Đây là hình ảnh đón lễ.

Image may contain: outdoor
Trần Hồng Lâm

 

Hứa với dân Thủ Thiêm, trong tháng 11-2018, sẽ giải quyết dứt điểm vấn đề khiếu kiện, nhưng cuội cũng thua anh mấy bậc.

Nhưng với BCT, anh hứa không để xảy ra biểu tình ở thành phố nơi anh cai quản, anh chơi phát lào ra phát ý.

Đây là hình ảnh anh cho quân giăng lên để đón lễ.

” Ôi những cánh đồng quê chảy máu,
Dây thép gai đâm nát trời chiều!”

NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ NGÀY 30/4 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ THỨC TỈNH.

Image may contain: 1 person, standing and text
Lê Quốc QuânFollow

NHỮNG CÂU NÓI HAY VỀ NGÀY 30/4 CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐÃ THỨC TỈNH.

1/ Nếu ngày 30-4-1975, 
bên chiến thắng là Việt Nam Cộng Hòa thì giờ đây trong khu vực châu Á, Việt Nam có thể chỉ thua duy nhất Nhật Bản về kinh tế, còn chắc chắn sẽ ngang bằng hoặc hơn Hàn Quốc về cả kinh tế và quân sự.
(Luật sư Nguyễn Văn Đài )

2/ ” Càng huênh hoang, bốc phét về đại thắng mùa xuân càng khơi dậy nỗi đau và lòng hận thù “

“30/4 là ngày đã giải phóng cho tôi , một công dân miền Bắc khỏi kiếp nô lệ của một thứ triết học chính trị ngoại lai”
( Nhạc sĩ Tô Hải )

3/”Vào miền Nam tôi khóc vì sao? Là bởi vì tôi hiểu đạo quân chiến thắng ở miền Bắc phụ thuộc vào một chế độ man rợ. Rất nhiều dân tộc văn minh bị tiêu diệt bởi một chế độ man rợ hơn, bởi vì họ hung hăng hơn.

Sau này tôi mới hiểu tôi cũng ngây thơ tôi khóc thế thôi. 
30/4 tôi còn khóc vì một lý do khác nữa là vì chúng tôi bị lừa. Chúng tôi đi không nghĩ ngày về, nhưng mà chúng tôi tưởng chiến thắng quân ngoại xâm nhưng thực sự hoàn toàn là không phải. 
Và tất cả tuổi trẻ của chúng tôi đã bị tiêu huỷ đi. 
Và vì vậy mà tôi khóc,  trong những giọt nước mắt của tôi có cái phần chung cho dân tộc và có phần riêng của chúng tôi, của những người bạn tôi đã chết và của bản thân tôi đã hy sinh tuổi xuân một cách vô ích.»

( Nhà văn Dương Thu Hương).

4/”Dù không muốn nói ra,  dù bây giờ ai nói ra đều bị coi là phản động, rằng đã có một cuộc giải phóng ngược trong ngày 30/4/1975, bên thắng cuộc đã được hoàn toàn giải phóng, trước tiên và trên hết là sự giải phóng về tư duy, ít nhất là đúng với mình”
( Nhà văn Nguyễn Quang Lập ).

5/ “Tôi nghĩ giá như trong cuộc chiến vừa qua, miền Nam thắng, thì có lẽ sẽ tốt hơn “.
( Nhà văn Nguyên Ngọc )

6/”Hóa ra những người chiến sĩ Giải phóng chúng tôi bấy lâu đã bị một thế lực nhân danh sự nghiệp Giải phóng ngấm ngầm trói buộc vào một guồng máy lấy xương máu chúng tôi và xương máu nhân dân để đúc thành ngai ghế “vua quan cách mạng” của họ.”

( Nhà thơ Bùi Minh Quốc)

7/ “Trống kèn ầm ỹ, pháo hoa khắp nơi, duyệt binh
“hoành tráng” chỉ còn là màn khói mỏng che đậy những sai lầm và tội ác chồng chất cùng những bất công kinh khủng mà xã hội không còn có thể chịu đựng nổi.”
( Nhà báo Bùi Tín )

8/”Sự kiện 30-4-1975 tôi không phải là chứng nhân của sự kiện đó vì tôi sinh ra năm 1979, nhưng những gì tôi trực tiếp trải qua và chịu đựng trên đất nước Việt Nam thì tôi thấy đây là sự kiện hết sức là đặc biệt, cá nhân tôi nghĩ rằng đây là sự an bài nhục nhã của đức chúa trời dành cho dân tộc Việt Nam. “
( Luật sư Lê Thị Công Nhân ).

( Nguồn: Internet ). Copy từ facebook Sao Mai

Viết trong những ngày đất nước đang chuyển mình

 

Viết trong những ngày đất nước đang chuyển mình

Bởi   AdminTD

KTS Trần Thanh Vân

30-4-2019

Tôi không phải là nhà chính trị, cũng không phải là một fortune teller, nhưng với những năm tháng từng trải của mình, tôi hiểu sâu sắc rằng, đất nước VN đang ở trong những ngày biến động dữ dội, nhưng mỗi ngày một sáng sủa hơn.

Đại gia đình tôi đã trải qua 72 năm và có ít nhất 3 thế hệ sống trong nước Việt Nam Dân chủ Công hòa, thành lập ngày 2/9/1945 và đến hôm nay là những ngày cuối cùng của Cộng Hòa XHCN Việt Nam do ĐCSVN lãnh đạo. Nhìn vào những biến động của đại gia đình mình trong 72 năm qua, tôi “nhìn thấy” sự biến động của đất nước và tôi tin chắc rằng mọi thứ đang được phát triển theo một quy luật mà không thế lực nào cưỡng nổi.

Thế hệ thứ nhất

Năm 1945, cha tôi là một thanh niên 30 tuổi, đầy lòng yêu nước, ngây thơ và hăm hở theo Việt Minh rồi trở thành Đội viên Đội tự vệ Hoàng Diệu từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Cha trở thành công an mật Hà Nội năm 1947, được kết nạp vào ĐCS năm 1948, rồi lên chiến khu Việt Bắc, rồi trở về Hà Nội ngày giải phóng Thủ đô năm 1954…

Khi cha tôi mất năm 2002, cụ vẫn là một cán bộ cách mạng lão thành, sống kham khổ, trong sạch và khi nhắm mắt xuôi tay, cha mãn nguyện ra đi vì đã cống hiến cả đời mình sự nghiệp giải phóng quê hương. Tôi thương cha, đến phút chót cuộc đời, cha không hiểu hết con đường cách mạng của mình đúng sai ở chỗ nào?

Cậu ruột, em trai thứ 3 của mẹ tôi thì khác hẳn. Là một thanh niên học sinh yêu nước của trường Bưởi Hà Nội, cậu tôi rủ các bạn cùng trường, đi quyên góp gạo tiền, nấu cháo phát chẩn cho bà con nghèo đói ở các làng quê, nạn nhân của nạn đói 1945… Nhưng cậu tôi không theo Việt Minh, ông và các bạn ông hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ tướng Trần Trọng Kim, khi chính phủ Trần Trọng Kim bị Việt Minh đánh đổ, cậu tôi bị Việt Minh bắt giam và bị giết chết.

Thế hệ thứ hai

Chồng tôi và tôi cùng lớn lên trong nhà trường xã hội chủ nghĩa. Khác với tôi, chồng tôi luôn tỏ ra là một người sống có kỷ luật, ngoan ngoãn và trung thành với chế độ. Chồng tôi được kết nạp vào ĐCS năm 1961, ông được tổ chức cơ quan và chính quyền nhà nước cưng chiều, được cử sang Anh tu nghiệp tiếng Anh năm 1979, sang Hà Lan, sang Nhật học tập về Quy hoạch quản lý kinh tế. Ông được Ủy ban Hợp tác kinh tế đối ngoại của chính phủ phân công phụ trách khối Bắc Âu, đã từng có quan hệ thân tình với Thụy Điển, là khách quý được cố Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme mời tới nhà riêng ăn cơm chiều…

Đã đặt chân tới hơn 40 nước phi XHCN, chồng tôi có dịp tiếp cận, kết bạn và tìm hiểu khá kỹ về “chế độ tư bản giẫy chết”, ông từng cố gắng mang những hiểu biết của mình, thuyết phục, phân tích cho các quan chức cùng thời. Có người ủng hộ và muốn làm cuộc cải cách, như Thủ tướng Võ Văn Kiệt, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ, nhưng các vị đó suy nghĩ nhiều mà chẳng làm được việc gì.

Khi cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bị ám hại qua đời, chồng tôi hiểu rằng mọi cố gắng chưa hợp thời đều bị thất bại, ông về hưu năm 2000, bỏ ĐCS, ông ở nhà nuôi dạy thằng Út, hy vọng thằng con lớn lên sẽ không bỏ phí cuộc đời như cha nó.

Khác hẳn với chồng, tôi ngang bướng và rất “vô kỷ luật”, tốt nghiệp kiến trúc tại Thượng Hải năm 1966, theo học “The International Post-Granduate Training Course on Ecosystem Management” ở Dresden năm 1980-81. Trở về nước, tôi chỉ chăm lo công tác chuyên môn là nghiên cứu kiến trúc cảnh quan, bỏ nhiều thời gian nghiên cứu về Phong thủy. Tôi từ chối mọi cơ hội được đề bạt thăng chức, tôi không nộp đơn xin vào ĐCS và năm 1992, tôi nằng nặc đòi nghỉ hưu khi mới 51 tuổi.

Từ ngày được sống cuộc đời tự do, tôi lập công ty tư nhân, tự đi kiếm việc làm thuê để nuôi sống bản thân và gia đình, tôi bắt đầu quan tâm đến xã hội xung quanh và vận mệnh đất nước.

Càng hiểu sâu về Phong thủy, tôi càng khao khát cơ hội được phục hồi HÀO KHÍ THĂNG LONG của các triều đại Lý, Trần, Lê, khi xưa. Tôi bắt đầu quan tâm và không ngần ngai hiểm nguy, tôi lên tiếng ngăn cản Dư án Thủy cung Thăng Long ở Bán đảo Tây Hồ năm 1998, lần đầu tiên có một quan chức cao cấp là Phó TT Ngô Xuân Lộc mất chức và có kẻ vào tù.

Thế hệ thứ ba

Chồng tôi bị trọng bệnh và qua đời cuối năm 2012. Còn lại một mình, tôi bán nhà và cho thằng Út theo học trường quốc tế tại Hà Nội rồi đi du học tại Vương quốc Anh từ năm 2017. Trong 7 năm theo học tại trường quốc tế song ngữ Hanoi Academy, con tôi được tiếp xúc với các thầy cô giáo quốc tế, với khẩu hiệu “Becoming a Global Citizen” in trên trang phục, tôi muốn đứa con nhỏ được lớn lên trong bầu không khí lành mạnh, được thoát khỏi mọi kỷ niệm đau buồn mà gia đình đã trải qua.

Thỉnh thoảng nhà trường tổ chức cho học sinh đi dã ngoại, các cháu quyên góp quần áo, sách vở và dụng cụ học tập trợ giúp những học sinh kém may mắn ở vùng cao, vùng xa… nên đến khi nộp hồ sơ để đi du học, thầy giáo quốc tế hỏi cháu muốn chọn ngành gì? Cháu trả lời: Nghiên cứu Tâm lý Xã Hội. Hỏi tại sao? Cháu nói: Nhiều người cần giúp đỡ quá, phải hiểu họ thì mới giúp họ được. Thầy giáo chủ nhiệm người Mỹ nói với tôi rằng đó là câu trả lời nghiêm túc của một một đứa trẻ sống có trách nhiệm. Và tôi hoàn toàn yên tâm, tiễn con ra đi. Ở xa, vài ngày cháu lại gọi về động viên mẹ ăn ngủ điều độ và đừng làm việc quá sức.

Tôi không làm việc quá sức. Tôi biết điều tiết bản thân và giữ gìn sức khỏe. Ở nhà một mình, tôi rảnh rang theo rõi mọi biến động của xã hội. Đến nay, đã có hàng chục, hàng trăm và hàng ngàn dự án chiếm đất làm giầu của rất nhiều tập đoàn bất động sản trên khắp đất nước. Và đến nay tôi hiểu sâu sắc rằng sự suy thoái xã hội đã đến bước trầm trọng, không ai cứu vãn nổi nữa.

Mặt khác, tôi cũng nhận ra nền tảng xã hội đang chuyển mình rõ rệt và mỗi ngày một rõ rệt hơn. Các lệnh cấm đoán, bắt bớ tù đày không ngăn cản được lòng dân suy nghĩ và nói lên mọi suy nghĩ của mình.

Nếu 20 năm trước, một nhóm KTS chúng tôi có thể ngăn chặn một Dự án Thủy cung Thăng Long tội lỗi và đánh đổ ông Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc, thì hôm nay có nhiều Thủy Cung Thăng Long khác tội lỗi hơn và trong số đó có một đệ tử gần gũi của ông Ngô Xuân Lộc khi xưa, là ông Đinh La Thăng, Ủy viên BCT cùng một lũ đầu trâu mặt ngựa đã phá nát và đục khoét đất nước mà công chúng gọi là công cuộc “đốt lò vĩ đại” của ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước.

Thử hỏi, trong tất cả những kẻ đã bị ném vào lò đó, có kẻ nào bị oan uổng không? Không có kẻ nào oan uổng cả. Nhưng tôi e rằng, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước sẽ không có đủ lò để đốt hết lũ sâu mọt chúng nó đâu, bởi vì lũ sâu mọt kia là sản phẩm của cơ chế XHCN mà ông là thủ lĩnh. Mỗi ngày lại xuất hiện thêm nhiều kẻ độc ác tham lam, khốn nạn hơn, bọn đó không chỉ đáng ném vào lò, mà cần phải bị tru di tam tộc.

Có lần tôi đã viết thư gửi cho ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước, xin ông đừng nghĩ tôi không phải đảng viên cộng sản thì tôi chống đảng. Cha tôi, chồng tôi từng là những ĐVCS ưu tú, từng sống trong sạch tận tụy vì lợi ích của đất nước… nhưmg thời đó qua rồi. Còn ông, tôi khuyên ông tự giải tán đảng Cộng sản trước khi bị nhân dân lật đổ.

Năm 2018, khi bà chủ tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân quăng các bản hồ sơ Đặc khu kinh tế lên bàn hội nghị Quốc hội, ép Quốc hội thông qua Luật Đặc khu với lời tuyên bố tỉnh bơ “Bộ Chính trị đã quyết”, nhưng cuối cùng Luật đặc khu đã bị ngăn lại. Công của ai, tội của ai tôi không tiện bàn, tôi chỉ khẳng định công lý đã thắng thế và trong giới chóp bu cộng sản, có người đã tỉnh ngộ.

Cũng như vấn đề Biển Đông sôi động nhiều chục năm qua, khiến cả nước căm hờn, phẫn nộ, khi người “bạn vàng”, “thân thiết như môi với răng” của VN ta xưng xưng nói rằng, Biển Đông của ta là Biển Hoa Nam của họ, nhưng xin chớ bi quan, cho đến hôm nay, quan hệ hợp tác về quốc phòng giữa VN và Hoa Kỳ đã là Hợp tác chiến lược toàn diện. Vào những ngày ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước lâm bệnh nặng, Đô đốc Philip Davidson, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương đến thăm Việt Nam, đã được VN đón tiếp nồng hậu; cũng như khi đoàn nghi sĩ thượng viện Hoa Kỳ do Thượng nghĩ sĩ Patrick Leahy dẫn đầu đến thăm VN, họ đã được VN đón tiếp thân tình, kể cả việc họ được đến thăm Thiền sư Thích Nhất Hạnh, vị Thiền sư nổi tiếng thế giới có lúc đã bị giới chop bu CS coi như kẻ bán nước.

Và vài tháng nữa thôi, ông Tổng bí thư – Chủ tịch nước hoặc người đại diện cho ông sẽ đi thăm Hoa Kỳ. Chắc chắn sẽ có nhiều văn bản hợp tác về kinh tế và các vấn đề hệ trọng khác về hợp tác khai thác dầu khí và bảo vệ Biển Đông sẽ được ký kết.

Tóm lại, tôi không quan tâm lắm về bệnh tình của ông TBT- CTN ốm đau ra sao, ông có bị ai ám hại hay không, ở trong một chính đảng đã đến thời suy thoái, lại ở sát sườn với một thằng bạn xấu sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mình, thì tôi hiểu rằng bị kẻ xấu rình rập ám hại và mỗi người phải trả giá cho những sai lầm của đời mình là dễ hiểu.

Có điều tôi biết chắc chắn rằng, đã đến lúc đảng Cộng sản sẽ phải tự giải tán, chế độ độc tài sẽ phải tự thủ tiêu và năm bảy năm nữa khi lứa tuổi trẻ như con tôi trở về, chúng sẽ có đủ trí tuệ, tài năng và nhiệt huyết điều hành đất nước.

Quy luật tất yếu đó sẽ không một ai, không một sức mạnh nào ngăn cản được.

Sài Gòn

Sài Gòn

Nguyễn Mạnh An Dân 

Sài Gòn có Đại Học Xá Minh Mạng 
Những gã con trai chơi suốt đêm và học suốt đêm 
Những gã con trai lửng bụng bốn đồng cơm “xã hội” nói chuyện tế thế kinh bang 
Rất hồn nhiên và sôi nổi. 

Sài Gòn có cư xá Trần Quí Cáp, có lưu xá Thanh Quan 
Thế giới bí mật của những nàng tiên mới 
Tốn giấy mực và thuốc lá của các chàng trai trẻ lãng mạng vô cùng. 

Sài Gòn có trường Gia Long, trường Trưng Vương 
Con gái Bắc khôn ngoan, con gái Nam nhỏng nhẻo 
Cả hai đều có những hàng cây thơ thẩn áo dài 
Cả hai đều làm chết biết bao trái tim si tình. 

Sài Gòn có nhà sách Khai Trí, có trường Chu Văn An 
Nơi viết và in sách bán cho học trò cả nước 
Sài Gòn có trường Dược nữ sinh đeo kính cận dày ba phân 
Sài Gòn có trường Văn Khoa các cô ôm sách Phạm Công Thiện nặng triễu các bài tay đẹp. 
Sài Gòn có trường Luật đạo mạo đệ tử thầy Thúc, thầy Hách 
Chuyên đi sớm dành chỗ giảng đường cho cô bạn. 

Sài Gòn có các cô bận áo dài trắng, cỡi vélo đen như bướm bay trên đường. 
Sài Gòn có Nhất Chi Mai làm thơ rất hay và chết rất thảm. 
Sài Gòn có Khánh Ly đi chân đất hát nhạc tình, có Phạm Trọng Cầu phản phé. 
Sài Gòn có nhiều người tuổi trẻ có trái tim hồng và có bọn lợi dụng 
Sài Gòn đủ chuyện đáng yêu 
Sài Gòn đủ chuyện dị hợm. 

Sài Gòn có quán Kim Sơn, Thanh Thế con trai tụ tập rửa mắt chiều thứ bảy 
Sài Gòn có con gái cũn cỡn Mini, tha thước áo dài 
Sài Gòn có Hầm Gió nhiều khách đến tán dóc, ngâm thơ 
Sài Gòn có quán cóc đầy đường, nhiều chỗ đông vui nhiều nơi kín đáo 
Bạn bè tha hồ tán phét, người tình tha hồ nỉ non 
Sài Gòn có hẻm Casino 
Chổ làm sang của những chàng trai túi lép. 

Sài Gòn có rạp Rex Mini ghế đôi ngồi khoái vô cùng 
Sài Gòn có Thư Viện Quốc Gia tha hồ đọc sách, tha hố liếc nhau 
Sài Gòn có quán Hồng ba cô chủ bưng cà phê đi nhẹ như múa. 
Sài Gòn có nước mía Viễn Đông ngon hết chỗ chê 
Nơi tập trung các tiểu thư tuổi ăn quà vặt. 

