S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Giữa Cơn Gió Bụi

Trần Trọng Kim (1883 – 1953)

Lịch sử không có chữ NẾU. Nhưng, đôi khi tôi vẫn cứ không cầm lòng được, suy nghĩ vẩn vơ, Việt Nam sẽ ra sao, nếu từ tháng 8-1945 vẫn là “Chính phủ Trần Trọng Kim”… 

 Huy Đức

]Trước đây chưa lâu, trên trang Dân Luận có một bài viết ngắn nhưng rất súc tích của tác giả Mạnh Kim. Xin được ghi lại đôi dòng: 

“Lại thêm một quyển sử bị cấm phát hành. Lần này là ‘Một cơn gió bụi’ của học giả Trần Trọng Kim. Không chỉ là ‘một cơn gió bụi’, hồi ký của Lệ Thần Trần Trọng Kim, một tượng đài văn hóa Việt Nam thế kỷ 20, thật ra là một ‘cơn bão’ xét dưới góc độ kiểm duyệt hiện hành. Nó tiết lộ các chi tiết về ‘một góc đời thường’ Hồ Chí Minh, về vai trò rất ít được biết của Võ Nguyên Giáp, về những ngày tranh giành quyền lực và triệt hạ nhau giữa Việt Minh với các đảng phái đối thủ mà Việt Minh có khi không ngần ngại dùng ‘mền trùm đầu rồi bắt đi mất tích’. Việt Minh, theo miêu tả trong ‘Một cơn gió bụi’, là tổ chức có thủ đoạn chính trị quỷ quyệt bậc nhất giai đoạn lịch sử thập niên 1940.”

Cùng lúc, nhà báo Huy Đức cũng có góp đôi lời (nhỏ nhẹ) về sự kiện này:

Lý do chính để Cục xuất bản ra lệnh thu hồi Một Cơn Gió Bụi của học giả Trần Trọng Kim là vì “cuốn sách có nhiều chi tiết, đánh giá không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng”. Một cơn gió bụi (Kiến văn lục) là cuốn hồi ký của học giả Trần Trọng Kim (1882-1953), từng được NXB Vĩnh Sơn phát hành năm 1969. Đầu năm 2017 sách được NXB Hội nhà văn và Phương Nam Books phát hành.

Sự thật lịch sử là một khối đa diện, không ai có thể tiếp cận hết mọi tiết diện. Nếu sách có những chi tiết “không phù hợp, không khách quan hoặc chưa được kiểm chứng” thì hãy để các nhà sử học khác kiểm chứng, chỉ ra cái sai. Điều quan trọng là những gì cụ Trần Trọng Kim viết trong Một Cơn Gió Bụi đã phải là sự thật hay chưa. Nếu đã là sự thật thì nó luôn phù hợp ở mọi thời đại, chế độ nào thấy một sự thật không phù hợp với mình thì chế độ đó… không phù hợp với thời đại nào của loài người cả.

PS: Tôi cực lực phê phán việc biên tập sách nhưng tôi cũng khuyến cáo Cục Xuất bản rằng, lệnh cấm này sẽ khiến người đọc trẻ tìm tới bản in không bị kiểm duyệt của NXB Vĩnh Sơn, bản in mà trong đó có nhiều đoạn rất nhạy cảm đã bị NXB Hội Nhà Văn biên tập. 

Ví dụ: Trang 75 bản Vĩnh Sơn 1969 có đoạn “Trong số 22 người ấy có một nữ đảng viên tên Đỗ Thị Lạc là người sau này có đứa con gái với Hồ Chí Minh. Về sau người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu theo cộng sản”. Đoạn này đã bị cắt ở bản Phương Nam in 2017 (trang 80).

So với cái tâm, và cái tầm, của nhà xuất bản thì chuyện “cắt xén” vụn vặt kể trên không có chi đáng để phàn nàn; bởi ngoài hai ấn bản thượng dẫn, còn có bản in năm 2015 – do tuần báo Sống phát hành từ California – và hàng chục trang mạng với đường dẫn đến nguyên bản của tác phẩm này. Bức màn sắt đã rớt xuống từ lâu. Đâu có chuyện chi mà dấu được hoài bên trong đó nữa! 

