ĐIỂM LẠI LỊCH SỬ

 ĐIỂM LẠI LỊCH SỬ

 THÁNG 2 13, 2019 ĐỖ NGÀ 

Mối bất hoà giữa Trung Quốc và Liên Xô bắt đầu từ năm 1962, đến năm 1969 là coi nhau như thù địch. Cũng từ lúc đó trở về sau, CSVN đứng giữa 2 chọn lựa, theo anh hai Liên Xô hay theo anh ba Trung Cộng? Ngay từ lúc đấy, CSVN chẳng muốn bỏ ai, nên thực hiện trò chơi đu dây giữa 2 thằng anh Cộng Sản này. 

Trong chiến tranh Việt Nam, cả Liên Xô và Trung Cộng đều viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Nhưng mỗi thằng có một dụng ý khác nhau. Thằng anh Liên Xô đang chạy đua vũ trang với Mỹ nhưng cả Mỹ và Liên Xô đều không muốn nổ ra chiến tranh, nên Liên Xô viện trợ cho Hà Nội đánh Sài Gòn. Tức trong bàn cờ Chiến Tranh Lạnh 2 con tướng xúi 2 con tốt phân cao thấp thôi, chứ 2 tướng không đánh trực diện. 

Còn riêng Trung Cộng viện trợ Hà Nội nhằm mục đích gì? Trung Cộng thích làm ăn hơn thích thể hiện, nên Trung Cộng viện trợ là để đưa Hà Nội vào vòng phụ thuộc mình. Mục đích là để làm gì? Mục đích là từ các khoản nợ đó, Trung Cộng sẽ thu hồi giang sơn Việt Nam để cấn nợ. Dùng những món nợ ấy để nuốt dần Việt Nam như trăn nuốt mồi. Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng chính là khoản trả nợ của Hà Nội với “ơn nghĩa” Trung Cộng. 

Riêng CSVN thì được 2 thằng hùng mạnh nhất nhì khối CS viện trợ, được hậu thuẫn quá mạnh, Hà Nội hăng máu tràn vào Miền Nam tắm máu đồng bào. Kết quả họ nướng 3 triệu đồng bào thành đống xương tàn để có được “mùa xuân đại thắng” cho ĐCSVN. 

Kể từ năm 1972, Trung Cộng bắt tay Mỹ để tranh thủ làm ăn kinh tế, lúc đó Liên Xô và Trung Cộng càng mâu thuẫn hơn nữa. Đến năm 1978, Trung Cộng mở cửa đón Mỹ vào làm ăn, từ đó mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Cộng đẩy lên cực độ. Giờ khoảng cách giữ Liên Xô và Trung Cộng quá xa, Việt Nam không thể đu dây được nữa, nếu tiếp tục đu, thì dây đứt CSVN sẽ chết. Cho nên, đến thời điểm này buộc CSVN phải chọn lựa 1 trong 2. Và Việt Nam đã chọn theo anh hai bỏ anh ba, thế là thằng Trung Cộng tức lồng lộn. 

Vậy là bao công sức tiền của của Trung Cộng đổ ra nuôi Việt Cộng để nhằm mục đích thu nợ bằng lãnh thổ Việt Nam giờ tan thành mây khói. Điên tiết vì mất cả chì lẫn chài, nên ngày 17/02/1979 Đặng Tiểu Bình xua hơn nửa triệu quân sang “dạy cho Việt Nam một bài học”. Sau 1 tháng Trung Cộng tàn sát nhân dân Việt Nam và phá hủy 6 tỉnh biên giới miền Bắc thành bình địa, Việt Nam đánh bật quân cướp nước ra khỏi biên giới.

Kể từ sau năm 1979, thằng em út Việt Nam có anh hai Liên Xô làm chỗ dựa, nên Hà Nội không việc gì phải hòa thuận với Trung Cộng. Thế nhưng, đến năm 1990, Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Việt Cộng bơ vơ, nên nhóm Linh – Mười – Anh mang chiếu sang Thành Đô lót gối quỳ lạy tạ lỗi với anh ba vì lỡ dại đã phản anh ba theo anh hai trong quá khứ. Giờ anh hai chết rồi, nay thằng em út xin làm trâu ngựa để nghe anh ba sai bảo, đang mồ côi nên em quỳ lạy anh ba che chở dùm. Mà một khi đã tự mình xin làm nô lệ, thì những kế hoạch mà anh ba định làm dang dở trước đó phải được phục hồi lại hoàn toàn. 

Như vậy kế hoạch dang dở của Trung Cộng với Việt Nam là gì? Như đã nói phần đầu, đó là làm cho Việt Nam nợ ngập đầu và tiến hành cấn trừ bằng lãnh thổ. Cho nên, từ năm 1990 đến nay, CSVN liên tục nhượng đất, nhượng biển cho Trung Cộng để trả hết món nợ cũ. Đó là cái giá mà CSVN theo đuổi chủ thuyết CS để bảo vệ  sự độc tài cai trị. Và tất nhiên, khi trả nợ cũ thì Trung Cộng cũng tròng thêm nợ mới trên đầu Việt Nam bằng thứ bẫy nợ mà Trung Cộng đã và đang áp dụng. Một khi CSVN đã gắn kết với Trung Cộng thì rứt không ra được, vì những món nợ đáng kinh tởm cứ lớn dần, và bắt buộc CSVN phải tìm cách nào đấy để giải quyết với dân nhằm thực hiện tiến trình nhượng địa cấn nợ. Và cứ như thế Trung Cộng cứ từ từ tùng xẻo lãnh thổ Việt Nam. 

Hiện nay Việt Nam đang mất dần lãnh thổ về tay Trung Cộng, nhân dân đang phẫn uất. Thêm vào đó, là sự hèn hạ của ĐCSVN trước sự lấn tới của Trung Cộng làm lòng dân vốn đã căm phẫn lại càng căm phẫn. Chưa hết, đầu năm 2019, XHCN Venezuela đang lâm vào đường cùng, sợ phẫn uất của dân cộng hưởng với biến động Venezuela làm dân tràn xuống đường, thế nên ngày 17/02 năm nay, Đảng bật đèn xanh cho Ban Tuyên Giáo mở lệnh cấm, cho phép báo viết về chiến tranh biên giới 1979. Đây là hình thức xả van để giảm nhiệt tức giận của dân mà thôi. Chẳng có gì đáng mừng, mọi thứ đều không thay đổi. Tất cả đều nằm trong kế sách trị dân của ĐCS. 

–Đỗ Ngà–

PHÚC HỌA

PHÚC HỌA

Đoạn Tin Mừng là phần mở đầu một bài giảng rất quan trọng của Chúa Giêsu, bài giảng đầu tiên, bài giảng khai mạc chương trình truyền giảng của Chúa.  Chúng ta thấy bốn lần Chúa nói “Phúc cho” và bốn lần Chúa nói “Khốn cho”, nên thường được gọi là bốn mối phúc và bốn mối họa, đối chiếu nhau gần như hoàn toàn: nghèo khó đối lại với giàu có, đói khát đối lại với no đầy, khóc lóc đối lại với vui cười, bị ghét bỏ đối lại với được ca tụng.

Chúng ta thấy ba mối phúc đầu và ba mối họa đầu đi với nhau, nghĩa là nghèo, đói và khóc lóc là bộ ba không thể tách rời.  Đối lại, giàu, no và cười là bộ ba ngược lại.  Bởi vì đói và khóc là hậu quả của nghèo, là biểu hiệu cụ thể nhất của cái nghèo.  Trái lại, no và cười là biểu hiệu của sự giàu có.  Chúng ta thấy hai hình ảnh nổi bật lên trong một thế tương phản rõ rệt: người nghèo, đói và khóc – người giàu, no và cười.  Còn mối phúc thứ tư là những người bị ghét bỏ, loại trừ và bách hại vì Chúa, là những môn đệ của Chúa, họ chung số phận với các ngôn sứ.  Ngược lại, mối họa thứ tư là những người được thế gian trọng vọng, là giới kinh sư, Pharisêu.  Họ giống như những ngôn sứ giả trong lịch sử dân Chúa.

Qui chiếu lại như thế chúng ta thấy đoạn Tin Mừng này chỉ nêu lên hai đối tượng của phúc và hai đối tượng của họa: người nghèo và người bị ghét bỏ vì Chúa, đó là đối tượng của phúc.  Người giàu và người được thế gian ca tụng, đó là đối tượng của họa.  Giàu và nghèo, đó là những đề tài lớn, muốn hiểu được nội dung của phúc và họa, về người giàu và người nghèo, chúng ta phải tìm hiểu thật nhiều và thật sâu sát, ở đây chỉ xin gợi ý một vài điều thôi.

Giàu và nghèo, phúc ở đâu và họa ở đâu?  Trước hết, chúng ta phải xác định cho rõ ràng: đừng hiểu rằng giàu có ở đời này là không được hạnh phúc ở đời sau, và ngược lại, nghèo khó ở đời này tất nhiên được hạnh phúc đời sau.  Nếu như vậy thì chúng ta không được giàu có, không nên giàu có, vì giàu có là một điều xấu, làm chúng ta không được hạnh phúc đời sau.  Trái lại, chúng ta hãy chịu nghèo ở đời này, hãy sẵn sàng chịu khổ, để đời sau được hạnh phúc.  Không phải như vậy, chúng ta phải hiểu rằng: giàu có cũng là một cái phúc, nếu đó là thành quả do chúng ta cố gắng chuyên cần mà xây dựng được, tức là do công sức lao động mà chúng ta đã tạo được một cách chân chính.  Đối lại, nghèo khó tự nó chẳng bao giờ là cái phúc cả.  Cái phúc của người nghèo không phải là chính sự nghèo, nhưng là tinh thần của họ.  Họ có một tấm lòng phó thác, không phàn nàn, không kêu trách, không bất mãn.

Như vậy, cái họa của người giàu là khi họ tự mãn, tự kiêu, tự đắc về tài sức của mình mà quên mất Thiên Chúa, là Đấng đã ban cho họ được giàu có.  Hoặc cái họa cho người giàu là họ ích kỷ, keo kiệt, không biết dùng của cải chia sẻ cho người nghèo hay không biết dùng sự giàu có của mình mà mua sắm của cải nước trời.  Cũng thế, cái họa của người nghèo là nghèo tiền, nghèo của nhưng không nghèo dục vọng, không nghèo tham sân si, thì đó lại là thứ giàu có giả hiệu… họ không được gì ở đời này mà cũng chẳng được gì ở đời sau.

Cũng thế, nếu chúng ta may mắn có tiền có của, giàu có hơn người, chúng ta phải biết sử dụng cho nên cái giàu của mình.  Phải biết cảm tạ Chúa, phải biết chia sẻ cho người túng thiếu, phải biết đóng góp vào những việc chung, tức là giàu của và cũng giàu lòng nữa, chứ đừng giàu của mà nghèo lòng, đó là nguy cơ mất hạnh phúc nước trời.  Ngược lại, nếu chúng ta nghèo khó, chúng ta cũng phải biết lợi dụng kiếp nghèo để leo về trời.  Đừng vì nghèo mà ghen tương, đố kỵ, tham lam.  Và dù nghèo cũng không bao giờ lỗi đức công bằng… đó là cơ may giúp chúng ta đạt hạnh phúc nước trời.

Chúng ta hãy nhớ: Phúc hay họa cho người giàu cũng như người nghèo, không phải là chính sự giàu có hay nghèo khổ của họ, nhưng là tinh thần của họ biết đánh giá đúng và hành động đúng với cái giàu hay cái nghèo của mình.  Câu chuyện sau đây minh họa để chúng ta hiểu thêm điều đó.  Linh mục Hattinggơ, một hôm đi dạo trên một cánh đồng, ngài gặp một em bé đi học.  Ngài vừa đi với em vừa đặt nhiều câu hỏi để xem em có biết gì về giáo lý không.  Ngài hỏi: “Những người giàu có được vào nước trời không?”  Em bé trả lời: “Được, nếu họ biết giúp đỡ những người nghèo.”  Ngài lại hỏi: “Vậy những người nghèo có được vào nước trời không?”  Em bé trả lời: “Được, nếu họ biết nhẫn nại chịu đựng.”  Cha Hattinggơ thích nhắc lại những câu trả lời của em bé ấy, và ngài thêm rằng: “Những lời đó chứa đựng một triết lý, triết lý của Tin Mừng Phúc âm.”

Chúng ta hãy nhớ: đời này được nối tiếp bằng đời sau, và chỉ có một con đường duy nhất cho mỗi người: người giàu thì đi theo con đường của mình, người nghèo cũng đi theo con đường của mình.  Cả hai cùng phải đi, cùng phải biết dùng cái giàu, cái nghèo của mình để đạt được hạnh phúc nước trời.  Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều hiểu rõ lời Chúa dạy để rồi dù giàu hay nghèo tất cả chúng ta cùng gặp nhau trong nước trời.

Sưu tầm

From: Langthangchieutim

Tin tức ở Việt Nam

           * Hậu quả của một cơn giận

Cãi nhau, chồng lao xe hơi chở vợ con xuống sông Hoài, 3 người chết

Cãi vã nhau, người chồng tức giận lái xe hơi đang chở vợ và hai con lao thẳng xuống sông Hoài ở thành phố Hội An, khiến 3 người chết. Trong xe hơi lúc này có bốn người gồm hai vợ chồng và hai đứa con. Hai vợ chồng cùng con trai tử vong, riêng bé gái (14 tuổi) biết bơi nên khi xe lao xuống sông đã nhanh chóng thoát ra ngoài, bơi vào bờ kêu cứu.

Hiện trường trục vớt chiếc xe hơi và thi thể các nạn nhân. (Hình: Tuổi Trẻ)

*Giàu có quyền lực cũng đau khổ, thất vọng.

Một phó phòng Ban quản lý khu đô thị mới Thủ Thiêm vừa được phát hiện tử vong sau khi rơi xuống từ tầng 9 tòa nhà trụ sở cơ quan vào sáng 28/1, trong thời gian đang nghỉ phép.

Trong lúc truyền thông trong nước trích dẫn nhận định ban đầu từ Ban quản lý khu đô thị cho rằng có thể cán bộ này tự vẫn vì “áp lực công việc”, các ý kiến trên mạng đang đặt ra nghi ngờ xung quanh cái chết của ông.

Theo tường thuật của Vietnamnet, ông Nguyễn Minh Long, 43 tuổi, Phó phòng Quản lý quy hoạch-kiến trúc của Ban quản lý khu đô thị mới Thủ Thiêm, được phát hiện đã chết sau khi bảo vệ của trụ sở Ban quản lý phát hiện có người rơi từ tầng 9 xuống đất.

https://www.voatiengviet.com/a/pho-phong-ban-quan-ly-thu-thiem-tu-vong-tai-tru-so-trong-thoi-gian-nghi-phep/4761865.html?fbclid=IwAR1jZbgGXAcciFjzLYKgIe7hP4qL1efE6DJcQAkLHmaJXnZrmVLlnMLSEP8

                *Sự tàn bạo, bất nhân

 Người đàn ông nghèo bị đánh chết vì trộm bó anh đào

Nam thanh niên nằm chết bên bó đào ở số A1 – 15 đường An Dương Vương, phường Cốc Lếu, TP Lào Cai khiến dân tình xôn xao.

Theo người chứng kiến, thanh niên ăn trộm một bó anh đào và bình đựng hoa của chủ sạp hoa thì bị phát hiện.

3 người đuổi đánh thanh niên trộm đào. Về sau, một người lấy điếu cày đập vào gáy khiến thanh niên nằm bất động, sau đó họ bỏ đi.

Không chạy kịp, anh ta bị người bán cây đào ném gạch trúng đầu và đánh tử vong tại chỗ.

*Sự vô cảm và bất lực của nhà cầm quyền.

Xã hội Việt Nam bây giờ, sau 43 năm cộng sản cai trị.

Bà cụ 85 tuổi dầm mình dưới biển bán ngao, sò nuôi cháu tâm thần

Báo Nguoi- viet.com

https://www.nguoi-viet.com/viet-nam/ba-cu-85-tuoi-dam-minh-duoi-bien-ban-ngao-so-nuoi-chau-tam-than/

Khi chờ khách mua sò, cụ Rớt gỡ những sợi dây trôi dạt đem về nhà dùng. (Hình: Thanh Niên)

 

KIÊN GIANG, Việt Nam (NV) – Ngay khu ẩm thực nhộn nhịp nổi tiếng ăn chơi ở cầu cảng Hàm Ninh, huyện Phú Quốc, có một bà cụ 85 tuổi nhưng hằng ngày vẫn phải ngâm mình dưới nước biển để bán ngao, sò nuôi người cháu gái tâm thần 61 tuổi…

Trả lời thắc mắc của báo Thanh Niên tại sao không đem lên trên bờ mà bán để khách dễ mua. Vả lại, dầm mình dưới nước cả ngày như vậy không tốt cho sức khỏe, bà Rớt  giải thích

bà Rớt  giải thích: “Tui già rồi không bưng nổi. Bỏ ngao, sò vô can nhựa này kéo đi dưới nước mới được. Mỗi ngày mua mấy ký sò, ký ngao bán kiếm chút tiền để nuôi con cháu khùng 61 tuổi.”

 Cúi xuống

 Cúi xuống

Có một vị tổng giám đốc của một công ty lớn nảy ra một ý nghĩ thú vị, anh ta muốn đi trải nghiệm cuộc sống của những người dân thường trên xe buýt, không ngờ lại bị một cô gái xấu xí làm cho mất mặt…

Vị giám đốc mỗi ngày đều chen lên xe buýt ngồi, mặc dù cũng có chút kham khổ nhưng trong lòng anh lại cảm thấy rất lạ lẫm và vui vẻ.

Thế rồi, có một chuyện không bình thường đã xảy ra…

Hôm ấy anh ta cũng lên xe buýt và ngồi xuống ghế. Trong lúc còn đang nhìn ngó quanh quẩn thì đột nhiên, một giọng nói như thét vào mặt anh: “Anh không thể nhường ghế cho người khác à? Không đáng mặt đàn ông gì cả!”

Anh ngước lên thì thấy một người phụ nữ trạc ngoài hai mươi tuổi đang bế cậu con trai nhỏ. Còn người vừa lên tiếng mắng anh là một cô gái có phần “xấu xí”. Lúc anh còn đang sững sờ thì cô gái ban nãy lại to tiếng: “Nhìn cái gì mà nhìn? Tôi nói anh đấy!”

Tất cả những người trên xe buýt đều hướng về phía anh với đôi mắt tò mò, thậm chí “lườm lườm”. Mặt anh bỗng đỏ bừng lên mà không nói được lời nào…

Không còn cách nào khác, anh từ từ đứng lên và nhường ghế ngồi cho hai mẹ con cô gái kia. Đến trạm dừng xe tiếp theo, anh vừa chật vật vừa xấu hổ “trốn” khỏi chiếc xe buýt ấy. Anh không ngờ rằng mình lại gặp phải một việc như vậy. Trước khi xuống xe, anh cũng đã kịp nhìn qua mặt của cô gái “xấu xí” ấy một lần để ghi nhớ.

Không ngờ, một tuần sau đó cô gái “xấu xí” kia lại có mặt trong vòng phỏng vấn tuyển dụng nhân viên của công ty anh. Hơn nữa, anh lại là người trực tiếp phỏng vấn và quyết định tuyển.

Cô gái kia vừa nhìn thấy anh cũng phát hiện ra, nét mặt cô có  phần lo lắng, dường như trên trán cô vã cả mồ hôi…

Vị tổng giám đốc nói: “Cô lau qua một lượt giày của ban tuyển dụng, thì có thể được nhận vào làm”.

Cô gái đứng ở đó một lúc và do dự thật lâu. Cô nghĩ: “Kinh tế trong nhà mình đã khó khăn lắm rồi, mình quá cần công việc này!”

Thực tế, cô ấy rất có năng lực và những thành tích mà cô đạt được cũng rất cao. Tuy nhiên, bởi vì cô có dung nhan hơi xấu nên dù đã đến dự tuyển ở một số công ty nhưng đều bị từ chối.Cô lại phân vân: “Bây giờ cơ hội bày ra trước mặt mình, chỉ cần mình buông tự tôn, lau giày cho họ thì sẽ có việc làm. Thế nhưng mà mình sao có thể đổi sự tôn nghiêm của mình đây?”

Vị tổng giám đốc cũng cho rằng: “Cô ta ngang ngược thế chắc sẽ không hạ mình đâu!” Thế là anh ta nhắc lại một lần nữa như để khiêu khích cô, thúc giục cô.

Cô gái lập tức ngồi xổm xuống, cầm giẻ lau và bắt đầu lau giày cho những vị giám khảo kia.

Vị tổng giám đốc thắc mắc: “Cô không phải là lợi hại lắm sao? Sao lại không có phản ứng gì thế?”

Khi cô gái bắt đầu lau đến giày của anh, anh ta còn cố ý ngồi bắt chéo và giơ chân lên. Tuy nhiên, bất giác anh ta lại cảm thấy mình có chút gì đó quá đáng. Anh thầm nghĩ: “Cô ta dù làm mất mặt mình trên xe buýt nhưng cũng là vì việc tốt, có chút nghĩa hiệp!”

Nghĩ vậy, anh ta liền xem hồ sơ của cô, không ngờ trước mắt anh là những thành tích tốt mà cô đạt được, vượt xa những người khác. Từ mọi phương diện, dường như cô đều xuất sắc, hơn nữa không thể nuốt lời được. Thế là, sau khi cô gái đã lau hết giày cho mấy vị tuyển dụng, anh tuyên bố trước mặt mọi người: “Cô đã trúng tuyển!”

Cô gái cũng không bộc lộ vẻ vui mừng mà chỉ hướng về phía giám khảo nói lời nhỏ nhẹ: “Tôi xin cảm ơn!”

