Công nhân Việt Nam biểu tình yêu cầu hủy bỏ môi giới hút máu người nghèo.

Lê Hồng Song
Công nhân Việt Nam biểu tình yêu cầu hủy bỏ môi giới hút máu người nghèo.

(Cảm ơn FBker Đinh Bạt Hoàn đã gửi sớm để chia sẻ cho những lao động muốn đi nước ngoài làm việc, thông tin này rất hữu ích cho người lao động VN..)

Đài Loan: Công nhân Việt Nam biểu tình yêu cầu hủy bỏ môi giới 

See More

CÁI QUÁI GÌ VẬY?

Image may contain: outdoor and nature
Luân LêFollow

CÁI QUÁI GÌ VẬY?

Hôm qua tôi hỏi một bạn, bạn này là đảng viên, rất yêu chế độ cộng sản.

Tôi hỏi: Giờ có hai lựa chọn đi du lịch và học tập, một là Hàn Quốc, hai là Triều Tiên, em chọn nơi nào để đi?

Cô gái: Tất nhiên em không muốn ăn cỏ và gặp lãnh tụ là khóc như mưa mà chỉ để học phóng tên lửa hạt nhân rồi, em muốn sang xứ sở xứ Kim Chi.

Tôi lại hỏi tiếp: Bây giờ có hai nước là Mỹ và Venezuela, em chọn quốc gia nào để sinh sống và phát triển sự nghiệp?

Cô gái: Rõ ràng là em không muốn bới rác để ăn rồi. Em sẽ qua Mỹ bằng mọi cách.

Tôi lại hỏi tiếp: Bây giờ có hai đất nước, là Indonesia và Malaysia, họ cấm cộng sản hoạt động. Em sẽ vẫn đeo huy hiệu hoặc cờ đảng cộng sản ra đường bày tỏ chứ?

Cô gái: Dạ không. Em phải giấu đi chứ, bên đó họ tấn công người nào có biểu hiện như vậy.

Giờ thế này nhé: Giữa nước Pháp bảo vệ tự do, dân chủ đến cùng và một Trung Quốc muốn kiểm soát, chấm điểm phân hạng công dân, em chọn nơi nào để sinh sống?

Cô gái: Em không muốn làm nạn nhân của Thiên An Môn hay bị soi xét đến cả lời ăn tiếng nói và nội tạng, rõ ràng là em chọn Pháp rồi.

Tôi lại đặt ra giả dụ: Giờ có hai nơi, một là Việt Nam và hai là Nhật Bản, em có chọn Việt Nam để chữa bệnh hoặc học tập không?

Cô gái: Xứ sở mặt trời mọc là lựa chọn ưu tiên hàng đầu của em. Em đang làm thủ tục để đưa người thân em qua đó.

Tôi đành phải nói: Sao em vừa lưu manh lại vừa khốn nạn thế? Mặc áo một đằng mà lại sẵn sàng xảo trá để đạt mục đích của mình và chỉ chọn những “đế quốc tư bản” vậy?

Chuyện cái giọng Sài Gòn

Giọng Sài Gòn cũng như văn hóa và con người Sài Gòn là một sự pha trộn và giao thoa đến hợp nhất của nhiều nơi. Đó là những người Chăm bản địa, những người khách Hoa, những người miền Trung đầu tiên đến đất Gia Định… Từ đó hình thành một loại ngôn ngữ vừa bản địa, vừa vay mượn của những người đi mở đất…

Giọng người Sài Gòn được xem là giọng chuẩn của miền Nam, cũng như giọng người Hà Nội được xem là giọng chuẩn của miền Bắc. Giọng chuẩn tức là giọng không pha trộn, không bị cải biến đi qua thời gian. Như nói về giọng chuẩn của người Hà Nội, người ta nói đến chất giọng ấm nhẹ, khi trầm khi bổng, khi sắc khi thanh, và chẳng ai phủ nhận người Hà Nội nói chuyện rất hay và “điêu luyện”. Cái “điêu luyện” ấy như thuộc về bản chất của người Hà Nội mà chỉ người Hà Nội mới có được. Nếu nói là người Việt Nam nói như hát, thì đúng ra chỉ có người Hà Nội là “nói như hát” mà thôi, họa chăng chỉ có giọng Huế của người con gái Huế trầm tư mới cùng được ví von thế…

Cái giọng Sài Gòn...

Người Sài Gòn thì khác, giọng Sài Gòn cũng khác. Không ngọt ngào… mía lùi như một số người dân Tây Nam Bộ ven vùng sông nước mênh mang chín rồng phù sa; không nặng nề cục mịch như người miền Đông Nam Bộ nóng cháy da thịt; giọng người Sài Gòn cũng ngọt, nhưng là cái ngọt thanh hơn, nhẹ hơn. Đó là chất giọng “thành thị” đầy kiêu hãnh của người Sài Gòn, chẳng lẫn vào đâu được mà dù người khác có bắt chước cũng khó lòng. Dường như qua nhiều năm cùng với đất Gia Định – Sài Gòn phù hoa trong nhịp sống thì giọng nói của người Sài Gòn cũng trở nên “cao sang” hơn. Dù vậy, có cái “thanh” của một vùng đất một thời là thủ phủ Nam Bộ, nhưng cũng chẳng mất đi đâu cái mộc mạc không bỏ được của cái gốc chung Nam Bộ.

Giọng người Sài Gòn nói lên nghe là biết liền. Ngồi nghe hai người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau ở một quán nước, bên đường hay qua điện thoại, dễ dàng nhận ra họ. Cái giọng không cao như người Hà Nội, không nặng như người Trung, mà cứ ngang ngang sang sảng riêng… Mà điều đặc biệt trong cách người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau là mấy từ “nghen, hen, hén” ở cuối câu… Người miền khác có khoái, có yêu người Sài Gòn thì cũng vì cách dùng từ “nghen, hen” này. Khách đến nhà chơi, chủ nhà tiếp. Khách về, cười rồi buông một câu: “Thôi, tôi dìa nghen!” – Chủ nhà cũng cười: “Ừ, dzậy anh dìa hen!”. Nói chuyện điện thoại đã đời, để kết câu chuyện và cúp máy, một người nói: “Hổng còn gì nữa, dzậy thôi hen!” “Thôi” ở đây nghĩa là dừng lại, kết thúc, chấm dứt gì đó. Hai đứa bạn nói chuyện cùng nhau, bắt gặp cái gì vui, quay đầu sang đứa kế bên: “Hay hén mậy?” bằng giọng điệu thoải mái…

Cái giọng Sài Gòn...

Người Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, có thói quen dùng từ “dạ” khi nói chuyện, khác với người miền Bắc lại dùng từ “vâng”. Để ý sẽ thấy ít có người Sài Gòn nào nói từ “vâng”. Khi có ai gọi, một người Sài Gòn nói “vâng!” là trong dáng dấp của câu nói đó có giọng đùa, cười cợt. Khi nói chuyện với người lớn hơn mình, người dưới thường đệm từ “dạ” vào mỗi câu nói. “Mày ăn cơm chưa con?” – “Dạ, chưa!”“Mới dìa/dzề hả nhóc?” – “Dạ, con mới!”… Cái tiếng “dạ” đó, không biết sao trong cảm giác nghe của một người Sài Gòn với một người Sài Gòn thấy nó “thương” lạ… dễ chịu mà gần gũi, nhẹ nhàng mà tình cảm lắm lắm. Cảm giác nó thật riêng so với những nơi khác. Nghe một tiếng “dạ” là biết ngay tên này là dân miền Nam cái đã rồi hẵng hay.

Một người miền khác, có thể là Bắc hoặc Trung, diễn tả một khoảng thời gian ngắn vài ngày thì nói “Từ bữa đó đến bữa nay”, còn người Sài Gòn thì nói “hổm nay”… người khác nghe sẽ không hiểu, vì nói chi mà ngắn gọn ghê. (Lại phát hiện thêm một điều là người Sài Gòn hay dùng từ “ghê” phía sau câu nói để diễn tả một sắc thái tình cảm riêng. Tiếng “ghê” đó chẳng hàm ý gì nhiều, nó mang ý nghĩa là “nhiều”, là “lắm”. Nói “Nhỏ đó đẹp ghê” nghĩa là khen cô bé đó lắm vậy.) Lại so sánh từ “hổm nay” với“hổm rày” hay nghe ở các vùng quê Nam Bộ, cũng một ý nghĩa như nhau, nhưng lại không hoàn toàn giống nhau. Nghe người Sài Gòn dùng một số từ “hổm rày, miết…” là người Sài Gòn bắt chước người miền sông nước vậy. Nhưng nghe vẫn không trái tai, không cảm thấy gượng, vì trong người Sài Gòn vẫn còn cái chất Nam Bộ chung mà.

