ĐỐI THOẠI VỚI VONG

Trần Bang

ĐỐI THOẠI VỚI VONG

(Chuyện thật 100% trong giấc mơ, không hư cấu)

Đêm qua vừa viết xong bài “Hủy hoại Phật giáo hay hủy hoại Chủ nghĩa Marx”, tôi nằm suy nghĩ thêm về lịch sử phát triển Phật giáo để đi đến mặc nhiên thừa nhận, rằng nhờ sự chuyển hóa từ vô thần luận sang hữu thần luận mà Phật giáo phát triển đại chúng. Thậm chí, ở Việt Nam hiện nay, Phật còn chuyển hóa thành Ma mới có thể quyến rũ, mê hoặc được hàng triệu triệu người. Khi Phật hóa thành Ma thì nhà tu hiện đại tự biến mình thành Thầy Mo thời nguyên thủy để làm mọi việc: giáo dục, tế lễ và trị bách bệnh thay cho khoa học, văn hóa giáo dục và y học hiện đại.

Đang nghĩ đến đó trong trạng thái mơ màng, lim dim thì một cái bóng hiện ra. Đó là một lão già với bộ râu tóc dị thường. Tôi bật dậy và ngồi trong tư thế kiết già. Tôi hỏi:

– Tôi biết ông không là Phật, cũng chẳng là Ma. Vậy ông là ai?

Ông ta cười :

– Ta là Vong của tất cả các vong…

Tôi nhìn ông ta với hai tay cầm hai thứ như cầm bửu bối. Ông ta đưa thứ đang cầm bên tay phải ra hỏi tôi:

– Ngươi biết đây là cái gì không?

– Chủ nghĩa Marx. – Tôi trả lời.

– Còn đây là gì? – Ông ta đưa món cầm bên tay trái và hỏi tiếp.

– Bùa của bọn thầy mo thời nguyên thủy. Vậy đích thị ông là Thầy Mo? – Tôi trả lời và hỏi lại ông.

Ông ta cười ngạo nghễ như thể nhổ vào mặt tôi:

– Ngươi thông minh, nhưng còn lâu mới hiểu được bí mật của ta.

Tôi hỏi:

– Ông dùng hai thứ đó khác nhau như nước với lửa, không sợ tẩu hỏa nhập ma sao?

Ông ta cười khùng khục và nói:

– Hiển nhiên hai thứ đó khác nhau như nước với lửa, nhưng đố ngươi chúng giống nhau chỗ nào?

Tôi nhắm mắt cố suy nghĩ vẫn không trả lời được. Ông ta trả lời:

– Ta có khả năng biến nước thành lửa và lửa thành nước.

Nói đoạn, ông ta châm lửa đốt cả hai và cho vào nước. Tôi nhìn thứ nước đen sì đang bốc khói và nghe ông nói tiếp:

– Giống nhau ở chỗ, cả hai đều là Bùa ai cũng có thể uống được. Ta dùng Chủ nghĩa Marx để mê hoặc người có trí. Còn tấm bùa nguyên thủy kia dùng để mê hoặc đám đông mất trí.

Tôi bật mí mắt ra và quát lên:

– Ngươi chơi trò tăm tối khốn nạn đó là đầu độc, sát hại cả dân tộc này. Ngươi có tin ta sẽ vạch trần ngươi ra ánh sáng không?

Nói đoạn, tôi bật công tắt đèn lên. Ánh điện 220V lóa lên bừng sáng cả gian phòng và cái “vong của các vong” kia biến mất. Tôi thở dài, chỉ vì dân mê lú trong tăm tối mà bị vong ám hết đời này đến đời khác. Nhưng tôi cũng hiểu ra bằng tất cả niềm vui, rằng dù là “Vong của các vong” thì cũng đều rất sợ Ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Trí tuệ của sự Tự do, Khai phóng. Trí tuệ đích thực không bị thứ bùa mê thuốc lú nào mê hoặc…

Chu Mộng Long

VỀ NHÂN ĐỨC VÀ TỘI LỖI

VỀ NHÂN ĐỨC VÀ TỘI LỖI

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Có một câu châm ngôn nói rằng: Không gì cho ta cảm giác tốt đẹp hơn nhân đức.  Đây là chân lý sâu sắc, nhưng còn một khía cạnh ẩn giấu nữa.  Khi làm việc tốt, chúng ta thấy bản thân mình tốt đẹp.  Nhân đức thực sự là phần thưởng cho chính nó rồi, và như thế là tốt.  Nhưng cảm giác mình công chính có thể sớm biến thành cảm giác tự đại.  Không gì cho ta cảm giác tốt đẹp hơn nhân đức, nhưng sự tự đại có vẻ cũng cho ta cảm giác tốt đẹp nữa.

Chúng ta thấy điều này được biểu lộ rõ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người thu thuế và người Pharisiêu.  Người Pharisiêu thực hành nhân đức, ông hành động đúng theo những điều được dạy, nhưng ông không có lòng khiêm nhượng, cũng không thấy mình cần Thiên Chúa và lòng thương xót, mà chỉ có thái độ tự đại và xét đoán người khác.  Tất cả chúng ta cũng thế, cũng dễ trở thành người Pharisiêu này.  Mỗi khi thấy người khác đang phải đấu tranh để sống đẹp, chúng ta nói: Nhờ ơn Chúa tôi mới được thế này.  Thái độ có vẻ khiêm nhượng đó có thể mang hai ý nghĩa rất khác nhau. Nó có thể là một lời tạ ơn chân thành vì đã được những ơn mình không xứng đáng, hoặc có thể dễ dàng là một thái độ tự đại về sự vượt trội của mình so với người khác.

Những ngòi bút thiêng liêng kinh điển như Gioan Thánh Giá, khi nói về những thử thách chúng ta gặp phải trên con đường môn đệ, đã nói về một thứ gọi là: Lỗi của những người nằm ngoài hoán cải ban đầu.  Ý nghĩa của câu này là: Chúng ta không bao giờ thoát được cuộc đấu tranh với tội lỗi.  Khi chúng ta trưởng thành, thì tội lỗi càng tinh vi hơn.  Ví dụ như, trước khi trưởng thành, chúng ta xác định được bảy mối tội đầu, và chúng thể hiện nơi chúng ta một cách nguyên sơ và rõ ràng.  Chúng ta thấy điều này nơi trẻ con, thanh thiếu niên.  Với họ, kiêu ngạo rõ ràng là kiêu ngạo, ghen tỵ rõ ràng là ghen tỵ, ích kỷ rõ ràng là ích kỷ, tham lam rõ ràng là tham lam, và nóng giận rõ ràng là nóng giận.  Chẳng có gì tinh vi hay ẩn giấu cả, cái lỗi nằm rành rành ra đó.

Nhưng khi chúng ta vượt qua được dạng nguyên sơ của những tội này, thì chúng lại đội những lốt khác tinh vi hơn trong cuộc đời mình.  Vì thế, chẳng hạn như, khi chúng ta khiêm nhượng, thì chúng ta lại trở nên kiêu ngạo và tự đại vì sự khiêm nhượng của mình.  Và tôi thấy từ chính kinh nghiệm của mình rằng: Không một ai thiển cận và xét đoán hơn một người mới trở lại đạo hay một người mang ngọn lửa nhiệt thành ban đầu.

Tội có những phức tạp của nó.  Một số khái niệm ngây thơ của chúng ta về tội và sự khiêm nhượng cũng cần được xem xét lại.  Ví dụ như, chúng ta thường nuôi một khái niệm lãng mạn hóa rằng, người có tội thì khiêm nhượng, nhận thức mình cần được tha thứ, và mở lòng ra với Chúa.  Và chúng ta có thể thấy điều này trong Phúc âm.  Khi Chúa Giêsu rao giảng, những người Pharisiêu đương cự với Chúa và thông điệp của Chúa, còn những người thu thuế và gái điếm lại mở lòng hơn với Ngài.  Vậy từ đó chúng ta có thể đặt một câu hỏi: Có phải tội lỗi còn khiến chúng ta nhận ra mình cần Chúa hơn cả nhân đức nữa?

Đúng, khi tội đó thành thật, khiêm nhượng, biết thú nhận và sám hối, hoặc là khi hành động sai trái của chúng ta bắt nguồn từ việc bị tổn thương, bị lợi dụng.  Không phải mọi tội lỗi đều như nhau.  Có tội ngay thẳng và tội bất lương.

Là con người, chúng ta yếu đuối và thiếu sức mạnh để luôn làm theo những gì tốt đẹp nhất trong con người mình.  Đôi khi chúng ta chịu thua cám dỗ và yếu đuối.  Để giải thích về việc chúng ta phạm tội, chỉ cần nói điều này thôi.  Chúng ta là con người!  Và đôi khi, người ta rơi vào tình trạng tội lỗi vốn không thật sự do tay họ gây ra.  Họ bị lợi dụng, bị bắt sống trong hoàn cảnh tội lỗi không do họ chọn lựa, họ là nạn nhân của nạn buôn người, là nạn nhân của hoàn cảnh bất công trong xã hội hay gia đình, hoặc họ bị tổn thương quá nặng.  Trong những hoàn cảnh đó, một hành động sai lầm, là vấn đề sống còn chứ không phải vấn đề chọn lựa tự do.  Một bà đã giải thích cho tôi rằng: “Tôi đơn giản là một con chó, cắn để khỏi bị cắn thôi.”  Trong những trường hợp này, thường thì dưới lớp vỏ chai đá có một tâm hồn vẫn ngây thơ vô tội biết mình cần lòng thương xót Chúa.  Có tội ngay thẳng.

Và có tội không ngay thẳng, là thứ tội biện luận, luôn chìm trong kiêu ngạo nên không thể thú nhận mình tội lỗi.  Kết quả là, nó trở thành một tâm hồn đầy xét đoán, cay đắng, và chai đá.  Khi tội biện luận, thì sự cay đắng tiếp vào, kéo theo sự ghét bỏ với nhân đức mà nó đã không giữ được.  Khi chúng ta biện luận, thì bản năng luân lý của chúng ta không bị lừa phỉnh đâu.  Nó phản ứng lại và trừng phạt bằng cách khiến chúng ta ghét bỏ mình.  Và khi ai đó ghét bỏ mình, thì sự căm ghét đó sẽ lớn lên và trở thành ghét bỏ người khác, và nhất là ghét bỏ nhân đức mà mình đã không giữ được.  Ví dụ như, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều người ngoại tình thường cay độc vô cùng khi nói đến đức khiết tịnh.

