cảm thấy mãn nguyện vì đã làm xong chút bổn phận, cuối năm, với kẻ đã khuất.

Khó có thể ngờ rằng được đó là lần tảo mộ cuối cùng của cộng đồng người Việt ở xã Phsar Chhnang. Năm sau, từ Phnom Penh, thông tín viên Sơn Trung ̣(RFA) tường thuật: “Làng nổi của người Việt bị di dời… Theo thông báo của chính quyền tỉnh Kampong Chhnang thì việc di dời sẽ được thực hiện từ ngày 10 tháng 10 và chấm dứt trước ngày 25 tháng 10 năm 2015.”

 

Tháng 10 thì Á Châu vẫn còn mưa, và mưa tầm tã. Bia mộ vẫn còn chìm sâu dưới nước. Với cái “thông báo” bất ngờ (và bất nhơn) trên thì chắc chắn không ai có cơ hội tạ mả, trước khi tiếp tục trôi xuôi theo kiếp lục bình.

Ở trời Âu, có những kẻ may mắn hơn nên được nằm yên mãi mãi trong những mộ phần và được thăm viếng thường xuyên:

“Tôi vào tiệm tạp hóa Tàu ở Luân Đôn mua một thẻ nhang ngắn rồi xuống Portsmouth, bắt phà qua Normandy… Bây giờ là mùa đông. Khi phà tiến gần vào bờ cho đến khi cặp bến Ouistreham nằm phía cực đông của bờ biển Normandy, trời còn rất tối. Sao Mai sáng long lanh, các ngọn đèn rải thưa quanh bến tàu, ánh sáng vàng đứng bóng, không hắt hiu…

Tôi đi bộ dọc bờ biển từ hướng đông, bắt đầu từ chỗ giáp mép biển của con kênh đào từ Caen (cách biển chừng 16 cây số). Cứ khoảng 100 thước, một tấm biển tưởng niệm, hình ảnh thế hệ các người lính hôm nay thuộc binh chủng đã đổ bộ, và tên tuổi của một người lính tử trận ngày 6.6.1944…

Từ nơi này đi bộ hai cây số đến nghĩa trang đồng minh ở làng Ranville, ngôi làng đầu tiên trên đất Pháp được giải phóng sau khi người lính Dù chiếm giữ cầu Pegasus. Trên bản đồ là nghĩa trang của Anh, nhưng ở góc bên trái từ cổng vào có 330 bia mộ người lính Đức, chia cùng mảnh đất nghĩa trang với 2.235 người lính nhảy dù thuộc quân đội Anh, Úc, New Zealand, Bỉ, Pháp, Ba Lan…

blank

Nghĩa trang Quân đội Đồng minh Ranville: Các ngôi mộ của người lính Đức ở khu vực phía xa bên trái. Ảnh HĐT/12.2018

Mỗi ngôi mộ người lính Đức đều có bia như các ngôi mộ của người lính đồng minh, tên tuổi, ngày sinh và ngày chết, chỉ khác là huy hiệu binh chủng được thay bằng dấu Thập tự Sắt. Dưới bầu trời xám đục, đài thánh giá trắng có hình cây kiếm mũi hướng xuống đất nổi bật ngay giữa nghĩa trang. Những linh hồn nơi đây không còn chiến tranh nữa. Kiếm đã cắm hay cất. Không có một chữ ‘hòa giải’ nào trong nghĩa trang chung này. Nhưng các bia mộ của người lính Đức và người lính đồng minh nằm bên nhau. Người sống không thù hận nên người chết yên lành.” (Hồ Đắc Túc. “Những Mộ Phần Bên Nhau”. Dân Luận 01/01/201̣9).

Cùng lúc với Hồ Đắc Túc, Ngô Thanh Tú cũng đi tảo mộ ở quê nhà (Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà) nhưng với tâm trạng hoàn toàn không thư thái:

“Cứ mỗi bước chúng tôi đi đều phải chịu sự giám sát của ít nhất hai bảo vệ nơi này. Ánh mắt soi mói, những câu hỏi vô duyên, như: chụp hình để làm gì? Có động cơ gì không? làm chúng tôi vô cùng khó chịu. Người bạn đi cùng tôi nói, dường như cái chủ trương truy cùng giết tận còn được áp dụng cho cả người chết. Chế độ này ko chỉ trả thù người chết mà còn sợ họ đội mồ sống dậy nên kiểm soát rất chặt chẽ.”

 blank

Ảnh lấy từ FB TĐM

FB Từ Đức Minh cho biết thêm: “Với bản chất thú tính, bất chấp luân lý và tình người . Người Cộng Sản không cần biết thế nào là nghĩa tử, nghĩa tận . Họ chủ động giáo dục cho đám con trẻ gọi mộ người lính Việt Nam Cộng Hòa là ‘mả ngụy’, ‘mả giặc’. Người ta canh tác rau trên mộ, tưới nước phân dơ bẩn, thả trâu bò lội giẫm đạp lên mộ. Khốn nạn hơn nữa , họ cho người đào giữa ngôi mộ và trồng lên đó những cây to. Mấy năm sau cây lớn làm xập mộ…

Người đang sống ở Lộc Hưng mà họ còn ủi cho xập nhà, xập cửa thì xá gì đến chuyện mộ bia ở Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà!

NHỮNG TRI THỨC TỪ PHÁP TRỞ VỀ

Image may contain: sky, ocean, outdoor and water

Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

NHỮNG TRI THỨC TỪ PHÁP TRỞ VỀ

@Nam Nguyen

Lời nói đầu: Sau câu chuyện về triết gia Trần Đức Thảo nhiều người đặt câu hỏi, lý do gì mà những trí thức có điều kiện phát triển như thế ở tại môi trường nước Pháp lại quyết định bỏ tất cả để về nước kháng chiến? Câu hỏi không hề đơn giản, nếu ta không đặt mình vào hoàn cảnh, điều kiện của chính những nhân vật đó, và phải phần nào hiểu được tâm tư, nguyện vọng của họ! Câu chuyện sẽ hơi dài và có quá nhiều nhân vật, ai không quan tâm thì nên bỏ qua, còn ai thấy “dân ta nên biết sử ta” thì tác giả hy vọng sẽ chia sẻ được một góc nhìn tổng thể về đề tài này, cũng đã ba phần tư thế kỷ trôi qua rồi…

Thời điểm năm 1941 nước Pháp bị chia đôi, Paris nằm ở lãnh thổ bị Đức chiếm đóng, còn phía Nam thì vẫn nằm trong tầm quản lý của Thống chế Pétain. Thế chiến bắt đầu giai đoạn đẫm máu, khốc liệt nhất sau khi Đức bất ngờ tấn công Liên Xô 22/6/1941. Lúc cao điểm nhất có tới 80 nghìn người Việt Nam (thời đó vẫn bị gọi là An Nam) khoác áo “lính” của Pháp và ở châu Âu. Lính có 2 loại:”lính thợ” – làm lao động chân tay cho Pháp – Đức; “lính chiến” – các tiểu đoàn quân đội Pháp, nhưng thực chất toàn người Việt được tuyển mộ để đánh nhau với Đức. Thời đó Việt kiều tại Pháp có nhưng số lượng rất ít! Tại Paris có khoảng gần một nghìn người Việt đang theo học đại học, cao đẳng, hoặc đã học xong đang đi làm hay lấy bằng thạc sỹ, tiến sỹ…

Câu chuyện bắt đầu từ trường đại học Cầu đường Paris. Đây là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu của Pháp, với phương châm tuy hơi tếu nhưng nói lên đòi hỏi rất cao của sinh viên trường này :“Người tốt nghiệp cầu đường phải biết làm bất cứ việc gì, kể cả làm cầu đường!” (và quả thật sau này ông Caquot – thầy giáo nổi tiếng của môn sức bền vật liệu, một trong những người đề xướng và áp dụng “bê tông dự ứng lực”, “linh hồn” của trường – sau 1945 được Chính phủ Pháp De Gaulle giao cho trọng trách phụ trách toàn bộ công cuộc tái thiết đất nước). Đây là trường trước kia của Hoàng Xuân Hãn, Xuphanuvông…(và cách đây chỉ vài năm thôi một trong 6 giảng đường lớn của trường Cầu đường được gắn tên Hoàng Xuân Hãn để tri ân người học trò kiệt xuất của trường vì thành tựu to lớn ở các lĩnh vực chính trị, khoa học kỹ thuật và công lao đối với nước Pháp!). Phạm Quang Lễ (tên thật của Trần Đại Nghĩa) vừa tốt nghiệp xong, và với bằng này ông có quyền xin học tiếp ở rất nhiều trường khác, lúc này ông học đồng thời ở trường Điện và trường Hàng không. Ông được một “đàn em” cùng trường – sinh viên năm cuối Trần Hữu Phương – mời tham gia cùng với anh em trong trường thành lập ra một sân chơi cho tất cả đồng hương. Gọi là “anh em” chứ tại trường lúc đó mỗi năm chỉ có một sinh viên Việt Nam – dưới năm Phương một năm là Trần Lê Quang, mới vào trường là Nguyễn Hy Hiền. Vì Phạm Quang Lễ quá bận học nên chỉ hứa sẽ cùng tham gia với anh em, thế nên mọi người rủ thêm Trần Văn Du (sinh viên của Alfort – một dạng của Viện vệ sinh dịch tễ). Và thế là ra đời “Hội Ái hữu của những người Đông Dương ở Paris”!

