Truyền thông: Công cụ tẩy não và định hướng dư luận khổng lồ của ĐCS
Truyền thông: Công cụ tẩy não và định hướng dư luận khổng lồ của ĐCS
—————-
Trong xã hội hiện nay, không ai có thể phủ nhận được sức ảnh hưởng to lớn của truyền thông. Dù là trong một cộng đồng, nhóm dân tộc, hay đến một quốc gia hay phạm vi toàn cầu, sự chú ý của con người vẫn luôn do truyền thông dẫn dắt. Từ báo chí, tạp chí, đến phát thanh, điện ảnh, truyền hình, truyền thông mạng, truyền thông xã hội, truyền thông cá nhân v.v.. hiệu quả quảng bá thông tin không ngừng tăng cường về cả thị giác và thính giá, sức ảnh hưởng với đại chúng cũng ngày càng lớn hơn.
Người ta dựa vào truyền thông để có được tin tức hay phân tích, dự báo mới nhất. Có thể nói rằng, trong biển tin tức, truyền thông chính là con mắt, đôi tai và thậm chí là bộ não của đại chúng. Truyền thông ảnh hưởng đến việc người ta có thể xem được những tin tức gì, giải mã tin tức ra sao, sau đó sẽ ảnh hưởng đến tư tưởng, quyết sách và hành động của họ.
Truyền thông có thể bảo vệ cho giá trị phổ quát, cũng có thể là trợ giúp thúc đẩy những điều xấu ác. Về cơ bản, truyền thông là công cụ của xã hội, mang chức trách báo cáo một cách công chính, chuẩn xác và kịp thời những sự thực về những đại sự trên thế gian, ủng hộ chính nghĩa, ức chế cái ác biểu dương cái thiện, sứ mệnh đó vượt khỏi tư lợi cá nhân, công ty và đảng phái.
Ông trùm truyền thông, người sáng lập giải Pulitzer – Joseph Pulitzer từng nói: “Nền cộng hoà của chúng ta và nền báo chí truyền thông là cùng nhau hưng suy. Truyền thông nếu vô tư, lấy tinh thần công chúng làm chuẩn tắc, sở hữu những trí giả thông thái, vừa có huệ nhãn để phân biệt rõ đúng sai, vừa có dũng khí để chọn con đường lương thiện để đi, truyền thông như vậy có thể giữ gìn đạo đức công chúng mà chính phủ dựa vào để kiến lập. Không có đạo đức công chúng ấy, bất cứ chính phủ nào chẳng qua cũng chỉ là lừa gạt và trò cười. Truyền thông mà cay độc, bị mua chuộc, mê hoặc nhân tâm, chỉ chạy theo lợi, và bị kích động sẽ dễ bị nghi hoặc. Lực lượng vun đắp nền cộng hoà và tương lai đất nước, chính ở trong tay những người làm truyền thông.”
Vậy mà, trong khi đạo đức nhân loại ngày càng trượt dốc, đối diện với áp lực cường quyền và sức hấp dẫn của tiền bạc, truyền thông tại nhiều quốc gia cũng khó mà giữ cho bản thân trong sạch. Cụm từ Fake News (tin tức giả) đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Trách nhiệm truyền bá sự thật, bảo vệ đạo đức lương tri của truyền thông đã bị vứt sang một bên.
Truyền thông ở Trung Quốc là công cụ tẩy não và định hướng dư luận
Chính quyền Trung Quốc coi truyền thông như bộ máy phát ngôn và định hướng dư luận của đảng với chính phủ. ĐCSTQ khi mới thành lập đã nêu cao khẩu hiệu: “Báng súng – ngòi bút, đoạt lấy chính quyền, củng cố chính quyền chính là nhờ vào hai cái này.” Truyền thông tuyên truyền cũng như báng súng vậy, là công cụ quan trọng để ĐCSTQ đoạt quyền và thống trị. Ngay từ thời kỳ ở Diên An, bí thư của Mao Trạch Đông là Hồ Kiều Mộc đã nêu ra nguyên tắc “đảng tính ở vị trí thứ nhất“, rằng báo đảng “từ trong mọi trang báo, mỗi một bài xã luận, mỗi một thông báo, mỗi một tin tức, phải đều có thể quán triệt quan điểm của đảng, kiến giải của đảng.”
ĐCSTQ sau khi thành lập chính quyền đã khống chế nghiêm ngặt tất cả các kênh truyền hình, phát thanh, báo chí, tạp chí, và cả sau này là truyền thông xã hội, coi đó như một công cụ nhồi nhét hình thái ý thức của mình, đả kích những ý kiến trái chiều, uy hiếp đại chúng, bẻ cong và che đậy sự thật. Truyền thông bị kiểm duyệt nghiêm ngặt, không chỉ dừng ở truyền thông nhà nước, mà cá nhân công khai ở trên mạng hay phát ngôn trong nhóm riêng tư cũng đều bị giám sát. Tại Trung Quốc, người dân không thể sử dụng các mạng xã hội phổ biến công khai như Facebook, Twitter hay Google mà chỉ biết đến các kênh “Made in China”. Hệ thống tường lửa Great Fire Wall khổng lồ còn được thiết lập nhằm ngăn chặn người dân truy cập những trang web mà chính quyền không cho phép.