Cái giọng Sài Gòn...

Nghe một đứa con trai Sài Gòn nói về đứa bạn gái nào đó của mình xem… “Nhỏ đó đẹp lắm!”“Nhỏ đó ngoan!”…Tiếng “nhỏ” mang ý nghĩa như tiếng “cái” của người Hà Nội. Người Sài Gòn gọi “nhỏ Thúy, nhỏ Lý, nhỏ Uyên” thì cũng như “cái Thúy, cái Uyên, cái Lý” của người Hà Nội thôi.

Giọng nói người Sài Gòn không sang trọng, điệu đà như giọng người dân đất Bắc, cũng chẳng trầm lắng, thanh thanh như tiếng Huế Thần Kinh, cái giọng Sài Gòn đi vào tai, vào lòng, vào cách cảm, và nỗi nhớ nhung của người Sài Gòn lẫn dân miền khác bằng sự ngọt ngào của sông nước Nam Bộ, bằng cái chân chất thật thà của truyền thống xa xưa, và bằng cả cái “chất Sài Gòn” chảy mạnh trong từng mạch máu người dân Sài Gòn. Đi đâu, xa xa Sài Gòn, bỗng dưng nghe một tiếng “Dạ!” cùng những tiếng “hen, nghen” lại thấy đất Sài Gòn như đang hiện ra trước mắt với những nhớ thương…

Giọng người Sài Gòn đôi khi diễn đạt cùng một câu nói, nhưng lại bằng nhiều cung bậc giọng điệu khác nhau lại mang ý nghĩa khác nhau. Đám nhỏ quậy, nghịch phá, người chị mắng, giọng hơi gằn lại và từng tiếng một, có chút hóm hỉnh trong đó: “Dzui dzữ hen!”. Đám bạn cùng tuổi, ngồi chơi chung, cười đùa, một người nói giọng cao cao vui vẻ: “Dzui dzữ hen!”… Người Sài Gòn có thói quen hay “đãi” giọng ở chữ cuối làm câu nói mang một sắc thái khác khi hờn giận, khi đùa vui như: “Hay dzữuuu”“Giỏi dzữưưu…!” Nghe người Sài Gòn nói chuyện, trong cách nói, bắt gặp “Thôi à nghen”, “Thôi à!” khá nhiều, như một thói quen và cái “duyên” trong giọng Sài Gòn.

Cái giọng Sài Gòn...

Người Sài Gòn nói chuyện, không phát âm được một số chữ, và hay làm người nghe lẫn lộn giữa âm “d,v,gi” cũng như người Hà Nội phát âm lẫn các từ có phụ âm đầu “r” vậy. Nói thì đúng là sai, nhưng viết và hiểu thì chẳng sai đâu, đó là giọng Sài Gòn mà, nghe là biết liền. Mà cũng chẳng biết có phải là do thật sự người Sài Gòn không phát âm được những chữ ấy không nữa, hay là do cách nói lẫn từ “d,v,gi” ấy là do quen miệng, thuận miệng và hợp với chất giọng Sài Gòn. Ví như nói “Đi chơi dzui dzẻ hen mậy!” thì người Sài Gòn nói nó… thuận miệng và tự nhiên hơn nhiều so với nói “Đi chơi vui vẻ hen!”. Nói là “vui vẻ” vẫn được đấy chứ nhưng cảm giác nó ngường ngượng miệng làm sao đó.

Nói một ai đó chậm chạp, người Sài Gòn kêu: “Thằng đó làm gì mà cứ cà rề cà rề… nhìn phát bực!” Nghe cứ như là đùa, chẳng làm câu nói nặng nề lắm. Một người lớn hơn gọi: “Ê, nhóc lại nói nghe!” hay gọi người bán hàng rong: “Ê, cho chén chè nhiều nhiều tiền ít coi!”… “Ê” là tiếng Sài Gòn đó, coi gọi trổng không vậy mà chẳng có ý gì đâu, có thể nói đó là thói quen trong cách nói của người Sài Gòn.

Mà người Sài Gòn cũng lạ, mua hàng gì đó, thường “quên” mất từ “bán”, chỉ nói là “cho chén chè, cho tô phở”… “Cho” ở đây là mua đó nghen. Nghe người Sài Gòn nói chuyện với nhau, thường bắt gặp thế này: “Lấy cái tay ra coi!”“Ngon làm thử coi!”“Cho miếng coi!”“Nói nghe coi!”… “Làm thử” thì còn “coi” được, chứ “nói” thì làm sao mà “coi” cho được nè? Vậy mà người Sài Gòn lại nói, từ “coi” cũng chỉ như là một từ đệm, dân Sài Gòn nói dzậy mà. Ngồi mà nghe người Sài Gòn nói chuyện cùng nhau thì quái lắm, lạ lắm, không ít người sẽ hỏi: “mấy từ đó nghĩa là gì dzậy ta?” – Mà “dzậy ta” cũng là một thứ “tiếng địa phương” của người Sài Gòn à. Người Sài Gòn có thói quen hay nói: “Sao kỳ dzậy ta?”“Sao rồi ta?”“Được hông ta?”… Nghe như là hỏi chính mình vậy đó, mà… hổng phải dzậy đâu nghen, kiểu như là nửa hỏi người, nửa đùa đùa vậy mà.

Tiếng Sài Gòn là thế đó, nếu bạn giả giọng Sài Gòn nói chuyện, dù có giống cách mấy mà bỏ quên mấy tiếng đệm, mấy tiếng Sài Gòn riêng riêng này thì đúng là… “bạn hông biết gì hết chơn hết chọi!”

Trích lại từ bài viết “Cái giọng Sài Gòn” của tác giả Hải Phan

Việt Nam Quốc tang: Ông Trọng ‘‘biến mất’’, ‘‘tranh đoạt quyền lực’’ bắt đầu ?

Việt Nam Quốc tang: Ông Trọng ‘‘biến mất’’, ‘‘tranh đoạt quyền lực’’ bắt đầu ?

RFI Đăng ngày 04-05-2019 Sửa đổi ngày 05-05-2019 10:00

Tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội, ngày 02/04/2018.REUTERS/Kham

Điều gây chú ý nhất trong lễ Quốc tang tướng Lê Đức Anh, nguyên chủ tịch nước Việt Nam, hôm 03/05/2019, là sự vắng mặt của lãnh đạo Việt NamNguyễn Phú Trọng. Sự vắng mặt này có ý nghĩa như thế nào đối với chính trường Việt Nam ? Nhà báo Phạm Chí Dũng từ Sài Gòn phân tích.

Những điều gì đáng chú ý trong lễ tang ông Lê Đức Anh ?

Điểm đáng chú ý nhất trong lễ tang này, đó là không phải sự quan tâm đối với người đã chết, mà là sự hiện diện hay không của người còn sống – ông kiêm hai chức, tổng bí thư và chủ tịch Nước Nguyễn Phú Trọng. Điều đặc biệt nhất trong lần này ông Nguyễn Phú Trọng đã không xuất hiện, mặc dù trước đó khoảng một tuần, bộ Ngoại Giao đã chính thức thông báo là ông Nguyễn Phú Trọng sẽ làm trưởng ban Tang lễ. Và sau đó, chủ tịch Quốc Hội là Nguyễn Thị Kim Ngân cũng thông báo là sức khỏe của đồng chí tổng bí thư, chủ tịch Nước đang hồi phục nhanh chóng. Và người ta trông chờ sự xuất hiện của ông Nguyễn Phú Trọng với một sự quan tâm chưa từng có.

Tôi nhớ rằng, đã lâu lắm rồi, mà có thể là chưa từng có một lễ tang nào mà người dân – khối cán bộ, công chức lại quan tâm đến mức như thế.

Và điểm thứ hai là khi ông Nguyễn Phú Trọng không xuất hiện, thì trưởng ban Lễ tang lại rơi vào một người khác. Đó là quan chức, phó thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, cũng là một ủy viên Bộ Chính Trị. Tuy nhiên, sự xuất hiện của ông Trương Hòa Bình, với tư cách trưởng ban Tang lễ tướng Lê Đức Anh dường như có một sự mâu thuẫn rất lớn với một nghị định của chính phủ số 105, quy định phải là tổng bí thư hoặc chủ tịch Nước làm trưởng ban Lễ tang (1).

Từ việc ông Nguyễn Phú Trọng không có mặt trong lễ tang có thể suy ra những gì đang hoặc sắp diễn ra trong chính trường Việt Nam ?

Trước mắt là vấn đề cá nhân, vấn đề sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng. Và sau đó vấn đề thứ hai là những người có thể kế nhiệm Nguyễn Phú Trọng, và những thay đổi có thể dẫn đến đảo lộn trong chính trường Việt Nam trong thời gian tới, có lẽ là không bao lâu nữa.

Về sức khỏe của ông Nguyễn Phú Trọng, mặc dù có những thông tin tích cực về việc điều trị của ông ta. Có những thông tin trước đó một tuần là ông ấy đang phục hồi, rồi tập xe lăn, cũng như tập nói, tập phát âm. Nhưng mà cho tới nay, đã hơn nửa tháng, từ khi ông Trọng bị một biến cố về sức khỏe ở Kiên Giang, nơi được gọi là « căn cứ địa cách mạng » của gia tộc Nguyễn Tấn Dũng, đã không có bất kỳ hình ảnh nào của ông Trọng. Mặc dù, báo chí, báo Đảng, hệ thống tuyên giáo vẫn ra rả đưa tin về chuyện ông Trọng, hôm nay gửi thư, điện chúc mừng giới lãnh đạo Bắc Triều Tiên, ngày mai gửi thư điện mừng đến một số quốc gia khác. Thậm chí là kể cả hình ảnh ông Trọng ngồi trên giường bệnh cũng không có nổi. Điều đó cho thấy là vấn đề sức khỏe của ông Trọng không thể là vấn đề nhỏ, mà là vấn đề rất lớn.

Trong khi đó, chúng ta thấy chính trường Việt Nam đã bắt đầu có những xáo trộn ngầm. Dường như mọi chuyện đang ngưng trệ về nhiều mặt, khi ông Nguyễn Phú Trọng phải điều trị.

Đang điều trị hay là biến mất khỏi chính trường ?

Nếu nói là « biến mất » khỏi chính trường, thì người ta lại cho rằng tôi nói theo « thuyết âm mưu ». Nhưng thực sự là, trong nhiều trường hợp, thuyết âm mưu ở Việt Nam (hay cũng có thể gọi là các suy đoán, hay « tin đồn ») lại khá là gần với thực tế. Nếu kể đến trường hợp của trưởng ban Nội Chính Nguyễn Bá Thanh cuối 2014, đầu 2015, của bộ trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh giữa năm 2015, hay Trần Đại Quang, chủ tịch Nước vào năm 2017, 2018, thì có khá nhiều thuyết âm mưu, các thông tin đồn đoán bên ngoài, liên quan đến thuyết âm mưu đó lại được xác thực sau đó.

Cũng cần phải nhắc lại một hoàn cảnh của ông Trần Đại Quang. Trước khi chết chỉ có một, hai ngày ông Trần Đại Quang còn gửi thư, điện đến một số nước, và còn tiếp đoàn Trung Quốc. Sau đó thì ông ta lăn ra chết.

Nói như vậy, để cho thấy rằng, ở góc độ nào đó, khách quan mà nói, thuyết âm mưu (hay tin đồn) nó sẽ có tính xác thực, nếu như được thực tế chứng minh là đúng. Trong trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng, có thể nói rằng, dùng từ ông ta « mất tích » hay « biến mất » khỏi chính trường Việt Nam, trong trường hợp này, vẫn có thể được. Chúng ta có thể so sánh, khi ông Trọng còn bình thường, chưa gặp vấn đề về sức khỏe, ít nhất trên mặt công luận, báo chí, thì tần suất xuất hiện là từ 2 đến 4 ngày, chậm lắm là 5 ngày.. Có những giai đoạn, hàng ngày xuất hiện đều đặn. Nhưng từ 14/04/2019, khi xảy ra sự biến Kiến Giang, thì đã hơn nửa tháng rồi. Mà không xuất hiện, thì có thể dùng từ biến mất, hoặc mất tích

Xin giải thích rõ hơn về cái gọi là « thuyết âm mưu » ?

Với Nguyễn Phú Trọng, hiện nay có hai thuyết âm mưu, hay cũng có thể gọi là « suy đoán ». Một là ông Trọng cố ý, để né tránh việc đi « chầu Thiên tử ở phương Bắc », liên quan đến hội nghị BRI – thượng đỉnh Sáng kiến Một vành đai, Một con đường, do Trung Quốc tổ chức lần thứ hai. Thay vào đó là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc. Đó là thuyết âm mưu thứ nhất. Và thuyết âm mưu nữa là ông Nguyễn Phú Trọng có thể là rơi vào tình trạng bệnh tật chủ ý như vậy, là một thủ đoạn chính trị, mang tên là « giả chết bắt quạ », thường được các triều đại Trung Quốc trong lịch sử sử dụng.

Hai suy đoán này có cơ sở không ?

Về thuyết âm mưu thứ nhất, để tránh đi hội nghị BRI ở Trung Quốc, có một cơ sở trước đó. Nguyễn Phú Trọng đã có một số động tác giãn Trung, và song song với giãn Trung là ngả về Mỹ. Biểu hiện chứng minh rõ ràng nhất, cho việc ngả về Mỹ, là cuộc gặp tổng thống Mỹ Donald Trump ở Washington sắp tới, nếu ông ta kịp phục hồi sức khỏe. Và trong cuộc gặp đó hai bên sẽ bàn về vấn đề tăng cường và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác quốc phòng, và đặc biệt là vấn đề Biển Đông. Và kể cả sự hiện diện của một tàu sân bay thứ hai của Mỹ tại Biển Đông, có thể ngay tại cảng Cam Ranh. Và có thể bàn tiếp vấn đề hợp tác cấp chiến lược Việt – Mỹ.

Đó là cơ sở cho thuyết âm mưu về việc Nguyễn Phú Trọng tránh đi Trung Quốc. Tuy nhiên, để thuyết âm mưu này đúng, thì nó phải diễn ra một việc khác : Nếu Nguyễn Phú Trọng chủ động tạo ra tình trạng bệnh tật của mình đủ nặng, để khỏi phải đi Trung Quốc, thì ông ta đã phải tìm cách thông tin, bắn tin cho Trung Quốc, đặc biệt cho các cơ quan tình báo Trung Quốc nắm được việc này, tình trạng bệnh tật của ông ta như thế nào. Nếu như vậy, thì ông ta phải thông qua một cái kênh rất ưa thích : báo Đảng. Vấn đề là, làm sao để lý giải được : Vì sao từ ngày 14/04 ở Kiên Giang đến nay, đã không có bất cứ một dòng một chữ nào từ báo Đảng, về tình trạng bệnh tật thực chất của Nguyễn Phú Trọng, mà chỉ nói theo Tuyên giáo, có vấn đề gì đó. Còn dư luận viên thì nói là ông ta chỉ bị choáng nhẹ. Thế thì việc Nguyễn Phú Trọng không sử dụng kênh báo Đảng, cho thấy, cũng giống như các trường hợp đã xảy ra của Nguyễn Bá Thanh, Phùng Quang Thanh, Trần Đại Quang : Đảng giấu thông tin, bưng bít thông tin, ém nhẹm thông tin, chủ ý là không thông tin ra ngoài. Mà không thông tin ra ngoài, thì làm sao Trung Quốc có thể nắm được ? Mà nếu Trung Quốc không nắm được, thì làm sao có cơ sở để tin là bệnh thật.

Chuyện thứ hai là, nếu Nguyễn Phú Trọng chủ ý tạo ra bệnh của mình để « giả chết, bắt quạ », để thanh trừng trong nội bộ Đảng, thì ta lại vướng ngay phải điều mà dân gian gọi là « gậy ông, đập lưng ông ». Cái bẫy mà ông ta giăng ra với các đối thủ chính trị (bị sử dụng ngược lại). Quy định đưa ra năm 2018 : ủy viên Bộ Chính Trị, các ứng cử viên tổng bí thư phải bảo đảm được sức khỏe, có nghĩa là phải được sự xác nhận của ban Bảo vệ và Chăm sóc Sức khỏe Trung ương, hàng tuần, hàng tháng, và thậm chí hàng ngày…. Nếu như người ta nghĩ là ông ta bị bệnh (thật), thì sẽ có những phản ứng thậm chí mạnh mẽ.

Vì thế, cả hai thuyết âm mưu đều không đủ cơ sở thuyết phục. Mà giả thuyết thực tế nhất, gần gũi nhất, dễ cảm nhận được nhất, là ông ta ở cái tuổi này, đã bị một căn bệnh hành hạ. Nếu không cẩn thận, thì ông ta sẽ đi theo Trần Đại Quang và tướng Lê Đức Anh.