Thấy mình yếu đuối và tội lỗi, có thể khiến chúng ta cúi mình khiêm nhượng, và mở lòng chúng ta đón nhận lòng thương xót Chúa.  Nhưng nó cũng có thể biến tâm hồn chúng ta chai đá, cay đắng và xét đoán.  Không phải mọi người có tội đều cầu nguyện như người thu thuế trong Phúc âm.

Nhân đức khiến chúng ta biết ơn.  Tội lỗi khiến chúng ta khiêm nhượng.

Đúng là thế.  Nhưng không phải lúc nào cũng thế.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 From Langthangchieutim

S.T.T.D Tưởng Năng Tiế́n – Những Bãi Phân Giữa Thời Mạt Pháp

S.T.T.D Tưởng Năng Tiế́n – Những Bãi Phân Giữa Thời Mạt Pháp

Ảnh cá»§a tuongnangtien 

tuongnangtien

Quỷ Lộng Chùa Hoang

Thành ngữ Việt

Bố mẹ tôi đều gốc gác nông dân, và đều là những phật tử thuần thành. Cũng như bao nhiêu người dân Việt chân chất khác, ngoài việc cặm cụi mưu sinh, đời sống (văn hoá, tinh thần, tâm linh) của ông bà – dường như – chỉ xoay quanh việc kinh kệ, chùa chiền, lễ bái, cúng dường …

Thưở ấu thơ (khi còn “lon xon như con với mẹ”) vào những lễ tết, tôi vẫn lon ton  theo chân thân mẫu đến chùa. Vì đây là đất Phật nên bà yên tâm để tôi tha thẩn khắp nơi, suốt buổi, trong khi bận rộn làm công quả.

Cho đến lúc có thể đi đây, đi đó một mình thì tôi (thôi) không bao giờ lai vãng đến chùa chiền gì nữa. Không gian tâm linh của nơi thờ phượng tĩnh lặng và trang nghiêm quá, xem ra, không hợp lắm với cái “tạng” hiếu động của tôi!

Càng lớn tôi càng xa bố mẹ, xa chùa, và xa Phật Pháp Tăng. Mãi cho đến khi đời ngả về chiều – tóc đã điểm sương, song thân đà khuất núi – tôi mới lờ mờ cảm thấy rằng (hình như) mình đang xích lại gần, và cũng hơi để ý, đến chuyện tôn giáo hơn … chút xíu!

Hóa ra, chùa chiền ở Việt Nam không phải nơi đâu cũng đều “tĩnh lặng và trang nghiêm” như trong ký ức tuổi thơ an lành và êm ả của tôi. Không ít chỗ không gian tâm linh truyền thống của cả dân tộc đã bị quấy động … cho tới bến luôn:

 “Tại nhà thờ thánh, tượng Khổng Tử lăn long lóc như người ăn mày tha hương chết đường chết chợ, bị trẻ con ném cứt vào mặt. Tại ngôi chùa Trang Hà, hàng chục pho tượng đổ ngổn ngang, bị lũ mục đồng ném bùn lấm láp nước sơn. Cái giếng hình bán nguyệt trước cổng chùa đẹp thế mà cũng bị phá phách cày xới để trồng lúa. Mấy tấm đá ghép cầu bị bê làm hố tiêu. Mấy chiếc bia lớn nhà thờ chánh tổng, cái thì bị đem bắc cầu, cái thì bị bọn mục đồng khiêng đi làm trò chơi rồi ỉa đái vung vãi trên mặt bia…

Ở làng tôi, đền chùa miếu mạo, nhà thờ họ, mộ cổ, rừng cổ, cây cổ thụ đã bị phá trụi, không còn gì để phục hồi nữa. (Võ Văn Trực. Chuyện Làng Ngày Ấy. NXB Tạp Chí Văn Học: California, 2006).

Đó là chuyện xẩy ra ở miền Trung, vào giữa thế kỷ XX, trong Giai Đoạn Phóng Tay Phát Động Quần Chúng của những người CSVN. Sau khi đất nước thống nhất thì pháp nạn lan đến miền Nam:.

  • Năm 1977 Hoà Thượng Quảng Độ bị bắt giam, bắt đầu cho một cuộc sống tù đầy và lưu đầy cho mãi đến bây giờ.
  • Năm 1988 Thượng Tọa Tuệ Sĩ và Trí Siêu bị tuyên án tử hình, sau được giảm án xuống 20 năm cấm cố. Hai ông, cuối cùng, được phóng thích ngày 31 tháng 8 năm 1998, sau 14 năm giam cầm.

Những bậc chân tù đều bị cầm tù hay phát vãng thì chùa chiền bỏ lại cho ai?

Nhật ký của nhà phê bình văn học & xã hội Vương Trí Nhàn, ghi ngày 4 tháng 5 năm 79, có đoạn:

“Ngày Phật đản. Những người tu hành vẫn có nét mặt hệt như mặt người ngoài đời mà tôi vẫn gặp. Sao ở giữa cảnh đèn nhang nghi ngút của chùa Quán Sứ, giữa bao nhiêu cụ bà thành tâm cúng vái, lại thấy một vị sư tuổi còn thanh niên, có nét mặt trông như một trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng nào đó, mà tôi từng thấy ở các mặt trận.”

Cùng với những vị “sư ông” trông cứ như một sĩ quan tác chiến, chùa chiền VN còn có qúi vị “sư nữ mắt long sòng sọc … miệng rít lên” (cứ như loài rắn tiếng rắn) theo cách mô tả của nhà văn Dương Thu Hương:

“Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà “sư nữ” ngoại tam tuần mắt long sòng sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:

– Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!…

Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:

– Mày chết đi…

Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Ðó là người đã xuống tóc từ thời chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các chân tu ở lại, thay cụ chủ trì. ‘Nhân sự’ do ‘bên trên’” đưa xuống.”

Vậy cái gì là ‘bên trên’ ? Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xứ sở?… Chẳng có gì bí mật cả, ‘bên trên’ là A 25 Cục bảo vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội Vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để ‘yểm’ Hội Phật Giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.”

Ảnh: FB

Chắc không mấy ai có thể biết chính xác con số “heo lợn bẩn thỉu” mà A25 đã thả ra “để yểm” chùa chiền nhưng mọi người đều phát hoảng khi cứt đái của lũ súc vật này không chỉ làm ô uế cửa thiền mà còn tràn lan ra đến tận bên ngoài. Bản tin của trang Tiếng Dân, đọc được vào hôm 22 tháng 3 năm 2019, có tiểu mục “Buôn thần bán thánh” ở chùa Ba Vàng:  – Gọi vong, thu hàng trăm tỷ: Trụ trì thừa nhận sự việc xảy ra ở chùa Ba Vàng (GT). – Chùa Ba Vàng cho rằng có thể chữa bách bệnh bằng việc đuổi tà ma, tiễn vong (TN). – Gọi vong, thu hàng trăm tỷ: Chùa Ba Vàng quy tụ nghìn phật tử nhằm minh oan (GT). – Chùa Ba Vàng thu tiền gọi vong: Vừa công đức, vừa “do vong yêu cầu”? (LĐ). – Người phụ nữ tên “Phạm Thị Yến” tuyên truyền luận điệu “làm nhục” nữ sinh giao gà Điện Biên ở chùa Ba Vàng là ai? (TGT). – Truyền bá chuyện vong báo oán, chùa Ba Vàng mỗi năm thu trăm tỉ (Zing).

FB Nguyễn Ngọc Chu  đặt câu hỏi: CÓ BAO NHIÊU CHÙA BA VÀNG?

Rồi, ông trả lời ên: “Trên Đất Nước ta có hàng trăm chùa ‘Ba Vàng’. Có nhiều chùa ‘Ba Vàng mới’ khủng hơn chùa Ba Vàng Uông Bí. Đó là các chùa ở Bãi Đính, ở Tam Chúc…”

Tôi thì trộm nghĩ khác: đó chả phải là chùa chiền gì cả mà chỉ là những bãi phân giữa thời mạt pháp. Ngày nào mà chế độ hiện hành vẫn còn hoành hành thì sẽ còn nhiều bãi cứt tương tự xuất hiện ở mọi nơi. Và phân gio của Bộ Nội Vụ VN, thực ra, cũng đã vương vãi cùng khắp – miếu đền, thánh thất, giáo đường – chớ đâu có riêng chi ở chốn thiền môn.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Gián Điệp Ở Ta & Gián Điệp Từ Tầu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Gián Điệp Ở Ta & Gián Điệp Từ Tầu

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Tuần báo Trẻ – phát hành từ Dallas, Texas – vừa cho đăng một bài phỏng vấn do nhà văn Phạm Thị Hoài thực hiện, với lời mở đầu rất giản dị và ngắn gọn:

“Cuộc trò chuyện này được thực hiện qua thư điện tử, với nhà bất đồng chính kiến Phạm Hồng Sơn, người từng bị chính quyền Việt Nam kết án 13 năm tù, sau giảm thành 5 năm tù và 3 năm quản thúc, nay sống tại Paris, Pháp.”

Chỉ đôi dòng giới thiệu thế thôi thì tôi e hơi bị thiếu. Tưởng cũng nên viết thêm năm bẩy chữ nữa, cho nó rõ ràng, theo như nguyên văn bản tin của TTXVN: “Phạm Hồng Sơn bị kết án 13 năm tù về tội gián điệp.”

Sau năm năm bị giam giữ, nhà nước CSVN vẫn chưa biết tù nhân chính trị này hoạt động tình báo ra sao nên ông được phóng thích, và chỉ bị quản thúc tại gia thôi. Thiệt là phúc đức và may mắn. Ít ra thì cũng may mắn hơn một người tù khác: Nguyễn Hữu Đang

Ngày 21 tháng 1 năm 1960, nhân vật này bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị” và “làm gián điệp” bởi Toà Án Nhân Dân Hà Nội. Đây là một “phiên toà kín” nên không ai biết ông Thứ Trưởng Bộ Thanh Niên / Thứ Trưởng Bộ Tuyên Truyền (trong nội các đầu tiên của Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà) đã “làm gián điệp” cho quốc gia hay thế lực thù địch nào, và “phá hoại chính trị” ra sao?

Mười lăm năm sau, sau khi mãn hạn tù, Nguyễn Hữu Đang lủi thủi trở về làng quê ở Thái Bình. Nơi đây – trong thời gian 15 năm quản chế – ông sống sót nhờ thịt của … côn trùng và ếch nhái. Mười lăm năm sau nữa, khi đương sự đã bước vào tuổi bát tuần thì … “thánh đế (bỗng) hồi tâm. Thế là ông được cấp thẻ cử tri, và cho lĩnh lương hưu, cứ y như thể là chưa bao giờ có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra hết trơn hết trọi.

