Vì đâu nhân tài trong nước bỏ chạy, hải ngoại không về?!

Ảnh của nguyenvandai

Cộng đồng người Việt hải ngoại với trên 4 triệu người, phần lớn đều sinh sống ở những quốc gia dân chủ văn minh. Và hầu hết đều được đào tạo với trình độ học vấn rất cao, họ đã và đang đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự phát triển thịnh vượng của quốc gia mà họ đang cư trú.


Từ hàng chục năm qua, nhà cầm quyền cộng sản luôn tuyên truyền chính sách trải thảm đỏ thu hút nhân tài từ hải ngoại về phục đất nước.

Nguyễn Xuân Phúc đã từng đưa ra thông điệp “chọn người tài chứ không chọn người nhà”. Và gần đây ông Nguyễn Xuân Phúc lại khẳng định rằng: “Không có nhân tài thì không thể phát triển đất nước. Nhưng có nhân tài rồi mà không trọng dụng thì càng khiến đất nước suy yếu”.

Ông Phúc còn nhấn mạnh, đảng và Nhà nước luôn coi trọng đội ngũ trí thức, nhân tài; luôn mong muốn phát huy tốt nhất tiềm năng của đội ngũ tri thức trong và ngoài nước để trở thành nguồn lực, sức mạnh cho phát triển đất nước, nâng cao hơn nữa vị thế quốc gia. 

Nhưng vấn đề vì sao mà nhân tài trong nước thì bỏ chạy, còn nhân tài hải ngoại thì không chịu về nước?

Thứ nhất là ý thức hệ chính trị và môi trường làm việc.

Những nhân tài người Việt ở hải ngoại sinh trưởng và học tập trong môi trường chính trị tự do, tôn trọng giá trị và phẩm giá của con người. Họ có phong cách làm chuyên nghiệp, cạnh tranh lành mạnh.

Kể cả những nhân tài từ trong nước nhưng được giáo dục và học tập ở nước ngoài thì họ cũng hấp thụ nền chính trị, giáo dục tự do và nhân bản, cộng với phong cách làm việc chuyên nghiệp,…

Trong khi đó đội ngũ các bộ, quan chức cộng sản trong nước được sinh trưởng và học tập môi trường chính trị không có tự do, bị nhồi sọ. Vấn nạn chạy điểm, bằng cấp bị nhiễm ngay từ bậc học phổ thông cho đến trình độ tiến sĩ. Khi làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp thì tính kèn cựa, chơi xấu, nịnh bợ lẫn nhau được phát huy cao độ. Làm cho những người muốn sống đúng với chính mình rất khó tồn tại và phát triển.

Bởi vậy những người tài không thể làm việc chung và trong một môi trường như vậy.

Thứ hai là vấn đề xung đột vì lợi ích.

Những nhân tài khi làm việc sẽ thẳng thắn, cống hiến với lương tâm và trách nhiệm của họ. Họ được đãi ngộ, nên có thu nhập cao và đảm cuộc sống khá giả mà không cần biển thủ, và họ ghét nạn phong bì, phong bao vẫn đang tồn tại mọi nơi, mọi chỗ trong môi trường làm việc của chế độ cộng sản. Đương nhiên làm ảnh hưởng tới lợi ích của tầng lớp cán bộ, quan chức quen với với nạn ăn tiền từ tham ô, hối lộ.

Xung đột về lợi ích khiến cho đội ngũ các bộ, quan chức trong nước ngầm không hợp tác và phá hoại công việc của các nhân tài. Khiến cho công việc của các nhân tài không phát huy hiệu quả, làm cho họ chán nản và cuối cùng phải bỏ chạy.

Với hai lý do chính nêu trên và còn nhiều lý do khác nữa mà khiến cho nhân tài trong nước thì bỏ chạy, còn nhân tài từ hải ngoại không chịu về.

Làm thế nào để Việt Nam thu hút được nhân tài ngay trong nước và thu hút từ hải ngoại?

Các nguyên nhân khiến nhân tài trong nước bỏ chạy và nhân tài hải ngoại không chịu về đó đều xuất phát từ thể chế, tức là chế độ chính trị không có tự do dân chủ.

Một quốc gia từ nghèo đói muốn trở thành một quốc giàu có , văn minh thì trước hết phải có chế độ chính trị tự do, dân chủ. Nền chính trị tự do, dân chủ sẽ làm điểm tựa, bệ phóng cho quốc gia phát triển thịnh vượng, hùng cường.

Tôi gặp rất nhiều nhân tài ở hải ngoại, họ tâm sự họ sẵn sàng từ bỏ nơi đang làm việc với mức lương và đãi ngộ cao để trở về phục vụ đất nước và Nhân dân với mức lương thấp ở Việt Nam. Nhưng điều đó chỉ xảy ra khi Việt Nam có tự do dân chủ.

Nhiều nhân tài bỏ Việt Nam ra nước ngoài không phải vì lương và thu nhập cao. Mà vì họ không thể làm việc trong một môi trường, bầu không khí chính trị mất tự do dân chủ. Họ cũng sẵn sàng trở lại Việt Nam khi có tự do dân chủ.

Vậy thứ mà người tài cần nhất là môi trường làm việc, môi trường chính trị tự do dân chủ để phát huy hết khả năng, tạo dựng sự nghiệp, danh tiếng cho bản thân chứ không phải vì tiền. Và đó điều mà chế độ cộng sản Việt Nam không thể đáp ứng được.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đoạn Kết Của Cuộc Cách Mạng Bung Đồng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Đoạn Kết Của Cuộc Cách Mạng Bung Đồng

Ảnh của tuongnangtien

 tuongnangtien

Cái bung đồng, năm Cải cách, đội lấy của các nhà giàu trong làng chia cho, nó không phải của nhà mình, các con nên tìm chủ mà trả lại.

Cụ Đậu Thị Mực

Tôi vừa tình cờ đọc được một bài báo cũ (“Hành trình 60 năm của một chiếc bung hay câu chuyện hòa giải giữa địa chủ và bần cố nông”) nhưng nội dung vẫn còn nguyên tính thời sự, củ̉a nhà báo Huy Đức, trên trang Dân Luận. Xin được ghi lại nguyên văn, cùng hình ảnh:

 Cách đây hơn 4 tháng, trên Facebook này, tôi viết: Trong đám giỗ lần thứ 51 của chồng – ngày 28-11 năm Giáp Ngọ (18-1-2015) – cụ bà Đậu Thị Mực, sinh năm 1916 – thường gọi là bà Dương – dặn con cháu: “Trong hai vật dụng mẹ đưa từ Thanh Chương, Nghệ An, vào Bình Dương lập nghiệp năm 1990 chỉ có một là của nhà ta, cái bình vôi. Khi mẹ về làm dâu (cuối thập niên 1930s), bà nội đã dùng cái bình vôi (ăn trầu) này; còn cái bung đồng, năm Cải cách, đội lấy của các nhà giàu trong làng chia cho, nó không phải của nhà mình, các con nên tìm chủ mà trả lại”.

Cũng qua FB, bạn bè của anh Diễn Nguyễn Văn – con trai cụ Dương – đặc biệt là những cán bộ “Đội Cải cách” thời bấy giờ đã giúp truy tìm, cuối cùng, chiếc bung đồng được xác định là của gia đình “địa chủ” Trần Đống. Hôm nay, nhân ngày con cháu làm lễ mừng cụ Dương thọ tròn 100 tuổi, cháu nội cụ Trần Đống là anh Trần Văn Lê chủ công ty Phương Linh, sản xuất và kinh doanh hàng điện máy, đã bay từ Hà Nội vào mừng thọ cụ Dương (với bức tranh khắc gỗ có chữ Tâm) và nhận lại chiếc bung đồng.

Theo anh Lê, rất lạ là sau khi tin cụ Dương tìm người trả lại chiếc bung đồng, có thêm hai gia đình “bần cố nông” trong làng trả lại những “đồ quả thực” mà 60 năm trước họ được đội cải cách tước đoạt của địa chủ chia cho. Theo anh Lê thì con cháu cụ “địa chủ” Trần Đống về̀ sau dù ở quê hay đi xa đều thành công, có nhiều người “đủ tiêu chuẩn để bị đấu tố” nếu lịch sử cái cách tái lập. Đặc biệt, con cháu là những người địa chủ này mỗi khi về làng vẫn thường giúp đỡ người nghèo, kể cả những người ngày xưa đã từng đấu tố cha ông họ.

Xét cho cùng thì họ cũng chỉ là nạn nhân.

Tôi hoàn toàn chia sẻ với quan niệm “xuê xoa” của nhà báo Huy Đức, và rất yêu thích “tinh thần hoà giải” trong câu chuyện thượng dẫn. Dù muộn – cuối cùng –  vào lúc gần đất xa trời, cụ Dương cũng đã hiểu ra cái lý lẽ thông thường của đất trời: của thiên trả địa!

Điều đáng trân trọng hơn nữa là cháu chắt của giới địa chủ chả những đã vui vẻ nhận lại cái bung đồng mà còn đến mừng tuổi thọ, cùng với quà cáp đàng hoàng. Đã thế, sau khi “cụ Dương tìm người trả lại chiếc bung đồng, có thêm hai gia đình ‘bần cố nông’ trong làng trả lại những ‘đồ quả thực’ mà 60 năm trước họ được đội cải cách tước đoạt của địa chủ chia cho” nữa.

Thật là qúi hoá quá chừng!

Con cháu mừng thọ bách niên cụ Đậu Thị Mực – ảnh từ trang Dân Luận

Tôi chỉ có hơi chút băn khoăn là dường như có bàn tay của Ban Tuyên Giáo nhúng vào việc riêng của của những gia đình bần cố nông và cường hào địa chủ kể trên. Nếu không thì làm gì có việc “những cán bộ ‘Đội Cải cách’ thời bấy giờ đã giúp truy tìm … chiếc bung đồng.” Mấy ai trong số những người này còn sống sót đến nay? Và cũng chả ai lại “rỗi hơi” đến thế? Cũng khó có chuyện cháu chắt của nạn nhân lại “bay từ Hà Nội vào” chỉ để “nhận lại chiếc bung đồng” mà ngay cả đến Giời cũng chưa chắc biết là sẽ dùng nó vào việc gì cả? Không lẽ để thờ? Đó là chưa kể những hình ảnh dàn dựng khá công phu, hơi tốn kém, và rất nặng phần trình diễn trong buổi lễ mừng thọ 100 năm của một cụ … bần cố nông.

Ở một xứ sở mà công an chúi mũi vào khắp mọi nơi: tu viện, chùa chiền, miếu đền, thánh thất, giáo đường (kể luôn chiếu giường / chăn gố) và người dân sắp có nguy cơ bị “đánh giá bằng điểm xã hội” đến nơi thì sự nghi ngại này – tất nhiên – không phải là hoàn toàn vô cớ. Nhưng tôi cũng chỉ suy đoán thế thôi, chứ chả có chứng cứ nào liên quan đến “tay chân” của Bộ Thông Tin & Tuyên Truyền cả. Tôi cũng không tìm ra được cái “thông điệp” kín đáo nào của Ban Tuyên Giáo, qua cái “màn diễn bung đồng” thượng dẫn?

Sau Cải Cách Ruộng Đất rồi đến Hợp Tác Xã Nông Nghiệp thì toàn dân Việt đều trở nên vô sản ráo (chả ai có được một hòn đất để chọi chim ) thì còn đâu địa chủ mà lo chuyện hoà giải với bần nông? Bài báo của tác giả Huy Đức, tuy thế, vẫn gợi cho độc giả của trang Dân Luận vài suy nghĩ mới:

  • Nguyễn Thường Dân: “Thế chừng nào người ta mới trả lại nhà sách Khai Trí cho con cháu ông Nguyễn Hùng Trương? Cái bung trị giá vài triệu thì làm lễ trả lại nhưng nhà sách Khai Trí với miếng đất mặt tiền ở quận 1 trị giá nhiều ngàn tỷ thì nhất định là lờ đi nhé, dù ‘Xét cho cùng thì họ cũng chỉ là nạn nhân.”
  • Nguyễn Jung: “Nhà nước ‘ta’ đã, đang và sẽ làm gì với số tài sản, đất đai đã và đang ăn cướp của Dân, từ khi cướp được chính quyền ở miền Bắc, sau 1975 cũng như hiện tại?”

Như đã thưa, tôi vốn tính xuê xoa (chuyện gì đã qua là coi như xí xoá cho rồi) nên không cảm thấy thoải mái lắm với những “yêu sách” của nhị vị thức giả vừa nêu. Ông Nguyễn Hùng Trương đã từ trần, chuyện nhà sách Khai Trí tưởng cũng nên cho vào dĩ vãng. Miễn là con cháu của nạn nhân được để sống yên thân, không bị kỳ thị hay sách nhiễu, là tử tế lắm rồi.

Số tài sản, đất đai (cũng như hằng triệu mạng người) đã mất – kể từ gần hai phần ba thế kỷ qua – cũng thế, cũng nên quên ráo đi cho nó đỡ bận lòng. Chỉ cần Đảng & Nhà Nước ngừng tay cướp bóc cũng đã qúi hoá lắm rồi. Những mảnh đất vàng, đất bạc, bờ xôi/ruộng mật – tất tần tật – đã vào tay nhà nước cả. Từ nay, xin làm ơn bỏ cái thứ luật lệ bất nhân (“đất đai do nhà nước quản lý”) đi để toàn dân còn có chỗ trồng trọt/ cấy cầy, kiếm miếng ăn cho cả nước bỏ vào mồm, chứ không thì sớm muộn gì cũng sẽ lại vác rá đi ăn xin y – như trước –  thôi.

Thử nghĩ xem: mỗi đồng chí lãnh đạo chỉ cần (độ) vài triệu dollar, cùng với năm ba cái biệt phủ hay biệt thự là… cũng đủ lắm, đủ cho một cuộc sống ung dung (có thể kéo dài đến vài thế hệ) nếu đừng phung phá quá. Chỉ cần hô biến mấy quả đấm thép Vinashin thành những đống sắt vụn đã hoá ra đến mấy tỷ Mỹ Kim. Tiền bạc chia nhau còn chưa biết dấu vào đâu  (hay  tiêu cách nào cho hết) thế mà qúi vị còn nhất định “phải bàn cho ra” cái luật đặc khu, và làm đường sắt cao tốc Bắc/Nam để chạy thêm mấy chuyến tầu vét (tốc hành) để làm gì nữa?

Dù muộn, đến lúc gần đất xa trời, cụ Dương cũng đã “ngộ” ra rằng không ai có thể đem theo cái bung đồng nặng nề về bên kia thế giới. Vàng, bạc, châu báu …  cũng đâu có nhẹ nhàng hơn. Và con đò sinh tử của qúi vị, xem ra, cũng chả còn xa bao xa nữa. Thế mà vẫn cứ còn cố kiếm thêm thì e rằng sẽ hơi quá tải, và cũng quá ngu!

Người sống thọ có 4 cái “lười”

Người sống thọ có 4 cái “lười”

  1. “Lười” ăn nhiều

Ăn quá no sẽ tạo thành gánh nặng cho hệ tiêu hóa, nếu ăn quá nhiều lâu ngày sẽ gây hại cho cơ thể, dẫn đến nhiều căn bệnh về đường ruột, dạ dày. Hơn nữa nếu mỗi bữa đều ăn quá no sẽ nhanh chóng bị béo phì cũng như dẫn đến các bệnh cao huyết áp, đường huyết cao và mỡ máu cao, từ đó ảnh hưởng đến tuổi thọ.