Mấy sinh viên trường đó ngoài học cầu đường theo chính khóa còn hay chạy sang học ké thêm ở Sorbonne và College de France thế nên góp tiền nhau, tìm thuê ngay cạnh đó một gian nhà ở tầng một, rộng chỉ sáu bảy chục mét vuông, sơn sửa lại, mua bàn ghế và thậm chí mua cả một cái piano. Tất nhiên trong lúc Đức chiếm đóng, thời chiến như vậy thì Hội ra đời phải xin phép nhà cầm quyền Đức rồi, nhưng khi biết tiêu chí hoạt động của Hội là trợ giúp đồng hương Paris và đấu tranh với Chính phủ Pháp về vấn đề độc lập cho Đông Dương thì Hội nhanh chóng được chấp nhận cho hoạt động.

Với tài tổ chức của Hội trưởng Trần Huy Phương (có những lúc là Trần Văn Du làm thay hội trưởng, nhưng chưa bao giờ là Hoàng Xuân Mẫn như báo chí hay viết vậy) địa điểm này nhanh chóng trở thành điểm đến yêu thích của đồng hương Việt Nam ở Paris. Họ thường tụ tập nhau vào chủ nhật hay thứ bảy, góp tiền liên hoan nhẹ, uống trà, trao đổi tin tức quê nhà, bàn chuyện học hành rồi bao giờ cũng đi đến chủ đề chính trị. Sau một thời gian, cũng vì lý do chính trị, Hội đổi tên thành “Hội Ái hữu của những người Việt Nam ở Paris”-tức là các hội viên tự thấy nếu có đấu tranh cho chủ quyền độc lập, thì phải từng nước đấu tranh chứ không thể hô hào cho cả Đông Dương được, và đây chính là tiền thân của các “Hội Việt kiều” ở Paris và Pháp sau này. Võ Quý Huân, Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân Mẫn (em cụ Hoàng Xuân Hãn), Lê Văn Thiêm, Phạm Huy Thông…là những hội viên tích cực nhất. Sau này có cả anh em lính thợ cũng qua lại Hội, rồi nhiều ông cố đạo người Việt cũng hay đến. Hội bắt đầu đủ mạnh để có thể tổ chức được cả những chương trình văn hóa nhỏ, ví dụ mời danh cầm Thái Thị Liên, vợ của ông Trần Ngọc Danh – sau này là đại sứ đầu tiên của VNDCCH tại Pháp – sang biểu diễn…

Lúc đó ngoài học ra, các nhà trí thức trẻ tất nhiên phải quan tâm đến chiến sự xung quanh. Càng học hành cao, thì họ càng không thể nuốt được cái cảm giác ê chề là dân của nước thuộc địa đồng nghĩa với sự lạc hậu, nghèo hèn (mặc dù quả là đúng như vậy thật!!). Và càng nặng nề hơn nữa khi họ nhìn thấy “mẫu quốc” Pháp là thực dân sừng sỏ ngày nào, giờ đây bị Hitler chia cắt và sẽ nuốt dần thôi. Sau nữa họ lại thấy Liên Xô và quân đồng minh quyết chiến với phát xít Đức như thế nào, trong chiến cuộc đó Pháp chỉ có một vai trò quá nhỏ bé, không tương xứng! Thế mà nước Pháp rệu rã ấy vẫn một mực áp đặt chế độ thuộc địa lên những nước như Việt Nam, quyết không nhả ra! Gần như tất cả hội viên của Hội Ái hữu cảm nhận được rõ ràng và thống nhất rằng PHẢI ĐẤU TRANH MỚI CÓ ĐỘC LẬP – những người yêu nước trẻ tuổi này rất nhanh đi tới kết luận đó và sau này khi có nhiều thông tin hơn thì rất cảm tình với đường lối đấu tranh của Hồ Chí Minh.

Thời đó thủ lĩnh của “cộng sản thứ thiệt” ở Paris là bác sỹ Nguyễn Khắc Viện, ông là đảng viên cộng sản Pháp từ lâu và cũng là đàn anh của sinh viên lứa những năm 40. Ông đã nổi tiếng học giỏi từ khi còn ở nhà, đã học xong ra đi làm bác sỹ, nhưng chính bản thân lại liên tục đau ốm phải nằm viện liên miên, nên rất ít khi anh em ở HAH thuê xe đón ông từ viện về Hội để gặp gỡ, mà thường có gì cần hỏi thì vào thăm ông Viện ở trong bệnh viện. Cảnh thường thấy là ông Viện nằm trên giường bệnh, ôm quyển từ điển Anh-Pháp đọc liên miên rồi khoe “hôm nay tao học xong chữ O” – tức là ông cứ thế học hết từ này đến từ khác, trang này đến trang khác, thế mà ông nhớ hết và sau này rất giỏi tiếng Anh! (Phải nói thêm là sinh viên Việt ở Pháp thời đó chỉ bắt đầu học tiếng Anh khi Anh bắt đầu tham gia cuộc chiến, và phải nghe đài Anh để có thông tin chính xác về chiến sự toàn châu Âu…). Vậy nên các trí thức, sinh viên người Việt lúc đó chỉ biết đến cộng sản qua hình tượng Đảng cộng sản Pháp là chính, còn biết về Hồ Chí Minh qua đấu tranh giải phóng dân tộc tại quê nhà (cũng có tin tức thường xuyên trên báo Pháp, nhưng anh em phải tìm thêm nhiều nguồn khác nhau để chọn lọc…). Và phải khẳng định rằng từng sinh viên – hội viên của Hội Ái hữu tự tìm hiểu về chính trị chứ không hề có sự tuyên truyền, nhồi sọ, lôi kéo từ bất cứ phía đảng phái nào!

Năm 1945 Đức thua trận, quân đồng minh Anh-Mỹ giao trả nước Pháp cho tướng Le Clerc – tướng bộ binh của De Gaullle, thời kỳ “Cộng hòa thứ tư” bắt đầu. Các trí thức Việt tại Paris đón nhận tin độc lập ở quê nhà 02/9/1945 rất vui mừng, tuy vậy chỉ có thông tin một chiều qua báo Pháp, họ cũng chưa biết được nhân vật Hồ Chí Minh là cộng sản, người của Quốc dân đảng (là của phe đồng minh) hay là một thế lực chính trị nào nữa. Hồi đó báo chí Pháp đưa tin theo chiều hướng: Việt Nam tuyên bố độc lập đối với Nhật (Việt Minh dành lại quyền từ chính quyền Bảo Đại do Nhật dựng lên). Sau này Pháp (Leclerc) đưa quân vào Sài Gòn với chiêu bài giúp Tây (các lực lượng còn lại trên đất Đông Dương) lập lại trật tự tại cựu thuộc địa của mình (mà trước kia đã bị Nhật cướp một cách bất hợp pháp qua việc dựng nên chính phủ Trần Trọng Kim)…

Ở Paris cuộc sống của các trí thức trẻ người Việt cũng có nhiều xáo động. Đức rút đi vơ vét theo hết sạch lương thực nên cuộc sống khá khó khăn. Tuy vậy Pháp vẫn giữ chế độ học bổng tiếp tục cho các sinh viên đang học, còn ai tốt nghiệp rồi thì có thể học tiếp lên hay đi tìm việc làm cho các công ty Pháp, các bác sỹ thì mở phòng khám…đó là một chính sách khuyến khích ở lại học và làm việc tương đối rõ ràng đối với những người là nguồn chất xám đáng quý ngay cả đối với xã hội Pháp. 1945 hầu như không có ai về Việt Nam cũng vì lý do tình hình ở nhà chưa rõ ràng đối với những kẻ xa nhà (mà người ít nhất cũng đã ra đi cách đây 6-7 năm rồi!).

