Kiểm soát được cái miệng của mình chính là một loại mỹ đức.

Kiểm soát được cái miệng của mình chính là một loại mỹ đức

Cổ nhân thường nói: “Bệnh từ cái miệng mà ra, họa cũng từ cái miệng mà ra”, bởi vậy một người có trí tuệ chính là phải biết kiểm soát được cái miệng của mình, đó cũng là một đức tính tốt đẹp cần tu dưỡng.

Một ngày nọ, tôi đi qua một cửa hàng mua sắm, người không đông lắm, có một nhóm người tập trung ở quầy tính tiền. Tôi tiến về phía trước, nhìn thấy một cô gái trẻ ăn mặc chỉnh tề đứng đầu tiên, cô gái quét thẻ nhiều lần, thế nhưng chiếc máy dường như lần nào cũng “cự tuyệt” cô gái.

Có vẻ như đó là một thẻ phúc lợi”, người đàn ông phía sau tôi lẩm bẩm: “Trẻ, khỏe mạnh như thế, mà lại dựa vào phúc lợi để sống, tại sao không như người trẻ khác tìm việc làm đi?”

Cô gái trẻ quay đầu lại theo tiếng nói, ánh mắt cô như muốn tìm xem đó là ai. “Đúng, chính là tôi nói đó”, người đàn ông phía sau tôi chỉ tay vào chính mình.

Cô gái trẻ đỏ bừng mặt, nước mắt cứ thể chảy xuống, cô ném cái thẻ đi, rồi chạy nhanh ra khỏi cửa hàng, và rất nhanh chóng biến mất trong cái nhìn soi mói của mọi người.

Vài phút sau, một thanh niên bước vào cửa hàng, cậu đi vào cửa hàng hỏi cô thu ngân rằng có biết cô gái kia đâu không, thu ngân cửa hàng nói rằng cô ấy đã quăng thẻ rồi chạy đi rồi.

Tôi là bạn của cô ấy, đã xảy ra chuyện gì vậy ạ?”, cậu thanh niên lo lắng hỏi.

Người đàn ông phía sau tôi nói: “Tôi không may nói ra những lời ngủ xuẩn, mỉa mai cô ấy dùng thẻ phúc lợi, đáng lẽ tôi không nên nói ra, thật xin lỗi!”

Ôi, hỏng bét rồi. Hoàn cảnh cô ấy rất đáng thương, anh trai cô đã bị giết chết ở Afghanistan hai năm trước, để lại đằng sau ba đứa em. Cô ấy chỉ 21 tuổi mà phải lo cuộc sống cho 3 đứa em. Thật không ngờ, hôm nay lại xảy ra việc thế này”, người thanh niên lo lắng không yên.

Đây là những món hàng cô bé kia mua sao?”, người đàn ông phía sau tôi hỏi thu ngân.

Đúng ạ, nhưng tiếc là thẻ của cô ấy không sử dụng được”, thu ngân nói.

Trong cửa hàng bỗng nhiên trở nên im lặng.

Cậu chắc chắn biết cô gái đó ở đâu chứ?”, người đàn ông hỏi cậu thanh niên trẻ, rồi ông chen lên phía trước, lấy ra thẻ tín dụng của mình đưa cho thu ngân: “Lấy thẻ của tôi tính tiền đi”.

Thu ngân nhận lấy thẻ, và bắt đầu tính tiền những mặt hàng cô gái đã mua.

Đợi một chút”, người đàn ông quay người lấy một hộp sữa bò bỏ vào trong túi đồ của cô gái.

Chúng ta nên giúp đỡ ba đứa bé kia nhiều hơn một chút chứ”, một người phụ nữ đi tới, đem một con gà bỏ vào túi của cô gái, sau đó mọi người lặng lẽ lấy đồ của mình bỏ vào tui đồ của cô gái.

Chú, cảm ơn chú! Chú là một người tốt”, chàng thanh niên nói.

Dù cho chính mắt bạn nhìn thấy, nhưng có lẽ chân tướng sự việc có thể không phải là như vậy. Như lời một triết gia người Hy Lạp từng nói: “Mỹ đức lớn nhất mà nhân loại cần phải học chính là khống chế được cái miệng của chính mình”.

Kiểm soát tốt cái miệng của mình, cố gắng đừng nói những lời này:

.        Không nên đánh giá người khác tốt xấu thế nào, bởi vì tốt xấu của họ không ảnh hưởng tới miếng cơm manh áo của bạn.

.        Không nên đánh giá đức hạnh của người khác, bởi vì có thể có những khía cạnh họ còn cao quý hơn bạn.

.        Không nên đánh giá gia đình của người khác, bởi vì những người đó và bạn không có quan hệ.

.        Không nên đánh giá học vấn của người khác, bởi vì trên đời này kiến thức là mênh mông.

.        Không nên đánh giá bất kỳ người nào, cho dù người đó là người bạn xem thường nhất.

.        Không nên lãng phí tiền bạc, bởi vì ngày mai bạn có thể thất nghiệp.

.        Không nên vênh váo, tự đắc, bởi vì có thể ngày mai bạn thất thế.

.        Không nên nói quá phô trương, phải biết rằng bạn cũng chỉ là một người nhỏ bé.

.        Không nên dựa vào người khác, bởi vì cuộc sống nhiều gánh nặng, ai cũng muốn sống nhẹ nhõm.

.    Không nên làm tổn thương người khác, nhân quả sớm muộn đều sẽ đến.

.   Không nên quá chú tâm giải thích đúng sai, hãy làm bậc trí giả. Trên đời chúng ta thường nghĩ cách giải thích cái gì đó. Nhưng mà, một khi giải thích, ta lại phát hiện rằng, bất kể ai giải thích đều là người yếu ớt, thậm chí sẽ càng bôi nhọ mình hơn.

Núi dẫu không nói rõ độ cao của mình, thì độ cao của nó cũng không hề bị ảnh hưởng; biển không nói rõ độ sâu của mình, thì việc dung nạp trăm sông đổ dồn về nó cũng không có gì là trở ngại; mặt đất dẫu không nói rõ độ dày của mình, thì cũng không có ai có thể thay thế nó làm chỗ dựa cho vạn vật được… Đừng đánh giá thấp bất kể ai, bạn không có nhiều khán giả, đừng mệt mỏi như vậy.

.   Không nên tự nhiên nổi giận, vì không phải ai cũng là “con nợ” bạn. Có thể hiện tại bạn đang rất thống khổ, nhưng khi vượt qua khoảng thời gian ấy, nhìn lại bạn sẽ phát hiện kỳ thực điều đó cũng chẳng là gì. Chúng ta thường phàn nàn cuộc sống bất công với mình, nhưng thực ra cuộc sống căn bản không biết được chúng ta là ai.

.  Không nên nói rằng ai tu luyện tốt hay không tốt. Tu hành là việc cá nhân, người khác chính là một cái gương phản chiếu chính cái thiếu sót trong tu luyện của bản thân mình.

Hoàng Sâm, dịch từ Soundofhope

NGHIỆP NẶNG NHẤT CỦA ĐỜI NGƯỜI LÀ:  KHẨU NGHIỆP.  HỌA TỪ MIỆNG MÀ RA.

Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành, còn vết thương gây ra do lời nói thì chẳng biết khi nào mới lành lặn được.

Hãy cẩn trọng với lời nói của mình, đừng gây ra thị phi vì vô ý thức, cũng đừng nên vì một ai đó đã gây ra lỗi lầm trong quá khứ mà dùng lời lẽ nặng nề để hành hạ họ, như Oscar Wilde có nói: “Every saint has a past, every sinner has a future”.

Nghĩa là: “Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và tội đồ nào cũng có một tương lai”.

Hãy nên mở lòng cảm thông, yêu thương và chia sẻ với tất cả, thì đời sống bao giờ cũng được an vui trọn vẹn.

From: Tham Nguyen & Kim Bang Nguyen

Thư của một linh mục Công Giáo gởi báo “New York Times”

Tờ báo Mỹ đã không đăng bức thư này, nhưng bức thư đã được báo Achentina “Enfoques Positivos” đăng và đã có một tiếng vang lớn.

Người anh em nhà báo thân mến

Tôi là một linh mục Công Giáo bình thường. Tôi hạnh phúc và hãnh diện về ơn gọi của tôi, đã hai mươi năm nay tôi truyền giáo ở Angola.

Tôi nhận thấy trên nhiều phương tiện truyền thông và đặc biệt trên tờ báo của anh có nhiều bài nói về các linh mục ấu dâm, luôn dưới một góc cạnh bẩn thỉu, dò xét kỹ lưỡng các sai lầm trong quá khứ của họ.

Có một số người ở Mỹ trong những năm 70, ở Úc trong những năm 80 và cứ thế cho đến những ví dụ gần đây nhất… Tất cả đều đáng lên án, và đó là điều đương nhiên!

Một số bài viết của các ký giả trân trọng và cân bằng. Một số khác phóng đại, tạo nên thành kiến và gieo hận thù. Bản thân tôi cảm thấy đau vô cùng cho nỗi đau khủng khiếp của những người này gây ra mà đáng lẽ họ là dấu hiệu cho Tình yêu hiện thực của Chúa.  Họ đã đâm chết cuộc sống của nhiều người vô tội.  Không có lời nào để biện minh cho các hành động này.  Cũng không một chút nghi ngờ gì về sự hỗ trợ mà Giáo hội dành cho những người yếu đuối và những người khốn cùng nhất.   Vì lý do này mà Giáo hội luôn ưu tiên tìm các biện pháp cần thiết để tuân theo và hỗ trợ, phòng ngừa và bảo vệ phẩm giá của trẻ em.

Tôi ngạc nhiên khi thấy có rất ít tin về hàng ngàn linh mục hy sinh đời mình và kiệt sức để lo cho hàng triệu trẻ em và thanh thiếu niên, giàu cũng như nghèo, được nuông chiều hay bị thiệt thòi ở khắp nơi trên thế giới.

Tôi nghĩ báo New York Times sẽ không quan tâm để tìm hiểu:

Tôi đã di chuyển hàng chục trẻ em bị chết đói đi qua các con đường đầy mìn vì chiến tranh năm 2002, giữa hai thành phố Cangumbe và Lwena (Angola), vì nhà nước không thể làm và các tổ chức Phi Chính Phủ không được phép đến;

Tôi đã chôn hàng chục trẻ em chết trong chuyến đi trốn chiến tranh;

   Chúng tôi đã cứu hàng ngàn người ở Mexico nhờ một trung tâm y tế duy nhất trong một vùng rộng 90 000 cây số vuông để phân phối thực phẩm và hạt giống;

Chúng tôi đã giáo dục và xây trường học cho hơn 110 000 trẻ em trong mười năm vừa qua;

Cùng với các linh mục khác, chúng tôi cứu gần 15 000 người trong các trại du kích khi họ đầu hàng trao trả vũ khí, khi đó thực phẩm của nhà nước và của Liên Hiệp Quốc chưa đến;

Chắc chắn đây cũng không phải là một tin hấp dẫn, cha Roberto, một linh mục 75 tuổi vẫn còn ngược xuôi ở thành phố Luanda để săn sóc trẻ em đường phố, đưa các em đến trung tâm tiếp nhận để giải độc hơi xăng vì các em làm nghề khạc lửa để kiếm sống;

Nạn mù chữ của hàng trăm tù nhân cũng không phải là tin hấp dẫn;

Và cũng chẳng cần thiết để biết có những linh mục khác như cha Stéphane, cha tổ chức các quán trọ cho các thanh thiếu niên bị ngược đãi, đánh đập và thậm chí bị hãm hiếp;

Cũng không phải là tin hấp dẫn về cha Maiato, đã ngoài 80 vẫn còn đi thăm các nhà người nghèo, thăm từng người một, an ủi từng người bệnh và những người tuyệt vọng;

Và cũng không phải là một thông tin cần biết, rằng có 60 000 linh mục – trên 400 000 linh mục và tu sĩ trên thế giới – đã rời gia đình, rời xứ sở để đi phục vụ người anh em của mình trong các trại cùi, trại tị nạn, trại mồ côi, trong bệnh viện. Săn sóc các em bị khép vào tội phù thủy, các em bé mồ côi có cha mẹ chết vì bệnh sida. Quản lý các trường cho người nghèo, các trung tâm huấn nghệ, các trung tâm đón nhận người nhiễm HIV, v.v..

Đó là chưa kể đến những người dành cuộc sống của mình để lo trong các giáo xứ; thúc đẩy mọi người sống tốt và đặc biệt là yêu thương nhau.
Đây cũng không phải là một tin hấp dẫn, linh mục Marc-Aurèle bạn tôi, để cứu trẻ em trong thời chiến tranh ở Angola, đã di chuyển họ từ Kalulo đến Dondo, trên đường về cha đã bị súng liên thanh bắn. Hay Sư huynh François cùng với năm phụ nữ dạy giáo lý bị chết trong một tai nạn khi đi giúp người dân ở những vùng nông thôn hẻo lánh nhất của đất nước;

Có cả hàng chục nhà truyền giáo ở Angola đã chết vì bệnh sốt rét, vì thiếu phương tiện vệ sinh;

Những người khác bị đạp mìn khi đi thăm giáo dân (ở nghĩa trang Kalulo có các ngôi mộ của các linh mục đầu tiên đến vùng này: không ai quá 40 tuổi);
Báo sẽ bán không chạy khi đăng tin một linh mục “bình thường” trong công việc hàng ngày của mình, trong niềm vui cũng như trong khó khăn, cống hiến cuộc sống của mình cho nơi mình phục vụ, không ồn ào, không đánh trống.

Sự thật là chúng tôi không tìm cách để tạo thông tin, nhưng đơn giản mang Tin Mừng, một Tin Mừng không ồn ào, một Tin Mừng chỉ làm cho mọi người nói đến trong đêm Phục Sinh. Một cây ngã gây tiếng ồn hơn là hàng ngàn cây mọc.

Một linh mục phạm lỗi gây ồn ào hơn là hàng ngàn linh mục cống hiến đời sống mình cho người nghèo và người bản địa.