Một số dấu hiệu khác trong lễ tang có thể cho phép nhận định về những gì diễn ra trong chính trường Việt Nam ?

Tôi không nghĩ rằng có những dấu hiệu, dù là đặc biệt chăng nữa, trong lễ tang ông Lê Đức Anh lại đủ lớn, đủ sâu, để có thể cho thấy xu hướng, hoặc sự thay đổi lớn trong chính trường Việt Nam, ngoài yếu tố duy nhất như tôi đã nêu. Và nhiều người khác cũng đã biết. Đó là Nguyễn Phú Trọng không thể xuất hiện, và ông ta đang nằm nguyên trong tình trạng khó khăn về sức khỏe.

Khi Nguyễn Phú Trọng rơi vào tình trạng sinh, lão, bệnh, tử, như một quy luật không thể bác bỏ, thì ông ta buộc phải để lại một khoảng trống quyền lực rất lớn. Bây giờ có đến hai ghế (bị khuyết), chứ không phải một, là tổng bí thư và chủ tịch Nước. Khoảng trống quyền lực càng lớn thì chỗ trũng càng sâu, và nước chảy càng mạnh.

Có nghĩa là sẽ dâng lên một làn sóng, các quan chức cấp dưới của Nguyễn Phú Trọng, nổi lên để tranh đoạt quyền lực với nhau. Đang diễn ra một làn sóng ngầm, phân chia lại quyền lực. Giữa ba khối, khối Đảng, khối hành pháp và khối lập pháp..

Trước đây, khối Đảng chỉ huy tất cả, theo nguyên tắc là Đảng lãnh đạo toàn diện. Và gần đây nhất, từ năm 2017 đến nay, xuất hiện một quan điểm rất phổ biến trong nội bộ trong Đảng, là Đảng không làm thay, mà Đảng làm luôn.

Vào lúc cơ chế độc tôn, tập trung quyền lực vào tay Nguyễn Phú Trọng suy giảm, thì sẽ kéo theo việc cơ chế tập trung quyền lực về cấp trung ương cũng suy giảm theo. Tôi nghĩ rằng sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là : Khối hành pháp và khối lập pháp sẽ dần dần tách ra khỏi khối Đảng, tăng cường tiếng nói của mình. Một cách độc lập tương đối, hơn là phụ thuộc gần như tuyệt đối vào khối Đảng trước đây. Không biết có phải là ngẫu nhiên hay không, mà trong thời gian ông Trọng bị bệnh, bị « mất tích », thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có một đề nghị đáng chú ý với Quốc Hội, là tăng quyền cho thủ tướng, một số quyền không quá quan trọng, nhưng có một động thái như vậy.

Tôi cho rằng mọi chuyện bắt đầu, và sắp tới sẽ diễn ra hai khuynh hướng. Khuynh hướng phân chia lại quyền lực giữa ba khối, và khuynh hướng ly tâm giữa khối địa phương với cấp trung ương. Và song song là xu hướng hình thành gần như chắc chắn một số « sứ quân » quyền lực hành chính và một số sứ quân lợi ích riêng, mà chúng ta thường gọi là « nhóm lợi ích ».

Nhiều người ghi nhận ông Trần Quốc Vượng, thường trực Ban Bí Thư, tức nhân vật số hai của Đảng, trong một số bức ảnh cho thấy đi một mình đến viếng, trong khi hai phái đoàn, của chính phủ và của Đảng, lại đều do thủ tướng đứng đầu. Phải chăng sự phân hóa, như nhà báo Phạm Chí Dũng nhận định, đã bắt đầu trong chính lễ tang này ?

Đúng là ông Trần Quốc Vượng lẻ loi, cô độc. Ông ta không nằm trong một đoàn nào cả, một đám đông nào cả. Tôi đặt câu hỏi là : Phải chăng đã có một sự sắp xếp cố ý ? Tôi cho đó đã là một thủ thuật chính trị, để chơi xấu lẫn nhau. Nếu đúng như vậy, thì đó quả là một sự phân hóa không nhỏ đâu.

Sau đám tang Lê Đức Anh, sắp tới vào giữa tháng Năm này sẽ diễn ra hội nghị trung ương 10. Nếu không có Nguyễn Phú Trọng, hoặc có Nguyễn Phú Trọng mà không có những nội dung đặc sắc theo ý của Nguyễn Phú Trọng, thì tôi nghĩ là ngay trong hội nghị đó sẽ diễn ra những phân hóa còn lớn hơn nữa, giữa khối Đảng, hành pháp và lập pháp. Và lúc đó, người ta sẽ chứng kiến vai trò của ông Trần Quốc Vượng, nếu không cẩn thận sẽ trở nên mờ nhạt đáng kể, không kém thua hình ảnh mờ nhạt của ông ta tại lễ tang của tướng Lê Đức Anh.

***

(1) Nhà báo Phạm Chí Dũng đã ghi nhận chính xác về việc có một mâu thuẫn « rất lớn » giữa vai trò « trưởng ban Lễ tang » trong Nghị định 105 về « Tổ chức lễ tang với cán bộ, công chức, viên chức » với diễn biến của buổi lễ ngày hôm qua. Trên thực tế, phụ trách Quốc tang có hai chức « trưởng ban ». Trưởng ban Lễ tang Nhà nước phải là nguyên thủ, hoặc tổng bí thư, và trưởng ban Tổ chức Lễ tang là một phó thủ tướng. Có trách nhiệm đọc điếu văn là trưởng ban Lễ tang Nhà nước. Như vậy, người làm thay vai trò của ông Nguyễn Phú Trọng không phải là phó thủ tướng Trương Hòa Bình, mà là thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, người đọc điếu văn hôm 03/05.

Đúng Mực

Trần Bang

Cô gái tòng phạm thì quơ quáng quàng 
Chính phủ, báo chí mơ màng 
Lẫn lộn tốt xấu, “ lộ hàng” nhố nhăng

Image may contain: 6 people, people smiling, camera

Pham Nguyen TruongFollow

HÔM NAY CHỦ NHẬT, NHƯNG THẤY BÀI CỦA Chau Doan HAY QUÁ, phải Copy ngay:

Đúng Mực

Tôi thấy cần thiết phải nói mấy lời với những cán bộ nhà nước đi đón Đoàn Thị Hương.
Lý do tôi phải nói bởi tôi biết các vị trình độ văn hoá thấp nên rất lúng túng không biết ứng xử sao cho phải.
Tôi hiểu, cán bộ ở Việt Nam đôi khi cũng phải dạy dỗ tỉ mỉ như với trẻ con vậy, mà nói đúng hơn là khó hơn với trẻ con, bởi cái tư duy của các vị đã hỏng rồi.

Khi Đoàn Thị Hương bị bắt, công luận chúng tôi thấy cần phải quan tâm để tránh cho một người Việt bị oan sai. Nếu Đoàn Thị Hương có tội, cô ấy phải chịu tội dù mang quốc tịch nào.
Cái mà công luận cần là công lý chứ không phải là một sự bênh vực mù quáng.
Khi công luận quan tâm, chính quyền mới cảm thấy sức ép và mới bắt đầu làm đúng trách nhiệm của mình.

Đấy chính là lý do tại sao giờ các vị bâu vào đón Đoàn Thị Hương như thể cô ấy là một ngôi sao, một nữ anh hùng.
Khi Hương ở Malaysia, cô ấy là một nghi phạm và bởi sự thiếu hiểu biết mà cô ấy đã gián tiếp tiếp tay cho một vụ mưu sát.
Cô ấy là một cô gái ngốc nghếch không hơn không kém.

Công luận vui mừng bởi cô ấy được thả và không bị kết án oan.
Nhưng bởi thấy công luận quan tâm nên các vị đã có tâm lý tát nước theo mưa, lại chu đáo một cách quá mức cần thiết, tốn thời gian và tiền bạc để chào đón cô ấy. Chắc các vị muốn chứng tỏ với công luận rằng đã quan tâm hết lòng tới cô ấy.
Xin nhắc lại, cô ấy là một nghi phạm của một vụ giết người, có tiếp tay một cách vô tình cho bọn sát nhân. Các vị đã hiểu chưa?

Điều này rất buồn cười và chứng tỏ nhận thức các vị rất thấp kém.

Hôm nay tôi dạy các vị từ Đúng Mực, một từ tưởng là tầm thường nhưng lại rất hay, các vị nên học nếu còn một chút khoảng trống trong bộ não 286 của mình.

Ngày mai, anh Ba Sàm được thả. Các vị huy động lực lượng ngăn chặn những người hoạt động dân chủ, bạn bè của anh Ba Sàm từ hôm nay. Đấy là các vị đang làm một việc ngu xuẩn, rất nực cười.

