Bị đột quỵ và nghĩ tới Chủ tịch nước (*)

Bị đột quỵ và nghĩ tới Chủ tịch nước (*)

Từ Thức

18-4-2019

Một người bạn bị AVC (đột qụy). Nhờ cứu cấp kịp thời và nhờ y khoa hiện đại, ông ta thoát chết. Nhưng thay đổi hoàn toàn, trở thành một người khác.

Vốn là người nóng nẩy, trở thành một người điềm đạm. Một người ích kỷ, huyênh hoang, coi mình là cái rốn của trái đất, ngày nay nghĩ tới người khác, suốt ngày ngồi, lục cuốn sổ điện thoại rách bươm, gọi hỏi thăm người này người kia, muốn biết tin ai còn ai mất. Một người khắt khe, câu chấp, ngày nay bao dung.

Gần kề với cái chết, ông ta hiểu đời sống hơn, biết cái gì là chính yếu, cái gì là phụ. Ông ta nói: cũng may mà mình bị AVC, mở mắt trước khi chết. Ngồi uống café với ông bạn, tự nhiên nghĩ tới ông Chủ tịch nước.

Tổng bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: Getty Images

Nếu thoát nạn, nếu ra khỏi nhà thương bình an, ông Chủ tịch trở thành một người khác? Nếu ông ta nghĩ Đảng mình hoành hành như vậy cũng đủ rồi. Lâu la, phe đảng của mình vơ vét như vậy cũng quá rồi, dư sống phe phỡn 9, 10 thế hệ. Đất nước tan hoang như vậy cũng tệ quá rồi. Xã hội không thể bệ rạc hơn nữa, suy đồi hơn nữa.

Nếu ông ta, giữa lúc gần đất xa trời, nghĩ tới những người một sớm một chiều mang kiếp màn trời, chiếu đất vì đầy tớ đã quá tham lam. Nghĩ đến những người đáng tuổi con cháu mình, đang nằm mục xương trong tù, chỉ vì muốn môi trường sạch, muốn đất nước không bị đô hộ, dân tộc không trở thành nô lệ.

Nếu ông ta nghĩ ở thời đại Internet, cái trò hề XHCN không lường gạt được ai nữa, kể cả những kẻ ngu xuẩn nhất.

Nếu ông ta chợt rùng mình, nghĩ mình đang bán giang sơn gấm vóc của tổ tiên để lại, ngàn sau sử sách sẽ không quên. Nếu…

Trong một lúc mơ mộng, nghĩ quẩn như vậy. Nhưng café làm tỉnh ngủ, biết rằng sẽ không có chuyện đó. Óc não người CS không phải là óc não bình thường.

Và ngay cả nếu bệnh đột qụy làm nổ tung cái vỏ cứng, để óc não ông già trở lại bình thường, nếu một phép lạ khiến ông già suy nghĩ như một người dân bình thường, ông ta sẽ bị cả guồng máy nghiền nát…

Quay đi quay lại, động lực duy nhất để thay đổi đời sống của người dân vẫn là người dân. Không có phép lạ.

(*) Ghi chú: Tựa đề do Tiếng Dân đặt

Người Việt Nam có thực sự hiếu học?

Image may contain: 1 person, standing and hat
Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

Người Việt Nam có thực sự hiếu học?

Huỳnh Chí Viễn •Thứ Tư, 24/04/2019 •

Chưa bao giờ thầy cô hoặc người lớn chịu khó giải thích một cách rõ ràng cho các em học sinh hiểu rằng thế nào là hiếu học và cũng chưa ai dám đặt câu hỏi “Nếu dân tộc Việt Nam hiếu học như thế tại sao nước Việt Nam ta mãi luôn nghèo nàn và lạc hậu?”

Khi còn đi học, chúng ta thường dạy rằng dân tộc Việt Nam ta có truyền thống “hiếu học” bên cạnh hàng loạt các đức tính khác như yêu nước nồng nàn, cần cù siêng năng, yêu hòa bình… để rồi lớn lên với niềm tự hào về những đức tính được dạy học thuộc lòng đó. Nhưng điều đáng nói là chưa bao giờ thầy cô hoặc người lớn chịu khó giải thích một cách rõ ràng cho các em học sinh hiểu rằng thế nào là hiếu học và cũng chưa ai dám đặt câu hỏi “Nếu dân tộc Việt Nam hiếu học như thế tại sao nước Việt Nam ta mãi luôn nghèo nàn và lạc hậu?”

Từ trước đến nay, truyền thống hiếu học của chúng ta được xây dựng dựa trên một mô-típ khá kinh điển, những người học trò nghèo không có tiền đi học nhưng vẫn cố gắng học giỏi để đỗ trạng nguyên. Những mẩu truyện mang tính chất truyền kỳ kiểu “bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để học bài” được kể đi kể lại qua bao nhiêu thế hệ mà không hề nhận được bất cứ một lời phản biện về sự phi lý của nó. Hoang đường không kém là chuyện học ngoại ngữ bằng cách lấy cuốn tự điển ra mỗi ngày học mười từ cứ thế mà giỏi được bao nhiêu thứ tiếng. Dù cứ nhắm mắt tin những chuyện như vậy là thật đi nữa thì chúng cũng chỉ nói lên được sự vượt khó học giỏi và năng lực phi thường của một vài cá nhân mà thôi, không thể từ đó mà suy ra rằng cả dân tộc đều hiếu học.

Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi rằng tại sao một dân tộc hiếu học như Việt Nam lại không có một triết gia, một nhà tư tưởng hay một nhà khoa học nào trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm và cũng không hề có một hệ tư tưởng riêng hay một phát minh khoa học nào đáng kể cống hiến cho nhân loại? Một dân tộc hiếu học tại sao lại không có một công trình kiến trúc hay một tác phẩm văn học, nghệ thuật, hội họa, âm nhạc nào mang tầm vóc thế giới? Một dân tộc hiếu học ham học sao lại có thể có những câu ca dao kiểu: “Tháng giêng là tháng ăn chơi/ Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè”?

Một dân tộc hiếu học thì sao lại có thể đến đầu thế kỷ thứ 20 vẫn khư khư ôm giữ cái lối thi cử truyền thống quanh quẩn với Tứ Thư Ngũ Kinh mà bài xích khoa học, triết học phương Tây và kỳ thị những người Tây học trong khi Nhật Bản trước đó rất nhiều năm đã mở toang cánh cửa cho những tư tưởng tiến bộ tràn vào. Hiếu học thì sao các ông nghè ông cống ngày xưa ngoài việc nhai lại những “chi, hồ, dã, giả” trong sách Thánh Hiền để chờ ngày vác lều chõng đi thi vì ít bổng lộc và chức tước để làm rỡ ràng dòng họ và ấm thân chưa ai dám thoát ly ra bên ngoài để nhìn thế giới rộng lớn như thế nào? Ngoài việc uống rượu uống trà, ngâm vịnh “phong, hoa, tuyết, nguyệt”, tìm câu trích chữ để bắt bẻ nhau qua từng câu đối để tự cho mình là tài giỏi thanh cao thì có mấy nhà khoa bảng khi xưa tự vấn bản thân rằng cái học của mình nó vô dụng và lạc hậu lắm rồi.

Trong khi phương Tây thế kỷ thứ 18, các nhà tư tưởng lớn như Voltaire, Montesquieu hay John Locke đã bàn tới “tam quyền phân lập” và “khế ước xã hội”, những nhà khoa học như Faraday hay Newton đã nghiên cứu điện từ trường và lực hút trái đất thì ở Việt Nam, các nhà Nho đầu thế kỷ thứ hai mươi vẫn ôm lấy bút nghiên và đèn dầu để dạy lũ học trò “tấc đất ngọn rau ơn chúa” và “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Một dân tộc hiếu học thực sự chắc chắn sẽ không thể nào chấp nhận việc nhai lại và tôn sùng những cuốn sách được viết cách đó mấy nghìn năm mà không hề mảy may có một chút thắc mắc phản biện cũng như không quan tâm đến sự thay đổi của thế giới ở ngoài.

Cách đây hơn 100 năm, chí sĩ Phan Chu Trinh đã viết về “mười điều bi ai của dân tộc” như sau:

1. Trong khi người nước ngoài có chí cao, dám chết vì việc nghĩa, vì lợi dân ích nước; thì người nước mình tham sống sợ chết, chịu kiếp sống nhục nhã đoạ đày.

2. Trong khi người ta dẫu sang hay hèn, nam hay nữ ai cũng lo học lấy một nghề; thì người mình chỉ biết ngồi không ăn bám.

3. Trong khi họ có óc phiêu lưu mạo hiểm, dám đi khắp thế giới mở mang trí óc; thì ta suốt đời chỉ loanh quanh xó bếp, hú hí với vợ con.

4. Trong khi họ có tinh thần đùm bọc, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau; thì ta lại chỉ quen thói giành giật, lừa đảo nhau vì chữ lợi.

5. Trong khi họ biết bỏ vốn lớn, giữ vững chữ tín trong kinh doanh làm cho tiền bạc lưu thông, đất nước ngày càng giàu có; thì ta quen thói bất nhân bất tín, cho vay cắt cổ, ăn quỵt vỗ nợ, để tiền bạc đất đai trở thành vô dụng.

6. Trong khi họ biết tiết kiệm tang lễ, cư xử hợp nghĩa với người chết; thì ta lo làm ma chay cho lớn, đến nỗi nhiều gia đình bán hết ruộng hết trâu.

7. Trong khi họ ra sức cải tiến phát minh, máy móc ngày càng tinh xảo; thì ta đầu óc thủ cựu, ếch ngồi đáy giếng, không có gan đua chen thực nghiệp.

8. Trong khi họ giỏi tổ chức công việc, sắp xếp giờ nghỉ giờ làm hợp lý, thì ta chỉ biết chơi bời, rượu chè cờ bạc, bỏ bê công việc.

9. Trong khi họ biết gắng gỏi tự lực tự cường, tin ở bản thân; thì ta chỉ mê tín nơi mồ mả, tướng số, việc gì cũng cầu trời khấn Phật.