Trong lịch của ĐCSTQ từ khi cầm quyền, mỗi lần vận động chính trị, đều là dư luận đi trước, dùng dối trá kích động thù hận, rồi phối hợp với bạo lực, tàn sát. Cứ như thế, truyền thông trở thành bộ phận tổ hợp quan trọng trong cỗ máy giết người. Ví như trong thời kỳ “Lục Tứ” năm 1989, ĐCSTQ tuyên bố sinh viên là “côn đồ gây bạo loạn”, từ đó nghiễm nhiên dùng quân đội đi “dẹp bạo loạn”. Thế nhưng ngay sau cuộc thảm sát “Lục Tứ”, chính quyền lại tuyên bố “Quân đội chưa từng nổ súng vào bất kỳ ai, quảng trường Thiên An Môn không có bất cứ thương vong nào.”
Khi đàn áp Pháp Luân Công, đương cục đã bào chế ra cái gọi là “Tự thiêu ở Thiên An Môn” để giá hoạ cho Pháp Luân Công là tà giáo, khơi dậy thù hận trên toàn thế giới, đưa cuộc bức hại thăng lên một cấp.
ĐCSTQ vô cùng coi trọng công tác tuyên truyền, xây dựng nên đội ngũ công tác tuyên truyền khổng lồ. Tính đến cuối năm 2010, trên toàn Trung Quốc, số nhân viên biên chế công tác trong hệ thống văn hoá tuyên truyền có hơn 1,3 triệu người. Con số này chưa tính đến lực lượng những người phụ trách giám sát và khống chế dư luận trên mạng gồm cảnh sát mạng, điều tiết viên, dư luận viên v.v.. tham gia công tác tuyên truyền.
Cha đẻ của giáo dục báo chí, người sáng lập khoa báo chí sớm nhất trên thế giới là khoa báo chí Missouri – ông Walter Williams năm 1914 đã lập ra “Tín điều của nhà báo” (Journalist’s Creed) nổi tiếng, quy định của tín điều bao gồm trung thành với đại chúng, rõ ràng, chính xác, công bằng, kính uý Thượng đế, không chịu chi phối của sự kiêu ngạo và ham muốn quyền lực, không mị dân, tôn trọng độc giả.
Thế nhưng, báo chí truyền thông của ĐCSTQ không hề tuân theo tín điều này. Dù bề ngoài mang tính trung thực khách quan, nhưng bên trong đó lại có những thủ đoạn khống chế truyền thông rất tinh vi mà đôi khi công chúng khó có thể nhận ra được.
Thứ nhất, đưa tin có tính chọn lọc: Mỗi ngày trên thế giới xảy ra hàng nghìn vạn sự kiện, những sự kiện nào sẽ tiến vào tầm nhìn và ý thức của đại chúng, những sự kiện nào sẽ trôi đi không dấu vết, hầu như hoàn toàn nằm ở sự lựa chọn của truyền thông. Về ý nghĩa này, truyền thông hiện đại có quyền lực rất lớn.
Đưa tin có tính chọn lọc về cơ bản gồm 3 loại tình huống. Một là, chọn lựa đối với sự kiện, tức là chỉ báo cáo hoặc chủ yếu báo cáo những sự kiện nào mà có lợi đối với việc dẫn dắt người đọc tiếp nhận thông tin có lợi chính quyền. Thứ hai, chọn lựa về bối cảnh sự kiện, tức là không phải báo cáo toàn diện nguyên nhân hậu quả của sự kiện, mà chỉ báo cáo bộ phận bối cảnh mà có lợi cho việc chính quyền muốn nói. Thứ ba, chọn lựa về bình luận, tức là chỉ bàn luận những quan điểm mà có lợi cho việc chứng minh những cá nhân hoặc đoàn thể mà chính quyền muốn, còn đối với những quan điểm tương phản thì điểm xuyết.
Thứ hai, định hướng dư luận (agenda-setting): Những năm 60 thế kỷ trước, nhà nghiên cứu truyền thông đề xuất một lý luận có ảnh hưởng sâu rộng, tức là chức năng định hướng dư luận. Bernard Cohn đã biểu đạt đơn giản rõ ràng như sau: Truyền thông “có lẽ không cách nào chi phối cách người ta nghĩ về vấn đề, nhưng có thể ở mức độ tương đối lớn quyết định việc độc giả sẽ nghĩ về vấn đề gì”. Cũng có nghĩa là, truyền thông có thể thông qua số lượng báo cáo, hoặc qua biện pháp duy trì theo dòng một loại sự kiện, cường điệu tầm quan trọng của vấn đề nào đó, đồng thời làm nhạt bớt một số vấn đề khác cũng quan trọng không kém thậm chí là quan trọng hơn.
Thứ ba, sử dụng đóng khung tư duy nhằm đánh lạc hướng. Có những sự kiện ảnh hưởng lớn quá, khi truyền thông không thể làm ngơ như không thấy, bèn sử dụng cách đóng khung tư duy đánh lạc hướng, giành lấy quyền giải thích đối với những sự kiện này. Một biểu hiện cụ thể của việc sử dụng đóng khung tư duy đánh lạc hướng là khi báo cáo chủ đề đi trước, ký giả hoặc biên tập viên đã có thái độ đã định về vấn đề từ trước đó, khi ký giả viết bài, không phải là từ sự thực mà trích xuất ra câu chuyện và quan điểm, mà là ngược lại, chủ đề đi trước, rồi đem sự kiện tin tức giống như chất dẻo đắp nặn thành dạng theo nhu cầu của mình, dùng để chứng tỏ thành kiến của bản thân mình.
(Còn tiếp)
Minh Ngọc

Ân xá Quốc tế: vụ tra tấn Nguyễn Văn Hóa là “vô cùng nghiêm trọng”
Tổ chức Ân xá Quốc tế hôm nay 24/5 gọi vụ việc tù nhân lương tâm và là phóng viên của Đài Á Châu Tự Do Nguyễn Văn Hóa bị công an quản giáo trại giam An Điềm đánh đập gây thương tích hôm 12/5 và sau đó bị biệt giam là “vô cùng nghiêm trọng”.
Ông Nguyễn Trường Sơn, người tổ chức chiến dịch cho Ân xá Quốc tế ở Việt Nam và Campuchia trả lời qua email khẳng định, sự việc này không những vi phạm luật pháp Việt Nam mà còn vi phạm cả luật pháp quốc tế.
“Chúng tôi khẳng định rằng Nguyễn Văn Hóa là một tù nhân lương tâm, có nghĩa, đáng lý ra anh không phải chịu cảnh tù đày ngay từ đầu, việc bắt bớ và bỏ tù anh chỉ nói lên sự độc đoán của chính quyền.
Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định rằng ‘Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không bị tra tấn’, ngoài ra, Việt Nam còn là quốc gia thành viên của Công ước Chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc, do vậy, việc trại giam An Điềm tra tấn Nguyễn Văn Hóa là hành vi vi phạm luật pháp Việt Nam và vi phạm công ước quốc tế.
Chúng tôi hối thúc chính quyền Việt Nam trả tự do cho Nguyễn Văn Hóa ngay lập tức và vô điều kiện, ngoài ra, phải ngay lập tức điều tra và đưa những người chịu trách nhiệm ở trại giam An Điềm ra trước pháp luật,” ông Sơn cho hay.
Tổ chức quốc tế làm việc với sứ mệnh giải phóng tất cả các tù nhân lương tâm trên thế giới hôm 24/5 cũng kêu gọi quốc tế hành động khẩn cấp cho Nguyễn Văn Hóa bằng cách viết thư cho Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc kêu gọi trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho Hóa.
Trong chuyến thăm gặp ngày 23/5 tại trại giam An Điềm tỉnh Quảng Nam, tù nhân lương tâm Hoàng Bình tiết lộ với người thân việc bản thân cùng với ông Nguyễn Bắc Truyển và các tù chính trị khác đã đồng loạt tuyệt thực 11 ngày để phản đối việc trại giam đánh đập và biệt giam Nguyễn Văn Hóa.
“Chúng tôi hiểu rằng tuyệt thực là lựa chọn cuối cùng của tù nhân lương tâm khi đối diện với ngược đãi ở trong tù.
Chúng tôi đồng cảm và sẽ đồng hành với tất cả mọi người trong việc yêu cầu trại giam An Điềm phải ngưng lập tức các hình thức ngược đãi và đối xử vô nhân đạo đối với Nguyễn Văn Hóa,” ông Nguyễn Trường Sơn bình luận.
Nguyễn Văn Hóa bị tòa án Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh hồi tháng 11/2017 kết án 7 năm tù và 3 năm quản chế với cáo buộc tuyên truyền chống nhà nước.
Phóng viên Nguyễn Văn Hóa là người đã dùng flycam quay phim những cuộc biểu tình của người dân ở miền Trung phản đối công ty Formosa Hà Tĩnh xả thải gây ô nhiễm môi trường biển các tỉnh miền Trung năm 2016.
NHỮNG CHIA SẺ QUÝ BÁU TỪ ĐỨC HỒNG Y PHANXICO XAVIE NGUYỄN VĂN THUẬN DÀNH CHO GIỚI TRẺ
httpv://www.youtube.com/watch?v=RY7QLdRQSwE
NHỮNG CHIA SẺ QUÝ BÁU TỪ ĐỨC HỒNG Y PHANXICO XAVIE NGUYỄN VĂN THUẬN DÀNH CHO GIỚI TRẺ
Mẹ Ngàn Hoa | Mẹ Chúa Lòng Thương Xót
httpv://www.youtube.com/watch?v=yYQ6sFYwnRU
GDTM – Mẹ Ngàn Hoa | Mẹ Chúa Lòng Thương Xót
Chung Ju-yung: Hành trình từ một con bò tới đế chế Hyundai hùng mạnh
Chung Ju-yung: Hành trình từ một con bò tới đế chế Hyundai hùng mạnh
Từ một cậu bé nông dân tay trắng và không biết gì về doanh nghiệp, Chung Ju-yung đã dựng lên vương quốc Hyundai (có nghĩa “Hiện Đại”) hùng mạnh, trở thành một trong những doanh nhân đáng nể nhất lịch sử doanh nghiệp châu Á…
Chung Ju-yung. (Ảnh qsua koreaherald.com)
10g tối 21-3-2001, Chung Ju-yung từ trần. Sáng hôm sau, báo chí Hàn Quốc đồng loạt viết về Chung Ju-yung, về con đường khởi nghiệp gian nan và lòng kiên trì của ông, về quan niệm độc đáo trong quản trị và về một người cha hướng dẫn thành công 8 con trai mình vào con đường thương trường. Có thể sánh với Konosuke Matsushita (người sáng lập tập đoàn National/Panasonic), Chung Ju-yung đúng là vĩ nhân. Trong 30 năm, ông biến Hyundai thành tập đoàn khổng lồ tham gia hầu hết ngành công nghiệp chủ lực, từ xây dựng, đóng tàu, điện tử đến xe hơi; đem lại công ăn việc làm cho hơn 170.000 người Hàn Quốc.