Cứ cho là anh Ba Sàm có tội như các vị kết án thì khi người ta chịu án xong, bước ra khỏi nhà tù thì phải được đón như một công dân bình thường chứ.

Nhưng không, cái đầu ngu xuẩn và nhỏ nhen của các vị đã không thể nào vận động được theo lẽ thông thường. Các vị lại ngăn chặn người đi đón một cách vô ích.

Không đón ngày mai thì người ta đón ngày kia, ngày kìa, tuần sau, tháng sau, sao cứ lồng lên như một lũ điên vì một việc bé bằng cái móng tay vậy?

Cơm nào, lương nào, thuế nào của dân để dành cho việc ấy và làm việc ấy để làm gì?

Đúng Mực, Đúng Mực đi nào! Nhưng tôi hiểu là mấy lời thẳng thắn này chỉ như nước đổ đầu vịt với những cái đầu quên tiến hoá mà thôi.
Giờ là năm 2019, hãy học cách ứng xử sao cho văn minh. Đừng để người hiểu biết khinh quá

CHỈ CÓ 2 ĐIỀU THÔI

CHỈ CÓ 2 ĐIỀU THÔI

 + Có 2 thứ bạn nên tiết kiệm, đó là sức khỏe và lời hứa.
+ Có 2 thứ bạn phải cho đi, đó là tri thức và lòng tốt.
+ Có 2 thứ bạn phải thay đổi, đó là bản thân và nhận thức.
+ Có 2 thứ bạn phải giữ gìn, đó là niềm tin và nhân cách.
+ Có 2 thứ bạn phải trân trọng, đó là gia đình và hiện tại.
+ Có 2 thứ bạn phải tự mình thực hiện, đó là lao động và chịu trách nhiệm với việc mình làm.
+ Có 2 thứ bạn phải lãng quên, đó là đau thương và hận thù.
+ Có 2 thứ bạn phải khắc ghi, là công ơn Mẹ Cha và sự giúp đỡ của người khác.
+ Có 2 thứ bạn buộc phải có để là người thành công, đó là đam mê và lòng kiên trì.

 + Có 2 thứ bạn không được làm, đó là hãm hại người khác và phản bội lòng tin.
+ Có 2 thứ bạn phải bảo vệ, đó là danh tín và lẽ phải.
+ Có 2 thứ bạn phải chấp nhận, là cái chết và sự khác biệt.
+ Có 2 thứ bạn phải kiểm soát, đó là bản năng và cảm xúc.
+ Có 2 thứ bạn phải tránh xa, đó là cám dỗ và sự ích kỷ.
+ Có 2 thứ bạn luôn phải xử dụng mà đừng hà tiện, là tiền bạc và kinh nghiệm.
+ Có 2 thứ bạn không được sợ sệt, là cái ác và sống thật.
+ Có 2 thứ bạn phải nuôi dưỡng, là tình yêu và sự bao dung.
+ Có 2 thứ mà bạn cần phải đạt được trong cuộc sống, đó là thành đạt và hạnh phúc.
+ Có 2 thứ bạn phải luôn sẵn sàng, đó là khó khăn và ngày mai.
+ Có 2 thứ bạn phải luôn ghi nhớ, đó là thực hiện những điều trên và làm thật tốt chúng trong cuộc sống hàng ngày.

Sưu Tầm

From: luong bui & Kim Bang Nguyen

30/4: Một góc nhìn về ngày chấm dứt Cuộc chiến VN

30/4: Một góc nhìn về ngày chấm dứt Cuộc chiến VN

  • 30 tháng 4 2019
Lạc Dương
Bản quyền hình ảnhMARIE MATHELIN
Đền Bạch Mã, Lạc Dương. Thành phố này từng là kinh đô nhà Tấn và một số triều đại khác của Trung Quốc

Những người chiến thắng đã gọi sự kiện 30/4/1975 là ngày thống nhất đất nước.

Tạm bằng lòng với khái niệm “thống nhất” ấy nhưng không thể không thấy rằng đó là cái giá quá đắt cho việc thống nhất quốc gia.

Bài học Tư Mã Viêm

Dù yêu hay ghét Trung Hoa, phần lớn trí thức Việt thời nào cũng đã đọc tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa. Trong đó, cả thế kỷ ly loạn của dân tộc Trung Hoa đã chấm dứt vào năm 280, khi quân Tấn “giải phóng” Đông Ngô, thống nhất đất nước (nói theo chữ của nhà nước đương thời).

Nội dung chính của bài viết này nói về những cảnh xảy ra ngay sau bối cảnh tác phẩm của nhà văn La Quán Trung.

Sau 30/4/75 từng có hai nước VN xin vào LHQ

Sài Gòn chỉ là một trong bốn cuộc di tản lớn

Trước khi chết, Tư Mã Ý dặn dò con cháu phải biết lấy lòng người để được thiên hạ. Có lẽ vì thế mà sau khi thắng Thục rồi diệt Ngô, những nhà lãnh đạo họ Tư Mã nhìn chung đã đối xử rất tử tế với những người thua trận.

Dù ban đầu có những sự không bằng lòng nhất định, nhưng về sau nhà Tấn đã nhận được sự quy phục từ đông đảo nhân dân và các quý tộc cũ của Thục -Ngô.

Sau thống nhất, triều đình nhà Tấn không trả thù những người thua trận, tạo điều kiện ổn định đời sống nhân dân.

Không có tù cải tạo, cũng không có cảnh ồ ạt người vượt biên hay trốn tránh sự truy lùng của họ Tư Mã. Cộng với việc có công thống nhất, nhà Tấn đã giành được lòng người, họ vẫn luôn được nhân dân che chở và ủng hộ sau này khi đã thất thế.

Dẫn tới việc nhà Tấn tồn tại trên danh nghĩa đến hơn 150 năm, dù thực tế triều đại này chỉ “sống khỏe” trong không tới ba thập kỷ đầu.

Cái giá cho việc họ Tư Mã thống nhất đất nước quá đắt bởi không lâu sau khi “hoàn thành đại nghiệp”, Tấn Vũ đế mắc sai lầm quan trọng nhất trong việc chọn người kế vị (chưa kể lối sống xa hoa trong triều), dẫn tới hàng loạt tai họa giáng xuống triều đình và dân chúng sau khi ông qua đời.

Hai mươi năm sau khi thống nhất, Trung Hoa bước vào cuộc nội chiến (Loạn bát vương) khiến mấy chục vạn người mất mạng. Đất nước suy kiệt, cuối cùng bị ngoại tộc thôn tính.

Khi quân Hán Triệu chiếm được Lạc Dương vào năm 310, tàn sát quân dân nhà Tấn cũng vừa đúng chẵn 30 năm sau khi Tư Mã Viêm “giành trọn vẹn non sông”.

Tàu Mỹ
Bản quyền hình ảnhDIRCK HALSTEAD
Người tỵ nạn Nam VN đi thuyền ra tàu Mỹ những giờ cuối của cuộc chiến VN

Nếu còn cục diện Tam Quốc, hẳn dân tộc Trung Hoa đã không phải chịu một trang sử đen tối khi hai vị vua Tấn bị nhà Hán Triệu làm nhục (Tấn Hoài đế và Tấn Mẫn đế bị bắt làm nô bộc, rồi giết chết).

Nếu được chọn lại, người Hoa sẽ chọn thống nhất để lại loạn lạc và mất nước vào tay ngoại bang, hay chọn giữ nguyên cục diện thế chân vạc thời Tam Quốc?

Thống nhất, nỗi ám ảnh của người Á Đông

Trận Mậu Thân ở Sài Gòn qua lời đại tá dù VNCH

Việt Nam, Trung Quốc và kể cả Triều Tiên đều đã có nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử chịu cảnh chia cắt.

Theo thời gian, những nhà cầm quyền luôn tìm cách tận dụng tối đa nhu cầu thống nhất để khích lệ, thậm chí kích động dân chúng hăng say sản xuất và chiến đấu, phục vụ quyền lợi của giai cấp thống trị.

Cũng vì lẽ đó, rất nhiều trong đông đảo nhân dân cũng dần bị ám ảnh bởi viễn cảnh thống nhất. Thậm chí thống nhất bằng mọi giá, bất chấp thiệt hại về sinh mạng, về kinh tế và gây ra những ảnh hưởng lâu dài tới đà thăng tiến của cả dân tộc.

Vì lẽ đó, biến cố tháng 4/1975 đã được người dân miền Bắc đón chào nhiệt liệt, họ đã được tuyên truyền một cách tinh vi trong thời gian rất dài về sứ mệnh vĩ đại đi “giải phóng”, tính chính nghĩa của đội quân đi “thống nhất đất nước”.