Những người sống thọ thì khác, họ “lười” ăn nhiều, mỗi bữa chỉ giữ ở mức no 7-8 phần là đủ rồi.

“Lười” tức giận

Cảm xúc có liên quan mật thiết đến sức khỏe, thường xuyên tức giận sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Khi tức giận, cơ thể sẽ tiết ra những chất có hại, điều này sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe gan.

Ngoài ra còn dễ làm tăng huyết áp, khiến chúng ta dễ mắc bệnh cao huyết áp.Những người sống thọ “lười” tức giận, mỗi ngày họ đều giữ thái độ lạc quan vui vẻ, như vậy sẽ có thể kéo dài tuổi thọ.

  1. “Lười” lo âu

Cuộc sống ngày nay có rất nhiều áp lực, mọi người thường lo âu khá nhiều vấn đề, mà việc phiền não quá nhiều dễ gây ảnh hưởng đến giấc ngủ, dẫn đến hiện tượng mất ngủ.

Nếu chúng ta không ngủ đủ sẽ dễ làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch và mạch máu não, điều này sẽ gây ảnh hưởng đến tuổi thọ.Vì vậy nếu muốn sống thọ và khỏe mạnh hơn, thường ngày nên ít nghĩ ngợi lo âu, cố gắng ngủ đủ.

  1. “Lười” sốt ruột

Trong cuộc sống, người hay sốt ruột, lo lắng thường dễ bất an, tâm trạng thường lệch khỏi trạng thái cân bằng, làm việc thường hay nóng vội, tính khí cũng trở nên thất thường.

Sau khi bước vào tuổi trung niên, xương cốt sẽ dần lão hóa, nếu bình thường đi bộ khá nhanh và gấp gáp sẽ dễ ngã, va chạm vào những đồ vật khác. Vì vậy khi lớn tuổi cần “lười” sốt ruột, đi bộ chậm rãi, như vậy sẽ tránh được té ngã và kéo dài được tuổi thọ.

Ngoài ra, vận động cũng là điều rất quan trọng không thể thiếu đối với tuổi thọ, chúng ta nên tập thói quen vận động mỗi ngày, nhờ vào việc luyện tập sẽ giúp kích thích mỡ nội tạng tiết ra nhiều adiponectin.

Bác sĩ sản khoa Nhật Bản Kana Maruta cho biết, thật ra điều khiến chúng ta không ngờ đó là adiponectin được tạo ra từ chất béo, nhưng quá nhiều chất béo lại sẽ ngăn cản tiết adiponectin, vì vậy hình thể chuẩn và lượng mỡ vừa phải mới là trạng thái tốt nhất cho việc sản sinh adiponectin. Luôn giữ nụ cười tươi cũng có thể thúc đẩy tiết adiponectin cũng như làm tăng khả năng miễn dịch, hoạt hóa các tế bào trong cơ thể, đạt hiệu quả phòng bệnh, ngăn ngừa ung thư.

Bình thường nên uống nhiều nước để thúc đẩy thải chất độc, khiến cơ thể khỏe mạnh hơn, tuổi thọ cũng sẽ dài hơn.

Sống thọ và khỏe mạnh là điều mà ai trong chúng ta cũng đều hướng đến, vì vậy dù thường ngày có bận rộn đến mức nào cũng nên chú ý giữ thói quen sinh hoạt và ăn uống lành mạnh, đồng thời càng nên bỏ đi những thói quen không tốt.

Kiện Khang

From: TU PHUNG

BA ĐỐI TƯỢNG TRONG MỘT BỨC ẢNH. 

Image may contain: people sitting and outdoor
Việt Kiến to ĐỌC ĐỖ NGÀ

BA ĐỐI TƯỢNG TRONG MỘT BỨC ẢNH. 

Chúng ta có dám gọi tên, những cảm xúc thật sự khi nhìn bức ảnh này. Ta là ai trong 3 đối tượng đó.

1. EM BÉ NẰM LỀ ĐƯỜNG. 

Em là người lang thang, có lẽ em xa bố mẹ. Bố mẹ em trong một cơn say tình dục đã sinh ra em. Không có điều kiện hoặc cũng không cần biết em tồn tại thế nào. Cuộc đời em đầu đường xó chợ. em nằm một lát thôi lại đi xin ăn. Em không chỉ xin cho bản thân em, em còn nuôi sống những kẻ ma cô, chăn trẻ em đang chờ em trong một con hẻm nào đó. Những kẻ đã chết về lương tâm.
Tương lai của em, là điều em không biết đến và không ai dám nghĩ đến khi em sẽ không được học, sẽ không được thành con người đúng nghĩa. Số phận em thuộc về lề đường. Em vẫn ngủ ngon, mặc kệ cuộc đời và mọi ánh mắt nhìn. Em rất cần tình thương, em rất cần được học để thành người, tuy nhiên em có thể không nói ra được điều đó.

Em không khác gì khoảng 80% số phận trẻ em Việt Nam hiện nay sống ở nông thôn. Lớn lên thiếu thốn đủ bề, được đi học ở môi trường giáo dục nhồi sọ tồi tệ. Lớn lên không thể kiếm được công ăn việc làm trong nước đi làm Culi, mại dâm khắp thế giới. Các em đó không chỉ nuôi bản thân mình trong nước mắt cùng cực với mức giá bèo bọt tại Nhật, Hàn, Đài Loan,… Các em còn góp sức nuôi cả một lũ quan chức cộng sản chờ sẵn ở nhà, mỗi đồng đô la các em về đều được chúng tóm gọn, cướp sạch để ăn chơi xa hoa và mua nhà cửa tại các nước phát triển.

2. NGƯỜI NGỒI GHẾ. 

Người này đại diện cho phần lớn người dân lao động chân tay ở các đô thị. Có thể là xe ôm, xe thồ. Anh ấy kiệt sức trước cuộc sống vất vả và thu nhập thấp. Mỗi buổi chiều anh ấy lại chìm mình trong bia , rượu để kiếm niềm vui mạt hạng cho quên tháng ngày. Anh thiếu thốn hết mọi thứ, trí tuệ, niềm tin và cả tình yêu. Anh cố quay đi để khỏi nhìn đứa bé, nó nhắc nhở lương tâm con người của anh, anh đang cố phủ nhận trách nhiệm làm người của mình chỉ vì u tối và kiệt quệ. 

Vậy mà anh lại đại diện cho phần lớn người lao động đô thị , từ người lao động vỉa hè đến người công nhân. Từ người bán hàng đến cô nhà báo, tất cả đều chạy theo một cuộc sống kiếm tiền đến kiệt sức, quên cả sử mệnh làm người và nhìn tới những mảnh đời xung quanh.

3. NGƯỜI QUAN SÁT BỨC ẢNH. 

Đây là người chụp bức ảnh này, và người tình cờ nhìn thấy trên mạng bức ảnh này. Đa số vội vàng quay đi sau khi cố thở dài hoặc thốt lên vài câu. Sao thằng bé khổ thế, sao ông kia vô tình thế hoặc đời là thế. Về cảm nhận và suy nghĩ đa số giống với anh lao động ngồi ghế. Họ sợ phải gọi lên trách nhiệm của mình. Rõ ràng nhìn những bức ảnh khoe thân của người mẫu, những bức ảnh đại gia khoe xe đắt tiền vui hơn, đỡ cắn rứt lương tâm. Những người kiểu thứ 3 này chiếm phần đa dân chúng. Rất nhiều trong số họ thực ra cũng dễ tổn thương như 2 đối tượng trong bức ảnh. Họ vẫn ca ngợi sự ổn định của chế độ, họ thấy bình thường khi nghe nói Việt Nam là một trong 10 nước hạnh phúc nhất thế giới. Điểm giống nhau của những người này là ghét chính trị và ghét thì ngu chính trị. Phần lớn họ không nghĩ chính họ đã tham gia vào việc tạo ra những số phận trong bức ảnh này, họ không thấy ý nghĩa của việc lên tiếng, họ lại tẩy chay những người đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ của con người. Họ tôn thờ văn hóa, lối sống gây ra thảm họa cho chính họ.

3 loại người trên chiếm 99% dân tộc này. Tất cả đều có điểm chung là ghét chính trị, họ là nạn nhân của chính quyền và cũng là tội đồ tạo nên chính quyền CS và cũng là kẻ ủng hộ tư duy ghét chính trị mà chính quyền này cố duy trì bằng mọi cách.

Chỉ có 1% còn lại nghĩ khác, không thuộc 3 đối tượng trên. Tôi là một trong đó. Và tôi nghĩ, viết ra những điều này cũng không vô ích đâu. Tôi mong 1% đó ý thức được vai trò của mình. Hãy lên tiếng và động viên, thúc đẩy nhau cùng lên tiếng. Bởi xã hội nào, phồn vinh hay nô lệ hay chìm trong chiến tranh chỉ phụ thuộc vào sự chiến đấu của 1% người này thôi. 

Được đứng vào và nỗ lực đứng vào 1% này là hồng phúc và cơ duyên của NIỀM HẠNH PHÚC LÀM NGƯỜI. 

Đừng câm lặng, đừng để phí cuộc đời này như 3 đối tượng tôi đã nói trong bài viết.

YÊU NHƯ THẦY YÊU

YÊU NHƯ THẦY YÊU

Ngạn ngữ Pháp có câu: “Ra đi là chết trong lòng một ít” (Partir c’est mourir un peu).  Sự ra đi nào cũng để lại những vấn vương và lưu luyến cho người ở lại, nhiều khi còn mang vẻ bi thương và tang tóc nữa.  Cuộc ra đi thụ nạn của Chúa Giêsu cũng thế.  Chính vì vậy, trong giờ phút ly biệt đầy xốn xang và ngậm ngùi, Chúa Giêsu đã để lại những lời tâm huyết cuối cùng cho các học trò.  Những lời dặn dò thân tình ấy được Giáo hội đọc lại cho chúng ta trong phụng vụ hôm nay, giống như một di chúc thiêng liêng.  Các nhà chú giải vẫn gọi đó là “diễn từ biệt ly.”  Trong những lời trăng trối sau cùng ấy, Chúa nói với các môn đệ: “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau.  Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”

Điều răn mới.

Ai cũng biết, yêu thương là đạo lý căn bản của cuộc sống làm người.  Ngày xưa triết gia Aristotle đã nói cho các học trò của ông: “Tính ích kỷ và đầu óc hẹp hòi biến con người trở nên như thú vật, nhưng khi con người đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, họ sẽ trở nên như thần thánh.”  Nói chung, tôn giáo nào cũng dạy người ta ăn ngay ở lành, và chẳng tôn giáo nào lại dạy con người làm những chuyện thất đức.  Tinh thần “Tứ hải giai huynh đệ” của triết lý Đông phương cũng tương tự như thế.  Thế thì, giáo huấn của Chúa Giêsu có gì là mới lạ?  Và tại sao Chúa lại gọi đây là điều răn mới?  Chúng ta phải đi sâu vào tư tưởng thần học của Thánh Gioan mới có thể khám phá ra tính cách mới mẻ và độc đáo của giới răn yêu thương mà Chúa Giêsu gửi trao như một di chúc thánh thiêng.

Ngay từ thời cựu ước, Đức Chúa Giavê cũng đã ban truyền thập giới trên núi Sinai qua Moisê, và 10 giới răn đó cũng được tóm kết qua 2 điều luật căn bản, đó là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.  Chính Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi trả lời cho vị luật sĩ (Lc 10,27) hay cho vị kinh sư (Mc 12,28) hoặc cho chàng thanh niên giàu có (Mt 19,18-20).

Tuy nhiên các luật sĩ và biệt phái thời xưa chỉ giữ luật một cách máy móc và vụ hình thức.  Chúa tuyên bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ lề luật, nhưng mặc cho nó một chiều kích mới, đó là chiều kích nội tâm.  Giới răn mới mà Chúa nói hôm nay cũng chính là việc thực hành tình yêu, nhưng đi vào cốt lõi căn bản, nhắm đến chiều sâu nội tâm hóa của giới luật yêu thương.  Để huấn luyện các học trò hiểu thấu giới răn ấy, Chúa Giêsu lấy chính Ngài làm chuẩn mẫu: “Anh em hãy yêu thương nhau ‘như’ Thầy đã yêu thương anh em.”  Tính cách mới mẻ mà Chúa khởi dẫn chính ở điểm căn bản này.

Kinh nghiệm của Thánh Gioan.

Khi nói về mình, Gioan giới thiệu rất đơn giản bằng thuật ngữ “người môn đệ được Chúa yêu mến.” Gioan là người học trò duy nhất được tựa đầu vào ngực Chúa trong bữa tiệc ly để lắng nghe từng nhịp đập nơi con tim thổn thức của vị Thầy khả ái.  Ngài cũng đứng dưới chân Thập giá cùng với Đức Maria để mục kích trái tim Chúa bị đâm thâu và mở toang ra, tuôn đổ những giọt nước và máu của tình yêu cho đến vô tận.  Tất cả những chi tiết này đều là những hình ảnh mà Thánh Gioan ghi lại để biểu thị bài học về tình yêu nơi Chúa Giêsu mà Gioan đã cảm thấu một cách tường tận.  Trong Tin mừng thứ tư, thánh ký quảng diễn rất nhiều về tình yêu mà Chúa Giêsu đã diễn bày, nhất là qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, biết các con chiên trong đàn, đi tìm kiếm con chiên lạc, và hy sinh mạng sống cho đoàn chiên.  Thánh Gioan cũng dành ra suốt từ chương 13 đến hết chương 17 để viết lại diễn từ biệt ly, và điểm nhấn quan trọng nhất trong diễn từ chính là nói về tình yêu.  Trong diễn từ này, Chúa Giêsu lập đi lập lại điệp khúc tình yêu qua chính mẫu gương của Ngài.  “Không có tình yêu nào cao quý bằng mối tình của người hiến ban mạng sống cho bạn hữu.”  “Thầy để lại cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương.”  “Cứ dấu này người ta nhận biết anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau…”  Vì thế trong 3 lá thư Thánh Gioan để lại, đặc biệt trong thư thứ nhất, Ngài đã định nghĩa Thiên Chúa bằng một hạn từ rất đơn giản và cô đọng: ‘Thiên Chúa là tình yêu’ (1Ga 4,16).  Những chân lý về tình yêu, về giới răn mới mà Chúa Giêsu để lại cho các môn đệ được nói đến trong bài Tin mừng hôm nay, cũng được lặp lại rất nhiều lần trong lá thư thứ nhất của Thánh Gioan.

Yêu như Thầy đã yêu.

Nhiều người ngoại giáo thường hỏi chúng ta, đạo nào cũng hay, cũng đẹp, thế đạo Công giáo có cái gì đặc sắc mà các anh muốn quảng bá?  Thánh Gioan hôm nay đã trả lời thay cho chúng ta.

Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống yêu thương giống như Ngài đã yêu thương.  Chúa Giêsu không phải là một lý thuyết gia, không phải là một nhà mô phạm lý thuyết, nói một đàng làm một nẻo.  Cái chết của Chúa Giêsu lột tả trọn vẹn tình yêu mà Ngài muốn diễn bày.  Ngài đã đi đến tận cùng của giai điệu yêu thương khi bị treo thân trên Thập giá như một tên tội phạm và quảng diễn rất cụ thể điều Ngài đã nói với các môn sinh: “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người hiến thân vì bạn hữu.”  Trong bữa tiệc ly, Chúa còn cúi xuống rửa chân cho các học trò như một người tôi tớ.  Bằng nhiều cách, Chúa đã cố gắng cắt nghĩa giới răn mới mà người muốn truyền thụ lại bằng chính cuộc sống gương mẫu của Ngài.