Tôi không viết thư này để biện hộ cho Giáo hội và cho các linh mục. Một linh mục không phải là anh hùng, cũng không phải là người bị bệnh thần kinh. Linh mục chỉ là một người bình thường, với bản chất con người, đi tìm con đường để theo Chúa Giêsu và phục vụ Chúa nơi người anh em của mình.

Nơi các linh mục, có sự khốn cùng, khốn nghèo và mong manh như tất cả mọi người; nhưng cũng có nét đẹp và nét cao cả như trong tất cả mọi người.  Nhấn mạnh một cách ám ảnh và truy hại trên một chủ đề đau đớn mà không nhìn tổng thể là cố ý đưa ra một cách biếm họa xúc phạm đến chức thánh Công Giáo và qua đó tôi cảm thấy mình bị xúc phạm.

“Tôi chỉ xin anh một điều, anh bạn nhà báo, anh hãy đi tìm Chân, Thiện, Mỹ.   Như thế anh sẽ phát triển cao quý trong nghề nghiệp của mình”…..

Trong Chúa Kitô,

Linh mục Martin Lasarte, Dòng Gioan Bosco

From: KittyThiênKim & KimBang Nguyen

NHỮNG CÂU CHUYỆN BIẾN HÌNH

NHỮNG CÂU CHUYỆN BIẾN HÌNH

Tác giả cuốn sách The Seven Habits of Highly Effective People (“Bảy Thói Quen Của Người Làm Việc Có Hiệu Quả”), Steve Covey, trên một chuyến xe điện ngầm tại thành phố New York vào một sáng Chúa nhật, đã thu được một kinh nghiệm sống rất quí như sau.  Steve kể:

Mọi người ngồi yên lặng.  Vài kẻ đang đọc báo.  Số khác đang chập chờn ru giấc ngủ.  Số khác nữa đang suy nghĩ miên man.  Thật là một cảnh yên tĩnh, thanh bình.

Tàu dừng lại tại một nhà ga.  Một người đàn ông và mấy đứa nhỏ, có lẽ là con ông ta, bước lên.  Lập tức bầu khí yên bình bị phá tan.  Những đứa bé la hét om sòm.  Chúng vất đồ đạc qua lại.  Thậm chí còn lấy báo của người khác vò lại ném nhau.  Thật là phiền hà hết sức!  Nhưng sao người cha của mấy đứa bé kia lại không có phản ứng nào?

Steve cảm thấy bực bội khó chịu trước thái độ của cha con những người khách mới.  Anh ta không thể hình dung ra được trên đời này lại có những kẻ vô cảm và vô tâm như gã đàn ông kia.  Con cái quậy phá làm phiền biết bao nhiêu người, thế mà vẫn cứ ngồi im.  Steve quan sát và thấy nhiều hành khách khác cũng có vài nếp nhăn khó chịu.

Cuối cùng, khi sức kiên nhẫn đã vượt mức tối đa, Steve bèn lên tiếng với người bố: “Thưa ông, con ông đang làm phiền nhiều người lắm đấy.  Tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông không làm gì để kiềm chế chúng một chút.”  Người đàn ông nhướng mắt nhìn Steve như vừa sực tỉnh lại từ một ưu trầm lắng.  Nén tiếng thở dài, ông ta nói: “Tôi thành thật xin lỗi.  Tôi cũng không biết phải làm sao.  Chúng tôi mới rời khỏi bệnh viện nơi mẹ chúng nó vừa qua đời cách đây một giờ.  Tôi suy nghĩ mãi mà không biết cuộc đời rồi đây sẽ ra sao khi không còn nhà tôi, và chắc là chúng nó cũng không biết chịu đựng thế nào khi chẳng còn có mẹ.”

Steve kết luận bài viết của mình: “Bạn có thể tưởng tượng được cảm giác của tôi lúc đó như thế nào không?  Ngay lập tức tôi thấy mọi sự đổi khác.  Vì thấy mọi sự đổi khác nên thái độ của tôi cũng đổi theo . Cơn khó chịu bực bội trong tôi biến mất.  Thay vào đó là niềm cảm thông cho nỗi đau của người chồng mất vợ, và những đứa con mất mẹ.”

 Nhờ “thấy” được chiều sâu tâm hồn của cha con người đồng hành mà Steve đã thắng vượt những khó chịu bực bội trong mình, và sau đó đã đến với họ bằng tâm tình cởi mở chân thành.  Phải chăng trong đời sống, người ta cũng cần có con mắt nội tâm để “thấy” được nền tảng và ý nghĩa của cuộc đời hầu có những thái độ và cách sống thích hợp?  Phải chăng nhờ sự biến hình trên núi Tabor, các môn đệ đã “thấy” được hình ảnh phục sinh vinh quang của Đức Giêsu, để từ đó họ bớt nao núng khi bước vào nẻo đường thánh giá và đón nhận khổ nạn với Ngài?  Phải chăng đời ta và đời người cũng cần những giây phút biến hình để dung nhan Thiên Chúa, trong tha nhân và nơi mình tôi, được bừng sáng, đón nhận, và tin yêu hơn?

Trong một bài báo tự thuật, Malcolm Muggeridge có kể lại việc nhóm chuyên viên truyền hình của anh ta cố gắng thực hiện một bộ phim tài liệu về Mẹ Têrêsa Calcutta.

Họ muốn quay cảnh mẹ cùng các chị nữ tu Bác ái đang làm việc trong căn nhà Hấp Hối, bên cạnh những kẻ sắp từ biệt cõi đời.  Thế nhưng nhóm của Malcolm đã gặp phải một vấn đề khó khăn: căn phòng họ tính quay phim hơi tối, không đủ ánh sáng cần thiết cho việc thâu hình, mà trong nhà lại không có một ổ cắm điện nào cả.

Tuy nhiên, sau khi bàn thảo, họ quyết định cứ tiến hành thu hình trong cảnh tranh sáng tranh tối của căn phòng Hấp Hối.

Nhưng rồi, kết quả, trước bao cặp mắt ngạc nhiên, những thước phim thâu được lại tuyệt vời quá sức tưởng tượng.  Ánh sáng trong các hình ảnh đạt đến mức độ hoàn hảo.  Dường như đã có một luồng sáng ấm dịu nào đó phát ra trong lúc họ đang quay phim.

Malcolm, người mà sau này trở thành một Kitô hữu, lúc bấy giờ đã bị thuyết phục hoàn toàn với ý nghĩ là ánh sáng đã phát ra từ tình thương mà người ta có thể bắt gặp khắp nơi trong căn nhà Hấp Hối kia.  Malcolm viết lại trong nhật ký của mình: “Chính tình yêu đã chiếu sáng, một thứ ánh sáng giống như hào quang trên đầu các thánh mà tôi từng được xem thấy.”

Phải chăng đó cũng là thứ ánh sáng mà Đức Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín là Phêrô, Gioan và Giacobê khi Ngài biến hình trước mặt các ông?  Trong cuộc biến hình này, các môn đệ được nghe một lời phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, kẻ Ta đã chọn, các ngươi hãy nghe lời Ngài” (Lc 9:35).  Trong chương kế tiếp, Thánh sử Luca đã khéo léo trình bày việc “nghe lời” Đức Giêsu không gì khác hơn là ra đi rao giảng Tin Mừng Tình thương.  Chương 10 đã kể việc Chúa sai 72 môn đệ lên đường truyền giáo, đồng thời cũng làm nổi bật giáo lý của Đấng Cứu Thế qua câu hỏi “giới răn nào trọng nhất” của một luật sĩ, và qua câu chuyện “Người Samari Nhân Hậu” như những minh họa cho giáo lý yêu thương.

Cao điểm của cuộc biến hình là lời mời gọi “Hãy nghe Ngài.”  “Nghe Ngài” là để tiếp nối những cuộc biến hình khác, giữa cuộc đời này, bằng tình yêu.  Chính nhờ tình yêu mà Mẹ Têrêsa đã biến những thân xác tanh hôi, đau yếu, bị bỏ rơi, nên những con người có đầy đủ phẩm giá và đáng tôn trọng.  Chính nhờ tình yêu mà mẹ đã biến đổi tâm hồn của Malcolm, một kẻ “coi trời bằng vung”, nên cung điện tươi xinh cho Thiên Chúa ngự trị.

Không phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đệ của Ta: ấy là các ngươi có lòng mến thương nhau” (Ga 13:35)?  Chính với yêu thương, cảm thông, cứu giúp, chia sẻ mà tha nhân thấy được dung mạo của Đức Kitô trong cuộc đời của bạn và tôi.

Ước gì tình yêu thương nhau sẽ biến hình đời ta và biến đổi đời người.  Ước gì tình yêu đó cũng giúp ta thắng vượt bao gian nan, trắc trở, và khổ giá trên đường đời, để tiến đến một ngày Phục sinh tươi sáng.

Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Duy trì điều luật này có thể mất nước!

Duy trì điều luật này có thể mất nước!

FB Hoàng Hải Vân

14-3-2019

Đó là việc cho phép chính quyền thu hồi đất của dân để giao cho các doanh nghiệp làm các dự án kinh tế quy định tại Điều 62 Luật Đất đai. Tôi đã viết nhiều bài về điều luật này, cả trên báo chí chính thống và trên facebook và sẽ tiếp tục viết nữa.

Điều luật trên không những vi hiến (vì xâm phạm quyền tài sản của dân), tiếp tay cho các nhóm lợi ích thâu tóm đất đai để tích lũy tư bản thông qua cướp bóc (thu hồi đất vơi giá đền bù rẻ mạt so với giá thị trường, không phải cướp bóc thì là cái gì ?), là nguyên nhân chủ yếu của hơn 80% trong tổng số các vụ khiếu kiện, mà người dân còn có nguy cơ bị trục xuất ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của mình, hiện nay nhiều người đang phải tha hương trên chính quê cha đất tổ.

Khi các bản quy hoạch sử dụng đất bị các nhóm lợi ích lũng đoạn ban hành tùy tiện, khi mảnh đất của người dân không chắc là của họ vì họ không biết có bị thu hồi hay không và bao giờ thì bị thu hồi, người dân không còn gắn bó với đất đai nữa. Hàng ngàn năm nay, dân ta yêu nước trước hết là yêu bà con họ hàng quê hương bản quán, là yêu chính mảnh đất của mình, dân ta đánh giặc để bảo vệ Tổ quốc trước hết là để bảo vệ mảnh đất mà từng người, từng gia đình sinh sống. Tước đoạt đất đai của dân chính là tước đoạt luôn lòng yêu nước, tước đoạt luôn tinh thần chống ngoại xâm. Sức mạnh toàn dân chống ngoại xâm là do gắn bó với đất đai mà tạo thành, sức mạnh đó nay bị chính các nhà làm luật âm mưu xóa bỏ.

Ngay cả trong thời kỳ bao cấp, từng người dân tuy không có quyền sử dụng đất nhưng họ vẫn được “sở hữu tập thể” thông qua hợp tác xã, về nguyên tắc đất đai vẫn là của họ, họ vẫn có quyền rút khỏi hợp tác xã để lấy lại đất của mình. Dù đó chỉ là nguyên tắc hình thức không có thực chất, dù kinh tế hợp tác xã chỉ triệt tiêu sức sản xuất và dẫn đến nghèo đói, nhưng người dân vẫn hy vọng mình có thể được chia đất trở lại, vì đất hợp tác xã vẫn nằm đó chứ không mất đi đâu. Còn với Điều 62 Luật Đất đai, bất kỳ mảnh đất nào cũng có thể bị thu hồi, tương lai là mờ mịt, không đoán trước được điều gì sẽ xảy ra.

Chưa hết, dọc ven biển, nơi lẽ ra là tuyến phòng thủ quốc gia, đất đai đã bị thu hồi vô tội vạ để giao cho các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp của Trung Quốc và nhiều doanh nghiệp có thể bị các doanh nghiệp Trung Quốc thâu tóm trong tương lai. Trong khi Trung Quốc đang âm mưu thôn tính Biển Đông và đe dọa chủ quyền biển đảo nước ta, nếu như chiến tranh xảy ra thì lấy chỗ nào mà phòng thủ ? Lấy đất của dân để giao cho doanh nghiệp, Trung Quốc có thể thâu tóm lại đất đai của doanh nghiệp thông qua các thể lệ mua bán cổ phần. Khi chiến tranh xảy ra, đất ấy đâu còn có dân nữa mà bảo vệ.

Nếu như nhà nước tôn trọng quyền tài sản của dân về đất đai, người dân có thể mua bán đất đai theo quan hệ thị trường, nhưng dân ta vô cùng nhạy cảm, nên chắc chăn không thể có chuyện dân ào ạt bán đất cho doanh nghiệp Trung Quốc hay bán đất cho các doanh nghiệp có khả năng bị Trung Quốc thâu tóm. Và cũng không có chuyện dọc tuyến phòng thủ biển không còn dân ở.

Thế trận của dân là thế trận vững chắc nhất, thế trận đó đang bị các nhà làm luật câu kết với các nhóm lơi ích xóa bỏ.

Nếu không nhanh chóng xóa bỏ quy định cho phép chính quyền thu hồi đất của dân để giao cho doanh nghiệp làm dự án kinh tế thì việc mất nước chỉ còn là thời gan mà thôi. Nói chống chế độ thì chính điều luật này kích hoạt chống chế độ hơn bất cứ thế lực thù địch nào.

Nhà hoạt động Nguyễn Văn Đức Độ lại bị đánh đập trước phiên toà phúc thẩm

Nhà hoạt động Nguyễn Văn Đức Độ lại bị đánh đập trước phiên toà phúc thẩm

Nhà hoạt động Nguyễn Văn Đức Độ lại bị đánh đập trước phiên toà phúc thẩm

Ông Nguyễn Văn Đức Độ – Ảnh: RFA

Tin từ Sài Gòn – Nhà hoạt động dân chủ và công đoàn Nguyễn Văn Đức Độ lại bị đánh đập trong trại tạm giam Chí Hoà chỉ vài tuần trước phiên xử phúc thẩm.

Thông tin trên được gia đình cung cấp sau chuyến thăm gặp và tiếp tế thực phẩm cho anh tại Chí Hoà vào ngày 13 tháng 3, 6 ngày trước phiên xử phúc thẩm đối với 5 nhà hoạt động, những người bị kết án từ 8 đến 15 năm tù giam về cáo buộc “hoạt động nhằm lật đổ chính phủ” theo Điều 79 của Bộ luật hình sự 1999.

Bốn người còn lại trong nhóm là ông Lưu Văn Vịnh (bị án 15 năm tù giam), ông Nguyễn Quốc Hoàn (án 13 năm), ông Từ Công Nghĩa (án 10 năm) và ông Phan Trung (án 8 năm).

Cả 5 ông bị bắt vào đầu tháng 11 năm 2016 và bị kết án ngày 05/10/2018 sau nhiều tháng giam giữ mà không được gặp luật sư và gia đình. Họ bị bắt và kết tội chỉ vì có kế hoạch thành lập Liên minh Dân tộc Việt nhằm đòi quyền dân sự và chính trị cho người dân.

Trong buổi gặp gia đình kéo dài 40 phút hôm nay, ông Nguyễn Văn Đức Độ, phó chủ tịch Phong trào Lao động Việt, cho biết ông bị 5 tù hình sự trong cùng phòng giam đánh hội đồng ngày 02/3. Ông vừa tự vệ vừa chạy và la nên chưa bị đánh nhiều. Tuy nhiên, một người bạn tù khác đã ra can thiệp và người này bị những kẻ tấn công kia đánh đập tới mức bất tỉnh, toét cả hai mắt. Người này được đưa đi cấp cứu sau đó và vẫn chưa được xuất viện.

Đây là lần thứ 2 ông Nguyễn Văn Đức Độ bị đánh đập bởi tù nhân hình sự cùng phòng giam kể từ ngày 15/10/2018. Lần trước, ông bị đánh đập tàn nhẫn và bị nhiều thương tích. Rất có thể vụ tấn công được bật đèn xanh bởi lực lượng an ninh.

Nhiều cựu tù chính trị và người hoạt động nhân quyền cho biết an ninh CSVN thường xuyên sử dụng tù thường phạm án nhiều năm để đánh đập, thậm chí là giết hại người bất đồng chính kiến, đổi lại, những kẻ tay sai này được giảm án tù.

HẢI QUÂN NƯỚC NÀO ĐÃ SÁT HẠI 64 QUÂN NHÂN VIỆT NAM TẠI ĐẢO GẠC MA…?

Lê Hồng Song
HẢI QUÂN NƯỚC NÀO ĐÃ SÁT HẠI 64 QUÂN NHÂN VIỆT NAM TẠI ĐẢO GẠC MA…?

64 Liệt sỹ ngã xuống ngày 14/03/1988 ở Trường Sa, vong hồn của họ biết rõ quân giặc giết họ là bọn giặc nước nào.

Người Việt nam còn sống chắc đều biết nước đó là nước nào.

Thế nhưng theo bản tin của Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt nam thì vào ngày 09/05/2010, tại đảo Trường Sa, bản diễn văn đọc tại lễ tưởng niệm 64 vị Liệt sỹ này chỉ nói một cách mập mờ rằng đó là “lực lượng quân sự nước ngoài”.

Đọc lại thật kỹ từ trên xuống dưới cũng không thấy bản tin này chỉ ra quân giặc ấy là của nước nào mà chỉ thấy các cụm từ “nước ngoài” (trong ngoặc kép) xuất hiện 4 lần trong bài viết:

– lực lượng quân sự “nước ngoài” đã ngang nhiên chiếm đóng một số bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam
– quân đội “nước ngoài” ngang nhiên tấn công quân sự, bắn chìm, bắn cháy 3 tàu vận tải của ta.
– các chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu, hy sinh trước sự tấn công trắng trợn và phi lý của các lực lượng tàu chiến Hải quân “nước ngoài”
– “Với toan tính và tham vọng thôn tính Trường Sa, độc chiếm biển Đông của “nước ngoài”, Trường Sa hôm nay vẫn chưa thực sự bình yên.

Đọc xong bài viết tôi thực sự cảm thấy hoang mang và tự nghi hoặc rằng liệu vào cái ngày lịch sử 14/3/1988, tại quần đảo Trường sa ấy đã có bao nhiêu quốc gia tham gia cuộc chiến giành Trường sa. Tôi hỏi một số bạn bè và truy tìm trên Internet về sự kiện này thì được biết rằng 64 vị Liệt sỹ ấy đã hy sinh khi chiến đấu với quân Trung Quốc.

Người Ba Lan giờ đây đã rõ ai đã giết đồng bào của họ trong vụ thảm sát Katyn. Chính Tổng thống Nga Medvedev cũng không né tránh sự thật này trước người Ba Lan.

Vậy thì liệu cái “nước nào” ấy có thể là một nghi vấn lịch sử khiến cho bài báo “chính thống” này lại phải dùng từ một cách thận trọng đến như vậy hay không ? Nếu đây thực sự là một nghi vấn lịch sử thì tôi xin nhường lời bàn luận lại cho các chuyên gia về lịch sử.

Còn nếu sự thật là 64 Liệt sỹ của dân tộc Việt nam bị giết bởi quân giặc Trung quốc, thì cách lấp liếm mập mờ của buổi lễ tưởng niệm này là một nỗi đau đớn và sỉ nhục ghê gớm đến chính các vị Liệt sỹ ấy. Các Liệt sỹ biết rõ là khi ấy họ đang chiến đấu với ai để bảo vệ tổ quốc của mình và vong hồn của họ luôn luôn biết rằng họ đã bị ai giết hại. Lẽ nào người còn sống là đồng đội của họ mà lại phải nói lấp liếm rằng đó là bọn giặc của một nước ngoài nào đó chưa xác định được.

Ai có thể hình dung rằng trong lễ tưởng niệm những nạn nhân Hiroshima và Nagasaki thì người Nhật nói với vong hồn người chết rằng họ bị một nước ngoài mơ hồ nào đó giết hại hay không ?

Sự việc này thực sự nghiêm trọng hơn chúng ta nghĩ bởi hồn dân tộc Việt nam đang bị vấy bẩn bằng một vết nhục mới. Tôi đang liên tưởng về tính liên quan đến một sự kiện còn nóng hổi từ một bài báo khác mà trang Boxitvn đã đưa lên với một cái tựa rất đau đớn là “Những kiểu đưa tin không làm sao rửa hết nhục”.

Image may contain: 1 person, text
Image may contain: one or more people and text

Một trăm năm Công Giáo chống chủ nghĩa Cộng Sản

Khoảng thời gian 100 năm qua kể từ năm 1917 tới năm 2017 được kể là thời kỳ tóm lược bản tin mừng đầu hết (protoevangelium), lúc Thiên Chúa nói với con rắn rằng “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà”. Cuộc chiến 100 năm qua nói lên giai đoạn rõ nét nhất của mối thù này. Nó bắt đầu năm 1917 với cả việc mạc khải của Đức Mẹ Fatima lẫn cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga vô thần. Trong 100 năm qua, cái cơ thể kitô giả vô hình kia đã mặc lấy hình thức kệch cỡm nhất của nó trong chủ nghĩa duy vật vô thần, hiện thân nơi các chính phủ theo chủ nghĩa xã hội và cộng sản khắp nơi trên thế giới. Con rắn đã trở thành Con Thủy Quái Leviathan. Trước “Cách Mạng Tháng Mười”, tại Fatima, Đức Mẹ đã cảnh cáo về Nước Nga rồi, hồi tháng 7 năm 1917; ngài nói rằng “Nước này sẽ gieo rắc các sai lầm của nó ra khắp thế giới, gây ra nhiều cuộc chiến tranh và bách hại Giáo Hội”. Những điều khác, như ta biết, nay đã thành lịch sử.