Tôi, một người lớn lên ở miền Bắc sau 1975 từng băn khoăn việc vì sao quân đội và chính quyền VNCH không đi giải phóng miền Bắc.

Và đã đi tìm câu trả lời trong nhiều năm mà không có bất kỳ ai hướng dẫn, cho tới khi đọc đủ nhiều sách để tìm ra đáp án.

"Rescued from Saigon"
Bản quyền hình ảnhJACQUES PAVLOVSKY
Bé gái Barbara trong tay một nữ tu Việt Nam. Ảnh chụp ngày 14/04/1975 ở Sài Gòn. Em bé sau được người Mỹ, Gerard Constant (trái), cùng vợ nhận làm con nuôi trong câu chuyện “Rescued from Saigon”.

Nó có thể đúng hoặc không đúng tùy vào quan điểm và tầm hiểu biết mỗi người, nhưng ít nhất cũng cho thấy không phải phía Quốc Gia không có ý định Bắc tiến.

Nước Đức không tốn máu xương, không có chiếc xe tăng nào húc đổ bức tường Berlin, giải phóng miền Tây, thống nhất đất nước. Họ đã chọn đúng thời cơ (Liên Xô tan rã) để thống nhất trong hòa bình. Đôi miền Triều Tiên vẫn còn chia cắt chưa biết tới bao giờ.

Nhưng người dân nhiều nước như Tiệp Khắc, Nam Tư đã chấp nhận sự chia cắt, quốc gia cũ của họ tan ra làm những nước khác nhau. Khi người ta không thể sống chung, tốt hơn hết hãy tách ra.

Nỗi đau khổ hậu thống nhất

Trong cuốn hồi ký Đôi Dòng Ghi Nhớ, đại tá Phạm Bá Hoa từng nói về sự hiểu lầm của thế giới tự do với phe cộng sản.

Đại thể phía tự do hiểu hòa bình là hết chiến tranh, thì khái niệm hòa bình với người cộng sản là khi họ đã thôn tính tất cả đất đai, đè bẹp sức kháng cự của những kẻ chống lại họ.

Cũng trong cùng tác phẩm, tác giả đã nói đến những đau khổ của đất nước sau khi thống nhất, mà chỉ khi rơi vào tay địch, ông mới biết thực tế thế nào là cộng sản.

Những cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các vương tôn họ Tư Mã thời hậu Tam Quốc, cũng như sự xa xỉ của triều đình trung ương (điển hình vụ viên quan Thạch Sùng khoe mẽ của cải đã trở thành chuyện ngụ ngôn truyền đời) đã khiến nhân dân thời Tấn vô cùng khốn khổ, mà giới sử gia đánh giá mức độ tàn khốc của cuộc nội chiến còn lớn hơn nhiều so với thời Ngụy – Thục – Ngô tranh hùng.

Và hãy nhìn lại những nhà lãnh đạo Việt Nam từ sau 1975 đến nay, ngoài vấn đề cách ứng xử với người đồng bào thua trận, họ có điểm gì khác và giống so với họ Tư Mã thời Tây Tấn?

Không thể phủ nhận rằng, nhà nước đã có những nỗ lực nhất định trong việc ổn định tình hình, nâng cao đời sống nhân dân (mà chính họ đã kéo tụt xuống ngay sau biến cố 1975).

Nhưng vì sao ngay trong lúc truyền thông nhà nước ca ngợi những “thành tựu” về giáo dục và y tế, thì chính lãnh đạo và con cái họ lại bỏ ra nước ngoài du học và chữa bệnh?

Còn ở bên ngoài, biển đảo và đất liền cứ bị ngoại bang đe dọa từng ngày? Và ở những miền quê, người ta nỗ lực hết mình để được xuất khẩu lao động, xuất khẩu cô dâu để sang những nơi còn chưa thống nhất (bị Mỹ đô hộ?) như Đài Loan, Nam Hàn?

Cái giá của sự thống nhất, xin nhắc lại, thống nhất về lãnh thổ ấy quá đắt với nhân dân nhà Tây Tấn thời hậu Tam Quốc và với nhân dân Việt Nam 17 thế kỷ sau.

 Người Việt Nam trên mạng xã hội nói về “ngày giải phóng”

 Người Việt Nam trên mạng xã hội nói về “ngày giải phóng”

Những căn nhà đổ nát vì pháo kích của Việt Cộng vào Sài Gòn trong ngày 30 Tháng Tư 1975. (Hình: Getty Images)

VIỆT NAM, (NV) – Sau 44 năm kể từ khi Sài Gòn thất thủ, quân đội Bắc Việt chiếm toàn miền Nam Việt Nam, rất nhiều người trên mạng xã hội đã bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc về ngày 30 Tháng Tư. Những câu được nhìn thấy nhiều nhất là: “Ngày 30 Tháng Tư, ăn mừng vì điều gì?”

Facebook Đinh Bá Truyền viết trên trang cá nhân: “30 Tháng Tư, 1975, một toán cộng quân tiến chiếm Dinh Độc Lập. Lính tráng rửa ráy ở bồn phun nước trước Dinh. Riêng tay chính ủy bước vào phòng tắm, mở trúng cái vòi nước nóng, phỏng cả người. Y hét lên: “Tiên sư đế quốc Mỹ, rút đi rồi còn cài nước sôi ám hại ông!”

Facebook Đỗ AnhDo chia sẻ:“Chúng ta cùng ôn lại lịch sử 30 Tháng Tư, 1975. Sự đau thương không bao giờ quên.”

Trịnh Bá Tư, một người trẻ sinh ra và lớn lên sau “ngày giải phóng” đăng tải bài thơ của “nhà thơ điên” Bùi Giáng, “Đánh cho Mỹ chút Ngụy nhào” trong đó có đoạn: “… Đánh cho cả nước Việt Nam, Áo ôm khố rách xếp hàng xin cho. Đánh cho hết muốn tự do, Hết mơ dân chủ hết lo quyền người…”

Một Facebooker khác có tên Thienthanh viết: “Ngày 30 Tháng Tư, 1975, ngày tri ân đến những người chiến sĩ anh hùng Việt Nam Cộng Hoà vị quốc vong thân. Ngày tưởng nhớ đến những người Việt Nam đã ra đi tìm đường Tự Do, đã yên nghỉ trong lòng Đại Dương. Và không quên những người dân Việt Nam còn đang sống trong địa ngục của cộng sản Việt Nam. Một ngày tang thương cho toàn dân tộc Việt Nam.”

Nguyễn Phương, cũng là một người trẻ sinh sau năm 1975, hiện đang sống và làm việc ở Nhật đã đăng tải 2 hình ảnh: “Sài Gòn 1969 và TPHCM 1976” cùng với lời bình luận: “Thằng đi bộ, xe độp tiến vào nam “giải phóng” thèng đi xe oto!”

Blogger Lê Nguyễn Hương Trà đưa lên trang cá nhân một video có tên “Sài Gòn xưa.” Video này nhanh chóng nhận được nhiều lượt xem và chia sẻ. Có những người sau khi xem xong để lại những dòng chữ như: “Đẹp và thanh lịch, có một Sài Gòn như thế. Có người viết rằng: Sài Gòn trước ngày bị cướp.”

Nhà văn Nguyễn Đông Thức, con trai nhà văn Bà Tùng Long, từ Sài Gòn, chia sẻ bài viết dài trên trang cá nhân:

 “Tôi rất sợ ngày 30-4. Đã có một thời gian dài, cứ đến ngày này là người tôi lại bị tan rã nhão nhoẹt như một vũng bùn nhớp nhúa chảy dài trên giường. Tôi chỉ nằm vậy thôi.

Rồi mọi cảm giác lâu dần cũng trở thành chai sượng.

Mấy năm nay tôi thường dùng ngày này để đóng cửa nằm nhà. Làm việc, đọc sách, nghe nhạc… Không cho phép mình buồn. Và thậm chí không dám chạm đến Facebook, nơi tôi biết cứ mỗi dịp như thế này là lại sôi sục một không khí “từ bao lâu ta nuốt căm hờn”, cạnh đó là niềm vui chiến thắng ăn chơi nhảy múa. Cùng với sự xuống cấp ngày càng tệ hại của xã hội, có vẻ như “bên thắng cuộc” bắt đầu thấy sượng hơn nên kín đáo hơn trong sự ăn mừng của mình, còn “bên thua cuộc” càng thấm thía nỗi đau khi đối chiếu lại giá trị của những gì đã bị mất.