Sau đó, cô quay người sang phía vị tổng giám đốc và nói: “Tính cả giày của ngài là 5 đôi, mỗi đôi tôi lấy 20.000, tổng cộng là 100.000. Sau khi ngài trả xong tiền, tôi mới bắt đầu đi làm.”

Vị tổng giám đốc không biết nói thế nào, mà cũng không thể rút lại quyết định của mình, nên đành phải trả cho cô gái 100.000.

Tuy nhiên, điều khiến anh ta kinh ngạc hơn là cô gái sau khi nhận 100.000 ra về. Lúc cô vừa đi đến cổng công ty thì cô liền đưa hết số tiền đó cho một ông lão nhặt ve chai.

Vị tổng giám đốc từ sau hôm đó lại có phần nể phục cô gái. Và cũng từ sau khi được tuyển vào công ty, cô gái làm việc rất xuất sắc, đã thay vị tổng giám đốc ký được nhiều hợp đồng lớn.

Có một hôm, vị tổng giám đốc nhịn không được liền hỏi cô: “Hôm cô đến phỏng vấn, tôi làm khó cho cô như vậy, cô có oán trách tôi không?”

Cô gái trả lời ngay lập tức: “Tôi cúi người xuống, chỉ vì muốn đổi một cơ hội để có thể ngóc đầu lên!”

Nhất thời “cúi người” không có nghĩa là đánh mất tôn nghiêm, càng biết lúc cần “cúi người” thì tương lai càng ngẩng được cao đầu !

Theo Daikynguyenvn

From: tinhnguyen49 & NguyenNThu

Đơn giản và Phức tạp

Đơn giản và Phức tạp

Khi còn nhỏ thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp.

Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có trở nên phức tạp.

Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị trở nên phức tạp.

Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp.

Thực ra thế giới này rất đơn giản, chỉ có lòng người là phức tạp.

Mà suy cho cùng thì lòng người cũng đơn giản, chỉ vì có lợi ích chi phối nên con người mới trở nên phức tạp.

Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.

Đời người, phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.

Trong cuộc đời mỗi người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng thậm chí là đau khổ.

Người vui vẻ không phải là người không có buồn phiền mà là người không để cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế.

Thật ra, đau khổ không hề đáng sợ, đáng sợ là ngay cả trái tim cũng phản bội bản thân mà đứng về phía đau khổ.

Muốn quản lý tốt tâm trạng của bản thân thì cần phải:

*Quên đi những điều làm mình không vui, đừng coi trọng những mâu thuẩn, hiểu lầm phát sinh trong cuộc sống,

*Mà hãy xem đó như là một yếu tố giúp chúng ta mài dũa đời sống tâm linh của mình vững chắc hơn.

*Chỉ có như thế thì nỗi đau khổ của mình như gió thoảng, mây trôi mà thôi.

Hạnh phúc do chính bản thân mình mà ra thì vĩnh cửu, còn hạnh phúc do người khác đem đến chỉ được giữ lại rất ngắn vì nó không tồn tại.

Sưu tầm.

600.000 quân Trung Quốc được huy động để thực hiện một cuộc phá hoại rộng lớn trên đất Việt Nam. Mọi chuyện không như ý muốn của kẻ thù

600.000 quân Trung Quốc được huy động để thực hiện một cuộc phá hoại rộng lớn trên đất Việt Nam. Mọi chuyện không như ý muốn của kẻ thù.

***

Nhiều năm sau này, người trong vùng vẫn kể về cái đêm con trai cô Dén chết. Đoàn người sơ tán từ thị xã Cao Bằng, lần rừng về cầu Tài Hồ Sìn, tìm đường xuôi về Bắc Kạn, Thái Nguyên, những vùng chiến sự chưa lan tới. Gặp một trại lính Trung Quốc, đoàn người bấm nhau đi thật khẽ. Đúng lúc, từ phía nhà cô Dén có tiếng ọ ọe của trẻ con. Thằng bé bú no nê và được ủ ấm, đã thức giấc. Cô Dén loay hoay tìm cách để nó thôi khóc.

Ai nấy nín thở, đã có tiếng thì thào gắt gỏng. Dưới áp lực sống của hàng trăm con người, người mẹ đã bịt chặt miệng con để nó không còn phát ra tiếng kêu nữa. Thằng bé càng giãy, mẹ nó càng bịt chặt. Đoàn người vượt qua bản, thằng bé cũng không còn thở nữa. Nó mới hai tháng tuổi.

Người mẹ ôm chặt con không nấc lên được tiếng nào. Một ngôi mộ cỏn con được đắp vội bên đường. Những bước chân nặng nề bước tiếp.

Đó là một khung cảnh biên giới phía Bắc Việt Nam tháng 2 năm 1979, nơi Đặng Tiểu Bình tuyên bố đang tìm kiếm “sự bình yên nơi biên viễn”.

Ngày 2 tháng 2 năm 1979, trên khán đài một buổi đua ngựa ở bang Texas, Mỹ, một người đàn ông châu Á thấp bé mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn tối màu tay giơ chiếc mũ cao bồi, cười tươi. Khoảnh khắc đó, được các hãng thông tấn khắp thế giới truyền tải, trở thành một biểu tượng ngoại giao. Người đàn ông đó là Đặng Tiểu Bình, Phó thủ tướng Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

27 ngày sau khi quan hệ ngoại giao Mỹ-Trung được ký kết, 28 tháng 1 năm 1979, chiếc Boeing 707 từ Bắc Kinh cất cánh, nhắm hướng Washington. Đặng Tiểu Bình bắt đầu chuyến thăm chính thức nước Mỹ.

Trong tiệc chiêu đãi cùng ngày, Đặng yêu cầu một cuộc gặp riêng với Tổng thống Jimmy Carter về vấn đề Việt Nam. Yêu cầu của Đặng được thực hiện ngay hôm sau. Hai mươi vị lãnh đạo đôi bên dành tròn 7 tiếng cho cuộc hội đàm, từ 10 giờ 40 đến 17 giờ 40.

Đặng Tiểu Bình và Jimmy Carter tháng 1/1979. Ảnh: UPI.

Trong sáu tiếng đầu tiên, Đặng nhấn mạnh về “chủ nghĩa bá quyền của Liên Xô”, cảnh báo “nguy cơ chiến tranh bắt đầu từ Liên Xô”, “Mỹ chưa chống trả Liên Xô thỏa đáng”; “Mỹ và Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng trong cuộc chiến này”.

Bàn đến Việt Nam, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đề nghị chuyển địa điểm sang phòng Bầu Dục. Cuộc họp rút xuống chỉ còn 8 người. Đặng Tiểu Bình đề cập đến “Việt Nam xâm lược Campuchia” để tiếp tay cho ý đồ bá chủ của Liên Xô. “Campuchia hy vọng Trung Quốc giúp đỡ, nhưng chúng tôi quá hiền lành”.

Ngày hôm sau, Việt Nam tiếp tục là chủ đề chính của cuộc hội đàm, lần này, của riêng Đặng và Carter. Trong biên bản cuộc họp có trích một phát biểu của Đặng: “Trung Quốc phải dạy Việt Nam một bài học”.

Jimmy Carter gọi ý định của Đặng là một “serious mistake”- sai lầm nghiêm trọng và từ chối giúp đỡ. Tổng thống Mỹ đích thân đọc một lá thư tay, nêu 8 lý do tại sao Trung Quốc không nên tấn công Việt Nam tại thời điểm này. Trong đó có “ảnh hưởng đến hình ảnh về một Cộng hòa nhân dân Trung Hoa yêu chuộng hòa bình”.

Đặng trả lời: “Cuộc chiến sẽ giới hạn trong quy mô nhỏ. Chúng tôi chỉ tìm kiếm một sự bình yên nơi biên viễn”.

Học cách tu cái miệng!

Học cách tu cái miệng!

Sống ở trên đời, “tu cái miệng” là một điều đặc biệt quan trọng. Người xưa có câu: “Nước đổ khó hốt, gương vỡ khó lành”. Mỗi lời nói ra cũng giống như bát nước hắt đi, thật khó lòng thu hồi về được nữa…

Nói chuyện là một nghệ thuật, dù là lời hay ý đẹp cũng phải đắn đo. Nói điều không tốt khiến đôi bên nghe xong đều mất hứng thì đương nhiên là không nên nói.

Vậy những lời thế nào là không tốt và không nên nói ra? Học cách “tu cái miệng” bằng cách không nói 8 lời sau đây:

  1. Không nói những lời chán nản, thối chí

Co’ người bình thường thích nói những lời chán nản làm người khác nhụt chí. Thật ra cuộc sống rất cần những lời cổ vũ động viên từ người khác, cho dù không có ai khích lệ thì cũng phải tự khích lệ chính mình. Bản thân không cổ vũ chí hướng của mình, trái lại còn nói ra những lời thoái chí thì đương nhiên sẽ rơi vào vực sâu suy sụp.

  1. Không nói những lời tức giận

Con người đang lúc tức giận thường không tự chủ được mà nói ra những lời giận dữ, có lúc làm tổn thương người khác, có khi lại làm tổn thương chính mình. Người ta khi bị xúc phạm thì cần nhất là giữ được tỉnh táo, không nên tùy tiện phát ngôn, vì lời nói lúc nóng giận thường rất khó nghe, vì vậy nhất định đừng nên nói.

  1. Không nói những lời oán trách

Khi không hài lòng, người ta thường nói ra những lời bất mãn, oán giận ông chủ, oán giận bạn bè, thậm chí oán giận cả người nhà. Nếu bạn thường xuyên nói những lời oán trách, người khác nghe được sau này sẽ mượn đó làm đề tài để nói về bạn, gây ra bất hòa thị phi, khiến bạn phải đối phó với người này, đối phó với người kia, cuối cùng tự mình làm khổ mình, bạn việc gì phải khổ như vậy?

  1. Không nói những lời tổn thương

Có người lỗ mãng nói năng tùy tiện, không biết bao dung tôn trọng người khác, thường hay nói những lời tổn thương người khác, có lúc “hại người ích ta”, nhưng cũng có khi “hại người hại mình”. Lời nói tổn thương người khác có thể chỉ là nhất thời, nhưng nhân cách của mình đã bị người ta xem thường rồi đó, tổn thương ấy là vĩnh viễn!

  1. Không nói những lời khoe khoang

Có người khi nói chuyện thường thích tuyên truyền về bản thân, tự mình quảng cáo rùm beng, tự mình thổi phồng chính mình, người khác nghe xong nhất định không đồng tình. Cho nên khoe khoang thực tế cũng chẳng được lợi ích gì, trái lại còn làm mình bị tổn thương. Con người muốn vĩ đại thì phải làm những việc vĩ đại, vĩ đại ấy là phải để người khác nói, không thể tự nhận được đâu, bản thân mình khiêm tốn là tốt hơn cả.

  1. Không nói những lời dối trá

Phật giáo giảng “Ngũ giới”, “cấm nói dối” là một trong năm giới cấm này. Nói dối tức là “thấy mà nói không thấy, không thấy mà nói thấy, đúng mà nói là sai, sai mà nói là đúng”, nói một cách đơn giản thì đó là những lời không thật.

Truyện ngụ ngôn “Sói đến rồi” (hay “Chú bé chăn cừu”) từng nói về hậu quả nghiêm trọng của việc nói dối. Một ví dụ khác, ban đầu có 1 chiếc máy bay, qua tai người khác nói thành 11 chiếc, cuối cùng biến thành 91 chiếc, đây chính là những tin đồn thất thiệt, chuyện bé xé ra to, cũng tương tự như là nói dối.

  1. Không nói những lời bí mật

Trên đời này có lắm điều bí mật, từ gia đình đến công ty không đâu là không có, nghiệp vụ có bí mật nghiệp vụ, quốc gia có bí mật quốc gia. Hiện nay các quốc gia đều rất coi trọng việc bảo mật, nếu chẳng may tiết lộ bí mật quốc gia thì bạn sẽ bị xử lý nghiêm khắc và chịu hình phạt nặng nề.

Cho nên chúng ta cần phải tạo thành thói quen giữ bí mật, không được tùy tiện phát ngôn. Trước khi nói ra những chuyện bí mật, bạn phải nghĩ đến những hậu quả xấu có khả năng xảy ra, hiểu rõ tính nghiêm trọng của nó thì sẽ không dám tùy tiện ăn nói lung tung.

  1. Không nói những lời riêng tư

Mỗi người đều có những chuyện riêng tư, việc riêng của mình đương nhiên không muốn người khác biết, việc riêng của người khác cũng không thể mang ra nói lung tung. Cho dù bạn có nói ra hết chuyện riêng của người khác mà họ không phản kháng lại thì tính xấu của bạn cũng đã lộ ra rồi, sau này bạn sẽ khó mà có được hậu phúc nữa.

Con người sống trong nhà không chỉ để che mưa che nắng mà còn vì an toàn, nhưng chủ yếu nhất là để đảm bảo sự riêng tư. Người ta mặc quần áo một phần là để giữ ấm nhưng quan trọng là để che đậy thân thể của mình. Vì thế, nếu muốn tôn trọng lẫn nhau thì không được tiết lộ những việc riêng tư của người khác.

Ngoài những điều kể trên, đương nhiên còn có rất nhiều điều không nên nói và không nên làm, thận trọng với những lời nói của mình cũng chính là đang “tu khẩu” , tu cái miệng của mình, bằng không chính bạn đang hủy đi phúc đức của mình đấy !

Sống ở trên đời, “tu cái miệng” là một điều đặc biệt quan trọng. Người xưa có câu: “Nước đổ khó hốt, gương vỡ khó lành”. Mỗi lời nói ra cũng giống như bát nước hắt đi, thật khó lòng thu hồi về được nữa…

Nói chuyện là một nghệ thuật, dù là lời hay ý đẹp cũng phải đắn đo. Nói điều không tốt khiến đôi bên nghe xong đều mất hứng thì đương nhiên là không nên nói.

Vậy những lời thế nào là không tốt và không nên nói ra? Học cách “tu cái miệng” bằng cách không nói 8 lời sau đây:

  1. Không nói những lời chán nản, thối chí

Có người bình thường thích nói những lời chán nản làm người khác nhụt chí. Thật ra cuộc sống rất cần những lời cổ vũ động viên từ người khác, cho dù không có ai khích lệ thì cũng phải tự khích lệ chính mình. Bản thân không cổ vũ chí hướng của mình, trái lại còn nói ra những lời thoái chí thì đương nhiên sẽ rơi vào vực sâu suy sụp.

  1. Không nói những lời tức giận

Con người đang lúc tức giận thường không tự chủ được mà nói ra những lời giận dữ, có lúc làm tổn thương người khác, có khi lại làm tổn thương chính mình. Người ta khi bị xúc phạm thì cần nhất là giữ được tỉnh táo, không nên tùy tiện phát ngôn, vì lời nói lúc nóng giận thường rất khó nghe, vì vậy nhất định đừng nên nói.

  1. Không nói những lời oán trách

Khi không hài lòng, người ta thường nói ra những lời bất mãn, oán giận ông chủ, oán giận bạn bè, thậm chí oán giận cả người nhà. Nếu bạn thường xuyên nói những lời oán trách, người khác nghe được sau này sẽ mượn đó làm đề tài để nói về bạn, gây ra bất hòa thị phi, khiến bạn phải đối phó với người này, đối phó với người kia, cuối cùng tự mình làm khổ mình, bạn việc gì phải khổ như vậy?

  1. Không nói những lời tổn thương

Có người lỗ mãng nói năng tùy tiện, không biết bao dung tôn trọng người khác, thường hay nói những lời tổn thương người khác, có lúc “hại người ích ta”, nhưng cũng có khi “hại người hại mình”. Lời nói tổn thương người khác có thể chỉ là nhất thời, nhưng nhân cách của mình đã bị người ta xem thường rồi đó, tổn thương ấy là vĩnh viễn!

  1. Không nói những lời khoe khoang

Có người khi nói chuyện thường thích tuyên truyền về bản thân, tự mình quảng cáo rùm beng, tự mình thổi phồng chính mình, người khác nghe xong nhất định không đồng tình. Cho nên khoe khoang thực tế cũng chẳng được lợi ích gì, trái lại còn làm mình bị tổn thương. Con người muốn vĩ đại thì phải làm những việc vĩ đại, vĩ đại ấy là phải để người khác nói, không thể tự nhận được đâu, bản thân mình khiêm tốn là tốt hơn cả.

  1. Không nói những lời dối trá

Phật giáo giảng “Ngũ giới”, “cấm nói dối” là một trong năm giới cấm này. Nói dối tức là “thấy mà nói không thấy, không thấy mà nói thấy, đúng mà nói là sai, sai mà nói là đúng”, nói một cách đơn giản thì đó là những lời không thật.

Truyện ngụ ngôn “Sói đến rồi” (hay “Chú bé chăn cừu”) từng nói về hậu quả nghiêm trọng của việc nói dối. Một ví dụ khác, ban đầu có 1 chiếc máy bay, qua tai người khác nói thành 11 chiếc, cuối cùng biến thành 91 chiếc, đây chính là những tin đồn thất thiệt, chuyện bé xé ra to, cũng tương tự như là nói dối.

  1. Không nói những lời bí mật

Trên đời này có lắm điều bí mật, từ gia đình đến công ty không đâu là không có, nghiệp vụ có bí mật nghiệp vụ, quốc gia có bí mật quốc gia. Hiện nay các quốc gia đều rất coi trọng việc bảo mật, nếu chẳng may tiết lộ bí mật quốc gia thì bạn sẽ bị xử lý nghiêm khắc và chịu hình phạt nặng nề.

Cho nên chúng ta cần phải tạo thành thói quen giữ bí mật, không được tùy tiện phát ngôn. Trước khi nói ra những chuyện bí mật, bạn phải nghĩ đến những hậu quả xấu có khả năng xảy ra, hiểu rõ tính nghiêm trọng của nó thì sẽ không dám tùy tiện ăn nói lung tung.

  1. Không nói những lời riêng tư

Mỗi người đều có những chuyện riêng tư, việc riêng của mình đương nhiên không muốn người khác biết, việc riêng của người khác cũng không thể mang ra nói lung tung. Cho dù bạn có nói ra hết chuyện riêng của người khác mà họ không phản kháng lại thì tính xấu của bạn cũng đã lộ ra rồi, sau này bạn sẽ khó mà có được hậu phúc nữa.

Con người sống trong nhà không chỉ để che mưa che nắng mà còn vì an toàn, nhưng chủ yếu nhất là để đảm bảo sự riêng tư. Người ta mặc quần áo một phần là để giữ ấm nhưng quan trọng là để che đậy thân thể của mình. Vì thế, nếu muốn tôn trọng lẫn nhau thì không được tiết lộ những việc riêng tư của người khác.

Ngoài những điều kể trên, đương nhiên còn có rất nhiều điều không nên nói và không nên làm, thận trọng với những lời nói của mình cũng chính là đang “tu khẩu” , tu cái miệng của mình, bằng không chính bạn đang hủy đi phúc đức của mình đấy !

From: Tu-Phung

Ta chọn lương thiện không phải là vì ta mềm yếu!

Ta chọn lương thiện không phải là vì ta mềm yếu!

Lương thiện không phải mềm yếu hay khờ khạo, nó chính là bản tính nguyên sơ của sinh mệnh con người. Vậy nên, nếu có lúc cuộc sống này bắt ta lựa chọn, đừng ngại ngùng khi lựa chọn trở thành người thiện lương.

Ta chọn lương thiện không phải vì ta mềm yếu, mà bởi vì ta hiểu rằng lương thiện là bản tính nguyên sơ của mỗi con người, “nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Làm người thì không thể chọn con đường trở thành kẻ ác, người ác tất sẽ có báo ứng.

Ta chọn nhường nhịn không có nghĩa là ta đang bị thụt lùi, mà vì ta hiểu rằng, “một sự nhịn, chín sự lành”, nhịn một chút sóng yên biển lặng, lùi một chút biển rộng trời cao.

Ta chọn tha thứ không phải vì ta nhu nhược, mà bởi vì ta hiểu rằng tha thứ là một trong những đức tính tốt đẹp nhất trên đời, không bao giờ là sai cả.

Ta lựa chọn tha thứ còn một nguyên nhân nữa, không phải vì ta không giữ vững lập trường, mà bởi vì ta hiểu rằng mọi chuyện không nên làm tận, làm tuyệt.

Ta chọn “khờ khạo” không phải vì ta khờ khạo thật, mà bởi vì ta hiểu rằng, khi đối diện với hiểu lầm, oan ức, bất công thì không nên so đo tính toán quá, cứ nở nụ cười mà lặng nhìn thế thái nhân tình.


Đôi khi giả ngốc không phải là ngốc thật, mà chỉ là muốn cấp cho đối phương thêm một cơ hội nữa.

Ta chọn chân thành và nói lời thẳng thắn là bởi vì ta hiểu rằng, những lời nói dối, trái với lương tâm chỉ dùng để đối phó tình huống, trong khi thật lòng đối đãi, nói lời chân tình mới thật sự giải quyết tận gốc vấn đề và không có hậu họa về sau.

Ta trân trọng nghĩa tình không phải vì ta quỵ lụy, mà bởi vì không nhất thiết phải vứt bỏ khoảng thời gian tốt đẹp giữa chúng ta.


Cuộc đời vốn dĩ có nhiều điều dù ta có muốn hay không chúng vẫn tồn tại. Tuy nhiên khi đối diện với cuộc đời thì bản tính của mình như thế nào mới là điều quan trọng nhất.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu

MỘT ĐÁM CƯỚI VUI VẺ ĐẶC BIỆT

MỘT ĐÁM CƯỚI VUI VẺ ĐẶC BIỆT

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Tuần trước tôi cử hành một lễ đám cưới.  Tất cả các đám cưới đều đặc biệt, nhưng đám cưới này có nét đặc biệt riêng.  Tại sao?

Cô dâu trẻ hôm đó rạng rỡ và tràn đầy sức sống một cách lạ thường, đó là người  đã chiến thắng căn bệnh ung thư.  Năm năm trước đây, trong cột báo này, tôi có kể sơ sơ câu chuyện của cô.  Tôi xin phép kể lại câu chuyện này, cập nhật thời gian hơn một chút:

Trong hai mươi lăm năm liên tiếp, hè nào tôi cũng đến dạy một khóa hè ở đại học Seattle.  Trong suốt các mùa hè này, tôi có thói quen, gần như thông lệ, là đi một chuyến phà ngắn từ Seattle đến đảo Bainridge để nghỉ ngày Quốc Khánh 4 tháng 7 với gia đình một người bạn.  Gia đình này có nhiều tập tục riêng, một trong các tập tục này là ngắm đoàn diễn hành mừng lễ Quốc Khánh đi qua bãi cỏ phía trước nhà người hàng xóm của họ.

Mười năm về trước, lúc ngồi trên bãi cỏ này để đợi đoàn diễn hành đi qua, tôi được gia đình giới thiệu cô gái nhỏ nhất nhà.  Em đang học lớp 12 và là thành viên đội bóng rổ giành chức vô địch toàn liên bang của trường, nhưng em lại đang mắc bệnh ung thư và phải dùng hóa trị để chống chọi với bệnh tật.  Mười tám tuổi, cân nặng chưa đầy 36 kilô, mùa hè nắng ấm mà em ngồi yên lặng, buồn bã, quấn mình trong chăn trong khi bạn bè em khỏe mạnh, tràn đầy sức sống uống bia và vui chơi.  Sức khỏe em không được tốt.  Chẩn đoán về lâu dài không chắc chắn, ít nhất, cơ thể và tinh thần của em cho thấy như vậy dù bạn bè và người thân không tin.  Em được mọi người chung quanh quan tâm, yêu thương lo lắng.  Em bệnh, nhưng em được yêu thương.

Tôi biết em hôm đó và những năm tháng sau này tôi còn biết nhiều hơn.  Gia đình và mọi người cầu nguyện nhiều cho em, cầu xin em được lành.  Cuối cùng, lời cầu nguyện và thuốc men chữa trị đã có tác động.  Em bám lấy hy vọng nhỏ nhoi nhất, dần dần hồi phục và mấy tháng sau đó, em có sức khỏe lại, đời sống trở lại bình thường, ngoại trừ một điều không bao giờ giống như trước, đó là em nhìn cái chết với vẻ mặt “bình thường.”

Khi lắp ráp lại từng mảnh cuộc sống ban đầu, em nhận ra có những thứ đã trở lại như cũ, nhưng cũng có những thứ đã khác trước rất rất nhiều.  Qua trải nghiệm thức tỉnh này, cuộc sống bình thường không còn là một cái gì là hiển nhiên nữa, có một niềm vui sâu đậm trong tất cả mọi chuyện bình thường, có một chân trời, một khôn ngoan, một trưởng thành, một thành quả mới mà trước đây chưa có.  Thiên Chúa viết đường thẳng bằng những nét cong cong và đôi khi căn bệnh ung thư dù rất khủng khiếp, lại mang đến nhiều điều kỳ diệu hơn là nó lấy mất đi.

Sức khỏe mới của em không chỉ là sức khỏe thể chất.  Đó là sức khỏe tâm hồn, một tinh thần vững mạnh, có chiều sâu, có khôn ngoan.  Trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi nếu được chọn, em sẽ mong mình không bị bệnh và có cuộc sống như lúc đầu không.  Em trả lời: “Không, em không chọn như vậy, qua bệnh tật, em học được yêu thương.”  Yêu thương trải nghiệm khi bị bệnh dạy cho em biết có những bi kịch còn nặng hơn bi kịch mang bệnh ung thư.

Văn sĩ John Powell có viết một cuốn sách nhỏ đáng chú ý, cuốn Yêu Thương Không Điều Kiện, kể về anh Tommy, sinh viên của ông đã chết vì ung thư ở tuổi hai mươi bốn.  Không lâu trước khi chết, Tommy đến gặp và cám ơn Powell đã giúp anh có được một am hiểu nội tâm sâu sắc mà anh rút ra được từ lớp học của ông.  Powell đã giảng trong lớp học: Chỉ có hai bi kịch tiềm ẩn trong cuộc sống, chết trẻ không phải là một trong hai bi kịch này.  Bi kịch thứ nhất là chết và không yêu thương; bi kịch thứ hai là chết và không bày tỏ yêu thương với người chung quanh.

Các bác sĩ nghiên cứu về não bộ con người cho biết chúng ta chỉ mới sử dụng 10% năng lực não bộ của mình mà thôi.  Hầu hết các tế bào não không bao giờ được kích hoạt, vì chúng ta không cần chúng (chúng giành cho khôn ngoan hơn là gây lợi) và vì chúng ta không biết cách tiếp cận chúng.  Cũng các bác sĩ này cho biết, một cách nghịch lý, có hai điều giúp chúng ta tiếp cận chúng: trải nghiệm yêu thương và trải nghiệm bi kịch.  Tình yêu sâu đậm và đau đớn sâu đậm đều làm cho tâm hồn sâu sắc một cách mà không điều gì khác có thể làm được. 

Điều đó giải thích tại sao Thánh Têrêsa Hài Đồng là bác sĩ tâm hồn ở tuổi 24.  Nó cũng giải thích sự khôn ngoan của người đàn bà trẻ sống với các thử thách nhẹ nhàng với bạn bè và tỏa rạng với thế giới chung quanh cô ngày hôm nay.

Cách đây mười năm, khối u não đã lấy đi tuổi trẻ và ước mơ của một cô gái trẻ.  Khi đó là nỗi đau, thất vọng, xuống tinh thần, cay đắng, mất hy vọng.  Ai cũng có vẻ như may mắn hơn cô.  Chỉ lúc đó thôi.  Hôm nay, cô gái trẻ ấy là giáo viên ngoại hạng về giáo dục đặc biệt, cô Katie Chamberlin-Malloy, đang đi hưởng tuần trăng mật.  Cô hạnh phúc, thông minh, lên kế hoạch cuộc sống, sau khi đã học những gì đa số chúng ta sẽ học khi gần chết, ấy là, cuộc sống bình thường sẽ tốt hơn trong một chân trời rộng lớn hơn, rằng cuộc sống sâu đậm và hân hoan hơn khi chúng ta không cho nó là điều hiển nhiên, và rằng yêu thương còn quan trọng hơn sức khỏe và sự sống – và rằng tất các câu chuyện cổ tích thần tiên đều kết thúc bằng một đám cưới.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 

BBC: Trương Duy Nhất: Những ngày ở Thái Lan trước khi ‘mất tích’

BBC: Trương Duy Nhất: Những ngày ở Thái Lan trước khi ‘mất tích’

Tina Hà Giang – BBCvietnamese.com

10 tháng 2 2019

Khách sạn nơi ông Trương Duy Nhất ở trước khi “mất tích”
Hơn hai tuần trôi qua kể từ khi có tin blogger Trương Duy Nhất ở Đà Nẵng có khả năng “mất tích” sau khi tới Thái Lan.

Hôm 9/2, từ Canada, cô Trương Thục Đoan, con gái ông Nhất cho BBC biết:
“Cuộc gọi cuối cùng của ba và con là 9h tối ngày thứ Sáu, 25/1 theo giờ Bangkok. Lúc ba điện con thì ba đang ở trong phòng khách sạn. Nhưng lần cuối ba online trước khi con không liên lạc được là 5h39 chiều ngày thứ Bảy, 26/1 theo giờ Bangkok. Con check giờ online cuối cùng của ba trên facebook, facebook có tính năng đó nên con mới biết, vì cuộc gọi cuối cùng của con và ba là vào ngày 25.”

Ông Trương Duy Nhất đến cơ quan UNHCR hôm 25/1 để nộp đơn xin tỵ nạn

Trước áp lực của nhiều tổ chức quốc tế, chính phủ Thái Lan hôm thứ Năm tuần qua chính thức thông báo sẽ mở cuộc điều tra về sự có mặt của ông tại đây cũng như điều gì đã xảy ra với ông.

Trong khi đó, mạng internet vẫn lan truyền nhiều tin tức mâu thuẫn nhau về nghi vấn ông Nhất bị cho là “mất tích” thậm chí bị “bắt cóc” tại Bangkok.

Có đến Cao Uỷ UNHCR xin tị nạn

BBC được biết qua một nhà hoạt động ở Thái Lan (tạm gọi là ông A), người giúp đỡ ông Trương Duy Nhất trong thời gian ông ở Thái Lan, rằng ông đưa ông Nhất đến cơ quan UNHCR hôm 25/1 để nộp đơn xin tỵ nạn.

Trước đó, hôm 30/1, một nhà đấu tranh khác cho BBC biết đã được một nguồn tin đáng tin cậy có thẩm quyền xác định là ông Nhất đã đến đây.

Tuy thế, theo nhà hoạt động này thì ông Nhất “chưa ghi danh”.
“Việc làm hồ sơ tị nạn với UNHCR có nhiều bước. Bước đầu tiên là xin lấy hẹn ghi danh. Để làm việc này, người muốn mở hồ sơ điền một mẫu đơn ngắn, ghi rõ tên tuổi, công dân nước nào, và để lại số phôn. Sau đó UNHCR mới gọi phôn cho hẹn để họ quay trở lại làm đơn ghi danh, rồi từ đó mới lập hồ sơ. Trong trường hợp của blogger Trương Duy Nhất khi họ gọi lại thì không gọi được nữa.”

Chạy khỏi nơi trú ngụ

Hôm 9/2, tại một khách sạn nhỏ bé ở ngoại ô Bangkok người ta xác định ngay với phóng viên BBC là “người có hình giống ông Trương Duy Nhất có ở đây 6 ngày”.
Nhưng trước những câu hỏi tỉ mỉ hơn, người chủ nói ông không làm việc ở đó thường xuyên, và gọi một người phụ nữ dọn phòng đứng tuổi ra nói chuyện.

Qua lời dịch của một đồng nghiệp thuộc BBC Thái, bà nói:

“Ổng có ở đây. Tôi nhớ rõ vì ông là người ngoại quốc duy nhất, không nói được tiếng Thái.”
“Ông bất chợt mang đồ rời đi vào một sáng, cuối tuần, tôi không nhớ rõ ngày nào, chỉ biết hôm đó rất đông, và ông đi bằng taxi, ” một người phục vụ nói với BBC Thái.

Theo tìm hiểu, chủ hotel rất e ngại lôi kéo sự chú ý đến cơ sở làm ăn của mình, nói khách sạn của ông quá nhỏ “không có hệ thống ghi danh, nên không thể cung cấp thêm chi tiết.” Và mặc dù “có camera, nhưng bộ nhớ nhỏ nên mỗi tuần tự xóa đi và thu dữ kiện mới lên.”