Sài Gòn có sách Mai Thảo, sách Nguyễn Đình Toàn… 
Sài Gòn có hiện tượng Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trùng Dương 
Sài Gòn có sách Nguyễn Hiến Lê dạy làm người, có ông Trần Đức Lai viết Cậu Chó 
Sài Gòn có báo “gia nô”, báo đối lập thật, đối lập cuội 
Sài Gòn có ông Bùi Giáng thoát tục, có ông Nguyễn Ngọc Lan muốn vợ. 
Sài Gòn có ông Nguyên Sa “ý kiến” ông Nguyễn Nhật Duật, có người bênh ông 
Duật “ý kiến” ông Nguyên Sa 
Sài Gòn khen nhau vòng vòng, phiền nhau vòng vòng. 
Sài Gòn chữ nghĩa ồn ào, thoải mái vui vẻ vô cùng. 
Sài Gòn có vũ thoát y, có Hội Khổng Học. 
Sài Gòn có phụ nữ đòi quyến sống, có phụ nữ “nhảy dù” 
Sài Gòn có người kêu gọi chấn hưng đạo đức, có người mở snack bar 
Sài Gòn xô bồ, Sài Gòn lộn xà ngầu, 
Sài Gòn chân thật, Sài Gòn không thật 
Sài Gòn tốt, Sài Gòn xấu 
Sài Gòn rõ ràng sòng phẳng hết chỗ nói. 

Sài Gòn có lá me bay trên đường rất đẹp 
Sài Gòn có mưa ào ào và ngớt như giỡn chơi 
Sài Gòn có “thầy” Trí Quang kêu một tiếng nhiều người tự thiêu 
(Giớ nghi lại tội nghiệp đứt ruột) 
Sài Gòn có nhiều đảng trưởng chỉ có một mình 
Sài Gòn có nhiều vị liêm khiết ốm nhôm, nhiều đứa ăn hối lộ mập bể bụng 
Sài Gòn có quốc hội cãi nhau như mổ bò 
Sài Gòn có ông Tướng uống nước bình đông, có dân biểu bán tượng cổ 
Sài Gòn có nhiều đứa yêu mình mập núc, nhiều người yêu nước héo rũ vì buồn. 

Sài Gòn có nhiều thiếu niên mượn khai sinh đi lính, nhiều đứa trốn quân dịch 
Sài Gòn có người theo thầy Tâm Châu tử thủ Việt Nam Quốc Tự, có người sống chết 
với chùa Ấn Quang 
Sài Gòn có nhiều người theo cha Hóa lập chiến khu, có người theo ni sư Huỳnh Liên 
tiếp tay cho giặc 
Sài Gòn thoải mái, Sài Gòn chịu chơi 
Sài Gòn quân tử thật, Sài Gòn quân tử Tàu 
Sài Gòn chết đến nơi vẫn cứ tưởng bở. 

Sài Gòn tha hồ mặc đồ lớn xách cặp da, tha hồ đi giép lè phè 
Sài Gòn có thể trân trọng “thưa quí vị” có thể thoải mái “các bạn quơi” 
Sài Gòn có thể nghiêm chỉnh trầm mặc cả ngày có thể vỗ đùi cười ha hã 
Sài Gòn tha hồ biểu tình, tha hố đấu tranh 
Sài Gòn tha hồ làm chính trị, tha hồ chơi văn nghệ 
Sài Gòn tha hồ đánh phé, tha hồ làm chuyện tào lao 
Sài Gòn có tuần báo nghệ thuật truyền thanh rất hay, có ông Ngô Bảo rao hàng rất tếu 
Sài Gòn có nhiều bậc đáng kính, nhiều thằng xỏ lá 
Sài Gòn có nhiều vị phải dở nón chào, có nhiều tên muốn đấm vào mặt. 

Sài Gòn tha hồ hút Capstan, tha hồ uống “nước mắt quê hương” 
Sài Gòn mặc sức nghe pháo kích, mặc sức bàn chuyện kiệm ước, song hành 
Sài Gòn đi chùa mệt nghỉ, đi nhà thờ mệt nghỉ, đi kiếm cơm mệt nghỉ. 
Sài Gòn có nhiều cái tốt, nhiều chuyện tào lao 
Sài Gòn có nhiều cái đáng yêu, nhiều cái đáng ghét 
Sài Gòn tốt không khoe khoang, xấu không dấu diếm 
Sài Gòn thẳng như ruột ngựa 
Sài Gòn hiền như cục đất ai chưởi cũng được 
Sài Gòn dễ thương vô cùng 
Sài Gòn… Sài Gòn! 

Nguyễn Mạnh An Dân 

danlambaovn.blogspot.com

NGƯỜI VỀ SAU CUỘC CHIẾN.

Tâm Trần
NGƯỜI VỀ SAU CUỘC CHIẾN.

Nếu ai từng học cấp 3 ở trọ ngay xóm Chùa gần Chợ Lộc Ninh, sẽ nhận ra ngay người thương binh này, 3 năm học rất nhiều người đã gắn liền với Bác, trong đó có tôi.

Ngày 30.04 tôi xin được Tri Ân Bác.

TRẦN THANH THUỶ.

********************* ·

BẠN ƠI !

Tao về chiến địa năm xưa 
Tìm mày nhưng mãi vẫn chưa thấy mày 
Chỉ nghe sống lại những ngày 
Mưa bom bão đạn xéo giày quê hương.

Mày – tao giã biệt người thương 
Xếp nghiên bút lại, lên đường tòng quân 
Đêm rừng giá lạnh chung chăn 
Chia nhau khói thuốc, trở trăn chuyện đời.

Mong khi chiến cuộc hết rồi 
Cùng xin cha mẹ cưới người mình yêu
Chẳng mong bạc lắm, tiền nhiều 
Chỉ mong hầu hạ sớm chiều song thân!

Ấy nhưng bom đạn vô tình.
Tao quăng một nửa thân mình nơi đây 
Còn mày chết chẳng thấy thây 😢
Dở dang ước nguyện về xây cuộc đời!

Chiến tranh kết thúc lâu rồi 
Tao nay cũng đã da mồi, tóc râm
Mẹ mày vẫn mấy chục năm 
Thâu đêm không ngủ chỉ nằm ngóng tin

Dẫu rằng biết đã hy sinh 
Chỉ mong đón cốt con mình về chăm 😢.
Hôm nay tao trở lại thăm
Bạn ơi hãy chỉ chỗ nằm cho tao

Mẹ mày chỉ mỗi ước ao 
Được ôm mày trước lúc vào cõi mê!
Chỉ đi! Tao dẫn mày về 
Về mà gặp Mẹ với quê hương mình!