1946 đoàn Việt Nam sang hội nghị Fontainebleau là một sự kiện lớn, được giới trí thức người Việt ở Paris và Pháp rất trông đợi. Hội Ái hữu là một trong những tổ chức tích cực đón tiếp, giúp đỡ đoàn nhất trong suốt thời gian đoàn ở Paris. Pháp đã công nhận Hồ Chí Minh là Chủ tịch hợp hiến, tuy vậy chỉ đối với phần Bắc kỳ thôi, chứ không phải của toàn Việt Nam thống nhất (và đó cũng là chủ đề chính của hội nghị Fontainebleau!). Đoàn gồm: chủ tịch Hồ Chí Minh (thực ra đi đoàn riêng), ông Phạm Văn Đồng – Phó thủ tướng (cụ Hồ kiêm Thủ tướng), Tạ Quang Bửu – bộ trưởng quốc phòng, Vũ Đình Huỳnh – Tham biện phụ trách Lễ nghi, Phan Anh, Hoàng Minh Giám, Dương Bạch Mai, Nguyễn Mạnh Hà… Nhân vật đặc biệt: ông Đỗ Đình Thiện – trợ lý chủ tịch, nhưng thực ra cụ Thiện là “nhà tài trợ” cho chính phủ, mọi chi phí -rất nhiều đấy – cho chuyến đi lịch sử này đều do một tay cụ cống hiến, một nghĩa cử cao đẹp, rất đáng quý! Cụ Hồ thì ở nhà riêng của Aubrac – lãnh tụ kháng chiến của phe Đảng cộng sản (họ chống Đức ngay trên đất Pháp, đối nghịch với phe De Gaulle – sang Anh để chống Đức), còn cả đoàn thì ở khách sạn hạng sang mấy tháng trời. Hội nghị Fontainebleau đi vào bế tắc, 2 điều khoản không thể chấp nhận được là:

-Pháp đòi hỏi Hồ Chí Minh chỉ làm chủ tịch của Bắc kỳ, còn Trung kỳ và Nam kỳ thuộc sự cai quản của Bảo Đại. (Bảo Đại sau này lại mời Diệm đứng ra lập chính phủ, mà Diệm lúc đầu được Mỹ hậu thuẫn, mà đồng minh Anh – Mỹ lại không ủng hộ Mao, đứng chung với Tưởng Giới Thạch ở Hội đồng bảo an LHQ – thế nên mọi chuyện càng rối như canh hẹ! Cũng phải hiểu rõ rằng chính quyền của Bắc kỳ lúc này KHÔNG được sự ủng hộ của Stalin, chứ không thì Pháp đâu có dám ép Việt Nam nhiều như vậy, cũng chả cần gì hội nghị Fontainebleau, “kẻ chiến thắng” mà chỉ “hừ” nhẹ một tiếng thì cái đám quân thất trận như Pháp đời nào dám trái ý!).

-Pháp bắt bí bằng cách đòi đền bù cho các công ty, tài sản của mình nếu Việt Nam cứ đòi độc lập! Ví dụ rõ nhất là đòi đền bù mỏ than Hòn Gai, trước kia triều Nguyễn bán cho Pháp chỉ 10 quan!!! Nay Pháp đòi một cái giá thị trường mà cả chính phủ Việt Nam lúc đó nằm mơ cũng chả có được!

Tất nhiên người Việt ở Pháp càng thấy được bộ mặt trơ trẽn của tên thực dân mới là Pháp, qua đó càng thêm có cảm tình với chính phủ Hồ Chí Minh. Và cũng phải nói Hồ Chí Minh là một chính trị gia kiệt xuất, rất phong độ, uyên thâm và cảm phục được đa số bà con ta ở Pháp lúc đó!

Tạ Quang Bửu trước tốt nghiệp Trung tâm kỹ nghệ Paris, và lần này ông sang là lần thứ hai sau độc lập, lần trước ông đi cùng đoàn Quốc hội với các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng với nội dung chính là “hữu nghị”, cũng đã tiếp xúc nhiều với kiều bào. Với sự giúp đỡ của Trần Ngọc Danh ông đã tiếp xúc với một số trí thức trẻ để đề nghị họ về nước giúp đỡ chính phủ kháng chiến chống Pháp – vì với kết quả hội nghị như thế này, muốn giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc thì chỉ có cách là kháng chiến chống Pháp thôi! Tất nhiên đường lối đó phải được Hồ Chí Minh đồng ý, Bác Hồ có nói chuyện với vài vị, nhưng cứ nói một cách sáo rỗng như báo chí sau này “các trí thức nghe theo lời kêu gọi của Hồ chủ tịch, về nước kháng chiến” thì e rằng bỏ qua hết tài tổ chức cũng như công sức của bác Bửu và lòng hảo tâm của bác Thiện! Và trước nhất, họ tự nguyện quay về theo tiếng gọi của núi sông!

Không có cuộc “tuyển mộ” ầm ĩ nào, mà qua sự giới thiệu của Nguyễn Khắc Viện, Trần Ngọc Danh ông Bửu đã tiếp xúc với một số người theo ông đánh giá là cần thiết cho kháng chiến sau này, và hội tụ điều kiện để có thể về đợt này. (Trần Ngọc Danh hồi đó là đại sứ ta tại Pháp – chưa có tòa đại sứ, nhân vật đối với kiều bào Paris cũng gây rất nhiều đồn đoán mà không có giải đáp, ví dụ “là em của Trần Phú, người của Quốc tế cộng sản do Nga cử sang…”; sau này ông bị kỷ luật ra khỏi đảng, thực hư không biết thế nào!?). Điều kiện: đó là nhiều người muốn về nhưng đang “kẹt”, và có nhiều người chưa muốn về ngay – không phải ai cũng có đủ số tiền mua vé tàu về nước, và tuy ở Pháp khó khăn, nhưng tình hình ở trong nước vừa qua nạn đói năm Ất Dậu nghe nói còn khủng khiếp hơn nhiều!

Tất nhiên “Hội Ái hữu” là nhóm mà ông Bửu quan tâm tới đầu tiên. Chủ tịch Hội những người An Nam tại Paris lúc đó là Trần Hữu Phương – người Sài Gòn – rất có cảm tình với chủ tịch Hồ Chí Minh – nhưng anh không thể về được vì mới cưới vợ là một cô đầm dòng dõi quý tộc, nên bắt buộc phải theo đạo cùng dòng tu với nhà vợ, không theo kháng chiến được (sau này ông về miền Nam và làm Thống đốc một Ngân hàng). Nguyễn Hy Hiền nhận nhiệm vụ ông Phạm Văn Đồng giao, sang Pháp học thêm về thủy lợi, về sau. Trần Lê Quang chưa về ngay được, vì có về thì anh phải về với gia đình ở Sài Gòn (sau này ông về Nam, làm bộ trưởng bộ giao thông của miền Nam, có hai chị và em gái hoạt động cách mạng nội thành, còn người em trai được phong tặng “Anh hùng lực lượng vũ trang”; năm 1975 ông là chuyên viên Liên hiệp quốc tại Beirut). Lê Văn Thiêm còn phải sang Đức bảo vệ nốt luận án tiến sỹ, Trần Đức Thảo và Phạm Huy Thông chưa thi xong thạc sỹ (Agrege-còn khó và quý hơn tiến sỹ)… Nhiều bác sỹ đang mở phòng mạch hay kỹ sư đang làm cho hãng Pháp không dễ bỏ ngang (và cũng phải đấu tranh tư tưởng lắm chứ!). Để từ bỏ “kinh đô ánh sáng” mà về bưng biền kháng chiến thì hành động này cũng đòi hỏi rất nhiều lòng dũng cảm, đó vừa là trách nhiệm cao cả (một đi không trở lại) lại vừa là một vinh dự to lớn (được chính phủ đài thọ vé về nước – đó cũng là một khoản tiền lớn thời bấy giờ!). Anh em hồi đó cứ đùa: “giá cụ Thiện có đủ tiền thì tốt nhất mang được hết số lính chiến người Việt về – mấy chục ngàn lính – giúp cụ Hồ đánh Pháp thì chắc là kháng chiến sẽ mau chóng thành công…”