Kết luận

Thánh Phanxicô Salê, vị Tiến sĩ đức ái, đã viết trong khảo luận về Đức Ái của Ngài: “Con người là sự hoàn thiện của vũ trụ, tình yêu là sự hoàn thiện của con người.  Đức ái chính là sự hoàn thiện của tình yêu.”  Sống sung mãn ơn gọi tình yêu, chính là con đường dẫn đến hoàn thiện và đó cũng là lộ trình nên thánh mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta dấn bước.  Nhưng chúng ta thực hành giới răn mới đó như thế nào?  Một nhà xã hội học đã chua chát nhận xét: “Ngày nay, con người đã rất tiến bộ và thành công vượt bậc.  Người ta đã lên được tới mặt trăng, đã nghiên cứu đến tận sao hỏa, đã chế tạo các phi cơ với vận tốc khủng khiếp…  Nhưng có một điều rất đơn giản là học cách sống tử tế với vợ mình, mà nhiều người học mãi cũng chẳng xong.”

Nói về tình yêu trên lý thuyết rất dễ, nhưng sống và thực hành theo gương Chúa Giêsu không phải là một chuyện giản đơn.  “Hãy yêu như Thầy đã yêu” là bài học mà chúng ta phải nghiền gẫm và phải phấn đấu để thực hành cho đến suốt đời.

Lm. GB. Trần Văn Hào

Yeu Nhu Thay Yeu.jpg

Ai mới phản động?

Ai mới phản động?

Mai Quốc Ấn

16-5-2019

Thượng tá nhà báo Nguyễn Văn Minh, phụ trách mục “Chống Diễn biến Hòa bình” của báo QĐND. Ảnh: qdnd.vn

Ảnh chụp status của một nhà báo có thẻ đã nhắc một danh sách “phản động” vì phản đối lấp lấn sông Hàn ở Đà Nẵng.

(Tôi có đủ hồ sơ để khẳng định là lấp lấn sông ở Đồng Nai hay Đà Nẵng đều sai phạm nghiêm trọng với nhiều luật hiện hành.)

Câu chuyện chụp mũ người khác là phản động làm tôi nghĩ về vài kỷ niệm giàu tính “phản động”:

– Hồi phản đối lấp lấn sông Đồng Nai và công bố thông tin của Tiến sĩ Lê Xuân Thuyên rằng đáy sông có trầm tích dioxin, tôi được gọi là phản động. Căn cứ vào luật hiện hành và các bằng chứng liên quan, dự án lấp lấn sông bị tuýt còi dừng lại và thông tin về trầm tích dioxin thì được công bố thêm… lần nữa.

– Khi ra Cà Ná, Ninh Thuận viết về những bất cập của dự án Thép Hoa Sen Cà Ná, tôi cũng bị gọi là phản động. (Trong khi tôi đồng ý đi cùng một chiến sĩ an ninh bởi anh ấy đề nghị cùng tôi xác minh độ xác tín về việc sai rất nhiều quy trình dự án này.) Hoa Sen Cà Ná cũng đã stop.

– Lúc tôi đưa bị can Đặng Văn Hiến của vụ nổ súng Đak Nông ra đầu thú, tôi vẫn bị gọi là phản động vì… làm đúng pháp luật. Có “thứ phản động” nào liên lạc tướng công an, đi cùng C45 vào rừng đưa bị can đầu thú trên thế giới chưa thì tôi không biết. Nhưng sau vụ đó, tôi nhìn ra trong xã hội có những kẻ có nhân dạng nhưng lại chẳng phải người.

– Khi tôi cảnh báo về bạo lực sẽ lại nổ ra tại Vĩnh Tân- vùng đất bị biến dạng vì nhiệt điện, tôi vẫn bị gọi là phản động. Có người ý nhị là tôi đi đâu, làm gì họ biết hết và cân nhắc có nên bắt hay không. Tánh tôi hụych toẹt nên nói thẳng: “Đến việc cảnh báo đúng thực trạng ô nhiễm theo Hiến pháp và pháp luật, đến việc lo lắng tình trạng dân và quân, đều là đồng bào, đối đầu nhau vì sự bậy bạ của quan chức biến chất mà bị bắt; thì các anh cũng bắt luôn chính tương lai các anh đấy ạ.”

….

Ủng hộ sự bậy bạ, sự vi phạm của những quan chức biến chất và lũ gian thương thì chính là tự tay tạo ra hiện tại bất công và chấm dứt tương lai tươi sáng của cháu con.

Ông Võ Văn Thưởng, Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương đã nói Đảng sẵn sàng đối thoại.

Ông Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ đã tuyên bố “Không đánh đổi môi trường lấy phát triển kinh tế!”

Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư đã khẳng định “không có vùng cấm!” trong cuộc “đốt lò” chống tham nhũng.

Vậy thứ nhà báo gọi những người đang chống lại cái sai, cái bậy đang diễn ra tại các dự án lấp lấn sông Hàn Đà Nẵng nói riêng và những cái ác, cái xấu nói chung; nên gọi là gì nếu không phải là phản động?

Ảnh FB Nguyễn Văn Minh.

Hiệp định Paris: Khuất tất và khả năng tái hợp

Tường An
2019-05-13

Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger (phải) bắt tay ông Lê Đức Thọ, đại diện phái đoàn Việt Nam tại lễ ký thỏa thuận ngưng bắn ở Paris hôm 23/1/1973

Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger (phải) bắt tay ông Lê Đức Thọ, đại diện phái đoàn Việt Nam tại lễ ký thỏa thuận ngưng bắn ở Paris hôm 23/1/1973

 AFP

Đã 46 năm trôi qua kể từ khi Hiệp định Paris được ký kết ngày 27 tháng 1 năm 1973 tại thủ đô nước Pháp.Vừa qua, một nhóm người từ Mỹ, Canada và tại Pháp, có người đã từng tham dự Hiệp định Paris cũng như đã từng phục vụ trong chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng hòa, đã đến thăm lại nơi chốn đã ký kết Hiệp định lịch sử này. Họ cũng là những người đang nỗ lực tái hợp lại Hiệp định Paris để tìm một giải pháp cho vấn đề biển Đông.

Số 19 đường Kleber, tại Trung Tâm Hội Nghị Quốc Tế (Centre de Conférences International), cách đây 46 năm, đã ghi nhận một sự kiện lịch sử: Hòa đàm Paris, nơi mà 4 thành phần (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam) đã đặt bút để ký: “Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam” (Accords sur la fin de la guerre et le rétablissement de la paix au Vietnam, Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) thường được gọi tắt là Hiệp định Hoà Bình Paris (Accords de Paix de Paris, Paris Peace Accords) hay Hiệp Định Paris, quyết định số phận của miền Nam Việt Nam từ ngày 27/1/1973.

Trung Tâm Hội Nghị Quốc tế – nơi ký Hiệp định Paris – nay đã được chính phủ Pháp bán lại cho Tập đoàn khách sạn năm sao Peninsula (thuộc sở hữu của “The Hongkong and Shanghai Hotels” và “Katara Hospitality”, ex-Qatar National Hotels Co.) Mặc dù cư ngụ tại Pháp, nhưng lần đầu tiên trở lại nơi đây, nhìn lại cảnh cũ, Ông Phạm Đăng Sum, nguyên Phát Ngôn Nhân và Giám đốc Nha Thông tin Báo chí của Bộ Ngoại Giao Việt Nam Cộng hòa ngậm ngùi chia sẻ:

“Đến đây thì tôi rất là bỡ ngỡ, ngỡ ngàng. Bởi vì tôi không nhận ra được ! Lúc đó là buổi sáng, chúng tôi đến và ngồi ở cái phòng mà bây giờ tôi nhìn không ra mà có lẽ bây giờ họ đổi ra thành phòng ăn. Nó rộng lắm! Có cái bàn rất rộng và trong đó có 4 phái đoàn: Lẽ tất nhiên là có phái đoàn Mỹ, phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa, phái đoàn Bắc Việt và phái đoàn miền Nam (Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. RFA) Tôi nhớ là tôi ngồi ở chỗ mà nhìn ra con đường, lúc đó chưa có cổng này.”