Image may contain: one or more people, people sitting and outdoor

CHÚA BAN BÌNH AN

CHÚA BAN BÌNH AN

Phúc Âm tuần này kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ và nói: “Bình an cho anh em” tới 3 lần. Để thực sự hưởng ơn bình an của Chúa cần thực hiện 3 điều: THẤY CHÚA, THA THỨ, và TIN TƯỞNG.

  1. Thấy Chúa. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Quan trọng là Chúa như thế nào? Nếu thấy 1 Thiên Chúa thẳng tay trừng phạt thì chỉ có sợ toát mồ hôi mà thôi. Nhưng khi thấy Chúa giàu lòng thương xót đến nỗi đã chịu mang đầy thương tích ở tay chân, và cạnh sườn mở ra để ta thấy tim Chúa chan chứa yêu thương, thì lúc ấy chúng ta dạt dào niềm vui và bình an.
  2. Tha thứ. Chúa sống lại đã không đi trả thù những kẻ đã giết Ngài cho hả lòng hả dạ; không hạch tội các môn đệ phản bội cho bõ tức! Chúa tha thứ; Chúa quên hết quá khứ lỗi lầm của nhân loại. Chúa thổi Thần khí sự sống mới cho các môn đệ. Để rồi, các môn đệ cũng có thể sống tinh thần tha thứ cho lòng thanh thản bình an. Nếu không tha thứ thì lòng người sẽ ứ đọng thù ghét, ứa lên men cay đắng bất an.
  3. Tin tưởng. Nếu cứ sống trong bóng tối nghi ngờ người khác và nghi ngờ cả Chúa thì liệu lòng mình có được bình an? Chỉ khi sống tin tưởng nhau, tin thật vào Chúa thì lòng mình mới bình an phó thác. Chính vì điều này mà đi liền với các tượng ảnh Lòng Chúa thương xót luôn là câu tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa Giêsu, con xin tín thác vào Ngài.”

Tạ ơn Chúa phục sinh đã giúp các môn đệ cùng chúng con thấy Chúa, tha thứ và tin tưởng để đời chúng con được bình an ngay giữa những gian nan trong đời. Xin cho trái tim mỗi chúng con cũng lúc lắc những nhịp đập thương xót và tin tưởng để trở thành khí cụ bình an cho gia đình, hội đoàn, giáo xứ, đất nước… được an vui hạnh phúc. Amen.

From: KittyThiênKim & Kim Bang Nguyen

CHUYỆN KẺ “THẮNG CUỘC”..???

Em thầm hỏi : “Ai đây là kẻ địch?”
“Mỹ, Ngụy”, “bác Hồ, hay cộng đảng ta” ?
“Ngụy” bây giờ là “khúc ruột phương xa”
Mỹ là thầy, là ân nhân kinh tế !
**********

CHUYỆN KẺ “THẮNG CUỘC”..???

Em trót sinh ra sau ngày “giải phóng”
Và lớn lên khi đất nước “thanh bình”
Nhưng cuộc đời sao vất vả điêu linh
Mẹ buôn gánh bán bưng nuôi con dại

Em đi học, qua đồng khô cỏ cháy
Trời quê hương bàng bạc áng mây buồn
Đường chiều về leo lét ánh tà buông:
– “Con đói quá, mẹ ơi trời sắp tối!

Sáng đi học bụng em còn thấy đói
Cô dạy em phải yêu kính “bác” Hồ
Em hỏi : – ” ‘bác’ là ai vậy, hở Cô ?”
Cô bảo:-“Nhờ ‘bác’, đảng ta ‘CHIẾN THẮNG ‘ !”

Em không hiểu, nhưng cúi đầu im lặng
Mà trong lòng thắc mắc mãi không thôi
“CHIẾN THẮNG” gì ? Sao khổ qúa đời tôi,
Nhà, họ lấy, phải đi vùng kinh tế!

Bốn tư năm, lớn lên đời vẫn thế :
Trời quê hương còn đó áng mây buồn
Vẫn từng ngày, vẫn kiếp sống đau thương
Em thay mẹ : Đời bán bưng buôn gánh !

Em tự hỏi nếu đảng không “CHIẾN THẮNG”
Nước Việt Nam có chậm tiến thế nầy ?
Người dân hiền đâu ngậm đắng nuốt cay
Bị “xuất khẩu” sang xứ người lao dịch !

Em thầm hỏi : “Ai đây là kẻ địch?”
“Mỹ, Ngụy”, “bác” Hồ, hay cộng đảng ta ?
“Ngụy” bây giờ là “khúc ruột phương xa”
Mỹ là thầy, là ân nhân kinh tế !

Nước Việt thụt lùi bao thế hệ
Từ môi sinh cho đến đạo làm người:
Chính phủ chỉ là một lũ đười ươi
Bọn ích kỷ, phường buôn dân bán nước!

Xã hội xuống dốc nhanh không tưởng được
Quan bạo tàn, tham nhũng đến vô lương
Chuyên hối lộ, cướp nhà, chiếm hết ruộng nương
Dân thấp cổ kêu trời cao chẳng thấu !

Đảng của “bác” biến nước ta lạc hậu
Dân Việt Nam nghèo nhất cõi năm châu
Những huy hoàng ngày cũ nay còn đâu
Phụ nữ Việt bán thân ngoài muôn dặm !

Ôi tổ quốc, ôi quê hương nhung gấm
Hỡi địa linh, nhân kiệt hãy vùng lên !
Giành TỰ DO, DÂN CHỦ với NHÂN QUYỀN
Quyết đập đổ NỘI THÙ: phường cộng sản

Hết cộng nô, trời Việt Nam lại sáng
Đàn con Hồng cháu Lạc đứng cao lên
Xây đấp non sông, bờ cõi vững bền
Đó là lúc toàn dân ta CHIẾN THẮNG !

Image may contain: 1 person, sitting and eating
Image may contain: Nam Chu, outdoor
Image may contain: 3 people, people sitting, people standing, table and indoor
No photo description available.
Image may contain: 1 person, standing and hat

THÁNH TÔMA VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

THÁNH TÔMA VÀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

Chúa Nhật II phục sinh Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa.  Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương.  Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699).  Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005).  Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.

Lòng thương xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá.  Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn.  Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.  Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa.  Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.

Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài.  Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi.  Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.  Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin. 

1. Đức tin của Tôma

Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này.  Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy.  Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11).  Thánh Matthêu thuật lại: khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ: Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi.  Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17).  Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.”  Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên. 

Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay.  Chỉ tin những gì thấy được.  Chỉ chấp nhận những gì sờ được.  Đòi kiểm nghiệm tất cả.  Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả.  Không chỉ tin vào lời nói suông.  Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác.  Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin.  Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma?  Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người. 

Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã.  Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì “thấy được, sờ được.”  Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe.  Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta.  Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại.  Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa.  Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng.  Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.”  Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình: “Lạy Thiên Chúa của con.”  Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi.  Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.

Thần học gia Hans Kung nói: “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi.”  Nhà thần học Paul Tillich nói: “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin.  Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh.”  Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin.”  Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững.”  Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy.  Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).

2. Lòng mến của Gioan

Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy, tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.  Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28).  Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.  Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra.  Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan tức khắc nhận ra đó là Thầy mình.  Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…  Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn. 

Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu, thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc.  Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó.  Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.

3. Lòng Chúa Xót Thương

Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời.  Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi.  Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.  Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót.  Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót. 

Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân.  Mỗi người trong chúng ta, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.  Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ.  Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót.  Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12).  Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công Giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống.  Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống.”

Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.

Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con.  Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa.”  Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến.  Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc.  Càng tin vững thì càng bình an.  Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến.  “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7).  Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa. 

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Bằng yêu thương, họ bước qua nguy nan 

Bằng yêu thương, họ bước qua nguy nan 

Sự thật là những con người đó không có tội. Sự thật là những người đó không “ngụy” như lời tuyên truyền. Lúc này là lúc cần phải trả lại sự công bằng cho họ. Hơn nữa là phải cám ơn họ, tri ân họ, vì họ đã hy sinh một phần thân thể cùng tuổi thanh xuân của họ cho sự bình an của Miền Nam Việt Nam.

Linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành

Năm 2013, linh mục Vinh Sơn Phạm Trung Thành nhận được lời đề nghị tiếp nối việc giúp đỡ cho các quý ông TPB-VNCH từ hòa thượng Thích Không Tánh. Lúc đó sức của chùa Liên Trì không còn đủ để lo cho các quý ông TPB-VNCH nữa, vốn số lượng tăng lên ngày càng nhiều, cũng như các cuộc ngăn cản của công an tại chùa Liên Trì, Thủ Thiêm, khi đó ngày càng gắt gao hơn.

Linh mục Phạm Trung Thành nói rằng lúc đó, ông chợt nhận ra một sứ mạng lớn phải theo đuổi, không chỉ là việc giúp đỡ cho kẻ khó, mà như ông tâm tình dưới đây, đó là một hành trình lên tiếng cho sự thật và công bằng.

Và rồi chương trình tri ân “Bên nhau đi nốt cuộc đời” bắt đầu và ngày càng lớn mạnh. Hàng ngàn người đã tìm đến Phòng công lý và hòa bình của Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn. Những món quà được trao đi, những bữa cơm thân tình chia sẻ và những niềm vui hiếm hoi sau hàng chục năm, ngày miền Nam Việt Nam được “giải phóng”. Nhưng điều lớn lao hơn là những con người từ lịch sử của một cuộc chiến tranh gặp nhau, thanh thản vì thấy mình được trả lại phẩm giá, được sống với sự thật và danh dự.

Trong cuộc trò chuyện với linh mục Phạm Trung Thành vào cuối năm 2018, có lúc ông ngừng lại một chút vì điện thoại, rồi sau đó quay sang cười lớn “an ninh nào đó cảnh báo rằng sân nhà thờ treo cờ hoàng kỳ, nhưng đâu có, chỉ là những băng rôn có mai vàng mừng Tết thôi”.  Gương mặt ông lúc nào cũng vậy, cười vui và thanh thản với mọi thứ ập đến.

Và ngay trong phần trả lời về những điều xấu nhất có thể đến, ông vẫn luôn xen kẻ bằng nụ cười hiền lành của mình. An nhiên.

Đây đã là năm thứ 6 của chương trình Tri ân TPB-VNCH “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, đến năm nay thì chương trình đã có những điều gì đáng lưu ý, thưa Cha?

Lm Phạm Trung Thành:Mỗi năm, chi phí cho hoạt động này mỗi năm lại tăng. Thí dụ năm 2106 là 21 tỷ, đến năm 2017 đã là 26 tỷ. Đến hôm nay, vừa rồi chúng tôi tổng kết là 28 tỷ. Con số tăng nói lên một điều là người đến tham gia mỗi ngày một nhiều. Việc này đồng nghĩa với việc những người góp sức thực hiện chương trình này cùng chúng tôi cũng đã biết đến chương trình nhiều hơn để tiếp cận.

Chỉ là những hoạt động mang tính từ thiện, nhưng theo Cha, vì sao nhà cầm quyền lại tìm nhiều cách, hết lần này đến lần khác ngăn cản chương trình TPB-VNCH, thậm chí nối kết với các tỉnh xa để ngăn chận?

Lm Phạm Trung Thành:Phải nói là nhà nước này không tiết kiệm một lực lượng nào, một ảnh hưởng nào, sức mạnh nào… để can thiệp điều họ không thích. Tôi rút ra được điều này từ việc sống 44 năm dưới chế độ cộng sản. Họ không muốn một tập hợp nào, một thành phần nào lớn lên, mạnh lên mà không thuộc hệ thống của họ. Bất cứ điều gì tập hợp, phải thuộc về họ như Đoàn thanh niên của họ, Hội phụ nữ của họ, Hội luật sư của họ…

Nhưng phải nói là cái gì hiện nay mà đụng đến chế độ VNCH là họ rất sợ.(cười)Cho dù đó là những ông đã què cụt hay đui mù, già yếu gì đó thì họ cũng rất sợ.

Nhưng cũng không thể phủ nhận là chính quyền rất sợ những hoạt động của tôn giáo nói chung, đặc biệt lúc này là giới Công giáo. Một phần thì người theo đạo đã nhiều, và bên cạnh đó còn có phần là họ thấy mình không đủ sức kiểm soát được đám đông này.

Trực diện mà nói thì riêng nhà Dòng chúng tôi cũng bị coi là có “vấn đề” với chính quyền do chúng tôi luôn lên tiếng trước bất công, luôn suy nghĩ độc lập… Với những điều nói trên, họ ra sức đánh phá nhưng nhiều năm qua, với nhiều hình thức, nhiều cách… họ đã không thành công trong việc ngăn cản. Nhưng dù vậy, công việc chăm sóc các quý ông TPB-VNCH ngày càng rộng, ngày càng sâu hơn.

Chúng tôi được kể lại nhiều chuyện mà họ ngăn cản. Tệ nhất là họ chọn tấn công từ phía các quý ông từ chính quyền địa phương nơi các quý ông cư ngụ. Nhưng càng ngày càng không thành công do nhiều ông đã thoát ra được nỗi sợ hãi thường ngày để ghi danh và tham gia chương trình này.