Luôn cố gắng để có thể là một nhà chuyên nghiệp trong mọi việc, tôi quyết định coi như không còn ngày 30-4 trong tâm trí mình nữa. Không còn ai thắng thua, không còn hoà hợp hoà giải (vì có bên nào muốn đâu!), không còn hy vọng và tuyệt vọng. Tập trung làm việc để khỏi nghĩ tới nó.”

Đặc biệt, Facebook Trương Thị Hà, thế hệ 9X sinh ra và lớn lên ở miền Bắc viết trên trang cá nhân: “30/04 – Ngày quốc tang.”

“Đối với tôi, ngày 30/4 hôm nay và về sau là ngày đáng thương cho đất nước Việt Nam và toàn thể người dân Việt Nam trước và sau năm 1975. Giải phóng gì mà 444,000 thanh niên miền Bắc và 282,000 thanh niên miền Nam phải bỏ mạng. Giải phóng gì mà 2 triệu người dân Việt Nam vô tội phải chết trong lửa khói. Giải phóng gì mà 1 triệu lính miền Nam phải bỏ tù cải tạo, trong đó có 165,000 lính miền Nam chết trong trại cải tạo. Giải phóng gì mà 1.5 triệu con dân miền Nam phải tha phương nơi đất khách quê người để trốn chế độ cộng sản, trong đó có 300,000 người sẽ mãi mãi không bao giờ nhìn thấy bến bờ tự do. Giải phóng gì khi ngày nay 97 triệu người dân Việt Nam bị tước những quyền cơ bản như quyền biểu tình, quyền lập hội. Thống nhất gì khi lòng dân không yên, vẫn còn phân biệt, đối xử vùng miền giữa thành thị và nông thôn, kẻ có tiền và quan hệ luôn đè đầu, cưỡi cổ kẻ nghèo hèn.”

Còn rất nhiều hình ảnh, bình luận, chia sẻ khác được bày tỏ trên mạng xã hội trong vài ngày qua. Tất cả đều cho thấy một tâm trạng tiếc nuối, hoài vọng, đau xót về một Sài Gòn chỉ còn trong ký ức. (C.Lynh)

From: TU-PHUNG

Người Việt Nam trên mạng xã hội nói về “ngày giải phóng”

ĐỨC MẸ CỦA KINH THÁNH VÀ ĐỨC MẸ CỦA LÒNG SÙNG KÍNH

ĐỨC MẸ CỦA KINH THÁNH VÀ ĐỨC MẸ CỦA LÒNG SÙNG KÍNH

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

Có nhiều người tin rằng: Người Công giáo La Mã có khuynh hướng sùng bái Đức Mẹ, còn người Tin Lành và phái Phúc âm thì có khuynh hướng bài trừ Đức Mẹ.  Cả hai đều không chuẩn lắm.

Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, có hai tuyến lịch sử trong truyền thống Kitô giáo.  Chúng ta có Đức Mẹ trong Kinh thánh, và Đức Mẹ của lòng sùng kính, và cả hai đều góp những phần đặc biệt cho hành trình Kitô hữu của chúng ta.

Đức Mẹ của lòng sùng kính thì được biết đến nhiều hơn, chủ yếu là trong Công giáo La Mã.  Đây là hình ảnh Đức Mẹ trong chuỗi mân côi, Đức Mẹ của các đền thánh nổi tiếng, Đức Mẹ Sầu bi trong các kinh, Đức Mẹ dịu dàng chuyển cầu cho chúng ta đến với Chúa, Đức Mẹ tinh tuyền và trinh khiết, Đức Mẹ hiểu nỗi đau của con người, Đức Mẹ làm kẻ sát nhân phải mềm lòng, và Đức Mẹ mà chúng ta luôn có thể chạy đến kêu cầu.

Và Đức Mẹ này, trên hết là Mẹ của người nghèo.  Karl Rahner từng chỉ ra rằng khi nhìn vào mọi lần Đức Mẹ hiện ra mà đã được Giáo hội công nhận, bạn sẽ để ý thấy rằng mẹ luôn hiện ra với người nghèo, một đứa bé, một nông dân, một nhóm trẻ em, một người không có địa vị xã hội.  Đức Mẹ không bao giờ hiện ra với một thần học gia đang nghiên cứu, một giáo hoàng, hay một triệu phú.  Mẹ luôn là người mà người nghèo hướng về.  Lòng sùng kính Đức Mẹ chính là thần nghiệm của người nghèo.

Ví dụ như, chúng ta thấy rất rõ điều này trong tác động của Đức Mẹ Guadalupe lên Châu Mỹ La tinh.  Trong toàn châu Mỹ, hầu hết các thổ dân đều là Kitô hữu.  Tuy nhiên, ở Bắc Mỹ, nơi hầu hết thổ dân là Kitô hữu, Kitô giáo lại không phải là một tôn giáo bản địa, mà là một tôn giáo du nhập từ nơi khác đến.  Còn ở Châu Mỹ La tinh, khắp nơi mà giáo dân sùng kính Đức Mẹ Guadalupe, thì Kitô giáo được xem là một tôn giáo bản địa.

Nhưng lòng sốt sắng và sùng kính cũng có nguy cơ trật đường về mặt thần học và gây nên sự ủy mị không lành mạnh.  Đây cũng là vấn đề trong hình ảnh Đức Mẹ của lòng sùng kính.  Chúng ta có khuynh hướng nâng Đức Mẹ lên hàng thần thánh (mà thế là sai) và chúng ta quá thường sùng kính Mẹ đến nỗi trong tâm thức của chúng ta, một Đức Mẹ của lòng sùng kính không thể nào là một người khiêm hạ đã hát lên bài Magnificat.  Đức Mẹ của lòng sùng kính quá thường bị tôn vinh với sự sốt sắng, đơn giản hóa thái quá, và phi tính dục như thể cần bảo vệ Mẹ khỏi những phức tạp của thân phận con người.  Nhưng Đức Mẹ của lòng sùng kính vẫn cho chúng ta đối diện rõ ràng hành trình tâm linh của mình.

Còn Đức Mẹ của Kinh thánh và vai trò mà các Tin Mừng khác nhau đã nói đến về Mẹ, thì bị làm ngơ hơn nhiều.

Trong Tin mừng Nhất lãm, Đức Mẹ được thể hiện như hình mẫu người môn đệ.  Nói đơn giản hơn, Mẹ là một con người chuẩn mực ngay từ đầu.  Nhưng chúng ta lại không nhận ra như thế ngay lập tức.  Nhìn bề ngoài, đôi khi chúng ta lại thấy ngược lại.  Ví dụ như, trong nhiều dịp Đức Giêsu nói chuyện với đám đông, có người cắt lời và báo rằng mẹ và người thân của Ngài đang chờ bên ngoài và muốn nói chuyện với Ngài.  Và Chúa Giêsu trả lời: “Ai là mẹ Ta và ai là anh chị em của Ta?  Là người nghe lời Chúa và tuân giữ.”  Khi nói thế, Chúa Giêsu không có thái độ xa cách với mẹ mình, mà ngược lại thì đúng hơn.  Trong các Tin mừng, trước chuyện này, các thánh sử đã rất cẩn thận chỉ ra rằng Đức Mẹ là người đầu tiên nghe lời Chúa và tuân giữ.  Và như thế, chính Chúa Giêsu nêu bật mẹ mình trên hết là vì đức tin của Mẹ, chứ không phải vì huyết thống.  Trong Tin mừng Nhất lãm, Đức Mẹ là hình mẫu cho tinh thần môn đệ.  Mẹ là người đầu tiên nghe lời Chúa và tuân giữ.

Tin mừng theo thánh Gioan còn cho Mẹ một vai trò khác.  Mẹ không phải là hình mẫu cho tinh thần môn đệ (một vai trò mà thánh Gioan trao cho người môn đệ Chúa thương và Maria Magdalena) nhưng được xem là Evà, mẹ của nhân loại, và là mẹ của mỗi người chúng ta.  Thú vị là, thánh Gioan chưa từng nói ra tên của Đức Mẹ, ngài luôn luôn nói là “Mẹ của Chúa Giêsu.”  Và với vai trò này, Đức Mẹ làm hai điều:

Thứ nhất, Mẹ là tiếng nói cho sự hữu hạn của con người, như khi Mẹ lên tiếng trong tiệc cưới Cana “họ hết rượu rồi.”  Trong Tin mừng theo thánh Gioan, đây không chỉ là cuộc nói chuyện giữa Đức Mẹ và Chúa Giêsu, nhưng còn là cuộc nói chuyện giữa Mẹ Nhân loại và Thiên Chúa.  Thứ hai, là Evà, Mẹ toàn thể và Mẹ chúng ta, Đức Mẹ cũng bất lực trong và trước nỗi đau của con người khi Mẹ đứng dưới chân thập giá.  Trong biến cố này, Mẹ cho chúng ta thấy mình là Mẹ của toàn thể, nhưng cũng là một gương mẫu về cách đương đầu với sự bất công, cụ thể là đứng trong sự bất công đó mà không nhân đôi hận thù và bạo lực đó nhưng đáp lại bằng yêu thương.