Ông A, người giúp ông Trương Duy Nhất mướn khách sạn nói:
“Anh Trương Duy Nhất vào đến đất Thái đêm 19 rạng sáng ngày 20/1. Em đón anh ấy ở tiệm Starbuck tại Future Park Mall, rồi đưa anh ngay đến khách sạn đó vì nó tiện việc đi lại. Em đặt phòng ba đêm. Sau đó anh Nhất tự lo sáng sáng trả tiền 500 baht để ở thêm. Giấy tờ rất đơn giản không có gì. Một bà Thái làm việc ở đấy lấy phôn chụp passport anh Nhất, nhận tiền, thế là xong.”

Một ngày trước khi mất tích, ông Trương Duy Nhất than phiền với ông A là “cảm thấy bất an quá” vì sau khi đến văn phòng UNHCR về, không hiểu tại sao ông liên tục nhận được những cú phôn lạ, của đàn ông lẫn phụ nữ, cả người Việt lẫn người Thái. Hai người bàn nhau là sẽ phải đi mua thẻ điện thoại mới.

Ông A kể:

“Thứ Bảy 26/1, lúc 17:20 anh Nhất gọi em qua Whatsapp, nói anh đang ngồi ở một quán cà phê trên lầu ba của Future Park Mall.”

”Anh Nhất lúc đó rất lo. Anh kể có ít nhất là ba cú điện thoại gọi cho anh sáng hôm đó. Cú gọi cuối cùng, anh Nhất nói là của một người đàn ông nói “anh nên bỏ số điện thoại đó đi, và đi khỏi khách sạn đó đi” nên anh Nhất lúc đó sợ quá vội vã rời khỏi khách sạn. Rồi anh Nhất nhờ em giúp tìm người giúp đỡ.”

Ông A cho biết sau khi cúp phôn, ông gọi cho ông B, một người bạn để nhờ bạn giúp đỡ ông Nhất.

Tối hôm 9/2, ông B xác nhận với BBC rằng ông có cuộc điện đàm này với ông A vào hôm 26/1.

Ngay sau đó, không còn ai liên lạc được với blogger Trương Duy Nhất.

Nơi trú ẩn không còn an toàn?

Cho đến hôm 10/02 vẫn ai chưa được biết đích xác blogger Trương Duy Nhất đang ở đâu và chuyện gì đã xảy ra cho ông.

Đài Á Châu Tự Do hôm thứ Sáu đưa tin Hoa Kỳ hoan nghênh tin chính phủ Thái Lan sẽ điều tra việc Trương Duy Nhất bị mất tích.

Trong một tuyên bố ngày 8/2, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết họ hoan nghênh cuộc điều tra của chính phủ Thái Lan về vụ mất tích của ông Nhất, thêm vào đó, “chúng tôi đang theo dõi chặt chẽ tình hình”, đài Á Châu Tự Do viết.

“Tự do báo chí là căn bản của sự minh bạch và sự có trách nhiệm của chính quyền. Các nhà báo thường gặp những nguy cơ lớn khi làm công việc của họ, và nhiệm vụ của các chính phủ và công dân trên toàn thế giới là phải lên tiếng bảo vệ họ,” một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ được trích lời nói.

Trong vòng hai năm qua, giới bất đồng chính kiến Việt Nam thường chạy qua nước láng giềng như Thái Lan để tìm nơi ẩn náu.
Nhưng dường như Thái Lan dần dà không còn là nơi trú ẩn an toàn cho họ.

Trong thông cáo báo chí gửi đi hôm 6/2, tổ chức Uỷ ban Bảo vệ Ký giả (CPJ), viết:

“Thái Lan trước đây được xem là nơi trú ẩn an toàn trong khu vực cho các nhà báo và nhà bất đồng chính kiến, nhưng tình hình đã xấu đi sau gần năm năm cai trị của quân đội Thái Lan, với các trường hợp bất đồng chính kiến bị bắt cóc bởi các đặc vụ nước ngoài hoặc bị chính quyền Thái Lan bắt giữ và trục xuất về nước phải đối mặt với sự trả thù khắc nghiệt.”

Thái Lan là nước không tham gia Hội nghị Quốc tế về người Tị nạn, không cấp quy chế tị nạn cho những người đến đây nương náu như một số các quốc gia khác. Người muốn tị nạn phải ghi danh với Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc (United Nations High Commissioner for Refugees – UNHCR), phải chờ khoảng 3 tháng để được phỏng vấn, sau đó chờ 3 đến 6 tháng nữa mới có quyết định.

Thêm vào đó, tại nước này, dù đã được UNHCR cấp quy chế tỵ nạn họ vẫn bị xem là những kẻ cư ngụ bất hợp pháp, không nhận được sự giúp đỡ bất kỳ nào từ UNHCR, phải vừa tự tìm cách mưu sinh vừa tránh bị càn quét.

Chính phủ Thái Lan ban hành một Luật Lao Động mới vào tháng 04/2018, qua đó người lao động bất hợp pháp có thể bị phạt tới 3.000 Mỹ kim và bị tù 5 năm.

Blogger Trương Duy Nhất là trường hợp người bất đồng chính kiến bị ‘mất tích’ thứ năm trong năm nay tại Thái Lan hay những nước quanh vùng.

Vài ngày trước, Thái Lan loan báo sẽ điều tra việc ông Trương Duy Nhất dường như mất tích trong lúc có cáo buộc về khả năng ông bị bắt cóc ở Bangkok.

Người đứng đầu cơ quan di trú Thái Lan Surachate Hakparn nói với Reuters rằng không có hồ sơ chính thức về việc ông Nhất đã nhập cảnh Thái Lan.

Tuy vậy, văn phòng di trú Thái Lan đang xem xét có phải ông Nhất đã nhập cảnh Thái Lan bất hợp pháp và xem chuyện gì đã xảy ra với ông.

“Tôi đã ra lệnh điều tra vụ này,” ông Surachate nói với Reuters ngày 7/2.

‘Đã có mặt ở Bangkok’

Tổ chức nhân quyền Ân xá Quốc tế tuần này nói họ đã xác nhận tin ông Nhất bị những người vô danh bắt giữ tại một trung tâm thương mại, Future Park, ở Bangkok ngày 26/1.
Ân xá Quốc tế nói họ xác nhận tin này với “các nguồn độc lập giấu tên”.
Ân xá Quốc tế đã kêu gọi Việt Nam và Thái Lan cung cấp thông tin về vụ việc.
Ông Phil Robertson, từ tổ chức nhân quyền Human Rights Watch, thì nói ông Nhất đến Thái Lan “chỉ vì một nguyên nhân”.

“Là để xin tị nạn, và ai đó không muốn ông ta làm thế, vì vậy chính phủ Thái nên mở ngay điều tra.”

UNHCR – Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn – tại Thái Lan từ chối bình luận.

Từng ở tù

Blogger Trương Duy Nhất, chủ nhân của trang blog “Một góc nhìn khác”, từng bị tù 2 năm tại Việt Nam.

Ông bị bắt hôm 26/5/2013 tại nhà riêng ở Đà Nẵng.
Phiên tòa ở Đà Nẵng năm 2014 kết tội ông “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.”

Cáo trạng nói ông Nhất có các bài viết “không đúng sự thật, tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng”.

Ông ra tù hôm 26/5/2015.

https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-47140347

BBC.COM
BBC Tiếng Việt tìm hiểu những ngày ở Thái Lan của blogger Trương Duy Nhất trước khi ông được ghi nhận “mất tích”.

Can đảm chọn tự do

Can đảm chọn tự do

Ronald Reagan

Trần Quốc Việt dịch 

..Tự do là quyền mơ mộng – quyền theo đuổi giấc mơ của mình hay trung thành với lương tâm mình, cho dù ta chỉ là người duy nhất trong biển người hoài nghi. Tự do là sự thừa nhận rằng không một ai, không một quyền lực hay chính quyền nào có độc quyền về sự thật, ngoại trừ sự thật rằng cuộc đời của mỗi cá nhân là vô cùng quý giá, rằng mỗi người trong tất cả chúng ta sinh ra đời đều đã được sinh ra đời với mục đích nào đấy cho nên đều có điều gì đấy để cống hiến cho đời…

*Lời người dịch: Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đọc bài diễn văn nổi tiếng sau ở trường đại học quốc gia Mạc Tư Khoa vào ngày 31 tháng Năm, 1988. Reagan nói chuyện với sinh viên, nhưng bài diễn văn cũng được truyền thanh trên cả nước Liên Xô. Đây là lần đầu tiên một tổng thống Hoa Kỳ có thể nói chuyện trực tiếp với nhân dân Xô Viết.

Trước thềm năm mới, chúng tôi trích dịch bài diễn văn này với hy vọng rằng thông điệp về giá trị vĩnh cửu tạo ra xã hội cường thịnh và nhân văn-tức tự do của nó sẽ đến với những người Việt, đặc biệt những người trẻ tuổi như từng đến với những sinh viên Liên Xô cách đây 26 năm. (Tựa đề của người dịch.)

Ronald Reagan Đứng ở đây trước bích họa cách mạng của các bạn, tôi muốn nói về cuộc cách mạng rất khác đang diễn ra ngay bây giờ, đang âm thầm tràn qua toàn cầu mà không có cảnh đổ máu hay xung đột. Cuộc cách mạng ấy tạo ra những kết quả ôn hòa, nhưng chúng sẽ thay đổi cơ bản thế giới chúng ta, phá tan những giả định cũ, và đổi mới cuộc sống chúng ta. Ta dễ dàng đánh giá thấp vì cách mạng này không đi kèm với biểu ngữ hay phô trương. Cuộc cách mạng này tên là cuộc cách mạng kỹ thuật hay thông tin, và ta có thể lấy con chip silicon, không lớn hơn dấu tay, làm biểu tượng cho cách mạng này.

Theo chương trình trao đổi giữa hai nước, chúng tôi hiện nay có cuộc triển lãm lưu động quanh nước các bạn để chứng tỏ kỹ thuật thông tin đang biến đổi cuộc sống chúng tôi – thay thế lao động chân tay bằng người máy, dự báo thời tiết cho nông dân, hay vẽ bản đồ mã di truyền DNA cho các nhà nghiên cứu y khoa. Ngày nay những máy vi tính này giúp thiết kế ra mọi thứ từ nhà cửa, xe cộ tới phi thuyền; chúng còn thiết kế cả những máy tính tốt hơn và nhanh hơn. Chúng có thể dịch tiếng Anh sang tiếng Nga hay giúp người mù đọc hay giúp Michael Jackson tạo ra âm thanh của cả giàn nhạc trên một máy hợp âm (synthesizer). Khi được nối kết nhờ mạng lưới vệ tinh và cáp sợi quang học, với máy tính để bàn và điện thoại, một cá nhân có thể sử dụng những phương tiện mà chỉ cách đây vài năm ngay cả những chính quyền lớn nhất cũng không có sẵn.