Gần đây râm ran tin đồn là nhà cầm quyền ở Sài Gòn đã rất khó chịu, muốn chấm dứt các hoạt động TPB-VNCH tại Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế. Thậm chí có tin họ là sẽ tìm cách cho chương trình ngừng hoạt động trong năm 2019 này, theo Cha nghĩ, mọi thứ sẽ còn được tiếp tục bình yên không, trong năm nay?

Lm Phạm Trung Thành:Khi nãy anh nói một ý về hoạt động từ thiện của chúng tôi. Nhưng tôi xin phép được nói thêm đôi chút về chuyện này. Với tư cách là linh mục, và là linh mục Dòng Chúa Cứu Thế chúng tôi không coi công việc chúng tôi đang làm là chuyện từ thiện.

Nghĩa là, với chúng tôi từ thiện là chia sẻ, nâng đỡ về vật chất cho những người kém may mắn nhưng hiện tại, chúng tôi coi đây là sứ mạng của nhà Dòng, của anh em chúng tôi trong việc đi nói lên sự thật, nói lên lẽ phải và trả lại công bằng cho những người bị tước đoạt. Chúng tôi không đơn thuần gây quỹ, chi tiền, giúp cư trú… Những việc đó chỉ là một phần thôi, vì chúng tôi không phải là một tổ chức hoạt động từ thiện, chúng tôi làm vì sứ mạng công bố một sự thật. Chúng tôi phải tiếp tục, phải làm theo sức cúa mình.

Sự thật là những con người đó không có tội. Sự thật là những người đó không “ngụy” như lời tuyên truyền. Lúc này là lúc cần phải trả lại sự công bằng cho họ. Hơn nữa là phải cám ơn họ, tri ân họ, vì họ đã hy sinh một phần thân thể cùng tuổi thanh xuân của họ cho sự bình an của Miền Nam Việt Nam.

Có vẻ như các Cha đang rất cô đơn trong xã hội này, dù chỉ khởi đi bằng lòng yêu thương. Hiện tình đất nước cho thấy những gì làm trái ý nhà nước độc tài, thường đem lại những kết quả rất xấu. Và liệu khi điều xấu nhất đến, thưa Cha, mọi người đã chuẩn bị gì cho bối cảnh đó?

Lm Phạm Trung Thành:Chúng tôi luôn luôn sẳn lòng đối diện với mọi sự khó khăn. Vì đó cũng là điều căn bản trong sự dấn thân mà chúng tôi đã chọn. Trong cuộc đời của chúng tôi, Chúa chưa bao giờ hứa hẹn cho chúng tôi sự vinh quang của trần gian này, nhưng Chúa lại chỉ rõ nơi đến của thập gía và nỗi khổ đau. Thậm chí, lúc này Chúa hứa hẹn những khung cửa hẹp, những sự bắt bớ những không phải là con đường thênh thang dễ bước.

Nếu không dám chọn đối diện, chúng tôi đã không chọn làm linh mục, không chọn Tin mừng để đi.

Điều quan trọng mà tôi đã thưa chuyện với anh, là chúng tôi đi để công bố một sự thật, lấy lại sự công bằng cho những con người đã bị tước đoạt. Chúng tôi luôn tin rằng nếu đó là việc của Chúa thì không ai có thể phá được. Còn nếu đó không phải là việc của Chúa, tức nó sẽ bị tiêu diệt. Tôi vừa mới nói với anh em cộng tác viên của chương trình TPB-VNCH là chúng ta không cần lo gì cả khi phụng sự ý Chúa. Nếu đây là điều mà chúng ta tạo dựng để tìm tên tuổi hay quyền lợi cho riêng chúng ta – thì tự chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn tin rằng mình sẽ đối diện với khó khăn nhưng sẳn lòng chấp nhận và tin, và hy vọng.

Nếu Chúa đóng cánh cửa này, thì ắt sẽ mở một cánh cửa khác. Những gì đã diễn ra trong những năm qua, đều chứng minh rõ như vậy.  

Tuấn Khanh

Tháng Tư… Ngu! – Tạp Ghi Huy Phương

Đại đa số quân cán chính VNCH qúa ngây thơ hay nói huỵch tẹc là qúa ngu, để bị lừa đi tù cải tạo không có ngày về. Nếu ai cũng hiểu rõ thủ đoạn của CS, có lẽ tất cả đã cầm súng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng….

Thế nhưng… than ôi!!! sau ngày vượt biển tìm tự do, đã an cư lạc nghiệp nơi miền đất tạm dung. Nhiều người đã lại quay về để hưởng thụ, để tiếp tay với bạo quyền,vội quên lời thề trước ngày ra đi…. Họ sáng suốt hay lại ngu tiếp tục?!!!
**************

Tháng Tư… Ngu! – Tạp Ghi Huy Phương

Trước hết, tôi xin tự kiểm điểm cái ngu của bản thân mình trước, trong hàng nghìn cái ngu của thiên hạ, vì ngu mà phải mất nước, “lỗi tại tôi mọi đàng” hay “tôi làm tôi mất nước.” Là một cán bộ chiến tranh chính trị trung cấp, hết làm tâm lý chiến, rồi chính huấn, tức là huấn luyện chính trị cho hàng nghìn tân binh tại một trung tâm huấn luyện lớn nhất nước, mà khi nghe Cộng Sản vào đến Sài Gòn, không chịu tìm đường chạy, vì cứ nghĩ mình gốc nhà giáo, hòa bình rồi, đi ‘học” mấy ngày rồi về dạy học lại!

Tôi ngu vì đã suy diễn hay hiểu sai thời gian đi “học tập,” nên chỉ đem theo 10 gói mì ăn liền Vifon, để ăn sáng trong 10 ngày, ngày thứ 11 đã ăn cơm nhà rồi!

Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định ra thông cáo tất cả các quân nhân cấp úy phải trình diện đi “học tập cải tạo,” mang theo tiền ăn trong 10 ngày, cấp tá mang theo tiền ăn cho một tháng. Sau này có người đi tù 17 năm ròng rã, chúng ta “chửi” Cộng Sản lừa dối, nhưng xem kỹ lại các văn bản, không thấy đoạn nào nói, cấp úy chỉ đi tù 10 ngày, cấp tá một tháng, mà chỉ nói “đóng tiền ăn.”

Chẳng qua, vì chúng ta hay suy luận, và ngây thơ, khờ dại nên mắc mưu sự khôn lanh, xảo quyệt của kẻ thù, đó chính là vì chúng ta ngu!

Sau này, ra Bắc, chính tai tôi đã nghe một quản giáo cai tù nói rằng: “Đưa các anh ra biển thì cũng từ từ, trước hết là gần bờ, sau mới dần dần đưa các anh ra xa hơn, nếu không các anh chóng mặt, say sóng, chịu làm sao nổi!”