10. Trong khi họ làm việc quan cốt ích nước lợi dân, đúng là “đầy tớ” của dân, được dân tín nhiệm; thì ta lo xoay xở chức quan để no ấm gia đình, vênh vang hoang phí, vơ vét áp bức dân chúng.

Đọc xong mười điều này, có ai còn dám tự hào vỗ ngực nói đây là tính cách của một dân tộc luôn tự cho mình là “hiếu học”?

Có thể cho rằng các vị khoa bảng ngày xưa ở nước ta siêng học, chăm học nhưng không thể cho rằng họ “hiếu học” vì một người hiếu học thực sự học vì niềm say mê kiến thức thực sự và sự khao khát tìm tòi cái hay cái mới chứ không phải học ngày học đêm những kiến thức cũ rich vì công danh và quyền chức. Cái học của các cụ cử ngày xưa chính là nô lệ cho sự học chứ không phải học để giải phóng bản thân. Không phải vô duyên vô cớ mà cụ Phan Chu Trinh lại đặt “khai dân trí” là một trong ba mục tiêu quan trong không kém “chấn dân khí và hậu dân sinh”. Cụ nhắn nhủ: “Đồng bào ta, người nước ta, ai mà ham mến tự do, tôi xin có một vật quý báu xin tặng cho đồng bào là “chi bằng học”. Nếu dân tộc ta thực sự “hiếu học” và biết cách học đúng hướng, cụ Phan chắc không phải tâm tư những điều như thế này.

*

Ngày nay thì sao? Sau hơn một trăm năm vật đổi sao dời, lối thi cử khoa bảng Nho học tuy đã không còn và chữ Hán cũng đã được thay bằng chữ quốc ngữ. Các trường đại học mọc lên như nấm sau mưa, cử nhân, thạc sĩ lên đến con số triệu, còn tiến sĩ cũng phải mấy vạn người. Nhưng đừng tưởng như vậy thì chúng ta đã có thể gọi là có những tiến bộ vượt bậc trong giáo dục để xứng đáng với hai từ “hiếu học”. Trái lại, chúng ta vẫn chăm chỉ học với tư duy “học để làm nô lệ” chứ không phải học để làm chủ và tự hào với sự chăm học đó.

1. Cha mẹ không tiếc tiền của và công sức chạy trường cho con và bắt con đi học thêm từ sáng tới tối để dạt được danh hiệu học sinh giỏi nhưng hiếm có ai chịu học cùng con và dạy con học.

2. Chương trình giáo dục từ phổ thông tới đại học nặng về lý thuyết nhưng lạc hậu và thiếu thực tế. Học sinh được dạy theo kiểu nhồi vịt học thuộc lòng chứ không được khuyến khích tìm tòi khám phá và phản biện.

3. Trình độ và nhân cách giáo viên ngày càng tệ hại, hậu quả tất yếu của việc lấy điểm đầu vào quá thấp của ngành sư phạm. Chưa bao giờ tình trạng giáo viên trù dập, bạo hành và xâm phạm học sinh nhiều như hiện nay.

4. Học sinh sinh viên ngày nay học vì điểm chứ không học vì tri thức. Ngoài những môn học gạo để đi thi, thường thức tự nhiên, thường thức xã hội, và trình độ thưởng thức văn hóa nghệ thuật của đại đa số những người có bằng cấp gần như là một con số không to tướng.

5. Những người “có học” và “có bằng cấp” không hể có sự ham học và lại càng không có khả năng tự học. Tuy ngày nay tài liệu và phương tiện học tập vô cùng phong phú, đa dạng và miễn phí, việc tự học dường như là chuyện không tưởng đối với phần lớn các bạn sinh viên và học sinh.

6. Những người tự coi là trí thức ngoài việc học để có kiếm tiền và dùng học hàm học vị của mình để thăng tiến trong con đường danh lợi hầu như không hề có một nghiên cứu khoa học hay phát minh gì có thể ứng dụng vào đời sống.

7. Những người tự cho mình là trí thức không hề quan tâm đến những vấn đề chính trị-xã hội và cũng không hề có tinh thần phản biện và tiếp nhận thông tin đa chiều. Ngoài giờ làm họ về nhà xem hài nhảm hoặc ra quán lai rai nhậu nhẹt cho tới khuya. Còn lại mọi chuyện liên quan đến vận mệnh dân tộc, họ vẫn yên tâm để cho đảng và nhà nước lo.

8. Lối sống của đại đa số người Việt Nam hiện đại cũng không khác gì lối sống của người Việt thời cụ Phan là mấy: hèn nhát, lười biếng, ích kỷ, tham lam, lọc lừa, thích sĩ diện, gia trưởng, tầm nhìn hạn hẹp…

9. Trình độ ngoại ngữ, trình độ chuyên môn, năng suất lao động và hiệu quả công việc của những “trí thức trẻ” đều yếu kém hơn rất nhiều so với các bạn trẻ cùng độ tuổi và cùng trình độ trên thế giới. Nhưng điều đáng buồn là họ không hề mảy may cảm thấy điều đó là đáng hổ thẹn. Dường như đối với họ, có cái bằng là đủ, còn chuyện cái bằng đó có ý nghĩa gì hay không không hề quan trọng.

10. Cách cư xử của người Việt trong đời sống hằng ngày càng lúc càng trở nên thiếu văn minh lịch sự và hung hăng dữ tợn. Họ không tiếc những lời thô tục nhất bệnh hoạn nhất để rủa xả nhau trên mạng xã hội và sẵn sàng gây án mạng chỉ vì một va chạm nhỏ ngoài đời. Học sinh không những ra tay đánh nhau tàn bạo như kẻ thù mà còn đánh luôn cả thầy cô.

Nếu người nào vẫn còn chưa thấy thực trạng giáo dục của nước nhà hiện tại đến mức báo động mà vẫn còn tin vào câu” người Việt Nam có truyền thống hiếu học” thì hãy nhìn lại sự kiện nâng điểm vào đại học kinh hoàng trong mùa thi năm ngoái ở các tỉnh phía Bắc với những màn phù phép biến điểm liệt thành điểm thủ khoa cho các thí sinh mà phần lớn đều là con ông cháu cha. Hãy tưởng tượng những kẻ không hề có chút kiến thức và nhân cách này sau này sẽ trở thành thẩm phán, chủ tịch, cán bộ cao cấp, bác sĩ, kỹ sư… và hậu quả tồi tệ mà đất nước này phải gánh chịu.

Là một dân tộc có truyền thống hiếu học, chúng ta hãy tự hỏi bản thân mình xem tại sao lại tiếp tục làm ngơ trước một hành động chà đạp giáo dục như thế này? Đã đến lúc chúng ta ngưng huyễn hoặc mình và đối diện với sự thật.

Huỳnh Chí Viễn (Giáo viên, Dịch giả)

NGÔI MỘ TRỐNG

NGÔI MỘ TRỐNG

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Những người tin và người không tin đã tranh luận về sự phục sinh ngay từ ngày Chúa Giêsu sống lại.  Thật sự, chuyện gì đã xảy ra?  Làm sao mà Ngài sống lại từ cõi chết?  Một thi thể thật sự đã chết có thể sống lại và bước ra khỏi mộ, hay phục sinh là một sự kiện biến đổi đời sống trong lương tâm của các môn đệ Chúa Giêsu?  Hay phục sinh là cả hai, một sự kiện vừa thể lý, vừa nội tại trong lương tâm các tín hữu?

Rõ ràng chẳng có ai chứng kiến chuyện thật sự xảy ra.  Những người tuyên xưng Chúa Giêsu đang sống không nhìn thấy Ngài đứng dậy và ra khỏi mộ, họ chỉ gặp Ngài sau khi Ngài đã sống lại, và ngay lập tức những người tin và những người hoài nghi liền chia thành hai phe, những người tuyên bố đã được chạm vào Ngài bằng xương bằng thịt và những người nghi ngờ lời chứng đó.

Có những người tin và những người hoài nghi, và còn có những người tin rằng sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện đức tin chứ không phải về thể lý, họ tin thi thể người chết không thể đứng dậy mà ra khỏi mộ.

Sự phục sinh của Chúa Giêsu là một sự kiện thể lý hay đức tin?  Là cả hai.  Với các Kitô hữu, đây là sự kiện vĩ đại, cả về đức tin lẫn lịch sử.  Không thể giải thích hai ngàn năm lịch sử của đức tin Kitô, bằng cách nào khác ngoài hiện thực phục sinh.  Hiểu sự phục sinh của Chúa Giêsu như một sự việc đơn thuần, rằng thân thể Ngài trỗi dậy từ hầm mộ, là cắt bỏ đi ý nghĩa của sự phục sinh.  Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, với các Kitô hữu, phục sinh cũng phải là một sự kiện mang tính thể lý đến tuyệt đối.  Tại sao lại thế?

Trước hết, là bởi Tin mừng nói khá rõ ràng khi nhấn mạnh ngôi mộ trống và Chúa Giêsu phục sinh không phải là một linh hồn hay hồn ma.  Ví dụ như, chúng ta thấy trong Tin mừng theo thánh Luca, Chúa Giêsu đã mời Tôma kiểm tra thân thể Ngài.  “Hãy coi tay Ta, chân Ta; Chính là Ta đó!  Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt có xương như các ngươi thấy Ta có.”

Để trọn vẹn ý nghĩa sự phục sinh của Chúa Kitô, thì phải có sự sống lại của thân thể.  Cần phải có ngôi mộ trống và thi thể sống lại.  Tại sao lại thế?

Không phải như một kiểu bằng chứng cho phép lạ, nhưng là vì sự nhập thể.  Tin vào sự nhập thể mà không tin vào tính thể lý của sự phục sinh thì thật là mâu thuẫn.  Chúng ta tin rằng Ngôi Lời đã nhập thể làm người.  Và chính điều này đưa mầu nhiệm Chúa Kitô và hiện thực phục sinh ra khỏi giới hạn thuần tinh thần.  Nhập thể luôn luôn bao hàm một hiện hữu có tính thể lý, sờ mó được, như định nghĩa về vật chất là “một sự gì đó có chiếm hữu không gian và có trọng lượng.”

