Sống theo lời Chúa


Tranh vẽ thời xưa không rõ tác giả về câu chuyện Chúa bị ma quỷ cám dỗ trong sa mạc.
 CHU TẤT TIẾNTheo Tin Mừng của Thánh Lucas, sau khi Chúa Giêsu hãm mình, nhịn đói 40 đêm ngày tại hoang địa, ma quỷ đến cám dỗ Ngài. 

Ma quỷ nói, “Nếu ông là con Thiên Chúa, ông hãy làm phép hóa đá này thành bánh mà ăn.” 
Chúa nói, “Người ta không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa.” 

Ma quỷ lại đem Người lên chốn núi cao, cho xem thấy tất cả thiên hạ và nói, “Tất cả vinh quang của thế gian là của tôi. Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả những điều đó.” 

Chúa đáp, “Ngươi phải thờ lạy Thiên Chúa và chỉ phụng thờ một Thiên Chúa mà thôi.” 
Ma quỷ lại đưa Người lên nóc nhà thờ và nói, “Nếu ông là con Thiên Chúa, hãy gieo mình xuống đi, vì có lời chép rằng: Chúa sẽ truyền cho các thiên thần gìn giữ ông.” 

Chúa Giêsu quở mắng ma quỷ, “Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” 

Thấy không làm gì được Chúa Giêsu, ma quỷ liền bỏ đi. 

Như thế, chính Chúa Giêsu là bậc Chí Thánh cũng còn bị ma quỷ cám dỗ, huống chi là con người trần tục với đủ thất tình: hỷ (vui), nộ (giận), ái (yêu), ố (ghét), ai (buồn), dục (muốn), cụ (sợ). Một sự kiện đơn giản đã xảy ra với con người, ngay từ khi sinh ra, mà không ai để ý: Vừa lọt lòng mẹ, đứa bé liền bật khóc, điều đó có nghĩa là con người phải chấp nhận buồn bã, đau khổ, hay thất vọng đến từ cuộc đời, trong những niềm đau ấy, thì đau khổ tinh thần trầm trọng hơn đau khổ vật chất và làm ảnh hưởng đến cuộc sống con người nhiều hơn, lâu dài hơn những cơn đau thể xác. 

Buồn bã, thất vọng luôn đi liền sau vui vẻ hay hạnh phúc như chiếc bóng của người. Nếu chúng ta để ý, ngay sau những tràng cười ầm ĩ, là một sự im lặng nặng nề. Sau những phút giây đoàn tụ cha, mẹ, anh chị em tràn đầy hạnh phúc là những cắng đắng, tính toán, bất bình. Trong mọi cuộc hôn nhân do kết quả của các cuộc tình say đắm là sự chán ngán lẫn nhau. Ngay sau khi hoan lạc ái tình là sự chán chường tột độ. Có những cuộc hôn nhân tưởng là hạnh phúc nhất trần gian, lại vỡ tan như bóng nước chỉ sau một thời gian ngắn. Như vậy, chỉ có Lời Chúa là bền vững còn tất cả chỉ là hư vô. 

Về thể chất cũng thế. Sau giai đoạn tràn trề sức khỏe của tuổi thanh xuân, đến trung niên, là bắt đầu nếm mùi bệnh tật. Có những người còn tươi trẻ, dồi dào sức sống, bỗng nhiên mang bệnh trầm kha và lìa đời. Những người sống thọ, không nhiều thì ít, mang bệnh liên miên. Vì thế, đa số các vị 70 trở lên, luôn luôn suy nghĩ đến ngày mình ra đi. Tùy theo cá tính, mà có vị diễu cợt sự ra đi của mình, có vị lại ưu tư, lo lắng, người thì thận trọng chuẩn bị cho mình những điều cần làm trước khi rời cõi thế. 

Trên hết, tất cả những vị cao tuổi đều man mác cảm thấy một nỗi buồn sâu lắng khi nghĩ đến sự chết là điều không ai có thể tránh được. Tuy có tìm quên trong việc tập thể dục, khí công, có tìm vui trong các sinh hoạt văn nghệ, hay du lịch, nhưng tất cả không tránh khỏi nỗi buồn về đêm, nhất là khi mắc bệnh, phải nằm trong bệnh viện. Lúc đó, nỗi cô đơn tràn ngập đến như bão lũ, bủa vây tâm hồn người bệnh, cho dù có bác sĩ kề bên nhưng không thể nào chống lại được nỗi cô đơn khủng khiếp khi một mình nằm trên giường bệnh, nghe tiếng máy đo tim chạy rì rào…

Lúc đó, mới thấy cần một sự ủi an siêu nhiên đến xua đuổi nỗi lo sợ đi, để cho hy vọng sống trở lại. Khoảng khắc ấy, chỉ những ai có lòng tin vào Lời Chúa thì sẽ vui trở lại, ngoài ra thì chỉ là sợ hãi, cô đơn cùng cực. Khoảng khắc ấy thì vợ đẹp, con ngoan, gia tài ức vạn, cũng chỉ là những ước mơ không thực, là phù du, ảo ảnh. 

Như vậy, sống bằng Lời Chúa thật là cần thiết với những ai biết dự phòng cho tương lai. Thật ra, sống bằng Lời Chúa cũng rất đơn giản. Mười điều răn của Thiên Chúa chỉ cần tóm gọn trong hai điều: Kính Chúa, Yêu Người. Có Kính Chúa thì không làm điều gian trá, có Yêu Người thì luôn chia sẻ và làm mọi điều chứng tỏ tình yêu ấy. Người có lòng Kính Chúa, Yêu Người thì không giận hờn ai, không thù ghét ai, không nói xấu người khác, không lấy của người khác, không làm gì sai luật đời. Thế thôi. Nhưng tiếc là, đôi khi, chính những người truyền rao Lời Chúa, chính một số tu sĩ lại vi phạm nặng nề những điều răn của Chúa, vì khi nói lên Lời Chúa, họ chỉ nói từ miệng mà ra, còn từ trong tâm thì là lời của dục vọng, của cá nhân chủ nghĩa. 

Khi Chúa bị cám dỗ, Chúa đã mạnh dạn xua đuổi ma quỷ đi, còn đa số thiên hạ thì đã run rẩy và chấp nhận làm tôi ma quỷ để được vinh quang hay sắc dục bất chính. Một vị Linh Mục Chánh Xứ đã chia sẻ là luôn bị các bà, các cô tìm cách cám dỗ ông, hoặc bằng lời nói ngọt ngào, dụ dỗ, hoặc tấn công trực tiếp bằng cách phô trương xác thịt nóng bỏng của mình. Một Linh Mục khác luôn giúp đỡ những kẻ thiếu thốn, khi đến gia đình một đứa trẻ mà ông bảo trợ việc học vấn từ nhiều năm đã bị bà mẹ bất ngờ ôm choàng lấy ông, khóc lóc, và năn nỉ ông cưới bà. 

Trong vài giáo xứ, có những phụ nữ tình nguyện đến giúp việc nhà thờ, và sau một thời gian quen biết, đã lợi dụng sự thân cận mà tấn công Linh Mục sở tại khiến Linh Mục bị lột áo chùng. Dĩ nhiên, bên cạnh các sự cám dỗ đến từ bên ngoài đó, còn những cám dỗ tự thân, tức là do bản chất của người tu sĩ đó còn chưa thấm nhuần Lời Chúa, đi tu vì bất đắc dĩ, vì cha mẹ buộc, hoặc vì không có chọn lựa nào cho tương lai, nên trong khi sống đời tu trì, vẫn mang mang trong lòng một thèm muốn xác thịt bất chính để đến môt lúc nào đó, khi Lời Chúa bị nhạt nhòa, ma quỷ đã xâm nhập và xúi bẩy kẻ đó làm việc bậy bạ. 

Cũng có trường hợp mà khi còn trẻ, gặp nhiều ấn tượng xấu từ gia đình hay xã hội, rồi vì lòng kính Chúa mà muốn đi tu, mong rũ bỏ mọi ấn tượng xấu đó, nhưng thực tế, vì bản chất yếu đuối, nên không thể thắng nổi sự cám dỗ của ma quỷ mà rồi sau thời gian dài mệt mỏi vì chiến đấu với bản thân, mà đành chào thua mà buông thả mình “tới đâu thì tới.” Những con người này, dù trong tay có cầm quyển Thánh Kinh, nhưng Lời Chúa như hột cải rơi vào chỗ đất sỏi đá nên không mọc cây lên được, mà dần dần chết khô.

Vậy, để được Lời Chúa thấm nhuần trong tâm hồn, hầu xua tan mọi lo âu, sợ hãi, cô đơn, chỉ có phương cách duy nhất là đọc hoài, đọc mãi, dù chán nản cũng vẫn đọc đi đọc lại. Vừa đọc vừa suy nghĩ, tìm hiểu những ý nghĩa xâu xa của Lời Chúa, thì mới mong có những ngày tháng an bình, vững chãi như núi đá, tràn đầy sinh lực như sóng biển, thảnh thơi như chim trời và đến ngày phải ra đi, vẫn giữ được nụ cười trên môi, nụ cười của Hy Vọng vào một đời sau hạnh phúc miên viễn.

Chu Tất Tiến.

BÀI HỌC NƠI HOANG ĐỊA 

BÀI HỌC NƠI HOANG ĐỊA 

“Để đón nhận Hồng Ân của Chúa, bạn phải vào hoang địa và ở đó một lúc.”

Chân phước Charles de Foucauld

Mọi Kitô hữu đều phải vào hoang địa một lúc nào đó.  Hoang địa là sa mạc, là khoảng đất trống, khô khan, và “hoang địa” cũng là khi chúng ta cảm thấy sự mất mát, lầm lẫn, đau lòng, cô đơn.

Tôi đã vào hoang địa nhiều lần – có khi là một ngày, có khi là một tháng.  Nhức nhối lắm.  Khó chịu lắm.  Cần phải biết từ bỏ chính mình và các ước muốn.  Nhưng qua nhiều năm, tôi thấy rằng những lúc đó có sức biến đổi nhiều nhất.  Khi tôi thực sự nghĩ về điều đó, những lần mà tôi cảm thấy gần gũi với Thiên Chúa nhiều nhất.

