Kẻ thù của người Tàu

Kẻ thù của người Tàu

Bá Dương

29-1-2019

Tác giả Bá Dương

Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Tàu, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Tàu, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy Lạp thời nay với người Hy Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai Cập cũng vậy. Nhưng người Tàu hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Tàu cổ đại.

Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo ngược, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược. 

Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dương thời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Tàu ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.
 
Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ đồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.
 
Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ? Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!
 
Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chói tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?.” Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Tàu nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Tàu nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Tàu nằm trong tay thế hệ các con đấy!
 
Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời? Đến đời nào thì mới thật khá lên được?
 
Tại Tàu đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, giầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú.
 
Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.
 
Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?
 
Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Tàu (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?
 
Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái.
 
Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:
 
“Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!”
 
Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử.” Lại nhìn về trẻ con ở Tàu lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?
 
Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình.” Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.
 
Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.
 
Lúc chết, Chúa Giê Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu.” Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Tàu sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.
 
Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Tàu có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì?  Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.
 
Tôi nghĩ người Tàu chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Tàu thoát khỏi khổ nạn?
 
Nguyên do vì sao?
 
Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Tàu có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.
 
Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!.” Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.
 
Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Tàu chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!
 
Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Tàu đến ở là những người khác phải dọn đi.
 
Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Paris sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Tàu). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”
 
Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.
 
Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Tàu thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: “Chúng tôi đang thì thầm với nhau.”
 
Tại sao tiếng nói người Tàu lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?
 
Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Tàu bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.
 
Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Tàu. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.
 
Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại, người Tàu không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Tàu mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.
 
Cho nên, có thể nói, mỗi người Tàu đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Tàu ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thi nơi không cần quan hệ với người khác thì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Tàu họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Tàu có biệt tài đấu đá lẫn nhau.
 
Chỗ nào có người Tàu là có đấu đá, người Tàu vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Tàu không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Tàu vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.
 
Người Tàu không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.
 
Ở Tàu có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống.” Người đông thì dùng để làm gì? Người Tàu trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.
 
Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học. Anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước.
 
Ngày hôm sau tôi bảo:
 
“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!” Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!” Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”
 
Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Tàu cắn xé nhau là một đặc tính nghiêm trọng.
 
Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Tàu tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Tàu với nhau. Bán rẻ người Tàu, hăm dọa người Tàu lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Malaysia có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Malaysia tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?” Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”
 
Cho nên kẻ thù của người Tàu lại là người Tàu.
 
Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Tàu với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Tàu và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù.” Điều này phải chia làm hai phần:
 
Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy ngàn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.
 
Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Tàu thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng Israel vẫn tổ chức bầu cử.
 
Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.
 
Tại Tàu chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco… Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở Israel cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Tàu thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”
 
Người Tàu không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Tàu ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.
 
Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi.” Có ai nghe thấy người Tàu nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Tàu nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.
 
Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.
 
Người Tàu không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che giấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy ngẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai?  Dĩ nhiên của đối phương.
 
Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!.” Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?
 
Người Tàu không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Tàu không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Tàu thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.
 
Họ liên miên khoa trương về dân Tàu, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Tàu, nào là có thể khuếch trương thế giới v.v… Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.
 
Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Tàu thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh: ND] thì người Tàu gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).
 
Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Tàu lại độc ác và hạ lưu đến thế?”
 
Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!.”
 
Còn người Tàu sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.
 
Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.
 
Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.
 
Tàu diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Tàu lại có một tâm địa thật hẹp hòi.
 
Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Tàu có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Tàu không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?
 
Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Tàu đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.
 
Mọi người Tàu đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”
 
Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Tàu và đã biến dân Tàu thành một dân tộc hèn mọn.
 
Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.
 
Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan ở Tàu không bao giờ bị tiêu diệt.
 
Trong truyền thống văn hóa Tàu, các vị có thể xem ở “Tư trị thông giám” (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Tàu mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế.
 
Nơi nào người Tàu đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Tàu trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được? Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật “thích xem” (người khác đau khổ), hoặc “chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác.”
 
Họ luôn mồm “nhân nghĩa” mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: “Phải tử tế với người và súc vật!” Trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.
 
Tóm lại, người Tàu đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?

Chuyện hai người mẹ và những đứa con – Ai là người dũng cảm?

Chuyện hai người mẹ và những đứa con – Ai là người dũng cảm?

29-1-2019

Báo chí vừa rồi đưa tin, có hai người mẹ nghèo tự tử vì hết đường sống. Nhưng mỗi người chọn cho mình một cách chết. Một người cho các con mình uống thuốc độc. Khi biết chắc các con chết rồi người mẹ uống thuốc độc chết theo con. Còn người mẹ kia chết đi để lại mấy đứa con, hy vọng tiền phúng điếu của bà con hàng xóm và tiền trợ cấp xã hội cho người nghèo sẽ giúp chúng có tiền sống, có tiền đi học.

Chuyện chỉ có vậy, bạn đọc đọc qua, có người hờ hững, có người chép miệng thương tâm. Chuyện thường ngày ở… báo mà. Tin tự tử của hai bà mẹ chìm trong hàng chục, hàng trăm tin giật gân xảy ra từng phút, từng giờ trong nước và trên thế giới.

Nhưng câu chuyện tự tử của hai người mẹ không dừng lại trên mấy dòng chữ vô tình trên trang báo. Họ tình cờ gặp nhau ở cõi bên kia.

Người mẹ chết đi để lại mấy đứa con, nhìn người mẹ với bốn đứa trẻ lau nhau từ ngạc nhiên tới sững sờ, kêu lên:

Sao lại thế này? Chị sực nhớ lúc còn trên kia có nghe chuyện mấy mẹ con nghèo tự tử chết cùng một lúc: Hóa ra là chuyện thật à?

Người mẹ có mấy đứa con cười như mếu. Vâng, cả mấy mẹ con tôi, chị trông chúng có kháu không?

Người mẹ kia vừa nghe xong như muốn nhảy bổ vào cấu xé người mẹ có mấy đứa con đang sợ sệt bu quanh mẹ.

Mày đúng là con thú ác nhất trong các loài thú. Mày không còn là con người, không bằng loài cầm thú.

Nhưng tôi có làm gì chị đâu. Người đàn bà ngạc nhiên.

Mày không làm gì tao. Nhưng mày đã giết mấy đứa con đứt ruột đẻ ra kia. Lẽ ra phải đưa mày xuống địa ngục ném vô vạc dầu hay cho chó ngao xé xác. Đi cô đi với tôi.

– Nhưng chị định đưa tôi đi đâu.

Tới gặp Diêm Vương ngài sẽ phán xử. Có ai nỡ đang tâm giết con như cô không. Có ném cô cho chó ngao chúng cũng không thèm đụng tới xác cô.

Người đàn bà kia chợt hiểu và nói trong nước mắt:

Chị tưởng tôi làm chuyện này dễ lắm à. Còn đau gấp vạn lần những nhát dao cắt vào da thịt mình. Chị không hiểu được hoàn cảnh của tôi.

Không có bất kỳ hoàn cảnh nào bắt các cháu bé kia chết theo mình. Đến loài cầm thú còn biết thương con. Cô không bằng loài cầm thú.

Vâng, chị cứ chửi cho sướng miệng. Giá chị lâm vào hoàn cảnh tôi.

Thế cô tưởng tôi sướng lắm hả. Tôi cũng lâm vào tình cảnh chắc không khác cô, cũng tới bước đường cùng, không còn cách nào sống nổi, chỉ còn mỗi cách chết đi. Nhưng tôi khác với cô, tôi đi một mình, tôi không giết các con tôi, chúng nó chẳng có tội tình gì. Cũng mấy đưa lau nhau như mấy cháu này. Tôi đứt từng khúc ruột ra đi. Tưởng không có nỗi đau nào đau hơn. Khi phải xa lìa con cái còn thơ dại.

Thế chị đi rồi chúng nó sống bằng gì?

Tiền phúng điếu của bà con, tiền trợ cấp xã hội.

Thế mà em tưởng chị có phép tiên hay ít ra có sự hỗ trợ bên nội, bên ngoại.

Tôi đã bảo không có gì sất.

Thế còn bố các cháu, anh ấy?

Ma men nó tha đi lúc lũ nhỏ còn bé xíu.

Thế chị có bảo đảm những thứ chị nói đó giữ nổi chúng nó trong nhà được bao lâu, hay hết tiền hết gạo lại chẳng lóc nhóc kéo nhau ra đường, đi bụi đời, nhỏ thì trộm cắp lớn lên thành bọn đâm thuê chém mướn. Nhẹ thì vào tù ra tội, nặng thì dựa cột. Vừa khổ cho mình vừa là nỗi khổ cho xã hội. Đấy, chị có dám nói chắc cách của chị là hay, là đúng, khôn ngoan hơn không rồi hãy mắng nhiếc tôi cũng còn kịp.

Không để cho đối phương kịp suy nghĩ, người đàn bà kia nói luôn một hồi:

Chị bảo tiền phúng điếu của bà con được mấy đồng, toàn bà con cảnh nghèo cả. Còn tiền trợ cấp xã hội, chị tin à? May lắm chỉ được vài tháng đầu, làm gì người ta chẳng xà xẻo vô đó. Tiền tử tuất của người chết họ còn chẳng tha. Bây giờ mới xuống đây, hãy còn sớm. Độ vài ba tháng, một năm nữa chị lên thăm, sẽ tận mắt chứng kiến bọn trẻ ra sao. Chắc lúc đó chỉ đứng xa mà nhìn không nhận ra con mình nữa. Lúc đó ân hận thì quá muộn rồi.