Tin vào sự nhập thể là tin rằng Thiên Chúa đã sinh ra trong thân xác thật, sống trong một thân xác thật, chết trong thân xác thật, và sống lại trong thân xác thật.  Tin rằng phục sinh chỉ là một sự kiện đức tin trong lương tâm các tông đồ, thì dù có phong phú và thật đến mấy, cũng vẫn tước bỏ ý nghĩa của sự nhập thể, và rơi vào chủ nghĩa nhị nguyên xem trọng tinh thần và khinh thường thể xác.  Một thuyết nhị nguyên như thế hạ giá sự nhập thể và xói mòn ý nghĩa của phục sinh.  Nếu phục sinh chỉ là một sự kiện tinh thần, thì đó chỉ là một sự kiện nhân loại chứ không phải một sự kiện bao hàm cả vũ trụ.  Nói thế là xem đó chỉ là một sự kiện trong lương tâm con người chứ không phải sự biến đổi của vũ trụ.

Nhưng sự phục sinh của Chúa Giêsu không chỉ là một sự mới mẻ tuyệt đối trong lương tâm con người, mà còn là một sự mới mẻ tuyệt đối về bản chất vũ trụ, mới mẻ trong từng nguyên tử.  Phục sinh sắp xếp lại tâm hồn và tâm trí con người, nhưng nó cũng sắp xếp lại các nguyên tử.  Trước khi Chúa Giêsu phục sinh, xác người chết không sống lại, họ vẫn chết, nên khi Ngài sống lại, thì đó là một sự mới mẻ tuyệt đối cả về tinh thần lẫn vật chất.  Chính xác là bởi tính vật chất tuyệt đối đó, nên sự phục sinh của Chúa Giêsu đem lại hy vọng mới cho từng phân tử cũng như cho tất cả mọi người.

Tôi tin rằng Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết, một cách vật chất, theo nghĩa đen.  Tôi cũng tin rằng sự kiện này thiêng liêng vô cùng, là một sự kiện đức tin, là sự biến đổi lương tâm, là hy vọng mới tăng sức cho lòng mến mới và sự tha thứ mới.  Nhưng phục sinh cũng là một sự kiện biến đổi vật chất đến từng phân tử và biến đổi xác người chết.  Đây là một sự kiện tuyệt đối mang tính thể lý, cũng hệt như mọi sự kiện khác trong công cuộc nhập thể khi Thiên Chúa mang lấy xác phàm thật sự.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: suyniemhangngay1 & ThuNNguyen

Tin ‘Trọng bệnh’ trên mạng xã hội có khả tín?

Image may contain: 3 people, indoor
Phạm Chí Dũng

Tin ‘Trọng bệnh’ trên mạng xã hội có khả tín?

VOA 23/04/2019

Phạm Chí Dũng

Ảnh: Năm 2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh. (Ảnh: TTXVN) (Chụp từ màn hình Dân Việt)

Bất chấp các ‘trang mạng đứng tên lãnh đạo’ như nguyephutrong.orgtolam.orgnguyenxuanphuc.org… tố cáo ‘các thế lực phản động và thù địch xuyên tạc tình hình sức khỏe lãnh tụ kính yêu Nguyễn Phú Trọng’, trong khi toàn bộ hệ thống tuyên giáo, báo đảng và hơn 800 tờ báo nhà nước vẫn im thin thít về vụ việc nổi đình nổi đám và đượm tính bi hài này, những tin tức nóng rẫy về ‘Trọng bệnh’ xuất hiện trên mạng xã hội kể từ ngày 14/4/2019 – khi ‘Tổng tịch’ đi công du Kiên Giang – cho tới nay, thật trớ trêu, lại có cơ sở.

Kịch bản Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh và Trần Đại Quang

Cơ sở đáng thuyết phục đầu tiên chính là thái độ im hơi lặng tiếng của báo chí nhà nước về vụ ‘Trọng bệnh’ – hiện tượng mà ngay lập tức khiến cho người ta liên tưởng về kịch bản tương tự trong các vụ việc Nguyễn Bá Thanh vào năm 2014, Phùng Quang Thanh vào năm 2015, Trần Đại Quang vào hai năm 2017 và 2018. Khi đó, những tin tức ‘lạ’ đã bất thần hiện ra trên mạng xã hội về số phận được báo trước của những quan chức này. Nếu loại trừ một số tin tức cường điệu thái quá như ‘Nguyễn Bá Thanh đã chết ở bệnh viện Mỹ’, ‘Phùng Quang Thanh bị ám sát ở Paris’, ‘Trần Đại Quang đã chết ở Nhật Bản’, không ít thông tin của mạng xã hội về tình hình bệnh tật, quá trình điều trị và quá trình di chuyển về Việt Nam của những quan chức này đã được xác nhận sau đó.

Trong vụ Trưởng ban nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh, trang mạng Chân Dung Quyền Lực đã làm nên ‘kỳ tích’ khi cuốn hút sự tò mò và quan tâm của cả một đám đông xã hội Việt Nam trong suốt vài tháng trời. Vào cuối năm 2014, trong lúc Ban Bảo vệ và Chăm sóc sức khỏe trung ương cùng các cơ quan đảng lẫn chính phủ Việt Nam vẫn hoặc im thít hoặc cố vớt vát bằng lý lẽ ‘tau khỏe mà, có chi mô’ chẳng cách nào kiểm chứng được, Chân Dung Quyền Lực đã đưa tin rất cụ thể về lịch trình, số chuyến bay, giờ bay và giờ đáp của chuyến máy bay đưa Nguyễn Bá Thanh về Đà Nẵng. Thậm chí còn dự báo cả thời điểm mà ông Thanh sẽ… chết.

Tương tự, một số trang mạng xã hội đã đưa tin về ‘con bệnh’ Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh sau khi ông ta gặp một sự cố ở Paris và giữa năm 2015, về lịch trình, chuyến bay, giờ bay của Thanh về Việt Nam…, đồng thời dự báo về việc Phùng Quang Thanh sẽ chẳng còn tương lai nào ở đại hội 12. Quả thực, trước và sau đại hội 12, viên cựu bộ trưởng quốc phòng bị quá nhiều dư luận nghi ngờ về thành tích tham nhũng này đã biến mất, không chỉ biến khỏi Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương mà ngay trong sinh hoạt thường ngày cũng chẳng thấy bóng dáng y đâu.

Còn với hai lần ‘biến mất’ của Trần Đại Quang – chủ tịch nước – vào hai thời điểm tháng 7 – 8 năm 2017 và tháng 3 – 4 năm 2018, một số trang mạng xã hội cũng đã đưa tin khá chi tiết về tình trạng bệnh tật và việc Quang ‘tái xuất’ ở Việt Nam, đặc biệt là việc Trần Đại Quang bay từ Nhật Bản về Việt Nam để dự hội nghị trung ương 7 vào tháng 5 năm 2018 và ngồi bàn chủ tọa sát bên ‘đối thủ’ là Tổng bí thư Trọng.

Vì sao những tin tức trên mạng xã hội về một số quan chức cao cấp, dù chẳng được bất kỳ một cơ quan ‘có trách nhiệm’ nào của đảng hay chính phủ ra mặt xác nhận, lại được thực tế chứng minh là khá chính xác?

‘Tay trong nội bộ’

Cho tới nay, có quá ít bằng chứng về việc giới blogger và Facebooker độc lập có được và đã đăng tải những tin tức nội bộ thuộc loại ‘bí mật nhà nước’. Do vậy, chỉ có thể hiểu là những tin tức này xuất phát từ một số Facebooker ‘không độc lập’.

Mà không độc lập lại có thể hiểu là ‘phe phái’ hay ‘phe cánh chính trị’ – những khái niệm đã tồn tại lâu đời trong chính trường đầy những màn đấu đá và xung đột ở Việt Nam, đặc biệt từ năm 2012 khi bùng nổ của chiến quyền lực giữa hai cánh Trọng – Sang và Nguyễn Tấn Dũng. Càng về sau này, càng hình thành một nghề mới: ngày càng nhiều cây viết, chủ yếu xuất xứ từ khối báo chí nhà nước – hoạt động một cách ‘độc lập’ bằng cách đưa tin bài ẩn chứa nhiều thông tin nội bộ và thông tin mật để phục vụ cho các thế lực chính trị và các nhóm lợi ích, tập đoàn tài phiệt. Vũ khí của những người này là các trang blog và facebook. Một số trong giới viết lách này đã khoác tấm áo ngụy trang mang màu sắc dân chủ nhân quyền.

Hầu như không phải bàn cãi, chính những tin tức được xem là có nguồn gốc từ ‘tay trong nội bộ’ như trên mới chi tiết nhất và mang tính tin cậy cao nhất. Động cơ của sự xuất hiện những tin tức này được cho là chủ yếu xuất phát từ mục đích đấu đá và triệt hạ lẫn nhau của những phe phái chính trị trong nội bộ đảng, tương tự việc trang Chân Dung Quyền Lực đã dùng đòn ‘minh bạch hóa’ về tài sản, sân sau và các thủ đoạn chơi nhau để ‘ám sát’ một số quan chức trong Bộ Chính trị.

Thông tin về ‘Trọng bệnh’ cũng khá tương đồng về kịch bản với những tin tức từng ứng với số mạng của Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh và Trần Đại Quang.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Phú Trọng đã từ lâu trở thành tâm điểm công kích của những đối thủ chính trị và đặc biệt là giới quan tham khi Trọng vận hành tung tóe chiến dịch ‘đốt lò’. Do vậy, bất kỳ tình trạng suy yếu hay nguy biến nào về sức khỏe của Trọng cũng là cơ hội để các nhóm đối thủ tung hê và còn có thể cường điệu tình trạng bệnh tật tồi tệ của ông ta, như một cách khủng bố tâm lý những quan chức thuộc phe Trọng và những người còn ‘tin yêu Minh quân’, làm suy giảm sức mạnh của ‘phe Trọng’ trong cuộc đua tới đại hội 13 và cả mục đích dội nước vào cái lò vẫn còn âm ỉ của Trọng.