C:\Users\Tien Tuong\Desktop\Capture\2019-08-21_044700.png

Wikipedia tiếng Việt, giọng Hà Nội, có ghi lại những câu sau:

– Chính phủ Trần Trọng Kim thường được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mô tả trong các tài liệu nghiên cứu chuyên môn trước và sau năm 1975, một cách trực tiếp hay gián tiếp, là bù nhìn của Nhật.

– Việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại trước sau đều do người Nhật đạo diễn để dẫn dụ ông, chứ bản thân ông tự ý thức bản thân mình bất lực, họ trao quyền cũng chỉ để biến ông thành bù nhìn.

Cái thời độc quyền thông tin đã qua nên cùng với “các tài liệu nghiên cứu chuyên môn” của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, còn có không ít ghi nhận của những vị thức giả khả tín. Xin đơn cử một vài để rộng đường dư luận:

Lê Xuân Khoa

“Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, Chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:

1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chánh cho các viên chức Việt Nam.

2. Thâu hồi đất Nam kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.

3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.

4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.

5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.

6. Thiết lập các Uỷ ban Tư vấn Quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chánh và giáo dục [7].

Chỉ trong thời gian ngắn ngủi bốn tháng (17.4-16.8) Chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình này.” 

Trần Văn Chánh:

Về phần Nội các Trần Trọng Kim, mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian chưa đầy 4 tháng (từ 17.4 đến 7.8.1945, nếu tính đến 23.8.1945 khi quyết định xong Chiếu thoái vị thì được 4 tháng 6 ngày, tổng cộng 126 ngày, tương đương 1/3 năm) và làm việc trong những điều kiện vô cùng khó khăn, nhất là khi vẫn bị quân đội Nhật kiềm chế mọi mặt, Nội các đã tỏ ra năng nổ, nhiều thiện chí và cũng đã làm được một số việc đầy ý nghĩa, đáng ghi nhận:

– Tháng 6 năm 1945, đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam (bỏ tên Đại Nam, Annam); tạm duy trì bài quốc thiều “Đăng đàn cung“; đổi mới quốc kỳ, thay cờ Long tinh bằng cờ quẻ Ly có nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm.

– Bộ Tiếp tế tập trung cao độ lo việc cứu đói nhưng kết quả rất hạn chế vì phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm giữ và nhất là giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt.

– Thanh trừng quan tham lại nhũng với kết quả hạn chế, vì thời gian ít và điều kiện khó khăn trước mắt về nhân sự chưa cho phép làm mạnh.

– Tha thuế thân cho người dân và cho những công chức có thu nhập thấp. Thực hiện sự công bằng về thuế khóa.

– Chủ trương tăng lương cho tiểu công chức, bỏ các món chi tiêu huy hoàng vô ích.

– Can thiệp với Nhật để từ ngày 9.8.1945 tổng ân xá các tù chính trị, kể cả những người cộng sản đã bị Pháp bắt giam tại các nhà lao và nhà ngục khổ sai. Chủ trương trừng thanh quan lại và bài trừ tệ hối lộ.

– Đấu tranh với Nhật đòi lại các công sở và lấy lại được ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng kể từ ngày 20.7.1945.

– Ngày 1.8.1945, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội vốn biểu trưng cho nền thống trị ngoại bang, như tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xòe ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm Lính Khố xanh, Khố đỏ.

– Ngày 14.8.1945, tranh thủ lấy lại Nam Kỳ cho triều đình Huế, thống nhất (về mặt danh nghĩa) đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam.

– Chủ trương cho phép thành lập các đảng phái chính trị.

– Về tư pháp, thành lập Ủy ban Soạn thảo Hiến pháp trên cơ sở thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo và nghiệp đoàn. Đạo luật tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên ở Việt Nam là do chính phủ Trần Trọng Kím soạn thảo và ban hành ngày 5.7.1945.

– Đổi chương trình học tiếng Pháp ở bậc Tiểu học và Trung học sang chương trình tiếng Việt, do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn chủ trì biên soạn.

– Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lãnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc với các công ty người Hoa…

Phạm Cao Dương:

“Bốn tháng đầy rẫy những khó khăn nhưng những thành quả đạt được không phải là không đáng ghi nhận… Vượt qua tất cả mọi khó khăn, Trần Trọng Kim và các cộng sự viên của ông đã vạch ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế, từ những việc làm có tính các tương trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt lại quốc ca… đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam và cấm họ liên lạc trực tiếp với người Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải tổ thuế má, tư pháp, vận động thanh niên sinh viên và cả quần chúng nói chung tham gia sinh hoạt chánh trị, xã hội, lập các hội đồng tư vấn địa phương và vận dụng mọi khả năng để thực hiện.”

https://www.danluan.org/files/timgs/image003_3.jpg

Nội Các Trần Trọng Kim. Ảnh: Chính Danh Văn Hoá Việt Nam

Tổng cộng thời gian chấp chính của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, có lẽ, vẫn chưa bằng số giờ mà các ông Thủ Tướng Cộng Sản sau đó ngồi hội họp. Và có lẽ đám người này không họp bàn về chuyện gì khác ngoài việc bán nước hại dân nên chế độ hiện hành càng kéo dài thì quê hương càng lụn bại.

‘Ngày Mai Đã Muộn Rồi!’

‘Ngày Mai Đã Muộn Rồi!’

Huy Phương

Nhà thờ Đức Bà Paris bốc cháy hôm 15 Tháng Tư, 2019 trong sự tiếc nuối của hàng triệu người, nhất là những ai đang có dự định đến thăm nơi này. (Hình minh họa: Getty Images)

Ở thời niên thiếu, chúng tôi đã được xem một cuốn phim tình cảm đen trắng do Ý sản xuất trong một rạp chiếu bóng ở một tỉnh nhỏ miền Trung. Cuốn phim mang tên “Ngày Mai Đã Muộn Rồi,” (Demain c’est trop tard!) liên quan đến việc giáo dục giới tính phù hợp cho giới trẻ. Cuốn phim nêu ra chuyện nếu hôm nay không được chỉnh sửa hay là được làm đúng, ngày mai đã quá trễ, muộn màng.

Tuổi ấy, chúng tôi không hiểu nhiều về tình tiết của câu chuyện, và luận đề cuốn phim đưa ra, nhưng sau này, rất thích lập lại tên của cuốn phim trong nhiều tình huống của cuộc sống. Phải chăng, đừng để đến ngày mai mà muộn màng, những gì làm được hôm nay thì hãy làm.

Thời gian cứ trôi đi và chẳng bao giờ dừng lại để chờ đợi ai, cũng chẳng chờ cho chúng ta làm xong việc này hay kết thúc một việc khác. Một ngày qua đi và một ngày không trở lại, và công việc ấy chúng ta không làm hôm nay, sẽ không bao giờ chúng ta có cơ hội thực hiện nữa. Không phải là cứ một đời người, hay một năm, mà một ngày cũng đã là quá muộn!

Bạn tôi đang nằm trong bệnh viện, vừa qua một cuộc giải phẫu khá quan trọng. Tôi có dự định đi thăm người bạn ấy hôm nay, nhưng quen thói lần lữa, giải đãi, lòng hẹn lòng đợi một này nào đó, thật rỗi rảnh sẽ đi thăm bạn. Nhưng cái ngày đó không bao giờ đến, vì chỉ vài ngày sau đó, bạn tôi đã từ giã cuộc đời này, mà tôi thì vẫn chưa thực hiện được cuộc viếng thăm đơn giản ấy, nên lòng ân hận mãi.

Thân bằng quyến thuộc của chúng ta không thiếu gì những người già, đang nằm trong bệnh viện, nhà dưỡng lão, như ngọn đèn cạn dầu trước gió, cần một lần thăm viếng, một cái cầm tay hay một lời nói thân tình. Những người này không còn thời gian để đợi chúng ta, mà chúng ta thì cứ mãi “lòng hẹn lòng!”

Có bao nhiêu bậc cha mẹ già, trên ngưỡng cửa ngôi nhà xưa, ngóng chờ những đứa con trở về một lần thăm viếng. Nhưng rồi thì vì thời gian bận rộn vì công việc làm ăn, cuối tuần còn đưa con đi chơi thể thao, học đàn, học võ; kẹt một chuyến du lịch xa, hay bận rộn vì con chó con mèo, con cá lia thia trong chậu, sợ bