KHÁC NHAU Ở CON NGƯỜI 

Image may contain: sky, mountain, nature and outdoor
Image may contain: sky, outdoor and nature
THÔNG LUẬN

KHÁC NHAU Ở CON NGƯỜI 

Sa mạc ở Israel và các nước Jordan, Ai Cập…là giống nhau ở chỗ là toàn cát, khoan hàng trăm mét vẫn không có giọt nước nào. Thổ nhưỡng khí hậu giống nhau, chỉ có con người là khác. 

Trên sa mạc này, người Do Thái đã trồng chà là (tiếng Anh là DATE) và thu được tiền rất nhiều từ xuất khẩu loại quả này đi khắp thế giới trong khi người Ai Cập vẫn tập trung trồng dọc theo con sông Nile (sông Nin) và vài ốc đảo có sẵn nước. Cùng điều kiện lịch sử địa lý, nhưng thu nhập của Israel đã đạt mức 40,000 đô la Mỹ/người/năm so với 2,500 đô la Mỹ/người/năm của người láng giềng Ai Cập. Nghèo là do đầu óc dở quá dở, không chịu tính toán làm ăn, không chịu đi xa học hỏi, không chịu hành động gì. Với người có đầu óc, tiền không phải là mục tiêu của làm việc. Mục tiêu là có thành tựu lớn để lại cho đời. Ai ai cũng tâm niệm vậy nên có tiền là đầu tư, nhỏ đầu tư nhỏ, lớn đầu tư lớn, sản xuất làm ăn và làm ăn. Ở Israel, người ta chỉ mua đất để sản xuất, không có đầu cơ chờ tăng giá. Còn ở thì chỉ 1 diện tích rất nhỏ, gọi là nhà ở, không lãng phí tài nguyên vì tham, vì tiền. 

Một chuyên gia nông nghiệp Israel đã từng sang Phan Rang Ninh Thuận và thốt lên, khí hậu và đất đai ở đây sao tốt vậy mà các bạn không trồng gì? Tôi vẫn thấy vài bụi cây trên đất chứ bên tôi là chẳng có cây nào mọc tự nhiên nổi. Đất các bạn cứ khoan 100-200 mét có nước, cách vài chục km có con sông hay hồ thuỷ điện thì đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt, đảm bảo mọi sa mạc sẽ nở hoa. Ông nói nếu tỉnh này chủ động sang Israel tiếp thị đầu tư, mời Israel quy hoạch và làm tất cả thành khu nông nghiệp công nghệ cao Israel ở Ninh Thuận, đảm bảo tỉnh này sẽ số 1 Việt Nam về thu nhập. Chỉ xuất cho Trung, Hàn, Nhật….những trái cây nhiệt đới mà 3 nước kia không trồng được, thì chúng ta thật sự không đủ nhân công làm, thậm chí phải nhập công nhân nông nghiệp từ Campuchia, Indonesia, Băng La Đét….Cứ có nắng thì sẽ làm nông nghiệp tốt. Các nước ôn đới họ thèm nắng kinh khủng mà không có….
UBND tỉnh Ninh Thuận, Quảng Trị,…nên chủ động liên hệ Đại Sứ Quán Israel tại VN để hẹn đi xúc tiến đầu tư, nhờ họ làm 1 tiểu Israel tại Việt Nam vì khí hậu tương đồng. Còn không thì mỗi cá nhân tự đầu tư cũng được. Còn trẻ thì đi Israel nghiên cứu học tập để về làm.

Đi du học là nghiên cứu học tập nước ngoài để bắt chước về làm, không phải vì mấy đồng lương của đầu óc nhỏ. Đầu óc nhỏ thì sẽ nghèo vĩnh viễn….
Không biết làm thế nào để giới trẻ VN có được đầu óc lớn nữa. Cha mẹ thầy cô xã hội nhồi nhét toàn chắc ăn, an toàn, ổn định, nghĩ nhỏ, nghĩ ngắn…từ bé, nhiều bạn không thoát ra được. Không chịu làm, cái gì cũng sợ, rồi ngửa tay xin việc hoặc xin tiền mẹ cha. Có tiền thì cũng chỉ biết chi tiêu, mua đất mua nhà mua xe chứ không đầu tư làm ăn gì ở quê hương. Ngán ngẩm với những mái đầu chim sẻ lúc nhúc trên phố.

“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng chỉ trong 1 tà áo đẹp
Một mái nhà yên, rủ bóng xuống tâm hồn….”

( Fb Lê Vi )

Nguồn Ăn Trưa Cùng Tony

BIẾT DỨT KHOÁT ĐỨNG DẬY VÀ TRỞ VỀ

BIẾT DỨT KHOÁT ĐỨNG DẬY VÀ TRỞ VỀ

Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản.  Có bao giờ chúng ta cảm được kinh nghiệm đó chưa?  Đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi khám bác sĩ bảo không có gì đáng ngại, sẽ khỏi.  Đó là kinh nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đổ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt.  Đó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng, trong những trường hợp đó, chúng ta sẽ thấy thấm thía khi hát lên thánh vịnh 124: “Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát.”

Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giosuê kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Đất Hứa.  Không còn nữa những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm.  Dân Chúa đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống.  Họ đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ.  Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề.  Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca “Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt.  Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn.”

Nơi bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã nhắc cho tín hữu thành Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được.  Đó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.  Công cuộc trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa.  Tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón.  Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: “Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa.”

Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương.  Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Đất Hứa của dân Do Thái trong sách Giôsuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.

Đến bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả.  Để an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: “Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi,” Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về.  Người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình.  Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình.  Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con.  Người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoại cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình.  Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào.  Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.

Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha, và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương.  Đó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời “Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu chân thành.  Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan.”

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi noi gương người em trong gia đình nơi bài dụ ngôn của Chúa Giêsu.  Tôi phải làm một hành động chứng tỏ tôi nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha tôi, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người.  Hành động đó có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ.  Và kế đó học lấy bài học của người anh: Tôi không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ.  Tôi hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha tôi khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.

Radio Veritas Asia – Trích trong “Suy Niệm Lời Chúa”

From: suyniemhangngay1 & NguyenNThu

Hãy để con đứng thẳng!

Hãy để con đứng thẳng!
Thứ Năm, 28/03/2019 •

Vụ nâng điểm thi PTTH ở Sơn La, Hòa Bình đến bây giờ – tháng 3/2019 – mới thông báo kết quả điều tra, tức là đã qua thời hạn bổ sung trúng tuyển vào các trường đại học là tháng 12/2018. Sắp hết một năm học, gần 70 thí sinh được nâng điểm thi rất cao, có em được nâng đến 26,5 điểm – đã yên vị trên ghế của nhiều trường đại học, và tất nhiên, gần 70 em khác đã mất chỗ hợp pháp của mình ở những trường đại học ấy!

Cuộc điều tra đã kéo dài quá lâu dù được phát hiện sớm ngay trước thời điểm xét tuyển đại học. Lẽ ra những thí sinh bị nghi ngờ cần tạm dừng xét tuyển chờ kết quả điều tra, như vậy cuộc điều tra phải khẩn trương hơn để có kết quả sớm trong thời gian có thể bổ sung danh sách trúng tuyển, tránh trường hợp trượt oan đậu gian. Nhưng vì tất cả thí sinh “chạy điểm” đã được vào đại học nên… không đi đâu mà vội, mọi việc cứ tuần tự “đúng quy trình” như không có gì xảy ra!

Nay, kết quả điều tra thừa nhận có gian lận điểm, tức là sự vi phạm là cố ý, có tổ chức, không chỉ từ những cán bộ ngành giáo dục tham gia và thực hiện việc này mà chắc chắn có sự tiếp tay, thao túng của những phụ huynh có con em đã được nâng điểm. Ai có thể “chạy điểm” cao đến mức chắc chắn đậu đại học, thậm chí ở top đầu của các trường?

Vậy mà, trước đòi hỏi của dư luận về việc cần công khai danh tính phụ huynh và cả các thi sinh gian lận điểm thi, những người có trách nhiệm lại cho rằng không công bố tên phụ huynh và nhất là tên các thí sinh – vì tính nhân văn, vì sợ ảnh hưởng tâm lý các em, thậm chí còn có ý kiến đó là do phụ huynh chứ không phải lỗi của các em! Phụ huynh chắc chắn phải chịu trách nhiệm khi “chạy điểm” cho con dù bằng bất cứ cách nào: bằng tiền hay bằng ảnh hưởng của chức vụ, quyền hạn, thậm chí chỉ bằng “quan hệ tình cảm”. Nhưng các thí sinh được nâng điểm liệu có vô can?

Đủ tuổi vào đại học tức là các em đã trưởng thành. Sức học, kết quả bài thi của mình thế nào chắc chắn các em biết rõ hơn ai hết, gần một năm qua sự việc ở ngay địa phương, ngay hội đồng thi của mình thế nào, liên quan đến gia đình mình thế nào, không lẽ các em không biết?! Thế mà vẫn thản nhiên nhận một kết quả gian dối tức là thản nhiên hất một người bạn ra khỏi cổng trường đại học để mình bước vào đó bằng đôi chân của cha mẹ!

Đối xử “Nhân văn” với những thí sinh gian lận còn những em bị trượt đại học một cách oan ức thì sự nhân văn ở đâu? Nhân văn với phụ huynh gian lận vậy sự nhân văn nào với phụ huynh có con bị trượt đại học oan ức? Một năm con của các vị yên ổn trong trường đại học là một năm con của người khác bất yên vì lo học lại thi lại, thậm chí mất hẳn cơ hội vào đại học. Các em “chạy điểm” hay “mất điểm” đều là nạn nhân của sự gian lận của người lớn, nhưng đừng cho rằng các em được “chạy điểm” là vô can khi biết rõ mình đã cướp đi cơ hội của người xứng đáng hơn mình! Không công bằng làm sao có sự nhân văn? Nếu các em này thực sự hối hận thì đã không có mặt trong trường đại học.

Vấn đề là việc công bố danh sách này như thế nào chứ không phải là im lặng cho qua, bởi vì không sự thật nào có thể che giấu được. Dù không công bố thì ở những trường đại học có thí sinh “chạy điểm” rồi mọi người cũng sẽ biết (thậm chí đã biết) danh tính các em, lúc đó sẽ rất ê chề! Các vị phụ huynh có thể đến trường “đeo mặt mo” thay con được không?

Làm người lớn là biết tự chịu trách nhiệm, nhưng còn phải biết để cho con trưởng thành trên đôi chân của chính nó chứ không phải trên đầu gối của cha mẹ. Khi cha mẹ can tâm chạy chọt cơ hội vào đời cho con là tước đi quyền “đứng thẳng” của con và làm cho con trở thành khuyết tật về nhân cách!

Sài Gòn, 26/3/2019

Nguyễn Thị Hậu (nhà nghiên cứu khảo cổ học, văn hóa học)

  MỘT BÀI THƠ ĐÁNG ĐỌC CHO MỌI NGƯỜI VN

  MỘT BÀI THƠ ĐÁNG ĐỌC CHO MỌI NGƯỜI VN

Chỉ cần 1 bài thơ như thế này người trẻ Nguyễn Quốc Chánh đã khiến cho mọi người VN biết làm thơ , đọc thơ phải cúi đầu khâm phục .

QUÊ HƯƠNG VÀ CHỦ NGHĨA

Một bài thơ viết từ SAIGON rất hay…giới trẻ cần quan tâm.

Chủ nghiã dạy em, thù hận hờn căm.

Chủ nghiã dạy em, độc ác bất nhân

Chủ nghiã dạy em, lọc lừa xảo trá

Chủ nghiã dạy em, dối gian trăm ngả

Chủ nghiã dạy em, bội phản vong ân.

Chủ nghiã dạy em, giết chết lương tâm

Chủ nghiã dạy em, vô thần đấu tố.

Chủ nghiã mù, rước voi dày mả Tổ.

Chủ nghiã ngu, thờ đồ tể ngoại bang.

Chủ nghiã bưng bô, xây dựng thiên đàng.

Chủ nghiã lừa em, những con bò sữa.

Chủ nghiã bất lương, ma cô nhà chứa.

Chủ nghiã tú bà, dụ dỗ thơ ngây.

Chủ nghiã cò mồi, vơ vét luôn tay.

Chủ nghiã cai thầu, bán buôn Tổ-Quốc/

Chủ nghiã lưỡi câu, móc mồi dân tộc.

Chủ nghiã bịp lừa, bánh vẽ tự do,

Chủ nghiã cá ươn, tư tưởng vong nô

Chủ nghiã chết đi, Quê Hương vẫn sống

Ai nhân danh hạnh phúc

Thứ hạnh phúc ngục tù

Ai nhân danh dân chủ

Thứ dân chủ si ngu.

Ai nhân danh chân lý

Thứ chân lý đui mù

Bao nhiêu năm, ai nhân danh chủ nghiã,

Tự-Do xích xiềng, Dân-Chủ dối gian

Mác-Lênin, đâu phải người Việt Nam !

Sự thật đó có làm em đau nhói ?

Vẫn chập chờn lượn bay bầy quạ đói

Chồn cáo kia có rình rập trước sau ?

Ngẩng mặt cao và đừng sợ đớn đau.

Đứng lên em bằng tâm hồn biển động.

Em đứng lên như đại dương dậy sóng

Tiếng sét thần tuổi trẻ nổ ầm vang

Những tượng hình, chủ nghiã, phải tiêu tan

Cây Dân-Chủ bừng lên ngàn sức sống,

Em bây giờ khôn lớn

Mắt rực lửa yêu thương,

Biết đâu là sự thật

Em tìm thấy con đường.

Tự-Do sẽ nở hoa

Trên quê hương khốn khó

Anh như con ngựa già

Vẫn cúi đầu kiên nhẫn

Đốt những đám cỏ khô

Dọn đường cho em đi làm lịch sử.

Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh sinh năm 1958 ở Bạc Liêu, hiện sống

tại Sài Gòn. Tác giả của nhiều tập thơ như

Ðêm mặt trời mọc,

Khí hậu đồ vật và

Của căn cước ẩn dụ,

Ê, tao đây..

Thơ của ông đã được nhiều tác giả dịch ra tiếng Anh. Trong

bài phỏng vấn dành cho nhà văn Vi Ký, nhà thơ

Nguyễn Quốc Chánh nhận xét về đảng Cộng Sản:

“ Ðảng Cộng sản

thắng Tây và Mỹ bằng máu của dân tộc, bằng vũ khí của Nga và Tàu, rồi nộp “ độc lập dân tộc ”cho cộng sản Tàu và Nga.

Ai chỉ ra tình trạng thế chấp và bán đứng đó đều bị cho là phản động. Kẻ phản động có thể gây tai họa cho Ðảng nhưng lại là phúc của dân.

Những ai vì Ðảng sẽ kết án kẻ phản động, còn những ai vì con người thì sẽ hoan hô kẻ phản động.

Hãy nhớ câu nói lịch sử của ông: Nguyễn VănThiệu:

“ Ðừng tin những gì cộng sản nói, mà hãy nhìn những gì cộng sản làm ”.

 

( Gửi tuổi trẻ Việt Nam )

Em hãy ngồi xuống đây

Anh kể câu chuyện này

Trên cánh đồng cỏ cháy

Ngậm ngùi như khói bay

Con ngựa già một đời

Chưa thấy được ngày vui

Mắt mỏi mòn trông đợi

Những mầm cỏ xanh tươi.

Đã bao nhiêu năm rồi

Hướng nhìn về xa xôi

Tâm tư đau nhức nhối

Cuộc đời vẫn nổi trôi

Em nhìn về tương lai

Cố dấu tiếng thở dài

Mắt dường như ngấn lệ

Có phải vì khói cay?

Em thấy đó, trên đường đi không đến,

Quê hương đau, chồn cáo vẫn nghêng ngang

Những con thú người nhảy múa kiêu căng

Ngửa mặt hú một bài ca chủ nghiã.

Ngôn ngữ văn nô, đỉnh cao trí tuệ …

 Đảng Cộng Sản buôn thần bán thánh

 Đảng Cộng Sản buôn thần bán thánh

Ngô Nhân Dụng

March 26, 2019

Chùa Ba Vàng ở thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. (Hình: Chuabavang)

Vụ chùa Ba Vàng bị vỡ lở vì làm tiền bằng cách gieo rắc mê tín dị đoan không phải chỉ là một hành động lẻ loi của một ông sư đảng viên quá tham lam. Cũng không phải chỉ là cuộc tranh chấp giữa một ông sư tỉnh lẻ với một ông sư ở trung ương được báo chí nhà nước hỗ trợ. Nhìn kỹ, thì đây là một “hiện tượng” nổi lên trên mặt nước mà dưới đáy lâu là “bản chất,” một chế độ độc tài toàn trị muốn kiểm soát cả các hoạt động tôn giáo.

Ông sư chùa Ba Vàng, Vũ Minh Hiếu, 52 tuổi, là một đảng viên Cộng Sản. Ông ta mới cạo đầu năm 1999 sau khi xin vào chùa thực tập năm trước. Ông đã chọn tới xin học tại một thiền viện ở miền Nam do một vị hòa thượng được mọi người kính trọng sáng lập. Chính vị hòa thượng lớn tuổi chắc cũng không biết ông là người thế nào khi ông được xuất gia; nhưng ông sư trẻ 40 thì được hưởng lây uy tín.

Năm 2001, Vũ Minh Hiếu, hiệu là Thái Minh, trở lại miền Bắc, từ năm 2007 được giao cho coi ngôi chùa Ba Vàng thuộc thành phố Uông Bí tỉnh Quảng Ninh; lúc đó chỉ là một chùa rất nhỏ. Ông đã làm tiền rất giỏi, trong bảy năm xây nên một ngôi chùa với chánh điện được mô tả là lớn nhất Đông Nam Á!

Nhưng hoạt động kinh doanh của ông đã đi quá đà khi lợi dụng lòng mê tín của người dân một cách quá lộ liễu. Và ông thành công rầm rộ đến nỗi “cấp trên” trong tổ chức tôn giáo của đảng Cộng Sản phải ganh tức. Báo chí được khuyến khích đi phanh phui, tố cáo những hoạt động mê tín làm ra tiền này.

Vũ Minh Hiếu đã tổ chức các lễ “thỉnh vong, giải oan gia trái chủ,” được một bà đệ tử góp công vận động qua những bài thuyết giảng, video và tổ chức việc kinh doanh. Họ thỉnh vong, theo phong tục “gọi hồn,” khi một người muốn tiếp xúc với vong linh người đã chết. Họ có thể mời vong hồn nhập vào một người, giống như khi “lên đồng.” Khi đó “bà đồng” sẽ chữa bệnh và “phán số kiếp” của người đến xin. “Vong” sẽ bắt người thân của mình phải “trả nợ” để chính họ được thoát nợ những tội lỗi đã làm từ kiếp trước. Số tiền gọi là “tiền giải nghiệp,” lớn từ vài triệu đến vài chục triệu đồng Việt Nam.

Vũ Minh Hiếu đã bị mất chức, nhưng chưa thấy nói có mất thẻ đảng hay không. Nhưng qua vụ này người ta thấy bản chất của việc lũng đoạn các tổ chức tôn giáo của đảng Cộng Sản Việt Nam.

Bản chất của Cộng Sản là độc tài toàn trị. Họ muốn kiểm soát tất cả các hoạt động trong xã hội, qua các đoàn thể phụ thuộc, từ các hội nhà văn, công đoàn, cho tới Hội Chữ Thập Đỏ. Họ không thể kiểm soát được Giáo Hội Công Giáo, nhưng đã nắm Phật Giáo trong tay qua tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, mà người dân gọi là Giáo Hội Phật Giáo Quốc Doanh.

Từ mấy ngàn năm nay, Phật Giáo vốn không có một tổ chức cai quản tất cả các người đi tu và các tu viện, chùa chiền. Thời xưa ở nước ta, các ông vua, họ có thể phong chức “tăng thống” nhưng vị tăng thống chỉ là một người đạo hạnh cao để làm gương chứ không phải là người quản trị, điều hành các chùa hoặc tu viện. Và ông vua không có quyền hành gì trên vị tăng thống, cũng như các chùa chiền.

Tại những nước Nam Tông mà đạo Phật được coi là quốc giáo, vẫn luôn luôn có các vị sư sống độc lập, có khi sống một mình trong rừng. Các Phật tử kính mộ có thể mời vị sư vào một ngôi chùa, mà không cần chỉ thị nào từ trên ban xuống. Miền Nam Việt Nam trước đây vẫn sống trong truyền thống như thế, cho nên mới có những danh tăng nổi tiếng. Phật Thầy Tây An, Ông Sư Vãi Bán Khoai, đều là những người tự do hành đạo xây dựng những đạo tràng trong thế kỷ 19. Đức Huỳnh Giáo Chủ đã xây dựng cả một tông phái Phật Giáo mới vào đầu thế kỷ trước.

Hiện nay tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam hoàn toàn nằm trong vòng tay kiểm soát của đảng Cộng Sản; đặc biệt tại miền Bắc. Không ai được “tu độc lập, tự do.”

Như chúng ta thấy, ông sư Vũ Minh Hiếu đã bị Ban Thường Trực Hội Đồng Trị Sự của khu vực miền Bắc họp bàn và cách chức. Nhưng trong hội nghị của họ, “có mời đại diện Cục An Ninh Nội Địa và Ban Tôn Giáo Chính Phủ cùng tham dự.” Chỉ cách chức ông sư tại một ngôi chùa, mà cũng phải mời cả hai ngành của guồng máy nhà nước chứng giám! Chính những người cầm đầu “giáo hội” chịu cúi đầu khuất phục dưới chế độ độc tài!

Ban Tôn Giáo Chính Phủ, mà báo Lao Động gọi là “cơ quan có nhiệm vụ theo dõi hoạt động tôn giáo,” là một tổ chức vừa lo kiểm soát vừa làm kinh tài của đảng Cộng Sản. Họ “chỉ đạo” cho những người cầm đầu “Giáo Hội Phật Giáo.” Không ai được phép trụ trì một ngôi chùa nếu không được đảng cho phép, dù đông đảo Phật tử có kính mộ. Các chùa thu được nhiều tiền sẽ được hỏi thăm.

Cuối cùng, các chùa chiền thuộc Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam bị biến thành guồng máy kinh tài cho đảng Cộng Sản. Không khác gì các doanh nghiệp nhà nước làm kinh tài cho các bộ công nghệ, bộ canh nông hoặc thương mại.

Một điều đặc biệt là tổ chức kinh doanh tôn giáo này không bị ràng buộc như các “xí nghiệp” khác.

Luật Sư Phùng Thanh Sơn ở Sài Gòn viết trên Facebook cá nhân cho thấy “Kinh doanh thần thánh là ngành nghề được ưu đãi và an toàn nhất Việt Nam.”

Nghề này được ưu đãi “vì được miễn tiền sử dụng đất, không đóng thuế thu nhập, không bị thanh tra, kiểm tra thuế, không bị nhà nước kiểm toán, không bị xử lý nếu sử dụng tiền (cúng dường) sai mục đích.”

Ngoài ra, Luật Sư Phùng Thanh Sơn còn nhận thấy “những người có chức sắc không bị xử lý hình sự nếu lấy tiền công đức (tức là thu nhập của công ty) làm của riêng.” Trong khi đó, giám đốc các xí nghiệp quốc doanh có thể bị hỏi tội này nếu phe đảng của họ đổ.

Khi một một vụ tham nhũng ở công ty quốc doanh bị khui ra, các chức sắc sẽ bị đưa ra tòa. Còn khi vụ kinh doanh mê tín của Vũ Minh Hiếu bị đổ bể, ông ta mất chức ở chùa, nhưng không biết có bị đưa ra tòa án ngoài đời hay không!

Các ông cựu giám đốc doanh nghiệp nhà nước đang ra tòa có thể khiếu nại: Tại sao, cùng là đảng viên nhận nhiệm vụ do đảng giao phó, mà chúng tôi bị bạc đãi còn các cán bộ đầu trọc được hưởng đủ thứ ưu tiên như vậy?

Tất cả những tệ nạn mê tín, buôn thần bán thánh như trên, đều là hậu quả của tình trạng đảng Cộng Sản kiểm soát tôn giáo, đặc biệt là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

Đảng Cộng Sản không thao túng được tất cả các chùa chiền và các tăng ni. Rất nhiều chùa bị bắt buộc phải gia nhập tổ chức này, nhưng tăng ni vẫn sống trong thanh quy, giới luật. Họ vẫn giúp các Phật tử tìm về chánh đạo nhờ gìn giữ hạnh tu. Họ không bị đảng Cộng Sản sách nhiễu nếu không tỏ ra chống đối nhà nước. Nhờ những người đó mà đạo Phật vẫn còn tương lai; nhất là khi các tăng ni tu học theo các pháp môn mới, đáp lại nhu cầu tu tập của thế hệ trẻ và có học.

Nhưng không ai tin rằng những người cầm đầu Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam có thể cải thiện các chùa dưới quyền họ để giảm bớt nạn kinh doanh lợi dụng óc mê tín như ở chùa Ba Vàng. Bởi vì mỗi quyết định của “Giáo Hội,” ở trung ương và nhất là địa phương, đều phải được các bí thư và đảng ủy phê chuẩn. Một ngôi chùa “phát tài” là một nguồn lợi lớn và an toàn cho các ông bà quan này. Lớn và an toàn hơn các doanh nghiệp nhà nước trong địa phương của họ. Ai muốn giết những con gà đẻ trứng vàng như thế?

Đại nạn của Phật Giáo Việt Nam hiện nay là phải sống dưới một chế độ độc tài toàn trị. Khi nào chế độ đó tan rã, mới có thể xây dựng lại xã hội, xây dựng lại đạo ý, và trùng hưng Phật Giáo. (Ngô Nhân Dụng)

Chỉ có những kẻ ngu mới đi làm việc!

Chỉ có những kẻ ngu mới đi làm việc!

Tác giảĐỗ văn Phúc NguồnBáo Mai Tái đăng: 2019-03-27

y, xin chớ nhanh miệng mắng người viết bài này nói nhảm. Xin hãy bình tĩnh đọc cho hết từ dòng đầu tiên cho đến chữ cuối bài để thấy cái lập luận “Chỉ có những kẻ ngu mới đi làm việc!” không phải là phi lý đâu.

Từ xưa đến nay có ai thử làm một cuộc tham khảo các trẻ em, hỏi các em thích ở nhà chơi đùa suốt ngày hay thích đến trường để học. Chúng tôi tin rằng sẽ có một đa số áp đảo, có khi đến 95% các em sẽ chọn ở nhà chơi hơn là đi học. Cũng tương tự như thế, nếu làm một cuộc trưng cầu dân ý hỏi xem người dân thích được lãnh tiền để nằm nhà, ăn nhậu, đi chơi hay thích đến hãng xưởng văn phòng làm việc vất vả mỗi tuần 40 tiếng. Tôi tin rằng đa số những người lao động chân tay sẽ chọn ở nhà lãnh tiền hơn phải đổ mồ hôi trên các cánh đồng, xưởng máy. May ra chỉ có những người lương thật cao hay dân làm văn phòng hay những người yêu nghề mới thích đến sở.

Trợ cấp Phúc Lợi Xã Hội

Trước tiên, xin nêu ra một vài con số thống kê mới nhất, tính đến lúc viết bài này.

Dân số Hoa Kỳ hiện nay là 328,516,241 người, trong đó số người làm việc là 156,741,895 nhưng chỉ có 122,362,482 người đóng thuế. Lý do những người không đóng thuế có thể vì thu nhập thấp… Hoa Kỳ có 94,995,989 không lao động (vì lý do hưu trí 52,884,551; cựu chiến binh 20,889,341; tàn phế 10,161,784; học sinh, sinh viên …).

Thu nhập trung bình tính theo đầu nguời là 30,475 đô la mỗi năm. Dân số được xem ở mức nghèo khó là 38,072,087 (12.3% dân số). Số người nhận phiếu thực phẩm là 37,174, 033; nhận trợ cấp y tế miễn phí là 75,387,813; tổng cộng số người nhận các loại trợ cấp là 168,913,450.

GDP của Hoa Kỳ là 20,514 tỷ, ngân sách của Hoa Kỳ là 4,094 tỷ đô la. Một phần 3 ngân sách đó dành cho các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội tổng cộng là 1,091 tỷ đô la trong đó 642 tỷ cho Medicaid và 449 tỷ cho các dịch vụ khác.

Tốn kém nhất là tiền trả cho dịch vụ y tế Medicaid cho người nghèo gia tăng nhanh; từ 1% ngân sách năm 1960, đến nay chiếm hết hơn 4% ngân sách.

Năm 2018, toàn liên bang chi ra hết 216 tỷ để chi trả cho người thụ nhận phúc lợi xã hội. Các tiểu bang chi trả nhiều nhất là: California 45 tỷ, New York 21 tỷ, Pennsylvania 11.4 tỷ, Texas 9.8 tỷ, Washington 4.7 tỷ, Oregon 4.6 tỷ. Nhưng nếu tính theo tỷ lệ dân số thì tốn kém nhất là District of Columbia (1.9 tỷ trên 700 ngàn dân, tức 2714 đô la theo đầu người). (xem phụ bản số 1).

Theo tài liệu của Bộ Y Tế và Dịch Vụ Xã Hội, năm 2010, có cả thảy 4,375,022 gia đình nhận trợ cấp phúc lợi xã hội. Qua năm 2015, mỗi tháng có khoảng 52.2 triệu người, tức 21.3% dân số Mỹ thụ nhận các phúc lợi xã hội. Trợ cấp này gồm tiền mặt (cash assistance), phiếu thực phẩm (food stamp), dịch vụ y tế (Medicaid), gia cư (housing).

Phúc lợi xã hội (social welfare) khác với An sinh xã hội (Social Security) là tiền hưu hàng tháng trả cho những người về hưu sau khi đã đi làm đóng thuế ít nhất là 40 tam cá nguyệt (10 năm).

Chương trình phúc lợi xã hội (The welfare program) nhằm giúp đỡ những gia đình hay cá nhân có lợi tức thấp hay không có lợi tức và cũng chẳng có nguồn tài trợ nào. Các chuyên viên áp dụng những phép tính rất phức tạp căn cứ vào tiêu chuẩn nghèo để ấn định ở mức độ tài chánh nào thì các gia đình hay cá nhân có đủ điều kiện thụ nhận các phúc lợi xã hội.

Các hướng dẫn cho thấy gia đình hay cá nhân phải có thu nhập kém hơn một tỷ lệ nào đó của lợi tức trung bình hàng năm trong địa phương thì mới được cấp phát trợ cấp. Ví dụ như tại Texas thu nhập trung bình hàng năm là 59,500 đô la, một gia đình 4 người nếu thu nhập dưới 30% số tiền này tức 17,850 đô la coi như đủ điểu kiện xin trợ cấp xã hội.

Tiền mặt (cash assistance) được tính toán dựa trên thu nhập hàng tháng, tiêu chuẩn về các nhu cầu và tiêu chuẩn về sự chi tiêu. Các tiêu chuẩn về nhu cầu thay đổi tùy theo khu vực cư trú, gia đình đông hay ít, giá thuê mướn nhà cửa. Tiêu chuẩn về chi tiêu ấn định mức tối đa mà gia đình sẽ được cấp phát sau khi cứu xét về thu nhập và các nguồn tài trợ nếu có. Các tiểu bang sẽ tùy nghi ấn định trợ cấp tiền mặt. Tại Texas, một người cha độc thân hay mẹ độc thân có 3 con nhỏ nhận 312 đô la mỗi tháng; trường hợp hai vợ chồng với hai con nhỏ thì lãnh 320 đô la. Tiểu bang Alaska, nơi có ấn định rộng rãi hơn, một gia đình 4 người sẽ đụoc cấp 1025 đô la tiền mặt.