Từ phản công chiến thuật đến phản công chiến lược

Chính trường Việt Nam đang hiện ra một đặc trưng như thời năm 2015 trước đại hội 12 của đảng cầm quyền: nếu vào năm 2015 đã hiện hình cuộc chiến công khai trên mạng xã hội bằng các đơn thư tố cáo và các bài viết của hai phe cánh chính trị chính là ‘phe Trọng’ và ‘phe Dũng’, năm 2019 cũng đang trở lại cái không khí xốc nổi, quyết thắng và công khai thách thức lẫn nhau ấy.

2019 lại được xem là ‘năm bản lề’ về cơ cấu ‘cán bộ cấp chiến lược’ cho đại hội 13 – sẽ diễn ra vào năm 2021. Vậy là cùng với biến cố ‘Trọng bệnh’, đã nảy nòi một cuộc sát phạt không tuyên bố giữa các quan chức cấp cao – những người đang nhìn thấy thế độc tôn độc tài của ‘bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo’ chẳng còn tồn tại được bao lâu nữa và muốn qua mặt những kẻ khác để giành giật ngay lấy vị trí do khoảng trống quyền lực để lại.

Chẳng có gì khó khăn để dự đoán là Nguyễn Phú Trọng sẽ vấp phải một thách thức khủng khiếp về sức khỏe tự thân của ông ta, đặc biệt là vấn đề tổn thương não bộ, điều có thể kiến ông ta nếu không cẩn trọng sẽ phải sớm từ giã chính trường. Trong bối cảnh đó, ông ta còn phải chịu mũi dùi công kích của các thế lực đối thủ chính trị, ngoài mặt là ‘lo lắng cho sức khỏe của lãnh tụ kính yêu’, nhưng bên trong chỉ muốn Trọng ‘xuôi tay an nghỉ’ càng sớm càng tốt.

Có thể một cách chính thức, phe đối thủ của Nguyễn Phú Trọng đang chuyển sang một giai đoạn mới: phản công chiến thuật để dẫn tới phản công chiến lược.

Tướng Lê Đức Anh, cựu chủ tịch nước CSVN, qua đời

 

Tướng Lê Đức Anh, cựu chủ tịch nước CSVN, qua đời   

Ông Lê Đức Anh, ngồi trên xe lăn, đến dự đám tang cố Thủ tướng CSVN Võ Văn Kiệt hôm 15 Tháng Sáu 2008 tại Sài Gòn. (Hình: Hoang Dinh Nam/Getty Images)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Tướng Lê Đức Anh, cựu chủ tịch nước CSVN qua đời lúc 8 giờ 10 phút tối 22 Tháng Tư 2019 tại Hà Nội, thọ 99 tuổi, nhiều cơ quan truyền thông tại Việt Nam loan tin.

Trước đó ít giờ mạng xã hội xôn xao với một post trên Facebook của ông Lê Mạnh Hà, cựu phó chủ nhiệm Văn Phòng Chính Phủ CSVN và là con trai cựu Chủ Tịch Nước CSVN Lê Đức Anh, viết có đoạn “… Ông sẽ là người cuối cùng trong bộ chỉ huy chiến dịch năm ấy ra đi mãi mãi.”

Ông Lê Đức Anh là chủ tịch nước thứ tư của CSVN, nhiệm kỳ 1992 đến 1997. Ông cũng từng là Đại tướng, Bộ trưởng Quốc Phòng CSVN từ 1987 đến 1991.

Tuy post của ông Hà không giải thích chi tiết “ra đi mãi mãi” có phải là cách ông ý nhị báo tin cha ông vừa qua đời hay không, nhưng hàng trăm comment phía dưới của cộng đồng mạng là “chia buồn cùng gia quyến”, bên cạnh những comment nguyền rủa ông về vụ Trung Quốc thảm sát lính của quân đội CSVN tại Gạc Ma, Trường Sa, chỉ hiển thị trong chốc lát trước khi bị ông Hà xóa đi.

Ông Lê Đức Anh tròn 98 tuổi hôm 1 Tháng Mười Hai, 2018.

Bức ảnh chụp vào ngày 5 Tháng Chín 1995, ông Lê Đức Anh (giữa), khi đó là đương kim Chủ tịch nước, đón tiếp cựu Tổng thống Mỹ George H.W. Bush và cựu Đệ Nhất Phu Nhân Barbara tại Hà Nội. (Hình: HOANG DINH NAM / AFP / Getty Images)

Các báo nhà nước ở Việt Nam hiếm khi đăng tin về ông Anh trong lúc mạng xã hội từng vài lần rộ lên tin đồn ông qua đời.

Hồi trung tuần Tháng Chín, 2018, thời điểm đương kim Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang qua đời, mạng xã hội xôn xao chuyện “quốc tang nối tiếp quốc tang” với tin đồn hai cựu lãnh đạo chóp bu của đảng CSVN là ông Đỗ Mười và ông Lê Đức Anh cũng qua đời.

Ông Đỗ Mười sau đó qua đời hôm 1 tháng 10, 2018 còn ông Anh được cho là vẫn “lây lất, thở máy” đến nay.

Lúc các tin đồn đó đang lan truyền, trang Facebook Truong Huy San của nhà báo Huy Đức, người đầu tiên loan tin ông Trần Đại Quang qua đời, viết: “Tôi muốn nói với các bạn rằng, cụ Đỗ Mười sinh năm 1917, cụ Lê Đức Anh sinh năm 1920, đau yếu đã lâu. Với tôi, Trần Đại Quang chết mới là tin, hai cụ có đi gặp Karl Marx, Lenin [ý nói qua đời] thì cũng là lẽ thường, không phải ‘tin.’”

Theo thông lệ, khi một người thuộc hàng “tứ trụ” qua đời, gia đình không được phép loan tin báo tử ngay, mà phải đợi thông báo từ Bộ Chính Trị về việc sắp đặt người trong ban tang lễ, do liên quan đến việc tổ chức quốc tang.

Ông Lê Đức Anh qua đời trong bối cảnh diễn biến bệnh tình của Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước CSVN Nguyễn Phú Trọng thế nào vẫn chưa được công khai, ngoài những tin gửi điện mừng, điện chia buồn đến lãnh đạo các nước.

Trước post gần nhất của ông Lê Mạnh Hà, mạng xã hội từng xôn xao nhiều lần về tin ông Lê Đức Anh qua đời các năm trước.

Đáng lưu ý, những năm gần đây, ông Lê Đức Anh được ghi nhận sống ở bệnh viện nhiều hơn ở nhà và các tin tức về ông chỉ được hé lộ trên mạng xã hội.

Hôm 17 Tháng Tư, Facebook Đinh Bá Truyền cho hay: “Ngày 16 Tháng Tư, ông Nguyễn Phú Trọng được cáng lên chuyến bay của hãng Vietnam Airlines tại Sài Gòn, khởi hành đi Hà Nội. Chiều hôm ấy, xe cứu thương chở ông vào Bệnh Viện Trung Ương Quân Đội 108. Hiện ông đang nằm tại tầng 2, mé bên phải, Khoa A11. Cũng ở tầng này, Đại Tướng Lê Đức Anh đang được điều trị tích cực ở căn phòng mé bên trái.”

Quân Y Viện 108 là nơi các lãnh đạo chóp bu của đảng CSVN thường được đưa vào chữa trị hay dưỡng bệnh.

Ông Lê Đức Anh là nhân vật gây tranh cãi và bị nhiều người cáo buộc là nhân vật đã ra lệnh cho binh lính Việt Nam “không nổ súng” trong cuộc hải chiến Gạc Ma, quần đảo Trường Sa, hồi năm 1988, khiến 64 thủy binh Việt Nam thiệt mạng dưới tay quân Trung Quốc.

Tuy vậy, ông vẫn nhận được một số lời tán dương.

Hồi Tháng Giêng, 2019, nhà báo Hoàng Hải Vân, cựu tổng thư ký tòa soạn báo Thanh niên viết trên trang cá nhân: “Ông Lê Đức Anh từng làm bộ trưởng Quốc Phòng [CSVN], rồi làm chủ tịch nước, cuối cùng là làm cố vấn Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Nhiều người đề cập đến uy quyền của tướng Lê Đức Anh, một uy quyền còn kéo dài mãi cho đến sau khi ông rời khỏi mọi chức vụ. Người ta đồn rằng, chính ông đã đề cử và hậu thuẫn cho tướng Lê Khả Phiêu lên làm tổng bí thư và cũng chính ông chặn con đường tái cử của ông Phiêu, cùng nhiều chuyện khác nữa. Những chuyện đại loại như vậy tôi không đủ thông tin cũng như tư cách để bàn luận. Tôi chỉ biết chắc một điều: Tướng Lê Đức Anh không phải là người tham quyền cố vị.” (T.K.)

Hospice- Con đường ngắn nhất để đến thiên đường  

Hospice- Con đường ngắn nhất để đến thiên đường  

Ngày 3 tháng 2 nghĩa là cách đây 2 tháng rưỡi, ông ung thư ruột già bỗng dưng nỗi cơn thịnh nộ, ổng hành hạ tôi đến ngất ngư, những cơn đau xé ruột suốt ngày đêm, uống thuốc gì cũng không giảm đau được , nếu lúc đó có thuốc morphine thì họa may , các con của tôi đòi chở tôi lên bệnh viện nhưng tôi từ chối, tôi sợ bệnh viện lắm rồi , ở đó họ lấy máu, scan, súc ruột, rồi cho lên phòng mổ , tôi đã trải qua 2 lần mổ, ngán lắm 

Suốt tháng 3 tôi bỏ ăn, người gầy như con ma đói,tưởng tôi sắp chết anh chị Hai từ Michigan bay qua thăm, Vợ chồng con gái đầu cũng bay qua thăm..