Trong Mùa Chay này, thời gian mà Giáo hội tiến vào sa mạc của sự từ bỏ mình và sám hối.  Chúng ta có thể ghi nhớ 5 bài học quan trọng này để củng cố đời sống và tiến bước trên đường lữ hành trần gian:

  1. Chúng ta luôn cần ơn Chúa.  Không có gì khiêm nhường hơn là thu mình vào nơi tĩnh lặng.  Hầu như tôi luôn vào sa mạc ngay khi tôi nghĩ mình có những điều cần giải quyết.  Ngẫu nhiêu chăng?  Có thể là không.  Chỉ khi Thiên Chúa tước lột hết thì chúng ta mới hiểu được chúng ta yếu đuối thế nào khi không có Ngài.  Chúng ta nhận ra ý chí mình quá nhu nhược, nên cần được an ủi về thể lý, tình cảm, hoặc tâm linh.  Chúng ta chịu đau khổ một thời gian vì không được an ủi, nhưng khi Thiên Chúa phục hồi những điều đó, chúng ta biết là phải yêu mến Ngài và nhận biết lòng nhân lành của Ngài.     
  2. Trưởng thành từ đau khổ.Lửa thử vàng, gian nan thử sức.  Khi ở trong sa mạc, tôi phải thực hành các nhân đức mà tôi muốn phát triển nhưng tôi quá yếu đuối hoặc cố chấp.  Chỉ khi Thiên Chúa thúc ép tôi bằng cách nhẹ nhàng của Ngài thì tôi mới thực sự khả dĩ phát triển trong Ngài.  Bất kỳ nỗ lực nào Ngài muốn chúng ta làm cũng đều là cơ hội để chúng ta trưởng thành hơn.                                   3. Thiên Chúa dùng sự gian khổ để kêu gọi chúng ta kết hiệp mật thiết với Ngài. Thi thoảng Thiên Chúa kéo chúng ta vào hoang địa để chúng ta gặp gỡ và trò chuyện thân mật với Ngài: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2:14).  Khi nào chúng ta thoát ly mọi thứ chia trí trần thế hoặc đau khổ, chúng ta mới có thể liên kết với Ngài đúng mức.  Một số an ủi tâm linh có được từ những lúc đau khổ và cô đơn.  Có vẻ như đó là cách duy nhất mà Thiên Chúa có thể bước vào tâm hồn chai cứng của chúng ta. 
  3. 4. Chúng ta không một mình, dù có vẻ như chúng ta bơ vơ.  Ở trong hoang địa tâm linh hoặc tình thần có vẻ là nơi cô đơn nhất thế gian.  Nhưng ngay trong khoảng trống vắng đó, chúng ta lại khả dĩ nhớ rằng chúng ta thực sự không bao giờ một mình, vì Thiên Chúa luôn hiện diện để hướng dẫn, an ủi, và nâng đỡ chúng ta.                                                                                                                     5.  Mọi sự sẽ ổn. Sau cơn mưa, trời lại sáng.  Thiên Chúa biết rõ giới hạn của chúng ta.  Ngài biết thập giá của chúng ta nặng nề, chúng ta cần trợ giúp.  Đó là lý do Ngài ân xá cho chúng ta, chúng ta được đổi mới về sức mạnh, và chúng ta lại dễ dàng tín thác vào Ngài.  Hãy nhớ rằng cuối cùng dân Do Thái cũng vào Đất Hứa sau 40 năm dài đằng đẵng nơi hoang đại.  Và chúng ta cũng vậy.

Trong Mùa Chay này, và những lúc khác trong cuộc sống, khi chúng ta cảm thấy trống vắng hoặc khô khan, đừng tìm cách chạy trốn, mà hãy tự hỏi mình: “Thiên Chúa muốn dạy tôi điều gì trong lúc khó khăn?  Ngài muốn tôi trau dồi nhân đức nào: Tín thác, từ bỏ mình, khiêm nhường?  Ngài đang lột bỏ cái gì nơi tôi để tôi có thể bước theo Ngài sát hơn: Kiêu ngạo, ý định, ước muốn?”

Chúng ta hãy ấp ủ sự biến đổi yêu thương mà Đức Kitô muốn nơi chúng ta trong thời gian này, khi chúng ta nghĩ rằng không có gì xảy ra hoặc khi chúng ta đi về phía hư vô, vì đó là lúc chúng ta trở nên hoàn thiện nhất trên hành trình nên thánh.  Hoang địa có thể lạnh lẽo và trống vắng.  Nhưng nếu chúng ta bước đi trên cát bên Đức Kitô, nắm lấy tay Ngài, chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn và xinh đẹp hơn trước.

Amy Atkinson

Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

Vụ án Hồ Duy Hải: biểu tượng của công lý bị hiến tế

Vụ án Hồ Duy Hải: biểu tượng của công lý bị hiến tế

Tuấn Khanh
2019-01-13

(Từ trái qua: Luật sư Trần Hồng Phong, bà Loan mẹ của Hải và cô Thu Thủy)

(Từ trái qua: Luật sư Trần Hồng Phong, bà Loan mẹ của Hải và cô Thu Thủy)

 Courtesy Blogger Tuấn Khanh

Vụ án của Hồ Duy Hải đủ sức là một trong những hồ sơ về nhân quyền lớn nhất của Việt Nam, thông qua câu chuyện anh thanh niên bị vu cho tội giết người. Dù các chứng cứ dàn dựng ngu ngốc đều bị lật tẩy, các lời khai không khớp và quy trình tố tụng sai phạm toàn phần, nhưng Hải vẫn bị kêu án tử, rồi sống lay lất hoãn thi hành án trong nhà giam 11 năm nay, sau khi áp lực của công luận áp đảo.

Có quá nhiều tin tức được viết xuống, nói với nhau trong dân chúng, là Hải phải chết thay cho con cháu của một quan chức cấp cao, kẻ phạm án vẫn được sống ung dung, trong khi gia đình thì tán gia bại sản kêu oan, không ai còn có được cuộc sống bình thường. Và Hải thì luôn thức dậy mỗi sáng với bàn chân luôn phải đứng giữa lằn ranh sống và chết.

Hồ sơ về nhân quyền tại Việt Nam và quyền được sống với công lý của loài người, cũng cần có một chương về Hồ Duy Hải, để gửi lên Liên Hợp Quốc và tất cả những quốc gia trên thế giới, những nơi khinh bỉ và ghê tởm chuyện công lý bị chà đạp hay sự thật bị bóp méo.

Trong câu chuyện đầu năm với Hồ Thị Thuy Thủy (1991), em gái của Hồ Duy Hải, nghe kể mới thấy rợn người vì sự đốn mạt của ngành công an tỉnh Long An. Suốt trong nhiều năm, công an ở đó không ngừng đến gia đình để khuyên nhủ Thủy và mẹ của cô đừng kêu oan cho Hải nữa, đừng nghe lời xúi giục mà đau thương cho người thân của mình. Thủy tốt nghiệp ngành tài chính ngân hàng, hành nghề kế toán, sau đó làm việc ở bệnh viện Thủ Thừa, Long An. Rồi cùng mẹ vác đơn đi kêu oan cho Hải nên bị CA là áp lực với chỗ làm khiến cô phải thôi việc vào đầu năm 2015.

Tuấn Khanh: Suốt trong năm vừa rồi, gia đình Thủy đã làm thêm được những gì cho Hải?

Thu Thuỷ: Dạ, gia đình em chỉ nghe ngóng tin tức xem ở Hà Nội có hội họp hay đợt xét nào đó là chạy ra ngoài đó để nộp đơn, xin cứu xét trường hợp anh Hải. Mẹ em ngồi ở nhà cũng không yên vì không biết là đơn từ của mình gửi có đến tay người ta hay không nên gom được chút tiền nào là đi giờ đó liền.

Tuấn Khanh: Lần thăm gặp gần đây nhất thì gia đình thấy Hải ra sao? Việc thăm gặp có dễ dàng không?

Thu Thuỷ: Lần thăm gặp gần đây nhất là 14 tháng 12 năm 2018. Mỗi lần đi theo mẹ vào thăm anh Hải thì em phải đều phải làm đơn, rồi làm bản cam kết. Em phải ghi là chấp nhận không được đưa thông tin gì bên ngoài cho anh Hải. Chỉ được hỏi về sức khỏe và chuyện trong nhà thôi. Thông tin bên ngoài là tiến triển vụ án ra sao, luật sư đang làm gì hay mẹ ra ngoài Hà Nội nộp đơn, kêu oan như thế nào thì không được kể cho anh Hải biết.

Tuấn Khanh: Tại sao? Đó là quyền và việc của Hải thì tại sao Hải lại không được biết?

Thu Thuỷ: Dạ, họ o ép gia đình, và họ cũng muốn bưng bít thông tin bên ngoài để anh Hải không được biết gì hết. Nhưng thỉnh thoảng có lúc cần quá thì ở nhà cũng tìm cách nói. Dĩ nhiên mỗi lần nhắc vậy thì đều bị cán bộ đứng gác nhắc nhở và hăm là nếu nói nữa thì chuyến sau sẽ không được gặp mặt Hải nữa. Còn nếu không, gia đình đã nói ra rồi thì khi trở vào trại, anh Hải sẽ bị làm khó làm dễ.

Tuấn Khanh: Nhưng tinh thần của Hải thì sao?

Anh Hải sức khỏe thì có nhưng tiều tụy. Nhìn mặt thì biết là tinh thần luôn bị áp lực. Anh Hải thì không dám nói ra nhưng mình nhìn thì mình biết. Khi gia đình hỏi thăm thì anh Hải gật, nói có hết nhưng nhìn vẻ mặt thì mình biết là không phải vậy. – Thu Thuỷ

Thu Thuỷ: Anh Hải sức khỏe thì có nhưng tiều tụy. Nhìn mặt thì biết là tinh thần luôn bị áp lực. Anh Hải thì không dám nói ra nhưng mình nhìn thì mình biết. Khi gia đình hỏi thăm thì anh Hải gật, nói có hết nhưng nhìn vẻ mặt thì mình biết là không phải vậy. Có cán bộ ở đó thì ảnh không dám nói gì hết. Hiện mỗi tháng được gửi đồ thăm nuôi 1 lần và một lần mang đồ thăm nuôi vào gặp mặt.

Tuấn Khanh: Hiện luật sư đang lo vụ án của Hồ Duy Hải là ai?

Thu Thuỷ: Luật sư Trần Hồng Phong là người lo mọi thứ về pháp lý. Nhưng ông không nhận tiền thù lao. Khi ký hợp đồng ban đầu xong thì ông coi gia đình như người thân và giúp mọi thứ. Ông có nói thấy gia đình khó khăn quá nên quyết định hỗ trợ miễn phí cho gia đình. Ông nhiệt tình lắm, nhờ đủ các nơi thăm hỏi tình hình của anh Hải và tự mình viết bài. Cứ có chút gì là ông gọi báo cho gia đình biết để mình đừng tuyệt vọng.

Tuấn Khanh: Từ lúc khi báo chí cũng như giới luật sư đã phản bác quy trình tố tụng và bản án, dẫn đến việc quốc hội phải lên tiếng khiến Hải được hoãn thi hành án tới nay, thì mọi thứ đã có biến chuyển gì mới không?

Thu Thuỷ: Dạ phía công an vẫn im lặng anh à. Gần nhất chỉ có một chuyện bất thường – mà em cũng gọi cho luật sư để nói cho ông biết – là có một phái đoàn thi hành án từ Hà Nội vào (29/3/2108) và yêu cầu đóng án phí và kiểm tra xem Hồ Huy Hải có tài sản gì không. Gia đình em ngạc nhiên và hỏi đi tìm điều này để làm gì nhưng họ không giải thích và nói là chỉ thi hành lệnh của cấp trên mà thôi.

Gia đình bàn bạc với nhau, và cảm thấy chuyện này không bình thường. Dì Rưỡi của em nói nếu đóng án phí, tức chấp nhận bản án tử hình đã kêu của Hải, nên gia đình bác bỏ chuyện này dù mức đóng án phí chỉ hơn triệu đồng. Nhưng không hiểu sao họ đi từ ngoài Hà Nội vào để nài nỉ mình đóng mức án phí nhỏ như vậy, rồi còn nói rằng gia đình đừng lo, nếu mai mốt không có tội thì sẽ được trả tiền án phí lại.