Cuối cùng 4 người được Tạ Quang Bửu giới thiệu để đi cùng tàu, theo đoàn với Bác Hồ về nước năm 1946 (sau hội nghị Fontainebleau) trên chiếc tàu “Dumont d’Urville” là:

-Trần Đại Nghĩa – lúc này vẫn tên Phạm Quang Lễ – về nhận chức thiếu tướng quân đội, cục trưởng Cục Quân giới – là người đặt nền móng cho ngành công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Ông đã giữ nhiều vị trí lãnh đạo trong quân đội cũng như ngạch giáo dục, quản lý khoa học – kỹ thuật. Công lao rất lớn của ông là một “nhà quản lý” rất giỏi, trong những điều kiện khó khăn nhất mà phát huy tối đa được sức mạnh tập thể, thế nhưng báo chí sau này cứ hay ca ngợi ông như một “nhà chế tạo vũ khí”, “nhà phát minh” – dễ gây hiểu sai cho vai trò và đóng góp của ông trong lịch sử nước nhà!

-Võ Quý Huân – kỹ sư đúc, chia tay con gái nhỏ với người vợ đầm (gốc Nga – gia đình quý tộc đã lưu vong sau 1917). Người đi đầu trong công cuộc phát triển ngành đúc-luyện kim cho miền Bắc.

-Võ Đình Quỳnh – con đại tư sản miền Trung, kỹ sư mỏ -anh của Võ Đình Bông. Ông về rồi vào Nam, bị kẹt luôn ở đó sau toàn quốc kháng chiến, trở thành nhà buôn gang thép lớn, tuy nhiên cự tuyệt không làm gì cho chính quyền miền Nam. Thế nhưng người em ruột lại khéo đổi tên, sang được Pháp, trở thành đảng viên đảng cộng sản Pháp, rồi đến 1952 lại từ Pháp trở về miền Bắc, sau này cống hiến khá nhiều cho ngành điện-than.

-Trần Hữu Tước – người “nổi tiếng” vì đi đâu cũng dẫn theo con chó, phong thái giống dân Tây – bác sỹ tai-mũi-họng lâu năm ở Paris, đã tốt nghiệp đi làm từ lâu – đi về cùng để dọc đường chăm sóc sức khỏe cho đoàn. Sau này sáng lập ra ngành tai-mũi-họng của miền Bắc Việt Nam.

Theo sự sắp xếp của ông Phạm Văn Đồng, sau đó vài tháng 5 trí thức Paris khác đã về theo tàu “Félix Roussel” (tổ chức mua vé, cho mỗi người 3000 quan để mua áo quần, đồ đạc) về Sài Gòn rồi sau đó được đưa vào chiến khu. Tàu đi đến Singapore thì nghe được tin “toàn quốc kháng chiến”. Gồm có:

-Hoàng Xuân Nhị – cháu của cụ Hoàng Xuân Hãn – Sorbonne (tốt nghiệp cử nhân văn chương Pháp) – giỏi ngoại ngữ, đã dịch Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc… và in ở Paris (cũng như dịch, in Gorky, Mayacovskiy sang tiếng Pháp)! Sau này làm ủy viên phụ trách giáo dục & văn hóa trong Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Sau 1954 làm Chủ nhiệm khoa ngữ văn ở trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.

-Nguyễn Ngọc Nhật – tốt nghiệp Trường Trung tâm Cơ khí Paris, về cùng người vợ đầm. Sau này làm ủy viên phụ trách tôn giáo, mặt trận (bố là lãnh tụ Cao Đài ở Bến Tre, đã tặng hết tài sản cho kháng chiến). Nguyễn Ngọc Nhật chết trong tù tại Sài Gòn, người vợ sau đó quay lại Pháp. (Ông đã chết rất anh dũng, tôi đã có riêng một status về ông!)

-Trần Văn Du – bác sỹ thú y (tốt nghiệp trường Alfort-trường dược và thú y lớn nhất của Pháp – như kiểu Viện Pasteur ở nhà mình). Trong chiến khu ông làm giám đốc một quân y viện của Nguyễn Bình, bị Tây nhảy dù, bắt về Sài Gòn, bị bắt buộc làm việc cho Tây nhưng ông kiên quyết không chịu. Tuy vậy Tây phục tài ông nên cũng không làm khó dễ nhiều, cho ra ngoài làm riêng. Mới mất cách đây mấy năm, trước khi mất ông đã di chúc tặng lại Thành phố HCM cả một cơ sở thực nghiệm và chế biến vắc xin của mình! Ông lấy con gái của ông Thái Văn Toản – thủ tướng thời Khải Định – Bảo Đại, bà là công dân Mỹ nên có thể vì thế Tây phải nể nang mấy phần…

-Nguyễn Văn Thoại – bác sỹ dinh dưỡng, tiến sỹ sinh hóa, có thời gian giúp đỡ cho Bửu Hội (Bửu Hội là nhà bác học Việt Nam có nhiều nghiên cứu về ung thư, có thể nói là nhà bác học Việt Nam nổi tiếng nhất thời đó tại Pháp)-xin về để nghiên cứu về hoạt động của anh em trí thức ở chiến khu như thế nào. Về Nam, ông có đi thực tế một thời gian, nhưng sức khỏe yếu nên xin về. Muốn được đi cùng đoàn từ chiến khu miền Nam đi ra tận miền Bắc, vì theo lời đồn (có thể là ý kiến của ông Bửu Hội) trên đường Trường Sơn có một loại cây rất quý để chữa ung thư, nhưng sức yếu nên không đi được. Sau này quay lại Pháp sống và làm việc, sau 1975 ông thỉnh thoảng về Hà Nội chơi, và có kể là đã có người tìm ra loại cây quý kia, ông đã có mẫu vật trong tay, ở bên Pháp đang tiếp tục nghiên cứu. Kết quả chưa thấy được công bố…

-Nguyễn Hy Hiền – Đại học Cầu đường Quốc gia Paris, về chiến khu đổi tên thành Lê Tâm, nhận chức đại tá quân đội. Kỹ sư quân giới dưới quyền của tường Nguyễn Bình, tác giả súng không giật SS chế tạo tại rừng Sác. Sau khi tập kết ra Bắc ông chuyển sang ngành giáo dục đào tạo, rồi sau đó sang quản lý khoa học – kỹ thuật, và như một cơ duyên, ở nhiều cương vị ông đã song hành cùng người anh cùng trường đại học Cầu đường Paris, người thủ trưởng trực tiếp ở nhiều cơ quan là Trần Đại Nghĩa: Cục Quân giới, trường đại học Bách Khoa Hà Nội, Ủy ban Khoa học nhà nước, Báo Khoa học thường thức…

-Lê Văn Võ: tốt nghiệp khoa hóa ở cao đẳng Grenoble (giống Võ Quý Huân). Sau này về Ban quân giới ở chiến khu Nam Bộ cùng Lê Tâm, phụ trách chế tạo thuốc súng. Sau khi tập kết ra Bắc làm kỹ sư trưởng của Nhà máy bia Hà Nội – trong vị ngon của bia Hà Nội ngày nay chắc cũng có đóng góp của ông.

Sau 2 đợt các trí thức về nước năm 1946 thì vẫn có lác đác những trí thức hàng đầu thu xếp xong công việc riêng để về, trong hoàn cảnh chiến sự ở nhà đang rất nóng bỏng. Không thể không nhắc tới 3 vị sau:

-Lê Văn Thiêm: cử nhân trường đại học Sư phạm Paris (khoa toán), sau đó làm luận án tiến sỹ và phải sang Đức để bảo vệ. 1948 ông bảo vệ luận án tiến sỹ quốc gia tại Pháp, rồi 1949 ông từ Pháp về Bangkok, rồi đi đường bộ thằng về chiến khu trong bưng biền không qua Sài Gòn, sau đó lại quay lại Bangkok đi Bắc Kinh, từ Bắc Kinh quay về Nam Ninh để cùng phụ trách giáo dục cho trường Khu Học Xá là nơi sơ tán và đào tạo con em cán bộ cách mạng miền Bắc qua (cùng các ông Võ Thuần Nho, Nguyễn Xiển). Sau hòa bình ông là viện trưởng Viện Toán đầu tiên, và có công lớn sáng lập ra những trường đại học đầu tiên của miền Bắc.

-Trần Đức Thảo: cử nhân và thạc sỹ của trường đại học Sư phạm Paris (khoa triết). Ông được chính chủ tịch Hồ Chí Minh mời về nước từ đợt 1946, nhưng ông xin hoãn lại để hoàn thiện luận án tiến sỹ, đồng thời nghiên cứu chuyên sâu về chủ nghĩa Marx-Lê, rồi 1952 mới về. Về số phận vinh quang và cay đắng của ông đã có rất nhiều bài viết… Hãy nhớ, Thảo là nhà triết học đúng nghĩa duy nhất mà Việt Nam ta đã từng có!

-Phạm Huy Thông: nói về các trí thức từ Paris về, không thể bỏ qua ông. Ông sang Pháp năm 1937 để học trên đại học, con người rất tài hoa, nhà thơ mới (ví dụ tác phẩm “Tiếng địch sông Ô”), đã trở thành luật sư từ năm 21 tuổi. Sang Pháp, chắc là về học hàm học vị trong số người Việt không ai nhiều như ông. Là người có uy tín và tích cực bậc nhất tại Hội Ái hữu, năm 1946 ông cùng Hội Ái hữu được cụ Hồ chọn làm những người trợ giúp cho đoàn đi dự hội nghị Fontainebleau, và ông đã quyết định chọn cho mình con đường đấu tranh như con đường của cụ Hồ. Tuy vậy vì lấy vợ đầm nên ông chưa về ngay được, ông chọn con đường đấu tranh vì độc lập ngay trên đất Pháp. Rất có tài tổ chức, ông phụ trách Việt kiều hải ngoại (bây giờ mới có từ Việt kiều), làm giới chức Pháp khá đau đầu, chúng trục xuất ông về Sài Gòn năm 1952, vợ và con cũng theo ông về Việt Nam. Ông tham gia đấu tranh cùng với Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát… rồi bị địch bắt. Cũng như bà Nguyễn Thị Bình, ông Nguyễn Hữu Thọ… ông đã được trao đổi tù binh và ra miền Bắc năm 1955. Sau này người ta nhớ nhất về ông là Hiệu trưởng Sư phạm Hà Nội và Viện trưởng Viện Khảo cổ, tuy nhiên tài tổ chức và uy tín của ông có lẽ chưa được tận dụng hết!

Ngoài các vị kể trên thì cũng rất nên nhắc tới 2 trí thức từ Pháp về khác:

-Nguyễn Như Kim: “tri thức Việt kiều bất đắc dĩ”. Học trong nước, khi từ chiến khu Việt Bắc được giao mang 18kg vàng sang Thái Lan để mua khí tài cho miền Bắc và chở về bằng tàu biển, ông bị Pháp bắt cho vào tù, và khi thấy ông là tri thức, Pháp đưa cho ông 2 lựa chọn: hoặc bị xử (chắc chết) hoặc “phải” sang Pháp học, và tất nhiên ông phải chọn phương án 2 (chứ không phải như người ta hay viết, trong tù nhưng vẫn “xin ý kiến tổ chức” và “tương kế tựu kế, sang Pháp trau dồi kiến thức và chờ lệnh” – cuộc sống nhiều khi có những lý lẽ khác với người đời tô vẽ!). Ông học về điện và vô tuyến điện (có thể nói ông là người đầu tiên được học bài bản về điện tử chân không thời đó). Quả là lòng yêu nước vẫn không nguôi ngoai trong ông, nên sau 1954 khi được ông Tạ Quang Bửu gửi lời mời, ông đã thu xếp để đưa cả vợ con về nước. Ông làm chủ nhiệm khoa Cơ-Điện đầu tiên tại ĐH Bách Khoa Hà Nội (sau là khoa Điện-Điện tử) và sau là viện trưởng Viện Thông tin…

-Lê Bảo: học trường Hàng hải tại cảng quân sự Toulon (cũng là một trường rất nổi danh ở Pháp) – có thể nói là người được đào tạo bài bản nhất về đóng tàu. Sau 1954 ông đã về miền Bắc và khi đó khoa Cơ-Điện của ĐH Bách khoa được tách ra, ông làm chủ nhiệm khoa Cơ khí, tuy vậy sau này ông chưacó dịp áp dụng kiến thức về bộ môn đóng tàu…

Nhìn lại tiểu sử tóm tắt của các tri thức quay về từ Pháp, ta có thể thấy mấy điểm chung sau:

-họ là những NGƯỜI YÊU NƯỚC, họ tự nguyện về nước, biết trước sẽ vô cùng gian khổ, xuất phát từ ý nguyện “đáp lời sông núi”, đa số chỉ trở thành đảng viên sau này.

-không có ai trở thành cán bộ lãnh đạo ở những cương vị chủ chốt cao nhất, tuy vậy tất cả họ đều đã áp dụng vốn kiến thức được học bên Pháp trên mọi cương vị. Đất nước chưa tận dụng hết khả năng của họ (cũng như chưa thu hút được hết trí thức giỏi khác từ Pháp về), khá đáng tiếc!

-6 người trong số họ được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 về thành tựu khoa học-kỹ thuật: Lê Văn Thiêm,Trần Đại Nghĩa, Lê Tâm, Trần Đức Thảo, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước.

-là những tri thức thự thụ, họ đã sống hết mình và không có kẻ nào luồn cúi cầu vinh, cầu lợi. Họ xứng đáng là tấm gương cho các thế hệ sau noi theo!

P.S.
Căn nhà của Hội Ái hữu – đ/c 11 Rue Jean de Bauvais, quận 5 Paris – được các hội viên góp tiền mua lại năm 1942. Người đóng góp nhiều nhất – 40% giá tiền mua – là Lâm Ngọc Huấn – một người Tàu Chợ Lớn, sang Paris chả học gì, chủ yếu ăn chơi thôi, tuy vậy rất ủng hộ Việt Minh và cụ Hồ (sau này về miền Nam làm Sở Mật vụ thì phải?!), và anh Tuyên, con một địa chủ miền Nam, học hội họa tại London. Bây giờ vẫn là trụ sở của Hội Việt kiều yêu nước tại Paris.

Chưa từng có cuộc gặp lại nào có tương đối đầy đủ những tri thức từ Pháp về.

Các nhân vật của status này đại đa số đã thành người thiên cổ, theo tác giả thì hiện nay chỉ còn 2 cụ đều đã ngoài 90: Lê Tâm (tức Nguyễn Hy Hiền), Lê Bảo (cả hai đều ở Hà Nội).

Chắc bài viết mang tính chủ quan, còn có nhiều sai sót, xin bạn đọc lượng thứ và góp ý thêm!

Nguồn: @Nam Nguyen.
https://m.facebook.com/photo.php?fbid=815184748543464&id=100001558398112&set=a.445137485548194

Qua đời vì ung thư, cô gái 27 tuổi người Úc để lại tâm thư gây bão MXH

Qua đời vì ung thư, cô gái 27 tuổi người Úc để lại tâm thư gây bão MXH

 “Hãy tận hưởng và sống trong khoảnh khắc đẹp thay vì mải mê ghi lại mọi thứ qua màn hình điện thoại. Cuộc sống không phải để sống qua màn hình, cũng không phải để có được bức ảnh đẹp một cách hoàn hảo.”

Holly Butcher, 27 tuổi, đến từ Grafton, New South Wales, Australia mới qua đời vào ngày 4/1 vì căn bệnh ung thư xương. Ở độ tuổi đấy, con người ta bắt đầu mơ ước đến một cuộc sống ổn định cùng với gia đình nhỏ. Nhưng với Holly, còn một khoảng cách rất xa mà có lẽ không bao giờ có thể với tới ước mơ ấy được.