Trốn chạy khỏi Bắc Triều Tiên
Sinh ngày 25-11-1915 tại Asan thuộc Tongchon (Bắc Triều Tiên), Chung Ju-yung là con cả trong gia đình nông dân nghèo 8 người con. Trình độ học vấn chính thức của Chung Ju-yung chỉ kết thúc ở bậc tiểu học, khi cha cho Ju-Yung nghỉ học để giúp gia đình. Sau thời gian làm ruộng, Ju-Yung làm công nhân hỏa xa. Cuối cùng, Ju-Yung trốn nhà xuống miền Nam. Bị bố bắt lại hai lần, Ju-Yung thành công ở lần thứ ba, lúc 16 tuổi. Ju-Yung trang trải chuyến đi xuống miền Nam bằng cách đánh cắp một con bò của cha và bán làm lộ phí. Tại Seoul, Ju-Yung xin vào một cửa hàng gạo với chân chạy vặt và giao hàng cho khách. Cuối cùng, Ju-Yung dành đủ tiền mở cửa hàng gạo riêng. Thời điểm quân đội Nhật chiếm đóng Triều Tiên, việc một người địa phương sở hữu doanh nghiệp thực phẩm bị xem là bất hợp pháp. Để qua mắt lính Nhật, Ju-Yung tự mình đánh xe giao hàng, như thể làm công cho người khác…
Chung Ju-yung đang làm việc tại một cảng đóng tàu của Hyundai. (Ảnh qua koreaherald.com)
Năm 1940, Chung Ju-yung vay tiền bạn mở gara sửa xe, dù không biết chút gì về cơ khí cũng như xe hơi. Phương tiện quen thuộc của Ju-Yung là chiếc xe đạp. Doanh nghiệp sập tiệm. Năm 1946 (sau khi hai miền Nam-Bắc Triều Tiên chính thức phân cắt), Ju-Yung mở lại doanh nghiệp sửa xe, đặt tên cửa hàng là Hyundai. Năm 1947, Chung Ju-yung thành lập Hyundai Civil Industries với 11 nhân viên (trong đó có một “kỹ sư” vốn là giáo viên kỹ thuật cơ khí). Nhờ em trai Chung In-yung (thông thạo tiếng Anh), Ju-Yung trúng nhiều hợp đồng xây dựng cho quân đội Mỹ tại Hàn Quốc. Đến khi chiến tranh kết thúc (1953), Hyundai Construction đã trở thành một trong những công ty xây dựng lớn nhất Hàn Quốc. Ju-Yung bắt đầu tính đến các dự án qui mô hơn (trong đó có công trình sửa cầu Indo-gyo tại Seoul). Với thanh thế ngày càng lan rộng, Hyundai được để ý và mời tham gia thầu nhiều công trình chính phủ, đặc biệt thời Park Chung Hee. Dù lúc đó đã là doanh nhân tiếng tăm lừng lẫy Seoul, Ju-Yung vẫn làm việc đến mịt tối và luôn đi bộ 5 km từ văn phòng về nhà, nơi nghỉ ngơi và cũng là kho chứa phụ tùng.
Dùng tờ 500 won vay 50 triệu USD
Năm 1976, Hyundai tung ra mẫu xe hơi đầu tiên, hiệu Pony (Hyundai lần đầu tiên xuất khẩu xe hơi sang Mỹ là năm 1986). Đầu thập niên 1970, Hyundai bành trướng mạnh. Cùng vợ (Byun Jung-Suk), Ju-Yung đưa 8 con trai và một con gái vào tập đoàn. Khi bắt tay xây dựng công nghiệp đóng tàu, Ju-Yung đến hết ngân hàng này đến ngân hàng nước ngoài khác để vay vốn nhưng đều bị từ chối.
Nhà máy đóng tàu Hyundai tại Ulsan. (SeongJoon Cho/Bloomberg)
Không nản, Ju-Yung sang Anh. Vào Ngân hàng Barclays tại Luân Đôn, ông rút ra tờ 500 won với hình con tàu mà người Triều Tiên từng đóng vào thế kỷ 16, 300 năm trước khi người Anh cho ra đời con tàu sắt đầu tiên của họ. Chung Ju-yung nhấn mạnh rằng công nghiệp đóng tàu Triều Tiên hẳn có thể tiến xa từ lâu nếu không bị triều đại Chosun cản trở. Với tờ 500 won, Chung Ju-yung đã được vay 50 triệu USD từ Barclays!
Thành công vượt bậc
Cơn bùng nổ dầu hỏa 1973 là một trong những bệ phóng đưa Hyundai vào danh sách những tập đoàn khổng lồ thế giới. Chung Ju-yung nhanh chóng nhận ra cơ hội tại vùng Vịnh. Trước thập niên 1970, Hàn Quốc chưa có con tàu nào lớn hơn 10.000 tấn nhưng lời quảng cáo về Hyundai của Tổng thống Park Chung Hee đã giúp đem lại hợp đồng đầu tiên hai tàu dầu 240.000 tấn đặt từ Hy Lạp. Tiếp đó là đơn đặt hàng từ Hong Kong và Nhật. Năm 1975, Chính phủ Hàn Quốc ra lệnh tất cả dầu nhập từ Trung Đông phải được chở bằng tàu dầu Hàn Quốc. Nhờ vậy, cuối thập niên 1980, Hyundai đã trở thành nhà đóng tàu lớn nhất thế giới.