Con gái út gọi bác sĩ, ổng thẩm định bệnh của tôi không thể nào chữa được và yêu cầu tôi theo chương trình Hospice tại nhà , tôi chấp nhận 

Hospice  là nơi săn sóc những người bệnh ở vào giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, tức là chỉ còn 6 tháng trở lại. Những người này đã bị các bệnh viện từ chối điều trị. Bệnh viện yêu cầu đưa về nhà để lo việc hậu sự. Khi đem về nhà nếu không có Hospice hay dịch vụ Hospice thì con cái phải thay phiên nhau săn sóc, phải mời bác sĩ tới rồi thành ra có nhiều rắc rối, lại gây ra nhiều công việc cho người nhà. Khi có hậu sự người nhà cũng phải tự lo liệu lấy. Các cơ sở Hospice sẽ săn sóc hết, một cách toàn diện, một cách nhân bản, tức là săn sóc về thể xác bằng cách làm bớt đau đớn, săn sóc về tình cảm, an ủi, săn sóc về tâm linh, có đại diện của các tôn giáo đến để nói chuyện, để an ủi.. Ngoài việc giúp gia đình khỏi phải chăm sóc 24/24 mà còn giúp gia đình lo về hậu sự nữa.”

Hospice không phải là dịch vụ chữa bệnh, mà là một dịch vụ săn sóc, an ủi, và hỗ trợ bệnh nhân cũng như gia đình. Dịch vụ này có thể được cung cấp ở bất cứ nơi nào bệnh nhân gọi là “nhà,” tại tư gia, tại một trung tâm dưỡng bệnh, hay một viện dưỡng lão (nhưng không phải là bệnh viện, nơi bệnh nhân được điều trị cho khỏi bệnh). Mục tiêu của hospice care không phải là để chữa bệnh, mà để làm cho thời gian còn lại của người bệnh được thoải mái hơn.

Hằng tuần chiều thứ 3 một phái đoàn của hospice gồm một y tá,một nhân viên xã hội (giúp đỡ  về việc hậu sự, như nhà quàn v..v), một nhân viên vềdược ( cho thuốc) , một nhân viên về tâm linh (lo về chùa chiền nếu bệnh nhân là phật giáo) và một thông dịch viên người Việt(họ chỉ tin khả năng tiếng Anh của TDV thôi) họ cung cấp cho tôi một chiếc giường có thể điều chỉnh cao thấp, lên xuống, tôi nói tôi đau lưng ,hô cung cấp một nệm mút chống đau lưng  v…v ..

Khi gặp tôi tại nhà, họ tạo bầu không khí vui nhộn, tiếng cười vang lên không ngớt, nhưng có khi họ bàn nhiều về cái chết, về hậu sự , tôi vẫn tỉnh bơ, còn lần tôi hét lên, tại sao các người cứ bàn về chuyện chết…..Tôi không chết đâu

Thật tình tôi không sợ chết , tôi vẫn vui vẻ,yêu cuộc sống, hơn nữa bên cạnh tôi có bà xã tận tình chăm sóc, từ miếng cơm, giấc ngũ , hai cô con gái ở gần hết lòng hiếu thảo, sáng đi làm, tranh thủ ghé qua các nhà hàng ăn nhanh mua  cho bố một cái bánh Croissant Breakfast Sandwich hay một hộp soup gà , tối còn ghé thăm, hàn huyên với bố

Tôi đã trải qua hơn 2 tháng chương trình Hospice care,chỉ còn 3 tháng tôi sẽ bỏ cuộc chơi, lìa bỏ cõi  trần gian đầy nghiệt ngã vì tôi biết cõi trần nầy là giả tạm, không có thật , quả thật nếu tôi mất đi đó là tin vui, vì tôi đã vào được cổng thiên đường

Doanh doanh

From: TU-PHUNG

THU PHÍ NGƯỜI NUÔI BỆNH: MỘT KIỂU TẬN THU TÀN NHẪN

THU PHÍ NGƯỜI NUÔI BỆNH: MỘT KIỂU TẬN THU TÀN NHẪN

Ở xứ Việt thời nay, bệnh vào đến bệnh viện đã là một sự khốn khổ, khốn nạn. Đồng tiền phải đi trước, dù cấp cứu gần chết thì phải đóng tiền mới có người hỏi tới, không thì nằm đó chờ. Một người bệnh ít nhất phải có một người đi theo nuôi bệnh bởi lực lượng y tá, điều dưỡng không thể chăm sóc người bệnh. Con nuôi cha mẹ, vợ nuôi chồng, chồng theo nuôi vợ, con cháu nuôi ông bà.. Không thể không có mặt được. Không chỉ để rót miếng nước, đút miếng cháo, đưa viên thuốc mà còn phải có mặt ở đấy để khi bác sĩ, y tá cần thì đáp ứng ngay. Bệnh nhân nếu ở phòng chăm sóc đặc biệt tức là đã có một chân vào cửa tử thì người nhà càng phải cần có mặt để được gọi tên bất cứ lúc nào. Đến các bệnh viện nhà nước mà xem, đa số bệnh nhân đều là người nghèo đến từ các tỉnh, có người không đủ tiền mua thuốc, và người đi nuôi bệnh thường là sống nhờ cơm từ thiện. Chồng vừa nuôi vợ bệnh vừa chạy xe ôm là chuyện thường tình. Họ nghèo lắm, nghèo đến xác xơ. Nhà có người bệnh, nhất là những bệnh nan y kéo dài ngày chữa trị thì từ gia đình khá khá biến thành hộ nghèo và người nghèo trở thành tàn mạt điêu đứng cũng là chuyện thường tình. Bán trâu, bán ruộng, bán vườn rồi bán nhà khăn gói lên thành phố chữa bệnh cho người thân, trắng tay cũng là chuyện thường tình.

Cán bộ lãnh đạo khi bệnh có phòng riêng, có bác sĩ riêng, có y tá, điều dưỡng riêng, có chế độ chăm sóc cũng riêng. Đa số lại chữa trị ở nước ngoài với cả cặp đô la, cả túi hột soàn mang theo để chi tiêu, chưa kể đến ngân sách nhà nước dành cho họ. Họ đâu thấm cảnh chạy vạy từng đồng mua thuốc, bông, băng. Người thân của họ đâu phải nằm ở hành lang, ở sân bệnh viện để nuôi bệnh, họ đâu phải xếp hàng để kiếm miếng cơm từ thiện qua ngày. Cho nên họ mạnh miệng cho răng thu phí người nuôi bệnh là hợp lý. Tuyên bố như thế là chưa thấm được nỗi đau của dân, chưa đồng cảm với nỗi khổ của dân. Dân đã nghèo tận đáy khi trở thành người bệnh mà tận thu như thế là một việc làm tàn nhẫn. Có thể gọi là vô đạo. Đồng ý là bệnh viện hoạt động phải có kinh phí thế nhưng đã gọi là một chế độ vì dân, do dân và lo cho dân mà còn tính với dân miếng nước dội cầu, một chút ánh sáng của bóng đèn thì chính phủ đó có còn nên tồn tại không? Ngân sách hàng năm dành cho y tế cũng không nhỏ, sao lại nghĩ đến chuyện tận thu những người đi nuôi bệnh, những người đã nghèo đến tận cùng khi đến bệnh viện.

Ngày xưa ở miền Nam, các bệnh viện công còn gọi là nhà thương thí, ở đó bệnh nhân được chữa trị không mất tiền, còn được nuôi ăn. Người nuôi bệnh có chỗ còn được cung cấp các bữa ăn do các tổ chức xã hội phân phát. Họ không hô hào vì dân nhưng họ đồng cảm với hoàn cảnh với người bệnh. Đó là cách đối xử nhân văn, nhân đạo giữa con người với nhau. Còn bây giờ chúng ta hành xử với nhau như thế nào? Các ngài cứ nghĩ việc tận thu, càng nhiều càng tốt, sống chết mặc bay với những lý lẽ nghe qua tưởng chừng rất hợp lý.

“Ngày 10-4, trao đổi với báo chí về vấn đề BV có được thu phí người nuôi bệnh hay không, Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho rằng hiện nay các BV đã thực hiện tự chủ tài chính, chủ trương của Bộ Y tế cố gắng tạo điều kiện cho các cơ sở y tế làm chủ về kinh phí để có nguồn trả lương cho nhân viên và thực hiện nhiều công tác khác. Do đó theo Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến, những khoản thu hợp pháp, không sai luật thì BV vẫn được quyền thu.
Trở lại vấn đề thu phí người nuôi bệnh, Thứ trưởng Bộ Y tế nhìn nhận nhiều người không phải là bệnh nhân vào BV nhưng sử dụng điện, nước, vệ sinh, ảnh hưởng môi trường. “BV phải cử nhân viên hoặc thuê người dọn dẹp vệ sinh và trả tiền cho các khoản điện, nước này. Về nguyên tắc, BV là đơn vị tự chủ kinh phí nên người vào sử dụng dịch vụ phải trả tiền là hợp lý”

Cái hợp lý mà các ngài đang đề cập đến là sự hợp lý tàn nhẫn vô nhân đạo. Sự tận thu này đã đẩy người bệnh đã nghèo càng khổ thêm, họ càng túng quẫn hơn khi phải thêm một khoản kinh phí không biết tìm đâu. Họ lại phải nhịn ăn, bán thêm ruộng vườn để đáp ứng việc tận thu của các ngài. Khốn nạn thật!

From: Nguyen Tien Dung & Kim Bang Nguyen

“LICENCE TO KILL” VÀ LUẬT PHÁP CUNG ĐÌNH

Đỗ Văn Ngà
“LICENCE TO KILL VÀ LUẬT PHÁP CUNG ĐÌNH” 

Chắc mọi người cũng từng thưởng thức qua những loạt phim hành động nói về chàng điệp viên 007? Có một bộ phim có tựa đề không bao giờ tôi quên đó là “licence to kill”- tức “quyền được giết” do Timothy Dalton thủ vai James Bond. Bộ phim phát hành vào năm 1989.

Thực ra không phải James Bond trong phim này mới có đặc quyền được giết, mà James Bond trong bất kỳ phim nào cũng có cái đặc quyền đó hết. Những con người này không cần phải làm theo những gì luật pháp quy định như những nhân viên cảnh sát hay những đơn vị đặc nhiệm tồn tại công khai, mà họ toàn quyền tiền trảm hậu tấu trong sự bao bọc của những sự phong tỏa thông tin.

Đất nước nào cũng tồn tại những đơn vị gián điệp hoạt động ở nước ngoài họ làm nhiệm vụ quốc gia. Cho nên họ không phải chịu sự điều khiển luật pháp bên trong quốc nội. Dù bên ngoài thế, nhưng bên trong, những quốc gia dân chủ có mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân cùng chung một loại chất keo dính, đó là tất cả đều phải hoạt động theo pháp luật.

