Hình ảnh ghép chân dung Tổng thống Trump và Tổng thống Venezuela Maduro.
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump nói rằng triển khai quân tới Venezuela là “một lựa chọn”.
Trả lời phỏng vấn trên chương trình “Face the Nation” của kênh CBS hôm 3/2, ông Trump cũng cho biết đã từ chối đề nghị gặp của Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro.
Khi được hỏi điều gì sẽ buộc ông phải sử dụng quân đội Mỹ ở Venezuela, Tổng thống Trump dường như nói rằng khả năng đó đang được đặt trên bàn để cân nhắc, nhưng sau đó trả lời rằng “chắc chắn đó là một lựa chọn”.
Về câu hỏi liệu cá nhân ông có muốn đàm phán với ông Maduro để thuyết phục ông này rời chức hay không, ông Trump trả lời rằng “ông ta đề nghị gặp và tôi đã từ chối vì chuyện đi quá xa rồi”.
Khi được hỏi thêm rằng là đề nghị đó được đưa ra khi nào, ông Trump nói rằng “một vài tháng trước”.
Sau khi người phỏng vấn nói tiếp rằng nhưng giờ đang xảy ra “một cuộc khủng hoảng”, Tổng thống Trump trả lời rằng “chúng ta phải chờ xem”.
Tổng thống Maduro hôm 30/1 cảnh báo rằng sự can thiệp của Hoa Kỳ vào nước ông “sẽ dẫn tới một Việt Nam mới tệ hơn họ tưởng”.
Trong một thông điệp đăng trên mạng xã hội bằng cả tiếng Anh và Tây Ban Nha, nhà lãnh đạo bị nhiều nước quay lưng kêu gọi người dân Mỹ “ủng hộ” mình nhằm ngăn chặn chính quyền của Tổng thống Donald Trump biến Venezuela “thành một Việt Nam ở khu vực Mỹ Latin”.
Lãnh tụ đối lập Venezuela: Đừng đụng tới gia đình tôi
Trong một diễn biến khác, theo Reuters, Ngoại trưởng Thổ Nhĩ Kỳ Mevlut Cavusoglu hôm 3/2 nói rằng các nước công nhận lãnh đạo tự xưng của Venezuela, ông Juan Guaido, đang gây thêm bất ổn cho Venezuela và đẩy hàng triệu người dân nước này vào cảnh khốn cùng.
Ông Cavusoglu cho rằng thay vì ủng hộ ông Guaido, các quốc gia đó nên nỗ lực thúc đẩy các cuộc đàm phán nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng ở Venezuela.
Trước đó, Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Tayyip Erdogan đã kêu gọi ông Maduro đứng vững trước điều ông miêu tả là “các diễn biến phản dân chủ”.
Báo Thanh tra: “GDP 190 tỷ USD, mất 20-40 tỷ USD vì tham nhũng”. Tức là tham nhũng đã lấy đi mất lên đến 21,1% tổng sản phẩm trong nước. Nói nôm na là bạn là làm ra 5 đồng thì mất tiêu 1 đồng vì tham nhũng.
Cứ vào dịp cuối năm âm lịch là từ đô thị sầm uất đến nông thôn hẻo lánh, đâu đâu cũng có câu khẩu hiệu “mừng đảng, mừng xuân”. Nhưng hỏi “đảng” là cái gì? Tại sao phải “mừng”? Thì ngay cả chính những người viết câu khẩu hiệu cũng không trả lời thuyết phục được.
1. “Đảng” là cái gì?
Tìm hiểu từ Hiến pháp trở xuống các văn bản pháp luật dưới nữa, không thấy định nghĩa “Đảng là cái gì?”
Còn tra từ điển tiếng Việt online: “đảng” là danh từ chỉ nhóm người kết nối với nhau để cùng thực hiện một mục đích chung nào đó, trong sự đối lập với những nhóm người khác; đồng nghĩa với bè, phái, phe.
Còn có ai muốn biết “đảng là cái gì” rõ hơn nữa thì nên đọc “Cửu bình” trên Google.
Bài viết này nên hiểu “đảng” (không viết hoa) theo định nghĩa tiếng Việt.
2. Tại sao phải “mừng đảng”?
a. Báo Thanh tra: “GDP 190 tỷ USD, mất 20-40 tỷ USD vì tham nhũng”. Tức là tham nhũng đã lấy đi mất lên đến 21,1% tổng sản phẩm trong nước. Nói nôm na là bạn là làm ra 5 đồng thì mất tiêu 1 đồng vì tham nhũng.
b. Theo nhận định của ông Lê Minh Trí – Phó trưởng Ban Nội chính Trung ươngthì “Tham nhũng chỉ có cán bộ đảng viên thôi…”
c. Thiếu tướng Phan Anh Minh, Phó Giám đốc Công an Tp HCM thì nói thẳng “Hầu hết đối tượng gây ra hành vi tham nhũng từ đảng viên”
Suy luận logic: với abc nêu nêu trên, thì suy ra: “đảng” sinh ra đảng viên, tham nhũng chỉ có (hoặc hầu hết) là đảng viên; riêng tham nhũng lên đến 20% GDP.
Ông Minh còn nói thêm “mà công an không được tổ chức trinh sát đảng viên”, có nghĩa tham nhũng vẫn cứ tồn tại khi còn đảng viên, tức là còn “đảng”.
Vậy là vì có “đảng” mà nhân dân bị mất 20% tài sản và sẽ còn tiếp tục mất nữa. Mà đây là khoản mất phi pháp; còn những khoản mất hợp pháp, con số này cũng không nhỏ đâu!
Ai muốn mừng thì cứ mừng, mừng cũng là quyền con người, miễn đừng ai ép bạn “mừng” là được.
Nếu người bạn mừng đã trấn lột 20% số tiền của bạn thì bạn sẽ “vui mừng” hay “thù hận”?
Nhân cách “Công dân Việt Nam” bị thế giới xếp vào hạng áp cho’t.
Khi nào bạn tỉnh ngộ nhận ra nhân phẩm của bạn bị cả thế giới coi thường và khinh bỉ?
Đó là lúc bạn có việc cần đi du lịch hoặc thăm viếng thân nhân ở một đất nước nào đó trên quả địa cầu, bạn sẽ thấy vấn đề xin visa vào nước đó đối với người có quốc tịch Việt Nam thật hết sức nhiêu khê.
Người ta không muốn chào đón bạn!
Bạn phải làm đầy đủ và rất nhiều thủ tục/kể cả phóng vấn để có thể/hy vọng xin được visa cho phép nhập cảnh vào đất nước bạn cần đến thăm.
Bạn phải kê khai rất chi tiết về mọi vấn đề về cá nhân và thân nhân của bạn, có nhiều chi tiết bạn không ngờ và có những ràng buộc hầu như bạn không thể đáp ứng được.
Bạn còn buộc phải giải trình mục đích chuyến đi, cam đoan và hứa hẹn sẽ chấp hành mọi quy định của nước sở tại và rời khỏi đất nước đó theo quy định và trước khi visa hết hạn.
Tại sao các nhà nước trên thế giới đối xử hết sức khắc khe với công dân Việt Nam?
Tự bạn tìm ra câu trả lời!
Trên đây là tất cả những gì về sự thật, tuy nhiên khi cần, bạn cũng phải mạnh dạn trải qua.
Và bạn chua chát nhận thấy rằng nhân phẩm của con người Việt Nam/nhân phẩm của chính bạn sao quá rẻ rúng và bị xếp vào hạng áp chốt.
Bạn tự giận mình hay bạn cay đắng nhận ra bộ mặt thật chế độ của đất nước bạn đang sống !?.
.
Hộ chiếu Việt Nam xếp áp chót ở Đông Nam Á
Đông Nam Á hiện nay có 11 nước, gồm có 10 nước ASEAN và một nước mới thành lập năm 2001 là Đông Timor (Timor Leste).
Hãng nghiên cứu Henley & Partners xếp hộ chiếu Việt Nam hạng thứ 10/11 nước trong khu vực Đông Nam Á (thua cả Lào và Campuchia) và hạng thứ 90 trên thế giới.
Chỉ số Hộ chiếu (Passport Index) được công bố hàng năm, dựa trên số lượng quốc gia mà người mang hộ chiếu được nhập cảnh mà không cần xin thị thực (visa).
Visa hay thị thực nhập cảnh là một văn bản cấp cho cá nhân, cho phép một công dân nước ngoài vào nước mình.
Thị thực là một hình thức hạn chế nhập cảnh do những lo ngại về an ninh, kinh tế, sức khoẻ, trật tự xã hội.
Hộ chiếu nước nào càng được nhiều quốc gia cho phép nhập cảnh mà không cần thị thực thì có nghĩa là nước đó càng được tín nhiệm hơn.
Trong khu vực Đông Nam Á, hộ chiếu của Singapore là mạnh nhất vì có thể đi được 189 nước, trong khi cả thế giới chỉ có trên dưới 200 nước.
Còn hộ chiếu Việt Nam xếp áp chót khu vực khi chỉ đi được 51 nước, kém hơn cả Lào và Campuchia.
Điều này phản ánh rằng người Việt Nam không được chào đón trên thế giới.
*
Theo Henley Passport Index, bảng tổng sắp chỉ số được thực hiện bởi Công ty Tư vấn công dân và cư dân toàn cầu Henley&PartnersCitizens, Nhật Bản đã trở thành nước sở hữu cuốn hộ chiếu quyền lực nhất hành tinh.
Được miễn visa (thị thực), công dân Nhật hiện có thể không cần visa hoặc chỉ phải làm thủ tục visa tại cửa hải quan (visa on arrival) tại 190 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Như vậy, cuốn hộ chiếu của công dân Nhật Bản đã vượt qua Singapore với 189 điểm đến để soán ngôi đầu bảng.
Bà Dương Thị Lanh, một Facebooker ở tỉnh Đắk Nông vừa bị bắt hôm 30/1/2019 khi lên Ủy ban nhân dân xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’Lấp theo giấy triệu tập lần 1 của Cơ quan điều tra để làm việc liên quan đến 2 tài khoản Facebook có tên “Uyên Thùy” và “Mai Bùi”.