Thấy người đàn bà kia dường như gục xuống không còn sức để nghe nữa, chị dừng lại, cảm thấy mình có lỗi đã quá lời.

Sau đó hai bà mẹ đáng thương ôm nhau khóc.

Cả hai cái chết, cách chết đều vô lý và suy cho cùng cũng có lý cả. Điều vô lý thuộc về trách nhiệm của xã hội, về chính quyền các cấp…

Bây giờ xin trở lại cái tít của bài viết. Vậy trong hai bà mẹ ai là kẻ dũng cảm?

Xét cho thấu tình đạt lý, trong hai người mẹ đáng thương đó không có ai là dũng cảm cả. Sống được mới là chuyện khó, dám vượt qua mọi khó khăn nuôi con khôn lớn. Nhưng chết như họ cũng không ai nỡ chê bai họ hèn nhát.

Dũng cảm là những người “ngoài cuộc”. Giữa những năm tháng đất nước còn vô vàn khó khăn, nợ công nợ tư chồng chất, dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, trẻ em bụng đói tới trường, trường không ra trường, lớp không ra lớp. So với mặt bằng thế giới, đời sống nhân dân ta được xếp vào hàng gần cuối bảng, sau cả Lào, Campuchia, thế mà có nhiều người đứng đầu một số địa phương, còn có ý định xây dựng những tượng đài nghìn tỷ, trên nghìn tỷ. Và tệ hại hơn có người dám cầm bút ký quyết định cho phép. Những người đó mới chính là người dũng cảm. Dũng cảm trước công luận ngồi xổm trên, dư luận và vô cảm trước nỗi đau khổ của người dân. Thật đáng phục thay!

Đúng là chuyện oái ăm. Người dân ai cũng muốn sống nhưng không được sống. Còn chắc chắn người chết (dẫu là Đại anh hùng dân tộc hay Lãnh tụ vĩ đại) đâu có muốn xây tượng đài, nhưng tượng đài cứ mặc nhiên mọc như nấm trên đất nước nghèo nàn và lạc hậu. Hỏi có đất nước nào có chuyện lạ, ngược đời như nước ta không? Khi người có quyền cầm bút ký quyết định cho phép xây dựng những tượng đài trăm, nghìn tỷ, có bao giờ nghĩ rằng mình đang ký lệnh kết án tử hình những người dân lương thiện, những trẻ em bị chết khi chưa kịp làm người.

Tượng đài lớn nhất, vĩnh cửu ở trong lòng người dân. Thời gian, mưa gió bão bùng dù cho chế độ thay đổi cũng không hề làm suy xuyển. Nguyễn Trãi 500 năm, Nguyễn Du 300 năm, rồi Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, cùng bao nhiêu vị khác, hình ảnh các vị trường tồn cùng dân tộc, đất nước này.

Hai mươi năm gông cùm đau đớn …

Yvonne Nguyen shared a link to the group: NHÓM ẾCH VÊ.

Khong có con gì ác hơn con người , thế giới này nếu như khong có người Tây Phương chắc có lẽ khong còn một con vật nào sống duoc dưới tụi Trung Quốc nói riêng và tụi Á Châu nói chung ! Chỉ dùng duoc chữ ác độc dã man tàn nhẫn khốn nạn để nói về tụi này

 

TINNHANH.DKN.TV
Câu chuyện dưới đây vạch trần tội ác dã man của các trang trại nuôi gấu lấy mật ở một số nước châu …

Vụ án Vũ Nhôm, điển hình về cái bóng công an trong hoạt động kinh tế tại Việt Nam

Vụ án Vũ Nhôm, điển hình về cái bóng công an trong hoạt động kinh tế tại Việt Nam

Kính Hòa RFA

Ông Phan Văn Anh Vũ (áo trắng) thượng tá tình báo công an Việt Nam bị xử tội tham nhũng. 2017.

Ông Phan Văn Anh Vũ (áo trắng) thượng tá tình báo công an Việt Nam bị xử tội tham nhũng. 2017.

 AFP

Công an là lực lượng quan trọng bậc nhất trong các thể chế nhà nước theo mô hình cộng sản. Ngoài lực lượng chính qui công an còn có những tổ chức bán chính thức, những tổ chức chỉ điểm trong dân chúng.

Theo số liệu của Tiến sĩ Cynthia M Horn, Đại học Western Washington, Hoa Kỳ thì trong xã hội Đông Đức trước kia cứ 8 người dân thì có một người hợp tác với công an.

Theo một số đánh giá thì ngân sách giành cho những lực lượng công an của Trung Quốc cao hơn cả ngân sách giành cho quân đội nước này.

Theo tìm hiểu của Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Huy Vũ, hiện sống tại Na Uy, lực lượng công an, hay bán công an tại Việt Nam cũng rất đông:

Có rất nhiều loại công an, công an chìm công an nổi, công an kinh tế,… không có con số chính xác, nhưng theo một số nhà nghiên cứ đưa ra những con số có tính xấp xỉ thì ở Việt Nam cứ 10 người dân là có một công an.”

Lực lượng khổng lồ này đòi hỏi một ngân sách rất lớn dành cho nó.

Từ khi Việt Nam bắt đầu cải cách kinh tế vào giữa thập niên 1980, bắt đầu có những doanh nghiệp gọi là doanh nghiệp đời sống của các cơ quan công an và quân đội.

Các doanh nghiệp này kinh doanh đủ thứ như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác, chỉ có khác là chúng được những người công an quản lý, lợi nhuận được chia cho các viên chức trong ngành công an.

Theo những thông tin được báo Công an Đà Nẵng đưa ra vào năm 2016, Bộ Công an có 10 doanh nghiệp với tổng số vốn là 1200 tỉ đồng, kinh doanh từ viễn thông, xây dựng, cho đến đóng tàu biển. Thậm chí họ có cả những khu công nghiệp tại Hà Nội (Hoài Đức) và Sài Gòn (Nhà Bè.)

Trong vụ án Vũ Nhôm người ta thấy có hai công ty do viên thượng tá công an này đứng tên kinh doanh bất động sản là Bắc Nam 79 và Nova Bắc Nam.

Tuy nhiên có vẻ như so với người anh em của Bộ Công an là Bộ Quốc phòng, thì bên phía quân đội có những công ty có bề thế hơn nhiều, nổi tiếng nhất là công ty Viettel kinh doanh viễn thông, và mới đây người đứng đầu nó là thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng được cất nhắc lên làm Bộ trưởng Bộ thông tin và truyền thông.

Vì lý do đó, cách đây vài năm có lời đồn đại cho rằng ngành công an mong muốn có được sự kinh doanh phát triển như bên quân đội, sau khi báo chí chính thống lên tiếng khá mạnh mẽ về chuyện không nên cho quân đội làm kinh tế.

Một lực lượng đúng ra là để bảo vệ pháp luật, duy trì sự công bằng của pháp luật mà lại đi làm kinh tế, bằng cách dựa vào cái quyền uy của mình thì nó sẽ bóp méo nền kinh tế thị trường đi.
-Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ.

Nhà quan sát Phạm Chí Dũng, từng phục vụ trong ngành công an nói với RFA vào năm 2017:

Đó chỉ là một dư luận nhất thời thôi, vào kỳ họp quốc hội giữa năm 2017, được khuấy động bởi những thế lực bên trong ngành công an đưa ra vì họ thấy quân đội làm kinh tế dữ dội quá, chẳng lẽ công an không được làm?”

Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, đầu năm 2016, có đến bốn viên tướng công an nằm trong số 19 ủy viên Bộ chính trị, cơ quan quyền lực cao nhất Việt Nam. Ngoài ra trong số gần 200 thành viên Trung ương Đảng, cũng rất đông đảo các viên chức công an.

Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ bình luận về việc công an làm kinh tế:

Một lực lượng đúng ra là để bảo vệ pháp luật, duy trì sự công bằng của pháp luật mà lại đi làm kinh tế, bằng cách dựa vào cái quyền uy của mình thì nó sẽ bóp méo nền kinh tế thị trường đi.”

Trong vụ án Vũ Nhôm người ta thấy ông này dựa vào thẻ công an tình báo của mình để được mua những lô đất đắt tiền với giá rẻ, bán lại kiếm lời, nhưng trên danh nghĩa là tạo vỏ bọc cho hoạt động an ninh.

Các viên tướng công an ra tòa cùng ngày 28/1 với ông Vũ Nhôm công nhận một điều là các ông ấy đã ký những văn bản để thúc đẩy những hoạt động kinh tế của ông Vũ Nhôm được thuận tiện. Trong số những viên tướng này có ông Bùi Văn Thành, vào năm 2016 giữ chức vụ Trưởng ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ Công an.

Các viên tướng công an cũng khai rằng họ thành lập những công ty như kiểu các công ty của ông Vũ Nhôm để che đậy cho hoạt động nghiệp vụ của ngành công an.

Bình luận về việc này, luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên chánh văn phòng Quốc hội Việt Nam cho biết:

Họ lập công ty để cài cắm người thì theo tôi ở nước nào cũng có, nhưng ở đây họ lại lợi dụng đặc quyền đặc lợi này để kinh doanh bất động sản, mua bán, chẳng biết có mua bán ma túy trong đó không nữa. Những ông tướng bị ở tù là như thế, và tôi cho là phải xử rất nghiêm.

Trong số các sĩ quan cao cấp của Bộ Công an bị đưa ra tòa trong vụ Vũ Nhôm, có hai người là thứ trưởng, một người làm phó của cục tình báo Bộ Công an nay đã giải tán, một người chuyên theo dõi các hoạt động của các doanh nghiệp ngành công an.

Trả lời câu hỏi liệu có nên chấm dứt hoạt động kinh tế của ngành công an, Luật sư Trần Quốc Thuận nói tiếp:

Việc công an và quân đội không được làm kinh tế nữa là một chủ trương được đem ra nói nhiều năm nay rồi, cũng được đem ra bàn ở Quốc hội. Có những lĩnh vực không được làm nữa như là kinh doanh thuần túy, còn những lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc phòng thì có thể nên tiếp tục chẳn hạn như sản xuất vũ khí chẳn hạn.

Tuy nhiên về phương diện luật pháp, Luật sư Trần Quốc Thuận cho biết là ông cũng chưa thấy điều luật nào được đưa ra để hạn chế công an và quân đội làm kinh tế.

Việc công an và quân đội không được làm kinh tế nữa là một chủ trương được đem ra nói nhiều năm nay rồi.
-Luật sư Trần Quốc Thuận.

Theo quan sát của Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, vào năm 2017, sau khi có nhiều dư luật về việc nên tách hoạt động kinh tế ra khỏi an ninh và quốc phòng, thì không thấy nói đến nữa, thậm chí một số quan chức còn đưa ra ví dụ thành công của một số công ty quốc phòng để làm minh chứng cho việc kinh doanh thành công.

Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ cho rằng nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo hiện nay không thể nào tách hoạt động kinh doanh ra khỏi công an và quân đội vì những khoảng lợi ích quá lớn, mà Đảng Cộng sản lại dựa rất nhiều vào các lực lượng này để duy trì chế độ.

EVFTA – Đừng để lỡ mãi

EVFTA – Đừng để lỡ mãi

FB Nguyễn Ngọc Chu

29-1-2019

Đáp ứng các tiêu chuẩn EU, một mặt chẳng những giúp cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang EU để thoát dần phụ thuộc vào Trung Quốc, mà còn – ở mặt khác – đưa Việt Nam xịch gần với xã hội Âu châu.

EVFTA – ĐỪNG ĐỂ LỠ MÃI

Nếu không được Nghị viện Châu âu thông qua trước cuộc bàu cử tiếp theo cuối tháng 5/2019, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EU (EVFTA) sẽ đối mặt với sự chậm trễ, rất bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, và bất lợi ngay cho chính Nhà nước Việt Nam.

CON ĐƯỜNG GIAN TRUÂN

Sau 14 phiên đàm phán chính thức và nhiều phiên giữa kỳ ở cấp bộ trưởng, trưởng đoàn cùng cấp nhóm chuyên viên kỹ thuật, kéo dài gần suốt trong 3 năm, đến ngày 4/8/2015 Việt Nam và EU đã công bố kết thúc cơ bản đàm phán Hiệp định Thương mại Tự do (EVFTA) giữa Việt Nam và EU.

Chiều ngày 18/10/2018 phát biểu đầu tiên tại diễn đàn Doanh nghiệp Á – Âu lần thứ 16 tại Na Uy, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kêu gọi : “Tôi rất hoan nghênh các bạn doanh nghiệp châu Âu có tiếng nói với các cơ quan của EU để Hiệp định EVFTA sớm được ký kết và đi vào thực thi”.

Ngày 23/01/2019 tham dự Diễn đàn kinh tế Thế giới Davos (Thụy Sĩ), trong cuộc gặp gỡ với các doanh nghiệp đa quốc gia ( Apple, Facebook…) Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thêm một lần kêu gọi các doanh nghiệp đa quốc gia góp tiếng nói chung để EU sớm phê chuẩn EVFTA.

Gần 3 năm đàm phán, gần 4 năm sau đàm phán mà vẫn chưa được EU phê chuẩn, con đường EVFTA thật gian truân.

ĐỪNG THÊM MỘT LẦN BỎ LỠ THỜI CƠ

Trên con đường hội nhập quốc tế, Lãnh đao Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội mà sau đó chính họ đã thừa nhận sự hối tiếc. Điển hình là bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ và gia nhập WTO.

Bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ đã có cơ hội thực hiện ngay sau 1975. Nếu bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ được thực hiện trong những năm 1976 – 1977 thì tình hình đã khác, ngay cả cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc tháng 2/1979.

Tương tự là cơ hội gia nhập WTO. Việt Nam đã có thể gia nhập WTO trước năm 2000. Nhưng rồi cũng bắt nguồn là từ các cấp lãnh đạo cao nhất mà Việt Nam chậm trễ.

Nay thì đến lượt EVFTA.

Khi được thông qua EVFTA sẽ mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội mới.

Quan trọng nhất là, EU sẽ xóa bỏ ngay thuế nhập khẩu (=0%) đối với 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Trong vòng 7 năm, EU sẽ xoa thuế nhập khẩu đến 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu Việt Nam.

Theo số liệu thống kê năm 2017, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt 38,27 tỷ USD. Với thuế nhập khẩu khoảng 14% được đưa về 0% cho khoảng 70% tổng số kim ngạch xuất khẩu, thì Việt Nam sẽ nhận được một nguồn tài chính lớn cùng với một động lực thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang EU.

Lấy thí dụ về thị trường thủy sản và thị trường dệt may. Thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2017 đạt khoảng 8,3 tỷ USD. Liên minh châu Âu là một trong hai thị trường xuất khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam, với doanh số năm 2018 vào khoảng 1,6 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng khoảng 10%/năm. Thuế suất nhập khẩu vào EU là khoảng 14%. Từ đó để thấy được giá trị của EVFTA đối với ngành thủy sản Việt Nam quan trọng đến mức độ nào.

Với ngành dệt may, EVFTA cũng là niềm hy vọng lớn. Kim ngạch xuất khẩu dệt may sang EU năm 2017 là 3,785 tỷ USD. Năm 2018 kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam trong 9 tháng đầu năm đạt hơn 22,4 tỉ USD, tăng 16,5% so với cùng kỳ năm 2017. Trong đó Mỹ và EU là 2 thị trường nhập khẩu nhiều nhất.

Liên minh châu Âu là một trong 4 nền kinh tế hùng hậu nhất của thế giới. EU là đối trọng với các nền kinh tế Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Quan trọng hơn nữa, Liên minh châu Âu là một xã hội bao gồm 28 quốc gia văn minh nhân bản. Nền kinh tế EU là nền kinh tế công nghệ hiện đại với dân số trên 500 triệu người và GDP lên đến 15000 tỷ USD. Chuẩn mực EU về nhiều mặt là chuẩn mực văn minh tiên phong.

Đàm phán đáp ứng các tiêu chuẩn của EU để mở rộng hợp tác với EU là đường đi đúng đắn cần thiết. Đáp ứng các tiêu chuẩn EU, một mặt chẳng những giúp cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang EU để thoát dần phụ thuộc vào Trung Quốc, mà còn – ở mặt khác – đưa Việt Nam xịch gần với xã hội Âu châu.

Nghị viện Châu âu khóa mới sẽ được bàu cử vào cuối tháng 5/2019. Phương án tốt nhất cho Việt Nam là EVFTA cần được Hội đồng Châu âu ký và Nghị viện Châu âu bỏ phiếu thông qua trước tuyển cử khóa tiếp theo.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đích thân thúc đẩy EVFTA. Các lãnh đạo Việt Nam khác hãy chung tay cùng Thủ tướng. Chuẩn mực châu Âu là niềm mơ ước của nhiều quốc gia. Hãy xóa bỏ rào cản. Đừng thêm một lần bỏ lỡ cơ hội bước theo tiến bộ văn minh nhân loại.

HOAN NGHÊNH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TỎ QUAN ĐIỂM KHÔNG DÍNH LÍU VÀO VẤN ĐỀ VENEZUELA NHƯNG PHÊ PHÁN LỰC LƯỢNG TÁC CHIẾN MẠNG CỦA CHÍNH PHỦ

HOAN NGHÊNH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM TỎ QUAN ĐIỂM KHÔNG DÍNH LÍU VÀO VẤN ĐỀ VENEZUELA NHƯNG PHÊ PHÁN LỰC LƯỢNG TÁC CHIẾN MẠNG CỦA CHÍNH PHỦ

Mặc dầu từng có mối quan hệ khá thân thiết trước đây nhưng trước sự phi nghĩa của chính phủ đương quyền Venezuela, Chính phủ Việt Nam đã chọn thái độ không dính líu vào chính phủ này qua phát biểu của Người phát ngôn Bộ ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng mấy ngày trước.

Đây là một thái độ hết sức đáng hoan nghênh, thể hiện sự sáng suốt lựa chọn tính chính nghĩa trước một vấn đề quốc tế đang diễn ra, dù chính phủ đương sự từng có mối quan hệ tốt nhưng khi họ sai trái thì quyết không ủng hộ.

Tuy nhiên, có thể do thiếu sự chỉ đạo nhịp nhàng nên một số trang mạng xã hội của lực lượng tác chiến mạng của Chính phủ Việt Nam trong mấy ngày qua có nhiều bài viết hết sức vô lý, gây bức xúc cho cộng đồng mạng và ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ.