Đến thập niên 1980, Hyundai là doanh nghiệp gia đình lớn nhất Hàn Quốc. Từ Hyundai Engineering (xây dựng), Hyundai Motors (xe hơi), Hyundai Merchant Marine (đóng tàu), Chung Ju-yung thành lập Hyundai Electronics – nơi không đầy 10 năm sau trở thành nhà sản xuất chip vi tính thứ nhì thế giới. Năm 1985, ông ra lệnh cho người em trai, Chung Se-Yung, chịu trách nhiệm thành lập một nhà máy xe tại Mỹ. Năm 1986, những chiếc Hyundai Excel đầu tiên, với thiết kế Ý và động cơ Mitsubishi, bắt đầu lăn bánh trên xa lộ Hoa Kỳ.
Hyundai Excel 1986.
Trước thời điểm xảy ra vụ đại khủng hoảng tài chính châu Á 1997, doanh số hàng năm Hyundai đã vượt hơn 90 tỷ USD, và Chung Ju-yung – với gia sản 6 tỷ USD – trở thành người giàu nhất Hàn Quốc. Trước khi chuyển ghế chủ tịch tập đoàn cho các con vào năm 1987, nhà doanh nghiệp-nhà thơ-và “ca sĩ karaoke” Chung Ju-yung đã xây dựng thành công một công ty đóng tàu lớn nhất và một công ty xe hơi hàng đầu Hàn Quốc. Bí quyết của Ju-Yung? “Bằng sáng kiến, cần cù và khả năng, tôi đã đưa công ty phát triển” – Chung Ju-yung trả lời phỏng vấn báo Time năm 1992.
Tham vọng
Với thành tích đầy thuyết phục, Chung Ju-yung được tặng huy chương từ Nữ hoàng Anh Elizabeth II; và năm 1982, ông trở thành doanh nhân không thuộc người Mỹ đầu tiên nhận bằng tiến sĩ danh dự về kinh thương từ Đại học George Washington. Trong nước, Chung Ju-yung liên tiếp giữ ghế chủ tịch Liên đoàn công nghiệp Hàn Quốc trong gần một thập niên và là một trong những người tham gia đàm phán giúp Seoul giành quyền đăng cai Thế vận hội 1988. Như hầu hết tỷ phú tự lập, Chung Ju-yung bắt đầu ôm mộng chính khách. Năm 1992, với tài sản cá nhân 4 tỷ USD (người giàu nhất Hàn Quốc thời điểm đó), ông tuyên bố tranh cử tổng thống. Đảng Nhân dân thống nhất của ông giành 16% phiếu và sự nghiệp chính trị Ju-Yung có lẽ còn đi xa nếu không bị cản trở từ qui kết của Chính phủ Kim Young-sam về việc Ju-Yung dùng quỹ công ty cho chiến dịch vận động tranh cử.
Giấc mơ không trọn vẹn
Trong suốt cuộc đời, giấc mơ trở lại quê cha đất tổ luôn ám ảnh Chung Ju-yung. Năm 1998, ông là công dân Hàn Quốc đầu tiên bước qua biên giới CHDCND Triều Tiên mà không có quân đội đi kèm. Ông đã đánh cắp bố một con bò để làm lộ phí xuống miền Nam, dựng sự nghiệp từ bàn tay trắng; và rồi, Chung Ju-yung – doanh nhân thành đạt nhất Hàn Quốc – dắt một con bò băng ngang Bàn Môn Điếm trở lại miền Bắc để “trả lại” món nợ đầy nước mắt năm xưa.
Ông dắt một con bò băng ngang Bàn Môn Điếm trở lại miền Bắc để “trả lại” món nợ đầy nước mắt năm xưa… (Ảnh qua news.mk.co.kr)
Đó là một trong 1.001 con bò (có tài liệu ghi 500) được Chung Ju-yung tặng nông dân làng Asan, nơi chôn nhau cắt rốn của ông. Một trong những dự án chính của Ju-Yung trong chuyến đi trên là thương nghị với Chính phủ Bình Nhưỡng về công trình khu du lịch tại núi Keumgang thuộc địa phận CHDCND Triều Tiên. Tuy nhiên, Chung Ju-yung đã mất trước khi toàn bộ công trình hoàn thành…
Cao Trí.





HẠNH PHÚC KHI CÓ TUỔI
HẠNH PHÚC KHI CÓ TUỔI
Càng Có Tuổi:
- Càng có tuổi, tôi lại càng thấy sự kỳ diệu của mỗi độ xuân về.
- Càng có tuổi, tôi càng khám phá ra những điều mà tôi không nhận thấy trước kia.
- Càng có tuổi, tôi càng thấy những mùa xuân còn lại không còn bao nhiêu nữa.
- Càng có tuổi, tôi càng sung sướng thưởng thức mỗi giây phút quý giá qua đi trong cuộc đời.
- Càng có tuổi, tôi càng thấy mùa xuân mang lại cho tôi sự ngất ngây và vui sướng.
- Càng có tuổi, tôi càng thích săn sóc cây và hoa của tôi và tôi thích tâm sự với những người bạn im lặng này.
- Càng có tuổi, tôi càng thích nghe chim hót; mỗi tiếng chim là mỗi một giai điệu mật ngọt rót vào tai.