Mọi người trong gia đình ai cũng thấy chuyện này có gì mờ ám, và chất vấn họ ngược lại. Nhưng xông xáo khuyên gia đình đóng tiền án phí như thế nào thì họ cũng lãng tránh và đổ mọi thứ về phía trung ương nhanh không khác gì. Rõ ràng họ muốn mớm gia đình làm những điều họ muốn, cho một mục đích nào đó, hơn là quan tâm đến vấn đề công bằng, công lý của anh Hải.

Tuấn Khanh: Phía công an địa phương còn làm khó dễ gia đình như lúc trước không?

Dạ vào thời điểm cấm thăm gặp (2015) thì công an họ làm ghê lắm.  Nhưng sau này, nhờ có công luận nên họ bớt lại. Phần lớn là họ tìm gặp gia đình khuyên răn là đừng nghe lời xúi giục mà đi kêu oan, đừng phản đối… giờ thì không đến thường xuyên như trước nữa. Nhưng phía hàng xóm láng giềng, người quen biết thì họ hiểu và thương gia đình, thương anh Hải nhưng cũng rất ngại công an đến làm phiền. Còn những nhân chứng quan trọng, có lợi cho anh Hải, thì công an đến cấm không được nói chuyện vụ án với ai, không được cung cấp thông tin, không được trả lời báo chí, kể cả luật sư của anh Hải. Ngay lúc này anh có gọi điện thoại cho họ, thì họ cũng sẽ không dám nói gì và sẽ nói thẳng là công an cấm không cho nói gì hết.

Tuấn Khanh: Vậy thì trường hợp anh Hải, chỉ có thể là gửi đơn kêu oan, chờ đợi chứ không thể làm gì khác?

Thu Thuỷ: Dạ, công việc bao năm qua chỉ chủ yếu là gửi đơn. Mỗi tháng gia đình đều gửi, có tin gì thì gửi thêm. Mẹ ra Hà Nội thì cầm đơn ra gửi tận nơi thêm vô nữa. Không một lần nào gia đình bỏ lỡ, kể cả được phép thăm anh Hải thì khó khăn thế nào gia đình cũng đi, không bao giờ em và mẹ hết hy vọng về việc kêu oan cho anh Hải.

———————-

(Phiếu xác nhận chuyển phát bảo đảm đơn kêu oan của Hồ Duy Hải trong năm 2018).
(Phiếu xác nhận chuyển phát bảo đảm đơn kêu oan của Hồ Duy Hải trong năm 2018). Courtesy: Blogger Tuấn Khanh

Tham Khảo Thêm:

———————-

Nhật ký thăm nuôi tử tù Hồ Duy Hải

NỘI QUY THĂM GẶP: Trước khi kể lại chi tiết, Tôi xin nói sơ qua Nội quy Thăm gặp của Trại tạm giam Tỉnh Long An. Một tháng thân nhân được gửi quà 2 lần vào Ngày 15 và 30. Gặp mặt 1 lần vào ngày 15. Tôi nói vậy để mọi người dễ hiểu, nếu trùng vào ngày Thứ 7 và Chủ nhật thì dời lại vào ngày Thứ 6. ( Nội quy chung) Còn riêng đối với tử tù, Ngày gặp mặt thì lại dời trước 1 ngày thăm nuôi ( tức là vào Ngày 14). Tuỳ gia đình mỗi người sắp xếp đi thăm gặp vào Buổi sáng hoặc Buổi chiều.

Tôi thắc mắc hỏi và được giải thích như sau:” chia ra như vậy cho đỡ đông người và gia đình không phải chờ lâu.” ( Sau ngày hoãn thi hành án đến nay) Đối với gia đình Tôi thì đúng 8h sáng sẽ có mặt tại Trại tạm giam để vào làm thủ tục thăm gặp. Vào Cổng phải trình Chứng minh nhân dân, tiếp đến vào phòng tiếp dân duyệt giấy tờ thăm gặp Gồm: 1. Đơn xin thăm gặp người bị tạm giữ, tạm giam 2. Phiếu gửi quà 3. Bảng cam kết ( Chỉ riêng gia đình Hồ Duy Hải mới làm giấy này)

BẢNG CAM KẾT: Bảng cam kết là do gia đình viết theo yêu cầu từ phía Trại giam. Nội dung: “Tôi sẽ thực hiện đúng Nội quy Trại tạm giam quy định” Tức là hai bên chỉ được hỏi thăm sức khoẻ của nhau và gia đình. Ngoài ra, không được nói gì liên quan đến vụ án và những việc xảy ra bên ngoài. Nếu vi phạm sẽ không được thăm gặp nữa! III. CHI TIẾT CUỘC GẶP MẶT: Bây giờ, Tôi xin được kể chi tiết vụ việc từ khoảng thời gian 2 năm trở lại đây. Thời gian và địa điểm Tôi đã nêu ở phần trên. Sau khi, Giám thị trại giam kiểm tra giấy tờ đầy đủ và đúng quy định thân nhân sẽ được vào gặp.

Hồ Duy Hải trước tòa (trên) và bà Nguyễn Thị Loan mẹ của tử tù Hồ Duy Hải (hình phía dưới).
Hồ Duy Hải trước tòa (trên) và bà Nguyễn Thị Loan mẹ của tử tù Hồ Duy Hải (hình phía dưới). Courtesy Facebook

Ở đây Tôi xin nói rõ luôn là Tôi: HỒ THỊ THU THUỶ và Mẹ của Tôi là Bà: NGUYỄN THỊ LOAN ( Em gái ruột và Mẹ ruột của HỒ DUY HẢI). Tất cả các thiết bị như: Điện thoại, máy quay phim, máy ghi âm,… đều phải bỏ vào tủ gửi đồ bên ngoài, rồi mới được đi vào Khu thăm gặp tử tù ( KHU VỰC HỎI CUNG). Phòng thăm gặp chia ra làm hai: từ cửa bước vào là bàn dài và ghế cho thân nhân ngồi. Còn phía sau là ghế hàn bằng sắt cho tử tù ngồi. Được ngăn ra bởi 1 xông sắt chỉ được nhìn nhau và nói chuyện. Họ sắp xếp chỗ ngồi cho Tôi và Mẹ Tôi ổn định sau đó mới dẫn Hồ Duy Hải ra.

Chúng Tôi có được hơn 30’ để nói chuyện với nhau. Từ xa tiến đến phòng thăm gặp Anh Hải nhìn thấy Tôi và Mẹ thì rất vui. Những lần Mẹ Tôi đi Hà Nội kêu oan thì lại khác, Anh Hải rất buồn vì không được gặp Mẹ. ( Thông thường những lúc vắng Mẹ tôi là bên ngoài gặp những tin xấu nhất, Mẹ Tôi phải gấp rút phản bác lại ) Hai chân của Anh bị cùm lại nhìn rất xót xa nhưng Tôi và Mẹ phải cố giấu đi cảm xúc vì sợ Anh Hải buồn. (Xin nói thêm những năm đầu bị giam giữ, họ cồng luôn hai tay của Anh Hải). Về sức khoẻ của Anh Hải thì Tôi tạm cho là khoẻ, người Anh gầy gò và xanh xao.

Chúng Tôi bắt đầu cuộc trò chuyện với sự giám sát của 4-5 người. Phía sau Tôi và Mẹ 3 người, phía sau Anh Hải 2 người. Họ chăm chú lắng nghe rất kỹ nếu có nói gì đến việc “ KÊU OAN” thì họ nhắc nhở ngay. Nếu nói thêm nữa có thể cuộc trò chuyện sẽ bị chấm dứt ngay và bị đuổi ra ngoài. Chúng Tôi cố gắng đưa thông tin vào cho Anh Hải vững tin vì trong đó họ bưng bít mọi thông tin. Anh Hải muốn nói gì cũng phải nhìn sắc mặt của cán bộ trại giam rồi mới dám nói. Những phút đầu Chúng Tôi hỏi thăm về sức khoẻ, công việc của nhau. Anh Hải thì hỏi thăm và gửi lời thăm từng người trong gia đình và họ hàng.

Đặc biệt, những Ngày Tết thì Anh Hải gửi lời Chúc Tết đến Quý Luật sư đã luôn giúp đỡ Anh về mặt pháp lý. Tiếp đến, Tôi và Mẹ động viên Anh Hải cố gắng giữ gìn sức khoẻ và ăn uống đừng lo nghĩ gì nhiều vì bên ngoài đã có Tôi và Mẹ lo cho Anh! Vụ việc của Con giờ không chỉ trong nước mà lan rộng ra đến Quốc tế đều biết! Muốn Anh Hải lạc quan và yên tâm hơn tránh bị tác động tâm lý xấu! Việc quan trọng nhất mà Mẹ Tôi luôn đề cập đến là việc “KÊU OAN” cho Anh Hải. Lần nào vào Mẹ Tôi cũng nói mặc dù đã bị họ nhắc nhở lớn tiếng. “Anh Hải nói Mẹ ráng kêu oan cho Con nhanh nhanh nha Mẹ để Con còn về nhà nữa, Sau lâu quá vậy.” Mẹ Tôi chỉ đáp lại một câu: “ Ráng nha con Chủ Tịch Nước bận nhiều việc từ từ họ sẽ giải quyết cho Con mau về!” “Anh Hải nói tiếp sao không đến nhà riêng của Ông cho nhanh!” (Chúng Tôi chỉ biết lặng im trong lúc này…không lẽ nói thẳng ra là họ VÔ CẢM. Hàng ngàn lá đơn, thư và sự kêu gào đến thảm khóc của Mẹ Tôi mà họ có thèm đoái hoài gì đến đâu.)

Quay lại một chút những lúc Tôi một mình vào thăm gặp Anh. Tôi nói Mẹ ra Hà Nội kêu oan cho Anh rồi. Trong này họ có bắt Anh ký giấy tờ gì không? Rồi có ai vào gặp Anh nữa không? Có ăn gì nhớ ngửi trước nếu có mùi lạ thì đừng ăn sợ bị đầu độc? Có gì không biết thì Anh phải nói gia đình hỏi ý kiến Luật sư nha, đừng để bị họ gạt?

Cứ thế thời gian trôi qua hết giờ thăm gặp, Tôi và Mẹ Tôi bịn rịn xin được ôm Anh họ không cho. Chỉ cho nắm và hôn lén lên bàn tay Anh. Chúng Tôi ra về còn Anh ở lại, Tôi luôn mong ước Anh được về cùng Tôi và Mẹ. Bước ra và ngoái đầu lại Anh Tôi cũng khóc vì sợ Tôi và Mẹ buồn Anh cũng cố che đi những cảm xúc của mình!

(Thu Thuỷ ghi)

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

httpv://www.youtube.com/watch?v=gDYVUAbAg7A

Mẹ tử tù Hồ Duy Hải một mình sang Thái Lan kêu oan cho con

“Phật giáo Việt Nam đã đến hồi mạt pháp”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét vụ chùa Ba Vàng báo hiệu một chương rất đen tối của lịch sử Phật Giáo Việt Nam:

“Chính những người trong những ngôi chùa như vậy kết hợp với những quan chức cấp tỉnh và kết hợp với những đại gia lợi dụng sự yếu đuối, sự, mê lầm đó của dân chúng để họ trục lợi. Họ quyết liệt phải trục lợi bằng được.

Vì vậy cho nên là nó mới xuất hiện những cái chùa như Bái Đính, Tam Chúc, Phúc Khánh hay Ba Vàng như vậy. Tôi cho rằng đây đã đến hồi mạt pháp của Phật giáo Việt Nam và khó có thể chấn hưng lại.”

About this website

RFA.ORG
“Qua hiện tượng chùa Ba Vàng và một số chùa khác thì tôi thấy là đạo Phật của Việt Nam đang đến hồi mạt pháp và làm rối loạn tâm linh, rối loạn lòng người và báo hiệu một chương rất đen tối của lịch sử Phật Giáo Việt Nam…”

Trump ký lệnh buộc đại học phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận của sinh viên

Trump ký lệnh buộc đại học phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận của sinh viên.

Các trường đại học công: Phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận của sinh viên thì mới được nhận tài trợ.

Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm 21/3 ký sắc lệnh hành chính đặt điều kiện cho các trường đại học công phải bảo đảm quyền tự do ngôn luận của sinh viên thì mới được nhận tài trợ từ các nguồn quỹ liên bang.

Theo sắc lệnh, các trường phải tự xác minh xem họ có bảo vệ tốt quyền tự do ngôn luận của sinh viên hay chưa, vốn là quyền được bảo đảm trong Tu chính án thứ nhất của Hiến pháp Mỹ.

Sắc lệnh yêu cầu các trường phải bảo đảm cho phép học sinh được bày tỏ quan điểm một cách tự do, có như vậy trường mới nhận được nguồn quỹ từ 12 cơ quan liên bang tài trợ cho các đại học và cao đẳng.

Các trường đại học công ở Mỹ nhận hàng tỷ đô la từ chính phủ liên bang mỗi năm, kể cả hơn 30 tỷ đô dành cho nghiên cứu.

“Các đại học muốn có tiền của dân thọ thuế thì phải bảo vệ chứ không được bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận,” Tổng thống Trump nói.

Các trường tư sẽ tiếp tục theo chính sách riêng của mình và sắc lệnh mới ký không ảnh hưởng tới các chương trình hỗ trợ học phí cho sinh viên.

Nguồn: BBC
https://www.voatiengviet.com/a/trump-ky-lenh-b…/4841877.html

ĐIÊN CUỒNG BẢO VỆ CÁI ÁC

ĐIÊN CUỒNG BẢO VỆ CÁI ÁC

Tham khảo:

– https://www.tienphong.vn/xa-hoi/vu-hang-loat-tre-nhiem-san-lon-ai-dat-moi-nha-cung-cap-thuc-pham-huong-thanh-1390281.tpo
– https://suckhoedoisong.vn/benh-san-day-lon-lon-gao-va-cac-bien-phap-phong-benh-n150467.html
– https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh_%E1%BA%A5u_tr%C3%B9ng_s%C3%A1n_l%E1%BB%A3n
– http://soha.vn/noi-cung-cap-thuc-pham-cho-cong-ty-nghi-dua-thit-lon-ban-vao-truong-hoc-o-bac-ninh-2019031817470671.htm
– http://www.sggp.org.vn/vu-nhieu-tre-nhiem-san-heo-bi-thu-bac-ninh-noi-khong-bat-thuong-chuyen-gia-bao-nguoc-lai-581907.html
– https://www.dkn.tv/trong-nuoc/hop-bao-vu-tre-nhiem-san-o-bac-ninh-nguoi-duong-tinh-voi-au-trung-san-lon-chua-phai-dieu-tri.html

PHỤ NỮ NGU NGỐC VÀ PHỤ NỮ THÔNG MINH

PHỤ NỮ NGU NGỐC VÀ PHỤ NỮ THÔNG MINH

  1. Phụ nữ ngu ngốc chăm chăm vào khuyết điểm của đàn ông.
    Phụ nữ thông minh tán thưởng ưu điểm của đàn ông.
  2. Phụ nữ ngu ngốc cãi nhau với đàn ông mọi lúc mọi nơi, khiến cho đàn ông mất mặt.
    Phụ nữ thông minh giữ thể diện cho đàn ông trước mặt người ngoài.
  3. Phụ nữ ngu ngốc không ngừng bới móc quá khứ.
    Phụ nữ thông minh cùng đàn ông tạo dựng tương lai.

4.Phụ nữ ngu ngốc hạ thấp đàn ông. Cô ta quên rằng hạ thấp đàn ông cũng chính là hạ thấp bản thân.
Phụ nữ thông minh tán thưởng đàn ông. Cô ta hiểu rằng tán thưởng đàn ông cũng chính là tán thưởng bản thân.

  1. Phụ nữ ngu ngốc tự cho mình nhìn thấy bản chất đàn ông.
    Phụ nữ thông minh sẵn lòng thông cảm tha thứ cho đàn ông.
  2. Phụ nữ ngu ngốc sẽ nói: “Anh cút đi”!
    Phụ nữ thông minh sẽ nói: “Anh không được phép rời bỏ em”!
  3. Phụ nữ ngu ngốc xem đàn ông như cung tên, kéo càng căng, mũi tên bay càng xa.
    Phụ nữ thông minh xem đàn ông như cánh diều, thong thả giữ lấy dây diều trong tay.
  4. Phụ nữ ngu ngốc quá đề cao cái tôi của mình.
    Phụ nữ thông minh khôn khéo gửi gắm và dựa dẫm.
  5. Phụ nữ ngu ngốc không rời đàn ông nửa bước.
    Phụ nữ thông minh hiểu được lúc gần lúc xa.
  6. Phụ nữ ngu ngốc chỉ biết giặt giũ nấu ăn, nhưng quên mất làm đẹp bản thân.
    Phụ nữ thông minh cũng biết giặt giũ nấu ăn, nhưng không quên làm đẹp bản thân.
  7. Phụ nữ ngu ngốc mang đến cho đàn ông áp lực và kìm nén.
    Phụ nữ thông minh đem đến cho đàn ông động lực và hứng thú.
  8. Phụ nữ ngu ngốc khiến đàn ông thất bại trong những giọt nước mắt của cô ta.
    Phụ nữ thông minh khiến đàn ông thành công trong nụ cười rạng rỡ của cô ta.
  9. Phụ nữ ngu ngốc đả kích đàn ông.
    Phụ nữ thông minh cổ vũ đàn ông.
  10. Phụ nữ ngu ngốc là luôn thể hiện mình thông minh trước đàn ông.
    Phụ nữ thông minh nhiều khi biết giấu đi sự thông minh trước đàn ông.
  11. Phụ nữ ngu ngốc đọc xong và bĩu môi.
    Phụ nữ thông minh đọc xong mỉm cười và like.                                                     Minh Hà                                                                                                                          From Truong Le

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nổ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nổ

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

13/03/2019

Thế sự xác rồi còn đốt pháo 

Tú Xương

Nhà văn Bá Dương có cái tật xấu là hay viết những điều không tốt lành gì mấy về đồng bào mình: “Nói đến ồn ào, cái mồm người Trung Quốc thì to không ai bì kịp.”

Nhận định tiêu cực này được rất nhiều người, nhất là người Việt, nhiệt liệt tán đồng. Tác phẩm Người Trung Quốc Xấu Xí của ông được dịch giả Nguyễn Hồi Thủ chuyển sang Việt ngữ, và bán chạy như tôm tươi.

Trong số độc giả ái mộ Bá Dương, tôi đoán, chắc phải có nhà báo Ngô Nhân Dụng – tác giả của đoạn văn sau:

“ Ở Việt Nam bây giờ, trong quán có mấy người cao hứng nói lớn tiếng, tranh nhau nói lấy được, không ai nhường ai, át giọng tất cả mọi người. Lúc đó, chỉ cần một người can ngăn: ‘Ông ơi, đừng nói lớn quá! Người ta tưởng bọn mình người Trung Quốc!’ Nhắc nhở vậy đủ rồi! Người đang cười nói oang oang bỗng đỏ mặt, cái miệng tự đạp thắng, hạ thấp tần số vừa đủ nghe!”

Nói nào ngay thì chả riêng gì Ngô Nhân Dụng mà chính tôi cũng thế, cũng nghĩ về người Trung Hoa với ít nhiều méo mó cùng ác cảm. Thành kiến này, của riêng tôi,  chỉ vừa mới “sụp đổ” hôm qua.

Chính xác hơn là đêm qua, sau một chuyến xe đò đường dài – từ Kuala Lumpur đến Singapore – tôi mệt rã rời nên lấy phòng khách sạn xong là lăn ra ngủ say như chết. Mở mắt dậy thì đã khuya, bụng đói, tôi lò dò vào một tiệm ăn đèn đuốc vẫn còn sáng trưng. Vừa ngồi xuống ghế, đã thấy ngay bên cạnh mình là hình một tô hoành thánh mì, cùng dòng chữ song ngữ (Please Keep The Volume Down While Eating After 10:30 PMdán ngay trên tường.

Ảnh chụp 2019

Thảo nào mà quán đông nhưng không ồn. Hoá ra không phải lúc nào người Tầu cũng tía lia và um xùm như thiên hạ vẫn tưởng. Có nơi, và có lúc, họ cũng ăn nói nhỏ nhẹ bình thường như đa phần nhân loại. Dân Việt Nam thì xem chừng hơi khác, nhất là cái dàn lãnh đạo của đất nước này. Họ nổ long trời, và nổ đều đều – ở khắp mọi nơi – trong mọi tình huống (bất kể giờ giấc) khiến cả thế giới đều bị … ù tai:

  • Nguyễn Phú Trọng: “Nhìn tổng quát, đất nước có bao giờ được như thế này không?”
  • Nguyễn Thị Kim Ngân: “Đất nước này được như thế này, ngẩng mặt lên nhìn với bạn bè năm châu bốn biển như thế này, vai trò vị thế như thế này đó là do chúng ta duy trì được sự ổn định chính trị và trật tự an toàn trong cả nước.”
  • Nguyễn Xuân Phúc: “Đã đến lúc phải đi ra chinh phục thế giới, mang thế giới về Việt Nam.
  • Nguyễn Mạnh Tiến: “Người bán trà đá tại Việt Nam có tỷ suất lợi nhuận cao nhất thế giới.”
  • Nguyễn Thành Phong: “Đủ cơ sở để thành phố Hồ Chí Minh vào top 10 thành phố đẳng cấp của thế giới.”
  • Nguyễn Mạnh Hùng: “Việt Nam có thể đi đầu cách mạng công nghiệp 4.0”
  • Nguyễn Xuân Thắng: “Việt Nam giúp Đức ‘tìm lại những mặt ưu việt’ của CNXH hiện thực trước đây”

Thực là một tấc đến Giời. Mà đó là mới điểm sơ vài vị họ Nguyễn thôi, chớ gộp chung bá tính lại thì chắc mệt chết luôn. Giấy mực đâu ra mà ghi cho hết. Giới lãnh đạo đã lớn họng rồi mà đám truyền thông còn chuyên việc “khuếch âm” nữa nên khó tránh được những vụ nổ chát chúa (“vượt bức tường âm thanh”) như vừa xẩy ra ở báo Thanh Niên:

Việt Nam Trung Tâm Hoà Giải Quốc Tế.”

Nổ tới cỡ đó thì có lẽ ngay cả đến Chúa/Phật cũng phải nổi khùng, chớ đừng nói chi tới đám facebookers:

  • Ngô Thanh Tú: “Trung tâm hoà giải quốc tế con mẹ gì, toàn là lũ thủ dâm tinh thần thôi.”
  • Ngô Nhật Đăng: “Bệnh đã đến giai đoạn bốc mùi xú uế nồng nặc. Mỗi việc phải hòa giải với nhân dân mà bao nhiểu năm đảng chưa làm được.”
  • Vĩnh San: “Chắc chắn TP Hồ Chí Minh sẽ có giải Nobel Y học nếu như có ai đó chữa khỏi bệnh ‘nổ’ cho các bác lãnh đạo.”
  • Nguyễn Văn Đài: “Đây là chứng ‘hoang tưởng tự cao.’

Tôi vô cùng tiếc là không thể đồng tình với quan điểm của các vị thức giả thượng dẫn. Theo tôi thì đám lãnh đạo CSVN chả có ai bị bệnh tật hoang tưởng gì ráo trọi. Tất cả đều “nổ” như nhau, theo đúng truyền thống và phương châm chỉ đạo (“mồm miệng đỡ chân tay”) thôi.

Cha đẻ của chế độ hiện hành, Hồ Chí Minh, là kẻ đã khai hoả cho những phát nổ đầu tiên:

Sau khi “thắng giặc Mỹ,” Lê Duẩn nổ tiếp:

Rồi khi Lê Duẩn đã dẫn dắt “nhân dân đi trên thảm vàng” để vào ngõ cụt. Tuy thế, kẻ kế vị – Trường Chinh – vẫn không hề nao núng và vẫn lớn tiếng như thường: “Đảng ta phải cứu lấy giai cấp công nhân.”

Trường Chinh qua đời năm 1988. Hơn ba mươi năm sau, vào ngày 27 tháng 2 năm 2019, Tổ Chức Liên Kết Oxfam ái ngại cho biết: “Tại Việt Nam hiện nay, có tới 99% công nhân may không được trả lương đủ sống căn cứ trên mức sàn lương châu Á và 74% không được trả lương đủ sống căn cứ trên mức sàn của Liên minh lương đủ sống toàn cầu.”

Blogger Trân Văn nhận xét: “Kết quả cuộc khảo sát vừa kể thật ra không mới. Tình trạng công nhân lao động cật lực nhưng càng ngày càng nghèo khổ, sống triền miên trong cảnh thiếu trước hụt sau, cả tinh thần lẫn sức khỏe cùng suy sụp sau một thời gian ngắn tham gia ‘giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam’ đã kéo dài vài thập niên.”

Dù vậy – “vài thập niên” qua – các đồng chí lãnh đạo vẫn cứ thay nhau nổ ròn rã, nổ đều đều, và nổ tỉnh queo hà:

  • Nguyễn Minh Triết: “Ngày nay, chúng ta ngẩng cao đầu, sánh vai cùng cường quốc…”
  • Trương Tấn Sang:“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của gần 30 năm đổi mới mà nhân dân ta đạt được khiến chúng ta hãnh diện và tự hào, bạn bè quốc tế ngưỡng mộ.”

Ảnh lấy từ FB Thanh Pham

Nói như rồng leo, làm như mèo mửa. Mồm miệng đỡ chân tay vốn là truyền thống lâu đời của chế độ hiện hành. Từ năm 1951, tại Đại Hội II, điều lệ của đảng đã ghi: “Tư tưởng Mao Trạch Đông là kim chỉ nam’ của đảng.” Bởi thế, đường lối/ chính sách (Cải Cách Ruộng Đất, Chỉnh Đốn Tổ Chức, Tam Phản, Rèn Cán Chỉnh Quân, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Hợp Tác Xã Công Nông, Phát Động Chiến Tranh Giải Phóng Miền Nam …)  đều do bác Mao chỉ đạo. Bác Hồ chỉ có mỗi việc là sáng tác thơ để minh họa và để … nổ chơi thôi: Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”

Bác Duẩn – xem ra – có vẻ độc lập và độc đáo hơn chút xíu. Ông lập thuyết (Làm Chủ Tập Thể) đàng hoàng nhưng xem chừng không được hưởng ứng và tin tưởng gì cho lắm: Riêng còn chẳng có có gì chung!

Chỉ có Bác Chinh là nổi bật về trình độ học vấn và khả năng sáng tạo. Tạp Chí Cộng Sảnmô tả ông là “nhà thiết kế đường lối đổi mới của Đảng ta.”

Bộ thiệt vậy sao?

Thiệt ra, thằng chả không có “thiết kế” cái con bà gì ráo mà chỉ ở vào tình thế bắt buộc phải lựa chọn một thế cờ (“đổi mới hay là chết”) do nhân dân đã sắp sẵn rồi.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhận xét hoàn toàn chính xác là về “khoa ăn nói” của giới lãnh đạo CSVN: “Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như ‘dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…’

Cứ “xoay quanh các khẩu hiệu” như thế mãi thiệt là ớn chè đậu nên lâu lâu “các anh ở trên” phải nổ một phát để … kích thích lòng dân. Cũng chỉ là một chiêu “mồm miệng đỡ tay chân” thôi. Tưởng cũng không có gì đáng để bận tâm hay rầm rĩ quá!

Việt Nam xếp thứ 2 thế giới về xin visa đầu tư EB-5 tại Mỹ

Trí thức Việt Nam

Tính đến hết năm 2018, Việt Nam đã trở thành quốc gia đứng thứ 2 thế giới xin visa đầu tư EB-5 tại Mỹ, chỉ sau Trung Quốc.

(Ảnh: Shutterstock.)

Theo thống kê của Sở Di trú Hoa Kỳ, số công dân Việt Nam được cấp visa nhập cảnh Hoa Kỳ theo diện EB-5 năm 2018 lên tới 693 người, tăng 47% so với con số 471 năm 2017, xếp thứ 2 thế giới chỉ sau Trung Quốc.

Tính trong tổng số visa nhập cảnh được chính phủ Hoa Kỳ cấp theo diện EB-5, năm 2014, số visa của người Việt Nam chỉ chiếm khoảng hơn 1%.  Con số này đã tăng lên hơn 7% vào năm 2018.

Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Việt Nam là một trong mười quốc gia thuộc Châu Á – Thái Bình Dương dẫn đầu về số lượng người xin di dân. Tính trung bình, mỗi năm có khoảng hơn 100.000 người Việt Nam di cư ra nước ngoài.

Điều đáng nói là kèm theo dòng người di cư chính là dòng vốn đi theo. Tờ Wall Street Journal dẫn thống kê của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho biết hiện có khoảng 20% tổng trị giá đầu tư theo diện EB-5 trong lĩnh vực bất động sản là của người Việt Nam, xếp thứ ba sau Trung Quốc 30% và Ấn Độ 25%.

Năm 2017 người Việt đứng thứ 6 trong top 10 nước hàng đầu có công dân mua nhà ở Mỹ. Người Việt đã chi khoảng 3,06 tỷ USD để mua nhà tại Mỹ. Con số này ngang ngửa với các nước như Đức hay Nhật Bản, chiếm khoảng 2% trên tổng số các quốc gia đầu tư vào bất động sản Mỹ. Đó là chưa tính đến khoản đầu tư vào các quốc gia khác như Canada, Úc, Anh, Hàn Quốc,… Khoản tiền chi trả hàng năm cho các du học sinh người Việt cũng lên đến vài tỷ USD.

EB-5 là chương trình đầu tư định cư thuộc chính phủ Mỹ từ năm 1990 dành cho chính sách người nhập cư muốn sở hữu thẻ xanh Mỹ. Theo chương trình này, thẻ xanh có thể được cấp cho các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp thương mại tại Mỹ, tạo ít nhất 10 việc làm cho công dân Mỹ. Có hai mức đầu tư là 1 triệu USD theo quy định thông thường hoặc 500.000 USD trong trường hợp thành lập doanh nghiệp tại khu vực nông thôn hay khu vực có tỷ lệ thất nghiệp cao ở Mỹ.

(Nhấp vào hình để phóng lớn)

Tờ Wall Street Journal mới đây đăng bài viết trong đó nhấn mạnh việc chương trình xin visa đầu tư EB-5 đặc biệt thu hút các gia đình giàu có ở Việt Nam. Nhiều người có mong muốn nhập cư Mỹ để con cái có tương lai tươi sáng hơn, trong bối cảnh quan liêu tham nhũng ngày càng gia tăng ở Việt Nam, trong khi chương trình giáo dục y tế bị đánh giá là kém hiệu quả và lạc hậu; ô nhiễm môi trường cũng đang ở mức đáng báo động, đặc biệt ở các thành phố lớn…

Thay vì đầu tư trong nước, nhiều người đã bán lại doanh nghiệp trong nước, dùng tiền vốn đầu tư ra nước ngoài; nhiều gia đình cũng sẵn sàng chi trả hàng trăm nghìn USD cho con đi du học, và kết quả là không có nhiều du học sinh sau khi tốt nghiệp muốn về nước. Như nhiều chuyên gia quan ngại, vấn nạn này đặt ra nhiều thách thức cho nền kinh tế Việt Nam trước sự chuyển dịch sắc xanh (ngoại tệ) và sắc xám (trí thức trẻ).

Nan đề này cũng không khỏi khiến dư luận nhớ đến việc hàng loạt “đại gia” lần lượt thoái vốn khỏi các doanh nghiệp lớn thời gian qua ở Việt Nam, bất chấp doanh nghiệp đó làm ăn lỗ hay lãi. Có thể kể đến câu chuyện gia đình ông Nguyễn Đức Kiên (“bầu Kiên”) đồng loạt thoái vốn khỏi VietBank; CTCP Chứng khoán Bản Việt (VCI) do bà Nguyễn Thanh Phượng làm Chủ tịch HĐQT đã bán hết 2,5 triệu cổ phiếu Savime (SAV); bà Hồ Thị Kim Thoa bán gần hết cổ phiếu 1,4 triệu cổ phiếu DQC và không còn là cổ đông lớn của Điện Quang; hay việc ông Lê Văn Vọng, cổ đông nắm giữ 60% cổ phần của Công ty CP Lã Vọng Group tiến hành thoái toàn bộ vốn tại doanh nghiệp này với lý do cá nhân.

Hoàng Giang

Blogger Trương Duy Nhất bị giam ở Hà Nội, sau 2 tháng mất tích

 

 Blogger Trương Duy Nhất bị giam ở Hà Nội, sau 2 tháng mất tích

Blogger, nhà báo Trương Duy Nhất trong lần ra tòa tại Đà Nẵng hồi Hồi Tháng Ba năm 2014. (Hình: Getty Images)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sau hai tháng mất tích, gia đình của blogger Trương Duy Nhất bất ngờ nhận được thông tin ông đang bị giam tại trại giam T16 ở quận Thanh Oai, thành phố Hà Nội.

Trang BBC Việt ngữ hôm Thứ Tư, 20 Tháng Ba dẫn lời con gái ông Nhất, cô Trương Thục Đoan, cho hay vào ngày 15 Tháng Ba, có người ẩn danh gọi cho mẹ cô ở Việt Nam thông báo là ba cô đang bị giam ở trại giam T16.