Lại thêm một trường hợp may mắn nữa, nếu so sánh với trường hợp ít may mắn hơn (chút nữa) của một tù nhân gián điệp khác nữa: Nguyễn Văn Phổ.

Tuy chỉ được công luận biết đến qua tác phẩm Chuyện Kể Năm 2000 nhưng đây không phải là một nhân vật hư cấu. Ông bị tù với tội danh “gián điệp”  và “đốt bệnh viện,” dù cái bệnh viện này không hề bị cháy.

Sau gần 20 mươi năm bị giam giữ, Nguyễn Văn Phổ được tha. Khi ra khỏi tù thì mắt bị mù, nhà cửa bị tịch thu, và vợ đã đi tu – theo lời của một người bạn đồng tù:

“Tôi nhớ ngày tôi đến Thanh Xuân Bắc thăm anh khi cả hai chúng tôi đã được ra tù. Chúng tôi ôm lấy nhau. Câu đầu tiên tôi hỏi anh là hỏi về chị Phổ, người phụ nữ ‘chờ chồng từ năm 33 tuổi đến năm 51 tuổi vẫn chờ đợi và không chịu tuyệt vọng.’

– Chị đâu rồi anh?

– Nhà tôi vào Sài Gòn đi tu rồi.

Quá bất ngờ. Tôi chỉ muốn kêu trời. Hoặc thét lên một tiếng. Nhưng họng tắc nghẹn.

– Chị tu ở đâu. Anh cho tôi địa chỉ. Tôi sắp vào trong ấy. Để tôi đến thăm chị.

Phổ lấy giấy bút. Tôi nhìn theo tay anh:

Sư cô Trí Tuệ

Tĩnh xá Tòng Lâm

260 Nguyễn Thị Minh Khai (Xô Viết Nghệ Tĩnh

cũ) Quận 3. Thành phố Hồ Chí Minh.

Đưa tờ giấy cho tôi, anh hỏi:

– Anh có đọc được không?

Tôi ngơ ngác, không biết anh hỏi gì.

– Mắt tôi không nhìn thấy gì nữa. Tôi viết theo quán tính. Tôi nhận ra anh vì nghe giọng nói của anh.

Tôi khóc. Hôm ấy tôi đã không giữ được nước mắt. Những giọt nước mắt nóng bỏng. Những giọt nước mắt lặn vào trong. Suốt thời gian ở tù, cùng một toán, cùng là tổ trưởng, chưa một lần Phổ nói với tôi vì sao anh phải vào tù, vì sao anh tù lâu đến thế. Trong tù không ai nói với ai điều vì sao ấy. Chỉ đến khi chiếc máy bay không người lái của Mỹ bay qua khu vực trại, tiếng rầm rầm trên trời ập đến rất nhanh và tắt đi cũng rất nhanh để lại dấu vết là một vệt khói mảnh vắt ngang bầu trời rất lâu mới tan, Nguyễn Văn Phổ ngước mắt nhìn vệt khói nói một mình:

– Tiên sư cái thằng Mỹ. Mình bị nghi là gián điệp Mỹ mà nó còn mạnh thế này thì đến bao giờ được ra hở giời?

Anh chỉ nói vậy. Qua đó chúng tôi biết anh bị nghi làm gián điệp cho Mỹ. Theo nhiều người kể lại, Nguyễn Văn Phổ tham gia quân đội ngay trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp năm 1946. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là người ký giấy cho anh trở vào Hà Nội hoạt động tình báo. Tổ tình báo của anh có ba người. Anh, nhà văn Vũ Bằng, và một đảng viên ít tuổi nhất làm tổ trưởng. Năm 1954, khi hiệp nghị Genève được ký kết, cả tổ được lệnh chuyển vào Nam, nhưng Phổ đã xin được ở lại Hà Nội. Ít ngày sau anh bị bắt vì tội đã đốt — hay định đốt? — nhà in Ideo.

Anh bị xử tù 15 năm. Sau đó xử lại, mức án rút xuống còn 8 năm rưỡi, và thực tù hơn 17 năm. Anh cười:

– Cái tổ tình báo của tôi chỉ có mỗi Vũ Bằng là không bị bắt. Cái anh tổ trưởng đảng viên ít tuổi kia khi vào Nam cũng bị ta bắt như tôi. Vũ Bằng thật là may…

Rồi anh rủ rỉ:

– Tôi về được ít ngày thì một cô sĩ quan công an đến nói năng rất lễ phép, tế nhị. Bác làm cho chúng cháu cái thu hoạch. Cháu biết bác cũng chẳng muốn nghĩ đến những chuyện ấy nữa nhưng đây là ý kiến cấp trên của cháu.

Tôi bảo: Cô nói tôi cũng làm nữa là cấp trên của cô. Tôi viết. Cuối cùng nó lại như một bản thanh minh anh ạ. Mới nghĩ nộp ngay cũng phí. Tôi đem thuê đánh máy. Gửi Viện Kiểm Sát một bản. Tháng sau đến Viện Kiểm Sát. Anh cán bộ phụ trách việc của tôi rất phấn khởi nói: Việc của bác thế nào cũng được xử lại. Cháu đang trình viện trưởng. Nửa tháng nữa mời bác quay lại.

Y hẹn, tôi tới. Anh cán bộ kiểm sát ỉu xìu: Không xong rồi bác ơi. Đồng chí viện trưởng không duyệt. Tôi cũng chẳng nghĩ ngợi gì. Tù thì tù rồi. Cũng sắp về với tổ tiên rồi. Bẵng đi lâu lâu, đã quên hẳn chuyện khiếu nại, thì anh cán bộ viện kiểm sát tới nhà: Bác ơi! Bác làm sổ hưu đi. Vụ của bác xử lại rồi. Trắng án.” (Bùi Ngọc Tấn. Hậu Chuyện Kể Năm Hai Ngàn. Tiếng Quê Hương: Fall Church, VA, 2015).

Nghĩ cho cùng thì đây cũng cứ là một trường hợp … may mắn: trắng án! Chả hiểu đã bao nhiêu mảnh đời, bao nhiêu gia đình đã tan nát vì những cái án “trắng tinh” như thế. Tuy thế, vì an ninh quốc gia nên chiến thuật “thà bắt lầm hơn bỏ sót” vẫn là một chính sách xuyên suốt từ thời cụ Nguyễn Hữu Đang cho đến đám cháu chắt về sau – như lứa Phạm Đoan Trang:

“… có một tội rất nặng luôn lơ lửng trên đầu những người làm việc với các cá nhân, tổ chức nước ngoài: gián điệp. Làm cộng tác viên cho báo đài nước ngoài: gián điệp. Gặp gỡ các cơ quan ngoại giao để thảo luận về tình hình nhân quyền và dân chủ trong nước và quốc tế: gián điệp. Gửi báo cáo – nghiên cứu cho các tổ chức nước ngoài: gián điệp. Vận động nhân quyền cho Việt Nam trên trường quốc tế, phản ánh tình hình nhân quyền trong nước ra nước ngoài: gián điệp. Vân vân.”

Cẩn tắc vô áy náy! Tôi hoàn toàn tán đồng sự cẩn trọng cùng mức độ nghi ngại (quá cao) của Đảng và Nhà Nước Việt Nam, và chỉ hơi băn khoăn khi biết tin Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên bố muốn Huawei hợp tác với các doanh nghiệp Việt trong lĩnh vực an toàn thông tin – vào ngày 13 tháng 1 vừa qua.

Hoá ra người đứng đầu “Chính Phủ 4.0” không hay biết gì ráo về những lo ngại của cả thế giới hiện nay về những hoạt động tình báo của công ty Hoa Vi. Ngài cũng phớt lơ luôn sự kiện một quan chức Huawei đã bị bắt tại Ba Lan với cáo buộc làm gián điệp, chỉ vài hôm trước đó, cùng lời tố cáo về hoạt động tình báo của tổ chức này .

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ Tịch Tập Đoàn Huawei Ảnh: TTXVN

Nhà nước ta vốn rất cẩn trọng và nhậy cảm về những hoạt động tình báo, sao bỗng dưng lại khinh xuất và mù mờ thế? Thế mới biết chủ trương cẩn trọng (thà bắt lầm còn hơn bỏ sót) của nhà nước ta chỉ áp dụng với đám dân mình thôi, chứ còn với bọn tình báo nước lạ thì chính sách lại hoàn toàn khác. Rất “vô tư” và hoàn toàn “thoải mái,” hay nói quá ra (chút xíu) là sẵn sàng “nhận giặc làm cha!” Tội danh này, xét ra, còn nặng hơn tội làm gián điệp cho nước ngoài nhiều.

TẦU NHÀ MINH TRIỆT TIÊU VĂN HÓA ĐẠI VIỆT NHƯ THẾ NÀO ?

TẦU NHÀ MINH TRIỆT TIÊU VĂN HÓA ĐẠI VIỆT NHƯ THẾ NÀO ?

 (CHUYỆN CƯỚP SÁCH CỦA TA ĐEM VỀ KIM LĂNG)

Năm 2004 hiểm họa tái xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2012 và những năm sau này.”

Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh,  nằm ở giữa.  Chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, cùng với Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung… nằm ngoài rìa của Hoa Hạ thời cổ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại…”

Phạm Cao Dương (*)

Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tầu xảy ra cách đây hơn sáu trăm năm bị nhiều người cho là không quan trọng.  Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tầu nhằm tiêu diệt dân tộc Việt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận ra hay đã quá muộn.  Nó nằm trong “Mưu Độc Ngàn Năm” với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện gần hai ngàn năm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ  đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua.  Không lẽ tổ tiên mình đã thành công bảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến      đời mình lại bất lực và để mất hay sao? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm “Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối” và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được “Bia đá rọi ngàn thu” để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi tự hát cho mình mình nghe:

Để lại cho em này nước non mình.

Để lại cho em một nước đẹp xinh.

Một miền oai linh hiển hách.

Chỉ còn dư vang thần thánh.

Để lại cho em hèn kém của anh

thay vì:

Người sau, kẻ trước lao vào địch,

Giữ vững nghìn thu một giống nòi.

hay sao?  Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.

Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viết về “Mưu Độc NgànNăm” của người Tầu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện kỳ trước.

Trong tháng 4 năm 2004, dưới nhan đề “Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu”, tôicó viết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vì tôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc.  Năm 2012, tôi đã viết thêm và năm nay 2019, tôi xin được viết thêm nữa.  Đầu tiên tôi xin nói lànăm 2004 khác với năm 2012 và năm 2019 lại khác hơn nữa. Năm 2004 hiểm họa tái xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2012 và những năm sau này.  Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung là một điều tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếm thêm tài liệu để viết nhiều hơn nữa dù đã ở trên đường tới tuổi chín mươi, tuổi bị kể như là quá già và sắp rời cõi tạm.