- Càng có tuổi, tôi càng ao ước được thấy nhiều mùa xuân trở lại.
- Càng có tuổi, tôi càng thấy mình không nghĩ được như vậy khi còn trẻ.
- Càng có tuổi, tôi càng muốn cám ơn cuộc sống đã cho tôi thấy thêm một mùa Xuân trở lại.
Hiện Tại:
- Không có thời điểm nào tốt đẹp bằng hiện tại vì cuộc sống của mọi người luôn bị quay cuồng bởi các thách đố, các đòi hỏi và nhu cầu.
- Một thời gian rất lâu, tôi cứ ngỡ rằng cuộc đời của tôi sắp bắt đầu. Một cuộc sống thật sự nhưng rồi lúc nào cũng có nhiều việc xảy đến, một thử thách phải vượt qua, vài công việc còn phải hoàn tất, vài việc khác cần phải phân chia, còn vài hóa đơn phải thanh toán. Sau đó thì cuộc sống của ta sẽ bắt đầu…
- Cuối cùng tôi mới khám phá ra rằng chính những sự việc này là một phần của đời sống chúng ta. Từ cái nhìn này, tôi nhận ra không có con đường nào đi đến hạnh phúc cả. Hạnh phúc chính là con đường chúng ta đang đi…
- Hãy trân quý và hưởng mọi phút giây mà chúng ta đang có! Không nên chờ đợi nữa, chờ đợi tốt nghiệp ra trường, chờ đợi việc làm mới, chờ đợi xuống bớt vài ký, lên thêm vài ký, chờ đợi ngày kết hôn, có con cái, mong đợi đến tối thứ Sáu, sáng chủ nhật, một chiếc xe mới, đợi trả nợ xong, trông chờ xuân đến hạ về, đợi đến đầu tháng, cuối năm, chờ ngày từ giã cõi đời, ngày tái sinh… trước khi quyết định sống thật hạnh phúc.
- Hạnh phúc là hành trình chứ không phải là điểm đến. Không có một giờ phút nào quý cho bằng Hiện Tại! Hãy sống và tận hưởng từng giây, từng phút.
From: Thuong Tran & Tu-Phung
Bậc Thánh nhân cầu Tâm chứ không cầu Phật
Bậc Thánh nhân cầu Tâm chứ không cầu Phật
Trong kinh Phật viết: Muốn được tịnh thổ thì phải tịnh tâm mình, tâm mình tịnh rồi đó mới là tịnh thổ. Bậc Thánh nhân cầu tâm chứ chẳng cầu Phật, còn kẻ ngu muội chỉ cầu Phật mà chẳng cầu tâm…
ruyện kể rằng, tại biên giới tỉnh Tây Khương tiếp giáp với Tây Tạng, có một bà lão sống trong túp lều tranh chật hẹp. Chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời, chỉ còn lại bà với mảnh vườn trồng những hạt ngũ cốc. Tháng năm vần vũ, tử biệt sinh ly, bà đã nếm trải quá nhiều đắng cay cho một kiếp người, vậy nên nguyện ước duy nhất của bà là sống sao cho tâm hồn thanh thản bình yên.
Mãi sau này, một người đồng hương tốt bụng dạy cho bà câu thần chú của Quán Thế Âm Bồ Tát, gọi là “Lục tự đại minh chân ngôn” gồm có sáu chữ vàng: “Úm Ma Ni Bát Mê Hồng” (Om Mani Padme Hum), và khuyên bà hãy trì niệm thường hằng để tiêu trừ tội nghiệp.
Nhưng bà vốn không biết chữ, lại rất khó ghi nhớ dù là điều nhỏ nhặt nhất, nên mặc dù trên đường về nhà bà đã nhẩm đi nhẩm lại, vậy mà vẫn đọc nhầm thành “Úm Ma Ni Bát Mê Hành”.
Từ đó, ngày nào bà cũng tụng niệm câu thần chú, cả khi ăn, khi làm việc nhà, khi xới đất trồng vườn, hay khi ngồi tĩnh lặng trong căn buồng hiu quạnh, không lúc nào bà dám buông lơi. Và để khích lệ cho việc trì chú, bà đặt ra hai cái chén, một chén rỗng, còn một chén thì chứa đầy hạt đậu. Mỗi khi đọc xong một lần, bà lại nhặt một hạt đậu trong chiếc chén đầy bỏ sang cái chén rỗng, và khi chén rỗng đã đầy thì lại làm ngược lại.
Cứ như thế, bà đã thành tâm tụng niệm câu thần chú suốt 30 năm không ngơi nghỉ. Lòng thành kính của bà làm cảm động cả những hạt đậu vô tri, khiến chúng không héo, không tàn, mà cứ tròn mẩy chắc nịch như thế. Giờ đây, hạt đậu không còn cần đến bàn tay của bà nhặt lấy, mà hễ câu thần chú vừa dứt thì một hạt đậu tự động nhảy sang chiếc chén bên cạnh. Bà lão thấy những hạt đậu tự nhảy qua nhảy lại, nên không bao giờ biết buồn chán, và lại càng chuyên chú tụng niệm thành kính hơn.