Ông Trần Côi, chồng của bà Lanh xác nhận với Đài Á Châu Tự Do thông tin về việc bắt giữ tuy nhiên cho hay công an Đắk Nông không đưa ra bất kỳ giấy tờ nào để chứng minh.
“Nó chỉ có đánh giấy mời đi làm việc cuối năm, ghi trong đó là có liên quan đến Facebook Uyên Thùy, Mai Bùi; nó hẹn 2 giờ lên làm việc, khi lên thì nó bắt luôn.
Lúc bắt em ở nhà thì em không biết, lúc nó nhốt xong nó chở Ngọc Lan (nickname Facebook của bà Lanh) quay lại nhà nó khám xét nhà.
Em mới hỏi là có lệnh khám xét nhà không, thì nó nói là vợ anh đã bị tạm giam rồi, nên giờ tôi có lệnh khám xét nhà. Xong em hỏi: Ủa, lý do gì tạm giam, có lệnh bắt không?
Nó nói: bắt hay không anh không cần hỏi là cái thứ nhất.
Cái thứ hai là hỏi bắt về tội gì, nó không trả lời kêu hỏi vợ anh, là tụi tui không trả lời. Nó chỉ đọc lệnh khám xét nhà thôi,” ông Trần Côi thuật lại việc bắt giữ của cơ quan công an.
Giấy triệu tập lần 1 với bà Dương Thị Lanh Courtesy of FB Trần Côi
Theo ông Trần Côi, khi khám xét nhà vào chiều ngày 30/1, lực lượng công an thu giữ 1 số tài sản gồm quần áo và nón giống đồ của lính Mỹ và 3 cái điện thoại, đồng thời thông báo bà Lanh sẽ bị tạm giam 3 tháng ở trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Nông.
Đài Á Châu Tự Do gọi điện thoại cho đường dây nóng của Công an tỉnh Đắk Nông, để hỏi về trường hợp này, tuy nhiên người trực ban nói “không có thông tin gì”
Bà Dương Thị Lanh, sinh năm 1982, hiện đang sinh sống tại xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông.
Trong đoạn live stream cuối cùng trên tài khoản SG Ngọc Lan vào ngày 27/1/2019 bà Lanh cho hay, bản thân có tham dự cuộc biểu tình chống dự thảo Luật Đặc khu và Luật An ninh mạng vào tháng 6/2018 và bị bắt giữ cùng với 10 người khác hôm 11/6/2018 khi đang ngồi ở công viên tại Quận 1, TPHCM.
Theo đó, tại trụ sở Công an bà bị phạt 150 ngàn đồng và được trả tự do.
Bà Lanh phủ nhận mình là thành viên của nhóm Hiến pháp cũng như cho hay đã từng ủng hộ tổ chức Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời của ông Đào Minh Quân vào năm 2017, tuy nhiên sau đó không còn ủng hộ nữa.
Chúng tôi được biết bà Dương Thị Lanh là người thứ 3 bị bắt giữ trong năm 2019.
Trước đó, ngày 12/1/2019, Công an TPHCM bắt giữ 2 ông Châu Ngọc Khảm, người Úc gốc Việt là thành viên của Việt Tân và ông Nguyễn Văn Viễn, thành viên của hội Anh em dân chủ.
Tổ chức Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam cũng có báo cáo về trường hợp Facebooker Huỳnh Minh Tâm ở Đồng Nai bị bắt giữ hôm 26/1/2019, tuy nhiên Đài Á Châu Tự Do chưa xác minh được thông tin này.
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đêm Tam Giác Vàng & Ngày Trên Cầu Biên Giới
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đêm Tam Giác Vàng & Ngày Trên Cầu Biên Giới
tuongnangtien
Đường đời muôn vạn nẻo
Đâu lối về quê hương?
Giao Chỉ – Vũ Văn Lộc
Xong mấy việc lặt vặt ở Nam Vang, tôi qua Chiang Rai. Đây là một tỉnh lỵ ở cực bắc của Thái Lan – nằm một phần trong khu Tam Giác Vàng – thuộc vùng tam biên giữa Miến, Lào và Thái. Vì không “gây thương để nhớ” cho ai – ngoài dăm ba đứa trẻ thơ đen đủi, và ngơ ngác giữa Biển Hồ – nên tôi cứ lặng lẽ mà đi thôi, chả có song ca (hay hát đôi) bài Biệt Ly với bất cứ ai!
Ấy thế mà vừa xuống phi trường Mae Fah Luang, đã thấy tin nhắn của cố nhân qua fb:
·Còn ở Phnom Penh không?
Đáp:
·Sang Thái rồi. Tính mai chạy lên Tam Giác Vàng, rồi mốt đi bộ qua Miến Điện chơi chút xíu…
· Trời! Muốn qua Burma thì nên xin visa cho nó đàng hoàng, dù có hơi tốn kém và mất công hơn chút xíu. Cũng như Golden Triangle, Myanmar không phải là đất lành đâu nha – thí chủ à!
Tôi cười (khà khà) mình ên. Ông bạn này đã từng ra vô Việt Nam vài lần, và lần nào cũng làm hao tốn không ít giấy mực của báo Quân Đội Nhân Dân (với rất nhiều lời lẽ vu khống và bịa đặt bẩn thỉu) vậy mà sau khi trở thành một nhà sư – sư Minh Trí bỗng trở nên cẩn thận và hiền lành thấy rõ.
Ông bạn (vong niên) khác – một nhà văn tăm tiếng, và nổi tiếng lang bạt kỳ hồ – cũng nói đến Golden Triangle, với ít nhiều dè dặt:
“Với diện tích khoảng 195 ngàn km2 với lịch sử là những năm máu me liên quan tới sản xuất và buôn bán ma túy đem lại lợi nhuận hàng triệu đôla nên có tên là Tam Giác Vàng. Đây là khu vực nổi tiếng với huyền thoại về những đoàn xe do lừa kéo có võ trang chuyên trở toàn thuốc phiện trong một vùng rừng núi rộng lớn không luật pháp chỉ có quyền uy bằng súng đạn giữa các lãnh chúa… Phúc và họa, khúc sông Mekong chảy qua khu Tam Giác Vàng đôi khi đỏ ngầu ấy vừa là mạch sống và cũng là dòng chảy có lẫn máu và cả nổi trôi những xác chết.” (Ngô Thế Vinh. Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng. Văn Nghệ: California, 2000).
Tôi chạy tới nơi thì “khúc sông Mekong chảy qua khu Tam Giác Vàng” chả còn máu me gì nữa, xác chết cũng không, chỉ thấy tấp nập ghe thuyền cùng những đoàn người ồn ào (xì xào) đến từ Trung Hoa Lục Địa. May là họ đi theo tour nên sự náo nhiệt cũng mất hẳn, khi những chiếc xe bus to đùng chất đầy du khách đã rời bãi đậu, lúc vừa nhạt nắng.
Có lẽ chỉ mỗi mình tôi còn ở lại, ngơ ngác giữa trời chiều, với dòng nước đục ngầu phù sa đang mải miết và cuồn cuộn cuốn nhanh. Rồi ngày tàn, đêm đến. Đêm Golden Triangle êm ả và tĩnh lặng. Hàng quán đóng im ỉm, đèn đóm lờ mờ. Phố xá vắng tanh. Chỉ thấy năm ba con chó ốm loanh quanh, thơ thẩn.
Nhà trọ nằm cạnh bờ, nhìn ra khúc giao lưu của hai nhánh sông từ Lào và Miến. Từ đây Khong River sẽ tiếp tục xuôi dòng theo nước Thái, vượt qua Cambodia, rồi trở thành Cửu Long Giang khi vào đến xứ mình.
Bộ ở đây không còn có sản phẩm gì khác, ngoài gái gú, sao Trời? Cách đây chưa lâu, chỉ mới đôi ba năm trước, tôi còn cảm thấy vô cùng xúc động khi (lần đầu tiên) nhìn thấy hàng chữ “Moving Myanmar Forward” in trên một chiếc taxi ở tỉnh Bago.
Ở thời điểm này, Miến Điện đang nỗ lực chuyển động và cố nhoai mình về phía trước – moving forward – dưới sự thúc đẩy của hai nhân vật sáng giá, được cả thế giới mến mộ: tổng thống Thein Sein và nhà lãnh đạo đối lập Aung San Suu Kyi.
Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 2018 vừa qua, Viện Bảo Tàng Holocaust của Hoa Kỳ đã thu hồi giải thuởng nhân quyền trao tặng cho Suu Kyi vì “đã không tỏ thái độ thích đáng trước các vụ giết người tập thể nhắm vào cộng đồng sắc tộc thiểu số Hồi Giáo Rohingya.” Sang tháng 9, Hạ viện Canada lại tước danh hiệu công dân danh dự của bà cũng vì những lý do tương tự. Đến tháng 11 năm 2018, theo BBC, Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế sẽ tước giải thưởng cao nhất họ đã trao cho Aung San Suu Kyi vì “thất vọng sâu sắc về chuyện bà không lên tiếng bảo vệ cho người thiểu số Rohingya theo đạo Hồi.”
Burma, xem ra, không “nhoai” được bao xa. Và nhân loại, xem chừng, đã đặt kỳ vọng (cũng như ghánh nặng) quá lớn trên đôi vai mảnh mai của người phụ nữ lãnh đạo dân sự của xứ Chùa Vàng.
Nguyễn Ngọc Sẵng (Danlambao) – Cách đây mấy tháng, Thủ tướng Phúc niễng của CSVN thỏ thẻ “lắng nghe hơi thở kiều bào”. Tội nghiệp ông thương đồng bào sống sung túc nơi quê người, đất khách và muốn lắng nghe họ thở. Phải chi ông lắng nghe dân mình đang lây lất xếp hàng rồng rắn trước trụ sở tiếp dân Trung ương để nghe họ muốn gì, nguyện vọng họ thế nào, họ còn thở nữa không sau những lần các ông siết cổ họ và gia đình họ. Đó mới là việc cần làm, chớ đám kiều bào đâu cần ông lắng nghe. Ông bợ họ không đúng chỗ, mà cứ bợ hoài.
Người dân đau khổ, oan ức vì bị cướp đất ở Thủ Thiêm, người dân Lộc Hưng bị phá nhà vào dịp giáp Tết cần ông nghe hơi thở, tiếng nói đau thương của họ. Họ cần có nơi trú ngụ trong mùa đông lạnh lẽo, cần chổ đặt bàn thờ để rước Ông Bà trong ba ngày Tết, họ bị chế độ của ông giật sập nhà thành bình địa. Họ kêu than khóc lóc thảm thiết, họ không nơi nương tựa trong lúc xuân về. Họ cần ông lắng nghe, họ cần ông biết họ còn thở nổi dưới chế độ cộng sản nữa không. Chớ đám kiều bào cần quái gì đến các ông.
Ông không thèm đếm xỉa đến nguyện vọng họ, ông dùng bọn côn đồ, phương tiện cơ giới giật sập nhà họ để lấy mảnh đất vàng này đem bán lấy đô la, chia chác với nhau. Người cộng sản đang hốt hụi chót trước khi tháo chạy.
Không lắng nghe dân, vậy ông hãy lắng nghe những gì đang xảy ra ở Venezuela để mà “liệu bề cao chạy xa bay” (Kiều).
Tổng Thống Murado, tên độc tài, tham tàn, biến đất nước từ quốc gia dầu hoả giàu có thành đất nước hoang tàn, dân chúng phải kéo bầy chạy ra nước ngoài để thoát nạn đói vì chế độ Xã Hội Chủ Nghiã mà hắn áp đặt. Một chế độ mà loài người đã ném vào xọt rác gần cả nửa thế kỷ mà những tên u tối, mê muội vẫn dùng để kiềm hảm đất nước, bóc lột, vơ vết dân chúng cho đầy túi tham trước khi bỏ trốn ra nước ngoài sống cuộc đời vương giả. Ông thử hỏi ông Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Trọng của ông để biết XNCN là hoang tưởng.
Murado, ngày 27/1, cùng vợ còn ngồi trên xe tăng trên đường phố để trấn an dân chúng, trấn áp tinh thần phe nổi dậy, thì hôm sau Mỹ tuyên bố cấm vận, đóng băng tài sản Venezuela. Đồng thời Tổng thống Trump kêu gọi quốc tế chọn vị trí mình trong cuộc cách mạng dân chủ của người dân Venezuela. Canada, những nước Nam Mỹ đáp lời kêu gọi ông Trump và Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha đã đồng thanh ủng hộ người dân Venezuela. Vương quốc Anh đóng băng tài sản Murado trước nhất.
Ngày 24 tháng 1, tại Việt Nam giáo sư Tương Lai tuyên bố: “Tôi rất mừng khi tình hình Venezuela hôm nay cho thấy những chế độ độc tài, toàn trị không thể tồn tại được và sớm hay muộn thì những kẻ độc tài, thể chế độc tài, phi dân chủ cũng phải chịu số phận bị lật đổ.”
Nhà văn, nhà quan sát Nguyễn Viện nói với BBC hôm 24/1: “Liên hệ với tình hình Việt Nam, tôi tin rằng một Juan Guaido trẻ trung, can đảm sẽ gợi cảm hứng cho tuổi trẻ Việt Nam một cách tích cực. Tôi cũng mong các nhà lãnh đạo trong nước luôn biết lắng nghe nhân dân của mình, kịp thay đổi trong hòa bình. Tất cả mọi tham vọng quyền lực đều sẽ bị trả giá nếu nó không hướng về phía tự do và hạnh phúc của nhân dân.”
Nhà báo Ngô Nhật Đăng viết: “Theo các chuyên gia mà chúng tôi tiếp xúc đều có chung nhận định rằng, để Việt Nam không phải rơi vào tình trạng như Venezuela trong tương lai thì phải có sự đồng thuận từ hai phía chính quyền và người dân. Lãnh đạo phải dũng cảm lắng nghe và phải có sự thay đổi từ bên trên giống như là một sáng kiến để huy động sức mạnh của dân tộc, ‘túi khôn’ của dân tộc nằm trong dân chúng”.
Với chính sách loại bỏ những nước xã hội chủ nghĩa còn sót lại, Tổng thống Trump từng bước thực hiện chính sách này.
Ngày 19 tháng 1/2019 chính quyền Trump tuyên bố mọi lựa chọn đã có sẵn, bao gồm hành động quân sự trong việc loại trừ Maduro ra khỏi quyền lực. Bộ Trưởng Nội an John Bolton hé lộ con số 5000 binh sĩ Mỹ sẽ chuyển tới Colombia, nước láng giềng của Venezuela, nơi mà phản lực cơ của Mỹ chỉ mất 45 phút sẽ có mặt tại Caracas, thủ đô Venezuela.
Thế cờ mà Nguyễn Xuân Phúc và những người cộng sản bán nước, hại dân phải biết trước khi quá trễ. Phải nhìn thẳng sự thật đừng nhìn niễng sẽ không thấy. Hôm qua một chiếc phản lực cơ của Nga hạ xuống phi trường Caracas mà báo chí loan tin là để chuyển 20 tấn vàng sang Nga. Murado đang nhanh chóng chuyển tài sản để tháo chạy.
Hiện Murado bày tỏ muốn thương lượng với phe nổi dậy. Nguyễn Xuân Phúc đoán thử coi Murado muốn thương lượng điều gì? Tôi nghĩ dù Bộ Chính Trị của các ông có nhiều tên (không phải vị) như tiến sĩ xây dựng đảng Nguyễn Phú Trọng cũng có thể biết được là Murado muốn người dân cho hắn được rời đất nước bình an và mang theo tất cả tài sản cướp được từ bao lâu nay.
Các ông sẽ đến ngày đó và không xa, nhưng các ông tinh ma hơn Murado, các ông, đa số đã chuyển tiền bạc ra nước ngoài, mua nhà cửa, cho con cái ra nước ngoài hết rồi. Kinh nghiệm cướp đất, cướp chính quyền dạy cho các ông bài học đó, nên đã chuẩn bị trước. Khi tình hình bất ổn, chỉ việc chạy ra sân bay để hạ cánh an toàn tại các nước tư bản mà các ông rêu rao luôn giãy chết.
Các ông còn tinh ranh hơn khi đặt ra qui định những cán bộ cao cấp từ Bộ Chính trị, những bộ trưởng, thứ trưởng, các tướng Lãnh được quyền chạy xe thẳng vào sân bay, được đậu xe cập sát phi cơ để có bề gì là thoát thân trước khi nhân dân lôi ra xử tội. Các ông tính rất chi li, xứng đáng là bọn tinh ma.
Có ai trong đám cán bộ cao cấp dám nói rằng mình không có hộ chiếu của nước ngoài? Hầu hết các ông cao cấp cộng sản đều im thinh thích, thủ sẵn trong nhà hộ chiếu nước ngoài cho mình và vợ con còn tại Việt Nam, những người này còn nán lại để vơ vét thêm trước khi chạy.
Có một điều mà các ông nên biết là Tổng thống độc tài, tham nhũng Ferdinand Marcos khi bị nhân dân Phi Luật Tân lật đổ và sống lưu vong ở Hawaii, trong ngân hàng Thụy Sĩ ông có 4 tỷ Mỹ Kim, không phải bán chổi đót bịp, nuôi heo láo như các ông. Khi Marcos qua đời tại Hawaii, Bà Marcos xin hưởng số tiền đó, nhưng ngân hàng Thụy Sĩ từ chối với lý do tiền đó là do tham nhũng, Thụy Sĩ sẽ trả lại cho đất nước Phi Luật Tân. Bà cựu Đệ nhất phu nhân Phi trong những ngày cuối đời phải bán những tư trang còn lại để sinh sống. Người từng nổi danh thế giới sở hữu 2 ngàn đôi giầy, sống xa hoa trên xương máu dân mình cuối đời phải trả giá. Các ông không ngoại lệ, tiền tham nhũng sẽ trả lại cho nhân dân Việt Nam. Đừng hòng hưởng xương máu, nước mắt của người dân nghèo khó.
Người cộng sản bán nước, hại dân các ông đừng quên vợ chồng tên độc tài Nicolae Ceausescu, chỉ qua 1 giờ xử án vội vàng và đem ra xử bắn lập tức lúc 4 giờ chiều cùng ngày kết liểu cuộc đời tên bạo chúa Romania.
Các ông hãy suy gẫm những tấm gương này để tìm lối thoát cho đất nước, cho bản thân các ông.
Đừng để dân tộc này đổ máu thêm nữa và chắc chắn những vũng máu trong tương lai có máu của các ông, gia đình, họ hàng các ông và những vũng máu này không thể hoà vào máu dân tộc được.
Đừng lắng nghe hơi thở kiều bào nữa, vì kiều bào mà tên mất dạy Phạm Văn Đồng đã tuyên bố ở Paris năm 1977 rằng đó là những rác rưởi, cặn bã của xã hội đang trôi dạc sang bên kia bờ đại dương để hưởng bơ thừa sữa cặn của đế quốc Mỹ.
Có lắng cách mấy cũng không nghe được đâu. Thôi thì “tẫu vi thượng sách”.
RFI: Trung Quốc đưa Venezuela đến bờ vực hỗn loạn như thế nào
Trọng Thành Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro (T) gặp lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình, Bắc Kinh, 22/09/2013.REUTERS/Lintao Zhang/Pool
Tình hình tại Venezuela cuối tháng 1/2019 này đang hết sức căng thẳng. Xung đột có thể bùng nổ, giữa một bên là một tổng thống bị mất lòng dân, nhưng được quân đội và Nga, Trung Quốc ủng hộ, và bên kia là chủ tịch Quốc hội tự phong làm tổng thống, được Hoa Kỳ và nhiều nước phương Tây hậu thuẫn. Vì sao một quốc gia giàu tài nguyên bậc nhất thế giới lại chìm trong lạm phát kinh hoàng, kinh tế hoàn toàn kiệt quệ, chế độ chính trị ngày càng độc đoán và bất lực, đẩy đất nước đến bờ vực rối loạn, có nguy cơ nội chiến hoặc can thiệp quân sự từ bên ngoài?