Thực sự thì sự quan tâm của tôi về chuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay đem về Tàu đã có từ lâu.  Thắc mắc nhưng đồng thời cũng là một nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối, đặc biệt là mỗi khi tôi có việc phải tìm hiểu về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiều cho vinh quang, thịnh vượng của xứ sở, nói chung và đặc sắc riêng cho văn hóa của dân tộc mình, nói chung..  Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối của tôi cũng là của chung dân tộc tôi, dù là tôi đang làm công chuyện tìm hiểu và nghiên cứu.  Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có cái đầu lạnh chừng nào hay chừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về quá khứ, nhưng dù muốn hay không tôi vẫn là người Việt Nam.  Những gì tôi viết ra ở đây chỉ là một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việt đương thời do chính người Đại Việt viếtngoài văn chương, thơ phú, còn có học thuật, tư tưởng, phong tục, tập quán, sử ký, địa lý, con người và tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca…, những gì có thể giúp cho người thời đó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và dân tộc Đại Việt cũng như những thành công vĩ đại mà tổ tiên ta đã đạt được ngót ngàn năm trước.  Những sách vở, tài liệu này tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn là những gì ta hiện có, cộng thêm với những gì được liệt kê trong danh sách những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớ được và viết lại trong sử sách do các cụ viết.[1] Tôi dám tin là như vậy vì đây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử dân tộc mình.  Tôi cũng dám tin như vậy căn cứ vào bài tựa của Việt Âm Thi Tập, sưu tập thơ của thời Lý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực hiện, Lý Tử Tấn đề tựa. Cả ba đều là người đương thời, từ đónhững sự hiểu biết của các ông còn rất nóng, chưa đến nỗi bị thời gian làm cho hao mòn.  

Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm 1396 đời Vua Trần Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với Nguyễn Trãi, khoa Canh Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vì sách được soạn xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình của Phan Phu Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ, nên những gì các ông biết về sách vở, thi ca của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực nào cũng như hành động tịch thu sách của không thể nào tàn bạo hơn của Nhà Minh là như thế nào.  Lý Tử Tấn trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn. Nguyên văn như sau:

“… Như các vua Triều Trần là Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùng là Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ Lê ở Lương Giang (Lê Quát), Nguyễn Giới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh em ông Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời.  Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn.” [2]

Điều cần phải để ý là đây mới chỉ là về thơ văn mà thôi.  Những tài liệu khác liên quan tới sự tìm hiểu về nền văn hiến của nước Đại Việt dưới hai thời Lý Trần trước đó có thể ít hơn về số lượng nhưng quan trọng hơn nhiều cho các học giả sau này.

Sự thịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần của ta bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm 1368 [3] và Trần Nguyên Đán (1325 – 1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại của Nguyễn Trãi đã miêu tả qua câu thơ bất hủ “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” (trăm họ vui ca mừng thời thịnh trị) [4] và người lính già đầu bạc thời Trần Nhân Tông còn thỉnh thoảng ngồi kể chuyện thời Nguyên Phong:

“Bạch đầu quân sĩ tại,

Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”

Lính già phơ tóc bạc

Kể chuyện thuở Nguyên Phong

(Ngô Tất Tố dịch) [5]

Cái gì đã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến?  Cái gì đã làm cho trăm họ Đại Việt “âu ca lạc thịnh thì”?  Cái gì đã làm cho người lính già phơ tóc bạc ngồi kể chuyện thuở Nguyên Phong?  Cái gì đã làm cho một nước nhỏ bằng bàn tay [6]thắng được quân nhà Tống và luôn cả quân Mông Cổ, điềuThiên Triều, thượng quốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả sau này, tôi muốn nói là chính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được?  Cái gì đã làm cho Hồ Nguyên Trừng được Hoàng Đế Nhà Minh biết tới và trọng dụng?  Đó phải là những câu hỏi mọi người nghiên cứu về triều đại này phải tìm hiểu để trả lời và đương nhiên cả người nhà Minh, trong đó có Minh Thành Tổ khi chủ trương xâm lăng và đô hộ nước ta cũng muốn tìm hiểu.  Chính vì vậy, những sách vở do người Đại Việt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn phải là những nguồn hiểu biết vô cùng quan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể cả người Tàu đương thời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn có được trong tay đểđọc và lưu giữ thay vì nhắm mắt đốt bỏ hết.  Đó là lý do tại sao hai sắc chỉ ban đầu của Minh Thành Tổ đã không được triệt để thi hành.  Nếu quả như vậy thì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa bị mất và vẫn còn nằm đâu đó bên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác, nếu kiên trì tìm kiếm và có phương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại được.  Tất nhiên là với tất cả sự dè dặt và kiên trì tối thiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu cần phải có.

Ý được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gần như là không, vì nếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyện người Tàu lấy sách của ta đem về Tàu.  Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ của ông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu.  Câu trả lời của tôi là căn cứ vào các sách sử của ta.  Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các sách vở, tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn, một tác phẩm không do một người mà do nhiều người thuộc Quốc Sử Quán đương thời do Phan Thanh Giản làm Tổng Tài biên soạn, và trước đó, Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều này.

Trước hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí”, Lê Quý Đôn có viết: “Đến đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng.” [7] Nên để ý ba chữ “theo đường sông” tác giả dùng để nói rõ chi tiết về cách chở về Kim Lăng ở đây chứ không nói chung chung.  Còn trong KĐVSTGCM, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Ngha sang nước ta ban phát cho những người Nho học, một cách khẳng định, có chép thêm “Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng.” [8]

Gần ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng viết:

“Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý – Trần.  Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách trước     kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!” [9]

Tất nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng có thể nói rằng những ghi chú kể trên đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫn chưa đủ thuyết phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng.  Thực sự thì ta không biết Lê Quý Đôn rồi sau này các nhà san định bộ KĐVSTGCM đã căn cứ vào đâu để ghi chép như trên.  Có thể các vị sau này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn Lê Quý Đôn thì căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thời trước ông, trong đó không thể không có Lý Tử Tấn.  Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đôn là người chịu khó tìm tòi, học hỏi.  Ông đã đọc rất nhiều, rất rộng và ghi chép rất cẩn thận.  Chỉ cần đọc các tác phẩm của ông người ta thấy rõ điều này.  Còn Trần Quốc Vượng thì đã không nêu rõ các nguồn sử liệu ông đã dùng.  Nhưng sử gia này cũng là người làm việc rất tỉ mỉ và có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi nhận về sự kiện kể trên một cách hồ đồ vô căn cứ.  Dù sao, một khi nghi vấn đã được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệu nếu có và vừa bằng suy luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy.

Trước hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đề sách vở của người Việt trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được dịch và in lại trong Thơ Văn Lý Trần, một công trình được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của Việt Nam trong thế kỷ XX trước, để thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị Hoàng ĐếTrung Hoa này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ của ông ta là phải hủy diệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Còn quân lính thì phần đông không biết chữ…thì khi “đài tải” sẽ bị mất mát nhiều [10]..

Tại sao lại “đài tải”? Tại sao lại lo mất mát nhiều? Tại sao lại để xem rồi mới đốt?

Đến sắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho các tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ trước: “Nay An-nam đã bình định xong […] trừ các loại chế dụ ra, còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện.” [11] thì người ta thấy sự kiện đã quá rõ rệt là lệnh của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và các sách vở quân Minh thu được đã không bị đốt bỏ hết. Một số khác trên đường đài tải đã bị mất mát rất nhiều.  Ngoài ra, ngoài ba dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiệntối mật khác hoặc đã được niêm phong gửi lại Triều Đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thời điểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được và có thể không bao giờ biết được nhưng người ta có thể chắc chắn là chúng chứa đựng rất nhiều chi tiết liên quan tới đường lối thâm độc của nhà Minh trong thời gian này, nếu không tại sao Minh Thành Tổ lại thêm câu cuối “Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện”.  Đây mới là điểm quan trọng của vấn đề.  Tại sao Minh Thành Tổ lại sợ đến như vậy?  Do đó nếu chúng ta chỉ căn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần), ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kể trên, mà bảo rằng không hề có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôi e rằng quá máy móc và vội vã.  Chúng ta chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mật này. Đây gần như là một việc mò kim đáy biển.  Tuy nhiên còn có những lý do khác khiến ta có thể viện dẫn được.  Thứ nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhà Minh, một tính tự nhiên và phổ quát của con người mà họ không tránh được, đặc biệt ở những người có học khi họ kiếm được những sách nói về những điều họ đã học và muốn biết.  Ở đây tôi muốn nói tới các sách về Tam Giáo, đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly [12] và của Chu Văn An [13], cộng thêm nhu cầu cần biết để xâm lăng, bình định và cai trị, chưa kể tới hoàn cảnh họ phải sống xa triều đình và xa nhà.  Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và các nhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ thu thập được, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của họ và của dân bản địa mà họ phải bình định và cai trị.  Nghiên cứu rồi sau đó đem theo mình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ; còn triều đình nhà Minh thì ở quá xa, làm sao có thể hiểu rõ những nhu cầu này và theo dõi chặt chẽ được, chưa kể tới chuyện ra lệnh chỉ là bề ngoài để che mắt mọi người.

Câu hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác phẩm nào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra dưới hình thức này hay hình thức khác chưa?  Câu trả lời là có.  Đó là Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh.  Hai cuốn sách này xuất hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại.  Việt Sử Lược đã bị thất truyền rất lâu, mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 – 1795) mới được đem in, nói là theo bản của Tuần Phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua với người hiệu đính là Tiền Hi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ Thủ Sơn Các Tùng Thư.  Việt Sử Lược được lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng Thư và ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được nhiều nhà xuất bản Trung Quốc ấn hành.  Tác phẩm này đã được Giáo Sư Trần Quốc Vượng phiên dịch sang Việt ngữ, giới thiệu và chú giải.[14] Trong bản dịch của ông, Trần Quốc Vượng có nói tới Thiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việc các người họ Lý bị đổi thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đối chiếu nội dung của Thiền Uyển Tập Anh với An Nam Chí Nguyên, nhà học giả Phật Giáo uyên thâm này đã khẳng định là: “Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên.” [15]

CHUYỆN NGÀY NAY

Trên đây là những gì tôi ghi tạm để cấp thời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới trẻ khi hiểm họa mất nước của dân tộc ta trước những toan tính ngàn năm, vừa công khai, vừa tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảo lẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên cao nguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối với đất đai cũng như đối với con nguời Việt Nam Mưu độc ngàn năm với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện một lần nữa đã trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng nóng hổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu chiến sĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua nhân danh bảo vệ đất nước.  