Phiếu thực phẩm (food stamp) là một phần quan trọng trong trợ cấp phúc lợi. Nó còn được gọi là Chương trình Trợ cấp Phụ trội về Dinh dưỡng (SNAP- Supplemental Nutrition Assistance Program) do Bộ Nông Nghiệp (The Department of Agriculture) đảm trách. Mỗi tháng, chính phủ chi ra khoảng 4.8 tỷ đô la cho chương trình này. Các tiểu bang có thể dùng các tên gọi khác nhau. Như ở California, gọi là CalFresh với 3.8 triệu người thụ nhận, tại Texas gọi là Lone Star Card với 3.5 triệu người nhận 410 triệu đô la mỗi tháng. Tại Ohio, có 1.4 triệu người nhận SNAP.

Đại khái, tiền trợ cấp thực phẩm tối đa cho một cá nhân đơn độc là 192 đô la; gia đình 4 người là 668 đô la. Theo tài liệu năm 2018 của Tiểu bang Florida, một gia đình 4 người mà thu nhập hàng tháng 2092 đô la hay ít hơn sẽ nhận được 642 đô la tiền food stamp.

Tính chung cả hai thứ tiền mặt và food stamp, một gia đình 4 người ở Texas có thể nhận 980 đô la mỗi tháng.

Trợ cấp bảo hiểm sức khoẻ miễn phí (Medicaid)

Những người về hưu nhận bảo hiểm sức khoẻ (medicare) từ tiền họ đã bị khấu trừ vào các kỳ lương trong suốt hàng chục năm làm việc, những người thụ hưởng phúc lợi xã hội, nhận bảo hiểm medicaid tức là tiền cho không từ chính phủ. Những người nhận medicare còn phải đóng hàng tháng khoảng 130 đô la lấy từ tiền hưu bổng. Họ phải trả thêm tiền (copay) khi đi khám bệnh hay điều trị hay mua thuốc. Ít thì 10. 35 đô la khi đi bác sĩ gia đình hay chuyên khoa, nhiều thì có khi lên hàng trăm, hàng ngàn nếu đi thử nghiệm hay giải phẫu hay nằm bệnh viện.

Trong khi đó, người nhận Medicaid không phải trả một xu nào cho cả khám bệnh và toa thuốc. Khoản Medicaid này là gánh nặng lớn nhất trong chương trình trợ cấp xa hội. Hoa Kỳ đã chi ra 642 tỷ đô la để trả cho chương trình Medicaid.

Có cả một hệ thống chằng chịt phức tạp như mạng nhện của những cơ quan nhà nước, dịch vụ, nhà thầu, y bác sĩ, bệnh viện ăn bám vào đó làm cho việc trong sạch hoá trở nên khó khăn, không sao giải quyết được. Những người thụ hưởng đã lạm dụng triệt để và càng được khuyến khích bởi cái hệ thống ăn bám này vì ai cũng chia phần lợi trong đó.

Vài nhận xét về thực tế.

Như đã nói ở trên, tiền trợ cấp phúc lợi xã hội (Social welfare) và phiếu thực phẩm (food stamps) là dành cho những những người tàn tật, người lớn tuổi không đi làm mà cũng chẳng có nguồn tài trợ nào, người nghèo khó ở một mức mà chính phủ quy định. Số tiền này nhiều hay ít tùy theo từng tiểu bang, được coi là cứu đói, lẽ ra phải ít hơn tiền lương của người đi làm. Theo một tài liệu của chính phủ, thì trung bình gia đình 4 người nhận khoảng 900 đô la mỗi tháng. Nhưng trong thực tế, có nhiều Tiểu bang chi tiền phúc lợi xã hội cao hơn tiền lương lao động căn bản ở các tiểu bang đó.

Theo một bài nghiên cứu khả tín;

  • Trung bình mỗi người thụ nhận tiền phúc lợi xã hội là 1000 đô la mỗi tháng.
  • Có 39 tiểu bang trả tiền phúc lợi cao hơn người đi làm lương 8 đô la mỗi giờ.
  • Có 6 tiểu bang trả tiền phúc lợi cao hơn người đi làm lương 12 đô la mỗi giờ.
  • Có 8 tiểu bang trả tiền phúc lợi cao hơn lương trung bình một thầy giáo.

Trong một phụ bản 2 kèm theo đây, chúng tôi ghi ra 15 tiểu bang trả tiền trợ cấp phúc lợi cao nhất.

Ví dụ, tại Hawaii, một phụ nữ với 2 con nhỏ lãnh tổng cộng 49,175 đô la/năm. so với lương người đóng thuế là 60590 (trước khi trừ thuế); tính ra tiền trợ cấp tính theo giờ là 29.13, so với tiền lương giờ tối thiểu của người đi làm ở Hawaii là 9.25. Như thế, ở nhà vui chơi, lãnh lương cao hơn người lương thiện đi làm việc gần 20 đô la mỗi giờ.

Tiền trợ cấp ở Hawaii còn cao hơn lương một cử nhân mới ra trường, cao gấp rưỡi lương một thầy giáo!

https://www.cheatsheet.com/culture/states-welfare-recipients-paid-more-minimum-wage.html/

Thế cho nên, những kẻ lười biếng họ sẽ nghĩ rằng: Ngu gì đi làm cho mệt xác! Và bọn Socialist mi dân có phiếu là nhờ bọn dân lười này. Và đây cũng là lý do mà Socialism thất bại ở các nước Âu Châu khi lương một anh học trung học chẳng kém mấy so với lương một ông tiến sĩ giám đốc; khi mà người ở nhà hưởng thụ không kém người đi làm. 

Trường hợp California

Qua các số liệu vừa dẫn, có lẽ quý vị sẽ đặt câu hỏi hóc búa cho người viết rằng: các tiểu bang trả tiền phúc lợi quá cao so với dân số của họ, thì lấy tiền đâu ra.

Lấy California làm thí dụ. Tiểu bang này có 39.6 triệu dân, thu nhập tiểu bang là 2,803 tỷ, có ngân sách 179,5 tỷ mà chi ra 45 tỷ đô la tiền cho phúc lợi xã hội. Nếu tất cả mọi người dân đóng thuế, mỗi người phải gánh hết 1,136 đô la cho những người nhận trợ cấp. Trong thực tế, những người không lao động hay không đóng thuế gồm trẻ em, học sinh sinh viên, người già, tàn tật vân vân chiến khoảng 60%. Số 40% còn lại tức khoảng 1.3 triệu người đóng thuế sẽ gánh khoảng 2500 đô la cho những người nhận trợ cấp. Vậy làm sao Tiểu bang này chịu đựng nổi?

Xin thưa rằng mỗi năm, chính phủ liên bang phải chi thêm cho các tiểu bang vào ngân sách phúc lợi xã hội. California nhận thêm 26 tỷ đô la và chỉ chi ra 18.8 tỷ. New York nhận thêm 17.7 tỷ trong khi chỉ chi ra 3.4 tỷ. Philadelphia nhận 5.5 tỷ và chỉ chi 6 tỷ.

Hiện nay, thì do chính sách quá phóng túng, mị dân, California còn mở rộng thêm các dịch vụ phúc lợi cho cả hàng triệu cư dân bất hợp pháp nữa. Các tiểu bang này xem như đang lâm vào khủng hoảng ngân sách có thể đi dến vỡ nợ nếu liên bang cắt bớt tài trợ. Thống đốc trước đây của California là Jerry Brown cho hay California sẽ lâm vào tình trạng thâm thủng ngân sách khoảng 1.6 tỷ đô la. Thế nhưng ông Thống đốc mới Gavin Newsom cùng Thống đốc Cuomo của tiểu bang New York, đã tuyên bố cấp y tế miễn phí và các trợ cấp khác cho tất cả cư dân bất kể là hợp pháp hay bất hợp pháp.

Những nhà cầm quyền đảng Dân Chủ sẽ làm bất cứ điều gì dù thất sách đến đâu, miễn lấy lòng và lấy phiếu của đám dân nghèo (hay chẳng đến nỗi nghèo mà chỉ vì lười biếng).

 Tại sao mình nghèo hơn người khác?

Các nhà lãnh đạo Cộng sản, xã hội chủ nghĩa sở dĩ thành công trong việc lôi cuốn hàng triệu người bỏ phiếu cho họ trong các cuộc bầu cử hay chạy theo chịu đổ máu hy sinh làm lực lượng nòng cốt trong những cuộc bạo động, cách mạng; là do họ hiểu biết tâm lý, nhu cầu của những kẻ nghèo, thất bại trong cuộc sống. Những người này thường mang tâm lý tự ti mặc cảm, đố kị, ghen tị và hận thù đối với những người giàu có hơn họ. Nghe theo luận điệu của bọn Cộng sản, Xã hội Chủ nghĩa thì, những bọn nhà giàu này là bè lũ bóc lột, tàn ác, lợi dụng công sức của nhân công để làm giàu. Đó là cái giai cấp bóc lột, thống trị cần phải tiêu diệt để đem lại bình đẳng cho tất cả mọi người. Những người Cộng sản, Xã hội Chủ nghĩa hứa hẹn sẽ xây dựng một xã hội không giai cấp, không kẻ thống trị, mọi người được hưởng bình đẳng về mọi lãnh vực, kể cả phân phối tài sản quốc gia, săn sóc y tế, học hành miễn phí…

Không biết những người nghèo có khi nào tự hỏi tại sao mình nghèo hơn người khác?

Sở dĩ nghèo, phần lớn là do thiếu khả năng, thiếu trình độ, tài cán, thiếu ý chí vươn lên. Có những người kém may mắn, không gặp thời vận dù đã hết sức nỗ lực. Nhưng một phần không nhỏ là do lười biếng, chỉ thích hưởng thụ hơn là đem mồ hôi ra làm việc.

Xã hội tư bản thời sơ khai, không tránh khỏi có nhiều bất công, nạn bóc lột tàn tệ. Chúng ta ghi nhận sự ra đời của tư tưởng xã hội đã làm một đối lực, giúp cho chế độ tư bản hoàn thiện hơn.

Bất bình đẳng trong phân phối lợi tức, tài sản thì không thời nào không có. Ngày xưa, tài sản của các vua chúa là do cướp bóc bằng quyền lực. Tài sản của địa chủ là do mồ hôi công sức của nông dân, tá điền. Nhưng trong thời đại ngày nay, tài sản khổng lồ của các nhà tỷ phú là do từ trí tuệ sang kiến, phát minh, óc điều hành, tính toán thương trường… Họ có tiền tỷ thì người dân thường cũng hưởng lây những thành quả của họ trong cuộc sống thêm nhiều tiện nghi. Có phải chúng ta mang ơn các vị hiện có hàng trăm, hàng chục tỷ đô la như các ông Jeff Bezos, công ty Amazon, ông Michael Dell, chủ hãng Điện tử Dell, ông Bill Gates chủ công ty Microsoft, ông Mark Zuckerberg chủ Facebook. Có bất bình chăng là đối với một số viên chức chính quyền, dân cử đã lợi dụng địa vị của họ để làm giàu bất chính.