Đất nước Venezuela sở dĩ rơi vào tình trạng bên bờ hỗn loạn hiện nay một phần rất lớn là do chính sách của Trung Quốc với Caracas, từ gần 20 năm qua. Dùng dòng tín dụng lớn để khuyến khích chế độ Venezuela bám chặt lấy ảo tưởng ý thức hệ «xã hội chủ nghĩa», bám chặt lấy việc xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản như phương thức sống còn chủ yếu. Kết quả là tạo ra một tầng lớp quan chức ăn bám, tham nhũng, một bộ phận đông đảo dân chúng bị ru ngủ trong các ảo ảnh. Sau đây là phần tổng hợp thông tin từ báo chí, về vai trò của Trung Quốc trong cuộc khủng hoảng Venezuela hiện nay. *** Quan hệ của Trung Quốc với «chế độ xã hội chủ nghĩa Venezuela» khởi đầu ra sao? Dầu mỏ là duyên nợ của Venezuela với Trung Quốc. Trang mạng SupChina, có trụ sở tại New York, tháng 1/2019 này, có loạt bài «The Venezuela-China relationship, explained» đáng chú ý.
Năm 1996, Venezuela thu được hơn một tỉ đô la nhờ bán dầu cho các nước châu Á – Thái Bình Dương, chủ yếu là cho Nhật Bản. Dầu thô của quốc gia Nam Mỹ này bắt đầu được bán sang Nhật từ năm 1988. Ngay trước khi ông Hugo Chavez đắc cử tổng thống năm 1998, tập đoàn dầu mỏ Trung Quốc (NPCC) đã tìm cách đàm phán để được chính quyền lúc đó cho phép khai thác dầu ở Venezuela. Những người ủng hộ ứng cử viên tổng thống Chavez đã tố cáo chính sách bán tài nguyên cho «các thế lực đế quốc».
Sau khi lên nắm quyền, chế độ Chavez tìm thấy ở Trung Quốc đồng minh ý thức hệ hiếm có. Tổng thống Chavez đã không thay đổi các hợp đồng đã ký của Trung Quốc với chính quyền tiền nhiệm, và thậm chí còn mở rộng hơn.
Tháng 4/2001, ông Giang Trạch Dân – lãnh đạo Trung Quốc thời đó – đã đích thân tới Venezuela, ký kết nhiều hợp đồng, mở đầu cho quan hệ gắn bó kéo dài đã hơn 17 năm trời. Năm 2004 là một bước ngoặt lớn trong quan hệ hai nước. Bắc Kinh và Caracas ký thỏa thuận cho phép mỗi bên đầu tư tại quốc gia đối tác, mà không phải nộp thuế. Caracas cũng dành cho Bắc Kinh nhiều chế độ ưu đãi về thuế nhập khẩu, hơn hẳn với Hoa Kỳ.
Venezuela được Bắc Kinh coi là cánh cửa mở vào Nam Mỹ. Năm 2005, Trung Quốc đầu tư một tỉ đô la vào quốc gia này, hơn tất cả các nước khác trong khu vực. Vào thời điểm này, đã có khoảng 20 doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại Venezuela trong đủ các lĩnh vực, từ khai thác dầu mỏ, khai thác khoáng sản, đến xây dựng đường sắt, các hạ tầng giao thông khác, viễn thông, năng lượng, nông nghiệp, sản xuất dụng cụ điện tử gia dụng…
Năm 2005 cũng là năm mà tổng thống Venezuela Chavez quyết định đình chỉ quan hệ hợp tác lịch sử về quân sự với Hoa Kỳ, để xích lại gần Trung Quốc hơn. Năm 2007, thành lập Quỹ chung Trung Quốc – Venezuela. Thương mại song phương tăng cường, với tổng giá trị vượt quá 4 tỉ đô la. Quan hệ giữa Bắc Kinh và Caracas ngày càng mật thiết. Tuy nhiên cũng bắt đầu từ thời điểm đó, Venezuela trở thành quốc gia mắc nợ Trung Quốc nhiều nhất tại châu Mỹ Latinh, với khoảng 5 tỉ đô la.
Phải chăng mục tiêu chính của Trung Quốc là khai thác khoáng sản, còn các đầu tư cho phát triển khác chỉ là để mỵ dân? Thực tế cho thấy, tình trạng tài chính và kinh tế của Venezuela ngày càng tồi tệ cùng lúc với ảnh hưởng tài chính và kinh tế của Trung Quốc tại nước này càng gia tăng. Nhìn chung, Trung Quốc không bao giờ công bố số tiền cho vay với các dự án cụ thể nào, cũng như điều kiện cấp tín dụng. Tình trạng mù mờ này là mảnh đất màu mỡ cho nạn tham nhũng bùng phát.
Theo một số nhà quan sát, tín dụng của Trung Quốc cho Venezuela, với 60 tỉ đô la, chiếm khoảng 40% tổng tín dụng của nước này cho các nước Mỹ Latinh. Nhìn chung, Trung Quốc dành đến 90% đầu tư trực tiếp tại châu Mỹ Latinh cho các hoạt động khai thác khoáng sản, và tình hình cũng tương tự tại Venezuela.
Một trong các dự án đầu tư của Trung Quốc được quảng bá rầm rộ tại Venezuela là dự án xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên của châu Mỹ Latinh, trị giá 7,5 tỉ đô la, do tập đoàn xây dựng đường sắt cao tốc lớn nhất thế giới, của Trung Quốc, China Railway Group, thực hiện. Dự án khởi sự năm 2009, đã hoàn toàn đổ bể sau đó. Năm 2015, tập đoàn Trung Quốc âm thầm rút, để lại món nợ 400 triệu đô la cho Venezuela. Cho đến gần đây, nhiều người dân vẫn tin tưởng sẽ có một ngày nào đó công ty Trung Quốc trở lại.
Tình hình tương tự với dự án phát triển các ngành công nghiệp của Venezuela. Một ví dụ tiêu biểu là công ty điện tử viễn thông Orinoquia của Venezuela, ra đời năm 2010, với 35% vốn do tập đoàn Hoa Vi Trung Quốc đầu tư. Tuy nhiên, các dự án mà Hoa Vi hứa hẹn đã không bao giờ trở thành hiện thực.
Trên thực tế, trong lúc sản xuất nội địa của Venezuela không ngóc đầu lên được, thì hàng xuất khẩu từ Trung Quốc ồ ạt đổ vào nước này. Nếu như năm 1998, trước khi ông Chavez lên nắm quyền, chỉ có 0,18% hàng nhập khẩu đến từ Trung Quốc, thì 14 năm sau, tỉ lệ này lên đến 34,9%.
Bắc Kinh cũng có một số dự án trọng điểm thành công mang tính biểu tượng với Venezuela, như phóng vệ tinh, với sự hỗ trợ của Trung Quốc. Năm 2017, Caracas phóng thành công vệ tinh quan sát thứ ba lên quỹ đạo. Đây có thể là một hành động của chế độ Bắc Kinh nhằm quyền rũ chính quyền Venezuela.
Đầu năm nay, bất chấp Venezuela – quốc gia đối tác hàng đầu của Bắc Kinh tại châu lục – đang chìm sâu trong khủng hoảng, bên bờ hỗn loạn, lãnh đạo ngoại giao Trung Quốc tại Chilê tiếp tục có một bài phát biểu hùng hồn quảng bá cho dự án Con Đường Tơ Lụa Trên Biển, coi các nước Nam Mỹ là «thành phần tự nhiên» và các đối tác không thể thiếu của dự án quốc tế khổng lồ mà Trung Quốc khởi xướng và chủ trì.
Sau khi lãnh đạo Chavez qua đời năm 2013, phải chăng Trung Quốc đã gia tăng nỗ lực biến Venezuela thành một chư hầu, thúc đẩy Caracas tăng cường khai thác tài nguyên để hoàn nợ? Trong bài viết mang tựa đề «Venezuela and China: a perfert storm / Venezuela và Trung Quốc: Một sự nhiễu loạn hoàn hảo» (1), nhà nghiên cứu Matt Ferchen, chuyên về mô hình phát triển Trung Quốc, quan hệ Bắc Kinh với các nước Mỹ Latinh nhận xét : Ngay cả sau khi đã biết Venezuela lún sâu vào khủng hoảng gần như không có lối ra, Bắc Kinh cũng không thừa nhận thất bại, từ chối tham gia vào các nỗ lực tại khu vực nhằm giúp Venezuela tìm được lối thoát. Trung Quốc tin là các quan hệ vững chắc giữa hai chế độ cùng ý thức hệ, cùng với sự dồi dào tín dụng của các ngân hàng Nhà nước Trung Quốc, sẽ giúp Venezuela tiếp tục duy trì chính sách lấy bán dầu và quặng mỏ làm trụ cột của nền kinh tế, không cần đếm xỉa đến mọi biến động thị trường và chính trị.
Các hợp tác theo kiểu bán rẻ tài nguyên, đã được khởi sự dưới thời tổng thống Chavez, được tăng cường trong thời kỳ ông Maduro lên nắm quyền, trong bối cảnh mô hình «chủ nghĩa xã hội» Venezuela có dấu hiệu phá sản hoàn toàn. Sau khi tổng thống Chavez qua đời, tổng thống Maduro đã âm thầm đàm phán với Trung Quốc và một số nước khác nhằm khai thác trên quy mô lớn nhiều loại khoáng sản quý hiểm, như vàng, coltan, boxit, sắt, kim cương tại vùng «Vòng cung Orinoco», với tổng diện tích 12% lãnh thổ Venezuela (2). Năm 2016, Trung Quốc ký được hợp đồng khai tác quặng coltan [quặng chứa niobium và tantalum – BVN chú thích], rất cần cho điện thoại di động. Năm 2016 cũng là năm mà Vòng cung Orinoco chính thức được coi là một «đặc khu kinh tế». Nơi các điều kiện kinh doanh hết sức dễ dãi, các tiêu chuẩn về lao động môi trường gần như bị bỏ qua, chưa kể đến vấn đề môi trường sống của rất nhiều cộng đồng sắc tộc sống lâu đời ở đây bị đe dọa nghiêm trọng, do các hoạt động khai khoáng.
Tháng 9/2018, Bắc Kinh tiếp tục bỏ thêm 5 tỉ đô la, để mua lại 10% cổ phần của tập đoàn dầu mỏ Nhà nước (PDVSA). Trung Quốc cũng đạt được thỏa thuận với chính quyền Maduro để công ty Yankuang Group khai thác vàng tại khu vực Vòng cung Orinoco nói trên.
Giai đoạn 2014 đến nay bị nhiều người vốn trung thành với Chavez coi như là thời kỳ mà chính quyền Venezuela hoàn toàn xa rời với một số tôn chỉ tốt đẹp ban đầu của cố tổng thống để chuyển hướng sang một mô hình kinh tế lệ thuộc nặng nề vào Bắc Kinh, Nga hay một số tập đoàn đa quốc gia.
Tương lai quan hệ giữa Venezuela và Trung Quốc sẽ ra sao? Sự thất bại của chế độ Chavez tại Venezuela cũng chính là một thất bại của Trung Quốc. Tuy nhiên, cho dù chế độ «xã hội chủ nghĩa» hiện nay ở Venezuela có sụp đổ, Bắc Kinh chắc chắn không buông Venezuela. Một mặt để bảo vệ số tiền bạc đã đầu tư, mặt khác tiếp tục có cơ hội khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản, được đánh giá là còn hết sức dồi dào, trong lúc khả năng kiểm soát của chính quyền trung ương lại hết sức hạn chế.
Vẫn theo chùm bài phân tích về quan hệ Trung Quốc – Venezuela trên trang mạng SupChina, thì cho dù chế độ mang danh hiệu «xã hội chủ nghĩa» của ông Maduro đang khủng hoảng trầm trọng, Bắc Kinh chắc chắn sẽ không từ bỏ vùng đất màu mỡ Nam Mỹ này. Một khi đã đứng chân được tại Venezuela, thì bằng cách này hay cách khác, Trung Quốc tìm mọi cách ở lại. Kể từ những năm 2015, năm 2016, Bắc Kinh bắt đầu tiếp xúc với đối lập Venezuela, để chuẩn bị phương án mới, đề phòng thay đổi chế độ. Về phần mình, giáo sư Isabelle Rousseau, một chuyên gia về chính trị tại châu Mỹ Latinh (Đại học Colegio de Mexico, Mêhicô) (3), cho biết Bắc Kinh cũng đang đàm phán bí mật với Nga và Mỹ về khủng hoảng Venezuela.
Theo một số nhà nghiên cứu, «thất bại» tại Venezuela không cản trở Trung Quốc tiếp tục mô hình quan hệ mua chuộc giới chóp bu để thao túng, trong trường hợp có thay đổi chính trị, giống như với nhiều chế độ độc tài khác, tại Cam Bốt hay Zimbabwe Ghi chú 1. “Venezuela and China: a perfect storm”, Dialogo Chino, ngày 24/01/2019. 2. “De la responsabilité de la Chine dans la crise vénézuélienne” của Emiliano Teran Mantovani, ngày 21/10/2018. 3. “Venezuela: Les Etats-Unis veulent asphyxier le gouvernement de Maduro”, RFI, ngày 29/01/2019. T.T.
Tình hình tại Venezuela cuối tháng 1/2019 này đang hết sức căng thẳng. Xung đột có thể bùng nổ, giữa một bên là một tổng thống bị mất lòng dân, nhưng được quân đội và…
Ngày ấy, khi còn đang học ở Đại Chủng viện, có lần tôi về thăm một linh mục già về hưu, cha bảo: “Cần thiết sống linh mục trước khi làm linh mục.” Sống linh mục! Cái “tôi” tốt bụng trong tôi gật đầu, cho rằng điều vị linh mục nói chí lý. Cho đến nay, dù đã làm linh mục, và vị linh mục già kia cũng đã quy tiên, tôi vẫn còn thấy đúng, vẫn còn ấp ủ trong suy nghĩ và trong lòng mến của mình. Chính vì cảm nghiệm sâu lắng như thế, vì muốn sống hoàn hảo hơn chức linh mục của mình, cũng vì niềm ao ước cho các thế hệ đàn em chuẩn bị hành trang cần thiết cho đời linh mục của chính bản thân họ mai sau, mà tôi đã nói đi nói lại với học trò của mình cách ân cần và nói nhiều lần rằng: “Anh em thân mến, anh em cần phải sống linh mục trước khi làm linh mục.” Và hôm nay, ghi lại những dòng ngắn ngủi này, tôi muốn gởi đến họ, những người sẽ tiếp bước các thế hệ đàn anh phụng sự Chúa Kitô, phục vụ Giáo Hội và phục vụ con người, sẽ là những linh mục mang hình ảnh của chính Linh Mục Kitô.
Tuy nhiên, ngày ấy, khi nghe vị linh mục già nhắn nhủ mình, không phải trong tôi đã hoàn toàn quy phục. Bởi sống linh mục là thế nào? Chưa làm linh mục mà lại sống linh mục…, nghe lạ quá! Ngày ấy cái “tôi” xấu bụng trong tôi cười khì, rồi lên tiếng đặt vấn đề như thế.
Có lẽ ngày hôm nay, khi nghe tôi bảo “Hãy sống linh mục trước khi làm linh mục”, bạn cũng ít nhiều đặt vấn đề như tôi ngày ấy? Nhưng bạn ạ, lời khuyên ấy không hề là lời khuyên thiếu căn cứ. Nó là bài học cảm nghiệm cả một đời linh mục của vị linh mục già đáng kính. Hôm nay nó còn là cảm nghiệm của chính bản thân tôi, dù chưa già, nhưng ít nhiều đã nhận ra giá trị của lời khuyên “Hãy sống linh mục trước khi làm linh mục”.
Mâu thuẫn nội tại
Một “kẻ lành” và một “kẻ xấu” ngay trong bản thân tôi. Đó là thực tại mà tôi đã có kinh nghiệm. Thực tại ấy làm nên những mâu thuẫn ngay trong nội tâm của tôi. Mâu thuẫn thường xuyên xảy ra. Mâu thuẫn nội tại. Mâu thuẫn do tôi. Đó cũng là sự thật mà tông đồ Phaolô đã nhìn nhận cách chân thành nhưng bi đát: “Sự lành tôi muốn, tôi không làm, sự dữ tôi không muốn, tôi lại làm. Khi tôi làm điều tôi không muốn, thì không phải tôi làm, mà là tội lỗi ở trong tôi chủ động. Như vậy tôi có kinh nghiệm này là: Khi tôi muốn làm sự lành thì sự dữ đã hiện ra bên cạnh tôi. Trong thâm tâm tôi, tôi vốn yêu mến lề luật Chúa. Nhưng tôi thấy xuất hiện trong tôi một lề luật khác, chống đối lề luật nơi bản thân tôi và lôi cuốn tôi sa vào cạm bẫy của tội lỗi trong mình tôi” (Rm 7, 19- 23). Mâu thuẫn chỉ chấm dứt cùng với sự chấm dứt của cuộc đời mỗi người. Phần thưởng của Thiên Chúa sẽ dành cho người yêu mến Thiên Chúa, sống trong chân lý và chiến đấu chống “kẻ dữ” nơi chính mình.
Không có cuộc chiến nào đòi người ta phải kiên trì cho bằng cuộc chiến với chính mình, nó đòi cả một đời. Làm sao có thể nên hoàn thiện hơn? Làm sao mỗi ngày một bớt đi cái xấu? Đó là điều mà mọi người thiện chí phải bứt rứt, băn khoăn. Chính vì điều này mà cuộc chiến với bản thân có giá trị, được xem là chính đáng, được loài người khuyến khích nhau. Vì khi chiến đấu đẩy xa cái xấu nội tại nơi chính mình, con người sẽ nhích gần tới nhau. Đó cũng là ý muốn của Thiên Chúa, của Giáo Hội. Vì chiến thắng bản thân mình, còn hơn cả việc được hiệp thông với nhau trên bình diện con người, đó là một chiến thắng mang giá trị cứu độ.
Thân phận lữ hành
Một kẻ lành và một kẻ xấu hiện diện ngay trong bản thân, đó chính là tình trạng của kẻ lữ hành. Bởi vì lữ hành là còn phải bước đi, là chưa hoàn thiện, là khiếm khuyết, là phải vươn tới liên tục… Đó là tình trạng giằng co của người chưa đạt tới đích phải đến.
Cái xấu và cái tốt đó cũng chính là thực tại nội tâm, một thực tại có thực, không sờ, không thấy được, chỉ có thể kiểm chứng bằng hành động, “do quả của chúng các ngươi nhận biết chúng” (Mt 7, 16a). Hay: “Điều tự người ta ra, điều đó làm cho người ta nhơ uế. Vì tự trong lòng người ta xuất ra những điều xấu xa” (Mc 7, 20- 21). Một thực tại mà ai cũng dễ nhận ra, “sự lành tôi muốn, tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn, tôi lại làm…” Mang thân phận lữ hành, nội tâm con người cứ mãi bị xáo trộn và mất bình an như thế. Điều còn lại là thiện chí, là quyất tâm, là sống để từng bước nên hoàn thiện tiến về tương lai hằng hữu, chứ đừng buông trôi để rồi vuột mất tương lai ấy.
Chúa Kitô, Thiên Chúa làm người
Chúa Kitô đến trần gian để chia sẻ kiếp người cùng con người. Người hiểu và thông cảm sâu xa với thân phận yếu hèn của chúng ta. Nhưng không vì thế Người cất khỏi những dằn vặt, những xáo trộn nơi chính bản thân ta. Tình trạng giằng co ấy cần thiết để con người chứng minh lòng trung thành của mình. Vượt qua liên tục để vươn tới cái thiện, cái tốt sẽ nâng cao giá trị của cuộc sống, làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa, thêm phong phú. Không có gì khó hơn cuộc đấu tranh của bản thân với bản thân. Nhưng cũng không có gì đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng chiến đấu chống cái ác giành lấy cái thiện. Điều chắc chắn, Thiên Chúa sẽ không bỏ mặc con người phải chiến đấu một mình. Người sẽ giúp sức để họ chiến thắng.
Khi mang lấy xác phàm, Chúa Kitô đã nhiều lần chiến đấu với bản thân, với cám dỗ, với mọi mưu ma của thế gian. Khi ghi lại ba lần Chúa chiến thắng những cơn cám dỗ, Phúc Âm đã xác quyết điều đó (Mt 4, 1-11). Chúa Kitô đã chiến thắng, và chiến thắng cả sự chết. Chính vì thế Người đã được tôn vinh: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và ban cho Người danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu” (Philip 2, 9).