Chẳng hạn có trang mạng của lực lượng này lấy clip của người dân đi biểu tình chống chính phủ Maduro nhưng chú thích là người dân đi biểu tình ủng hộ chính phủ Maduro. Hoặc những bài viết khác bảo vệ chính quyền Maduro bằng những lập luận hết sức ngô nghê.

Những bài viết nói trên bị cộng đồng mạng lên án hết sức nặng nề không những người viết mà còn phê phán cả Chính phủ.

Những trang mạng đó đã vô cớ hạ thấp uy tín của nhà nước Việt Nam.

Vì vậy tôi đề nghị Chính phủ Việt Nam có chỉ đạo kịp thời yêu cầu lực lượng tác chiến mạng xã hội gỡ những bài viết làm mất uy tín của nhà nước Việt Nam một cách vô cớ và nên dừng những bài viết loại này lại, tập trung tuyên tuyền những đường lối chính sách tốt của nhà nước mà người dân chưa nắm rõ thay vì những bài viết đó.

Trần Đình Thu

LÃNH ĐẠO ĐỐI LẬP VENEZUELA: KHÔNG BAO GIỜ NGĂN ĐƯỢC MÙA XUÂN ĐẾN

Cái tựa như trên của báo Tuổi Trẻ hôm nay tuyệt vời lắm. Thay mặt cho gần 25 ngàn người đang follow tôi cùng những người khác đọc tôi mà chưa follow, tôi gửi lời cám ơn đến quý báo Tuổi Trẻ đã dùng cái tựa ấy.

Tình hình Venezuela ngày càng “mùa xuân” hơn, hay nói cách khác ngày nào cũng thấy có một chút xuân về trên mảnh đất rất đau thương của một dân tộc khốn khổ nhất quả đất – dân tộc Venezuela.

Cho tới lúc này chưa có kết quả từ cuộc họp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhưng những thông tin khác thì rất phấn khởi.

Trước hết là đại tá tùy viên quân sự tại Đại sứ quán Venezuela ở Washinton, dĩ nhiên là người đang thuộc phe Maduro, tuyên bố ủng hộ cho tổng thống lâm thời Guaido.

Tuyên bố này cho thấy thực chất các sĩ quan quân đội cao cấp đều đã chán ghét chế độ Maduro nhưng do họ đang trong vòng kềm tỏa của Maduro nên chưa có thể biểu lộ chính kiến của mình. Riêng vị sĩ quan này do đang ở Mỹ nên có thể nói lên ý nguyện mình.

Điều này cũng có nghĩa nếu có một cuộc binh biến thì quân đội Venezuela chưa chắc đã trung thành với Maduro, mặc dầu bên ngoài họ nói là trung thành.

Đó là về nội bộ Venezuela.

Còn với Mỹ, nước bảo trợ dân chủ lớn nhất quả địa cầu, thì song song với việc kêu gọi quốc tế ủng hộ ông Guaido, Mỹ đang cố gắng giải quyết vấn đề tài chính cho chính phủ lâm thời nước này. Có thực mới vực được đạo – điều ấy khỏi bàn cãi. Hiện Venezuela có nhiều vàng gửi ở các nhà băng nước ngoài và Mỹ đang nhắm đến nguồn đó. Ở Anh có khoảng 8 tỷ USD và Mỹ đang nhắm khoản 1,2 tỷ USD tại đây cho chính phủ ông Goaido.

Một mặt tìm kiếm nguồn tài chính cho chính phủ lâm thời nhưng mặt khác Mỹ cũng tìm mọi cách ngắt nguồn sống của chính phủ độc tài Venezuela.

Phát biểu tại Liên Hợp Quốc trong hôm nay, ông Pompeo ngoại trưởng Mỹ kêu gọi các nước ngắt nguồn tài chính với Maduro và cho biết thêm Mỹ đang đẩy mạnh các biện pháp kiểu này. Có thể Mỹ sẽ tịch thu các tài sản của nước này tại Mỹ để chuyển cho phe đối lập.

Một động thái khác về phe Maduro là có vẻ đang rất xuống nước. Hôm qua ông ta kêu gọi ông Goaido đàm phán nhưng ông Goaido đang trong cơn rất chảnh nên trả lời là không đàm phán, thì hôm nay ông ta lại nói rằng ngoại giao đoàn Mỹ có thể ở lại Venezuela chứ không cần phải rời đi. Như vậy là một tín hiệu muốn xuống thang hoặc thậm chí là muốn đầu hàng.

Riêng ông Goaido, trong khí thế tràn đầy hân hoan, ông vừa xuất hiện trên đường phố thủ đô Caracas của Venezuela để nói chuyện với đồng bào ông và ông ví von “Có một câu nói, bạn có thể ngắt một bông hoa nhưng không thể ngăn nó nở lại khi mùa xuân đến”.

Ôi câu nói của ông Goaido!

Chân lý là đây hỡi nhân dân những quốc gia bị đàn áp trên toàn thế giới!

——

Chú thích: Hình ảnh này được trang Trung đoàn 47 chú thích là người dân Venezuela biểu tình ủng hộ tổng thống độc tài Madura khiến cộng đồng mạng bức xúc.

(Tổng thống lâm thời Guaido là hợp hiến, không phải là “tự phong”, hoặc các tướng lĩnh ủng hộ tổng thống hợp hiến thì bị gọi là “phản bội tổ quốc” các báo chí gán ghép xảo ngôn, thể hiện sự thiếu hiểu biết, khuyến khích hành động phi nghĩa, làm mất giá trị bài báo nói riêng và tên tuổi toà soạn nói chung).

Image may contain: outdoor
Image may contain: 1 person, smiling, text
Image may contain: 1 person, text
Image may contain: text that says 'Trung Đàn linh cầu lên tiếng #Venezuela Chắc phải đợi chó nó la vào mom thì mới hết dối trá. F 94% 11:41 Trung Đoan 47 3 giờ Trước sự đe doa đảo chính của My, người dân Venezuela xuống đường biều dương luc lượng, ung hộ Tống thống dân bầu Maduro, san sàng đương đâu chien tranh xam lược. #HP'

Bom nổ tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Núi Carmel tại đảo Jolo

Image may contain: text

Khanh Pham

Phi Luật Tân. – Vào lúc 8:45 sáng, giờ điạ phương, ngày 27 tháng 1 năm 2019, hai quả bom đã phát nổ tại một nhà thờ Công Giáo miền Nam Phi Luật Tân lúc đang có thánh lễ sáng Chúa Nhật làm 20 người chết và 81 người bị thương.

Bom nổ tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Núi Carmel tại đảo Jolo. Hai quả bom đã nổ cách nhau một khoảng thời gian. Trái thứ nhất nổ lúc 8 giờ 45 sáng bên trong nhà thờ. Trái thứ hai được gài bên ngoài nhà thờ và phát nổ lúc cảnh sát và lực lượng chính phủ tiến vào cứu trợ.

Hiện nay chưa có nhóm nào đứng ra nhận trách nhiệm vụ khủng bố, nhưng từ lâu người ta biết Jolo là một căn cứ quan trọng của nhóm khủng bố Hồi Giáo Abu Sayyaf

Cuộc tấn công đã diễn ra chỉ vài ngày sau khi Mindanao bỏ phiếu cuộc trưng cầu dân ý dành quyền tự trị cho khu vực Bangsamoro, miền nam Phi Luật Tân mà đa số dân chúng ở đây theo Hồi Giáo.

Trong khi da số dân chúng ở Mindanao bổ phiếu chấp thuận cho khu tự trị, thì dân chúng đảo Jolo nơi có nhà thờ bị đánh bom bỏ phiếu chống lại việc tự trị.

Hầu hết các nạn nhân là thường dân đã được đưa bằng đường hàng không tới các bệnh viện ở thành phố Zamboanga

Bộ Trưởng Quốc Phòng Phi Luật Tân, Delfin Lorenzana, gọi cuộc tấn công này là một hành động liều lĩnh, kêu gọi dân chúng hợp tác với chính quyền để đưa ra công lý những thủ phạm đứng sau cuộc khủng bố.

Tưởng cũng nên nói thêm, cuộc trưng cầu dân ý là kết quả thỏa thuận hòa bình giữa chính phủ Phi Luật Tân và Mặt trận Giải phóng Hồi giáo Moro.

Chính quyền hy vọng rằng kết quả trưng cầu dân ý sẽ là giải pháp chính trị nhằm chấm dứt cuộc xung đột đã kéo dài hang chục năm giữa phe chính phủ và phe Hồi Giáo Ly Khai, đã làm cho 120,000 người thiệt mạng { Truyền thông Thái Hà }.

http://nhathothaiha.net/phi-luat-tan-bom-no-trong-nha-tho-…/

2019: lịch sử đang trở lại!

2019: lịch sử đang trở lại!

Đoàn Thi

Nhà văn Mỹ đã từng đoạt giải Nobel Văn Chương là ông Eugene Gladstone O’Neill (1888-1953) có để lại một câu nói nổi tiếng: “There is no present or future, only the past happening over and over again” (không có hiện tại hay tương lai, mà chỉ có quá khứ cứ lập đi lập lại không ngừng). 

Nếu nhìn vào những gì đang diễn ra trên thế giới trong năm 2019 này, người ta sẽ thấy lời tiên tri của nhà văn O’Neill đang trở thành hiện thực.