Trước khi qua đời vì căn bệnh ung thư quái ác, Holly Butcher đã viết một lá thư ngỏ để gửi tới tất cả mọi người trong cuộc sống này, để nói về cách sống mãn nguyện mỗi ngày của chính mình khi cô đang trên chặng hành trình cuối cùng đi tới kết thúc. Lá thư đã được gia đình cô gái chia sẻ trên mạng xã hội chỉ vài giờ sau khi cô trút hơi thở cuối cùng.

Cô từng là người đại diện cho bang đi thi đấu bóng quần và khúc côn cầu. Tuy nhiên, trong thời gian chiến đấu với bệnh tật, cô nhận thấy cơ thể mình ngày càng yếu ớt và không thể điều khiển cơ thể như trước được nữa. Bức thư được đăng tải lên tài khoản Facebook của Holly Butcher ngay lập tức đã thu hút sự chú ý của đông đảo cư dân mạng với 64.000 lượt thích, 56.000 lượt chia sẻ và rất nhiều bình luận, những con số vẫn đang tăng lên theo từng giờ.

“Thật sững sờ khi bạn nhận ra và buộc mình phải chấp nhận cái ch.ế.t khi bạn mới chỉ 26 tuổi. Đó là điều tôi chưa bao giờ dám nghĩ tới. Từng ngày trôi qua và tôi hi vọng cuộc sống sẽ vẫn tiếp diễn, cho tới khi điều không mong muốn đã xảy ra.

Tôi đã luôn hình dung trong đầu xem mình già đi thì sẽ thế nào, có nếp nhăn này, tóc bạc đi này, tôi sẽ lo toan vất vả vì gia đình với những đứa con, một gia đình mà tôi sẽ gây dựng với người đàn ông của cuộc đời mình. Tôi đã khát khao những điều ấy rất nhiều và giờ đây, mọi sự càng trở nên khó khăn.

Đó chính là cuộc sống. Cuộc sống mong manh, quý giá và khó đoán. Mỗi ngày được sống là một món quà, mà đôi khi chúng ta quên mất phải trân trọng.

Giờ tôi 27 tuổi. Tôi không hề muốn phải ra đi. Tôi yêu cuộc sống của mình. Tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi có nhiều thứ muốn làm cho những người tôi yêu thương. Nhưng đến bây giờ, những điều đó đều nằm ngoài tầm kiểm soát của tôi.

Chợ Úc – Việc Làm Nhà Ở Tại Úc

Tôi không viết lá thư này để mọi người cảm thấy ghê sợ cái ch.ế.t, tôi thích ý nghĩ rằng ch.ế.t là điều không thể tránh khỏi, dù chúng ta thường cố tình không chấp nhận sự thật. Tôi muốn nói về cái ch.ế.t, dù đó là một việc không dễ. Tôi muốn những ai còn được sống khỏe mạnh trong cuộc đời này hãy thôi lo lắng về những điều nhỏ nhặt, vô nghĩa trong cuộc sống.

Đừng quên rằng mỗi chúng ta, ai rồi cũng đều có chung một kết cục, vì thế hãy làm những gì có thể để thời gian của bạn trở nên đáng giá, dù những điều điên rồ, ngớ ngẩn thỉnh thoảng vẫn xảy ra.

Tôi có rất nhiều thời gian để suy nghĩ về cuộc đời trong những ngày tháng cuối cùng này. Có khi giữa đêm khuya, những suy nghĩ mông lung lại xuất hiện trong đầu tôi.

Tôi nhớ lại những khi mình buồn rầu vì những điều mà giờ đây tôi cảm thấy chúng thật hài hước. Vậy nên, những khi bạn như vậy, hãy nghĩ về những người đang thực sự phải đối diện với những vấn đề trầm trọng.

Hãy biết ơn vì bạn chỉ gặp phải những vấn đề nhỏ nhặt và rồi bạn cũng sẽ vượt qua thôi. Những điều bực mình vẫn sẽ xảy ra nhưng xin bạn đừng quá để tâm, đừng cho phép những điều đó khiến bạn gây ảnh hưởng tiêu cực tới những người xung quanh.

Khi đã hiểu ra rồi, hãy bước ra ngoài, hít thở thật sâu, nhìn ngắm bầu trời và những cái cây, bạn sẽ thấy mọi thứ thật đẹp đẽ. Rồi bạn sẽ hiểu ra rằng bản thân may mắn thế này khi vẫn còn làm được một điều thật đơn giản như thế – hít thở.

Bạn có thể bị kẹt xe, có thể bị thiếu ngủ vì chăm con, người thợ cắt tóc bạn ngắn hơn yêu cầu, móng tay vừa sơn đã bị xước, vòng 1 quá nhỏ, da bạn bị rạn, bụng hơi to… Hãy mặc kệ những chuyện nhỏ ấy đi.

Tôi thề rằng bạn sẽ thấy những chuyện đó quá bé nhỏ nếu cuộc sống của bạn bất ngờ gặp biến cố lớn. Những chuyện đó chẳng nhằm nhò gì khi bạn nhìn cuộc sống một cách thoáng hơn.

Tôi đã phải chứng kiến cơ thể mình suy kiệt dần mà không thể làm gì được, tất cả những gì tôi mong muốn chỉ là có thể trải qua thêm một sinh nhật và một Giáng sinh nữa ở bên gia đình, và rồi tôi lại muốn sống thêm một ngày nữa để dành thời gian bên người yêu và chú cún cưng. Tôi chỉ cần thêm một ngày nữa mà thôi.

Tôi nghe người ta hay than phiền về công việc quá chán chường, về việc không có động lực tập thể dục, nhưng họ quên mất phải biết ơn vì cơ thể của họ có đủ khả năng để làm tất cả những điều đó. Lao động, luyện tập mỗi ngày nghe có vẻ là điều quá bình thường, cho tới khi cơ thể của bạn không còn cho phép bạn làm được những điều đó nữa.

Hãy trân trọng sức khỏe và cơ thể của bạn, cho dù đó không phải là vóc dáng lý tưởng bạn mơ ước. Hãy chăm sóc cơ thể, hãy vận động, nuôi dưỡng nó thật tốt, đừng ám ảnh tiêu cực về cơ thể mình.

Có sức khỏe tốt quan trọng hơn là có cơ thể đẹp. Ngoài ra, hãy cố gắng tìm ra niềm vui dành cho tinh thần mình. Bằng cách đó, bạn sẽ nhận ra rằng những điều hoàn hảo được thể hiện trên mạng xã hội, vốn luôn khiến bạn bất an khi đem ra so sánh với bản thân mình, chỉ là chuyện rất nhỏ.

Bất cứ tài khoản mạng xã hội nào khiến bạn cảm thấy bất an về bản thân, hãy ẩn tài khoản đó đi. Bạn cần phải mạnh mẽ bảo vệ những cảm nhận tích cực của bạn về chính mình.

Hãy biết trân trọng những ngày bạn khỏe mạnh, và ngay cả những ngày bạn không khỏe vì bị cúm, đau lưng, chệch mắt cá chân… Cũng hãy biết ơn vì đó không phải những bệnh tình trầm trọng và rồi nó sẽ biến mất thôi. Hãy than thở ít hơn nhé, hãy giúp nhau nhiều hơn nữa.

Hãy cho đi, thực sự bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc khi giúp đỡ người khác. Tôi ước gì mình đã giúp đỡ những người xung quanh nhiều hơn nữa. Kể từ khi bị bệnh, tôi đã gặp được rất nhiều người tử tế, nhân hậu, sẵn sàng giúp đỡ tôi, thậm chí có cả những người xa lạ tôi không biết; có lẽ tôi sẽ chẳng bao giờ đền đáp lại được những tấm lòng bao dung ấy. Tôi sẽ không bao giờ quên và sẽ luôn biết ơn những người đó.

Khi bạn sắp ra đi, bạn sẽ không nghĩ tới việc đi ra ngoài mua sắm như bạn vẫn thường làm lúc còn khỏe mạnh. Lúc này, bạn nhận thấy mình thật ngốc nghếch khi đã tiêu quá nhiều tiền vào mua sắm.

Hãy mua quà tặng cho những người thân yêu thay vì chỉ chăm chăm nghĩ xem mình nên mua gì. Thứ nhất, chẳng ai quan tâm nếu bạn mặc một chiếc váy hai lần đâu. Thứ hai, bạn chắc chắn sẽ thấy rất vui nếu mời mọi người đi ăn nhà hàng, đi uống cà phê hoặc dành thời gian nấu nướng ở nhà.