Bài viết, do đó, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp.  Riêng về giá trị văn chương của thi phú của ta so với của Tầu thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biết và khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ, vả lại đó không phải là loại tài liệu mà các tướng lãnh và các nhà cai trị người Minh quan tâm, nhất là loại thơ văn lãng mạn, tình cảm cá nhân.  Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳ hay các nhân vật liên hệ tới lịch sử mà thôi.  Điều tôi muốn nói lên ở đây là nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt hay chép lại rồi đề tên bất cứ người nào kháchay viết lại hay đạo văn của ta, nếu có, khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV với chủ trương chính yếu của họ là nhằm triệt tiêu khả năng tinh thần, lòng tự tin và nguồn hãnh diện của dân tộc ta để phòng ngừa hậu họa, đồng  thời giữ cho nước Tầu vị thế độc tôn, trung tâm của thế giới văn minh, không phải chỉ ở thời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau này nữa.Thơ văn chỉ là một phần nhỏ.  Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếu ta dùng từ ngữ chung của nhiều người khi nói tới hay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của đất nước ta. Một chính sách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà còn có thể được coi như phản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự thành công không thể ngờ được của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều Trung Quốc, một chính sách và một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiện tại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và long trọng xin lỗi, coi như đã phạm một tội ác đối với nhân loại.  Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, nằm ở giữa.  Chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, cùng với Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung… nằm ngoài rìa của Hoa Hạ thời cổ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại… Bao nhiêu tài nguyên, của cải quý báu nhất từ vật chất đến tinh thần trong thiên hạ là phải được tập trung hết về tay họ.  Những chiến thắng của người Việt trong các thời Lý Trần, đặc biệt là chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khi người Tàu thực hiện không nổi là những gì họ không thể chấp nhận được.  Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh là Minh Thái Tổ ban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến Chi Bang, vô tình ông đã mở đầu khai tử cả một nền văn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu duệ của ông, Minh Thành Tổ.  Là người sáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãi bao dung nhưng những người kế vị ông coi đó là một sự xúc phạm đến thiên triều khi chính tình của nhà Minh đã ổn định.  Cuối cùng ta cũng không nên quên là kiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu góp chất xám từ các xứ chung quanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những người tài giỏi khi các nước này còn độc lập hoặc ruồng bắt những người này khi các nước họ bị xâm lăng hay đô hộ đem về Trung Quốc.  Điều này đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh cho Trương Phụ và các tướng tá của ông này phải “tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói, đều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu huyện”.[16]  Lệnh này phải được hiểu xa hơn là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để phục vụ cho thiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong ngành hành chánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì phải đưa họ về Kim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm.  Đưa về phục vụ ở Đại Việt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung Quốc để khai thác mới là chính.  Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp và thu dụng nhân tài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của Hồ Quý Ly.  Bị bắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép tội và bị xử cực hình vì ông đã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng thần cơ, và sự hiểu biết của mình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh hay cung cấp cho nhà Minh những chỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần. Trái lại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang và đã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng đểsau này coi như là thánh tổ của họ.  Chưa hết, không lâu trước đó, năm 1385, thời Trần Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 9, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có ghi sứ thần Nhà Minh sang yêu cầu ta dâng nộp các nhà sư với các chi tiết như sau:

Trước đây, ta đưa sang nhà Minh những hoạn quan là bọn Nguyễn (Tông) Đạo và Nguyễn Toán.  Nhà Minh dùng họ làm chức nội quan, đối xử rất hậu.  Nguyễn (Tông) Đạonhân nói với vua Minh rằng: Phép thuật sư Nam giỏi hơn sư Bắc (Trung Quốc).  Đến đây, Minh sai sứ sang yêu cầu.  Nhà vua sai tuyển lấy 20 vị sư đưa sang Kim Lăng.[17]

Chưa hết, năm sau, 1386, cũng nghe Nguyễn Tông Đạo nói nước ta có nhiều cây quý, Nhà Minh lại sai Lâm Bột sang  yêu cầu dâng nộp. “Nhà vua lại sai viên ngoại lang là Phạm Đình đưa sang các cây : cau, vải, nhãn và mít, nhưng các cây ấy không quen chịu lạnh , dọc đường, đều chết hết cả”.  Sau đó “Nhà Minh lại sai Lý Anh sang hỏi nhờ đường nước ta để đi đánh Chiêm Thành và đòi 50 thớt voi nữa.  Ta bèn sắp xếp từ Nghệ An đổ ra , cứ theo dọc đường , dựng các cung trạm, chứa sẵn lương thảo, luân chuyển đưa đến Vân Nam”. [18]

Tưởng cũng nên biết thêm là do vị trí địa lý, ngay từ thời Bắc thuộc, Giao Châu đã là nơi Phật Giáo phát triển rất sớm và rất mạnh.   Các sư người Giao Châu như Mộc Xoa Đề Bà, Khuy Sung Pháp Sư, Huệ Diêm Pháp Sư, Trí Hành Thiền Sư, Đại Thặng Đăng Thiền Sư… đã sang tận Ấn Độ, Tích Lan để học hỏi và nghiên cứu; Nhật Nam Tăng sang trụ trì một ngôi chùa trong hang núi bên Tầu và được thi hào Trương Tịch tặng thơ, Vô Ngại Thượng Nhân được thi hào Thẩm Thuyên Kỳ làm thơ để tỏ lòng kính mộ.  Phụng Đình Pháp Sư và Duy Giám Pháp Sư sang Trung Quốc giảng kinh trong cung vua Đường, khi về được thi hào Dương Cự Nguyên và Cổ Đảo làm thơ tiễn biệt.  Nhận xét về những sự kiện này, Thượng Tọa Mật Thể viết:

Tăng già Annam mà được sang giảng kinh ở cung vua cũng là một sự hiếm có, mà bấy giờ bên Trung Quốc đời Đường Phật giáo đương hồi thạnh, hẳn không thiếu gì cao tăng mà Tăng già ta được dự vào việc giảng kinh, kể cũng là một điều chứng nhận vẻ vang cho lịch sử Phật giáo Việt Nam vậy. [19]

Đồng thời để giải thích sự phát triển này Thượng Tọa viết thêm:

Nước ta thời ấy làm trung gian cho Tàu và Ấn Độ lại có cái lợi này: hồi ấy dân Chàm còn mạnh lại ở gần ta, họ lại dùng chữ Phạn làm văn tự và thông hiểu cả tiếng Qua Oa (Java), nên ta cũng có nhiều người giao thiệp với họ, cũng hiểu hai thứ chữ đó.  Bởi thế những người Tàu qua Ấn Độ và người Ấn Độ qua Tàu, khi tới Giao châu, thường tìm người nước ta làm thông ngôn hoặc cộng tác dịch kinh chữ Phạn.  Như vậy ta không nên ngạc nhiên khi thấy nhiều kinh điển về bản cựu dịch hoặc tân dịch đều dịch lần đầu tại Annam.

Nói cách khác, người Tàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ từ các xứ  chung quanh về làm giàu cho xứ họ..  Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chung quanh không được phép hơn họ.  Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đó có sự hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơ phú… Thu góp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di sản văn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và người Mỹ, người Anh, người Pháp cũng làm; nhưng không thời nào, không người nào có mưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng Đại Việt.  Hậu quả là từ sau thời Minh Thuộc, Người Việt không bao giờ có được những vinh quang đáng nể đối với người ngoài, lòng tự tin và niềm hãnh diện cho chính mình như thời trước đó nữa.

Thay cho kết luận

Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tầu xảy ra cách đây hơn sáu trăm năm bị nhiều người không cho là quan trọng.  Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tầu nhằm tiêu diệt người Việt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận ra và đã quá muộn.  Nó nằm trong “Mưu Độc Ngàn Năm” với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện gần hai ngàn năm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ  đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua.  Không lẽ tổ tiên mình đã thành công bảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lại bất lực và để mất hay sao? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm “Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối” và Hai Bà Trưng đã tạodựng được “Bia đá rọi ngàn thu” [20] để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi hát cho mình mình nghe:

Để lại cho em này nước non mình.

Để lại cho em một nước đẹp xinh.

Một miền oai linh hiển hách.

Chỉ còn dư vang thần thánh.

Để lại cho em hèn kém của anh [21]

thay vì:

Người sau, kẻ trước lao vào địch,

Giữ vững ngìn thu một giống nòi. [22]

hay sao?  Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.

Phạm Cao Dương

Khởi viết Tháng Tư 2004,

sửa lại nhằm kỷ niệm Ngày Giỗ Trận Đống Đa, Nhâm Thìn 2012

Cập nhật hóa Xuân 2019

Xin chú ý:  Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viết về “Mưu Độc                               Ngàn Năm” của người Tầu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài                         nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông                                 Hán của Mã Viện kỳ trước.

(*) Giáo sư, Tiến sỹ Lịch sử.

DÂN VIỆT NAM ĐANG BỊ MỘT CỔ BỐN TRÒNG BÓC LỘT.

DÂN VIỆT NAM ĐANG BỊ MỘT CỔ BỐN TRÒNG BÓC LỘT.

FB.Duong Hoai Linh

– Tròng thứ nhất : Trung Quốc.

Trung Quốc đang thông qua đảng cộng sản để nhập khẩu hàng hoá dư thừa kém chất lượng, độc hại, phế thải vào Việt Nam. Hàng hoá này đã bóp chết nền sản xuất trong nước khiến nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp lao đao.

– Tròng thứ hai : đảng và chính phủ.

Đảng và chính phủ đã thi hành nhiều chính sách bóc lột thậm tệ sức lao động của dân Việt qua chính sách tăng thuế phí bằng cách đánh thuế vào các mặt hàng thiết yếu và tăng hàng trăm thứ phí bằng các thông tư nghị định của chính phủ. Đồng thời gia tăng cướp đất .

– Tròng thứ ba : doanh nghiệp tư bản trong nước và nước ngoài.

BOT là hình thức bóc lột của tư bản trong nước bắt tay câu kết với chính quyền.
Các nhà máy FDI là hình thức bóc lột của tư bản nước ngoài cấu kết với chính phủ CSVN để tận dụng nhân công giá rẻ, không cần các chế độ bảo hiểm lao động, phúc lợi xã hội (vốn rất cao ở các nước dân chủ, pháp trị) để hạ giá thành sản phẩm nhằm cạnh tranh với hàng hoá được sản xuất ở các nước dân chủ.