Khi chiến đấu với chính bản thân để thánh ý Thiên Chúa nên trọn, Chúa Kitô nên gương sáng cho chúng ta soi rọi mà bắt chước Người. Và khi được tôn vinh, Người là nguồn hy vọng cho những ai tín nghĩa đến cùng. Chiến thắng và được tôn vinh của Chúa Kitô là mạch suối cứu độ đời đời.
* * *
Cuộc đời là một chuỗi dài những chiến đấu. Cho đến nay, khi viết những điều này, tôi vẫn chưa hiểu hết điều vị linh mục nói với tôi. “Sống linh mục” là sống cái gì? Cụ thể sống thế nào để được gọi là “sống linh mục?” Vì sao lại phải “sống linh mục trước khi làm linh mục?”
Nhưng cũng từ câu nói ấy, tôi chợt nhận ra nơi mình đã có “hai kẻ” hiện hữu từ rất lâu: “kẻ lành”, và “kẻ dữ”. Cũng từ ấy tôi bắt đầu tập chiến đấu với chính mình nhiều hơn. Không phải lúc nào cũng thành công, hay thành công lúc này là đương nhiên thành công trong mọi lúc. Vì thế tôi cứ phải chiến đấu và cứ tập chiến đấu. Tôi tự nhủ: sống linh mục chính là rèn luyện bản thân, là chiến đấu để vươn lên hoàn thiện. Sống linh mục trước khi làm linh mục như thế, để khi làm linh mục, tôi ĐÃ CÓ MỘT THÓI QUEN SỐNG LINH MỤC.
Trên thế giới không có nước nào có lịch sử lâu đời như Tàu, không có nước nào có một nền văn hóa không đứt đoạn như Tàu, mà cái văn hóa đó lại đã từng đạt đến một nền văn minh cao độ. Người Hy Lạp thời nay với người Hy Lạp ngày xưa chẳng liên quan gì với nhau. Người Ai Cập cũng vậy. Nhưng người Tàu hôm nay thì đúng là hậu duệ của người Tàu cổ đại.
Tại sao một nước khổng lồ như vậy, một dân tộc to lớn như vậy ngày nay lại ra nông nỗi xấu xa ấy? Chẳng những bị người nước ngoài ức hiếp mà còn bị ngay dân mình ức hiếp. Nào là vua bạo ngược, quan bạo ngược, mà cả dân (quần chúng) cũng bạo ngược.
Thế kỷ thứ XIX, quần đảo Nam Dươngthời nay tức là Đông Nam Á, còn là thuộc địa của Anh và Hà Lan, có một chuyên viên Anh đóng ở Malaysia nói rằng: “Làm người Tàu ở thế kỷ thứ XIX là một tai họa”. Bởi vì ông này đã thấy cộng đồng người Hoa sống ở quần đảo Nam Dương giống một lũ lợn, vô tri vô thức, tự sinh tự diệt, tùy thời còn có thể bị sát hại hàng loạt. Thế mà tôi thấy người Hoa ở thế kỷ XX so với người Hoa ở thế kỷ XIX tai họa của họ còn lớn hơn.
Điều làm chúng ta đau khổ nhất là bao mong đợi của người Hoa từ một trăm năm nay cơ đồ như đã bị tiêu tan toàn bộ. Cứ mỗi lần có một mong chờ trở lại, hứa hẹn nước nhà một tương lai sáng sủa hơn, thì kết quả lại càng làm cho chúng ta thất vọng và tình hình lại càng trở nên tệ hại hơn. Một mong chờ khác lại đến, để rồi lại đem về những ảo vọng, thất vọng, những tồi tệ liên miên vô tận.
Dân tộc cố nhiên là trường tồn, sinh mệnh của cá nhân là hữu hạn. Một đời người có được bao ước vọng lớn? Có được bao lý tưởng lớn, chịu được mấy lần tan vỡ?Con đường trước mặt sáng sủa thế nào? Hay lại đen tối? Thật khó nói cho hết!
Bốn năm trước, lúc tôi diễn giảng tại New York, đến đoạn “chói tai”, có một người đứng dậy nói: “Ông từ Đài Loan đến, ông phải nói cho chúng tôi nghe về những hy vọng, phải cổ võ nhân tâm. Sao lại đi đả kích chúng tôi?.” Con người đương nhiên cần được khích lệ, vấn đề là khích lệ rồi sau đó làm gì nữa? Tôi từ nhỏ cũng từng được khích lệ rồi. Lúc 5, 6 tuổi, tôi được người lớn nói với tôi: “Tiền đồ của Tàu nằm trong tay thế hệ các cháu đấy!” Tôi cho rằng trách nhiệm của tôi lớn quá, chắc không thể nào đảm đương nổi. Sau đó tôi lại nói với con tôi: “Tiền đồ của Tàu nằm trong tay thế hệ các con đấy!” Bây giờ con tôi lại nói với cháu tôi: “Tiền đồ Tàu nằm trong tay thế hệ các con đấy!”
Một đời, rồi một đời, biết bao nhiêu lần một đời?Đến đời nào thì mới thật khá lên được?
Tại Tàu đại lục rộng lớn, sau thời Phản hữu (Phong trào chống phe hữu năm 1958), tiếp theo lại là Đại Cách Mạng Văn Hóa long trời lở đất. Từ ngày loài người có lịch sử đến nay chưa bao giờ thấy được một tai họa do con người làm ra to lớn đến như vậy. Chẳng nói đến tổn thất sinh mạng, cái tổn thương lớn lao nhất là sự chà đạp nhân tính, giầy xéo lên phẩm hạnh cao quý. Con người nếu rời bỏ nhân tính và những đức hạnh cao quý thì sánh với cầm thú.
Bây giờ người ta nói nhiều về Hương Cảng [Hồng Kông]. Bất cứ nước nào, nếu có đất đai bị nước ngoài chiếm cứ đều cảm thấy tủi nhục. Chờ cho đến lúc lấy được về chẳng khác nào lòng mẹ bị mất con. Ai cũng nhớ chuyện nước Pháp lúc phải cắt hai tỉnh Alsace và Lorraine giao cho Đức đã đau khổ như thế nào, lúc lấy lại được về đã sung sướng ra sao.
Nhưng Hương Cảng của chúng ta chỉ cần nghe đến việc trả về tổ quốc là lập tức hồn bay phách lạc. Chuyện gì mà lạ thế?
Còn nói về Đài Loan, hiện nay nhiều thanh niên người tỉnh này hoặc người nơi khác ở đây đều chủ trương Đài Loan độc lập. Tôi nhớ lại 30 năm trước đây, lúc Nhật Bản trả lại Đài Loan cho Tàu (1945), mọi người sung sướng như si cuồng chẳng khác nào đứa con lạc mẹ lại tìm được đường về nhà. Cái gì đã xảy ra sau 30 năm đó để cho đứa con kia lại muốn bỏ nhà ra đi?
Ở nước ngoài, có lúc tôi dừng lại trong công viên, nhìn trẻ con ngoại quốc, thấy sao chúng sung sướng thế. Trong lòng tôi lúc ấy tự nhiên cảm thấy thèm thuồng quá. Chúng không phải mang gánh nặng, con đường chúng đi bằng phẳng, rộng rãi quá, tâm lý khỏe mạnh, sung mãn, sảng khoái.
Con trẻ Đài Loan chúng ta đến trường học, đeo kính cận, mặt khó đăm đăm vì phải đối phó với áp lực bài vở. Mẹ ngất ngã xuống đất, con đến đỡ mẹ dậy, mẹ kêu rống lên:
“Mẹ có chết cũng chẳng sao, việc gì đến con! Con đi học bài đi! Đi học bài đi!”
Vợ tôi lúc dạy học ở Đài Loan, thỉnh thoảng cứ đề cập đến đạo đức làm người, tức thì sinh viên nhao nhao phản đối: “Chúng tôi không cần học làm người, chỉ cần học để ứng phó với việc thi cử.” Lại nhìn về trẻ con ở Tàu lục địa, từ nhỏ đã phải học đánh đấu nhau, lừa dối bịp bợm nhau, lại luyện tập cách lừa bạn, phản đồng chí, lại phải học cách bốc phét, bịa đặt. Một nền giáo dục đáng sợ thay! Một thế hệ nữa những đứa trẻ này lớn lên sẽ như thế nào?
Người ta thường nói: “Mình nắm tương lai mình trong tay mình.” Lúc đã luống tuổi, tôi thấy câu này không ổn; sự thực, có lẽ chỉ nắm được một nửa trong tay mình, còn một nửa lại ở trong tay của kẻ khác.
Kiếp người trên đời này giống như một cục sỏi trong một máy nhào xi măng, sau khi bị nhào trộn, thân chẳng tự chủ được. Điều ấy khiến tôi cảm thấy đó không phải là một vấn đề của riêng một cá nhân nào, nhưng là một vấn đề xã hội, văn hóa.
Lúc chết, Chúa Giê Su (Jesus) bảo: “Hãy tha thứ cho họ, họ đã làm những điều mà họ không hề hiểu.” Lúc trẻ, đọc câu này tôi cho rằng nó chỉ là một câu tầm thường. Lớn lên rồi lại vẫn thấy nó không có gì ghê gớm cả, nhưng đến cái tuổi này rồi tôi mới phát hiện rằng nó rất thâm thúy, thật đau lòng thay! Có khác nào người Tàu sở dĩ trở thành xấu xí như ngày nay bởi chính vì họ không hề biết rằng mình xấu xí.
Chúng ta có đủ tư cách làm chuyện đó và chúng ta có lý do tin rằng Tàu có thể trở thành một nước rất tốt đẹp. Chúng ta không cần cứ phải muốn có một quốc gia hùng mạnh. Quốc gia không hùng mạnh thì có can hệ gì?Chỉ cần sao cho nhân dân hạnh phúc rồi thì đi tìm quốc gia hùng mạnh cũng chưa muộn.
Tôi nghĩ người Tàu chúng ta có phẩm chất cao quý. Nhưng tại sao cả trăm năm rồi, cái phẩm chất ấy thủy chung vẫn không làm cho người Tàu thoát khỏi khổ nạn?