Tựa như cánh bướm non trong kén, chúng tôi đang thoát thai từ nền kinh tế của cuộc cách mạng công nghiệp – nền kinh tế bị bó buộc và hạn chế trong tài nguyên vật thể của trái đất – sang, như một nhà kinh tế đã đặt tựa đề cho sách ông, nền “Kinh tế ở Trí tuệ”, mà ở đấy trí tưởng tượng của con người không có giới hạn và tự do sáng tạo là tài nguyên quý giá nhất. Hãy nghĩ về con chip nhỏ bé ấy. Giá trị của nó không ở những hạt cát từ đấy nó được tạo ra mà ở cấu trúc cực kỳ nhỏ được thiết kế trên nó bởi trí tuệ thông minh của con người. Hay lấy ví dụ về vệ tinh đang truyền diễn văn này ra khắp thế giới, mà thay thế hàng ngàn tấn đồng được khai thác từ trái đất và được đúc thành dây. Trong nền kinh tế mới này, phát minh của con người khiến tài nguyên vật thể càng ngày càng lỗi thời. Chúng tôi đang vượt qua hoàn cảnh tồn tại vật chất để đến thế giới nơi con người tạo ra số phận của chính mình. Ngay cả khi chúng tôi thám hiểm chân trời khoa học tiên tiến nhất, chúng tôi cũng trở về với niềm tin văn hóa lâu đời của chúng tôi, niềm tin ở trong sách Sáng Thế Ký trong Kinh Thánh: khởi đầu là tinh thần, và sự sáng tạo ra của cải vật chất phong phú khởi đi từ chính tinh thần này.

Nhưng số phận không định trước sự tiến bộ. Yếu tố quan trọng nhất là tự do – tự do tư tưởng, tự do thông tin, tự do truyền đạt. Nhà khoa học nổi tiếng, học giả, và người sáng lập đại học này, Mikhail Lomonosov, biết điều ấy. Ông nói “Mọi người đều biết khoa học đạt được những thành tựu lớn lao và nhanh chóng, đặc biệt một khi ách nô lệ được vất bỏ và thay thế bằng tự do triết học.” Các bạn biết, một trong những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa nước các bạn và nước tôi diễn ra giữa các nhà thám hiểm người Nga và người Mỹ. Những người Mỹ này là thành viên tham gia chuyến hải hành cuối cùng của Cook trong cuộc thám hiểm tìm con đường qua Bắc cực; trên đảo Unalaska, họ tình cờ gặp những người Nga, những người này cho họ tá túc, và cùng với họ và những người dân bản địa tổ chức lễ cầu nguyện trên băng.

Những nhà thám hiểm của kỷ nguyên hiện đại là những doanh nhân, những người có tầm nhìn, có can đảm chấp nhận rủi ro và có đủ tự tin để đương đầu với những điều họ không biết. Những doanh nhân này và những doanh nghiệp nhỏ của họ quyết định hầu như tất cả sự phát triển kinh tế ở Hoa Kỳ. Họ là những người đóng vai trò chính cho cuộc cách mạng kỹ thuật. Thật vậy, một trong những công ty máy tính cá nhân lớn nhất ở Hoa Kỳ được hai sinh viên đại học, cũng bằng tuổi các bạn, khởi nghiệp trong ga-ra sau nhà họ. Một số người, ngay cả ở nước tôi, nhìn cuộc thử nghiệm muôn màu muôn vẻ là thị trường tự do ấy mà chỉ thấy phí phạm. Thế còn tất cả những doanh nhân thất bại thì sao? Đúng, nhiều người thất bại, đặc biệt những người thành đạt thường thất bại vài lần. Nhưng nếu bạn hỏi họ bí quyết thành công, họ sẽ bảo bạn họ chỉ học từ bao gian nan họ trải qua trên trường đời; đúng vậy, họ học từ chính thất bại. Như vận động viên thi đấu hay học giả theo đuổi sự thật, thực tiễn là người thầy vĩ đại nhất.

Vì lẽ ấy những nhà kế hoạch chính quyền, dù tinh tế đến đâu, cũng rất khó mà thay thế cho hàng triệu cá nhân làm việc suốt ngày đêm để biến giấc mơ của họ thành sự thật. Thực ra tệ quan liêu là vấn đề trên toàn thế giới. Có câu chuyện cũ về thành phố nọ – thành phố ấy có thể ở bất kỳ nơi đâu – có một ông quan liêu mà ai cũng biết là kẻ vô tích sự, nhưng không hiểu sao ông ta cứ bám chặc vào quyền lực rất lâu. Thế rồi ngày nọ, trong cuộc họp thành phố, một bà già đứng lên nói với ông ta: “Ở nơi đây quê tôi có câu chuyện dân gian là khi một đứa bé sinh ra đời, một thiên thần bay từ trên trời xuống và hôn lên một bộ phận thân thể của nó. Nếu thiên thần hôn tay nó, nó trở thành người khéo tay. Nếu thiên thần hôn trán nó, nó trở thành thông minh và tài giỏi. Nhưng tôi nghĩ hoài không hiểu thiên thần hôn ông ở đâu mà ông ngồi lì ở đấy rất lâu mà chẳng làm được tích sự gì.”

Chúng ta đang nhìn thấy sức mạnh kinh tế lan tỏa ra khắp thế giới. Những nơi như Cộng hòa Đại Hàn, Singapore, Đài Loan đã phóng vào thời đại kỹ thuật, và trong quá trình phát triển ấy họ hầu như không dừng lại ở thời kỳ công nghiệp. Chính sách nông nghiệp thuế thấp ở tiểu lục địa nghĩa là chỉ trong vòng vài năm Ấn độ hiện là nước xuất siêu thực phẩm. Có lẽ thích thú nhất là những ngọn gió đổi thay bây giờ đang thổi qua khắp nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, nơi một phần tư dân số thế giới lần đầu được hưởng tự do kinh tế. Đồng thời, sự phát triển dân chủ đã trở thành một trong những phong trào chính trị mạnh mẽ nhất trong thời đại chúng ta. Tại Châu Mỹ La tinh vào thập niên 1970, chỉ một phần ba dân số sống dưới chính quyền dân chủ; ngày nay hơn 90 phần trăm dân số sống dưới chính quyền dân chủ. Ở Philippines, ở Cộng hòa Đại Hàn, những cuộc bầu cử tự do, có tranh cử, dân chủ là chuyện rất bình thường. Trên khắp thế giới, thị trường tự do là khuôn mẫu của sự phát triển. Dân chủ là tiêu chuẩn để đánh giá các chính quyền.

Người Mỹ chúng tôi công khai niềm tin của chúng tôi ở tự do. Quả thật, tự do gần như là thú tiêu khiển quốc gia. Cứ bốn năm một lần nhân dân Mỹ chọn vị tổng thống mới, và năm 1988 rơi vào dịp này. Có lúc có 13 ứng cử viên chính ra tranh cử ở hai đảng chính, chưa kể đến tất cả những ứng cử viên khác, bao gồm những ứng cử viên thuộc các đảng Xã hội và Tự do – tất cả đều cố gắng lấy việc làm của tôi. Khoảng độ 1.000 đài truyền hình địa phương, 8.500 đài phát thanh, và 1.700 nhật báo- mỗi một doanh nghiệp này đều độc lập và tư nhân, hoàn toàn không phụ thuộc vào chính quyền-tường thuật về các ứng cử viên, tra hỏi họ trong các cuộc phỏng vấn, cho họ gặp nhau để tranh luận. Cuối cùng, nhân dân bỏ phiếu; họ quyết định ai sẽ là tổng thống kế tiếp. Nhưng tự do không bắt đầu hay kết thúc bằng các cuộc bầu cử.

Chỉ cần lấy ví dụ, hãy đi đến bất kỳ thành phố Mỹ nào, và bạn sẽ thấy hàng chục nhà thờ, tiêu biểu cho nhiều tín ngưỡng khác nhau – ở nhiều nơi, như nhà thờ đạo Do Thái, nhà thờ Hồi Giáo – và bạn sẽ thấy những gia đình thuộc đủ mọi dân tộc cùng nhau thờ phụng. Hãy đi vào bất kỳ lớp học nào, và ở đấy bạn sẽ thấy trẻ em được dạy về Bản Tuyên ngôn Độc lập, rằng người ta được Đấng Tạo hóa phú cho những quyền bất khả xâm phạm nào đấy – trong số những quyền này có quyền sống, tự do, và mưu cầu hạnh phúc – mà không một chính quyền nào có thể phủ nhận một cách chính đáng; Hiến pháp bảo đảm cho họ quyền tự do do ngôn luận, tự do hội họp. Hãy đi vào bất kỳ tòa án nào, và ở đấy sẽ có vị chánh án độc lập làm chủ tọa phiên tòa, và không chịu trách nhiệm với quyền lực chính quyền. Ở đấy mỗi bị cáo đều có quyền được xử bởi bồi thẩm đoàn thuộc nhiều thành phần khác nhau, thông thường 12 người nam và nữ – những công dân bình thường; họ là những người, những người duy nhất cân nhắc bằng chứng rồi quyết định có tội hay vô tội. Trong tòa án ấy, bị cáo vô tội cho tới khi bị chứng minh có tội, và lời của cảnh sát hay bất kỳ viên chức nào cũng không có giá trị pháp lý hơn lời của bị cáo. Hãy đi đến bất kỳ khuôn viên trường đại học nào, và ở đấy bạn sẽ thấy những cuộc tranh luận công khai, đôi lúc sôi nổi về những vấn đề trong xã hội Mỹ và có thể cần phải làm gì để giải quyết chúng. Hãy mở truyền hình lên, và bạn sẽ thấy cơ quan lập pháp tiến hành công việc của chính quyền ngay trước máy quay phim, tranh luận và bỏ phiếu về luật mà sẽ trở thành luật của quốc gia. Hãy tuần hành trong bất kỳ cuộc biểu tình nào, và có nhiều cuộc biểu tình; quyền hội họp của nhân dân được Hiến pháp bảo đảm và được cảnh sát bảo vệ. Hãy đi vào bất kỳ hội trường công đoàn nào, nơi các công đoàn viên biết quyền đình công của họ được luật pháp bảo vệ. Thực ra, một trong nhiều việc làm tôi có trước khi làm tổng thống là chủ tịch công đoàn, Screen Actors Guild. Tôi lãnh đạo công đoàn mình đình công, và tôi tự hào nói rằng chúng tôi đã thắng lợi.

Nhưng tự do còn hơn điều này. Tự do là quyền chất vấn và thay đổi lề lối làm việc từ xưa đến nay. Tự do là cuộc cách mạng liên tục của thị trường. Tự do là sự hiểu biết cho phép chúng ta nhận ra những khuyết điểm và tìm cách giải quyết. Tự do là quyền đưa ra ý tưởng, dù bị các chuyên gia chế giễu, nhưng nhìn thấy đông đảo mọi người rất say mê ý tưởng ấy. Tự do là quyền mơ mộng – quyền theo đuổi giấc mơ của mình hay trung thành với lương tâm mình, cho dù ta chỉ là người duy nhất trong biển người hoài nghi. Tự do là sự thừa nhận rằng không một ai, không một quyền lực hay chính quyền nào có độc quyền về sự thật, ngoại trừ sự thật rằng cuộc đời của mỗi cá nhân là vô cùng quý giá, rằng mỗi người trong tất cả chúng ta sinh ra đời đều đã được sinh ra đời với mục đích nào đấy cho nên đều có điều gì đấy để cống hiến cho đời.