Một ngày kia, có vị cao tăng từ Tây Tạng đi vân du, khi ngang qua mái nhà tranh lụp xụp của bà, ông bỗng nhìn thấy ánh hào quang toả ra rực rỡ. Vị cao tăng đã đi khắp góc bể chân trời, nhưng chưa bao giờ ông thấy có ánh hào quang nào trong trẻo và thanh khiết đến vậy. Phải chăng bên trong túp lều kia là một bậc chân tu đắc Đạo? Nghĩ vậy, ông liền bước vào, nhưng chỉ thấy đó là một bà lão thôn quê mộc mạc, không có vẻ đạo sĩ cũng chẳng phải thánh tăng. Ông bèn hỏi:
– Chẳng hay nữ thí chủ tu luyện bao nhiêu năm rồi? Ở đây còn có ai khác nữa không?
– Thưa ngài, ở đây chỉ có mình tôi sống cô độc đã hơn 30 năm.
– Vậy bà ở một mình chắc buồn lắm nhỉ?
– Ồ không, tôi tuy ở một mình nhưng nhờ có câu kinh tụng niệm hàng ngày nên tôi không bao giờ thấy buồn khổ.
– Xin hỏi thí chủ, bà đang tụng niệm kinh sách nào vậy?
– Tôi không biết chữ nên không thể đọc sách, mà chỉ tụng niệm duy nhất câu thần chú này thôi, là “Úm Ma Ni Bát Mê Hành”. Vị cao tăng lấy làm tiếc thay cho bà lão vì tụng nhầm câu thần chú, bèn nói:
– Bà lão ơi, bà đã đọc sai rồi, đúng ra phải là “Úm Ma Ni Bát Mê Hồng” chứ không phải là Bát Mê Hành. Là “Hồng” chứ không phải “Hành”, bà nhớ nhé.
Đến lúc này bà lão mới biết là mình đã đọc sai câu thần chú, vậy là uổng công tụng niệm suốt 30 năm qua. Cho đến khi từ biệt vị cao tăng kia rồi, bà vẫn chưa hết đau buồn vì cái sự đãng trí của mình. Và bà lại quay trở lại với công việc trì chú của mình, tất nhiên thì lần này bà đã nhớ nằm lòng, chính xác đến từng từ từng chữ của câu thần chú kia rồi.
“Úm Ma Ni Bát Mê Hồng”… “Úm Ma Ni Bát Mê Hồng”… nhưng sao thế này, miệng bà thì tụng niệm mà cái đầu không sao tĩnh tại lại được, trong tâm ngổn ngang hỗn độn với biết bao ưu phiền. Những hạt đậu trong chén cũng lặng thinh, không còn nhảy lên như lúc trước. Bà lão tụng niệm mà nước mắt cứ không ngừng tuôn rơi, bà nghĩ, chỉ vì sự nhầm lẫn kia mà công quả của biết bao năm qua thảy đều trôi theo làn gió, thật đúng là dã tràng xe cát biển Đông mà!
Vị cao tăng đi được một đoạn đường, ông ngoái đầu nhìn lại túp lều tranh của bà lão lần cuối. Nhưng kìa, lạ chưa, hào quang lúc trước đâu mất rồi, sao chỉ thấy một túp lều liêu xiêu trong cát bụi? Lúc trước mây lành quấn quýt bao nhiêu, thì bây giờ chỉ còn lại vẻ âu sầu buồn bã bấy nhiêu! Ông giật mình hiểu ra tất cả, vội vã quay đầu lại.
– Nữ thí chủ ơi, là bần tăng đã nhầm, xin bà lượng thứ. Bà cứ tụng niệm như trước kia là được rồi nhé!
– Ồ vậy sao? Cảm ơn thánh tăng, thật may quá, tôi cứ tưởng công sức của 30 năm qua đều đổ sông đổ biển.
Nhà sư lại tiếp tục lên đường, còn bà lão thì trở lại với câu thần chú trước kia của mình. Lúc này tâm hồn bà rộn rã tươi vui, thậm chí còn vui vẻ hơn trước vạn lần, câu thần chú vừa ra khỏi miệng, thì hạt đậu lại nhảy sang chiếc chén bên cạnh. Từ trên đỉnh núi cao nhìn xuống, vị cao tăng thấy hào quang toả ra từ túp lều làm rực sáng cả một góc trời.
Đi đến đỉnh núi cao nhìn lại vị cao tăng thấy ánh hào quang từ ngôi nhà tỏa sáng cả góc trời… (Ảnh minh họa: pixabay.com)
âu chuyện trên được ghi chép trong một cuốn sách của tác giả Lâm Thanh Huyền. Nhớ lại lần đầu tiên đọc được, tôi luôn cảm thấy một dư vị nào đó, rất khó diễn tả thành lời.
Bà lão trong câu chuyện không phải bậc chuyên tu, nhưng tấm lòng thành kính lại có thể đạt đến độ tinh khiết, thuần tịnh, trong tâm nhẹ nhàng thản đãng như một bầu trời không gợn áng mây. Thế nên, dẫu phát âm sai câu thần chú, thì cái tâm thuần tịnh của bà lại có thể cảm hoá cả đất trời, ứng nghiệm tới cả những hạt đậu vô tri. So sánh với khi trong tâm âu lo bất ổn, thì dẫu có đọc chuẩn xác đến đâu, thì niệm lực vẫn bị những tạp niệm trong tâm làm vấy đục. Thế mới biết, lòng thành là quan trọng, tâm thuần tịnh còn quý giá hơn cái đúng sai trên bề mặt vạn lần.