Nguyên do vì sao?
Tôi muốn mạo muội đề xuất một câu trả lời có tính cách tổng hợp: Đó là vì văn hóa truyền thống Tàu có một loại siêu vi trùng, truyền nhiễm, làm cho con cháu chúng ta từ đời này sang đời nọ không khỏi được bệnh.
Có người sẽ bảo: “Tự mình không xứng đáng, lại đi trách tổ tiên!.” Xét cho kỹ câu nói này có một sơ hở lớn. Trong vở kịch nổi tiếng “Quần ma” (Những con ma) của Ibsen (íp sen) có kể chuyện hai vợ chồng mắc bệnh giang mai sinh ra một đứa con cũng bị bệnh di truyền. Mỗi lần phát bệnh nó lại phải uống thuốc. Có lần tức quá nó kêu lên: “Con không uống thuốc này đâu! Con thà chết đi thôi! Bố mẹ đã cho con cái thân thể như thế này à!?” Trường hợp này thì nên trách đứa bé hay trách bố mẹ nó? Chúng ta không phải trách bố mẹ, cũng không phải trách tổ tiên chúng ta, nhưng nhất quyết phải trách cái thứ văn hóa họ đã truyền lại cho chúng ta.
Một nước rộng ngần đó, một dân tộc lớn ngần đó, chiếm đến một phần tư dân số toàn cầu, lại là một vùng cát chảy của sự đói nghèo, ngu muội, đấu tố, tắm máu mà không tự thoát được. Tôi nhìn cách cư xử giữa con người với nhau ở những nước khác mà lại càng thèm. Cái văn hóa truyền thống kiểu nào để sinh ra hiện tượng này? Nó đã khiến cho người Tàu chúng ta mang sẵn trong mình nhiều đặc tính rất đáng sợ!
Một trong những đặc tính rõ nhất là dơ bẩn, hỗn loạn, ồn ào. Đài Loan đã từng có một dạo phải chống bẩn và chống hỗn loạn, nhưng chỉ được mấy ngày. Cái bếp của chúng ta vừa bẩn vừa lộn xộn. Nhà cửa chúng ta cũng vậy. Có nhiều nơi hễ người Tàu đến ở là những người khác phải dọn đi.
Tôi có một cô bạn trẻ tốt nghiệp đại học chính trị. Cô này lấy một người Pháp rồi sang Paris sinh sống. Rất nhiều bạn bè đi du lịch Âu châu đều ghé nhà cô trú chân. Cô ta bảo với tôi: “Trong tòa nhà tôi ở, người Pháp đều dọn đi cả, bây giờ toàn người Á đông nhảy vào!” (Người Á đông có khi chỉ người châu Á nói chung, có khi lại chỉ người Tàu). Tôi nghe nói vậy rất buồn, nhưng khi đi xem xét tận mắt mới thấy là chỗ nào cũng đầy giấy kem, vỏ hộp, giầy dép bừa bãi, trẻ con chạy lung tung, vẽ bậy lên tường, không khí trong khu bốc lên một mùi ẩm mốc. Tôi hỏi: “Các người không thể tổ chức quét dọn được hay sao?” Cô ta đáp: “Làm sao nổi!”
Không những người nước ngoài thấy chúng ta là bẩn, loạn, mà qua những điều họ nhắc nhở chúng ta cũng tự thấy mình là bẩn, loạn.
Còn như nói đến ồn ào, cái mồm người Tàu thì to không ai bì kịp, và trong lĩnh vực này người Quảng Đông phải chiếm giải quán quân. Ở bên Mỹ có một câu chuyện tiếu lâm như sau: Có hai người Quảng Đông lặng lẽ nói chuyện với nhau, người Mỹ lại tưởng họ đánh nhau, bèn gọi điện báo cảnh sát. Khi cảnh sát tới, hỏi họ đang làm gì, họ bảo: “Chúng tôi đang thì thầm với nhau.”
Tại sao tiếng nói người Tàu lại to? Bởi tâm không yên ổn. Cứ tưởng lên cao giọng, to tiếng là lý lẽ mình mạnh. Cho nên lúc nào cũng chỉ cốt nói to, lên giọng, mong lý lẽ đến với mình. Nếu không, tại sao họ cứ phải gân cổ lên như thế?
Tôi nghĩ những điểm này cũng đủ để làm cho hình ảnh của người Tàu bị tàn phá và làm cho nội tâm mình không yên ổn. Vì ồn ào, dơ bẩn, hỗn loạn dĩ nhiên có thể ảnh hưởng tới nội tâm, cũng như sáng sủa, sạch sẽ với lộn xộn, dơ bẩn là hai thế giới hoàn toàn khác xa nhau.
Còn về việc xâu xé nhau thì mọi người đều cho đó là một đặc tính nổi bật của người Tàu. Một người Nhật đơn độc trông chẳng khác nào một con lợn, nhưng ba người Nhật hợp lại lại thành một con rồng. Tinh thần đoàn kết của người Nhật làm cho họ trở thành vô địch.
Bởi vậy trong lĩnh vực quân sự cũng như thương mại, người Tàu không thể nào qua mặt được người Nhật. Ngay tại Đài Loan, ba người Nhật cùng buôn bán thì lần này phiên anh, lần sau đến lượt tôi. Người Tàu mà buôn bán thì tính cách xấu xa tức thì lộ ra bên ngoài theo kiểu: Nếu anh bán 50 tôi sẽ bán 40. Anh bán 30 tôi chỉ bán 20.
Cho nên, có thể nói, mỗi người Tàu đều là một con rồng, nói năng vanh vách, cứ như là ở bên trên thì chỉ cần thổi một cái là tắt được mặt trời, ở dưới thì tài trị quốc bình thiên hạ có dư. Người Tàu ở một vị trí đơn độc như trong phòng nghiên cứu, trong trường thinơi không cần quan hệ với người khácthì lại có thể phát triển tốt. Nhưng nếu ba người Tàu họp lại với nhau, ba con rồng này lại biến thành một con heo, một con giòi, hoặc thậm chí không bằng cả một con giòi nữa. Bởi vì người Tàu có biệt tài đấu đá lẫn nhau.
Chỗ nào có người Tàu là có đấu đá, người Tàu vĩnh viễn không đoàn kết được, tựa hồ trên thân thể họ có những tế bào thiếu đoàn kết. Vì vậy khi người nước ngoài phê phán người Tàu không biết đoàn kết thì tôi chỉ xin thưa: “Anh có biết người Tàu vì sao không đoàn kết không? Vì Thượng đế muốn thế. Bởi vì nếu một tỷ người Hoa đoàn kết lại, vạn người một lòng, anh có chịu nổi không? Chính ra Thượng Đế thương các anh nên mới dạy cho người Hoa mất đoàn kết!” Tôi tuy nói thế nhưng rất đau lòng.
Người Tàu không chỉ không đoàn kết, mà mỗi người lại còn có đầy đủ lý do để có thể viết một quyển sách nói tại sao họ lại không đoàn kết. Cái điều này thấy rõ nhất tại nước Mỹ với những hình mẫu ngay trước mắt. Bất cứ một xã hội người Hoa nào ít nhất cũng phải có 365 phe phái tìm cách tiêu diệt lẫn nhau.
Ở Tàu có câu: “Một hòa thượng gánh nước uống, hai hòa thượng khiêng nước uống, ba hòa thượng không có nước uống.” Người đông thì dùng để làm gì? Người Tàu trong thâm tâm căn bản chưa biết được tầm quan trọng của sự hợp tác. Nhưng nếu anh bảo họ chưa biết, họ lại có thể viết ngay cho anh xem một quyển sách nói tại sao cần phải đoàn kết.
Lần trước (năm 1981) tôi sang Mỹ ở tại nhà một người bạn làm giáo sư đại học. Anh này nói chuyện thì đâu ra đấy; thiên văn, địa lý; nào là làm sao để cứu nước.
Ngày hôm sau tôi bảo:
“Tôi phải đi đến đằng anh A một tý!” Vừa nghe đến tên anh A kia, anh bạn tôi trừng mắt giận dữ. Tôi lại bảo: “Anh đưa tôi đi một lát nhé!” Anh ta bảo: “Tôi không đưa, anh tự đi cũng được rồi!”
Họ cùng dạy học tại Mỹ, lại cùng quê với nhau mà tại sao không thể cùng đội trời chung? Có thể nào nói như vậy là hợp lý được? Bởi vậy việc người Tàu cắn xé nhau là một đặc tính nghiêm trọng.
Những người sống tại Mỹ đều thấy rõ điều này: đối xử với người Tàu tệ hại nhất không phải là người nước ngoài, mà chính lại là người Tàu với nhau. Bán rẻ người Tàu, hăm dọa người Tàu lại cũng không phải là người Mỹ mà là người Hoa. Tại Malaysia có một chuyện thế này. Một ông bạn tôi làm nghề khai thác mỏ khoáng sản. Anh ta bỗng nhiên bị tố cáo một chuyện rất nghiêm trọng. Sau khi tìm hiểu mới biết rằng người tố cáo mình lại là một bạn thân của anh ta, một người cùng quê, cùng đến Malaysia tha phương cầu thực với nhau. Người bạn tôi chất vấn anh kia: “Tại sao anh lại đi làm cái việc đê tiện đó?” Người kia bảo: “Cùng đi xây dựng cơ đồ, bây giờ anh giàu có, tôi vẫn hai tay trắng. Tôi không tố cáo anh thì tố ai bây giờ?”
Cho nên kẻ thù của người Tàu lại là người Tàu.
Không hiểu vì sao người ta lại so sánh người Tàu với người Do Thái được? Tôi thường nghe nói “người Tàu và người Do Thái giống nhau ở chỗ cần cù.” Điều này phải chia làm hai phần:
Phần thứ nhất: cái đức tính cần cù từ mấy ngàn năm nay cũng chẳng còn tồn tại nữa, nó đã bị thời kỳ “Tứ nhân bang” (bè lũ bốn tên) phá tan tại lục địa rồi.
Phần thứ hai: chúng ta còn gì để có thể đem so sánh với người Do Thái được? Báo chí Tàu thường đăng: “Quốc hội Do Thái (Knesset) tranh luận mãnh liệt, ba đại biểu là ba ý kiến trái ngược nhau”, nhưng cố ý bỏ sót một sự kiện quan trọng là sau khi họ đã quyết định với nhau thì hình thành một phương hướng chung. Tuy bên trong quốc hội tranh cãi tơi bời, bên ngoài đang giao chiến, bốn phía địch bao vây, nhưng Israel vẫn tổ chức bầu cử.
Ai cũng biết cái ý nghĩa của bầu cử là vì có đảng đối lập. Không có đảng đối lập thì bầu cử chỉ là một trò hề rẻ tiền.
Tại Tàu chúng ta, hễ có ba người sẽ cũng có ba ý kiến, nhưng cái khác nhau là: sau khi đã quyết định xong, ba người đó vẫn làm theo ba phương hướng khác nhau. Giống như nói hôm nay có người đề nghị đi New York, người đề nghị đi San Francisco… Biểu quyết, quyết định đi New York, nếu ở Israel cả hai người sẽ cùng đi New York, nhưng ở Tàu thì một người sẽ bảo: “Anh đi New York đi, tôi có tự do của tôi, tôi đi San Francisco!”
Người Tàu không thể đoàn kết, hay cắn xé nhau, những thói xấu đó đã thâm căn cố đế. Không phải vì phẩm chất của họ không đủ tốt. Nhưng vì con siêu vi trùng trong văn hóa Tàu ấy làm cho chúng ta không thể đè nén, khống chế hành vi của chúng ta được. Biết rõ rành rành là xâu xé nhau, nhưng vẫn xâu xé nhau. Nếu nồi vỡ thì chẳng ai có ăn, nhưng nếu trời sụp thì người nào cao hơn người đó phải chống đỡ.
Cái loại triết học xâu xé nhau đó lại đẻ ra nơi chúng ta một hành vi đặc thù khác: “Chết cũng không chịu nhận lỗi.” Có ai nghe thấy người Tàu nhận lỗi bao giờ chưa? Giả sử anh nghe một người Tàu nói: “Việc này tôi đã sai lầm rồi!” Lúc đó anh phải vì chúng tôi mà uống rượu chúc mừng.
Con gái tôi hồi bé có một lần bị tôi đánh, nhưng cuối cùng hóa ra là nó bị oan. Nó khóc rất dữ, còn tâm can tôi thì đau đớn. Tôi biết rằng đứa con thơ dại và vô tội của tôi chỉ biết trông cậy vào bố mẹ, mà bố mẹ bỗng nhiên trở mặt thì nó phải sợ hãi biết nhường nào. Tôi ôm con vào lòng rồi nói với nó: “Bố xin lỗi con. Bố không đúng. Bố làm sai. Bố hứa lần sau bố không làm như vậy nữa. Con gái ngoan của bố, con tha thứ cho bố nhé!” Nó khóc mãi không thôi. Cái sự việc này qua rồi mà lòng tôi vẫn còn đau khổ. Nhưng đồng thời tôi lại cảm thấy vô cùng kiêu hãnh bởi tôi đã dám tự nhận lỗi của mình đối với nó.
Người Tàu không quen nhận lỗi và có thể đưa ra hàng vạn lý do để che giấu cái sai trái của mình. Có một câu tục ngữ: “Đóng cửa suy ngẫm lỗi lầm” (Bế môn tư quá). Nghĩ về lỗi của ai?Dĩ nhiên của đối phương.
Lúc tôi đi dạy học, học sinh hàng tuần phải viết tuần ký để kiểm thảo hành vi trong tuần. Kết quả kiểm thảo thường là: “Hôm nay tôi bị người này người nọ lừa tôi. Cái người lừa tôi ấy đã được tôi đối xử mới tốt làm sao, cũng bởi vì tôi quá trung hậu!.” Lúc đọc đến kiểm thảo của đối phương, lại cũng thấy anh học trò kia nói mình quá trung hậu. Mỗi người trong kiểm thảo của mình đều là người quá trung hậu. Thế còn ai là người không trung hậu?
Người Tàu không thể nhận lỗi, nhưng cái lỗi vẫn còn đó, đâu phải vì không nhận mà nó biến mất. Để che đậy một lỗi của mình người Tàu không nề hà sức lực tạo nên càng nhiều lỗi khác hòng chứng minh rằng cái đầu tiên không phải là lỗi. Cho nên có thể nói người Tàu thích nói khoác, nói suông, nói dối, nói láo, nói những lời độc địa.
Họ liên miên khoa trương về dân Tàu, về tộc Đại Hán, huyên thuyên về truyền thống văn hóa Tàu, nào là có thể khuếch trương thế giới v.v… Nhưng bởi vì không thể đưa ra chứng cớ thực tế nào nên tất cả chỉ toàn là những điều bốc phét.
Tôi chẳng cần nêu ví dụ về chuyện nói khoác, láo toét làm gì. Nhưng về chuyện nói độc của người Tàu thì không thể không nói được. Ngay như chuyện phòng the, người phương Tây vốn rất khác chúng ta, họ thường trìu mến gọi nhau kiểu “Em yêu, em cưng” [Bá Dương dùng chữ “đường mật” và “ta linh” để dịch chữ Honey, Darling của tiếng Anh:ND] thì người Tàu gọi nhau là “kẻ đáng băm vằm làm trăm khúc” (sát thiên đao đích).
Hễ cứ có dính đến lập trường chính trị hoặc tranh quyền đoạt lợi là những lời nói độc địa sẽ được tuôn ra vô hạn định, khiến cho ai nấy nghe thấy cũng phải tự hỏi: “Tại sao người Tàu lại độc ác và hạ lưu đến thế?”
Lại nói ví dụ về chuyện tuyển cử. Nếu là người phương Tây thì tác phong như sau: “Tôi cảm thấy tôi có khả năng giữ chức vụ đó, xin mọi người hãy bầu cho tôi!.”
Còn người Tàu sẽ xử sự như Gia Cát Lượng lúc Lưu Bị tới cầu hiền (tam cố thảo lư). Nghĩa là nếu được mời, anh ta sẽ năm lần bảy lượt từ chối, nào là “Không được đâu! Tôi làm gì có đủ tư cách!” Kỳ thực, nếu anh tưởng thật mà đi mời người khác thì anh ta sẽ hận anh suốt đời.
Chẳng khác nào nếu anh mời tôi diễn giảng, tôi sẽ nói: “Không được đâu, tôi chẳng quen nói chuyện trước công chúng!” Nhưng nếu anh thật sự không mời tôi nữa, sau này nếu nhỡ lại gặp nhau ở Đài Bắc, có thể tôi sẽ phang cho anh một cục gạch vào đầu.
Một dân tộc hành xử theo kiểu này không biết đến bao giờ mới có thể sửa đổi được lầm lỗi của mình; sẽ còn phải dùng mười cái lỗi khác để khỏa lấp cái lỗi đầu tiên, rồi lại dùng thêm trăm cái khác để che đậy mười cái kia thôi.
Tàu diện tích rộng thế, văn hóa lâu đời thế, đường đường là một nước lớn. Thế mà, thay vì có một tấm lòng bao la, người Tàu lại có một tâm địa thật hẹp hòi.
Cái tấm lòng bao la đáng lẽ chúng ta phải có ấy chỉ đọc thấy được trong sách vở, nhìn thấy được trên màn ảnh. Có ai bao giờ thấy một người Tàu có lòng dạ, chí khí sánh ngang được với tầm vóc nước Tàu không? Nếu chỉ cần bị ai lườm một cái là đã có thể rút dao ra rồi, thử hỏi nếu có người không đồng ý với mình thì sự thể sẽ ra sao?
Người Tây phương có thể đánh nhau vỡ đầu rồi vẫn lại bắt tay nhau, nhưng người Tàu đã đánh nhau rồi thì cừu hận một đời, thậm chí có khi báo thù đến ba đời cũng chưa hết.
Mọi người Tàu đều sợ sệt đến độ không còn biết quyền lợi mình là gì thì làm sao còn biết đấu tranh, gìn giữ nó được? Mỗi khi gặp một chuyện gì xảy ra y nhiên lại nói: “Bỏ qua cho rồi!”
Mấy chữ “bỏ qua cho rồi” này đã giết hại không biết bao nhiêu người Tàu và đã biến dân Tàu thành một dân tộc hèn mọn.
Giả sử tôi là một người nước ngoài hoặc một bạo chúa, đối với loại dân tộc như thế, nếu tôi không ngược đãi nó thì trời cũng không dung tôi.
Cái não trạng hãi sợ này đã nuôi dưỡng bao nhiêu bạo chúa, làm tổ ấm cho bao nhiêu bạo quan. Vì vậy bạo chúa, bạo quan ở Tàu không bao giờ bị tiêu diệt.
Trong truyền thống văn hóa Tàu, các vị có thể xem ở “Tư trị thông giám” (Một pho sử của Tư Mã Quang tóm hết chuyện hơn 2.000 năm để làm gương cho người đời sau), cái việc bo bo giữ mình đã được xem là kim chỉ nam và nhấn mạnh năm lần bảy lượt. Bạo chúa, bạo quan cũng chỉ cần dân chúng cứ bo bo giữ mình là được, cho nên người Tàu mới càng ngày càng khốn đốn đến như thế.
Nơi nào người Tàu đã đặt chân đến thì không thể có chỗ nào là không bẩn. Có hơn một tỷ người Tàu trên thế giới này, làm sao mà không chật chội được? Ngoài ồn, chật, bẩn, loạn, lại còn thêm cái tật “thích xem” (người khác đau khổ), hoặc “chỉ quét tuyết trước nhà mình mà không động tý gì đến sương trên mái ngói nhà người khác.”
Họ luôn mồm “nhân nghĩa” mà tâm địa ích kỷ, tham lam. Một đằng hô to khẩu hiệu: “Phải tử tế với người và súc vật!” Trong khi đó ngày ngày không ngừng xâu xé lẫn nhau.
Tóm lại, người Tàu đúng là một dân tộc vĩ đại, vĩ đại đến độ làm cho người đời nay không có cách nào hiểu nổi tại sao họ có thể tồn tại được trên quả địa cầu này những 5.000 năm?