Tại các quốc gia dân chủ, luật pháp bao trùm từ tượng tầng xuống hạ tầng, tức từ nguyên thủ quốc gia xuống đến từng người dân. Cho nên, cuộc chạy đua vào ghế nguyên thủ nó rất đẹp tất cả đều theo luật pháp. Họ phải nỗ lực hết mình đi khắp nới vận động để kiếm từng lá phiếu cho mình. Cuộc chiến giữa họ là cuộc chiến giành lòng dân trên chính trường. Và người chiến thắng rất xứng đáng, vì họ đã thể hiện năng lực của họ trước đám đông như là show hàng cho dân chọn lựa. Đó là bản chất của những cuộc chiến giành quyền lực trong giới chính trị tại xứ đó.

Còn tại Việt Nam, luật pháp chỉ trùm ở tầng thấp không với tới thượng tầng được. Tức luật pháp chỉ đủ trùm lên đầu dân, còn đối với 4 triệu đảng viên, luật pháp không với tới. Chỉ một kẻ ấu dâm như Nguyễn Hữu Linh mà luật pháp còn bất lực huống hồ chi thượng tầng cao hơn? Ở đỉnh của bộ máy quyền lực ĐCS, nó quá cách xa luật pháp, vậy trên đó những người CS muốn giành lấy quyền lực về cho mình thì phải làm gì? Phải trang bị cho mình một Licence to kill, tức họ mặc nhiên tự ban cho chính họ quyền được giết như là luật ngầm của giới mafia.

Tể tướng có quyền lực quá mạnh đòi hoàng thượng nhường ngôi, hoàng thượng không nghe thì dùng licence to kill để diệt. Hoàng thượng muốn dồn cựu tể tướng vào chân tường, tể tướng dùng licence to kill thịt cho hoàn thượng ngã bệnh hôn mê bất tỉnh phải đánh đu từng giây từng phút với tử thần. Cuộc chơi giữa vua chúa và những đại thần trong một triều loạn, được bảo đảm sự riêng tư bằng hàng rào chặn tin của triều đình. Bên trong triều, các vua quan chém giết máu tươi chảy đầy đại điện trước ngai vàng, thế nhưng ở vòng ngoài, họ thông báo rằng: vua quan bọn họ rất thuận hòa.

Ở Việt Nam, người ta cho rằng có 2 tầng luật pháp:

– Tầng nhứ nhất, tầng thấp nhất chính là thứ luật dành cho tiện dân, tức là Hiến Pháp và Luật pháp. Nói theo ngôn ngữ của thời phong hiến thì thứ luật này chỉ thể quyết được trường hợp cẩu đầu trảm;

– Tầng thứ 2 cao hơn, đó là Điều Lệ Đảng. Luật này dành cho những đảng viên thông thường từ cấp ủy viên Trung Ương trở xuống. Luật này nó là chủ còn hiến pháp và luật pháp là tớ. Khi những quan chức phạm pháp, luật này chưa ra tay thì thứ luật giành cho tiện dân kia không thể chạm vào được. Nói theo ngôn ngữ của thời phong kiến thì luật này quyết được trường hợp hổ đầu trảm.

Đó là những gì người ta hiểu, còn thực chất, hệ thống luật pháp Việt Nam còn có một thứ luật tối thượng giành cho giới cung đình, đó là licence to kill – quyền được giết. Những cú ra đòn chí tử khiến đối thủ chính trị phải đi nước ngoài chữa trị để kéo dài sự sống rồi mới nhắm mắt. Không một loại luật nào trong 2 tầng luật pháp kia chạm tới họ. Đấy được xem như cách giải quyết tương tự như trường hợp long đầu trảm của phong kiến.

Vậy qua bức tranh chính trị Việt Nam, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy rằng, trong tầng nấc luật pháp Việt Nam, càng lên cao nó càng rừng rú. Và lên đến tầng thứ 3 – tâng cuối cùng- thì họ giải quyết nhau bằng những cú rình, vồ, và hạ sát y như loài lang soái đang tồn tại trong các rừng hoang vắng bóng con người vậy. Thực chất, 95 triệu dân chúng ta đang bị cai trị bởi một đảng như như vậy đó. Quan điểm “mọi thứ để đảng và nhà nước lo” chính là giao con cho sư tử trông giùm mà thôi. Cần phải thay đổi suy nghĩ.

– Đỗ Ngà –

DONGA.BLOG
Do Nga, Đỗ Ngà, Đỗ Văn Ngà, Facebooker Do Nga, Facebooker Do Van Nga, Do Van Nga, freedom, Vietnam

Mua, rồi mua tiếp, chạy rồi, chạy tiếp chứ sao

Mua, rồi mua tiếp, chạy rồi, chạy tiếp chứ sao

Blog RFA

JB Nguyễn Hữu Vinh

21-4-2019

Thi cử ngày nay có khác xưa

Vụ gian lận điểm thi, dù quan chức địa phương, Bộ Giáo dục, Bộ Công an bằng mọi cách che giấu bằng cách viện ra đủ những ngôn từ mỹ miều như để bảo đảm “tính nhân văn”, “sự riêng tư”, “vì tương lai các cháu…” thì rồi cuối cùng vẫn cứ “lộ sáng” những quan chức có con cái đã gian lận điểm thi.

Sở dĩ các địa phương bằng mọi cách giấu diếm tên tuổi những kẻ tham gia đường dây gian lận này, chỉ bởi một điều đơn giản: Các đối tượng gian lận điểm thi đó, toàn là con cái quan chức lãnh đạo cộng sản. Ở đó có sự tham gia của đầy đủ lãnh đạo các ban ngành, chính quyền cho đến các cơ quan chuyên môn, Từ lãnh đạo Tỉnh, bí thư Tỉnh ủy, công an, giáo dục, kiểm lâm, thuế vụ… Nghĩa là không trừ một bộ phận nào, ngành nào dù đó là những cơ quan lãnh đạo về chính trị, chính quyền, luật pháp, hành pháp… đủ cả.

Và nếu như một vài đại biểu Quốc hội, nhiều người có tiếng tăm cũng như sự phẫn uất của người dân đòi ngay lập tức đình chỉ công việc, đuổi khỏi ngành, kỷ luật những người đã tham gia vụ gian lận thi cử thì hệ thống đảng và chính quyền sẽ lập tức đóng cửa. Bởi: “Cứ vi phạm mà kỷ luật hết thì lấy đâu ra cán bộ mà làm việc”.  – Nguyễn Sinh Hùng, nguyên Chủ tịch Quốc hội.

Điều mà người ta nhìn thấy ở đây, là những điều không thể tin nổi vẫn có thể xảy ra với những kỳ thi quốc gia vốn yêu cầu sự nghiêm ngặt đến mức cao nhất. Khủng khiếp hơn nữa, bởi điều này xảy ra không chỉ ở một, mà là rất nhiều địa phương, không phải chỉ một kỳ thi, người ta biết rằng đã có nhiều năm, nhiều kỳ thi như vậy.

Việt Nam, với ngàn năm văn hiến, kể từ kỳ thi đầu tiên năm Ất Mão 1075 đời Lý  đến nay, đã gần 1000 năm trôi qua có lẽ chưa có thời kỳ nào có những kỳ thi hỗn loạn, khủng khiếp như hiện nay.

Nếu như ngày xưa, trong suốt 143 năm tồn tại, triều Nguyễn tổ chức 39 khoa thi hội, lấy đỗ 293 vị tiến sĩ, chỉ có duy nhất một người trong hoàng tộc đỗ đại khoa, đó là ông Tôn Thất Lĩnh, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1889) triều Thành Thái. Trên các bia tiến sĩ chỉ thấy lác đác vài người xuất thân là ấm sinh, ấm tử, còn lại đại đa số là con em giới bình dân.

Thì ngày nay, không chỉ con mà cháu chắt, họ hàng quan chức cán bộ Tỉnh, huyện đều lũ lượt xếp hàng làm thủ khoa vào các trường Đại học do được gian lận điểm thi, còn con em nông dân, dù có “nhà nghèo học giỏi” đến mấy, cũng phải nhường chỗ cho con quan nhởn nhơ não phẳng.

Nếu như ngày xưa, mà bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Thì ngày nay, thí sinh không cần mang tài liệu vào phòng thi đã đành, mà cũng chẳng cần làm bài thi, cứ để trắng giấy thi rồi sẽ có người lo đánh dấu làm bài chấm thi cho chúng. Điển hình là những bài thi trắc nghiệm đến 80 câu hỏi mà thí sinh vẫn được 0 điểm, để rồi sau đó nâng lên 9 điểm đỗ Thủ khoa vào đại học.

Nếu ngày xưa, đã vi phạm quy chế thi cử, thì bất cứ ai cũng đều bị trị tội, như trong kỳ đệ tứ khoa thi Hội dưới thời vua Lê Hiển Tông, con trai nhà bác học nổi tiếng Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt, đã đổi quyển thi cho một thí sinh khác tên Đinh Thì Trung. Khi sự việc bị phát giác, Thì Trung bị đày ra Yên Quảng, Quý Kiệt bị tước bỏ học vị cho về làm thứ dân, rồi bắt giam vào ngục cửa Đông. Thì ngày nay, quan chức Cộng sản nổi tiếng “nhân văn” nên không thông báo tên tuổi thí sinh gian lận và không muốn công khai tên tuổi những cha mẹ thí sinh gian lận bởi “tính nhân văn”, “quyền riêng tư, nhạy cảm” – Cái “nhân văn” cộng sản đến thế là cùng.

Có lẽ, tự hào về thành tựu giáo dục với những cái khác xưa như vậy mà Nguyễn Phú Trọng đã mạnh mồn tuyên bố: “Giáo dục của chúng ta chưa bao giờ được như bây giờ”.