Hình minh họa. Hình chụp hôm 25/1/1969 ở Paris: hội nghị nhằm thiết lập hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam
Hình minh họa. Hình chụp hôm 25/1/1969 ở Paris: hội nghị nhằm thiết lập hòa bình và chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam AFP

Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 thực ra là kết cuộc của một chuỗi thương lượng kéo dài 4 năm 9 tháng bắt đầu từ ngày 13/5/1968 giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt, sau đó ngày 25/1/1969 có thêm Việt Nam Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam với 202 phiên họp chính thức và 24 cuộc họp không chính thức (còn được gọi là “đi đêm”) giữa Ngoại trưởng Henry Kissinger và các ông Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Ông Phạm Đăng Sum còn nhớ lại sau khi Hiệp định được ký xong:

“Có một giai thoại là ông trưởng phái đoàn Bắc Việt và mấy anh ở trong Nam gặp chúng tôi cũng chào và nói rằng “Chúng mình nay mai sẽ thống nhất, gặp gỡ nhau. Trong việc này không ai được, ai thua hết. Chúng ta là dân Việt Nam cả, chúng ta từ này sẽ độc lập và theo những điều trong thỏa hiệp thì là không có những sự trả thù, không có những sự tranh đấu. Từ nay chúng ta sẽ thống nhất, hòa bình. Nhưng mà tiếc thay, lúc nói thì như vậy nhưng sau này thì sự thật thấy là sự thống nhất không được giải quyết bằng phương pháp hòa bình mà là sự cưỡng chế bằng vũ lực. Đó là điều không nói đến trong Hiệp Định Ba-Lê, chỉ nói rằng sẽ có thống nhất với sự thỏa hiệp giữa hai miền chứ không có sự thống nhất bằng vũ lực như năm 1975. Đó là điều làm tôi rất buồn, rất tiếc”

Hiệp định Paris gồm 9 chương (8 chương chính và 1 chương phụ) và 23 điều khoản. Nội dung Hiệp định đòi hỏi các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam đã công nhận. Quận đội Hoa Kỳ và đồng minh rút quân ra khỏi Việt Nam. Các bên cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam có quyền quyết định tương lai chính trị của mình thông qua Tổng Tuyển cử tự do và dân chủ có giám sát quốc tế. Sau đó, việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp hòa bình trên cơ sở bàn bạc và thoả thuận giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ngoài.
Hiệp định Paris sẽ hết hiệu lực vào ngày Tổng tuyển cử 25/4/1976.

Điều 5, chương 2 của Hiệp định quy định Hoa Kỳ phái rút toàn bộ quân và cố vấn trong vòng 60 ngày sau khi ký hiệp định. Nhưng lại không nói gì đến lực lượng quân đội Bắc Việt còn ở lại miền Nam lúc ấy. Luật sư Lê Trọng Quát, Dân biểu thời Đệ Nhất Cộng hòa , Quốc Vụ Khanh thời Đệ Nhị Cộng hòa, phân tích:

“Điều khuất tất nhất trong Hiệp định Paris là không có nói chứ không phải là không nói rõ. Hoàn toàn không nói về sự tồn tại của 100.000 cán binh cộng sản ở miền Nam Việt Nam, cái hiệp định đó đã im lặng. Đó là sự nhượng bộ to lớn của Hoa Kỳ để cho Việt cộng ký hiệp định. Chúng ta biết rằng Hiệp định Paris có điều khoản cốt cán là quân đội Hoa Kỳ và các nước đồng minh phải rút lui sau khi hiệp định ký kết. Trong lúc đó thì 100.000 cán binh Việt cộng còn ở lại trong Nam mà hiệp định hoàn toàn không nói đến. Đó là một ẩn khuất quan trọng đã quyết định số phận của miền Nam Việt Nam”

Hình minh họa. Một người dân ngồi giữa đống đổ nát ở làng mình sau những vụ đánh bom hôm 27/1/1973, ngày ký hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam.
Hình minh họa. Một người dân ngồi giữa đống đổ nát ở làng mình sau những vụ đánh bom hôm 27/1/1973, ngày ký hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam. AFP

Hiệp định bắt đầu có giá trị lúc 0 giờ , giờ quốc tế GMT đêm 27 rạng 28-1-1973, tức 8 giờ sáng giờ Việt Nam. Nhưng sáng ngày 28-1-1973, miền bắc Việt Nam đã lợi dụng những vùng ‘tranh tối, tranh sáng’ hay vùng ‘da beo’ nơi không phân biệt được quốc gia hay cộng sản, để tiến hành cái mà họ gọi là: “cuộc đấu tranh của nhân dân ta để thi hành Hiệp định Paris, thực chất là cuộc đấu tranh để tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam kéo dài hơn 2 năm nữa mới kết thúc”.

Theo lời Luật sư Lê Trọng Quát thì đây là sự vi phạm Hiệp Định Paris: 

“Khi tiếng súng vừa chấm dứt vào lúc 1.00 giờ sáng ngày 27/1 thì Việt cộng ở phía Bắc đã bắt đầu vi phạm hiệp định bằng cách họ không ngưng tiếng súng mà vượt ra khỏi vùng họ đang chiếm đóng để chiếm cứ thêm đất đai và dân chúng ở những vùng đó. Có thể nói tình trạng” da beo” lúc bấy giờ giữa hai bên, dân cư của những vùng khác nhau trong lãnh thổ miền Nam Việt Nam đã tạo ra sự khó khăn cho việc thi hành hiệp định mà (Việt cộng) lợi dụng cơ hội đó tỏa ra để chiếm thêm đất đai, sự vi phạm bắt đầu từ đó.
Sự vi phạm thứ hai chúng ta đều biết là quân đội chính quy của Bắc Việt cộng sản đã hoàn tất cuộc xâm lăng, tràn vào chiếm cứ thủ đô Sài Gòn ngày 30/4/1975. Chúng ta thấy rõ ràng là họ vi phạm hoàn toàn Hiệp định Paris”

Để thoát ra khỏi vũng lầy của cuộc chiến Việt Nam, theo tài liệu của sử gia Trần Gia Phụng,  truyền thông quốc tế sau này tiết lộ Tổng thống Hoa Kỳ Nixon đã nói với Ngoại trưởng Henry Kissinger: “Tôi không biết rằng những lời đe dọa liệu có đủ hay không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ điều gì cần thiết như là – hay sẽ cắt đầu ông ta nếu cần.” (Tin AFP, thứ Ba 23-6-2009.  BBC thứ Tư 24-6-2009.) Ông Phạm Đăng Sum cũng khẳng định :

“Chúng tôi biết là cái Hiệp định này có nhiều cái bất lợi rồi, cho nên Tổng thống Thiệu lúc đó đã nhiều lần kéo dài không muốn ký, nhưng Hoa Kỳ đã ép buộc và đưa ra những đe dọa để bắt chính phủ VNCH phải ký. Lúc qua đây, tôi là người ôm hồ sơ Hiệp định, tôi thấy rõ ràng có nhiều điều không tốt cho VNCH. Nhưng mình nghĩ rằng nếu như thực hành nghiêm chỉnh thì cái Hiệp định đó có thể đưa ra sự hòa hợp, hòa giải giữa hai bên”

Điều thứ 11, Chương 4 trong Hiệp định quy định  hai bên sẽ thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử
với bên này hay bên kia, bảo đảm các quyền căn bản của người dân.