Xã hội tư bản không cho miễn học phí đại học, nhưng biết bao nhiêu sinh viên từ các gia đình nghèo vẫn thành đạt, lấy các bằng cấp từ các trường có giá trị. Bằng chứng sờ sờ là con cái người di dân tị nạn Việt Nam. Khi đến Hoa Kỳ với hai bàn tay trắng, cha mẹ làm đủ mọi việc ít lương; nhưng con cái đa số đều có bằng đại học.

Xã hội tư bản không cho miễn phí các dịch vụ y tế. Nhưng có ai bị bệnh mà bị từ chối điều trị, bị đẩy ngược ra khỏi cửa bệnh viện, cấp cứu vì không có tiền trả đâu?

Cô Ocasio-Cortez thù ghét người giàu thì cũng là tâm lý chung của bọn vô tài, thất học, luời biếng nên không làm ra nhiều tiền và trở nên ghen tị, đố kỵ, căm hận người giàu có hơn mình. Chính ông tổ Karl Marx của Cộng Sản hiểu rõ điều này nên đã khích động bọn khố rách áo ôm làm cách mạng, thống trị một nửa nhân loại trong gần 100 năm. Họ quên rằng người ta giàu lên là nhờ tài năng, óc tính toán, sự làm việc (Dĩ nhiên trừ bọn cầm quyền tham nhũng và bọn ăn theo). Chúng ta thụ hưởng những tiện nghi vật chất ngày nay là do phát minh, tài năng của những người giàu đó.

Bản thân Cortez cũng khoe có bằng về Bang Giao Quốc Tế, nhưng chắc đỗ được là do affirmative action (nâng đỡ các dân thiểu số Mễ, Đen). Vì thế, cô ta không tìm được việc làm tương xứng với cái bằng mà phải đi làm bồi pha rược ở các bar. Cortez to miệng đòi đánh thuế những người giàu 70% lợi tức của họ. Cả mụ Hồi giáo Omar cũng đòi đánh thuế đến 90%!!!

Những người xã hội chủ nghĩa này quên rằng những người giàu bạc tỷ chiếm 1% dân số, nhưng đã đóng góp gần một nửa tổng thu của tiền thuế quốc gia. Không thể tưởng tượng nổi có những người thiếu suy xét về kinh tế như thế. Nếu bị tăng thuế, những người này sẽ bỏ đi ra ngoại quốc. Ai gánh cái 50% kia cho ngân sách nhà nước? Ai chịu trách nhiệm về việc hàng triệu nhân công mất việc làm? Nhà nước lại thêm một lần thất thu thuế hàng hoá.

Nghe bọn Dân Chủ tả khuynh mà thương hại cho những kẻ thiển trí, a dua! Câu hỏi đích đáng dành cho những kẻ chủ trương Chủ nghĩa Xã hội với mọi thứ miễn phí là: họ sẽ lấy TIỀN ĐÂU để trả cho các chi phí khổng lồ đó? Và phẩm chất những thứ miễn phí thì chắc chắn là không ra gì, nếu chủ trương của họ có thể thi hành được.

Ở thành phố Albuquerque, New Mexico có một nhà hàng rất đông khách, công nhân được trả $10.50/giờ cao hơn mức lương quy định của tiểu bang là $9.00/giờ. Nhưng khi Hội Đồng Thành Phố biểu quyết nâng mức lương tối thiểu lên $12.00/giờ thì chủ nhà hàng này quyết định đóng cửa. Khi thị trưởng thành phố hỏi lý do tại sao đóng cửa, chủ nhà hàng cho biết ông ta bỏ tiền ra kinh doanh may nhờ rủi chịu, thuê công nhân với đầy đủ benefit, bây giờ thành phố nâng mức lương lên cao ông không cáng đáng được nên thà đóng cửa.

Như thế cho chúng ta thấy phía chủ nhân không thể bóc lột sức lao động của công nhân, nhưng phía công nhân cũng phải biết giới hạn sự đòi hỏi quyền lợi của mình. Cô gái pha rượu Ocasio Cortez đòi đánh thuế chủ nhân giàu 70%, nghe đâu cô vừa vớ được 10 triệu từ Netflix muốn mua tài liệu của cô, không biết cô có tình nguyện đóng thuế 70% hay không? Xin hãy chờ xem!!!

 Đỗ Văn Phúc

COI CHỪNG KHÔNG CÒN ĐƯỜNG NÀO ĐỂ CHẠY

COI CHỪNG KHÔNG CÒN ĐƯỜNG NÀO ĐỂ CHẠY

Huỳnh Quốc Bình

“Nếu có ai muốn từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ một cách chính thức để có thể gia nhập quốc tịch các nước độc tài cộng sản hay những nơi quá khích về tôn giáo… Thì tôi sẵn sàng giúp điền đơn hay giúp đóng tiền lệ phí nộp đơn, một cách hợp pháp…”

Người viết thường tự nhắc nhở chính mình và dạy con cái trong nhà phải ý thức rằng, chúng ta không thể xem đất nước Hoa Kỳ như chỗ để mình lợi dụng sống qua ngày, để chỉ ăn bám mà không đóng góp, hoặc chỉ để hưởng thụ vật chất mà lại không góp phần bảo vệ, vun bồi cho tốt hơn, giống như căn nhà của riêng mình.

Để làm sáng tỏ ý niệm đó, tôi xin phép thu gọn đất nước Hoa Kỳ nhỏ lại như căn nhà của một gia đình, để mạo muội nêu ra một câu hỏi rằng: Nếu chúng ta từng hoan nghênh ai đó vào tá túc trong nhà của mình lâu dài, nhưng họ chẳng bao giờ quan tâm đến nhà cửa của chúng ta. Trái lại họ chỉ lợi dụng để lén lút bòn rút tài sản của chúng ta hầu chuyển đi hay gởi về một nơi nào khác. Khi họ cần giúp đỡ thì nhờ cậy chúng ta, nhưng cứ xem chúng ta như người xa lạ hay kẻ thù của họ… Đối với loại người như thế thì chúng ta sẽ nghĩ về họ như thế nào? Người Việt Nam gọi đó là những kẻ “ăn cháo đá bát”, người Mỹ gọi đó là “cắn luôn bàn tay người đút thức ăn cho mình” (bite the hand that feeds you).

Nếu có ai nghĩ rằng Hoa Kỳ không xứng đáng là nơi để họ có thể sinh sống, thì tại sao họ không quay về cái nơi họ từng bỏ ra đi? Ngoài ra, họ cũng có thể xin “tỵ nạn Hoa Kỳ” tại các nước độc tài cộng sản như Bắc Hàn, Trung Cộng, Cu Ba và Việt Nam… hoặc những nơi quá khích về tôn giáo. Dĩ nhiên ra khỏi nước Mỹ thì rất dễ dàng, tuy nhiên nếu có ai muốn từ bỏ quốc tịch Hoa Kỳ một cách chính thức để có thể gia nhập quốc tịch của những nơi vừa nêu… Thì tôi sẵn sàng giúp điền đơn hay giúp đóng tiền lệ phí nộp đơn một cách hợp pháp. Tôi nói thật, không đùa. Xin giữ bài viết này của tôi để làm bằng chứng.

Chúng tôi thường xuyên nhắc nhở những thành viên trong gia đình mình rằng:
1 Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, sẽ không ngại phê bình hay lên án những sai quấy của Tổng Thống hay chính phủ Mỹ, nhưng chúng ta sẽ không ngu xuẩn đến độ đứng ở vị trí cùa kẻ thù nước Mỹ để vô cớ hay điên cuồng lên án Tổng Thống và chính phủ của mình.
2 Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, không thể xúc phạm quốc kỳ Hoa Kỳ, bằng cách xé, đốt hay giẫm đạp dưới chân, để bày tỏ sự tức giận Tổng Thống hay chính phủ. Thái độ đó là sự xúc phạm đối với những người đã và đang hy sinh để bảo vệ nước Mỹ. Cho dù quốc kỳ chỉ là một miếng vải vô tri, nhưng là biểu tượng thiêng liêng của nước Mỹ. Tôi không tin có ai mất dạy đến độ mang hình ông bà cha mẹ mình ra xé, đốt hay giẫm đạp dưới chân, chỉ vì tức giận anh chị em mình. Hãy để kẻ thù nước Mỹ làm điều đó nếu họ muốn, còn chúng ta là công dân Mỹ thì chớ nên dại dột làm như thế.
Chúng ta được Hiến Pháp Hoa Kỳ bảo vệ sự tự do bày tỏ chính kiến, sự bất mãn nào đó, ngay cả những “bất mãn” không chính đáng… Nhưng chúng ta không thể đập phá nhà cửa, hành hung những người không cùng suy nghĩ như mình. Luật pháp và chính sách để vận hành nước Mỹ, phải được bàn luận, hình thành trong tự do dân chủ và trong sáng tại Quốc Hội, chứ không thể giải quyết ngoài đường phố. Các nước cộng sản hay độc tài mới đáng nhận lãnh sự phẩn nộ của người dân giống như thế, chứ nước Mỹ tự do, dân chủ, thì không thể giải quyết những bất đồng bằng các loại bạo động.
3 Một công dân Hòa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, nếu muốn chứng tỏ mình biết tôn trong quyền lợi của người khác thì cũng phải biết xem trọng quyền lợi đất nước mình. Một Tổng Thống hay chính phủ biết đặt quyền lợi tối thượng cho đất nước mà mình được cử tri giao trách nhiệm lãnh đạo, thì có gì sai? Không ai cấm chúng ta bày tỏ lòng nhân đạo với những người đến từ quốc gia khác, nhưng điều đó phải hợp pháp, hợp lý và có trật tự, giống như cựu Tổng Thống Clinton và Obama từng khẳng định:

Hoa Kỳ không phải là cái chợ trời để ai muốn vào thì cứ xé rào hay phá cổng mà vào. Người khôn ngoan sẽ không ngu xuẩn đến độ rước giặc vào nhà bằng cách mở toang cửa biên giới, hầu hy vọng đạt được danh vọng cá nhân, quyền lợi của đảng phái mà bất chấp quyền lợi hay sự an nguy của đất nước mình. Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, sẽ không xem bất kỳ một cá nhân nào như thể thần thánh, như thể họ có quyền ngồi xổm trên luật pháp, hoặc điên cuồng ủng hộ một đảng đảng phái mà mình có bằng chứng là họ chỉ xem quyền lợi của đảng họ trọng, còn đất nước Hoa Kỳ là thứ yếu. Chúng ta sẽ không im lặng đứng nhìn những kẻ xem thường sự sống còn của nước Mỹ. Chúng ta phải can đảm chống đối và dùng lá phiểu để tẩy chay những kẻ cố tình san bằng những gì đã được hiến pháp Hoa Kỳ vạch rõ, mà những nhiệm kỳ của các Tổng Thống hay chính phủ vì dân đã bảo vệ mấy trăm năm qua.
4 Một công dân Hoa Kỳ lương thiện và khôn ngoan, sẽ không ủng hộ hay a tòng với những kẻ tìm cách loại bỏ những giá trị căn bản của nước Mỹ. Ai nhận mình là Cơ Đốc Nhân tuyệt đối không ủng hộ những giới dân cử nào cố tình cho những kẻ vô thần, hay những tôn giáo quá khích được cơ hội tràn vào đất nước mình, để rồi cùng tìm cách sửa đổi luật, cấm mọi người cầu nguyện với Thiên Chúa ở trường học và các nơi công cộng. Chúng ta không thể dễ dãi đến độ ngu khờ khi họ bày tỏ đức tin của họ thì được, còn chúng ta thì lại mất cái quyền thiêng liêng đó. Tại sao chúng ta có thể im lặng trước những kẻ tìm cách ngăn cản chúng ta bày tỏ đức tin với Thiên Chúa? Tại sao chúng ta lại bày ra hay tham dự vào những vụ bỏ phiếu để loại trừ ý niệm “one Nation under God” qua lời bày tỏ sự trung thành với Hoa Kỳ được ghi trong bản “The Pledge of Allegiance to the Flag”. Có phải chúng ta đã trở thành những kẻ dại khờ, chỉ vì muốn chìu ý những kẻ muốn triệt hạ nước Mỹ để mình khỏi bị mang tiếng là kỳ thị đức tin của người ta?
Trong tiếng Anh có câu nói đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Người ta sẽ không bao giờ thật sự hiểu thấu một vấn đề éo le nào đó, cho đến khi chuyện ấy xảy ra với chính họ”. (People will never truly understand something until it happens to them).
Người viết tin rằng không một dân tộc nào trên thế giới có thể thấm thía về đời sống tha phương nơi xứ người cho bằng những dân tộc từng bị mất nước, trong đó có dân tộc Việt Nam.

Trong thời chiến tranh Việt Nam, một số người dân Hoa Kỳ với chiêu bài phản chiến đã biểu tình đòi hỏi chính phủ phải chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Họ đòi hỏi như thế cũng là dễ hiểu, bởi vì qua những sự tường trình về hình ảnh chiến đấu can trường của binh sĩ Hoa Kỳ và chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bóp méo. Những cơ quan truyền thông thiếu lương thiện đã làm những điều có lợi cho bọn VC và khối cộng sản quốc tế. Kết quả sự hy sinh của trên dưới 58 ngàn binh sĩ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã trở nên vô nghĩa dưới con mắt của những người Mỹ “chống chiến tranh Việt Nam”. Hoa Kỳ “thua” một cuộc chiến, còn người Việt Nam phải mất trọn đất nước vào tay quân cộng sản kể từ ngày tan thương đó và bao nhiêu chia ly, tang tóc, liên tục xảy ra cho đến ngày nay.

Nhân dân Hoa Kỳ thật có phước vì họ được hưởng sự tự do đích thực mà khó có quốc gia nào có được. Cho nên cái câu “People will never truly understand something until it happens to them.”, có thể áp dụng cho người Mỹ với tình hình chính trị tại Hoa Kỳ hiện nay. Những người sinh ra và lớn lên tại nước Mỹ chưa có kinh nghiệm chạm trán với thực tế của những chia ly, tang tóc như người Việt Nam, cho nên nếu họ có ” take freedom for granted” là điều cũng dễ hiểu. Tiếc là trong hàng ngũ người Việt tỵ nạn có người đã chóng quên. Họ không còn ý thức vì sao họ có mặt tại Hoa Kỳ ngày hôm nay, và họ lại giống những người chuyên “take freedom for granted” tại xứ tự do này.

Tôi không ngại để nói rằng, bất cứ ai được sanh ra và trưởng thành tại quốc gia này hay được chính phủ Hoa Kỳ đón nhận vào đây sinh sống hợp pháp, thì những người đó thật sự may mắn và hạnh phúc, nếu không muốn nói họ là những người vô cùng có phước. Tại Hoa Kỳ người dân có nhiều sự tự do. Quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do bày tỏ quan điểm chính trị và nhất là quyền tự do lập đảng đối lập với chính quyền. Tiếc là nhiều người không biết trân quý những thứ tự do đó và dường như họ đang đi tìm một “thế giới đại đồng”, một loại “xã hội chủ nghĩa” thiếu thực tế, là chiêu bài của kẻ cướp, mà nhiều nước từng kinh qua và đã quăng nó vào sọt rác lâu rồi.
Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan từng nói: “Tin tưởng nhưng phải kiểm chứng và đừng e ngại nhìn nhận sự thật…” (Trust but verify; watch closely and don’t be afraid to see what you see)

Nếu chúng ta cứ tin vào một điều gì đó mà không kiểm chứng, hoặc không dám nhìn nhận một sự thật hiển nhiên, hoặc cứ cúi đầu tin vào màn ảnh TV hay các loại tin tức một chiều, và nếu chẳng may đất nước Hoa Kỳ lọt vào tay kẻ thù của nước Mỹ, thì mọi người nên coi chừng, chúng ta sẽ không còn đường nào để chạy, kể cả những kẻ hay những cơ quan truyền thông từng làm lợi cho kẻ thù nước Mỹ.

Huỳnh Quốc Bình

Image may contain: sky, tree and outdoor

Vì sao Phật giáo Việt Nam ra nông nỗi này?

Vì sao Phật giáo Việt Nam ra nông nỗi này?

Nam Nguyen Hoang Dao

27-3-2019

Các chân tu đã bị cộng sản tiêu diệt hay giam cầm hết rồi, thì là lúc ma tăng xuất hiện. Vụ việc lừa đảo ở chùa Ba Vàng là những gì phải đến sau những gì mà cộng sản đã làm hại Phật giáo chính thống ở VN.

Năm 1994, Hoà thượng Thích Quảng Độ bị bắt khi dẫn phái đoàn Viện Hoá Đạo đi cứu trợ nạn bão lụt ở đồng bằng sông Cửu Long, bị kết án 5 năm tù. Chỉ vì thầy không tu theo kiểu cộng sản muốn, không muốn giáo hội Phật giáo là cánh tay nối dài của tổ chức Mặt trận Tổ quốc. Việc cứu trợ của thầy không thông qua 3 tổ chức dưới quyền đảng trong đó có MTTQ theo như luật của cộng sản đặt ra làm họ rất khó chịu.

Cộng sản còn lo sợ việc cứu tế của thầy sẽ thu phục được nhân tâm của dân chúng, khiến dân chúng đứng về phía thầy, phản đối lại cộng sản, nên phải bắt bỏ tù thầy ngay lập tức bằng cáo buộc “phá hoại chính sách đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước”.

Hòa thượng Thích Quảng Độ (trái) bị bắt và đưa ra tòa Cộng sản. Ảnh trên mạng

Trong ảnh, ngoài cùng bên trái là hòa thượng Thích Quảng Độ. Một chư tăng đi cứu trợ giúp dân chân chính như vậy mà bị bắt giam, còn kẻ lừa đảo có tổ chức quy mô lớn ở Ba Vàng lại nhởn nhơ, hỏi sao không mạt pháp

Đó chỉ là 1 trong nhiều vụ án mà đảng cộng sản đã tiến hành thực hiện trong toàn bộ công cuộc phá nát Phật giáo miền nam sau 1975, để tạo dựng nên một hệ thống Phật giáo mới, nằm dưới quyền kiểm soát của đảng, mà ngày nay còn bị gọi là Phật giáo quốc doanh.

Kể từ tháng 9 năm 75, cuộc đàn áp Gíao hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất bắt đầu theo Chỉ thị số 20 của Đảng do ông Lê Duẩn ký năm 1960, phát động cho quần chúng và bộ đội, công an đập phá các tượng Phật lộ thiên. Cuối tháng 9 năm 75, Hoà thượng Thích Huyền Quang nhân danh Viện Hoá Đạo, đã có văn thư phản đối Chủ tịch Cách Mạng Lâm thời về việc này.

Nhiều hiện tượng khác, như bắt treo hình Hồ Chí Minh trên bàn thờ tổ tiên, áp lực chư Tăng hoàn tục, hoặc đưa sang chiến trường Kampuchia, cấm treo cờ Phật giáo trong các chùa viện, cưỡng chiếm các cơ sở văn hoá, giáo dục, từ thiện Phật giáo, như Cô nhi viện Quách Thị Trang, Viện Đại học Vạn Hạnh, v.v… hàng chục nghìn Tăng Ni, Phật tử bị đưa vào trại cải tạo.

Trong lịch sử Việt Nam, chưa có thời đại nào mà số lượng Tăng Ni, Phật tử bị cầm tù đông đảo như dưới triều đại Hồ Chí Minh.

Tình trạng áp bức thiết khiến 12 Tăng Ni tự thiêu tập thể ngày 2-11 năm 75 tại Thiền viện Dược Sư, tỉnh Cần Thơ, dưới hàng biểu ngữ “Chết vinh hơn sống nhục“. Đáng buồn, lúc đó toàn đất nước đã nằm trong tay cộng sản, mà cộng sản nắm quyền toàn bộ thì làm gì có sự xuất hiện của những phóng viên tự do để đăng tải những sự thật khủng khiếp này. Tất cả những việc tàn ác như vậy được các chư tăng bị trục xuất hay trốn ra nước ngoài sau này kể lại.

*Chú thích: Phật giáo miền nam trước năm 1975 có danh xưng là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHVNTN) ra đời năm 1964 tại Sài Gòn. Khác với Phật giáo quốc doanh ngày nay là cánh tay nối dài của Mặt trận Tổ quốc, có danh xưng Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) ra đời năm 1981 tại chùa Quán Sứ – Hà Nội.

Chùa Liên Trì ở Thủ Thiêm bị giải tỏa cách đây mấy năm chính là chùa cuối cùng thuộc GHPGVNTN, tính riêng khu vực Sài Gòn – Gia Định cũ.