Những câu hỏi khó trả lời

Rất nhiều câu hỏi được đặt ra, báo chí phân tích đủ mọi khía cạnh của những tác hại, hậu quả của những sự gian lận này đến công bằng xã hội, đến nhân tài đất nước, đến tương lai dân tộc…

Trong đó, có câu hỏi nhiều người đặt ra: Với những thí sinh mà bài thi bị điểm 0, được nâng lên tới 26.55 điểm với chỉ 3 môn thi. Nghĩa là kiến thức những học sinh này gần như bằng không. Vậy thì khi được nâng điểm để đưa vào các trường Đại học, dù với danh nghĩa là Thủ khoa đơn, thủ khoa kép nhưng cái đầu rỗng thì làm sao học tập để có thể hoàn thành tốt  nghiệp, ra trường?

Câu hỏi đặt ra khá thực tế. Bởi chuyện học đâu phải chuyện đùa hay chỉ vì “tình hữu nghị cộng sản” theo cách nói của dân gian thời kỳ trước đây rằng: Cứ mang một con lợn sang Liên Xô, mấy năm sau Việt Nam sẽ được một Phó tiến sĩ.

Sẽ rất nhiều người không thể hiểu được, những học sinh trắng về nhận thức và học lực như vậy, chúng vào trường Đại học để làm gì? Bởi làm sao với những bộ não đó có thể nhồi nhét được kiến thức để có thể tốt nghiệp ra trường.

Nhưng, những người đặt câu hỏi đó chỉ là những người chưa hiểu biết về hệ thống giáo dục XHCN ở Việt Nam, một nền giáo dục “Hoàn toàn Việt Nam” mà Hồ Chí Minh đã tuyên bố từ 2/9/1945. Những người đặt ra câu hỏi đó, chỉ là những người suy nghĩ về việc học và dạy trong môi trường xã hội bình thường. Ở môi trường chính trị, xã hội bình thường, thì những việc đưa cái đầu rỗng hoàn toàn vào đào tạo đại học là chuyện không bình thường.

Thế nhưng, ở đất nước Việt Nam hôm nay, với một hệ thống chính trị cộng sản do đảng lãnh đạo tuyệt đối”, thì việc đó đã trở nên bình thường, bởi xã hội Việt Nam đã là một xã hội không còn bình thường.

Trả lời câu hỏi: Giải pháp “Kiến tạo Việt Nam”

Ngày nay, Giáo dục đã trở thành một nghề khá sôi nổi và kiếm tiền làm giàu khá thành công. Tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục hàng năm của Việt Nam ở mức xấp xỉ 20%, tương đương 5% GDP. Số tiền đó không nhỏ, nhưng các cơ quan Bộ, ngành, sở, phòng ban và các cơ quan cấp ủy, công đoàn, công sở… chiếm một tỷ lệ lớn trong việc chi tiêu cho những nhu cầu “đổi mới giáo dục”, “tham quan nước ngoài” “Cải cách giáo dục”, cử người đi đào tạo ở nước ngoài… là chính. Còn đồng lương cho giáo viên công chức, vẫn là đồng lương chết đói. Nhưng điều đó không hề gì. Bởi xã hội đã buộc phải quan tâm và chi tiền.

Từ chỗ một số trường đại học có thể đếm trên đầu ngón tay, ngày nay, hàng trăm trường đại học đua nhau ra đời để kinh doanh. Cả đất nước được lập đại học, các tỉnh, thành, công ty… đua nhau mở trường.

Thế rồi trường nhiều thì đua nhau cạnh tranh, hạ giá đầu vào bằng điểm chuẩn. Thậm chí, có những trường Đại học chỉ có thể tuyển sinh vào trường khi thí sinh mỗi môn chỉ cần đạt… 4 điểm.

Bởi những trường này, từ cách tổ chức cơ sở vật chất cho đến đội ngũ giáo viên, quy mô và chất lượng hẳn nhiên là điều không cần phải bàn. Bởi có bàn cũng thừa biết là nó không có lối thoát khỏi sự chắp vá và không chất lượng.

Thế nhưng cũng chẳng sao, bởi đầu vào của những trường này là con cái quan chức, học hành thì ít mà ăn chơi đập phá thì nhiều. Còn đầu ra đã có hệ thống chính trị lấy “hồng hơn chuyên” sử dụng bất chấp chất lượng, kết quả học tập. Nó đã phình to đến 11 triệu người ăn lương thì có phình to hơn nữa, cũng chẳng sao, tiền dân cứ trả.

Còn con cái thuộc giai cấp “Công nông” ư? Cứ chờ đó, kiếm tiền mà mua chỗ làm việc, nếu không thì cứ thủ khoa cũng về chăn bò.

Nói đến những điều đó, nhằm để nói lên rằng, việc đầu vào là những học sinh gian lận, không có kiến thức là không đáng lo.

Với cái đầu rỗng tuếch và tư duy con nhà giàu, con quan chức làm vua một cõi, mà những học sinh này sẵn sàng theo gương bố mẹ chúng làm bất cứ điều gì để có kết quả, thành tích như ý muốn. Bởi cái đầu nó nhẹ, nhưng cái túi bố mẹ nó rất nặng, có thể chi phối cả hệ thống chính trị thì sá gì vài ông thầy, vài kỳ thi ở trong bậc Đại học.

Thậm chí, với bước trưởng thành mở đầu bằng sự gian dối, thì sự gian dối đó sẽ tiếp tục sinh sôi nảy nở theo cuộ đời của các thí sinh này.

Cũng chính vì thế, mà ở Việt Nam thời gian gần đây mới xuất hiện nhiều và ngày càng công khai, bình thường những nhà giáo đủ mọi gương xấu như ấu dâm, làm tiền sinh viên, những thầy giáo, cô giáo đổi tình lấy điểm… Tất cả những gian lận ấy, bắt nguồn từ sự gian lận trong mỗi gia đình quan chức, trong tổ chức, cơ quan và cả bộ máy chính trị hiện nay mà hình thành và phát triển.

Thế rồi đám sinh viên, học sinh ấy lại ra trường với tấm giấy chứng nhận làm hành trang và tạo vỏ bọc để  bước lên làm lãnh đạo, được xác định là “Hồng phúc của dân tộc”- Nguyễn Thị Quyết Tâm, Chủ tịch HĐND Tp Sài Gòn.

Thế rồi cái đám ấy đua nhau thành lập những cơ quan nhà nước mà ở đó cả gia đình, cả họ hàng làng xóm đua nhau làm quan.

Thế rồi người ta thấy càng ngày càng nhiều những quan chức mà nói một câu không nên, viết vài dòng không ổn. Đó là hiện tượng quan chức luôn trong tình trạng “ngáo đá” để rồi phát biểu những câu đại loại như “Phê tê bốc”, “Không nhận hối lộ để làm nhanh giấy tờ hộ chiếu là thiếu nhân văn”, “CSGT nhận dăm ba chục ngàn ngoài đường không thể gọi là hối lộ”… hay những Bộ trưởng, Thủ tướng mà phát biểu câu nào, thì chỉ làm khổ người dân cười đến đứt ruột vì quá hài hước bởi sự ngô nghê về nội dung và hình thức.

Bởi vì:
Ma đưa lối, quỷ dẫn đường
Cứ lần theo bước đoạn trường mà đi

Tạm kết

Những hiện tượng nói trên đây, chỉ là một phần rất nhỏ trong hàng loạt vấn đề lớn lao rữa nát mà ngành giáo dục nói riêng, cả hệ thống nói chung đang phải đối mặt. Dù luôn trên môi miệng người cộng sản thì vẫn “Giáo dục là quốc sách”. Chỉ có điều cái gọi là Quốc sách đó đang là một vũng lầy lội những nguy cơ.

Việc gian lận trong thi cử, là một điểm trong hàng vạn điểm đen của hệ thống giáo dục Việt Nam hiện tại. Tuy nhiên, đó là điểm được xã hội quan tâm gìn giữ xưa nay, mà mỗi khi phạm đến nó, nghĩa là cả hệ thống đã đến mức không còn phương nào cứu chữa.

Ngay từ thời xa xưa, cha ông ta quan niệm giáo dục chính là “bách niên chi kế”, là quá trình “trồng người”. Nếu xảy ra gian lận trong quá trình học tập sẽ tạo ra những con người hư hỏng, không thể sử dụng được.

Còn ngày nay, khi mà sự gian lận không chỉ trong xã hội, trong cả hệ thống chính trị đã ngấm sâu, len lỏi và mọc mầm, bắt rễ vào nền giáo dục, thì đất nước chỉ có một con đường đi đến chỗ suy vong.

Gần đây, trên mạng Internet lan truyền một câu nói được cho là của Nelson Mandela. Dù có phải là của ông hay không, thì câu nói vẫn rất có ý nghĩa rằng: “Để phá huỷ bất kỳ quốc gia nào không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi của sinh viên. Bệnh nhân sẽ chết dưới tay của các bác sĩ trong nền giáo dục đấy. Các toà nhà sẽ sụp đổ dưới bàn tay của các kỹ sư trong nền giáo dục ấy. Tiền sẽ bị mất trong tay của các nhà kinh tế và kế toán của nền giáo dục ấy. Công lý sẽ bị mất trong tay các thẩm phán của nền giáo dục đấy. Sự sụp đổ giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia.”

Và cái thứ có sức công phá mạnh hơm bom nguyên tử, hơn cả đại bác tầm xa đã và đang sừng sững xuất hiện một cách vững chắc ở Việt Nam trong “thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ nhất”: Nền giáo dục băng hoại.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quan Tây & Quan Ta

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Quan Tây & Quan Ta

18/04/2019

 Sự thật ngày nay đã chứng minh rõ ràng công cuộc giải phóng thuộc địa có mục đích rất cao cả nhưng kết cục của nó nói chung thường ngược lại.

Phạm Hồng Sơn

Đến khi tôi đủ tuổi để dự thí tú tài thì Bộ Giáo Dục đã quyết định bỏ thi vấn đáp. Thiệt khoẻ. Cứ theo như lời của qúi vị đàn anh lớp trước thì phải trải qua oral – kỳ hạch miệng – mới thiệt sự biết đá biết vàng, chớ “hai cái bằng tú tài của thời chú mày thì kể như là đồ bỏ.”

Nghe cũng hơi tưng tức.