Hãy biết trân trọng thời gian của mọi người. Đừng bắt họ phải chờ đợi mình, hãy luôn đúng giờ. Hãy trân trọng khi bạn bè muốn dành thời gian bên bạn.

Năm nay, gia đình tôi đón một Giáng sinh mà không có quà đặt dưới gốc cây thông, nhưng ai ai cũng cảm thấy hài lòng vì không phải chịu áp lực đi mua sắm trong dịp cuối năm bận rộn này. Chúng tôi dành thời gian để viết những tấm thiệp với những dòng thật chân thành để trao cho nhau. Chúng tôi đã thẳng thắn nhìn nhận rằng mua quà cho tôi lúc này không còn nhiều ý nghĩa.

Thật lạ lùng! Nghe có vẻ buồn, nhưng những tấm thiệp đem lại cho tôi nhiều cảm xúc hơn những món quà tôi từng nhận được.

Hãy sử dụng tiền của bạn vào những trải nghiệm ý nghĩa, hay ít nhất cũng đừng bỏ lỡ những trải nghiệm chỉ vì bạn đã tiêu hết tiền vào mua sắm.

Hãy đắm chìm mình vào thiên nhiên. Hãy tận hưởng và sống trong khoảnh khắc đẹp thay vì mải mê ghi lại mọi thứ qua màn hình điện thoại. Cuộc sống không phải để sống qua màn hình, cũng không phải để có được bức ảnh đẹp một cách hoàn hảo. Hãy tận hưởng thực sự khoảnh khắc đáng nhớ! Đừng cố gắng ghi lại khoảnh khắc để khoe với người khác.

Đôi khi hãy thức dậy sớm để nhìn ngắm thế giới xung quanh. Hãy nghe nhạc, thực sự lắng nghe. Âm nhạc là một liều thuốc tốt. Những bài hát cũ luôn là những bài hát hay nhất.

Hãy ôm lấy chú cúng cưng của bạn. Nói thật, nếu phải đi xa, tôi sẽ nhớ nó lắm.

Hãy trò chuyện với bạn bè, hãy hỏi xem dạo này họ thế nào, đừng chỉ nhớ nhau qua điện thoại.

Hãy đi du lịch nếu đó là đam mê của bạn, còn nếu không phải điều bạn muốn thì không cần phải đi.

Hãy làm việc để sống, đừng sống chỉ để làm việc.

Hãy làm những gì bạn cảm thấy hạnh phúc.

Hãy ăn những gì bạn thích, chẳng việc gì phải từ chối chỉ vì sợ béo.

Hãy mạnh dạn nói “không” với những điều bạn không muốn làm.

Đừng cố sống cuộc đời mà những người khác cho rằng thế mới là hoàn hảo. Có thể bạn chỉ muốn sống một cách bình lặng và như thế mới là ổn nhất cho bạn.

Hãy nói với những người bạn yêu thương rằng bạn yêu họ mỗi khi có cơ hội, và hãy yêu thương họ bằng tất cả những gì bạn có.

Cũng phải nhớ rằng nếu có ai hay điều gì khiến bạn cảm thấy khổ sở, thì bạn hoàn toàn có sức mạnh để thay đổi, dù là trong công việc, tình yêu hay bất cứ điều gì khác. Hãy mạnh mẽ thay đổi. Bạn không biết chắc chắn mình có bao nhiêu thời gian sống trên đời này, vì vậy, đừng lãng phí thời gian vì buồn khổ. Điều này nghe có vẻ sáo rỗng nhưng nó đúng đấy.

Một điều cuối cùng, nếu bạn có thể hãy làm việc tốt cho nhân loại và bản thân mình bằng cách hiến máu thường xuyên. Việc làm này khiến cho bản thân cảm thấy tuyệt vời khi cứu được những sinh mạng khác. Người hiến máu đã giúp tôi sống thêm một năm nữa – một năm mà tôi sẽ mãi mãi biết ơn. Bởi vì tôi được sống trên đời cùng gia đình, bạn bè. Một năm mà tôi đã có những thời gian tuyệt vời nhất trong đời.

Tạm biệt!

Holly.”

 From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang 

Phim Silent Night…

 Phim Silent Night…

 Phim có nội dung từ một Câu chuyện có thật trong đêm Giáng Sinh 1944

 Elisabeth Vincken, một phụ nữ Đức vì trốn tránh chiến tranh nên đưa con trai 12 tuổi của mình tên là Frisbey lánh xa trong rừng thẳm trong một căn nhà gỗ. Tuy rằng xa xa vẫn nghe được tiếng súng vọng lại, nhưng một nơi hoang vắng thế này, nghe chừng như an toàn. 

Đêm Noel, hai mẹ con mong đợi ông bố đang làm việc trên thị trấn quay về đây đoàn tụ ăn bữa cơm Noel. Elisabeth có nuôi được một con gà béo đặt cho nó cùng tên với viên phó tướng của Hitler là Hermann Göring. Cô mong muốn đợi chồng về sẽ thịt con gà trống này để cả nhà thưởng thức. 

Hôm ấy, tuyết phủ dầy đặc, che lấp đi tất cả mọi nẻo đường trên núi, hy vọng người bố trở về thực sự là mỏng manh. 

Đột nhiên có tiếng gõ cửa, cậu bé Frisbey tưởng rằng bố đã về chạy ra mở cửa, nhưng mẹ cậu ngăn cậu lại, thổi tắt nến và tự mình ra mở cửa, hai người lính đội mũ sắt xuất hiện trước cửa, một người nữa bị thương nằm lê trên tuyết, máu rỉ nhuộm đỏ một vùng. Họ dùng tiếng Anh để giải thích cho cô điều gì nhưng cô không hiểu, trong tiềm thức cô đã biết rằng đây là quân địch, sự nguy hiểm rất có thể xẩy ra. Đây chính là ba người lính Mỹ thuộc sư đoàn 8 binh đoàn 121 bộ binh do bão tuyết nên đã lạc đến đây, họ bị lạc trong rừng đã ba ngày, mệt mỏi, đói rét và nhiều vết thương đang dằn vặt họ.Người nằm trên tuyết bị thương ở đùi, mất rất nhiều máu, cái chết như đang  rình rập với anh. Họ mang trên mình súng đạn, có thể ập vào nhà cưỡng chiếm, nhưng họ vẫn lịch sự, gõ cửa và xin phép chủ nhân cho vào. 

Elisabeth dựa vào cửa nghe những lời năn nỉ mà cô không nghe rõ nhưng cô hiểu được họ muốn gì và giang tay mời họ vào. Cô để người lính bị thương nằm lên giường mình, xé khăn trải giường băng bó vết thương cho anh, gọi con trai đi giết gà và gọt khoai tây để chuẩn bị đồ ăn tối của đêm Noel. 

Chẳng mấy chốc, căn nhà nhỏ đã thơm lừng mùi gà nướng, và rồi Elisabeth phát hiện một người trong họ nói được tiếng Pháp, cô và họ bắt đầu giao lưu và không khí căng thẳng dần dần tan đi. 

Chốc lát, lại có tiếng gõ cửa, cậu bé cho rằng có lẽ lại có thêm quân Mỹ bị lạc, chạy ra mở cửa thì phát hiện bốn lính Đức đứng ở cửa. Frisbey đứng ngây người, bởi cậu ta đã được dậy dỗ quy định của Đức quốc xã nếu như nuôi giữ kẻ địch trong nhà sẽ bị giết không tha thứ. Lúc ấy Elisabeth bước ra niềm nở chào các lính Đức bằng câu : “Merry Christmas”, rồi nghe viên hạ sĩ giải thích nhóm người bị lạc trong rừng, muốn ngủ nhờ một đêm. Elisabeth tươi cười mời họ vào và nói:” Mời các anh vào nhà cho ấm và cũng mời các anh chung vui bữa tối Noel an lành với chúng tôi. Nhưng gia đình chúng tôi còn có một số vị khách khác, họ không phải bạn của các anh nhưng rất mong sự dung nạp của các anh với họ.”, sĩ quan Đức lập tức cảnh giác hỏi:” Trong đấy là ai? có phải quân Mỹ?” , Elisabeth trả lời phải và nói tiếp:” Đêm nay là đêm bình an, không ai được hành sự ở đây, xin các vị bỏ vũ khí ngoài cửa cho”, quân Đức nhìn chằm chặp vào Elisabeth, cuối cùng cũng bỏ súng ngoài cửa rồi mới bước vào căn nhà gỗ.