Người ta nói tự do khiến con người ích kỷ và coi trọng vật chất, nhưng người Mỹ là một trong những người mộ đạo nhất trên địa cầu. Vì họ biết tự do, giống y như chính sự sống, không phải do tự kiếm được mà là mòn quà từ Chúa, cho nên họ tìm cách chia xẻ món quà ấy với thế giới. Trong bài diễn văn từ biệt, George Washington nói “Cả lý trí lẫn kinh nghiệm đều ngăn chúng ta không nên kỳ vọng đạo đức quốc gia có thể ngự trị khắp nơi mà không có nguyên tắc tôn giáo. Và thật quả rất đúng rằng đức tính hay đạo đức là suối nguồn cần thiết của chính quyền hợp lòng dân.” Dân chủ không hẳn là hệ thống chính quyền mà đúng ra là hệ thống nhằm buộc chính quyền phải khép vào khuôn khổ và không được can thiệp vào đời riêng; một hệ thống của những sự ràng buộc về quyền lực để khiến chính quyền lệ thuộc vào những điều quan trọng trong cuộc đời, những nguồn gốc giá trị thật sự ta chỉ thấy ở trong gia đình và đức tin.

Nhưng tôi hy vọng các bạn biết tôi nói rất nhiều về những điều này không chỉ để ca ngợi những ưu điểm của nước tôi mà còn nói về tâm hồn cao cả chân chính của nước các bạn. Dù sao, ai cần nói về nỗ lực đi tìm sự thật ở đất nước của Dostoyevski, về óc tưởng tượng ở quê hương của Kandinski và Scriabin, về vẻ đẹp và tâm hồn ở nền văn hóa phong phú và cao quý của nhà văn người Uzbek Alisher Navoi? Tất cả mọi người đều cảm nhận một cách say mê nồng ấm nền văn hóa lớn của quốc gia đa dạng của các bạn. Cho phép tôi trích một trong những đoạn văn đương thời hùng hồn nhất, từ một trong những nhà văn vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi, Boris Pasternak, trong tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago”. Ông viết: “Tôi nghĩ nếu con thú ngủ ở trong lòng con người có thể bị đè nén bởi những đe dọa – bất kỳ đe dọa nào, hoặc đe dọa về tù tội hay đe dọa về sự trừng phạt sau khi chết – thì biểu tượng cao nhất của con người sẽ là người dạy sư tử trong rạp xiếc với con roi trên tay, chứ không phải đấng tiên tri hy sinh thân mình. Nhưng đây chính là điều quan trọng nhất – điều mà trong suốt bao thế kỷ đã nâng con người lên trên con thú không phải là dùi cui, mà là âm nhạc trong lòng – sức mạnh không thể nào cưỡng lại được của sự thật trần trụi.”

Sức mạnh không thể nào cưỡng lại được của sự thật trần trụi. Ngày nay thế giới hướng bao hy vọng và mong chờ của mình vào những dấu hiệu thay đổi, vào những bước tiến đến tự do lớn hơn ở Liên Xô. Chúng tôi theo dõi và chúng tôi hy vọng khi chúng tôi thấy những thay đổi tích cực diễn ra. Tôi biết có nhiều người trong xã hội các bạn sợ thay đổi ấy chỉ mang lại sự đổ vỡ và gián đoạn, sợ hân hoan đón nhận hy vọng của tương lai – mà đôi lúc ta phải cần tin tưởng. Thật giống như cảnh trong phim cao bồi “Butch Cassidy and the Sundance Kid”, mà một số người ở Mạc Tư Khoa ở đây vừa qua có dịp xem. Toán người truy lùng bao vây hai kẻ tội phạm, Butsch và Sundance, người mà thấy mình bị vây hãm trên bờ vực vách núi dựng đứng cao hàng chục mét bên trên thác nước chảy xiết. Butch quay sang Sundance nói hy vọng duy nhất của hai người là nhảy xuống sông ở bên dưới, nhưng Sundance không chịu. Y nói y sẽ chiến đấu đến cùng với bọn họ, mặc dù bên họ rất đông. Butch nói làm như thế chẳng khác gì tự sát và hối y nhảy mau, nhưng Sundance vẫn không chịu rồi cuối cùng thú nhận, “Tao không biết bơi”. Butch phá ra cười và nói, “Mày thật là vừa ngốc lại vừa khùng, biết đâu chưa rơi xuống nước thì đã chết mất rồi.” À, nếu các bạn chưa xem qua, thì rồi cuối cùng Butch và Sundance đều thoát được. Tôi nghĩ điều tôi vừa nói về là perestroika và về những mục tiêu của nó là gì.

Nhưng thay đổi nhất định không có nghĩa là phủ nhận quá khứ. Giống như cây mạnh lên theo mùa, đâm rễ vào lòng đất và hút nhựa sống từ mặt trời, những thay đổi tích cực cũng như thế phải đâm rễ vào những giá trị truyền thống – vào lòng đất nước, vào văn hóa, vào gia đình và cộng đồng – và thay đổi phải nhận sức sống của nó từ những điều bất tử, từ nguồn gốc của tất cả sự sống, tức đức tin. Thay đổi như thế sẽ đưa đến những hiểu biết mới, đến những cơ hội mới, đến tương lai rộng mở hơn mà ở đấy truyền thống không bị thay thế mà còn phát huy rực rỡ trọn vẹn. Tương lai ấy là tương lai đang mời gọi thế hệ các bạn.

Đồng thời, chúng ta nên nhớ cải cách mà không được thể chế hóa nhất định sẽ không bao giờ chắc chắn. Tự do như thế sẽ khiến ta luôn luôn lo sợ. Con chim bị buộc vào dây, dù dây dài bao nhiêu chăng nữa, lúc nào cũng có thể bị kéo giật lại. Vì thế, trong dịp trò chuyện với Tổng Bí thư Gorbachev, tôi đã nói về tầm quan trọng phải thế chế hóa thay đổi – nhằm bảo đảm cho cải cách. Và chúng tôi thường nói với nhau về sự gợi nhớ đáng buồn về thế giới bị chia cắt: Bức tường Berlin. Đã đến lúc phải xóa bỏ những rào cản chia lìa con người.

Tôi thường nói: Các quốc gia không tin tưởng nhau vì họ vũ trang; họ vũ trang vì họ không tin tưởng nhau. Nếu địa cầu này muốn sống trong hòa bình và thịnh vượng, nếu địa cầu này muốn đón nhận tất cả những tiềm năng của cuộc cách mạng kỹ thuật, thì các quốc gia phải từ bỏ dứt khoát quyền chính sách đối ngoại bành trướng. Hòa bình giữa các quốc gia phải là mục tiêu trường cửu, chứ không phải là giai đoạn chiến thuật trong cuộc xung đột triền miên.

Người ta bảo tôi ở nước các bạn có một bản nhạc nổi tiếng – chắc có lẽ các bạn biết bản nhạc này mà điệp khúc truyền cảm của nó hỏi câu hỏi, “Người Nga có muốn chiến tranh không?” Lời nhạc đáp: Xin hãy hỏi bầu trời vương vấn tĩnh lặng, bên trên hàng phong và bạch dương; dưới những hàng cây này bao người lính nằm an nghỉ. Xin hãy hỏi mẹ tôi, hãy hỏi vợ tôi; rồi bạn sẽ không còn phải hỏi, “Người Nga có muốn chiến tranh không?”” Nhưng còn những đồng minh một thời của các bạn thì sao? Còn những người ôm bạn bên bờ sông Elbe thì sao? Chúng ta hãy thử hỏi những nấm mồ nước dưới Thái Bình Dương hay thử hỏi những chiến trường Châu Âu nơi xa quê hương nghìn trùng bao người lính Mỹ đã ngã xuống và vùi thân? Chúng ta hãy thử hỏi mẹ, chị em, và con họ, người Mỹ có muốn chiến tranh không? Cũng hỏi chúng tôi, và bạn sẽ thấy cùng câu trả lời, cùng niềm khao khát trong mọi trái tim. Nhân dân không gây ra chiến tranh; chính quyền gây ra chiến tranh. Và không có người mẹ nào lại muốn hy sinh con mình cho sự chiếm đoạt lãnh thổ, cho lợi ích kinh tế, cho ý thức hệ. Một dân tộc tự do chọn sẽ luôn luôn chọn hòa bình.

Người Mỹ luôn luôn tìm cách kết bạn với những cựu thù. Sau cách mạng thuộc địa với người Anh, chúng tôi đã củng cố từ rất lâu mối quan hệ mật thiết giữa hai quốc gia. Sau cuộc nội chiến ghê gớm giữa miền Bắc và miền Nam, chúng tôi hàn gắn lại vết thương và đạt được sự đoàn kết quốc gia đích thực. Trong đời tôi chúng tôi đã tham chiến hai cuộc thế chiến chống Đức và một thế chiến chống Nhật, nhưng hiện nay Cộng hòa Liên bang Đức và Nhật là hai đồng minh và hai người bạn gần gũi nhất của chúng tôi.

Thế hệ các bạn đang sống trong một trong những thời đại phấn khích nhất và hy vọng nhất trong lịch sử Xô viết. Đây chính là thời đại khi làn gió tự do đầu tiên lay động bầu trời và tim người đập theo nhịp điệu dồn dập của hy vọng, khi năng lực tinh thần tích tụ qua bao năm dài im lặng khao khát được bứt phá. Tôi được nhắc đến đoạn văn nổi tiếng gần cuối tác phẩm “Những linh hồn chết” của Gogol. So sánh quốc gia ông với cỗ xe tam mã đang chạy nhanh, Gogol tự hỏi không biết đích đến là nơi nào. Nhưng ông viết, “Không có câu trả lời chỉ ngoại trừ chiếc chuông tuôn tràn ra không ngừng những âm thanh kỳ diệu.”

Chúng ta không biết nơi đến cuối cùng của cuộc hành trình này sẽ là đâu, nhưng chúng ta tràn đầy hy vọng rằng hứa hẹn của cải cách sẽ thực hiện được. Tại Mạc Tư Khoa vào mùa xuân này, vào tháng Năm 1988 này, chúng ta có thể được ban cho hy vọng ấy: tự do ấy, giống như cây con xanh tươi được trồng trên mộ của Tolstoy, cuối cùng sẽ nở hoa trên miền đất dân tộc và văn hóa phì nhiêu của các bạn. Chúng ta có thể được phép hy vọng rằng âm thanh tuyệt diệu của sự công khai mới sẽ tiếp tục trỗi cao lên và ngân vang xa hơn trên suốt con đường đưa ta đến thế giới hòa giải, tình thân, và hòa bình mới.

Ronald Reagan

Nguồn: Trích dịch từ bài diễn văn của Tổng thống Ronald Reagan tại trường đại học quốc gia Mạc Tư Khoa vào ngày 31 tháng Năm, 1988.

http://millercenter.org/president/speeches/speech-3416

Bản tiếng Việt:

Trần Quốc Việt