– Tròng thứ tư : tôn giáo.

Việc đảng CS quốc doanh hoá Phật giáo đã biến tôn giáo thành một ngành công nghiệp hái ra tiền. Chúng đã thay đổi giáo lý nhà Phật, xuyên tạc thuyết luân hồi, quả báo, vong báo oán để lừa bịp dân chúng nhằm biến chùa thành một BOT, trạm thu phí tín ngưỡng và nơi hối lộ thánh thần để tồn tại. Đây cũng là một hình thức bóc lột sức lao động của người dân qua tiền bạc trả phí cho sự u mê về dân trí.

Ngày xưa trước 1945 dân Việt chỉ bị một cổ 2 tròng. Bây giờ nhờ ơn đảng đã tăng lên thành một cổ 4 tròng.

Image may contain: motorcycle

“ĐẠO PHÁP-DÂN TỘC-CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”, BIẾN THÁI CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN TẠI

Image may contain: 1 person, smiling, sitting, standing, child and outdoor
Võ Hồng Ly is with Võ Hồng Ly.

25.03.2019

Thầy Tuệ Sĩ là một trong những người hiếm hoi của thời đại đủ tư cách, về sở học Phật giáo lẫn vị trí nhân chứng sống nhìn thấy mọi thăng trầm Phật giáo từ năm 1963 đến sau 1975 cũng như bây giờ, để viết về Phật giáo. Những gì ông viết không chỉ là chứng cứ. Nó là nỗi lòng của một bậc tu học. Đọc bài viết này của ông sẽ giúp hiểu rõ Phật giáo sau 1975 đã bị phá một cách có hệ thống như thế nào, dẫn đến tình trạng ngày càng sa lầy bát nháo vô phương cứu vãn! Hãy nghe lại câu “dằn mặt” của Mai Chí Thọ, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố HCM, với Hòa thượng Thích Trí Thủ, bấy giờ là Viện trưởng Viện Hóa Đạo, rằng: “Các thầy chỉ có hai con đường, theo hoặc chống. Các thầy theo, chúng tôi tạo điều kiện cho sinh hoạt. Các thầy chống, chúng tôi còn đủ xe tăng thiết giáp đó”! Trích…

“ĐẠO PHÁP-DÂN TỘC-CHỦ NGHĨA XÃ HỘI”, BIẾN THÁI CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN TẠI

Lời Dẫn: Bài tham luận này được viết đã lâu. Nguyên đề là “Văn minh tiểu phẩm,” chỉ là bài tham luận có tính chuyên đề. Bỗng nhiên nó mang tính thời sự. Ban đầu người viết không có ý định phổ biến rộng rãi, mà chỉ giới hạn trong một số thức giả đọc để suy ngẩm về quá khứ và tương lai.

Tuy nhiên, nay nó được cho phổ biến, vì trong mấy tuần vừa qua, Nhà Nước đã vận dụng bộ máy tuyên truyền khổng lồ và độc quyền, từ diễn đàn Quốc hội, cho đến các cuộc họp một số phường quận; từ Hội đồng chứng minh, Giáo hội trung ương, cho đến các ban Đại diện Phật giáo quận; bằng các phương tiện phát thanh, truyền hình, báo chí; mục đích là xác định lại lập trường “trước sau như một” của Đảng CSVN đối với Phật giáo, và cũng xác định sự hiện hữu duy nhất của Phật giáo qua đại diện hợp pháp là Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mà thực chất là một tổ chức chính trị của Đảng, thực hiện đúng sách lược tôn giáo theo chỉ thị của Lenin: “Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng.” Chính điều đó xác định rõ nhiệm vụ lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam như là công cụ bảo vệ Đảng, đúng như lời Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trước đây đã tuyên bố: Phật giáo Việt Nam là chỗ dựa cho người Cộng sản Việt Nam làm cách mạng (…)

Trước khi giới thiệu bản văn, nhân tiện tôi ghi thêm một vài sự kiện có tính lịch sử gần nhất, để người đọc có thêm cảm hứng suy luận. Tôi nói sự kiện lich sử gần nhất, là muốn nói ngay đến sự xuất hiện của Pháp sư Thích Trí Độ lần đầu tiên tại miền Nam sau ngày Cộng sản chiến thắng. Trên lễ đài chiến thắng, gồm các lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, hàng cao nhất. Pháp sư thay mặt Phật giáo miền Bắc, mà trên cương vị người chiến thắng, là chính thức đại diện toàn thể Phật giáo Việt Nam. Đó là vị Pháp sư, mà miền Nam gọi là Đại lão Hòa thượng. Ngài bận chiếc áo sơ-mi cụt tay như các cán bộ cao cấp khác của Đảng và Nhà Nước. Sự thực như vậy rất rõ: Phật giáo không tồn tại nữa ở Miền Bắc, mà chỉ tồn tại như một bộ phận của Đảng và lãnh đạo Phật giáo chỉ là cán bộ của Đảng và Nhà Nước.

Ở miền Nam, theo báo cáo của Trần Tư, tài liệu của Bộ Nội vụ phổ biến năm 1996, bấy giờ chỉ có “khoảng 2,5 triệu tín đồ.” Nhưng do nhu cầu lịch sử, nói theo lý luận của Đảng, nghĩa là chưa xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nên tôn giáo như thuốc phiện ru ngủ vẫn còn có nhiệm vụ lịch sử của nó; do nhu cầu lịch sử nên Đảng thừa nhận tồn tại tín ngưỡng Phật giáo. Tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Bởi vì, tin và thờ bình vôi, cây đa, ông Táo, ông Địa, là tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Đảng tôn trọng tự do tín ngưỡng, nhưng chỉ cho phép tin một số hiện tượng. Ngoài ra là mê tín, hoặc duy tâm mang tính phản động thì triệt để bài trừ.

Năm 1980, tôi được anh Võ Đình Cương mời họp thảo luận về văn hóa Phật giáo tại tòa soạn Giác Ngộ, tại đó, đại diện Mặt trận Thành phố HCM đến dự, và đề nghị (thực chất là ra lệnh): Nhiệm vụ văn hóa Phật giáo là bài trừ mê tín; do đó phải xét lại trong Phật giáo những gì không thuần túy thì phải dẹp bỏ. Thí dụ, Quan Âm, Địa Tạng có thuần túy Phật giáo hay không? Tôi phản ứng: đó là đức tin tồn tại ít nhất hơn 2.000 năm, trên một phạm vi châu Á rộng lớn; do đó không ai có quyền xét để dẹp bỏ. Tin hay không, đó là quyền tự do cá nhân. Nhưng dẹp bỏ thì không ai có quyền.

Ngay sau 1975, nhiều tượng Phật lộ thiên bị giựt sập. Gây chấn động lớn nhất là giựt tượng Quan Âm tại Pleiku. Viện Hóa Đạo đã có những phản ứng quyết liệt, và đích thân Hòa thượng Đôn Hậu mang tài liệu phản đối ấy ra báo cáo Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. Hòa thượng kể lại cho tôi nghe, sau khi chuyển hồ sơ vi phạm chính sách tôn giáo lên Thủ tướng; hôm sau Hòa thượng được một Đại tá bên Bộ Nội vụ gọi sang làm việc. Sau khi nghe Đại tá lên lớp chính trị, Hòa thượng nói: “Bởi vì Thủ tướng có nhờ tôi sau khi vào Nam trở ra Bắc, báo cáo Thủ tướng biết tình hình Phật giáo trong đó. Vì vậy tôi báo cáo những vi phạm để Chính phủ có thể kịp thời sửa chữa, ngăn chận cán bộ cấp dưới không để vi phạm. Nếu Thủ tướng không muốn nghe thì thôi. Còn việc lên lớp chính trị như thế này, đối với tôi (Hòa thượng) thì xưa quá rồi.” Dù sao, phản ứng ấy cũng làm chùn tay những đảng viên cuồng tín Mác xít, và tự kiêu về chiến thắng với khẩu hiệu nhan nhản các đường phố lúc bấy giờ: “Chủ nghĩa Mác Lê-nin bách chiến bách thắng muôn năm!” Nghĩa là, không thể tự do hoành hành như trong những năm sau 1954 trên đất Bắc.

Ở đây, chúng ta phải đặt câu hỏi: sau 1975, nếu không có Phật giáo miền Nam, cùng với thái độ cương quyết của các vị lãnh đạo Giáo hội Thống nhất, Phật giáo Việt nam sẽ thoi thóp đến lúc nào rồi đứt hơi luôn, với đà tự kiêu chiến thắng 1975 và với ảo tưởng về thành trì xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của Liên Xô?

Năm 1982 là cột mốc lớn cho Phật giáo Việt Nam, với lời tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đảng không dại gì mà dựa lưng vào chỗ mình chưa nắm chắc. Do đó, bằng mọi giá phải cải tạo Phật giáo miền Nam, giống như cải tạo xã hội chủ nghĩa theo phương thức tịch thu tư liệu sản xuất và đưa các chủ tư bản đi lao động cải tạo. Đảng biết chắc, tuy gặp phải chống đối quyết liệt của lãnh đạo Phật giáo, nhưng với bạo lực chuyên chính trong tay, sẽ phải cải tạo thành công. Trước hết, sự bức tử đối với Thượng tọa Tâm Hoàn, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình Định, năm 1975, gây kinh sợ không ít cho những ai cưỡng lại ý chí của Đảng. Kinh hoàng nhất là cái chết của Thượng Tọa Thiện Minh năm 1978, trong trại giam K4, Bộ Nội vụ. Đó là thời gian tôi được giam cùng trại với Hòa thượng Thiện Minh, nhưng hoàn toàn cách ly. Chỉ biết rõ, khi nghe tiếng Hòa thượng trả lời thẩm vấn ở phòng hỏi cung kế cận. Tất cả điều đó củng cố cho tuyên bố của ông Mai Chí Thọ, bấy giờ là Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố HCM, nói thẳng với Hòa thượng Trí Thủ, bấy giờ là Viện trưởng Viện Hóa Đạo: “Các thầy chỉ có hai con đường, theo hoặc chống. Các thầy theo, chúng tôi tạo điều kiện cho sinh hoạt. Các thầy chống, chúng tôi còn đủ xe tăng thiết giáp đó.” Hòa thượng trả lời: Không theo cũng không chống. Nhưng, đối với Đảng, không có con đường thứ ba.