Bạn đọc có thể kiểm chứng qua lời thu âm lại của thượng tọa Thích Thiện Minh từng bị giam 26 năm trong nhà tù cộng sản:

Hay nghe từ phút thứ 6, đệ tam tăng thống Thích Đôn Hậu tố cáo:

Và tìm đọc “Hồ sơ Thống nhất Phật giáo” của Đỗ Trung Hiếu – cán bộ tôn giáo vận, góp tay thực hiện thống nhất Phật giáo dưới sự kiểm soát của Mặt trận Tổ quốc, sau này hối hận ông tiết lộ tất cả sự thật:

https://phatgiaokhongcongsan.blogspot.com/2011/05/ho-so-thong-nhat-phat-giao-o-trung-hieu.html

Ghi chú: Tựa đề do Tiếng Dân đặt

Tục cầu vong, thờ cúng ở châu Á trong mắt học giả Phương Tây

Tục cầu vong, thờ cúng ở châu Á trong mắt học giả Phương Tây

"Đi chùa đầu năm xuất phát từ mong muốn tìm một lòng tin nào đó," theo bà Giang Hà, nhà nghiên cứu triết học phương Đông.
Bản quyền hình ảnh  LINH PHAM/GETTY IMAGES

Câu chuyện chùa Ba Vàng ‘gọi vong’ ở Việt Nam gần đây lật trở lại một số vấn đề mà giới học giả Phương Tây đã nêu ra khi đề cập đến tín ngưỡng ở xã hội châu Á.

Việt Nam, giống Trung Quốc, hiện về nguyên tắc theo chủ nghĩa cộng sản vô thần, nhưng xã hội lại theo rất nhiều tín ngưỡng, đạo giáo.

Vụ thỉnh vong chùa Ba Vàng: dư luận dậy sóng

Một tài liệu của ĐH Cambridge, Anh Quốc khi nói về Việt Nam gọi đây là hiện tượng “Nhà nước cộng sản trong quốc gia tôn giáo” (Communist state in a religious nation).

Vai trò của Phật giáo, tôn giáo vốn kêu gọi tối giản các phép thờ cúng – Đức Phật khi còn tại thế đã bác bỏ nhiều nghi lễ Bà La Môn của Ấn giáo – nhưng nay lại “đồng hành cùng tín ngưỡng dân gian”, cũng được đề cập đến.

Mặt khác, như một số tài liệu của Hoa Kỳ về Myanmar ngày nay nhận định, Phật giáo cũng có mặt bạo lực và tham vọng chính trị của nó.

Tục thờ ma quỷ, vong hồn

Đầu tiên là về phong tục thờ ma quỷ, vong hồn ở vùng Đông Á.

Angela Tempest nêu quan sát rằng mỗi dịp Tết Nguyên Đán là dịp người Trung Hoa bị ám ảnh bởi ma quỷ.

Mộ Hán
Bản quyền hình ảnh  MARCO SECCHI
Mộ thời Hán với các hình nhân mã bằng đồng – ảnh từ một triển lãm tại Milan, Ý năm 2010
Hán
Bản quyền hình ảnhENCYCLOPAEDIA BRITANNICA
Đế chế Trung Hoa thời Hán. Giới sử học tin rằng chính Hán Cao tổ đặt ra truyền thống xây lăng tẩm khắp các châu quận để thời tổ tiên của ông ta

Họ tin rằng có nhiều loại ác quỷ, ngạ quỷ có năng lực hại người sống và cần trấn áp hoặc mua chuộc chúng.

Có những loại hồn ma ‘hiền lành’ hơn cũng sống cùng loài người.

Nhưng ranh giới giữa hồn ma ‘tốt’ và ‘xấu’ rất mong manh.

Món bánh dành cho người chết ở Kyrgyzstan

Miến Điện: Pháp sư nơi cửa Phật

Phật giáo Tây Tạng với sự sống và môi trường

Họ tin rằng có hai phần của linh hồn (soul) là phách (po) vốn thoát xác sau khi người ta chết, và hồn (hun) thì ở lại một thời gian và chỉ đi sau khi nhận được lễ.

Ngay cả hồn của thân nhân ta cũng có thể “quấy phá” sau khi đã chết.

Đặc biệt, các linh hồn còn chưa có chốn đi về, gọi là ‘vong linh’ (wangling – wandering spirit), cần được chú ý chăm sóc.

Dù người Hoa và nhiều dân tộc Đông Nam Á khác đều tin vào vong hồn nhưng con số vong hồn, ma quỷ có tên và đi vào sự tích văn học Trung Hoa lên tới trên 1500, cho thấy sự ‘bành trướng’ không nghỉ của tín ngưỡng này qua thời gian.

Vậy tín ngưỡng này đến từ đâu?

Mark Cartwright viết rằng tục thờ người chết đã có từ thời Đồ Đá ở Trung Hoa.

Sang đời Thương (1600 – 1046 trước Công nguyên) đã có bằng chứng khảo cổ rằng vua chúa, quý tộc thờ tổ tiên đã khuất của họ.

Hồn người chết ngự trên trời, theo đúng trật tự xã hội ‘có trên có dưới’ như xã hội dưới mặt đất, “trần sao âm vậy”.

Đây cũng là tín ngưỡng thầy cúng (shamanism) có ở cả vùng Siberia, Mông Cổ, châu Phi, Nam Mỹ và nhiều nơi trên thế giới thời sơ khai.

Amanda Ruggeri
Bản quyền hình ảnhAMANDA RUGGERI
Người Kyrgyzstan có phong tục làm món bánh bột rán phồng để cúng người chết, gọi là bánh borsook

Người nhà Thương tin rằng có thể nhờ vị shaman (thầy cúng) làm trung gian để nói chuyện với người đã chết.

Sang đời nhà Chu (1046 – 256 trước Công nguyên), tục thời tổ tiên của tầng lớp cầm quyền phát triển mạnh.

Lăng tẩm của vua chúa, quý tộc dành cho tổ tiên họ được xây ở thủ đô của đế chế.

Từ thời Hán, tục thờ tổ tiên ở Trung Hoa đã tiến lên một bước, thành vũ khí chính trị của các vị hoàng đế.

Vẫn theo Mark Cartwright, Hán Cao tổ đã cho xây 176 đền thờ tổ tiên ông ta ở thủ đô tại Trường An, và 167 ngôi nữa ở tất cả các thủ phủ châu quận.

Việc tôn thờ Thái miếu của nhà Hán trở thành tôn giáo cho cả đế chế.

Duy trì đền thờ, lăng tẩm vào thời gian đó đã cần số nhân lực 67 nghìn người.

Các quan coi lăng dâng lễ tới 25 nghìn lần một năm, tính theo tổng số lăng mộ.

Tại sao nhà Hán biến việc tôn thờ tổ tiên của vua thành quốc giáo?

Đó là vì chính quyền đề ra thuyết Thiên Mệnh để khẳng định vị thế vĩnh viễn, mang tính thần bí của quyền lực gắn liền với cá nhân hoàng đế và thân tộc.

Thiên Mệnh (Mandate of Heaven) là ý thức hệ chủ chốt của Trung Hoa, và ngày nay, theo một số tác giả, được áp dụng trong cả vấn đề lãnh thổ: thiên mệnh vươn ra đến đâu thì Trung Quốc có quyền đến đó.

Thần tính của Thiên Tử, gạch nối giữa Thiên – Địa – Nhân, là sự đảm bảo quyền lực chính trị xuyên cả không gia và thời gian.

Phật giáo cũng chấp nhận thờ cúng

Nếu như thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng sơ khai có ở khắp nơi – ai cũng muốn kéo dài sự hiện diện của thân nhân đã khuất qua lễ lạt, tưởng nhớ – thì tôn giáo có cách nhìn khác nhau về phong tục này.

Thiên Chúa Giáo cho đến các thập niên 1960 nghiêm cấm việc thờ cúng tổ tiên.

Các giáo sĩ dòng Tên (Jesuit) khi sang châu Á truyền đạo đã đề nghị với Vatican vào thế kỷ 17 cho chấp nhận một số nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người bản địa.

Hmong
Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM
 Việt Nam: mẹ con người Hmong ngồi nghỉ trước một nhà thờ địa phương. Ki Tô giáo vào Việt Nam khi các tín ngưỡng bản địa đã bám rễ từ lâu và tiếp tục có ảnh hưởng

Nhưng họ bị từ chối và công tác truyền giáo bị ảnh hưởng nhiều vì người Hoa, Việt và Nhật không muốn bỏ thờ cúng tổ tiên.

Người Hoa và Việt có lễ Thanh minh chăm sóc phần mộ tổ tiên và cúng vong hồn vào Rằm tháng 7.

Với người Nhật, lễ Bon là dịp quan trọng thứ nhì trong năm, chỉ sau lễ mừng năm mới, khi người ta đem hoa trái dâng lên bàn thờ Butsudan cho tổ tiên.

Phải sau Công đồng Vatican II năm 1960, Tòa Thánh mới nới lỏng lệnh cấm.

Khi đến các nước đã thờ tổ tiên, vấn đề của Phật giáo này là làm sao thuyết phục người dân xa thế sự, gia đình để tập trung vào tu tập nhằm giải thoát con người.

Nhưng các tăng ni Phật giáo thấy rất khó gỡ bỏ truyền thống có từ lâu và cuối cùng thì không ít nhà sư đã tham gia “trợ giúp” người dân thực hành các nghi lễ mang tính cầu cúng vong hồn.

Trên thực tế, nhiều năm sau khi Đức Phật giác ngộ và nhập Niết Bàn, có một phái là Vajrayana (Kim Cương thừa) đã hình thành tại Ấn Độ, nhấn mạnh đến các phép ma thuật, bắt quyết, quán tưởng để giải thoát.

Nhưng nhìn chung Phật giáo tìm cách diễn giải các nghi lễ có sẵn của xã hội bản địa Đông Á và Đông Nam Á theo cách hiểu của kinh sách Phật.

Đây cũng là sự thỏa hiệp để tồn tại và không “mất dân”.

Sau thời Tùy và Đường, Phật giáo Trung Hoa hoàn thành “bản địa hóa” để hòa trộn với nhiều nghi lễ Khổng giáo, Lão giáo và thờ cúng tổ tiên, theo Charles Custer.

Từ đó, Trung Hoa – và Việt Nam – chấp nhận Tam giáo đồng nguyên, với cả Khổng, Phật và Lão cùng tồn tại, bên cạnh các tín ngưỡng dân gian, trong nhiều thế kỷ về sau.

Phật giáo nguyên thủy không yêu cầu các lễ lạt đình đám để thờ cúng tốn kém nhưng các phái ‘bản địa hóa’ tại Trung Hoa đã diễn giải thuyết ‘giác ngộ’, và ‘giải thoát’ qua nghi thức cúng bái.