Trong cùng ngày 20 Tháng Ba, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên ở Hà Nội cho biết trên trang facebook cá nhân rằng vợ ông Nhất (bà Cao Thị Xuân Phượng) đã bay từ Đà Nẵng ra Hà Nội và ông đã chở vợ ông Nhất đến trại giam T16 ở Thanh Oai, Hà Nội.

Ông Nguyên nói rằng trại giam T16 chưa cho gặp nhưng đã cho tiếp tế. Vợ ông Nhất mang nhiều thức ăn và quần áo cho chồng nhưng quy định của trại giam chỉ cho đưa vào rất ít cùng với một ít tiền để ông Nhất có thể mua thức ăn trong căng tin trại giam.

Theo ông Nguyên, vợ ông Nhất cũng nhận được quyển “Sổ tiếp tế, thăm gặp” của trại giam. Thông tin trong sổ này cho hay ông Nhất bị bắt vào ngày 28 Tháng Giêng, 2019, và đưa đến trại giam T16 trong cùng ngày.

Vẫn theo lời ông Phạm Xuân Nguyên, vợ ông Nhất phải bay về Đà Nẵng luôn trong ngày. “Chuyến bay của hãng Vietjet Air theo vé là 17 giờ, bị lùi đến 21 giờ, và khi tôi gõ những dòng này thì chị mới lên máy bay ở Nội Bài. Ở T16 không biết Nhất đã nhận được các thứ vợ tiếp tế chưa?”

Hiện chưa thấy bất cứ báo nào ở trong nước đăng thông tin về việc ông Nhất đang bị giam ở Hà Nội.

Vợ ông Trương Duy Nhất mang đồ tiếp tế cho chồng hôm 20 Tháng Ba 2019 tại Hà Nội. (Hình: Facebook Phạm Xuân Nguyên)

Vụ ông Nhất mất tích ở Thái Lan 2 tháng trước gây nhiều chú ý của quốc tế khiến giới chức Thái Lan vào Tháng Hai phải trả lời truyền thông và hứa rằng sẽ điều tra vụ ông Trương Duy Nhất tình nghi bị bắt cóc.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn của nhật báo Người Việt hôm 11 Tháng Hai, 2019, ông Phil Robertson, phó giám đốc Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền khu vực Á Châu bày tỏ sự lo lắng cho an toàn của nhà báo Trương Duy Nhất. Ông yêu cầu chính quyền Thái Lan và Việt Nam phải điều tra rõ vụ này.

Hôm 15 Tháng Hai, 2019, ba vị dân biểu Liên Bang đồng ký tên vào thư gửi Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo kêu gọi điều tra việc mất tích của nhà báo, blogger Trương Duy Nhất.

Ba vị dân biểu liên bang này là Alan Lowenthal (Dân Chủ, Địa hạt 47,) đồng chủ tịch Ủy Ban Quốc Hội Về Việt Nam, tức Congressional Caucus on Vietnam, cùng với hai vị Dân Biểu Liên Bang Zoe Lofgren (Dân Chủ, Địa hạt 19) và Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Dân Chủ, Địa hạt 48).

Trong một tuyên bố hồi Tháng Hai, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng cho biết họ hoan nghênh cuộc điều tra của chính phủ Thái Lan về vụ mất tích của ông Nhất.

Trước đó, hôm 7 Tháng Hai, 2019, trên trang Facebook Người Buôn Gió, blogger này khẳng định ông Trương Duy Nhất bị Tổng Cục 2 (TC2) bắt ở Thái Lan.

Cụ thể, Người Buôn Gió viết: “Khoảng 8 giờ tối ngày 26 Tháng Giêng năm 2019. Trương Duy Nhất bị đám gồm 10 người của Tổng Cục 2 trùm túi lên đầu và đưa lên xe đi, trước khi đi Nhất còn xin thay quần áo.”

Blogger này đưa cả hình ảnh ông Trương Duy Nhất có mặt ở Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc và hình ảnh ngày 25 Tháng Giêng ông Nhất ở Thái Lan.

Ông Trương Duy Nhất, 55 tuổi, là một nhà báo, một người bất đồng chính kiến tại Việt Nam. Từ 1987 đến 1995, ông là phóng viên của báo Công an tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Từ 1995 đến 2011, ông là phóng viên báo Đại Đoàn kết, văn phòng miền Trung. Khi viết blog, ông là chủ của trang “Trương Duy Nhất – Một góc nhìn khác.”

Ông Nhất từng bị kết án 2 năm tù (từ 2013 đến 2015) vì bị cáo buộc tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” vì “đã viết 11 bài đăng trên trang blog của ông, trong đó ông đã chấm điểm Thủ tướng và yêu cầu Tổng bí thư phải ra đi.”

Trong vụ án này, ông Nhất bị bắt ngày 26 Tháng Năm 2013, ra tòa sơ thẩm ở Đà Nẵng ngày 4 Tháng Ba 2014, bị tuyên án 2 năm tù rồi bị tuyên y án sơ thẩm tại phiên tòa phúc thẩm ngày 26 Tháng Sáu 2014. Ông Nhất mãn hạn tù vào ngày 26 Tháng Năm 2015. (C.T)

 Chúng ta biết gì về Phạm Công Thiện?

 Chúng ta biết gì về Phạm Công Thiện?

 

Gia NguyễnTheo dõi

Hôm qua lúc 08:59

Chúng ta biết gì về Phạm Công Thiện?
Xin mời đọc…

Đọc sách “Chuyện một người đàn bà.. năm con”
của Lê Khắc Thanh Hoài

Nhà thơ triết gia Phạm Công Thiện [1941 – 2011] qua đời năm 2011 tại Houston, nhưng chuyện kể, các bài viết về anh đã nhiều lầm lạc : Người viết : anh bỏ áo tu hành lấy cô vợ người Pháp, theo Thiên Chúa Giáo, kẻ khác viết : anh không hề có một mảnh bằng kể cả bằng tú tài mà dạy Triết Học Viện Đại học Sorbonne, mười lăm tuổi anh đọc và viết hàng chục ngôn ngữ, mười lăm tuổi anh dạy trung học, hai mươi tuổi anh là khoa trưởng khoa Khoa Học Nhân Văn, Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, anh là triết gia không cần học một ai ? Dạy Triết học tại một Đại Học Pháp mà không cần một văn bằng nào ?

Đâu là sự thật, đâu là huyền thoại ?

Được chị Lê Khắc Thanh Hoài tặng cho quyển tiểu thuyết đầu tiên của chị : Chuyện một người đàn bà năm con, tôi đọc say mê, với lối văn giản dị trong sáng tôi đọc một mạch, tôi không ngờ chị viết hay và hấp dẫn như thế về cuộc đời khổ đau gian truân của chị với một thi nhân, triết gia mà thời niên thiếu tôi đã từng say mê tác giả : Ý thức mới trong văn nghệ và triết học , Phạm Công Thiện.

Sách trang bìa hình tháp Eiffel Paris, nơi xảy ra câu chuyện và bức chân dung chị Lê Khắc Thanh Hoài ký tên Phạm Công Thiện vẽ, ngày anh tỏ tình cùng chị, chị không dấu tên người bạn đời. Người đàn bà có năm con cùng triết gia, nhà thơ Phạm Công Thiện (1941-2011) kể lại cuộc đời mình dẫn nhập bằng cuộc đối thoại với cháu ngoại, mừng sinh nhật bà, trao phong bì : một bài thơ bằng tiếng Pháp và lì xì : 10 Euro cho bà, vì thấy bà ngoại nghèo quá thật là dễ thương, ngộ nghĩnh và cảm động. Từ đó chị kể lại cuộc đời mình qua 13 năm sống chung. Thời gian mà anh sang Pháp năm 1970, từ bỏ áo nhà tu Thích Nguyên Tánh và sau năm 1985 anh sang Mỹ cư ngụ tại Los Angeles và qua đời tại Houston..

Tuổi học sinh Trung học, tôi say mê khi đọc Phạm Công Thiện, tôi biết về thơ Appolinaire, Rimbaud, Pierre Emmanuel..về các triết gia mới Tây Phương qua anh.

Bây giờ thì tôi viết về anh qua truyện kể của chị Thanh Hoài, nhìn anh qua những Vidéo các buổi nói chuyện của anh. Tôi muốn tìm hiểu cuộc đời Hiện tượng Phạm Công Thiện, một thời làm mưa làm gió tại Miền Nam những năm 1966-1970. Và dư âm những mưa gió ấy tại Hải ngoại từ 1970 đến năm 2011. Tôi muốn hiểu Phạm Công Thiện là ai ? anh là một thiên tài thần đồng, hay một một Trạng Quỳnh của một thời ?. Những kiến thức anh lấy từ đâu ? nguyên do gì anh đã mê hoặc cả một thế hệ tuổi trẻ miền Nam trong thời điểm đó. Đâu là sự thật của đời anh, đâu là huyền thoại do anh và mọi người thêu dệt. Những người Phạm Công Thiện quen biết tôi đều có dịp gặp gỡ : từ chùa Hải Đức Nha Trang, đến Paris, đến Viện Đại Học Vạn Hạnh : Họa sĩ Vĩnh Ấn, nhà thơ Thi Vũ Võ Văn Ái, nhà thơ Nhị Tay Ngàn đến Hoà thượng Minh Châu Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, Thiền sư Nhất Hạnh, chị Thanh Hoài người bạn đời từng chung sống với anh 13 năm, và có 5 con với anh.

Chị Thanh Hoài sinh năm 1950 tại Huế, con một vị bác sĩ nổi tiếng tại Huế trong Phong Trào tranh đấu Phật Giáo miền Trung, năm 1963 từng bị tù dưới chế độ Ngô Đình. Năm 1969 chị học Triết học Đông Phương tại Viện Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1970 chị lên đường sang Bruxelles du học. Gặp và kết hôn với Phạm Công Thiện tại Paris. Chị Thanh Hoài còn là một nhạc sĩ đàn dương cầm, từng học Trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế, tác giả nhiều CD, và hàng trăm nhạc phẩm.

Trước nhất Phạm Công Thiện là một nhà thơ : tập Ngày sinh của rắn in năm 1988, có những bài thơ đẹp, và lạ lùng :

VI :

tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
mặt trời có thai!
sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt.

VIII :

mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông

Anh nổi tiếng thần đồng, 15 tuổi đã công tác viết bài cho tạp chí Bách Khoa, một tạp chí nổi tiếng giới trí thức miền Nam thời bấy giờ, anh thông thạo 5, 6 ngoại ngữ, một quyển sách anh được Nguyễn Hiến Lê giới thiệu. Nguyễn Hiến Lê là một học giả tự học viết khoảng 60 quyển sách từ sách : Tự học làm người, Rèn luyện nhân cách, đến Triết Học Trung Hoa. Một kiến thức đáng kính phục. Có lẽ Phạm Công Thiện đã học phương pháp tự học và làm việc của học giả Nguyễn Hiến Lê. Muốn học một ngôn ngữ, học bằng cách dịch quyển sách mình ưa thích, mỗi ngày đều đặn, chỉnh tề, ngồi vào bàn viết.. lúc đầu khó khăn, sau thành thói quen viết dễ dàng nhanh chóng. Tôi hiểu anh không nói ngoa, anh đã viết 20 quyển sách thời niên thiếu và đốt đi. Đó là cách tập luyện viết sách, đọc một quyển sách mình mô phỏng theo, viết một quyển tương tự, ban đầu mình chịu ảnh hưởng nhiều từ từ mình tạo ra một phong cách riêng, tiến đến một sáng tạo hoàn toàn.