Bóng ma của những cuộc chiến tranh khủng khiếp trong quá khứ như đang nhập thể trở lại. Hãy nhìn vào mối đe dọa của Bắc Hàn. Quốc gia Cộng sản này hiện đang có trong tay một kho vũ khí hạt nhân đủ để nhận chìm một phần thế giới vào biển lửa. Hỏa tiễn của nước này có đủ khả năng để bay tới Hoa Kỳ và Úc Đại Lợi. Sau cuộc họp thượng đỉnh giữa Chủ tịch Bắc Hàn Kim Jong-un và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, một cuộc gặp gỡ vốn được 2 bên rêu rao như một biến cố lịch sử chưa từng có, Bắc Hàn không những giữ nguyên kho vũ khí hạt nhân của mình, mà còn tiếp tục phát triển những vũ khí mới kèm theo những lời đe dọa đáng sợ hơn.

Nhưng có lẽ mối đe dọa của quốc gia cộng sản côn đồ Bắc Hàn vẫn không đáng sợ cho bằng cuộc chạy đua vũ trang hiện nay của hai siêu cường nguyên tử là Nga và Hoa Kỳ: một cuộc chiến tranh lạnh mới đã thực sự bắt đầu!

Thế giới đang bị đe dọa không chỉ vì cuộc chiến tranh lạnh mới giữa Nga và Mỹ hay kho vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn. Tình hình thế giới cũng bấp bênh không kém vì mối căng thẳng giữa một số nước đang có vũ khí hạt nhân ở Á Châu. Năm 2017 vừa qua, hai nước cựu thù là Ấn Độ và Trung Cộng, 2 quốc gia có đông dân số nhất thế giới, đã từng lăm le tấn công nhau vì xích mích tại một biên giới ở Bhutan. Không riêng với Trung Cộng, mối quan hệ của Ấn Độ và Pakistan, một quốc gia láng giềng hiện cũng đang có trong tay vũ khí hạt nhân, cũng căng thẳng không kém.

Tại Trung Đông, cuộc chiến ở Syria vẫn đang tiếp diễn. Viễn ảnh hòa bình xem ra ngày càng mờ mịt. Các trại tỵ nạn đã không còn chỗ để chứa người di tản. Cũng như người Việt Nam đã trốn chạy chế độ cộng sản sau năm 1975, người dân Syria cũng liều mạng trèo lên những chiếc thuyền mong manh để vượt biển khơi với hy vọng tìm được an toàn ở bất cứ bến bờ nào họ trôi dạt tới.

Cuộc xung đột tại Syria ngày càng tồi tệ, nhưng cuộc chiến tại Yemen lại càng thê thảm hơn. Bị xâu xé giữa hai cường quốc Hồi giáo là Iran và Á Rập Saudi, Yemen đã biến thành một bãi chiến trường dẫn đến một cuộc khủng hoảng nhân đạo chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Theo ước tính của Liên Hiệp Quốc, trong 3 năm vừa qua, đã có khoảng 85.000 trẻ em dưới 5 tuổi bị chết đói! Hình ảnh của những đứa trẻ chỉ còn da bọc xương không thể không gợi lại nạn đói khủng khiếp tại Ethiopia hồi thập niên 1980. Ngày đó, cả thế giới đã rúng động trước những hình ảnh khủng khiếp của nạn đói. Các ca sĩ thượng thặng của thế giới đã góp giọng để kêu gào và đánh động trái tim của nhân loại. Các chính phủ đã bắt tay nhau và quyết tâm không để cho một thảm kịch như thế tiếp diễn.

Nhưng lịch sử cứ lập lại một cách tàn nhẫn. Ngay lúc này đây, Liên Hiệp Quốc khẳng định rằng Yemen hiện đang phải đối diện với thảm họa nhân đạo lớn nhất của Thế kỷ 21: 14 triệu người đang có nguy cơ chết đói!

Bên cạnh nạn đói do chiến tranh tạo ra, thế giới lại còn phải đương đầu với một cuộc chiến khác dường như không bao giờ kết thúc là cuộc chiến chống khủng bố. Đã hơn 18 năm kể từ cuộc khủng bố tại Hoa Kỳ ngày 11 tháng Chín năm 2001, nay cuộc chiến chống khủng bố như chỉ mới bắt đầu. Chẳng còn nơi nào trên thế giới này được xem là an toàn. Từ London, Brussels, Paris…đến Nairobi ở Phi Châu, Jakarta ở Nam Dương và Sydney ở Úc Đại Lợi,  nơi nào cũng đều có thể là điểm nhắm của các tổ chức khủng bố.

Không bị khủng bố trực tiếp đe dọa, nhưng Ukraine cũng không ở yên trước sự đe dọa trắng trợn của Nga. Thế giới tự do đã tỏ ra hoàn toàn bất lực trước những hành động ngang tàng và bạo ngược của Nga.

Đệ nhứt Thế chiến đã chấm dứt cách đây vừa đúng 100 năm và Đệ nhị Thế chiến cũng đã kết thúc hơn 70 năm qua. Nếu tính từ Đệ nhị Thế chiến đến nay, mặc dù có chiến tranh lạnh và cuộc chiến đẫm máu có diễn ra tại một vài nơi trên thế giới,  nhưng có lẽ chưa bao giờ nhân loại hưởng được một nền hòa bình lâu dài như thế. Nhưng nay dường như lịch sử đang trở lại. Bóng dáng của chiến tranh đang lấp ló ở đâu đó.

Với cuộc chạy đua vũ trang hiện nay, Hoa Kỳ và Nga đang đi vào một cuộc chiến tranh lạnh mới. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất hiện nay vẫn là một cuộc chiến tranh có thể xảy ra bất cứ lúc nào giữa hai siêu cường kinh tế lớn nhất thế giới là Hoa Kỳ và Trung Cộng. Bất cứ một cuộc đụng độ nào giữa 2 siêu cường này cũng đều là một đại họa cho toàn thế giới. Mặc dù hai bên đều tuyên bố sẽ bằng mọi cách tránh chiến tranh, nhưng trong thực tế hiện nay cả hai bên đều chuẩn bị tư thế sẵn sàng ứng chiến.

Hồi năm 2015, tổ chức phi lợi nhuận “The Rand Corporation”, chuyên nghiên cứu về chiến lược toàn cầu, đã gởi cho Quân đội Mỹ một bản phúc trình có tựa đề “War with China. Thinking Through the Unthinkable” (Chiến tranh với Trung Cộng. Suy nghĩ về điều không thể ngờ được). Bản phúc trình kết luận rằng nếu chiến tranh xảy ra chắc chắn Trung Cộng sẽ chịu nhiều thiệt hại hơn Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bản phúc trình lại cảnh cáo rằng với sức mạnh quân sự ngày càng gia tăng và cải tiến, Trung Cộng có thể tạo ra một cuộc chiến hủy hoại lâu dài.

Ngày nay, ai cũng nhận thấy rằng nếu chiến tranh giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng có xảy ra thì bãi chiến trường chính chỉ có thể là Biển Đông.

Kể từ năm 1974 đến nay, sau khi đã ngang nhiên chiếm lấy Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Cộng áp đặt chủ quyền của mình lên toàn bộ Biển Đông và xem đây như ao nhà của mình. Nhiều đảo trong vùng biển này, vốn trước đây đã từng là vùng tranh chấp giữa nhiều nước Đông Nam Á, nay đã bị Trung Cộng quân sự hóa. Nhiều phi đạo dành cho Không lực của Trung Cộng đã được thiết lập. Các loa phóng thanh được bắt dày đặc trên các đảo này lúc nào cũng phóng ra những lời cảnh cáo đối với các tàu bè nước ngoài nào đi gần những hòn đảo đã được quân sự hóa ấy.

Trong năm 2018 vừa qua, đã có lúc thế giới gần như đứng tim khi tàu chiến của Hoa Kỳ và Trung Cộng tiến đến tư thế gần như muốn đụng độ nhau trên Biển Đông.

Trung Cộng hiện đang củng cố sức mạnh quân sự của họ. Ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Cộng đứng hàng thứ 2 trên thế giới chỉ sau Hoa Kỳ. Hiện quốc gia cộng sản khổng lồ này đang phát triển phi cơ chiến đấu có khả năng tấn công các tiềm thủy đĩnh và  hỏa tiễn liên lục địa. Trung Cộng cũng đang cho thiết lập điều mà họ gọi là “Vạn lý Trường thành dưới biển”.

Chuyên gia phân tách lão thành của Học viên Chính sách Chiến lược của Úc là ông Malcolm Davis khẳng định rằng với những tiến bộ khoa học và kỹ thuật hiện nay, Trung Cộng “khiến cho quân lực của Hoa Kỳ sẽ gặp nhiều khó khăn mỗi khi muốn can thiệp vào một cuộc khủng hoảng trong Biển Đông”.

Chuyên gia này cảnh cáo rằng về khả năng quân sự, Trung Cộng có thể “cỡi lên lưng Hoa Kỳ”. Hoa Kỳ đã nhận ra mối đe dọa ấy. Năm ngoái, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã cập nhật chiến lược quốc phòng và nêu đích danh Trung Cộng và Nga là hai mối đe dọa lớn nhất cho quyền lợi của Hoa Kỳ. Bộ Quốc Phòng Mỹ khẳng định: “Ngày càng có nhiều dấu hiệu rõ ràng cho thấy Trung Cộng và Nga muốn hình thành một thế giới phù hợp với mô hình độc tài của họ”. Với chiến lược mới, Bộ Quốc Phòng Mỹ kêu gọi thay vì chú tâm vào cuộc chiến chống khủng bố, hãy dồn mọi nỗ lực vào việc đối đầu với mối đe dọa của Trung Cộng và Nga. Tướng Jim Mattis, người vừa đệ đơn từ chức Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, đã từng kêu gọi phải “cấp tốc thay đổi” chiến lược để sẵn sàng ứng chiến.