Trong tháng và năm kỷ niệm lần thứ 100 Cách Mạng Tháng Mười này, thiển nghĩ nên nhớ lại “đại họa Satan” như lời Đức Piô XII từng mô tả, từng giáng xuống thế giới qua các mưu chuớc thâm độc của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Điều này đặc biệt quan trọng khi giai cấp ưu tú và cảm tình viên văn hóa Tây Phương, đã từ lâu, vốn đang tìm cách tối thiểu hóa các tội ác của chủ nghĩa Mácxít, điều mà tờ The New York Times làm gần đây qua “hàng loạt những hồi ức thân thương và nuối tiếc về những ngày xưa thân ái của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ 20” như nhận định của tờ The Federalist. Có lẽ nay là lúc duyệt lại những trò tồi bại của “thế kỷ đỏ” bằng cách đọc những tác phẩm như The Black Book of Communism (Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản) hay Quần Đảo Gulag của Solzhenitsyn, xem những cuốn phim như The Killing Fields.

Thế còn chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 thì sao? Chỉ cần đọc các hàng tít lớn của báo chí về Venezuela. Trước đây không lâu, Venezuela vốn là một nước thịnh vượng, giầu nhờ dầu hỏa, một phép lạ của chủ nghĩa xã hội! Nay, sau 18 năm của chủ nghĩa Mácxít Chavez-Maduro, nó là đáy hỏa ngục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người trong nước có nguy cơ chết đói, buộc phải ăn trộm ăn cắp, ăn cả các con thú trong sở thú… Điều đáng buồn, đấy không phải là những khác thường của trải nghiệm xã hội chủ nghĩa mà là chuyện thường tình của trải nghiệm này. Tuy nhiên, các món đó có thể hợp khẩu vị hơn là cỏ và vỏ cây ở quốc gia nhà tù Bắc Hàn. Các sự kiện của lịch sử cho thấy những tên mị dân Cộng Sản từng sát hại tới 140 triệu người (như Tiến Sĩ Paul Kengor trích trong The Politically Incorrect Guide to Communism) từ Lenin tới Stalin tới Mao tới Pol Pot tới Kim Jong-un tới Chavez tới Che và Fidel. Danh sách còn dài. Dù sao, Lenin có lần nói rằng bạn phải đập vài chiếc trứng mới làm được món trứng chiên; 140 triệu chiếc trứng đã bị đập, để làm một món trứng chiên!

Ngược lại, Giáo Hội chưa bao giờ bị lừa bởi những trò bịp bợm của chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Ngay từ đầu, hết thông điệp này đến thông điệp nọ đã phê phán ý thức hệ sai lầm của Marx và Hegel. Thực vậy, Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nói rõ: “Giáo Hội vốn bác bỏ các ý thức hệ toàn trị và vô thần có liên hệ với ‘chủ nghĩa cộng sản’ hay ‘chủ nghĩa xã hội’ thời nay” (số 2425).

Sách Giáo Lý vắn tắt chỉ có thế, nhưng các thông điệp của các vị giáo hoàng thì nhiều chi tiết hơn và thẳng thừng lên án.
Năm 1846, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Qui Pluibus (Về Đức Tin và Tôn Giáo), đánh thẳng vào Marx, người sẽ cho công bố Tuyên Ngôn Cộng Sản vào năm 1848. Đức Piô IX viết về “lý thuyết Cộng Sản không thể nói được”, một lý thuyết : “hết sức trái nghịch với chính luật tự nhiên. Vì nếu lý thuyết này được chấp nhận, thì đây là ngày tàn hoàn toàn của luật lệ, chính phủ, tư hữu của mọi người và thậm chí chính xã hội con người cũng sẽ sụp đổ theo”. Ngài cảnh cáo chống lại “các kế sách đen tối nhất của những con người đội lốt chiên mà thực ra bên trong là những con chó sói săn mồi”.

Năm 1878, Đức Giáo Hoàng Leo XIII viết về các sự ác của chủ nghĩa xã hội trong Quod Apostolici Muneris (Về Chủ Nghĩa Xã Hội). Ngài bắt đầu thông điệp bằng cách nói tới “nạn đại dịch chết người đang lan vào chính kết cấu xã hội con người và dẫn nó tới bờ tiêu diệt”.Sau đó, Đức Leo XIII đơn cử “nhóm người, dưới nhiều danh xưng khác nhau và gần như man rợ, gọi là người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, hay hư vô chủ nghĩa, và là những người, rải rác khắp thế giới, và liên kết với nhau bằng những mối dây găn bó chặt chẽ trong một liên minh xấu xa, không còn cách dấu diếm trong các cuộc họp bí mật nữa, nhưng, một cách công khai và dạn dĩ đã tiến thẳng ra ánh sáng ban ngày, và mưu toan đem lên hàng đầu điều chúng đã đặt kế hoạch từ lâu, tức việc lật đổ mọi xã hội dân sự bất kể thuộc loại nào”.

Thông điệp cũng cảnh giác rằng các người xã hội chủ nghĩa tìm cách tiêu diệt hôn nhân và gia đình. Đối với các người xã hội chủ nghĩa, không thể có bất cứ lòng trung thành gắn bó nào đối với Thiên Chúa và gia đình, mà chỉ trung thành gắn bó với Nhà Nước đầy quyền năng mà thôi. Đức Giáo Hoàng Leo quả quyết rằng “Nền tảng của xã hội này trước hết hệ ở cuộc kết hợp bất khả tiêu của chồng và vợ phù hợp với sự cần thiết của luật tự nhiên”. Ấy thế nhưng, “các lý thuyết xã hội chủ nghĩa mưu toan gần như hoàn toàn tiêu hủy cuộc kết hợp này”.

Mười ba năm sau, tức năm 1891, Đức Giáo Hoàng Leo XIII lại công bố một thông điệp nữa về lao động và tư bản và giai cấp lao động trong Rerum Novarum, văn kiện nền tảng của giáo huấn xã hội Công Giáo thời hiện đại. Ngài viết: “Để sửa chữa các sai lầm này, các người xã hội chủ nghĩa, dựa trên lòng ghen ghét người giầu của người nghèo, mưu toan dẹp bỏ quyền tư hữu…” Giáo Hội tuyên bố điều này “hoàn toàn không công chính”, và “phương thuốc họ đề nghị rõ ràng chống lại công lý. Vì, mọi người, do bản chất của họ, đều có quyền sở hữu tư làm của riêng”.