 Lập tức, không khí trong căn nhà căng thẳng hẳn, một lính Mỹ đã nhanh tay rút súng chuẩn bị bắn vào quân Đức, nhưng Elisabeth đã lớn tiếng chặn lại, cô dùng tiếng Pháp lặp lại câu vừa nói ngoài cửa với lính Đức:” Đêm nay là đêm bình an, không ai được hành sự ở đây, đưa súng cho tôi.”, sau đó cô sắp xếp cho hai bên binh lính ngồi xen kẽ quanh bàn ăn, do nhà hẹp nên họ ngồi sát vào nhau, vai chạm vai, còn Elisabeth thì tươi cười đi chuẩn bị đồ ăn.

Đồ ăn trong bếp tỏa hương thơm lừng, cô vừa làm việc vừa nhiệt tình nói chuyện vui vẻ, không khí căng thẳng tan đi. Sau đó, lính Mỹ moi thuốc lá ra mời lính Đức, lính Đức lấy chai rượu vang và bánh mì ra góp vui. Một lính Đức lấy dụng cụ cấp cứu của mình ra để băng bó lại vết thương cho người lính Mỹ bị thương, anh ta là quân y, biết tiếng Anh, giải thích cho lính Mỹ biết vết thương bởi gặp trời lạnh, chưa bị nhiễm trùng, chỉ có mất máu quá nhiều, nghỉ ngơi vài ngày sẽ khỏi. Sự nghi kỵ đề phòng lúc này hầu như đều đã tiêu tan. 

Đồ ăn được bầy ra, Elisabeth chắp tay cầu nguyện trước khi ăn, mắt cô rớm lệ và thành khẩn nói khẽ:” Cảm ơn ân điển của Chúa, ban cho chúng con niềm vui trong sự khủng khiếp của chiến tranh, được đoàn tụ một cách hòa bình trong căn nhà này. Trong đêm Noel an lành, chúng con xin thề rằng sẽ không phân biệt thù địch, hữu ái bên nhau, cùng nhau chia sẻ bữa cơm Noel đậm đà tình nghĩa này. Chúng con nguyện cầu cho chiến tranh mau kết thúc để mọi người bình yên trở về quê nhà.”, lời nguyện vừa hết, khuôn mặt các binh lính đã tràn trề nước mắt. Mọi người bị xúc động với những lời cầu nguyện của Elisabeth, trong khoảnh khắc, mọi thù hận, căm ghét mà trên chiến tuyến dồn lại bỗng chốc tiêu tan thành mây khói, trong thâm tâm họ chỉ nghĩ đến gia đình, quê hương và người thân, một sự khát khao hoà bình trào dâng. 

Sau bữa ăn, họ cùng nhau bước ra khỏi căn nhà gỗ, lúc đó, bão tuyết đã ngưng, bầu trời đêm lấp lánh ánh sao, mọi người không ai bảo ai, cùng nhau ngẩng mặt tìm kiếm ngôi sao Bethlehem ( Star of Bethlehem).

 (Đêm Giáng Sinh cũng làm chúng ta nhớ đến câu chuyện Ba Vua (Three Kings hay Magi) đến từ phương Đông, họ đã tìm ra nơi Chúa sinh ra đời để chiêm bái nhờ hướng theo ánh sao rực sáng trên hang đá ở Bethlehem. Ngôi sao sáng được gọi là Ngôi Sao Bethlehem (Star of Bethlehem) vì không ai biết ngôi sao ấy tên gì. Có nhiều giả thuyết về sự xuất hiện của ngôi sao ấy. Có thể đó là biểu hiện huyền bí hay là một phép lạ đánh dấu sự ra đời của Chúa Jesus. ) 

Sau đó, 7 người lính đã từng là thù địch giết chóc nhau trên chiến trường lại cùng nhau ngủ chung dưới một mái nhà, họ trải qua một đêm bình an ấm áp, yên lành, đầy kịch tính… 

Sáng hôm sau, Elisabeth nấu đồ ăn sáng cho mọi người rồi hai bên chia tay nhau lên đường, sĩ quan Đức căn dặn hướng trận địa của quân Đức để ba người lính Mỹ khỏi đi nhầm đến đấy, họ còn làm một cái cáng để cho người lính Mỹ bị thương nằm. Hai bên đều lưu luyến bắt tay từ biệt Elisabeth và cậu con trai Frisbey rồi ra đi ở hai hướng khác nhau. 

Câu chuyện chưa kết thúc, 14 năm sau, 1958, cậu bé Frisbey đã 26 tuổi, anh đã kết hôn và di dân sang Mỹ. Anh cư trú tại Hawaii và mở một tiệm bánh Pizza. Sau đó, anh có viết lại câu chuyện này và gửi cho nhà xuất bản “Reader’s Digest”, bởi đã nhiều năm nay, Frisbey ao ước được gặp lại những người trong cuộc buổi tối hôm ấy. 

Năm 1995, đài truyền hình Mỹ tiết mục ” unsolved mysteries” đã đem câu chuyện này quay thành phim và chiếu trên kênh tivi, không bao lâu, một nhân viên dưỡng lão viện ở thị trấn vùng Maryland gọi điện thoại cho người phụ trách tiết mục, nói rằng ở nơi đây có một người lính già hay kể cùng một câu chuyện như vậy. 

Người lính đó là một trong ba người lính Mỹ đêm hôm đó, ông tên là Ralph. Rất nhanh, họ bố trí cho hai người gặp mặt, xa cách sau 50 năm, Frisbey và Ralph lại gặp nhau, hai người ôm nhau cảm động đến khóc. Ralph nức nở:” Mẹ cậu đã cứu sống chúng tôi”, sau đấy Frisbey lại tìm được thêm một người lính Mỹ, nhưng những lính Đức thì không tìm lại được. 

Năm 2002, Frisbey qua đời, cùng năm ấy, một hãng phim Hollywood có dựng lại câu chuyên này thành phim lấy tên là ” The Silent Night ” ( Đêm yên tĩnh ). 

Câu chuyện chỉ ra cho chúng ta thấy, Elísabeth chỉ là một phụ nữ người Đức bình thường, trong cuộc chiến tàn khốc, bà đã dũng cảm ngăn chặn giết chóc, giữ được sự tôn nghiêm của nhân tính. Hiển nhiên, dũng khí của bà, bắt nguồn từ tình yêu bác ái của Chúa GiêSu, và lòng trắc ẩn nhân đạo vốn có của loài người. Thiện tâm của bà, vượt lên trên sự thù địch, vượt trên cả chủng tộc, quốc gia, đánh thức nhân tính trong thâm tâm của hai phía thù địch. Chính bởi sự bất diệt của lòng nhân đạo là điều quí giá để bảo đảm nền hòa bình trên trái đất. 

Trong lúc chúng ta hân hoan đón mừng ngày lễ thiêng liêng này, hãy tĩnh tâm hồi ức ý nghĩa chân chính của Noel, lấy tinh thần cao đẹp của Chúa và tình yêu thương nhân bản, hóa giải hận thù, cầu nguyện cho thế giới hòa bình, không chiến tranh, không bạo loạn, không khủng bố, cùng nhau trải qua những đêm vui tươi và an lành.

https://www.youtube.com/watch?v=nEH7_2c644Q (Silent Night avec Paroles | chant de Noël)

Silent night, holy night!

All is calm, all is bright.

Round yon Virgin, Mother and Child.

Holy infant so tender and mild,

Sleep in heavenly peace,

Sleep in heavenly peace

 Silent night, holy night!

Shepherds quake at the sight.

Glories stream from heaven afar

Heavenly hosts sing Alleluia,

Christ the Savior is born!

Christ the Savior is born 

Silent night, holy night!

Son of God love’s pure light.

Radiant beams from Thy holy face

With dawn of redeeming grace,

Jesus Lord, at Thy birth

Jesus Lord, at Thy birth

 Fb Trương Văn Tân