Tôi đoan chắc anh em chúng ta, nhất là quý vị tướng lãnh, nếu biết được những ngày tù không bản án, mà có người ra đi biền biệt 17 năm trời, chịu bao nhiêu khổ ải, nhọc nhằn, nhục nhã, thì một nửa trong chúng ta đã tự sát tại nhà mà chết, hoặc chạy vào rừng để rồi cũng chết vì súng đạn của Việt Cộng. May hay rủi, vì ngu mà chúng ta mới sống đến ngày hôm nay.

Khi đến các địa điểm trình diện, không ai nghĩ “đi tù” mà chỉ nghĩ “đi học.” Tại trường Trưng Vương, là nơi trình diện từ cấp phó giám đốc trở lên, hai vị, một từng là phó thủ tướng VNCH, dân biểu, một vị đã là thượng nghị sĩ, đi học còn mang theo gối ôm, và khi xếp hàng vào cổng, có vị đã giành đi trước, vì có giấy giới thiệu của Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn-Gia Định. Sau đó, bộ đội Cộng Sản mới ra lệnh: “Ai có giấy giới thiệu thì đứng qua một bên!” Giấy giới thiệu đây là giấy gọi “trình diện” cho các viên chức cấp cao, còn đối với cấp nhỏ thì chỉ có thông cáo chung trên báo chí, đài phát thanh.

Những ai còn đứng lấp ló ngoài cửa chưa chịu vào, còn nghi ngại dò la thì những chiếc xe mang tên nhà hàng Soái Kình Lâm, Đồng Khánh… mang thức ăn vào quý vị dùng bữa tối, hẳn đã đánh tan mối hoài nghi về thiện ý của người thắng trận.

Đến khi lên xe Molotova, phủ bạt kín rồi, chúng tôi vẫn còn lạc quan tin lời Cộng Sản được đưa đến chỗ đầy “đủ tiện nghi,” (chắc là có đủ điện nước, máy lạnh, sân bóng chuyền…) để học tập và khi biết đoàn xe ra đến xa lộ Biên Hòa, thì việc di chuyển lên Đà Lạt như cầm chắc trong tay. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, trường Chỉ Huy Tham Mưu, trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị là những nơi lý tưởng nhất để “học tập.” Khi đến nơi ở tù rồi, Cộng Sản đưa tù vào một cái nhà kho, một trại gia binh hay một cánh rừng thì vẫn tin tưởng vào số ngày trong thông cáo, chờ ngày ra sân vận động Cộng Hòa làm lễ mãn khóa: “Quỳ xuống hỡi những cải tạo viên – Đứng lên hỡi những công dân Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam!”

Câu chuyện những người trên con tàu Việt Nam Thương Tín, Tháng Năm, 1975, sang đến đảo Guam rồi, lại đốt “barrack,” tuyệt thực đề đòi “về với tổ quốc,” là một bài học xót xa cho những người trong cuộc, có người phải trả giá bằng 17 năm tù. Nhạc sĩ Huỳnh Công Ánh kể chuyện, anh em “tù cải tạo” tại trại tù K2, Nghệ Tĩnh, gọi những người này bằng biệt danh “đội q…!”

Tại trại 15 NV. Long Thành, một nhạc sĩ đã hồ hởi sáng tác những bản nhạc được cai tù bắt cả trại hát: “Trồng rau, trồng đậu, trồng tình thương trong tâm hồn người…” Ra tới Bắc Thái lại thêm một bài “Ngày vui đã tới!” nhưng mà “ngày về” thì xa lắc xa lơ!

Thậm chí khi lên con tàu chở súc vật Sông Hương lưu đày ra Việt Bắc rồi, có người vẫn lạc quan “biết đâu nó chở tù miền Nam ra Đệ Thất Hạm Đội Hoa kỳ hay đi thẳng qua Guam để giao cho Mỹ!” Tàu chạy hơn một ngày một đêm rồi mà vẫn nghĩ là cập bến Đà Nẵng chứ không ai nghĩ là lên cảng Hải Phòng.

Ở trong nhà tù vẫn còn người tin tưởng “học tập, lao động” tốt thì được “Cách Mạng” cứu xét cho về với gia đình sớm, nên làm trối chết, kiệt sức, đấu tố anh em… để lấy điểm với cán bộ, cũng như đau xót cho quý bà ở nhà, dắt díu con cái đi vùng “kinh tế mới” cho chồng sớm được tha! Sau 10 “bài học tập,” tới buổi “thu hoạch” thì cứ nghĩ là viết hay thì được tha về, viết dở thì ở lại “học” tiếp.

Trước ngày 29 Tháng Ba, 1975, khi Cộng Quân chưa vào Đà Nẵng, một số người thuộc phe hòa hợp hòa giải tin tưởng thời cơ đã đến nên đã sắp đặt đưa Bác Sĩ Phạm Văn Lương lên làm thị trưởng Đà Nẵng, tin sau đó được đài BBC loan báo. Trong lần phỏng vấn bà quả phụ Phạm Văn Lương tại Nam California, bà xác nhận với chúng tôi Bác Sĩ Phạm Văn Lương chưa bao giờ là thị trưởng Đà Nẵng, nhưng có chuyện là khi có nguồn tin này, một vị trung tá đã đến gặp ông xin làm tài xế cho ông, để nhờ ông che chở, lánh nạn. Sao có người “ngu” đến mức như thế!

Ngày 5 Tháng Tư, 1975, Bác Sĩ Phạm Văn Lương cùng nhiều y sĩ khác bị đưa vào nhà tù Kỳ Sơn, và một năm vào ngày 3 Tháng Tư, 1976, Bác Sĩ Lương đã uống thuốc ngủ cùng 10 viên cloroquine để tự tử.

Trong những ngày cuối cùng của miền Nam, Tướng Dương Văn Minh vẫn còn tin tưởng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Nhưng cuối cùng, tiếng than cuối cùng tuyệt vọng của “Tổng Thống” Dương Văn Minh là: “Thầy giết tôi rồi!”

Có những người làm lớn hoặc từng “làm rung rinh nước Mỹ” mà còn ngây thơ như vậy, thì đừng trách chi một thằng lính như tôi tin tưởng vào lời của “cách mạng” đem đủ 10 gói mì ăn liền, là… ngu!

Quân tử, ngay thẳng, ngây thơ mà đối đầu với tiểu nhân, xảo trá, độc ác thì không chết cũng bị thương. Tôi đâm ra nghi ngờ rằng, khó “đem đại nghĩa để thắng hung tàn,” và thời nay thấy nhan nhản chuyện “cường bạo áp đảo cả chí nhân!”

Image may contain: text
Image may contain: 2 people
Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: ocean, sky, outdoor and water