Theo Luật sư Lê Đình Thông, nguyên công cán ủy viên Bộ Thông Tin dưới thời đệ II Cộng hòa, luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn, Giáo sư Quan hệ Quốc Tế Đại học Nanterre (Pháp) sự thực thi điều khoản trong Hiệp định là một sự mỉa mai vì chính những người ký và cam kết đã không tôn trọng nó, ông nói:

“Mỗi điều khoản của hiệp định đã đưa đến cho tôi một sự cay đắng, một sự mỉa mai, bởi vì những quy định này hoàn toàn không phù hợp với thực tế. Tôi phân tích vấn đề một cách khách quan và trong tinh thần đại học chứ không đứng trong quan điểm của bên này hay bên kia mà phân tích một cách thiên lệch: Như chúng ta thấy bản văn đã ghi rõ là “cấm mọi trả thù” vậy mà tại sao sau năm 75 chính những người đã ký kết họ đã trả thù một cách man rợ. Amnesty International đã nói rõ – mà con số này cũng do Hà Nội đưa ra – là có đến 1 triệu người đã phải vào các trại mà người ta gọi là “trại cải tạo” nhưng thực tế, “cải tạo” ở đây, theo cái nhìn của tôi là “cải tạo” từ “tự do” sang “nô lệ”. Chữ “cải tạo” chỉ có một ý nghĩa như vậy thôi.”

Điều 19 trong Hiệp định Paris quy định trong vòng 30 ngày sau khi ký kết, một Hội nghị sẽ được triệu tập để bảo đảm việc thực thi Hiệp định. Ngày 2/3/1973 một Hội nghị được triệu tập tại Paris để ký “Định ước của Hội nghị Quốc tế về Việt Nam” gồm 12 nước là bốn bên trong hội nghị Paris (Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa , Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng hòa miền nam Việt Nam) cùng 8 nước khác là Canada, Hungary, Indonesia, Poland, Anh, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Liên Xô và Pháp trước sự chứng kiến của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kurd Waldheim. Định ước này gồm 9 điều khoản nhằm bảo đảm việc thực thi Hiệp định Paris, chấm dứt chiến tranh, giữ vững hòa bình tại Việt Nam. Luật sư Lê Trọng Quát cho biết :

“Định Ước cuối cùng (Acte de Final) đó cũng ghi một điều rất quan trọng: Sự tôn trọng quyền lãnh thổ của nước Việt Nam. Nếu áp dụng đúng điều khoản đó thì Trung Cộng không thể xâm lăng những lãnh thổ, lãnh hải của chúng ta như chúng ta đã biết”

Luật sư Lê Trọng Quát trả lời phỏng vấn RFA
Luật sư Lê Trọng Quát trả lời phỏng vấn RFA Photo: RFA

Dựa vào những điều khoản đã ghi rõ trong Hiệp định cũng như  điều 7 trong Định ước Quốc tế quy định về việc tái hợp Hiệp định Paris, luật sư Lâm Chấn Thọ (Montreal, Canada) từ năm 1999 đã tìm cách tái hợp lại Hiệp định Paris. Theo ông, Cộng sản Việt Nam đã không tôn trọng các điều khoản trong Hiệp định, vì thế chính phủ Việt Nam Cộng Hòa chưa bao giờ thật sự chấm dứt. Nếu có một Chính Phủ Pháp Định Liên Tục Công Quyền VNCH thì việc vận động các quốc gia khác tái hợp Hiệp định Paris là điều khả thi.

Điều 7 trong Định Ước Quốc Tế Bảo Đảm việc thực thi Hiệp Định Paris quy định : Nếu muốn tái hợp Hiệp Định Paris thì có hai cách :

1-    Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (tức Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay)  đồng ý tái hợp

2-    6 quốc gia trong 12 quốc gia đã ký kết trong Định Ước đồng ý tái hợp.
Điều này có nghĩa là : Nếu Chính Phủ VNCH Pháp Định (hiện nay do luật sư Lê Trọng Quát đảm nhiệm từ năm 2015) vận động được thêm 5 nước nữa đồng ý thì có thể tái hợp Hiệp định Paris.

Luật sư Lâm Chấn Thọ trình bày về công trình nghiên cứu của ông :

“ Cái “Định Ước Bảo Đảm Thực Thi Hiệp định Ba-Lê” được định rằng: Khi có một vi phạm thì có một thủ tục mà chúng ta phải tuân theo để có thể tái hợp Hiệp định này lại.
Thủ tục đó có hai phần: Phần thứ nhất: Tôi không hiểu vì lý do gì Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa lại có ưu tiên để tái hợp. Nếu họ đồng yêu cầu tái hợp thì mọi người phải họp. Còn nếu không thì 1 thành phần nào đó phải vận động 5 thành phần khác để được 6/12 thì mới tái hợp. Cái gì mà nó đưa tôi đến ý định đây là thời điểm mà chúng ta có thể làm việc được ? Tôi đã bắt đầu năm 1999 để kêu gọi đồng hương làm sao phục hoạt Việt Nam Cộng Hòa thức dậy để dùng VNCH kêu gọi những nước khác để có được 6 thành phần trên 12 để tái hợp Hội nghị, để đặt vấn đề bầu cử tự do ở Việt Nam và đặt vấn đề chiếm đóng Hoàng Sa, Trường Sa với Trung cộng”

Luật sư Lâm Chấn Thọ trả lời RFA
Luật sư Lâm Chấn Thọ trả lời RFA Photo: RFA

Luật sư Lâm Chấn Thọ đã bắt đầu công việc khó khăn mà có người cho là “đội đá vá trời” này để tìm lại công đạo cho miền Nam Việt Nam đã bị bức tử cách đây 46 năm bởi lợi ích của Hoa Kỳ và Cộng sản Bắc Việt. Cuộc trường chinh kéo dài 20 năm dần dần đã có những kết quả cụ thể, luật sư Lâm Chấn Thọ cho biết :

“Một tin mừng cho quý vị và cho tôi là hiện giờ Canada có một quyết nghị của Thượng Viện Canada đòi hỏi Canada phải đóng một vai trò tích cực hơn để dùng Định Ứớc Bảo Đảm Thực Thi Hiệp Định Ba-Lê (hay còn gọi là Kết Ước của Hội Nghị Quốc Tế về vấn đề Việt Nam) dùng cái đó để giải quyết những tranh chấp ở Biển Đông. Đó là công sức của ông Thượng Nghị Sĩ Canada gốc Việt (TNS Ngô Thanh Hải. RFA) Thành ra chúng ta đã đi được con đường rất xa và đặc biệt là ông TNS Ngô Thanh Hải đã vận động được bộ luật Canada lên tiếng kết án Cộng sản Việt Nam vi phạm Hiệp định Ba-Lê một cách trắng trợn. Bộ luật đó đã được chuẩn y bởi quốc hội Canada mà không có bất kỳ một phiếu chống nào. Cộng sản Việt Nam đang điên tiết về vấn đề này. Đó là con đường chúng ta đã đi ở Canada rồi. Ở bên Hoa Kỳ, tôi đã tìm ra được một bộ luật. Đó là bộ luật 93559: Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ đồng đòi hỏi Hành pháp Hoa Kỳ phải tái hợp Hội nghị quốc tế về vấn đề Việt Nam như chúng ta đã muốn. Nhưng bộ luật đó bị ngâm tôm trong vòng mấy chục năm nay. Đó là cơ hội ngàn vàng cho chúng ta. Và sau đó quý vị thấy tôi có mặt tại Âu châu đây là vì đây là bước tiến tiếp theo của chúng ta. Quý vị hỏi tôi những nước nào ? Xin cho tôi tạm không nói, nhưng quý vị hiểu rằng chúng tôi có mặt ở Âu châu thì muốn hay không muốn, có những vận động đang xảy ra”