Nhà văn Bạch Lạc Mai có một câu rất nổi tiếng rằng, “hồng trần và cõi Phật chỉ cách nhau một ngưỡng cửa mà thôi, trong cửa là lòng thiền mây nước, ngoài cửa là sóng đục cuộn trào”.
Chúng ta, ai ai cũng mong muốn đạt được sự thanh thản trong tâm hồn. Người bình thường cầu yên ổn, bậc chân tu cầu thanh tịnh, vô vi. Thế nên, kẻ không tu thì lên chùa bái Phật, còn người tu hành thì tụng niệm kinh thư. Nhưng thử hỏi, mấy ai tụng kinh niệm Phật có thể đạt đến độ “nhất tâm bất loạn”, trong tâm hoàn toàn là một lòng hướng Phật, không hề truy cầu đến tư lợi?
Người ngày nay miệng thì niệm danh Phật, nhưng trong lòng cái gì cũng nghĩ đến, nào là danh lợi, nào là thăng quan tiến chức, nào là phát lộc phát tài, nào là cầu sinh quý tử, nào là mong gặp tình duyên… Những gì phát ra từ cái miệng đang tụng niệm ấy, e rằng không phải hào quang, mà chỉ là một thứ khí đục đầy rẫy những danh – lợi – tình của kẻ tục tử phàm phu.
Kinh “Duy Ma Cật” chép rằng: “Dục đắc tịnh thổ, đương tịnh kỳ tâm, tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật thổ tịnh”, còn “Lục Tổ Đàn Kinh” thì viết: “Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm”, nghĩa là: Muốn được tịnh thổ thì phải tịnh tâm mình, tâm mình tịnh rồi đó mới là tịnh thổ. Bậc Thánh nhân cầu tâm chứ chẳng cầu Phật, còn kẻ ngu muội chỉ cầu Phật mà chẳng cầu tâm.
Chỉ khi tâm bình hoà tĩnh lặng, mới có thể quét sạch gió mây vần vũ, mới có thể thoát khỏi cái long đong chìm nổi của thế gian. Như đoá sen tinh khôi dẫu mọc lên từ bùn mà không hề nhiễm bẩn, bởi mọi bụi bặm thế gian đã được gạn lọc đi rồi, thế nên hoa kia mới có thể rực sáng dưới ánh mặt trời. Con người cũng vậy, hãy để cho lòng này là chiếc gương sáng không vướng bụi trần ai…
Tâm Minh
From: Thuong Tran & Tu-Phung
Thiên Chúa làm thế nào để trở thành bạn hữu của con người chúng ta được.
Nên xem, để thấy Cha Long giải thích, Thiên Chúa làm thế nào để trở thành bạn hữu của con người chúng ta được.
httpv://www.youtube.com/watch?v=39HNLzn-LJc
GDTM – Thứ Sáu sau Chúa nhật V Mùa Phục sinh năm C, ngày 24/5/2019
Bắc Kinh nổi đóa vì Mỹ thúc đẩy đạo luật xử phạt TQ ở Biển Đông
Nguyễn Trung Điệp and VanHieu Nguyen shared a link.
Bỏ Việt Nam, đối tác Apple chọn lắp ráp iPad, MacBook ở Indonesia
Son Cao is with Khang Truong.
Coi như xong, ai cũng khinh và tin tưởng bọn nhà sản
KHI MỘT CHẾ ĐỘ MÀ SỰ GIẢ DỐI ĐÃ ĐOẠT NGÔI…
KHI MỘT CHẾ ĐỘ MÀ SỰ GIẢ DỐI ĐÃ ĐOẠT NGÔI…
Một chế độ vận hành đã bị sự giả dối, giả dối đến toàn phần đoạt ngôi thì chế độ đó cũng chỉ còn là một chế độ giả danh!
Sự giả dối đoạt ngôi trước tiên là do hàng ngũ quan lại quan liêu đã củng cố bộ máy nhân sự thiếu năng lực, thiếu đạo đức luôn tìm cách che mắt quan trên bằng những thành tích giả bởi họ thừa biết rằng: cấp trên quan liêu lại ưa nhất là thành tích và chỉ có thành tích giả mới có thể làm mờ mắt quan trên để tha hồ hô mưa gọi gió chốn dân tình!
Một chế độ luôn sợ dư luận, sợ phản biện xã hội là một chế độ không ưa sự thật thì chế độ đó không giả dối sao được? Khi họ coi mạng xã hội là “thế lực thù địch”, luôn tìm cách khống chế phản biện tức là họ luôn tìm cách triệt tiêu sự thật trong khi sự thật và giả dối là hai thái cực đối lập chỉ đem đến cho nhau sự mất hay còn thì đương nhiên nó không thể “đồng cư” để hoặc còn hay mất một trong hai.
Với phong cách “ngồi trên mây lãnh đạo dưới mặt đất”, với hàng ngũ “bộ hạ” như hiện nay thì đảng, nhà nước, chính phủ Việt Nam chỉ có thể biến xã hội này thành “thiên đường giả dối”!
Khi cả một đất nước sục sôi vì giá điện, giá xăng dầu tăng phi mã khiến nền kinh tế lâm vào sự rối loạn mà Thủ tướng tin vào báo cáo của bộ Công thương rằng: “đa số người dân hài lòng với sự tăng giá” ấy thì chính Thủ tướng phải xem lại phong cách lãnh đạo và năng lực, trí tuệ của mình trước ngôi vị mà mình đang “thúc thủ”!