The wizards are said to gain their powers through Buddhist teachings, spells and alchemy
Bản quyền hình ảnhFANNY POTKIN
Tại Myanmar, các thầy phù thủy được cho là có được sức mạnh từ việc rao giảng Phật pháp, dùng bùa chú và thuật giả kim

Kiểm soát các nghi thức này cũng là cách để sư sãi có quyền lực với dân chúng, điều đôi khi gây ra căng thẳng với tầng lớp quan lại theo Khổng giáo.

Tôn giáo và chính trị

Có ý kiến cho rằng từ lâu nay, Phương Tây bị cuốn hút bởi mặt tâm linh và huyền bí của Phật giáo mà quên đi rằng có những lúc, tín đồ của đạo này ủng hộ bạo lực.

Các ví dụ được nêu ra là giới tăng lữ Thiền tông Nhật Bản cổ vũ cho phe quân phiệt đem quân xâm lăng Trung Quốc.

Ở Sri Lanka, Bodu Bala Sena – Binh đoàn Phật giáo – đã gây ra các vụ tiêu diệt người Hồi giáo.

Charles Haviland của BBC News viết hồi 2015 trong bài ‘The darker side of Buddhism’ rằng “bất bạo động là nguyên tắc căn bản của đạo Phật” nhưng tại Sri Lanka, đã có các nhà sư bị cáo buộc vận động, hô hào Thánh chiến và thanh lọc sắc tộc.

Gần đây hơn, dư luận thế giới sửng sốt trước các vụ kích động bạo lực chống người Rohingya ở Myanmar đến từ các vị sư Phật giáo nước này.

Đây không phải là lần đầu tiên ở Đông Nam Á, Phật giáo có mặt trong các xung đột.

Phật giáo chiến đấu (militant Buddhism) có truyền thống trong phái Tiểu Thừa và thường được biện hộ bởi khẩu hiệu Thánh chiến (Dhamma Yudhaya) để bảo vệ đạo.

Riêng tại Nam Việt Nam, theo tác giả Mark Moyar, có phong trào các nhà sư ‘chiến đấu’ (militant monks) xuất hiện thời Ngô Đình Diệm và đã tạo ra bất ổn chính trị lớn trong giai đoạn 11/1963- 07/1965.

“SỰ THẬT CAY ĐẮNG VỀ CHÍNH QUYỀN!

 

Image may contain: 1 person, smiling, outdoor
Nguyễn Thị HoàngHải

Nhặt trên fb Oanh Bùi một bài hay của nhà báo Nguyễn Như Phong:

“SỰ THẬT CAY ĐẮNG VỀ CHÍNH QUYỀN!

Chiều nay, tôi gặp một doanh nhân rất nổi tiếng, từng là đại biểu quốc hội. Anh cũng vừa nghiên cứu và đưa vào ứng dụng thành công về phương pháp xử lý nước thải từ các khu công nghiệp rất thành công, và cực kỳ độc đáo, nếu như chưa muốn nói là thế giới cũng chưa có. Từ nước thải công nghiệp, nhiễm kim loại nặng, qua tay anh xử lý, hàm lượng kim loại chỉ còn 0.03 ( thấp hơn 10 lần tiêu chuẩn cho phép)… Hồ nước thải của anh , cá Koi của Nhật lội tung tăng… và nước đó, thừa tiểu chuẩn dùng làm nước sinh hoạt ( tắm, giặt, vệ sinh, nấu cơm…) chỉ không uống trực tiếp được thôi.
Tôi bảo : ” Anh mang công nghệ này áp dụng cho mấy thánh phố lớn như HN, TP HCM…”

Anh nói ngay : ” Không bao giờ tôi làm gì dính với Nhà nước. Một xu, một cắc cũng không?”

Rồi anh quay sang nói với một nhân viên : ” Có mấy khu công nghiệp thuê mình xử lý nước thải, các cô phải kiểm tra là trong số đó có doanh nghiệp Nhà nước không? Nếu có doanh nghiệp Nhà nước,dù họ chỉ chiểm 25-30% cổ phần cũng không được làm. Cái gì dính đến chữ Nhà nước là không làm. Dứt khoát không.”

Tôi ngạc nhiên, hỏi : ” Tại sao lại thế”

Anh nói dứt khoát: ” Ký làm ăn với ông Nhà nước, hôm nay bảo đúng, ngày mai ông khác lên, bảo sai, lôi doanh nghiệp ra chém…Thế thì có mà bỏ mẹ. Cho nên từ lâu rồi, tôi là không chơi với Nhà nước. Đó là chưa kể muốn làm ăn với doanh nghiệp Nhà nước, với chính quyền mà sử dụng tiền ngân sách, không có ăn thì họ gây đủ thứ khó dễ, mặc dù biết việc làm đó là có lợi cho dân, cho xã hội…”

Nghe ông nói mà thấy choáng. Nhưng đúng thế thật! Nhỡn tiền là vừa rồi, ông muốn làm tặng cho một thành phố một khu xử lý nước thải ( làm tặng nhé), vậy mà chính quyền ” củ chuối” gây khó dễ, ông cho rút hết máy móc về luôn, và ” Chào thân ái và Quyết Thắng”

Người vô hình ở trại T16

Từ Thức
Từ ngày bị bắt, Trương Duy Nhất trở thành người vô hình, không ai biết tại sao ông bị bắt, không ai được gặp, kể cả gia đình, kể cả luật sư. Nhà nước biến người thành một bóng ma, trong nhà tù có thực, và dã man nhất, chính vì nó nằm trong bóng tối, như nơi giam cầm, tra tấn kẻ thù của những băng đảng đen.

Bài báo dưới đây của Luật Khoa Tạp Chí viết: biến người thành một bóng ma là tước đoạt ‘’ thể nhân ‘’, cái căn cước làm người của một công dân , một vi phạm nhân quyền man rợ nhất.

Bằng một cái búng tay, người cầm quyền quyết định bạn không hiện hữu nữa.

Chuyện biến người thành một bóng ma không mới lạ trong Goulag, trong những nhà tù VN hay bất cứ chế độ Cộng Sản nào.

Rất nhiều người bị giam giữ hành hạ cho đến chết không biết mình bị kết án về tội gì. Không có hồ sơ minh bạch hay hồ sơ thất lạc, chính người tra tấn cũng không biết mình hành hạ tù nhân về tội gì. Và bởi vì quên không biết tù nhân là ai, người ta nhốt cho tới chết.

Đó là chuyện cũ, xưa như lịch sử chế độ CS. Vấn đề là nó vẫn tiếp tục một cách thô bạo mặc dù VN đã ký kết hầu hết những thoả ước quốc tế về nhân quyền.

Trong thời đại Internet, Trương Duy Nhất sẽ không bị quên, một ngày nào đó sẽ xuất hiện trở lại, từ một bóng ma trở thành ”người tự nguyện nhập trại T16”

 

LUATKHOA.ORG
Sau gần hai tháng im lặng trước sự mất tích của ông Trương Duy Nhất, tối ngày 25/3, các cơ quan truyền thông nhà nước đồng loạt loan tin về việc điều tra nhân vật

ĐỐI THOẠI VỚI VONG

Trần Bang

ĐỐI THOẠI VỚI VONG

(Chuyện thật 100% trong giấc mơ, không hư cấu)

Đêm qua vừa viết xong bài “Hủy hoại Phật giáo hay hủy hoại Chủ nghĩa Marx”, tôi nằm suy nghĩ thêm về lịch sử phát triển Phật giáo để đi đến mặc nhiên thừa nhận, rằng nhờ sự chuyển hóa từ vô thần luận sang hữu thần luận mà Phật giáo phát triển đại chúng. Thậm chí, ở Việt Nam hiện nay, Phật còn chuyển hóa thành Ma mới có thể quyến rũ, mê hoặc được hàng triệu triệu người. Khi Phật hóa thành Ma thì nhà tu hiện đại tự biến mình thành Thầy Mo thời nguyên thủy để làm mọi việc: giáo dục, tế lễ và trị bách bệnh thay cho khoa học, văn hóa giáo dục và y học hiện đại.

Đang nghĩ đến đó trong trạng thái mơ màng, lim dim thì một cái bóng hiện ra. Đó là một lão già với bộ râu tóc dị thường. Tôi bật dậy và ngồi trong tư thế kiết già. Tôi hỏi:

– Tôi biết ông không là Phật, cũng chẳng là Ma. Vậy ông là ai?

Ông ta cười :

– Ta là Vong của tất cả các vong…

Tôi nhìn ông ta với hai tay cầm hai thứ như cầm bửu bối. Ông ta đưa thứ đang cầm bên tay phải ra hỏi tôi:

– Ngươi biết đây là cái gì không?

– Chủ nghĩa Marx. – Tôi trả lời.

– Còn đây là gì? – Ông ta đưa món cầm bên tay trái và hỏi tiếp.

– Bùa của bọn thầy mo thời nguyên thủy. Vậy đích thị ông là Thầy Mo? – Tôi trả lời và hỏi lại ông.

Ông ta cười ngạo nghễ như thể nhổ vào mặt tôi:

– Ngươi thông minh, nhưng còn lâu mới hiểu được bí mật của ta.

Tôi hỏi:

– Ông dùng hai thứ đó khác nhau như nước với lửa, không sợ tẩu hỏa nhập ma sao?

Ông ta cười khùng khục và nói:

– Hiển nhiên hai thứ đó khác nhau như nước với lửa, nhưng đố ngươi chúng giống nhau chỗ nào?

Tôi nhắm mắt cố suy nghĩ vẫn không trả lời được. Ông ta trả lời:

– Ta có khả năng biến nước thành lửa và lửa thành nước.

Nói đoạn, ông ta châm lửa đốt cả hai và cho vào nước. Tôi nhìn thứ nước đen sì đang bốc khói và nghe ông nói tiếp:

– Giống nhau ở chỗ, cả hai đều là Bùa ai cũng có thể uống được. Ta dùng Chủ nghĩa Marx để mê hoặc người có trí. Còn tấm bùa nguyên thủy kia dùng để mê hoặc đám đông mất trí.

Tôi bật mí mắt ra và quát lên:

– Ngươi chơi trò tăm tối khốn nạn đó là đầu độc, sát hại cả dân tộc này. Ngươi có tin ta sẽ vạch trần ngươi ra ánh sáng không?

Nói đoạn, tôi bật công tắt đèn lên. Ánh điện 220V lóa lên bừng sáng cả gian phòng và cái “vong của các vong” kia biến mất. Tôi thở dài, chỉ vì dân mê lú trong tăm tối mà bị vong ám hết đời này đến đời khác. Nhưng tôi cũng hiểu ra bằng tất cả niềm vui, rằng dù là “Vong của các vong” thì cũng đều rất sợ Ánh sáng. Ánh sáng đó chính là Trí tuệ của sự Tự do, Khai phóng. Trí tuệ đích thực không bị thứ bùa mê thuốc lú nào mê hoặc…

Chu Mộng Long