Ý chí của đảng là một chuyện. Nhưng những người Phật giáo cũng nên tự đặt câu hỏi: Ban Liên lạc Công giáo Yêu nước cũng hoạt động rất tích cực, nhưng không đưa được Hội đồng Giám mục vào trong Mặt trận Tổ quốc. Trong khi, rất nhanh chóng, Phật giáo trở thành một bộ phận của đảng Cộng sản Việt Nam. Tại sao?

Từ ngày thành lập đến nay, Giáo hội thành viên Mặt trận đó đã làm những gì? Làm nhiều lắm, vì chùa chiền đồ sộ thêm lên. Như lời Hòa thượng Thanh Tứ phát biểu mới đây trong buổi lễ khai giảng của trường Phật học Trung cấp tỉnh Bình Định. Hòa thượng nói: “Phật giáo thời Lý rất thạnh. Nhưng không bằng nay. Vì nay cơ sở của ta to lớn hơn.” Ấy là, theo như lời Hòa thượng nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong bài phát biểu: nhờ chính sách của Đảng. Đó là sự thực không thể chối cãi. Nhưng cần nói cho rõ thêm, Việt Nam chúng ta bây giờ tiến bộ hơn thời Hồng Bàng gấp vạn lần. Thời Lý, nước Việt Nam chỉ từ Thanh Hóa trở ra Bắc, chỉ hơn 1/3 lãnh thổ hiện nay. Như vậy thì cơ sở hiện nay nhất định phải to lên rồi.

Nhưng cái to hơn ấy của lịch sử bốn nghìn năm văn hiến lại chưa bằng một phần nhỏ của Thái Lan chỉ hơn 8 thế kỷ định cư. Và cũng nhờ chính sách của Đảng, nếu chính sách đó trước sau như một, nghĩa là như Phật giáo miền Bắc trước 1975, thì không biết ngày nay các Hòa thượng khi xuất hiện trước công chúng sẽ khoác tăng bào, hay cũng chỉ bận áo sơ mi cán bộ như Pháp sư Trí Độ trước đây? Trên toàn miền Bắc, cho đến 1975, có trên dưới 300 “ông sư, bà vãi.” Đến 1996, theo báo cáo Bộ Nội vụ của Trần Tư, “Hiện nay Phật giáo ở miền Bắc có khoảng 3.000 tăng ni, tín đồ phần đông là ông già (bà già là chủ yếu–nguyên văn). Số cao tăng tiêu biểu hầu hết đã già yếu không còn khả năng hoạt động. Số tăng ni trẻ trình độ văn hoá cũng như lý luận về Phật giáo thấp, không đủ sức làm nhiệm vụ tranh thủ Phật giáo miền Nam và hoạt động quốc tế.” Giáo hội Phật giáo Việt Nam phục vụ cho cái gì, theo báo cáo đó đã quá rõ.

Vậy thì, qua hơn 20 năm hoạt động, trong tư cách là một bộ phận của đảng, Giáo hội PGVN đã làm thêm được gì cho văn hóa Phật giáo Việt Nam so với những gì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã làm trước 1975? Trong khi cả khu vực, và kể luôn cả nước Việt Nam đều tiến bộ, theo chừng mực nào đó, mà Phật giáo Việt Nam chưa lấy lại được thế đứng của nó trong lòng văn hóa dân tộc như trước đó, vậy thì Đảng hỗ trợ Phật giáo Việt Nam tiến theo hướng nào trên trường quốc tế? Ngoài tờ Giác Ngộ ra, với ba cơ sở giáo dục cao cấp, tương đương đại học, nhưng đã có công trình gì đáng kể?

Vậy thì, qua hơn 20 năm hoạt động, trong tư cách là một bộ phận của đảng, Giáo hội PGVN đã làm thêm được gì cho văn hóa Phật giáo Việt Nam so với những gì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã làm trước 1975? Trong khi cả khu vực, và kể luôn cả nước Việt Nam đều tiến bộ, theo chừng mực nào đó, mà Phật giáo Việt Nam chưa lấy lại được thế đứng của nó trong lòng văn hóa dân tộc như trước đó, vậy thì Đảng hỗ trợ Phật giáo Việt Nam tiến theo hướng nào?

Bề ngoài, cũng còn có mặt đáng nói khác, đó là giáo dục. Trước hết, bao nhiêu cơ sở Trung học Bồ đề, và các Viện Đại học: một Vạn Hạnh, và một Phương Nam, của Phật giáo miền Nam, nay biến đi đâu mất? Nói là biến, vì hầu hết các tăng ni sinh, kể cả những vị đang học tại các trường cao cấp Phật học, không biết các cơ sở giáo dục này là cái gì, dạy những gì trong đó. Chính vì vậy mà họ chỉ biết Phật giáo Việt Nam tiến bộ vì chùa to Phật lớn.

Các tăng ni sinh này được đào tạo để làm gì? Không thấy họ được đưa về các địa phương để giảng pháp cho Phật tử. Cũng không có cơ sở văn hóa nào để họ phục vụ. Hầu hết, học xong, trở về chùa, làm nghề thầy cúng hoặc thầy bói. Tất nhiên cũng có nhiều thầy cô vẫn tìm cách mở các khóa học Phật pháp, nhưng cũng chỉ giới hạn trong một số tỉnh thành lớn, nhất là Thành phố HCM. Ngay như Huế, được xem là kinh đô của Phật giáo miền Nam, hầu như các thầy chỉ đi cúng và đăng đàn chẩn tế, hoặc lập đàn chay phá cửa địa ngục cho cô hồn đi chơi, chẳng có buổi giảng kinh nào đáng kể. Còn cái trường gọi là cao cấp Phật học, hay Học viện Phật giáo Hồng Đức, sau khi Hòa thượng Thiện Siêu tịch rồi, không còn thầy cô nào đủ sức dịch cho xuôi một trang luận Câu-xá, thì lấy chữ đâu mà giảng dạy kinh luận cho tăng ni sinh trình độ cao đẳng, đại học?

Nhìn chung, Phật giáo chỉ đang phục vụ nhiều nhất cho người giàu. Còn quần chúng tại các vùng sâu xa, vì họ thiếu phước, kiếp trước ít tu, nên nay chẳng mấy khi được nghe các thầy cô thuyết pháp. Còn lập đàn chẩn tế và phá cửa địa ngục cho ông bà cha mẹ siêu thăng, đốt vàng mã thật nhiều cho ông bà có tiền tiêu và có xe hơi nhà lầu, dưới âm phủ, thì họ không đủ tiền.

Tóm lại, nếu nói Phật giáo Việt Nam hiện tại chẳng có tiến bộ gì thì không đúng. Vì cơ sở chúng ta hiện nay đồ sộ hơn trước, kể cả miền Nam trước 1975 chứ không cần so sánh xa xôi lùi cho đến đời Lý như Hòa thượng Thích Thanh Tứ. Ngoài việc xây dựng chùa to Phật lớn, Phật giáo hiện tại đã đóng góp gì cho gia tài văn hóa, tư tưởng của dân tộc, ngoài sứ mệnh được giao phó là rao truyền chính sách sáng suốt của Đảng quang vinh? Còn chuyện tìm một vị trí của Phật giáo Việt Nam, dù chỉ khiêm tốn thôi, trong thế giới hiện đại, là điều mộng tưởng xa vời.

Gần đây, các trường Phật học tại Sài Gòn sợ tăng ni sinh nghe thêm những nguồn thông tin không phù hợp với sự tuyên truyền một chiều vừa độc quyền vừa độc đoán của Nhà nước, nên vừa cảnh cáo, vừa khuyên răn: hãy quên đi quá khứ mà lo chăm học cho hiện tại. Quên đi quá khứ hận thù, để sống trong tình cảm dân tộc bao dung, đó là điều cần phải học. Nhưng quên đi những thành tựu quá khứ gần nhất, chỉ cách đây chưa đầy 30 năm, để rồi so sánh sự tiến bộ của ta ngày nay với thời đại Hồng Bàng, hay với thời Lý như Hòa thượng Thanh Tứ, thế thì bản chất của nền giáo dục Phật học ấy là gì? Có phải các thầy muốn dạy tăng ni sinh quên đi những hy sinh gian khổ của Thầy Tổ đã tạo ra di sản ngày nay, do vậy họ sẽ nhận thức dễ dàng rằng những gì chúng ta đang thừa hưởng ngày nay là nhờ công ơn Đảng và Nhà nước?

Lời hăm của các thầy có giá trị “hàn mặc di luân” của những nhà giáo dục. Chính vì thế tôi cho phổ biến bài tham luận này, mà trước đó tôi cho là ý kiến cá nhân nên giới hạn người đọc. Bây giờ tôi vẫn xem đây chỉ là quan điểm cá nhân. Nhưng tôi cho phổ biến để các thầy có cơ sở kiểm chứng những thành tựu mà Nhà nước đã giúp Phật giáo Việt Nam. Tất nhiên, tôi nhận mọi trách nhiệm trước pháp luật, và trên hết, trước lương tâm của một con người còn tin tưởng giá trị làm người.

Già Lam 10-11- 2003,
…..
Nguồn: “Tuệ Sĩ Đạo sư – Thơ và phương trời mộng”, tập 2, Nguyên Siêu; Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang, in lần thứ nhất; California – Hoa Kỳ 2006

(Copy từ trang của nhà báo Mạnh Kim).

Tôi đã khóc khi không có giày để đi…

Thanh Nhan Le shared a photo to the group: Tin tức thế giới.

Trên thế gian này có biết bao nỗi thống khổ ! Nhưng không nỗi khổ nào giống nỗi khổ nào !!! Nhưng nghị lực phi thường họ đã vượt qua tất cả ! Cảm ơn Trời Phật, Cảm ơn cha mẹ đã cho tôi 1 thân hình lành lặn đầy đủ !!! Cầu cho tất cả nhân loại trên thế gian được sống trong an toàn ấm no hạnh phúc !!! Chúc cháu mãi mãi mạnh khỏe an yên trong cuộc đời ! Hãy bằng lòng với những gì bạn đang có, dù không đẹp bằng người khác, nhưng vẫn hạnh phúc hơn những mảnh đời éo le, thiệt thòi khác, nhiều người đã đẹp rồi còn muốn đep nữa nạm dụng dao kéo chỉnh sửa để rồi cuối cùng, biến dạng không ai dám nhìn nha !!

Cầu mong em luôn khỏe mạnh bước tiếp trên con đường đầy khó khăn cố gắng lên trời phật sẽ phù hộ cho em !!