Chủ tịch Tập Cận Bình đang cai trị Trung Cộng chẳng khác nào một hoàng đế. Sau Mao Trạch Đông, họ Tập được xem là người quyền thế nhất tại Trung Cộng. Thật ra, Tập Cận Bình còn tỏ ra nhiều quyền lực hơn cả Mao Trạch Đông, bởi vì ông hiện đang lãnh đạo một quốc gia, theo một số thước đo nào đó, có thể là nền kinh tế mạnh nhất thế giới.

Là con của một đảng viên Cộng sản, họ Tập luôn đặt Đảng lên trên mọi sự. Ông đàn áp mọi nhà bất đồng chính kiến, giam tù các đối thủ chính trị, bịt miệng mọi cơ quan truyền thông và các nhà tranh đấu cũng như tìm cách tiêu diệt sắc tộc Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.

Năm vừa qua, với lời hứa hẹn sẽ hoàn thành “Giấc mơ Trung hoa”,  ông đã tự phong cho mình làm chủ tịch mãn đời. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ chưa có nhà độc tài nào đáng sợ cho bằng Tập Cận Bình.

Nhìn vào các diễn tiến trên thế giới hiện nay, có lẽ cũng như nhà văn Eugene O’Neill, các sử gia đều cho rằng quá khứ đang trở lại. 

Vào năm 1914, có ai nghĩ rằng Đệ nhứt Thế chiến sẽ xảy ra. Đức và Anh đang là những đối tác thương mại quan trọng. Quốc vương Anh và Thủ tướng Đức là anh em cô cậu hay chú bác với nhau. Có ai ngờ rằng chiến tranh sẽ xảy ra. Nhìn lại Đệ nhứt Thế chiến, sử gia Úc Sir Christopher Clarke đã gọi các lãnh tụ của thời đó là “Những Kẻ Mộng Du”. Chỉ vì cái chết của một hoàng tử kế vị trên ngai vàng Áo-Hung mà “cuộc chiến để chấm dứt mọi cuộc chiến” đã bùng nổ, sát hại cả 50 triệu người trên thế giới.

Ngày nay, với tham vọng không đáy của một Tập Cận Bình, với sự hung hãn của một Putin, với thái độ côn đồ của một Kim Jong-un và dĩ nhiên với sự bốc đồng và không lường trước được của một Donald Trump, chuyện gì cũng có thể xảy ra cho thế giới. Biển Đông hiện đang là nơi dậy sóng với một bên là Trung Cộng và bên kia là Hoa Kỳ, các nước còn lại bị buộc phải theo bên này hay bên kia.

Kịch bản cho cục diện thế giới có lẽ đã được kịch tác gia Hy Lạp Thucydides viết ra năm 400  trước Công nguyên. Đây là thời điểm xảy ra cuộc chiến giữa Athens và Sparta. Ngày nay rất nhiều nhà chiến lược quân sự cảnh cáo về điều mà họ gọi là “Chiếc Bẫy sập của Thucydides”: một cường quốc đang lên muốn đối đầu với sức mạnh của một cường quốc đang đi xuống và sẵn sàng gây chiến để làm bá chủ. Sự vươn lên của một Athens đã tạo ra nỗi lo sợ cho Sparta. Và đó chính là điều khiến cho chiến tranh không thể tránh được.

Năm 1989, tức cách đây 30 năm, khi chứng kiến sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Đông Âu và kế đó là sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản tại cái nôi của nó là Nga, một nhà chính trị học Mỹ nổi tiếng là ông Francis Fukuyama đã viết một cuốn sách với tựa đề “The End of History and the Last Man” (Lịch sử đã kết thúc và Người cuối cùng). Trong tác phẩm, ông Fukuyama biện luận rằng các chế độ độc tài đã bị đánh bại, nền dân chủ tự do, chủ nghĩa tự bản và kinh tế thị trường là điểm đến tất yếu trong sự tiến hóa văn hóa xã hội của nhân loại. Theo ông, “Lịch sử đã kết thúc”, “chiến tranh” sẽ chỉ còn là một phạm trù của quá khứ.

Nhưng liệu những gì đang diễn ra trong năm 2019 có cho phép thế giới chia sẻ niềm lạc quan của ông Fukuyama không? Phải chăng lịch sử đã không kết thúc, mà đang trở lại với bộ mặt còn đẫm máu hơn?

From: Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

Nửa đời về sau…

Nửa đời về sau…

Đây có lẽ là cách sống tốt nhất nửa đời còn lại

Con người đến độ tuổi nào đó, cần phải nghĩ thoáng một chút, yêu bản thân nhiều hơn một chút, thường xuyên nuôi dưỡng một tâm hồn đẹp và một trái tim trầm tĩnh, rộng lượng, đây có lẽ là cách sống tốt nhất nửa đời còn lại.

Cho dù nữa đời trước có như thế nào, nữa đời về sau hãy sống thật tốt.

Nửa đời về sau, hãy học được cách trầm tĩnh

Có đôi khi bị người khác hiểu lầm, đừng tranh luận, hãy lựa chọn giữ im lặng. Trong cuộc sống, có rất nhiều chuyện đúng sai khó có thể nói rõ ràng, thậm chí căn bản là không có hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai.

Cho nên, nếu không muốn nói, thì đừng nói. Khi mà có nói nhiều cũng vô ích, có lẽ im lặng là lời giải thích tốt nhất.

Nửa đời về sau, hãy trở nên bình thản

Con người đến độ tuổi nào đó, tự nhiên không còn thích những gì ồn ào náo nhiệt, tâm thái bình thản giúp cho cơ thể khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ.

Mặc kệ là đời sống vật chất dư dả hay bần cùng, chỉ cần nội tâm bình thản, chính là sống một cuộc đời hạnh phúc.

Nửa đời về sau, hãy học cách cúi mình

Bạn bất đồng ý kiến với với con cái, nói chuyện mâu thuẫn với bạn bè, những điều này cũng không sao cả. Nghĩ thoáng một chút, chấp nhận buông bỏ, cho dù là cúi người xuống nói lời xin lỗi thì có sao?

Lúc này bạn cũng có thể về lau nhà, lấy ra một đống giẻ lau, cúi người lau sạch sàn nhà trước mặt mình. Trong lúc lao động, bạn sẽ nhận ra tâm trạng và suy nghĩ của mình dần lắng xuống.

Nửa đời về sau, hãy đừng cảm thấy hối hận

Cuộc đời là một con đường dài với vô số ngã rẽ, và ta luôn phải lựa chọn không ngừng. Nhưng cuộc đời không có cơ hội nào lặp lại, lựa chọn rồi thì đừng hối hận, cũng đừng nói câu muốn làm lại từ đầu…

Mỗi lựa chọn đưa ra không có thực sự tốt hay thực sự tồi, chỉ cần biết cuộc sống là tác phẩm độc nhất vô nhị của chúng ta, thì sẽ không phải hối tiếc nếu ngày đó mình không làm như vậy.

Nửa đời về sau, hãy tiếp tục học tập

Đọc sách xem báo, thư pháp hội họa, ca hát khiêu vũ,… đều là một trong những thứ chúng ta nên tiếp tục học!

Mang theo bên mình một chiếc máy nghe nhạc, dù là buổi sáng ở nhà hay ra ngoài tập thể dục, luyện khí công vừa nghe nhạc vừa làm việc khác. Như vậy có thể đem đến cho cuộc sống rất nhiều niềm vui, khiến cho tâm tình khoan khoái dễ chịu.

Nửa đời về sau, hãy giữ gìn sự đơn thuần

Suy nghĩ quá nhiều, ngược lại càng làm cuộc sống thêm phức tạp, “đơn thuần” thật ra chính là một ân huệ mà trời cao ban cho chúng ta.

Sống đơn thuần ở hiện tại, đơn thuần cảm nhận mùi thơm của đồ ăn, đơn thuần nhận ra niềm vui của vận động, đơn thuần cùng bạn bè nói chuyện trên trời dưới đất. Đừng suy nghĩ quá nhiều, cuộc sống thật ra luôn cần những niềm vui đơn giản.

Nửa đời về sau, hãy thỉnh thoảng buông thả bản thân

Mỗi ngày ăn trái cây rau quả, thực phẩm lành mạnh, có phải là có lúc cũng thèm thịt cá? Vậy thì cứ ăn đi!

Thực phẩm lành mạnh có lợi cho cơ thể, nhưng thỉnh thoảng cũng nên buông thả bản thân một chút. Cuộc đời không nên gò ép bản thân mình quá, ngẫu nhiên phóng túng thì càng bình dị, gần gũi.

Happy friends at dining table, selective focus, canon 1Ds mark III

Thỉnh thoảng bớt gò ép bản thân, ngẫu nhiên phóng túng thì càng bình dị, gần gũi.

Nửa đời về sau, hãy luôn ăn mặc đẹp

Yêu cái đẹp nên là điều mà chúng ta theo đuổi cả đời, tuyệt đối đừng vì suy nghĩ mình lớn tuổi mà không muốn trưng diện nữa.

Hãy nhân lúc lưng còn thẳng, chân còn khỏe, hãy mặc thật nhiều bộ đồ xinh đẹp, đến những nơi đẹp đẽ nhất, chụp những tấm hình rực rỡ nhất!