Chủ nghĩa xã hội xây dựng trên ý niệm tham của người (coveting), vi phạm các điều răn thứ chín và thứ mười. Rerum Novarum chỉ rõ điều đó: “Thẩm quyền thiên luật qui định thêm bằng cách ngăn cấm ta, bằng những từ ngữ nghiêm khắc nhất, không được tham muốn những của vốn thuộc về người khác”. Chủ nghĩa xã hội cũng được xây dựng trên ý niệm sai lầm là đấu tranh giai cấp. Ở đây nữa, Đức Giáo Hoàng Leo XIII bác bỏ sai lầm của nó: “ý niệm cho rằng giai cấp này tự nhiên thù nghịch giai cấp kia, và người giầu và người lao động, từ bản chất, vốn đã được định phải sống trong cảnh tranh chấp lẫn nhau. Quan điểm này phi lý và sai lầm đến chỗ trực tiếp mâu thuẫn với sự thật”.

Cũng như trong các thông điệp trước đó, Đức Leo XIII, một lần nữa, đã bênh vực các định chế gia đình và hôn nhân chống lại các cuộc tấn công của chủ nghĩa xã hội: “gia đình… có các quyền lợi và nghĩa vụ đặc thù đối với chính nó, hoàn toàn độc lập đối với Nhà Nước. Do đó, ý kiến tranh cãi cho rằng chính phủ dân sự nên có quyền can thiệp vào và thi hành quyền kiểm soát chặt chẽ đối với gia đình và gia hộ là một sai lầm lớn lao và nguy hại”.

Năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô XI ban hành thông điệp Quadragesimo Anno nhân dịp kỷ niệm 40 năm thông điệp Rerum Novarum, thông điệp mà nó gọi là “Đại Hiến Chương” của giáo huấn xã hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng Piô thẳng thừng quả quyết rằng “Ta đưa ra lời tuyên bố sau đây: bất kể được coi như một lý thuyết, hay một sự kiện lịch sử, hoặc một phong trào, chủ nghĩa xã hội… hoàn toàn xa lạ đối với sự thật của Kitô Giáo”. Ngài còn đi xa hơn bằng cách quả quyết rằng “Giống mọi sai lầm khác, nếu chủ nghĩa xã hội chứa đựng một sự thật nào đó, thì nó vẫn dựa vào một lý thuyết về xã hội con người của riêng nó mà thôi và không thể hòa giải với Kitô Giáo chân chính. Chủ nghĩa xã hội tôn giáo, chủ nghĩa xã hội Kitô Giáo, là những hạn từ mâu thuẫn; không ai một lúc vừa là người Công Giáo tốt vừa là người xã hội chủ nghĩa đích thực”.

Nhưng còn chủ nghĩa xã hội nhẹ nhàng (socialism-lite) thì sao? Đức Piô cũng bác bỏ cả hình thức này nữa một các khá sức tích: “Ta cũng tập trung chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội một lần nữa để phê phán và thấy mọi hình thức của chúng, cả hình thức được biến cải hơn cả, đều sa lạc khỏi các giới điều của Tin Mừng”. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII sau đó cũng đã lặp lại điểm vừa nói trong thông điệp Mater et Magistra năm 1961; ngài nói: “Đức Giáo Hoàng Piô XI đã nhấn mạnh hơn nữa việc chống chọi hết sức nền tảng giữa chủ nghĩa cộng sản và Kitô Giáo, và làm mọi người hiểu rõ rằng không một người Công Giáo nào có thể ủng hộ ngay cả hình thức xã hội chủ nghĩa ôn hòa”.

Nói cho ngay, Đức Piô cũng đòi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tư bản cực đoan phải tôn trọng nhân phẩm của người lao động, tức những người “không thể bị mua bán như một món hàng”. Ngài chỉ rõ: điều cần không phải là một phản ứng quá đáng, như các người xã hội chủ nghĩa đề nghị, nhằm tiêu diệt toàn bộ hệ thống thị trường tự do, nhưng đúng hơn, “phương thuốc thứ nhất và cần thiết nhất là cải tổ nền luân lý”. Lập trường của Giáo Hội luôn luôn là một phương thức quân bình, bảo vệ quyền lợi của cả chủ nhân lẫn công nhân qua việc quay về với đức ái Kitô Giáo và quan tâm đến người lân cận của mình.

Đức Giáo Hoàng Piô để lại lời phê phán nghiêm khắc nhất của ngài đối với “đại dịch Cộng Sản”. Ngài mô tả nó bằng những dòng và những đoạn như: “cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng nghỉ và cuộc tận diệt tuyệt đối quyền tư hữu”; “sử dụng mỗi một và mọi phương tiện, cả các phương tiện bạo động nhất”; “sự độc ác và bất nhân của nó”; “cuộc sát hại và tiêu diệt kinh hoàng”; “nó công khai thù nghịch đối với Giáo Hội Thánh Thiện và với chính Thiên Chúa”; “đặc điểm vô đạo đức và vô đạo lý của chủ nghĩa cộng sản”; “dùng bạo lực và sát hại, nó tìm cách tiêu diệt cả xã hội”; “dọn đường cho việc lật đổ và tiêu diệt xã hội”.

Đức Giáo Hoàng Piô XI chưa lấy làm đủ. Năm 1937, ngài ban hành một thông điệp khác, Divini Redemptoris, về chủ nghĩa cộng sản vô thần. Ngài không cần gìn giữ ý tứ chi nữa. Ngài khuyên “các tín hữu đừng để mình bị đánh lừa! Chủ nghĩa cộng sản sai lầm từ nội tại, và không ai sẵn sàng muốn cứu nền văn minh Kitô Giáo lại có thể hợp tác với nó trong bất cứ việc gì”. “Nó là một hệ thống đầy sai lầm và ngụy biện”. Thông điệp này nhằm trực tiếp vào “mối nguy hiểm cận kề” đặt ra bởi “chủ nghĩa cộng sản Bônxêvích và vô thần, nhằm lật nhào trật tự xã hội và phá hoại chính các nền tảng của nền văn minh Kitô Giáo”.

Chủ nghĩa cộng sản đặc biệt xảo quyệt khi nó “cướp mất mọi phẩm giá của con người nhân bản”. “Không hề có sự thừa nhận bất cứ quyền lợi nào của cá nhân trong mối tương quan của họ với tập thể”. Trong tập thể, “mọi hình thức tư hữu đều bị nhổ rễ”. Tập thể cai trị cả hôn nhân lẫn gia đình. “Không hề có sợi dây hôn phối nào … mà lại không lệ thuộc ý muốn võ đoán của cá nhân hay tập thể”. Hãy nghĩ tới các “cuộc ly dị bằng postcard”. Việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản vốn được nâng đỡ bởi việc “tuyên truyền ma quái của con cái bóng tối” và “âm mưu giữ im lặng” của báo chí không Công Giáo, một phần “do các lực lượng trong bóng tối, từ lâu, vốn âm thầm làm việc để lật đổ trật tự xã hội Kitô Giáo”.