NẮNG SÀI GÒN

NẮNG SÀI GÒN
Sài Gòn Tháng Ba
Nắng vàng thêm nỗi nhớ
Nắng cháy da người
Nắng đốt sợi buồn khô
Tháng Ba bơ phờ
Tháng Ba bỗng lơ ngơ
Giàn hoa nhỏ nắng tràn qua kẽ lá
Sài Gòn nhớ
Sài Gòn thương
Sài Gòn quen mà lạ
Nụ hôn nào làm tơi tả đời nhau
Đau quá đi thôi , làn môi bỗng úa nhàu
Tay không đủ ngăn lao xao màu nắng
Sài Gòn đó
Của một thời xa vắng
Của một thời đội nắng đợi chờ ai
Sài Gòn trong tôi
Một đời mãi không phai
Sài Gòn mãi là tình yêu và nỗi nhớ

Sài Gòn 25.3.2019

Image may contain: people sitting, living room, table and indoor

ĐCSTQ đã huỷ hoại Phật giáo và các tôn giáo khác thế nào?

Phá hoại tôn giáo không chỉ là việc khiến con người hiểu sai về tôn giáo, mà còn phá hủy tôn giáo từ bên trong, biến tôn giáo đó thành một thứ tà đạo, đánh tráo các giáo lý chân chính bằng giáo lý tà đạo nhưng vẫn giữ nguyên tên nhằm phục vụ cho các mục tiêu quyền lực thay vì mục tiêu chân chính của tôn giáo là giúp con người đề cao đạo đức.

Lịch sử nhân loại cho thấy có 5 thủ đoạn thường dùng để phá hoại một tôn giáo, đó là:

  • Phá hủy môi trường lưu truyền
  • Làm méo mó giáo nghĩa
  • Dựng chuyện, chụp mũ, tuyên truyền, kích động thù hận
  • Phá hoại từ bên trong
  • Tôn giáo chính trị – Sùng bái cá nhân

Phá hoại từ bên trong là cài những người không có tín ngưỡng vào bên trong tôn giáo, trực tiếp dẫn dắt những người có tín ngưỡng đi theo con đường sai lầm, đồng thời khiến những người chưa bước chân vào tôn giáo cảm thấy chán ghét tôn giáo… từ đó mà hủy đi niềm tin của con người nói chung vào giá trị chân chính của tu luyện, nâng cao chuẩn mực đạo đức, hướng về cội nguồn của văn hóa truyền thống.

“Phá hoại tôn giáo không chỉ là việc khiến con người hiểu sai về tôn giáo, mà còn phá hủy tôn giáo từ bên trong…. Đó là việc cài những người không có tín ngưỡng vào bên trong tôn giáo, trực tiếp dẫn dắt những người có tín ngưỡng đi theo con đường sai lầm, đồng thời khiến những người chưa bước chân vào tôn giáo cảm thấy chán ghét tôn giáo… từ đó mà hủy đi niềm tin của con người nói chung vào giá trị chân chính của tu luyện, hướng về cội nguồn truyền thống…”

#trithucVN

 Hôn nhân tốt là học được cách khoan dung cho sự không hoàn hảo của bạn đời

 Hôn nhân tốt là học được cách khoan dung cho sự không hoàn hảo của bạn đời

Yêu đương nhiều năm, không bằng kết hôn một năm có thể biết hết tính cách của người bạn đời. Sau khi kết hôn, hai người dần tiết lộ ‘màu sắc’ thật của mình…

Cô con gái của người hàng xóm sắp kết hôn, bố mẹ cô ấy có mối quan hệ tốt với tôi, muốn tôi có thể dặn dò cô ấy mấy điều. Tôi là người chứng kiến cô bé dần dần trưởng thành. Cô bé là một người con gái thiện lương, tính cách ngay thẳng, những việc nhỏ có chút hồ đồ, nhưng việc lớn tuyệt không thể ngớ ngẩn. Chàng trai hôn phu kia là một anh chàng thông minh, cũng giống như cô gái, có tính cách đơn giản.

Hai người là bạn cùng lớp đại học, trải qua những năm này, cũng chịu đựng thử thách của tình yêu, trải qua nỗi đau chia tay. Cho đến hôm nay, 6 năm sau, tựa như đưa tay làm tan mây thấy ánh trăng, cuối cùng cũng kết thúc tình yêu đường dài và chuẩn bị bước vào cung điện hôn nhân.

Các bạn trẻ sẽ biết rằng hoàng tử và công chúa bước vào cung điện hôn nhân, không phải là kết thúc của câu chuyện, mà là khởi đầu của một hành trình khác.

Phải trải qua ‘năm cửa ải, chém sáu tướng’ trên con đường dài mới đi đến bến bờ bên kia của hạnh phúc.

Yêu đương nhiều năm, không bằng kết hôn một năm có thể biết hết tính cách của người bạn đời. Sau khi kết hôn, hai người dần tiết lộ ‘màu sắc’ thật của mình.

Chàng không còn là hoàng tử hào hoa, áo quần bảnh bao là lượt, nàng không còn là cô công chúa dịu hiền xúng xính váy áo mà có thể là một người nóng nảy, không thích làm việc nhà…

Nếu có sự chênh lệch như rơi từ độ cao vạn trượng như vậy, chúng ta nên cân bằng như thế nào?

Đêm đó, tôi suy nghĩ về điều đó, và muốn nhắn gửi cho cô cháu gái kia một lời khuyên:Một cuộc hôn nhân tốt đẹp, là khoan dung với sự không hoàn hảo của đối phương.

Không biết cô gái có hiểu điều tôi muốn nhắn gửi hay không.

Ai chẳng muốn có một cuộc hôn nhân hoàn hảo?

Nhưng trên đời nào có người bạn đời và cuộc hôn nhân hoàn hảo như thế? Nếu có thì cũng chỉ là ‘một mắt nhắm một mắt mở’ giả ngốc mà thôi.

Vậy nên, có thể bình thản ung dung, tìm lấy điểm chung, gác lại mọi sự bất đồng, mới có được sự bình an vô sự của hôn nhân.

Từ từ đối diện với bản thân và chấp nhận cuộc hôn nhân không hoàn hảo, chấp nhận một người bạn đồng hành không hoàn hảo.

Bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu ngọt bùi, cùng bao nhiêu cãi vã và mâu thuẫn… đều đã trải qua rồi. Cả chồng và vợ đều đã trưởng thành hơn rất nhiều. Khi này mới biết cảm ơn nhân duyên và số phận đã cho ta là bạn đời của nhau.

Giữa vợ chồng với nhau, ngoài tình nghĩa thì còn có duyên nợ. (Ảnh minh họa: goalcast.com)

Hôn nhân, chia thành nửa đầu và nửa cuối

Khi còn trẻ, đó là nửa đầu.

Trong nửa đầu, sẽ có nhiều hơn những xung đột phát sinh: mâu thuẫn với bạn đời, mâu thuẫn trong cách dạy con, mâu thuẫn với mẹ chồng, thậm chí xuất hiện người thứ ba… Khi này, ‘tinh thần tranh đấu’ của của cả chồng và vợ đều rất cao. Khi chiến tranh nổ ra, không gì khác hơn là cướp bóc chiếm hữu đất đai, ai cũng muốn giành phần thắng về mình.

Cuộc sống không ai sẽ luôn suôn sẻ, luôn có những va chạm và thất bại, luôn có những câu chuyện xảy ra, và tất cả là để thử thách lòng người.

Chúng ta có thể vấp ngã nhưng rồi vội vàng đứng dậy để đi đến nửa sau của hôn nhân.

Sau tuổi trung niên, đó là nửa thứ hai

Nửa sau của hôn nhân chủ yếu là đối mặt với những thử thách lớn hơn, ví dụ, với bệnh tật, với đủ thứ tai nạn, với tuổi già…

Tình yêu vào lúc này đến thật chân thực và vô thức.

Nhắm mắt làm ngơ trước những thiếu sót của bạn đời, sau đó, đối phương thực sự trở thành nửa kia gắn bó với phần còn lại của bạn.

Do đó, khi con người đến tuổi trung niên, họ sẽ dần phát triển trí tuệ của hôn nhân. Họ biết thay đổi và chấp nhận những thiếu sót của người bạn đời ở bên cạnh mình. Từ đó họ chăm sóc, bên nhau sớm tối không một chút kêu ca oán thán.

Sau tuổi trung niên vợ chồng lúc này đối với nhiều thứ sẽ không còn nặng nề nữa, tình yêu đến thật chân thực và vô thức. (Ảnh minh họa: kamzakrasou.sk)

***

Sớm hay muộn mọi người sẽ hiểu rằng hầu hết chúng ta đều không hoàn hảo. Tất cả đều có khiếm khuyết, chúng đều mong manh, chúng không hoàn hảo, chúng rất tầm thường.

Nhân duyên đưa hai người đến với nhau, và xây dựng nên một nơi gọi là “Nhà”. Với một người hoàn toàn xa lạ, họ đã yêu thương và sưởi ấm cho nhau.

Bạn càng sớm biết tha thứ, khoan dung đối phương, bạn sẽ càng sớm có được hạnh phúc.

Tình yêu dẫu thật đẹp, nhưng hôn nhân cũng không dễ dàng.

Hôn nhân là một tòa thành, bên trong có chiến hữu đồng minh của bạn.

Hôn nhân là một hợp đồng giấy, và bên kia là đối tác của bạn, người được giao phó cho bạn.

Vì có cơ hội đến với nhau, hãy chắc chắn rằng sẽ học cách tha thứ cho sự không hoàn hảo của người ấy.

Khi bạn không may ‘say nắng’ người khác, cảm thấy chán nản và muốn từ bỏ người bạn đời, lúc này hãy tự hỏi: Bạn có hoàn hảo hay không?

Khi giận, đừng ngại nhìn lại khuyết điểm của chính mình. Nên nhớ rằng, người ấy đã ở bên cạnh mình, cùng trải qua bao nhiêu khó khăn thử thách, coi như người ấy cho bạn “vay mượn tình yêu”. Vậy thì giờ đây, điều bạn phải trả là lãi suất cao gấp bội. Vậy sao còn nghĩ đến hai từ “Chia tay”?

Những ai hạnh phúc trong hôn nhân cuối cùng sẽ hiểu rằng:

Thỏa hiệp không phải là thừa nhận thất bại, mà là nhận ra bản chất sáng suốt, rộng mở của cuộc sống.

Tha thứ không phải là hèn nhát, mà là sự can đảm và lòng trắc ẩn sau khi đọc được ý nghĩa của cuộc đời.

Một cuộc hôn nhân tốt đẹp, là khoan dung với sự không hoàn hảo của đối phương. Vợ có phẩm chất, chồng có khuôn mẫu, dẫu kết hôn nhiều năm, vợ chồng vẫn mãi yêu thương nhau!

From: TU PHUNG