Anh giỏi tiếng Pháp. Anh có tài dịch thơ lưu loát và quyến rũ. Anh đọc các triết gia Tây Phương và các Thiền sư Phật Giáo và diễn tả lại gọn gàng dễ hiểu. Anh đáp ứng được nhu cầu giới trẻ đương thời đang muốn mở ra tiếp xúc với Tây Phương, nhưng không đủ vốn liếng ngôn ngữ để đọc trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Kiến thức văn chương Tây Phương từ sau cuộc tiếp xúc với Văn chương lãng mạn thời Thơ Mới với Baudelaire, Edgar Poe… Các Triết gia Hiện Sinh, hiện đại như thế nào ? Anh đáp ứng được một nhu cầu muốn tìm hiểu của đương thời. Thuở còn học sinh Trung Học tại Phan Thiết, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn, nhà thơ, thường gặp nhau bàn về những điều Phạm Công Thiện viết. Trong không khí ngột ngạt của chiến tranh Việt Nam, thân phận thanh niên rồi sẽ đi lính, rồi sẽ chết trên chiến trường như bao bạn bè. Trong không khí thành thị miền Nam thời đó, thanh niên cần một lối thoát ra khỏi không gian tù túng, mơ ước một chân trời khác , đọc được Phạm Công Thiện hay Bùi Giáng tên tuổi các triết gia Hy Lạp, triết gia bên Tây tên tuổi nghe mù mờ, có người tóm lược giảng giải nên lấy làm thích thú. Lâu lâu lại khen chữ nghĩa, tâng bốc văn hóa Việt Nam, làm hừng chí tự ti dân tộc. Phạm Công Thiện nổi danh trên mảnh đất trống tư tưởng đó.

Phạm Công Thiện là một người quyến rũ, có sức thôi miên người đối thoại. Chị Thanh Hoài viết tr 167:

« Gặp Chàng là gặp người bằng xương bằng thịt, không phải là người trong văn chương tiểu thuyết. Chàng rất chân thật, không giả dối kệch cởm. Chàng phản ảnh đúng những gì Chàng viết. Thẳng thắn. Táo bạo. Nẩy lửa. Sức hút dữ dội. Quyến rũ lạ lùng. Người đối diện chỉ còn biết buông xuôi và.. trôi theo bấp bênh cùng Chàng !

Phải rồi ! Bấp bênh và.. vô định ! Tự dưng nàng linh cảm mãnh liệt điều đó. Đến với chàng là chấp nhận bấp bênh và vô định. Không chờ đợi, không đòi hỏi. Vô điều kiện. Là quăng bỏ quá khứ và tương lai. Là phiêu lưu không cần địa bàn định hướng. Chỉ có một chiếc kim chỉ nam là tấm lòng, là con tim, là sự thành thật. Đó mới là kho tàng vô giá. »

Thời tôi và chị Thanh Hoài đi du học, số nam sinh viên luôn luôn đông hơn nữ, tỷ lệ có thể đến 1/20. Được một cô sinh viên du học xinh đẹp mới qua là có ít nhất hàng tá chàng trai Việt chạy theo. Các gia đình thượng lưu trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ, gửi con gái đi du học với niềm hy vọng : nếu nó học không xong cũng hy vọng có được tấm chồng trí thức, bác sĩ, kỹ sư, tương lai bảo đảm. Con gái nếu không thành công, thì có con rể vinh hiển cũng được nơi nương tựa yên ổn. Chị Thanh Hoài đã từ chối bao kỹ sư, bác sĩ đến với chị để nghe tiếng gọi của trái tim yêu một thi sĩ, một triết gia, âu cũng là một sự lựa chọn cho cuộc đời gian truân của chị.

Phạm Công Thiện là ai ? anh được đào tạo từ đâu ? hay anh là một thiên tài, đã học từ bao nhiêu kiếp trước, nay sinh ra đã trở thành một triết gia không cần học ai ?

Theo tiểu sử anh sinh ra từ một gia đình theo đạo Công Giáo, anh theo học một trường tư thục Công giáo dạy bằng tiếng Pháp, anh được cha mẹ mướn người dạy kèm học tại tư gia, nhưng năm 1963, anh ra Nha Trang quen biết với nhà thơ Quách Tấn. Quách Tấn đưa anh đi thăm viếng chùa Hải Đức, nơi đây anh tập thiền và quy y thọ giới Sa Di pháp danh Nguyên Tánh với Thầy Trí Thủ, một vị cao tăng Phật Giáo.

Phạm Công Thiện không viết hồi ký nên không rõ anh có bằng Tú Tài II hay không, nhưng giỏi sinh ngữ như anh việc thi thí sinh tự do, lấy bằng Tú Tài toàn phần không phải là chuyện khó, rất nhiều học sinh học trường Pháp, thi thí sinh tự do lấy bằng Tú Tài II Ban Sinh Ngữ Văn Chương trường Việt thật dễ dàng. Học sinh trường Pháp thi môn Anh Văn, Pháp Văn kỳ thi Tú Tài Việt được 18, 20 dễ dàng, các môn Triết Học, Sử Địa chỉ cần học một lượt cũng được trung bình là kỳ thi qua trót lọt.Triết Học lại là môn anh Thiện ưa thích lại quen viết bằng tiếng Việt. Để có học bổng tại Viện Đại Học Yale, để đi du học Hoa Kỳ khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện phải có bằng Tú Tài Toàn Phần hạng Ưu hay Bình. Phạm Công Thiện xong B.A (Cử nhân) tại Yale, và chuyển sang Columbia, nơi thầy Nhất Hạnh từng học, thì anh bỏ học ra đời.

Trong quyển Hố Thẳm Tư Tưởng, Lá Bối, Sài Gòn Xuất bản 1968, trong bức thư cho Nhị Tay Ngàn, chương đầu Phạm Công Thiện viết :« Thời gian tao ở Hoa Kỳ, tao đã bỏ học, vì tao thấy những trường đại học tao học, như trường đại học Yale và Columbia, chỉ toàn là những nơi sản xuất những thằng ngu xuẩn, ngay đến những giáo sư của tao chỉ là những thằng ngu xuẩn nhất đời, tao có thể dạy họ nhiều hơn là họ dạy tao. Qua Pháp ta đã sống nghèo đói thế nào, thì mày đã biết rõ rồi, những lúc tao nằm ngủ tại những vỉa hè Paris, vào những đêm đông đói lạnh, những lúc đói khổ như vậy, tao vẫn còn cảm thấy sung sướng hơn là ngồi nghe mấy thằng giáo sư trường đại học Yale hay Columbia giảng cho tao nghe về Aristote hay Hégel, và Heidegger hay Héraclite. »

« Bây giờ nếu có Phật Thích Ca hay Chúa Giê Su hiện ra đứng giảng trước mặt tao cũng không thèm nghe nữa. Tao là học trò của tao, và chỉ có tao là thầy của tao. Tao không muốn làm thầy ai hết và cũng không muốn ai làm thầy của tao. Còn các văn sĩ ở Sài Gòn, đọc các bài thơ của các anh, tôi thấy ngay sự nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lập đi lập lại vô ý thức hay có ý thức, trí thức 15 xu, ái quốc nhân đạo 35 xu, triết lý tôn giáo 45 xu..

Không cần phải đọc Platon, Aristote, Kant, Hégel hay Karl Marx. Không cần phải đọc Khổng Tử, Lão Tử. Không cần phải đọc Upanisads và Bhagavad Gita. Chúng ta chỉ cần đọc lại ngôn ngữ Việt Nam và nội tại tiếng Việt Nam là bổng nhiên nhìn thấy tất cả đạo lý, triết lý cao siêu nhất của nhân loại đã nằm sâu trong ba tiếng Việt đơn sơ như : Con, Cái, Chay, Cháy, Chày, Chảy, Chạy và còn bao nhiêu điều đáng suy nghĩ khác mà chúng ta bỏ quên một cách ngu xuẩn.»

Phạm Công Thiện, sang Pháp, anh ghi danh ở Rennes, Bretagne, ở với người anh đã sang Pháp trước nhưng rồi không thuận với anh, ông lên Paris khoảng năm 1966. Lúc này tại Paris, Thầy Nhất Hạnh lập Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, chi bộ Pháp do anh Võ Văn Ái làm Tổng Thư Ký, trụ sở tại Maison Alfort, ngoại ô Paris. Phạm Công Thiện thân thiết với anh Ái và cùng ở nơi này.

Năm 1966, Hòa Thượng Minh Châu đến Paris tìm người trợ giúp Viện Đại Học Vạn Hạnh. Gặp Phạm Công Thiện, thầy thuyết phục anh làm lễ xuất gia, thọ giới Tỳ Kheo cho anh, Đại Đức Thích Nguyên Tánh và đưa anh về Viện Đại Học Vạn Hạnh.

Phạm Công Thiện phụ trách Khoa Khoa Học Nhân Văn ; Sáng lập tạp chí Tư Tưởng, và soạn chương trình cho Viện Đại Học Vạn Hạnh.

Niên khoá 1968-1969 ; Thanh Hoài học môn Triết Đông với Thầy Nguyên Tánh.

Năm 1970, Thanh Hoài lên đường đi du học tại Bruxelles. Cũng năm này Phạm Công Thiện đi dự một Hội Nghị Phật Giáo cùng Hoà Thượng Minh Châu, anh xin ở lại ghi tên làm luận án Tiến Sĩ . Tại Paris, Thanh Hoài gặp lại Phạm Công Thiện tại nhà họa sĩ Vĩnh Ấn. Thanh Hoài quyết định bỏ Bruxelles sang Pháp chung sống cùng Phạm Công Thiện. Cuộc sống phiêu lưu đầy gian nan, sống với học bổng của anh trong 4 năm. Sau đó anh xin được một việc làm văn phòng Đại học Toulousse. Nhân có một chân phụ giảng trống anh làm đơn xin việc. Phạm Công Thiện được giáo sư hướng dẫn giới thiệu ‘ Sinh viên ưu tú xuất sắc hạng nhất, bốn năm cao học đã hoàn tất ‘ (tr 252). Điều này chứng tỏ Phạm Công Thiện đã xong văn bằng tốt nghiệp Ecole Pratique des Hautes Etudes (tương đương với Master) tại Sorbonne, và học xong một năm D. E. A. Diplôme Etudes Approfondies, (theo tổ chức đại học Pháp lúc đó, ngày nay đã đổi thành Master I, Master II và bỏ văn bằng Tiến sĩ Đệ Tam cấp và Tiến sĩ Quốc Gia, chỉ còn một văn bằng Tiến sĩ duy nhất). Anh làm việc này giao kèo gia hạn mỗi năm, chức vụ cuối cùng là Giảng sư (Maître de Conférence) tại Đại Học Toulousse II… Công việc tạm ổn định, chị Thanh Hoài sinh năm con, bốn cháu trai và một cô gái út, quần quật với bầy con : đưa rước đi học, ăn uống tắm rửa, bếp núp, chị còn làm việc ráp linh kiện cho hãng máy bay Airbus, nhưng Phạm Công Thiện lại rơi vào vòng nghiện rượu, sống cuộc sống đầy bè bạn quên mất chuyện gia đình.