Năm 1991, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành thông điệp Centesimus Annus nhân kỷ niệm năm thứ 100 của thông điệp Rerum Novarum. Nó nhắc lại giáo lý Công Giáo dạy rằng vấn đề gốc rễ của chủ nghĩa toàn trị hiện đại là sự phủ nhận phẩm giá siêu việt của con người nhân bản. “Chủ nghĩa xã hội coi con người cá thể chỉ là một yếu tố, một phân tử trong cơ thể xã hội, đến nỗi lợi ích của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào sự vận hành của bộ máy kinh tế xã hội”. Chủ nghĩa quân phiệt và cuộc đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác được dẫn khởi từ “cùng một gốc rễ, tức là chủ nghĩa vô thần và sự khinh miệt đối với con người nhân bản, những chủ nghĩa đặt nguyên tắc bạo lực lên trên nguyên tắc lý trí và luật pháp”. Như Đức Cha Fulton Sheen từng khôn ngoan nhận xét, “Chủ nghĩa cộng sản cố gắng thiết lập một điều bất khả: tình huynh đệ con người mà không có tình phụ tử Thiên Chúa”.

George Orwell biết rất rõ sự lừa dối của xã hội chủ nghĩa này, qua việc thích ứng câu thần chú trong Animal Farm (Trại súc vật), “Mọi động vật đều bình đẳng”. Mầu cờ đích thực của họ cuối cùng đã bị lật tẩy. Đây là một thứ doublethink (chấp nhận các ý kiến trái ngược nhau cùng một lúc, nhất là do nhồi sọ chính trị) của Đảng. Nó gợi nhớ một cách kỳ lạ thứ crimethink (thổ ngữ được ý thực hệ của đảng sàng lọc) và cảnh sát suy nghĩ của năm 1984 đối với môi trường duy chính xác chính trị (political correctness) hiện nay tại các khuôn viên đại học Mỹ và trong các chính phủ châu Âu. Bức tường Bálinh có thể đã sụp đổ và Liên Bang Xô Viết đã bị giải thể nhưng chủ nghĩa Mác văn hóa vẫn mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những tiên phong tiến bộ của cánh tả tiếp tục là những người thừa kế ý thức hệ của những người theo chủ nghĩa xã hội và cộng sản thế kỷ XX. Họ tiếp tục cuộc cách mạng bằng cách tiếp nhận “các lỗi lầm của Nga” và tấn công quyền tư hữu, thị trường tự do, tự do cá nhân và tự do ngôn luận, hôn nhân truyền thống và gia đình, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Có thể tại thời điểm này không có một “Đế Quốc Ma Qủy” (Evil Empire), một nhà nước toàn trị duy nhất, nhưng có một trạng thái tâm thức toàn trị hiện diện; sự thúc đẩy độc đoán trong các phương tiện truyền thông và các hệ thống giáo dục, chính phủ và tư pháp của chúng ta. “Big Brother” (Tay Anh Chị) vẫn đang rình rập đâu đó.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn có hy vọng. Giáo hội đã chiến thắng chủ nghĩa cộng sản Xô viết. Và, Chúa Kitô đã ban cho chúng ta sự bảo đảm hồng phúc này: các cửa hỏa ngục sẽ không chiếm ưu thế đối với Giáo hội. Trong những ngày ảm đạm năm 1917, giữa Thế chiến I, và việc phóng ra đủ thứ tệ nạn của chủ nghĩa cộng sản vô thần, Đức Trinh Nữ Maria đã hứa, “cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng”. Đúng thế, con Thủy Quái sẽ tiếp tục bất ngờ tấn công và hoành hành, nhưng các đầu của nó đã bị nghiền nát.

Vũ Văn An
Nguồn: vietcatholic.net

TINMUNGCHONGUOINGHEO.COM
Khoảng thời gian 100 năm qua kể từ năm 1917 tới năm 2017 được kể là thời kỳ tóm lược bản tin mừng đầu hết (protoevangelium), lúc Thiên…

Ân xá Quốc tế giải thích việc gọi Hà Văn Nam là TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM

1 hr

RFA.ORG
Tổ chức phi chính phủ quốc tế làm việc với mục tiêu giải phóng các Tù nhân lương tâm trên thế giới hôm 9/3/2019 ra thông cáo báo chí, khẳng định ông Hà Văn Nam là một TÙ NHÂN LƯƠNG TÂM, đồng thời nói cáo buộc chống lại người tài …

THÂN PHẬN NGƯỜI VIỆT NAM

THÂN PHẬN NGƯỜI VIỆT NAM.

Cũng là bị cáo trong một âm mưu giết người cùng với 4 nghi phạm Triều Tiên mất tích khác nhưng nghi phạm người Indonesia lại có đến 4 luật sư bào chữa trong khi đó công dân Việt Nam không được chính phủ đoái hoài đến.

Nực cười hơn nữa kẻ đầu têu của vụ ám sát giết chết ngay chính anh trai mình để tranh giành quyền lực lại được chính ngay đảng cướp ngồi xổm lên hiến pháp, cấm đường dân trong 3 ngày để bảo vệ, đồng thời lão đứng đầu đảng và nhà nước đón tiếp hắn với nghi thức trang trọng của quốc khách, khúm núm bắt tay khi hắn còn ngồi trên xe. Trong khi đó công dân CHXHCNVN đang ngồi trong trại giam với nỗi oan thấu trời xanh.

Cũng tương tự đó là số phận của Trương Duy Nhất, người bị mất tích nhưng cả một hệ thống báo chí bất kể quyền công dân được hiến pháp quy định về số phận của họ cần được chính quyền thông tin đến người thân khi có thư cầu cứu đến nhà chức trách.

Từ hai trường hợp trên cho thấy điều gì:

– Nhà nước CHXHCNVN không phải là nhà nước của dân và vì dân. Đó là nhà nước của bọn cướp.

– Nhân dân Việt Nam không tranh đấu để xác lập một nhà nước cho mình nên họ phải gánh chiụ một nhà nước như vậy. Nếu họ tiếp tục bàng quan với chính trị, tương lai con cháu của họ sẽ còn tồi tệ hơn: bị cướp giết mà không được cảnh sát bảo vệ, trẻ dưới thành niên bị bắt cóc mà không ai điều tra, công dân dính líu tới pháp luật ở nước ngoài không được chính phủ bảo vệ…

Đó chẳng qua là cái giá mà họ phải trả: cái giá của sự hèn nhát không dám hy sinh để tạo lập một chính phủ của dân, do dân và vì dân.

Bị cáo Indonesia Siti Aisyah trong vụ án sát hại người được cho là anh trai nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un, đã được thả tự do sau khi công tố viên ở Malaysia hủy cáo buộc.

Sau khi tòa đưa ra phán quyết, Aisyah đã ôm nghi phạm người Việt Nam Đoàn Thị Hương và bật khóc.

Các luật sư của hai bị cáo cũng từng nhiều lần cho rằng thân chủ của họ chỉ là những “con tốt thí” trong một âm mưu chính trị và cơ quan công tố đã không đưa ra được chứng cứ thuyết phục cho thấy hai phụ nữ có ý định giết người.

DHL

Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 6 people

Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu.

Chúng ta sẽ bị xét xử vào ngày tận thế dựa trên tình yêu. Hôm nay ta có thể gặp Đức Giêsu ở nhà thương, nhà tù, nơi trại tị nạn, nơi gần một tỷ người bị đói trên thế giới, nơi bao người thiếu nước sạch để dùng.Hãy kính trọng trao cho Ngài những gì mình đã chắt chiu.

 Cầu nguyện: 

Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói,chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.

Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng,

có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn,

có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác,có bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.

Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.

Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.

Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,

vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.

Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.

Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J