Nửa đời về sau, đôi lúc hãy ngờ nghệch một chút

Có những chuyện, cần hờ hững thì hờ hững, điều gì không làm rõ được thì không cần làm rõ, người nào cần lướt qua thì cứ lướt qua.

Nếu như chỉ biết nhớ không biết quên, chỉ biết tính toán mà không biết cho qua, chỉ biết khôn khéo mà lại không biết vụng về… sẽ chỉ làm cuộc sống của chúng ta luôn nặng nề, phiền não.

Nửa đời về sau, hãy thường xuyên chúc phúc cho người khác

Chúng ta đối đãi với người khác thế nào, họ cũng sẽ đối đãi với ta như vậy. Cho nên, hãy thường xuyên khen ngợi bạn bè, con cháu của mình, thậm chí cả người xa lạ cũng đừng tiếc một lời chúc phúc!

Thời điểm bạn làm cho người khác vui vẻ, bạn sẽ nhận ra rằng mình còn được nhân đôi niềm vui. Sống ở hiện tại, tận hưởng cuộc sống ở hiện tại, đó chính là phương thức sống tốt đẹp nhất!

>>> Lúc trong lòng phiền muộn, nhớ kỹ ba câu nói này, tâm tình sẽ thông suốt

>>> Tình yêu vốn rất đơn giản, chỉ cần có thể nắm tay nhau đi hết cuộc đời

Tuệ Tâm, theo Sound of Hope

From:tttmai007 & NguyenNThu

Sóng vỗ, bèo trôi

Sóng vỗ, bèo trôi

Huy Phương

Nguoi-viet.com

Little Saigon nay đã trở thành quê hương thứ hai của người Việt tị nạn, “một Việt Nam bên ngoài Việt Nam.” (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

“Từ con lưu lạc quê người

Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm.”

(Truyện Kiều)

***

Ông Thầy Tử Vi không vui, nói với tôi: “Cứ như lá số này của gia đình ông, thì trong vận hạn 10 năm sắp tới của ông xem như là một vận xấu kéo khá dài. Số ông có Thái Dương hãm ư di cung, nan chiêu tổ nghiệp, ly tổ vi hung. Số ai có sao Thái Dương cư cung Thiên Di, khó bảo toàn tổ nghiệp ở quê hương, vận này rất xấu! Số cháu trai thì Vũ Phá Tỵ Hợi Di cung- Tha phương cầu thực lao tâm phất lực. Hai sao Vũ Khúc, Phá Quân ở cung Di, phải vất vả lắm mới có miếng ăn, không chừng phải bỏ xứ ra đi!”

Bấy giờ gia đình chúng tôi đang ở trong tâm trạng phấn khởi, đã khám sức khỏe xong đang chờ chuyến bay đi Mỹ, số này tất ứng vào chuyện “phải bỏ xứ ra đi,” nhưng nói tới đây, là vận 10 năm không tốt thì chắc là số tử vi này chấm sai. Trước đây đã có bao nhiêu người bỏ thân trên biển cả, chỉ mong có dịp đặt chân đến một nơi nào đó ở ngoài đất nước Việt Nam. Bây giờ có cơ hội xuất ngoại bằng máy bay, không phải chui nhủi, trốn tránh, bảo toàn được sinh mệnh, hẳn phải là gặp phước Trời, trăm người chưa được một. Vào thời buổi này, ai cũng mong có dịp xuất ngoại, hàng xóm trầm trồ, mơ ước có được hoàn cảnh của người bỏ nước ra đi, mà lá số tử vi lại cho rằng gặp vận xấu?

Nhiều gia đình ngày lên phi trường đi Mỹ, bố và con trai thì đóng vest và cà vạt, mẹ và con gái thì lên đồ đầm, cho vẻ vang, đẹp đẽ với thiên hạ, chòm xóm, đâu phải là một chuyến đi đày, phải lìa quê, ly tổ!

Theo văn hóa Việt Nam hay Á Đông, phúc đức cho một đại gia đình nào được xếp vào cảnh “tứ đại đồng đường” (bốn đời sống chung dưới một mái nhà!). Có phước báu mới được sinh ra, lớn lên, và chết trong cùng một căn nhà đó, hay nói rõ là trên một cái giường, trong một căn phòng duy nhất.

Sống lưu lạc xa quê vì sinh kế, được gọi là tha phương cầu thực, với một người không biết quê quán ở đâu đến đây, được gọi bằng thành ngữ “trôi sông lạc chợ!” Không gì thê thảm bằng người bị tách ra khỏi cội nguồn, đẩy ra khỏi quê hương, ngày trước là lũy tre làng, cây đa bến cũ, con đò sông xưa.

Cũng bởi vậy tâm trạng người xa quê xót xa biết bao nhiêu. Người con gái đi lấy chồng xa, với “chiều chiều ra đứng ngõ sau,” người lưu xứ buổi chiều, lòng chạnh hỏi “quê nhà biết ở nơi đâu?” Cùng với tâm sự u hoài, ưu thời mẫn thế, đêm qua trời “chớp bể với mưa nguồn,” người quân tử thức giấc với nỗi buồn triền miên, khó lòng dỗ giấc ngủ trở lại.

Đó có thể là nỗi buồn của người phải tha phương vì sinh kế, mới nghe qua cũng đã thấy chạnh lòng.

Nhà văn Lưu Dân ở Úc đã từng đặt câu hỏi: “Làm người dân lưu vong, có dễ không, hả bạn?”

Ông đã sống hơn nửa đời ở Úc, nơi đã cho ông cơ hội và quyền con người.

Ông xúc động mỗi lần nghe bài hát “I Still Call Australia Home” và cảm thấy ấm áp hơn mỗi lần đi xa trở về, nhưng ông đã có nửa đời trước sinh ra và lớn lên, ăn miếng cơm và uống miếng nước ở Việt Nam, nơi ông được hấp thụ nền văn hóa đẹp đẽ và tình tự quê hương ngọt ngào. Ông tỏ ý hoang mang về căn cước (identity crisis) của mình, và cho rằng mình đã vượt qua cơn khủng hoảng đó nhưng thỉnh thoảng nó vẫn nhói lên như một nhắc nhở về quê hương đã xa và mái ấm đang có.

Và ông đã tự hỏi: “Bây giờ, tôi là người Úc hay Việt?”

Trong tác phẩm “Sống Chẳng Còn Quê,” xuất bản ở Úc, BS.Trần Xuân Dũng đã tâm sự: “Lúc nào tôi cũng khắc khoải về nước Việt Nam đã mất.”

Ông cho rằng Trần Văn Thủy, một đạo diễn miền Bắc viết trong tác phẩm của ông “Nếu Đi Hết Biển” đại khái nếu đi hết biển qua các Đại Dương, Châu Lục, đi mãi, đi mãi, thì sau cùng cũng lại trở về với quê mình, làng mình.

Nhưng Trần Văn Thủy đã nhầm, người ta yêu quê hương nhưng khi quê hương ấy nằm trong tay những kẻ trời không dung, đất không tha như bọn Việt Cộng, thì thà “Sống Chẳng Còn Quê” còn hơn.

Trong trang cuối cuốn sách, ái nữ của tác giả, thế hệ sau, đã viết: “Tôi coi nước Úc là nhà, nhưng tôi biết rằng bố mẹ tôi lúc nào cũng vẫn cảm thấy như ở ngoại quốc!”

Nỗi lạc lõng, xót xa, ray rứt ấy bao giờ mới hết?

Đài Loan là một hòn đảo lưu vong xa nguồn cội, nhưng Đài Loan ngày nay đã có tất cả những gì là quê hương. Chúng ta đem theo được một Little Saigon đến đây, nhưng là một Little Saigon với thể chế, luật pháp và ngôn ngữ của nước Mỹ.

Chúng ta lưu vong nhưng chúng ta đã trở thành người dân của một quốc gia khác, một hai thế hệ sau, hình ảnh Việt Nam sẽ còn lại rất mờ nhạt, thậm chí sẽ không còn cả tiếng nói và chữ viết.

Không phải chỉ chúng ta đang ở Mỹ, mà rồi đây nhiều thế hệ sau, ở Đài Loan, Đại Hàn, Trung Quốc, thậm chí ở cả Cambodia, Lào, Thái Lan… có những người kể chuyện cho con cháu nghe, bằng tiếng bản xứ rằng, ngày xưa thật xa, họ có một bà nội, bà ngoại, bà cố người Việt lưu lạc tới đây kết hôn với một người chồng địa phương!

Sống lưu vong, Thiếu tướng Nhảy Dù Lê Quang Lưỡng, lúc chết, không muốn phủ quốc kỳ, vì thẹn đã không được “da ngựa bọc thây,” ông tâm sự rằng, lúc cuối đời, ly rượu uống vào nghe đắng cả lòng.

Lưu vong là sống tạm bợ nơi nào đó không phải là quê hương, lý do vì quê hương đang có vấn nạn, lưu vong không phải là đi làm ăn xa, để mỗi cuối năm lại “về quê ăn Tết.”