« Và nơi ngôi biệt thự xinh xắn đó, nơi mà đáng lý ra chỉ có hương hoa và sắc màu của một vị ngọt là hạnh phúc, thì trớ trêu thay, nơi đây suốt bảy năm trời chỉ mang một vị đắng. Vị đắng của khổ đau. Vị chua chát của rượu… Chàng đã thỏa hiệp với con ma rượu.

« Anh không thấy gì hứng thú vì cứ phải lải nhải triết lý để kiếm tiền nuôi vợ con ». « Anh chỉ là chiếc bóng đằng sau bầy con. Điều này cũng làm anh đau khổ.. Lải nhải triết lý xong thì anh chỉ còn biết lè nhè . »

« Thì giờ của em dành cho con quá nhiều và em đã bỏ rơi anh.. Hay là em.. tránh né anh.. ? »

Tránh né anh vì em ghê sợ mùi rượu. Vậy anh hãy ngừng uống rượu..

Đúng là lẫn quẩn không lối thoát !

Bảy năm trời trôi qua trong cái vòng lẩn quẩn không lối thoát đó, nơi cái biệt thự màu hồng đó. Nàng thì vẫn cứ xoay mòng với bầy con năm đứa. Chàng thì cố gắng làm tròn công việc dạy học, cho dù nỗi chán chường mỗi ngày một chồng chất, nhưng bọn sinh viên vẫn ào ào tới càng ngày càng đông hơn, giới trí thức trong tỉnh lần lần nghe tiếng và bạn bè lũ lượt kéo đến càng nhiều hơn. Những buổi trà dư tửu hậu lại tiếp nối nhau. Khói thuốc vẫn mịt mù lan toả. Mùi rượu vẫn nồng nặc xông lên..

Cho đến cái ngày mà giọt nước đã tràn đầy ly thì cái vòng lẩn quẩn đó tự động ngừng quay. »

Một ngày Thanh Hoài bị suyển nặng, ho vì dị ứng phấn hoa, nhờ anh đi mua thuốc. Anh ra đường gặp bạn bè rủ đi ăn nhậu, quên mất chuyện thuốc cứu cấp cho vợ, sáng hôm sau mới về mang một hộp trứng, hỏi thuốc, anh quên mất.

« Sáng hôm ấy, vì quá mệt, Nàng đưa toa của bác sĩ nhờ Chàng ghé tiệm thuốc mua giùm Nàng. Mười lăm phút, hai mươi phút, ba mươi phút trôi qua, Nàng ngong ngóng Chàng về đưa thuốc cho đỡ nghẹt thở. Rồi một giờ, hai giờ, ba giờ trôi qua.. vẫn không thấy bóng Chàng. Nửa ngày trôi qua. Một đêm trôi qua. Nàng vẫn ngong ngóng. Nhưng vẫn không thấy bóng chàng đâu. Một đêm đã trôi thật quá dài, quá dài tưởng như bất tận. Không ngủ được vì ho, vì nghẹt thở. Nàng đã trải nghiệm cảm giác thế nào là kề cận cái chết. Nàng không đủ sức để tức giận, vì nàng nghĩ nếu chết trong sự tức tối, chỉ tự mình hại mình, sẽ không được đầu thai tốt, lại còn rơi vào đọa xứ nữa không chừng ! Chi bằng cứ thản nhiên, chấp nhận số phận và thanh thản niệm Phật. Đây là điều cần làm trong lúc này, chẳng phải là sự tức giận !

Nàng nhắm mắt chờ thần chết rước đi. Nhưng không, không được ! Nàng sực tỉnh ! Mà kia mình đã quên mất bầy con, mình chết thì chúng sẽ ra sao đây ? Mình có thể bỏ chúng để ‘ tiêu diêu ‘ nơi phương trời nào đó được chăng ? Từ bỏ cái thân thể bệnh hoạn khổ sở thì mình cũng hết nợ với thế gian này, nhẹ nhàng thanh thản cho mình, nhưng không thể chỉ nghĩ đến mình mà quên bầy con. Không được rồi, không đúng rồi.. Không mình phải sống, phải ngồi dậy, đứng thẳng và không còn nghẹt thở. Mình phải tự bảo vệ mình, không thể buông xuôi ! Mình nhớ đã từng được dạy dỗ ‘ thân người khó được ‘, phải bảo vệ nó cơ mà ! Không sát sanh, không hại vật, nhưng khi nguy cơ đến thì cũng phải biết tự bảo vệ để không mất mạng chứ ! Có thể nào chết dễ dàng như vậy được ? Không, ta phải sống !

Khi trời vừa tờ mờ sáng thì Nàng nghe tiếng cửa mở. Chỉ cần thấy dáng bộ xiêu vẹo, ngả nghiêng của Chàng là nàng thừa hiểu tất cả. Trông Chàng còn thê thảm hơn cả Nàng nữa ! Thôi thì chẳng còn gì để hỏi, để nói, để trách nữa. Chắc chắn là không có thuốc cho Nàng rồi.

Dù gì thì Nàng cũng đã quyết định rằng Nàng phải sống, Nàng phải thở, Nàng phải đứng thẳng dậy và đi tiếp.

Nhưng đoạn đường đi tiếp của Nàng chắc chắn là sẽ không đi cùng Chàng. Không vì tức giận hay oán trách, mà chỉ vì không còn giải pháp nào khác hơn.

Thế là Nàng lặng lẽ sắp đặt cuộc ra đi của Nàng. Rồi đến ngày hôm đó, không báo trước, không nói năng. Nàng âm thầm dắt bầy con ra khỏi ngôi biệt thự màu hồng . »

Thanh Hoài quyết định chia tay cùng anh, chị thu xếp cùng năm con ra đi. Phạm Công Thiện cũng mất việc đại học vì khế ước không được gia hạn và ghế giảng sư cũng không còn, anh được Hoà Thượng Mãn Giác mời sang dạy tại Viện Quốc Tế Phật Giáo, tai Los Angeles. Anh lại trở về cư ngụ tại chùa, tại nhà bạn bè.

Tại xã hội Pháp nuôi nấng năm con không phải là điều dễ dàng, thường mỗi gia đình chỉ dám có 2,3 con. Thanh Hoài vừa làm mẹ, vừa làm cha, khi dạy đàn dương cầm, khi làm quản gia và các công việc khác, nuôi năm con cho đến khi trưởng thành, thành người : Cậu trai đầu , tốt nghiệp École Normal Supérieur rue d’Ulm, Tiến sĩ Vật lý , giảng dạy Vật Lý Viện Đại Học Paris Orsay. Cậu thứ hai Tốt nghiệp Cao Đẳng Thương Mại tại Bordeaux, Giám Đốc Thương Mại, cậu thứ ba Tốt nghiệp trường Mỹ Thuật tại San José Hoa Kỳ, Họa sĩ, cậu thứ tư giống bố ở chỗ thích Triết Học và cô gái út Bác sĩ Nhi Khoa. Chị có đầy đàn cháu nội, cháu ngoại.

Phạm Công Thiện qua đời năm 2011 tại Houston, các con đều sang dự đám tang cha.

« Nhờ âm nhạc, qua âm nhạc, bà luôn luôn đi sát cạnh cuộc đời, ở trong cuộc đời, thăng hoa cuộc đời, biến những nỗi buồn thành niềm vui, những chán chường thành lạc quan yêu đời, cô đơn thành cảm thông chia sẽ. »

Đứa cháu ngoại đã hỏi chị :

-« Bà ơi ! Bà có giận ông ngoại không ?

– Bà chẳng hề giận !

– Thực ra, con cũng thấy thương ông ngoại làm sao ấy..

Cháu bà giỏi lắm, các cậu và mẹ con cũng thế, luôn yêu thương ông ngoại, không hề ghét bỏ hay trách móc.

– Mỗi lần gặp lại ông, con chỉ muốn ôm ông hôn và không cần phải nói nhiều.. Con biết ông không hề có ý làm khổ bà, vì chính ông là người khổ trước tiên nếu phải làm khổ ai…. Ông ngoại vẫn luôn bảo tụi con phải yêu thương bà hết mực, vì nhờ bà mà mẹ con, các cậu con nên người. Có điều.. ông vẫn nghĩ là bà còn giận ông !

– Con có nghĩ như vậy khi bà kể chuyện cho con ?

– Không, Con nghĩ bà vẫn còn yêu ông ngoại !

– Thực ư.. Chính bà cũng không biết ! »

Khép lại trang sách tôi ngẫm nghĩ. Tiếc là sách bằng tiếng Việt, nếu viết bằng tiếng Pháp, các cháu nội, cháu ngoại chị Thanh Hoài đọc được sẽ nghĩ rằng : ông bà mình thiếu thông tin cho nhau. Nếu ông đi đâu, điện thoại cho bà một tiếng, hay nếu có điện thoại di động, bà gọi ông nhắn ông đem thuốc về gấp thì sẽ không có chuyện gì xảy ra. Tiếc thay oan Quan Âm Thị Kính nằm ở chổ, thời ấy chưa có dao cạo râu : Thị Kính phải vác con dao phay to tướng cắt râu cho chồng. Bà giận ông : vì thời ấy chưa có điện thoại di động. Nếu không bà sẽ điều khiển từ xa, ông chồng triết gia lãng trí hay quên của mình.

Các cháu Việt Nam sinh ra tại Pháp xem xong vở tuồng Quan Âm Thị Kính thường tức tối và hỏi : Où est sa bouche ?. Cái miệng bà Thị Kính ở đâu ? Sao bà không nói ? Sao ông không nói ? Tiếc thay khi ông bà giận nhau các cháu chưa ra đời !

Khép lại đọc trang cuối bìa tập sách là lời Phạm Công Thiện viết khi gặp nhau lần cuối : « Ở nơi chốn hỗn loạn, ở nơi tận cùng của khổ đau và tuyệt vọng mà tiếng nhạc của em vẫn có thể vang lên những âm thanh của dịu dàng đầm thắm, bay bổng cao vút tận chân trời, từ cái điều Không Thể mà vẫn Có Thể. Hãy gọi đó là Giai Điệu Của Cái Điều Không Thể. »

Khép lại trang sách chuyện kể một cuộc tình, hai cuộc đời không trọn vẹn cùng nhau đến cuối đời. Nhưng lời kể chuyện trong trẻo, thanh thoát khiến cho chúng ta vẫn còn nghe vang lên một dư âm tiếng đàn dương cầm chị Thanh Hoài.

Xin giới thiệu tiểu thuyết “Chuyện một người đàn bà.. năm con » của Lê Khắc Thanh Hoài do nhà xuất bản Thời Đại xuất bản tại Hà Nội và Sài Gòn cùng đọc giả trong và ngoài nước. Qua câu chuyện một kinh nghiệm sống cuộc đời, chị đã vẽ ra một khung cảnh người Việt trên đất Pháp, nó cần thiết cho các bạn trẻ, cho phụ huynh khi con em lên đường du học. Truyện còn giúp ta hiểu hơn về Phạm Công Thiện một nhà thơ, một triết gia một thời danh tiếng tại miền Nam Việt Nam.

Paris 23-7-2016

PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne.
*
Nguồn: Bài này Gia Nguyễn chép lại từ mail của bạn đồng môn Đại Học Sư Phạm Huế, Trần Ngọc Bảo gởi cho Gia Nguyễn.

From: Tri Vu