Đức Mẹ đã cho chúng ta một gương mẫu tuyệt vời, một gương mẫu không phải để chúng ta tôn sùng hay làm ngơ, nhưng là để sống.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

30.04.1975: Ngày mất nuớc? Phải làm gì?

30.04.1975: Ngày mất nuớc? Phải làm gì?

Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi

Andy

season camera GIF

I/ Nổi đau nào lớn hơn nổi đau mất nước ?

Đại thi hào Hy Lạp Eupirides trong vở kịch Medea đã có câu nói bất hủ:  “Không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất nước” (xem Nguồn 1 phía dưới).

Không phải tình cờ mà Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn tại Úc đã khắc ghi điều này cho hậu thế biết trên một Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân tại đó.

Đúng vậy: 30.04.1975 là ngày mất nước và là ngày đau buồn nhất cho dân tộc Việt Nam. Sau 44 năm, nếu mổi người Việt nhìn trở lại thì ai cũng thấy rỏ nổi đau này. Gia đình nào cũng tan nát phân tán khắp nơi. Đúng là: “Nước mất nhà tan”. Cũng như còn nổi nhục nào cái nhục này, khi biết được nhan nhản trên báo chí Trung Cộng đăng lời rao bán đàn bà, con gái Việt Nam:

“Mua một cô vợ Việt Nam giá 6,000 USD

– Bảo đảm còn trinh;

– Bảo đảm giao hàng trong vòng 90 ngày;

– Không phụ phí;

– Nếu cô ta trốn đi trong vòng 1 năm, được 1 cô khác miễn phí”.

Sự thực hiển nhiên cho thấy dân tộc Việt Nam trải qua nổi nhục nhằn đó từ khi thế lực cộng sản thống trị trên đất nước và sẽ là cơ hội dể dàng để Trung Cộng đặt ách đô hộ. Sau mật ước Thành Đô 1990, VN chúng ta lần lượt mất vô số lãnh thổ vào tay Trung Cộng. Điển hình như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc … bị cướp đi và Trung Cộng cho di dân ào ạt qua VN mua đất đai để tính kế lâu dài. Đó đúng là “Đại Hoạ Mất Nước” sắp tới nơi rồi (xem Nguồn 2)

II/ Kinh nghiệm thắng được Cộng sản tại Ba Lan & Đông Âu

Muốn thoát khỏi đại họa mất nước gần kề, mổi người dân Việt phải sáng suốt coi công cuộc tranh đấu là quan trọng nhứt với tinh thần “Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”và sẳn sàng học hỏi kinh nghệm thành công từ các quốc gia đã từng thoát được ách cộng sản.

Chẳng hạn như Đông Âu, mà điển hình là trường hợp Ba Lan đã thành công rực rỡ nhờ:

1) Ở quốc nội dân chúng Ba Lan sáng suốt tranh đấu ôn hoà dưới sự hướng dẫn của lãnh tụ Walesa / Công Đoàn Liên Đới (Solidarity) không tạo ra tình thế bạo động cực đoan khiến bị đàn áp đẫm máu như đã xảy ra tại Đông Bá Linh (1953), Hung Gia Lợi Budapest (1956), Tiệp Khắc Prague (1968) … dẫn đến thất bại làm mất tiềm lực tranh đấu cả hàng chục năm sau..

2) Tại quốc ngoại, Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan vận động yểm trợ quốc nội trên mọi lãnh vực như:

  1. a) quyên tiền gửi cho tổ chức tại quốc nội để có phương tiện nuôi dưỡng tranh đấu.
  1. b) thông tin cho quốc tế biết về công cuộc tranh đấu tại Ba Lan để phá tan tuyên truyền láo lếu (fake news) của hệ thống tuyên truyền cộng sản & thiên tả.
  1. c) phát triển & đoàn kết lại giữa các Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan ở các cường quốc Tây Phương.

3) Quan trọng và quyết định nhứt là tìm kiếm sự yểm trợ hữu hiệu của quốc tế. Đặc biệt là của siêu cường Hoa Kỳ, vì thực tế cho thấy chỉ quốc gia này mới đủ sức và dám đương đầu Cộng sản Liên Sô. Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan tại Mỹ đã sáng suốt biết đầu tư trong cuộc bầu cử Tổng Thống Mỹ vào năm 1980 qua sự ủng hộ Liên Danh TT Reagan & PTT Bush để được thắng cử và nhờ đó sau này TT Reagan mới có cơ hội thực hiện chánh sách “đánh & diệt” Cộng sản  Liên Xô.

Đây là nước cờ tối quan trọng đã khiến Liên Sô sụp đỗ vào đầu năm 1991 và đã khiến tự động mấy chục nước Cộng sản Đông Âu đều thoát ách độc tài, mà chả cần phải vô cùng gian khổ tranh đấu như mấy chục năm trước đó.

Cộng đồng Tỵ nạn Ba Lan đã can đàm dứt khoát dám chọn ủng hộ một ứng cử viên Tổng Thống ngang tàng kiểu “cao bồi Texas” như ông Reagan.

 

Điều này rõ ràng qua sự kiện TT Reagan đã dám tới ngay Bức Tường Ô Nhục Bá Linh (Berlin) thách thức cấp lãnh đạo cộng sản Liên Sô phải phá bỏ bức tường này vào ngày 12/0671987 (xem Nguồn 3 & Nguồn 4).

 

Kết quả thực đúng như lời kêu gọi ngang tàng này, Bức Tường Ô Nhục Bá Linh – sau đó 2 năm – đã bị “sụp đỗ” vào ngày 09/11/1989 (xem Nguồn 5).

III/ Phải làm gì?

Nhìn kỹ lại: Hiện nay tình hình biến chuyển có chiều hướng thuận lợi tương tự như thời kỳ chánh phủ Reagan (1981 – 1989) với chánh phủ Mỹ có chủ trương “đánh & trị Trung Cộng”. Nếu hòn đá tảng Trung Cộng để dựa vào không còn nữa – như Liên Sô – thì VN chúng ta không còn lo “đại họa mất nước” và chắc chắn tự động thoát khỏi ách cộng sản như đã xảy ra tại Đông Âu.

Qua bài học Ba Lan, mỗi người dân VN chúng ta ở trong và ngoài nước ai cũng đều có thể làm được tương tự như vậy tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng mồi cá nhân.

Quan trọng nhứt là đồng bào VN với tư cách cử tri tại Mỹ tích cực thuyết phục gia đình và bạn bè quen biết ủng hộ một chánh phủ với một chính đảng cầm quyền xứng đáng có chánh sách phù hợp sự sinh tồn dân tộc VN chúng ta. Thực vậy chúng ta cần một chánh phủ Mỹ cầm quyền lâu dài như thời kỳ Reagan & Bush để đủ sức mạnh gây áp lực ngăn chặn được mưu đồ Trung Cộng toan chiếm Biển Đông và uy hiếp các quốc gia láng giềng.

Rất có thể nhờ vậy cuộc khủng hoảng kinh tế của Trung Cộng sẽ còn tiếp tục kéo dài và dẫn đến sụp đỗ toàn diện như đã xảy ra cho Liên Sô vào năm 1991. Lúc đó VN chúng ta có quyền hãnh diện và không còn buồn tủi khi mổi năm tháng tư ló dạng.

Mong sẽ được như vậy!

Trần Nguyên / Người Xứ Bưởi

Nguồn 1: Vở kịch nổi tiếng Medea đã có câu nói bất hủ:  “Không có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất nước”

https://en.m.wikipedia.org/wiki/Medea_(play)

Nguồn 2: Phim tài liệu “Đại Hoạ Mất Nước”

Nguồn 3: “Mr. Gorbachev, Tear Down This Wall!”: Reagan’s Berlin Speech

https://www.britannica.com/story/mr-gorbachev-tear-down-this-wall-reagans-berlin-speech

Nguồn 4: “Berlin Wall” Speech – President Reagan’s Address at the Brandenburg Gate – 6/12/87

YouTube player

Nguồn 5: Bức Tường Ô Nhục Bá Linh đã bị “sụp đỗ” vào ngày 09/11/1989

https://en.wikipedia.org/wiki/Berlin_Wall