Vậy thì lưu vong và ly hương hẳn đã khác nghĩa nhau. Mỗi năm đã chẳng có hàng chục nghìn người Việt ly hương hớn hở “về quê ăn Tết” đó sao? (Huy Phương)

Nếu Cái Cột Điện Biết Đi…

Image may contain: one or more people
No photo description available.
Van Pham

Chúc mừng bạn đã thoát được khỏi Việt Nam!” – không có lời chúc nào buồn và đau hơn. Một cách chính xác, lời chúc này không dành để nâng ly cho sự rời bỏ đất nước. Nó dành cho sự thoát được khỏi chế độ cai trị trên đất nước đó. Lời chúc đó là một cáo trạng cho chế độ. Chẳng ai vui (trừ “cán bộ” cộng sản) khi rời bỏ quê hương.
*********

Nếu Cái Cột Điện Biết Đi…

Không như giai đoạn sau 1975 kéo dài đến tận đầu thập niên 1990, khi những người chạy trốn cộng sản lén lút thu vén tiền bạc, vàng vòng để vượt biên, những chuyến “vượt biên” ngày nay công khai và rất rầm rộ. Ly hương chưa bao giờ là câu chuyện vui. Rời bỏ quê hương và gia đình không bao giờ là một chọn lựa dễ dàng. Thế nhưng người ta vẫn đi, nhất quyết phải đi, bằng mọi giá phải đi, khó cách mấy cũng đi, “chết” cũng đi, nuốt nước mắt mà đi!

Thử search nhanh trên mạng về dịch vụ visa Hoa Kỳ, visa Úc, visa Canada…, sẽ thấy vô số quảng cáo “cam đoan bảo đảm đậu”. Một công ty dịch vụ visa thậm chí “treo” slogan: “Đi Mỹ không suy nghĩ!”. Làm thế nào không thể không suy nghĩ khi quyết định phải đi, một quyết định làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời, một quyết định có thể biến mình từ một người có của ăn của để thành một người tay trắng lạc lõng nơi xứ người. Tuy nhiên, vô số người vẫn chấp nhận lấy số phận đặt cược cho ván bài lớn nhất đời người: bằng mọi giá phải đi, sẵn sàng đón chờ tất cả may rủi để đi. Có người thậm chí nói, đi đâu cũng được, nước nào cũng được, miễn thoát khỏi Việt Nam! Nghe đau không?

Những câu chuyện “làm thế nào để đi” đang được chia sẻ công khai hàng ngày. Dịch vụ du học mọc như nấm. Dịch vụ ngân hàng “hỗ trợ vốn” du học quảng cáo nhan nhản. Các chương trình EB1, EB3, EB5 giờ được nhiều người thuộc nằm lòng. Đó là những tấm vé vượt biên hợp pháp. Những tấm vé thay đổi số phận. Những “lá phiếu cử tri” minh chứng cho sự thất bại “toàn tập” của một chế độ. Những bằng chứng rõ ràng và cụ thể cho thấy chính sách cai trị của chế độ có kết quả ê hề và thảm hại như thế nào.

Có quá nhiều lý do để đi. Có người nói họ đi (hoặc muốn đi) vì đất nước không còn thuộc về dân tộc nữa. Có người nói thẳng rằng “Việt Nam bán nước cho Tàu rồi, ở lại làm gì!”. Có người nói, họ đi vì ngày càng “căm thù chế độ cộng sản”. Dù cảm tính hay không thì đó vẫn là những lý do có thực. Tuy nhiên, lý do lớn nhất và phổ biến nhất vẫn là vì tương lai con cái. Chẳng ai muốn con cái họ lớn lên trong môi trường giáo dục-y tế tồi tệ như vậy. Chẳng ai muốn tương lai con mình u ám và đen tối như số phận quốc gia. Không ai muốn để con mình trôi trên chiếc tàu vô vọng và vô định. Chẳng ai muốn con cái phải gánh chịu những hậu quả mà chính những kẻ có trách nhiệm trực tiếp và lớn nhất cũng đang phủi tay tháo chạy.

Một người bạn nói với tôi rằng, tôi có thể mua mọi thứ ở Việt Nam, tôi có thể sắm gần như bất kỳ chiếc xe nào, tôi có thể tậu gần như bất kỳ căn nhà nào, tôi có thể ăn bất kỳ nhà hàng sang trọng nào… nhưng có những thứ mà tôi không bao giờ có thể mua: tôi không thể mua được môi trường trong sạch, tôi không mua được ngôi trường có những giáo viên tử tế, tôi không mua được bệnh viện nơi tôi và con tôi không phải nằm vật vờ ở hành lang, tôi không mua được những con đường không bao giờ chứng kiến cảnh ngập lụt, tôi không mua được hệ thống công quyền tận tụy vì dân; và trên hết, tôi không thể mua được sự tự do – tự do cho cá nhân cũng như tự do cho tương lai con cái tôi.

“Chúc mừng bạn và gia đình đã lấy được visa định cư Hoa Kỳ!” – không có lời chúc nào nghe mỉa mai hơn vậy. Vì sao mà sau hơn bốn thập niên người ta vẫn mừng khi rời bỏ quê hương lên đường tha phương? Vì sao mà gần nửa thế kỷ trôi qua người ta vẫn phải “vượt biên” tỵ nạn cộng sản và “tỵ nạn” những hậu quả mà cộng sản gây ra? Vì sao mà sau những tuyên bố khẳng định chế độ đạt được hết thành tựu này đến thành công khác mà “cán bộ” cộng sản và đảng viên cộng sản vẫn bằng mọi giá đưa con cái họ ra nước ngoài?

“Chúc mừng bạn đã thoát được khỏi Việt Nam!” – không có lời chúc nào buồn và đau hơn. Một cách chính xác, lời chúc này không dành để nâng ly cho sự rời bỏ đất nước. Nó dành cho sự thoát được khỏi chế độ cai trị trên đất nước đó. Lời chúc đó là một cáo trạng cho chế độ. Chẳng ai vui (trừ “cán bộ” cộng sản) khi rời bỏ quê hương. Chẳng ai thoải mái khi bỏ hết tài sản lẫn thân nhân mà gạt nước mắt ra đi. Sự chọn lựa của họ quá khắc nghiệt: hoặc là một quê hương đang bị chế độ cộng sản tàn phá tan nát, hoặc là xứ lạ quê người nơi họ có thể dùng những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời để gieo những mầm hạt hy vọng cho tương lai con em mình.

Khi tôi viết những dòng này, ngoài kia, trước cổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ hoặc lãnh sự quán nào đó, hàng đoàn người dài dằng dặc vẫn đang xếp hàng chờ phỏng vấn visa. Trời nắng chang chang hoặc mưa mịt mù, họ vẫn kiên nhẫn. Họ nắm chặt sấp hồ sơ trong tay. Họ đang cố nắm chặt số phận mình. Con đường phía trước dù mờ mịt như thế nào thì ít nhất nó cũng dẫn đến một lối thoát cho tương lai con em họ…

NHỮNG NGỌN ĐUỐC SOI ĐƯỜNG

NHỮNG NGỌN ĐUỐC SOI ĐƯỜNG

Như vậy, không chỉ là hàng triệu người dân phải bỏ quê hương ra đi trong tương lai vô định, mà ở trong nội quốc đất nước xinh đẹp và đã từng là một quốc gia giàu có nhất, đã có nhiều người phải đổ máu hoặc hy sinh khi đứng lên đấu tranh đòi quyền được sống và quyền được tự do cho chính mình và con cháu mình.

Trong đó, cái chết (năm 2014) của cô gái xinh đẹp từng là Hoa hậu du lịch khi xuống đường biểu tình để giành lấy quyền làm chủ đất nước từ tay những kẻ độc tài lưu manh trên sự khốn cùng của nhân dân, đã cho ta thấy lòng quả cảm và sự kiên cường của người dân nơi đây, khi họ bị dồn tới đường cùng với tình cảnh đói khát triền miên và hỗn loạn diễn ra khắp nơi, cả trong hiện tại cũng như những vực thẳm phía trước vẫn còn đang chờ sẵn nếu họ tiếp tục chờ đợi và cam chịu sự dẫn dắt và đàn áp của chế độ phi nhân tính của Maduro.

Giống như cái chết của một nhân vật của Hungary thời còn theo chủ nghĩa cộng sản dưới sự thống trị của Liên Xô (đem quân đội vào tàn sát những người nổi dậy đòi độc lập năm 1956), anh ta đã tự thiêu (năm 1969) trở thành ngọn đuốc cho dân tộc và đã đánh thức được lòng yêu nước của nhân dân trong nước và từ đó tạo ra làn sóng đấu tranh rộng khắp trên toàn quốc. Và rồi cuối cùng, nhân dân đất nước này đã tìm thấy được tự do và tương lai tự quyết cho chính mình (năm 1989), nhờ việc đứng lên đấu tranh và phế truất được chính quyền độc tài đến tàn bạo mà chúng tự nhân danh nhân dân để cầm quyền.

Trên con đường giành độc lập, tự do và dân chủ, những hy sinh cao cả của mỗi cá nhân như những ngọn đuốc thắp lên ánh sáng soi đường và thúc giục những người sống đấu tranh và tiếp tục con đường, lý tưởng tươi đẹp đó để nó không bao giờ bị lãng quên hay nguội tắt. Vì tự do không hề miễn phí, và những chiếc bánh mỳ được phân phát từ chế độ độc tài không phải là tương lai của một dân tộc.

Những cánh tay giơ lên, ngày càng nhiều thêm, là gần kề tới ngày chế độ độc tài phải bị khuất phục và bị phế bỏ bởi nhân dân.

Fb Luân Lê

Image may contain: 1 person
Image may contain: 4 people, crowd and outdoor
Image may contain: 5 people
Image may contain: 1 person