Trung Quốc là một trong những quốc gia đã ký kết bảo đảm việc thực thi hiệp định này, trong đó có điều khoản bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của miền Nam Việt Nam vì thế, việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, Trường sa cũng là một hành động vi phạm Hiệp định Paris. Luật sư Lâm Chấn Thọ tiếp :

“Trung cộng là một thành phần đã ký, Trung Cộng đã hứa sẽ tôn trọng và bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ của Việt Nam vậy tại sao Trung cộng đã chiếm Hoàng Sa năm 1974 và Trường Sa năm 1988 mà bây giờ không ai đặt vấn đề đó hết. Bây giờ đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề. Đặt vấn đề cách nào ? Đặt vấn đề tái hợp Hội nghị lại. Và khi chúng ta tái hợp Hội nghị lại chúng ta sẽ biến Hội nghị đó thành một cơ quan tài phán quốc tế. Tức là gì ? dùng ảnh hưởng của những nước (trong hội nghị Paris. RFA) để làm áp lực bắt Trung cộng phải có một thái độ đúng đắn về Hoàng Sa và Trường Sa.”

Ngoài ra, Luật sư Lâm Chấn Thọ cũng trình bày trước công luận một hồ sơ mật đã được công bố: Đó là lá thư viết ngày 17/4/1975 của Ngoại trưởng Henry Kissinger gửi cho Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam lúc đó là ông Graham Martin. Trong đó, Kissinger viết: Pháp đã tiếp cận chúng ta và đưa ý kiến tái hợp lại Hội nghị Paris, nhưng chúng ta đã từ chối vì điều đó phản tác dụng (counterproductive) cho Hoa Kỳ.

Từ đó, luật sư lâm Chấn Thọ có một cái nhìn lạc quan khi trở lại nơi này :

“Có 9 nước bảo đảm với đất nước của tôi là VNCH rằng họ sẽ tôn trọng và sẽ bảo đảm quyền tự quyết của nhân dân tôi. Cho nên đó là một món nợ mà họ đã thiếu nhân dân tôi. Khi đến đây, tôi nhìn thấy cảnh vật thay đổi thì tôi nghĩ rằng tình hình thế giới sẽ thay đổi và những người đã quên món nợ của họ phải nhớ lại. Cho nên, mấy chục năm nay tôi theo đuổi để làm sống dậy, cho họ tỉnh thức dậy để họ hiểu rằng họ chưa trả món nợ đó. Đồng thời họ còn thiếu cái nợ thứ nhì là họ bảo đảm sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước tôi mà Trung cộng là một thành viên đã ký ngang nhiên chiếm Hoàng Sa, Trường Sa. Và những người đã ký cùng Trung Cộng không làm gì để giúp cho Việt Nam. Cho nên, khi tôi thấy vật đổi sao dời thì tôi nghĩ rằng gió phải đổi chiều. Tôi mong rằng đây là thời điểm chúng ta có thể đi đòi những món nợ mà những người thiếu đất nước chúng ta sẽ phải trả”

Những điều khoản đã nằm yên trong ngăn tủ từ hơn 40 năm qua nay được mở ra. Liệu chúng có khả năng giúp hồi sinh những tia hy vọng mới như lời Luật sư Lâm Chấn Thọ vừa bày tỏ?

Không chỉ dừng ở đây!!!

Image may contain: fire

Van Pham

Không chỉ dừng ở đây!!!

Đoàn Bảo Châu

Thấy bọn củi vào lò, tôi chẳng thấy vui mừng gì, chỉ thấy lo lắng. Chính cơ chế này là một bộ máy sinh ra củi. Lò có đốt mãi cũng không bao giờ hết củi. Củi ông, củi bố sẽ sinh củi con, củi cháu, củi chắt.

Chỉ có điều là vào một ngày nào đấy mà cái lò bị tắt thì củi sẽ không còn được gọi là củi, mà chúng sẽ là một thế lực cai trị rộng khắp và xã hội sẽ lao xuống dốc như một chiếc xe không phanh. Mọi mặt đời sống về môi trường, y tế, giáo dục, môi trường kinh doanh sẽ trở nên thảm hại hơn cả bây giờ.

Vậy nguyên nhân là ở đâu? Bộ máy này không thể tạo ra được những cán bộ có năng lực tốt và có lý tưởng. Giả sử có một người như vậy, nhưng để leo lên được vị trí có thể thay đổi được xã hội thì đa phần họ đã đã bị nhuộm đen bởi những mối quan hệ trong bộ máy.

Còn ai vẫn giữ được phẩm chất của mình thì sẽ bị cô lập, không có thực quyền và sẽ chỉ có tiếng nói yếu ớt, không đóng góp đáng kể được cho xã hội.

Trong khi ấy thì những người nằm ngoài bộ máy, nếu có tư tưởng cách tân, cất tiếng nói phản biện hay muốn cải tạo xã hội thì thường là bị bóp chết trong trứng nước. Những vụ án của Trần Huỳnh Duy Thức, Anh Ba Sàm là những ví dụ điển hình.

Một cơ chế không trọng dụng người hiền tài, chỉ theo xu hướng thân hữu thì không thể tiến bộ được.

Đừng mang cái luận điệu đất nước chưa bao giờ được như thế này ra để mà tự hào. Rồi lại mang cái thời bóp mồm bóp miệng gần bờ vực của chết đói của thời bao cấp mấy chục năm trước ra để so sánh. Vài con đường cao tốc, vài toà nhà chọc trời và thu nhập tăng lên nhưng hãy nhìn vị thế đất nước so với thế giới. Cụ thể là so với thằng bạn vàng. Hàng nghìn năm trong lịch sử, ông cha ta luôn cứng cỏi và kiên cường chống lại sự xâm lược của chúng. Giờ đây, sự chênh lệch về quân sự quá lớn, sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế còn lớn hơn nữa.

Biển mất, đảo mất mà vẫn phải cắn răng chịu đựng. Cứ ngồi đấy mà mơ màng sẽ có lúc con cháu đòi lại giúp. Làm mất biển đảo là mang tội với tiền nhân.

Vậy tại sao không so sánh tương quan giữa Việt Nam với Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Thái Lan để xem họ đã làm được những gì mấy chục năm qua và vị thế của họ trên trường quốc tế ra sao.

Điều nguy hại là cơ chế này đã tạo ra những mẫu người XHCN vô cảm, ích kỉ và thấp kém về văn hoá. Tôi thường mang câu chuyện của Jack London ra để nói về con người Việt Nam thời nay. Trong truyện ngắn Tình Yêu Cuộc Sống, thằng người đói khát sau khi đã được cứu lên tầu, sống giữa xã hội văn minh nhưng cuộc sống khốn khổ vẫn ám ảnh tâm trí nên khiến hắn ta cứ giấu dưới đệm những bánh quy khô.

Qua thời bao cấp đói khát, giờ quan chức và nói chung con người Việt Nam bị ám ảnh về những giá trị sờ mó được như tiền bạc, nhà cửa và xe, sự lóng lánh về quần áo, địa vị mà quên đi những cái đẹp của tâm hồn, của lý tưởng, sự cao thượng trong tính cách.

Một không khí bẩn thỉu đang lan toả trong bầu không khí của đất Việt và đặc biệt là trong những cái đầu của người Việt, đặc biệt là trong những cái đầu quan chức.

Hãy mở to mắt để nhìn bộ mặt đất nước của Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan… để nhìn thấy sự khác biệt, để thấy xấu hổ và định vị chính xác đất nước này đang ở đâu. Đừng tự hào vớ vẩn trước khi quá muộn.

Tôi sợ rằng những gì tồi tệ nhất vẫn còn đang chờ đợi chúng ta ở phía trước, sự tồi tệ sẽ không chỉ dừng ở đây.