Coi: năm tôi đậu tú tài I, tỉ lệ trúng tuyển toàn miền Nam (VN) cho ban C chỉ có 8 phần trăm. Một trăm đứa đi thi thì rớt hết 92, vậy mà cái bằng của tui bị “coi như đồ bỏ” là sao – hả Trời?

Tôi chỉ bớt ấm ức, và bật cười ha hả (bên bàn nhậu) sau khi nghe chuyện vui về một cuộc thi vấn đáp:

Giám khảo, người Tây, hỏi:

–        Vị quan toàn quyền nào ở Đông Dương đã trở thành vị tổng thống thứ mười bốn của nước Pháp?

Thí sinh vừa gãi đầu, vừa lầu bầu bằng tiếng Việt:

–        Đ … mẹ, hỏi gì khó dữ vậy cà!

Vậy mà đậu oral vì giám khảo nghe “Đ.M” ra “Doumer.” Tôi sinh sau đẻ muộn, đã dốt lại lười, không mấy khi đụng tới sách vở nên chẳng biết Doumer là cái thằng cha (hay con bà) nào cả. Bữa rồi, nhờ đọc Vương Hồng Sển mới học thêm được ba điều/bốn chuyện:

“… Viết về ông Doumer, tôi đã sửa ngòi bút, suy nghĩ thật nhiều: viết sai thì hổ với lương tâm, bằng bốc thơm ông lại ngại tiếng gièm pha còn mến tiếc Tây đầm. Nhưng ở Hà Nội cầu Long Biên còn đó, ai giẫm chơn lên phải nhớ người xây dựng, mới không thẹn sao ‘uống nước nỡ quên nguồn’! Ở Huế, cầu Tràng Tiền đổi tên mấy lượt, nhưng vẫn còn sờ sờ, ở Sài Gòn này, cầu Bình Lợi cũng là kỳ công bất hủ của ông Doumer, chớ mấy ai khác. Vậy tôi biết gì, cứ nói.

Doumer qua Việt Nam khi tuổi chưa đầy 40. Người khỏe mạnh, làm việc bằng mười, thêm tài ba xuất chúng.

Những kỳ công của ông là: 

– Ông thấy xa, lập trường Viễn Đông Bác Cổ, để bảo vệ cổ tích, đền chùa khỏi bị phá phách cắp gỡ, tu bổ cổ tích còn lại…

– Ông lập trường cao đẳng ở Hà Nội …

– Chính ông năm 1901 đã đến tại chỗ, chọn Đà Lạt thay vì Dankia và đốc thúc, tài trợ cho bác sĩ Yersin thành lập nơi nghỉ mát Đà Lạt như ngày nay đã thấy. 

Ba cây cầu sắt ông để lại, thật là kỳ công bất hủ …”

Ảnh: dulich24

Riêng về cầu Long Biên, tác giả Nguyễn Thông còn cho biết thêm một chuyện nhỏ bên lề:

“Thấy bảo rằng, cầu xây xong, có nhiều quan chức cả tây lẫn ta khuyên ông Paul Doumer lập 2 cái trạm ở đầu cầu để thu tiền qua lại, bù đắp số tiền đã bỏ ra, ông Paul liền bảo, các thầy chỉ nghĩ chuyện bóp nặn dân. Cầu xây bằng ngân sách thuộc địa, do chính dân xứ này đóng góp, giờ lại đòi người ta nộp nữa, sao các thầy bất nhân thế.”

Trời, tưởng gì chớ “bóp nặn dân” là chuyện rất bình thường (hằng ngày vẫn xẩy ra ở huyện) ở Thời Cách Mạng nên đâu có gì để phải lăn tăn. Tôi chỉ hơi băn khoăn về sự khác biệt (quá lớn lao) giữa những ông quan Tây thời thuộc địa và những ông quan cách mạng sau này. Đám trước đều có khuynh hướng kiến tạo. Còn đám sau thì hoàn toàn ngược lại.

Xem qua tiểu sử trích ngang của nhiều vị lãnh đạo của ĐCSVN mới thấy có điều trùng hợp lạ lùng là họ đều thích thú và hăng hái trong việc phá hoại, hơn là xây dựng, trong mọi lãnh vực. 

–        Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Đầu Tiên của nước VNDCCH (kiêm Chủ Tịch Đảng) tại chức 24 năm, cùng với Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot, Lenin, Kim Nhật Thành, Kim Chính Nhật, Saddam Hussein… ông có tên trong danh sách (History’s Great Monsters) tội phạm chống lại nhân loạiÔng cũng được biết đến như là người sẵn sàng đốt cháy rụi cả rặng Trường Sơn, nơi mà cho đến nay vẫn còn hằng trăm ngàn hài cốt (vô thừa nhận) vương vãi khắp nơi – dù đã có không ít “mẹ già lên núi tìm xương con mình.”

–        Lê Duẩn, vị Tổng Bí Thư kế nhiệm – tại vị tới 25 năm – cũng có tên trong danh sách tội phạm chống lại nhân loại ở mức đại trà (massive crimes against humanity) nổi tiếng là người chủ chiến: “Ta đánh Mỹ là đánh cả cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc …” Cùng với Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Lê Đức Thọ, Lê Duẩn còn đánh luôn đồng đảng. Dù cả hai ông đều đã chết, chiến tích của Cuộc Đấu Tranh Chống Bọn Xét Lại vẫn còn sống âm ỉ trong lòng nhiều người dân Việt.

–        Trường Chinh:  T.B.T (lần thứ nhất: giai đoạn 1941-1956, lần thứ hai: 1986) được Tạp Chí Cộng Sản mô tả ông là “nhà thiết kế đường lối đổi mới của Đảng ta.” Thiệt ra, Trường Chinh không có “thiết kế” cái con bà gì ráo mà chỉ ở vào tình thế bắt buộc phải lựa chọn một thế cờ (“không đổi mới thì chết”)

đã sắp sẵn rồi. Thành tích đích thực của đương sự là lãnh đạo cuộc Cải Cách Ruộng Đất khiến gần trăm ngàn nông dân bị hành hình.

–        Đỗ Mười, 6 năm TBT, 3 năm Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng. Thành tích nổi bật của ông cũng liên quan đến hai trận đánh đẹp, có thể ghi thành sách: đánh tư sản ở miền Bắc sau 1954, và ở miền nam sau 1975. “không đổi mới thì chết.”

–        Lê Khả Phiêu, TBT 3 năm, có lẽ là nhân vật lãnh đạo duy nhất có khuynh hướng xây dựng. Ông đã thuê người thiết kế một vườn rau sạch – với hệ thống tiêu tưới tự động – ngay trên sân thượng của tư thất, để khỏi phải dùng chung thực phẩm bẩn (vì nhiễm chất độc hoá học) với đám thường dân.

–        TBT Nông Đức Mạnh cũng thế, cũng thích gieo trồng. Trong suốt 9 năm tại vị, đi đến nơi đâu ông cũng đều nhắn nhủ người dân bằng một câu nói duy nhất: “Trồng cây gì, nuôi con gì để cải thiện đời sống …” Vì bị dư luận chê bai đây là tư duy tiểu nông nên sau khi nghỉ hưu thì ông – cùng bà vợ kế, Đại Biểu Quốc Hội Đỗ Thị Huyền Tâm –  đã lao vào một lãnh vực làm ăn khác, rất tinh vi và tân kỳ: kinh doanh BOT.

–        Nguyễn Phú Trọng nhận chức TBT từ năm 2011, đến năm 2018 kiêm nhiệm luôn Chủ Tịch Nước. Khác với bác Hồ thời xa xưa trước, bác Trọng học theo gương của bác Tập Cận Bình nên không đốt rừng Trường Sơn mà xoay ra đốt lò. Ông tuyên bố: “Cái lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy.” Tuy thế, do bản tính cẩn thận, bác Trọng lựa củi rất kỹ nên cái lò của ông có lúc cháy lúc không!

Trải qua cả chục ông TBT chả thấy ông nào xây được một cái trường học, một cái nhà thương, hay một cái cầu nào ráo trọi – cầu tiêu cũng không luôn. Theo Vietnam Heritage  (December 2016 – January 2017) thì Thành Phố Hồ Chí Minh Quang Vinh chỉ có hai trăm cái nhà vệ sinh chung dùng cho 10 triệu cư dân và 5 triệu du khách nước ngoài: “Ho Chi Minh City faces the same problem with only 200 public toilets serving the needs of its 10 million residents and the 5 million foreign tourists that visit the city each year.”

Ảnh:pinterest

Sau 83 năm đô hộ Việt Nam – ngoài  tội ác – người Pháp đã để lại cho xứ sở này một số những thành quả đáng kể, thuộc nền văn minh chung của toàn thể nhân loại: hệ thống cầu cống, giao thông, y tế, giáo dục, ngân hàng, bưu điện, bệnh viện, thư viện, bảo tàng, kiến trúc … Còn chủ nghĩa cộng sản thì không để lại nơi phần đất mà nó cai trị bất cứ một thứ thành quả nào – ngoài bạo lực, nghèo đói, dốt nát, dối trá, và rác rưởi.

Nói theo bác Nguyễn Gia Kiểng thì “Pháp đã còng tay Việt nam và dẫn vào thời đại mới.” Sau đó, dân Việt tiếp tục bị còng tay – chặt hơn – bởi chủ nghĩa cộng sản, rồi buộc phải …. đi lùi. Chút hy vọng còn lại về vận mệnh của dân tộc này là mong mỏi mọi người ý thức được rằng cả nước đã lùi đến “chân tường” rồi.  
  

Tưởng Năng Tiến

Nam sinh 17 tuổi nhảy cầu tự vẫn trước mặt mẹ: ‘Bạo lực bằng lời nói’ của cha mẹ đẩy con trẻ đến bước đường cùng

Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa vìThiên Chúa là Tình Yêu.(1Ga 4,8)
Kimtrong Lam shared a link.

 

KENH14.VN
Đừng vội chỉ trích rằng những đứa trẻ chọn từ bỏ cuộc sống của mình là hư hỏng và nông nổi, đôi khi đây không phải là hậu quả của một lần đánh mắng, mà là do vô số lần đánh mắng tích tụ lại đến cuối cùng cũng phải v…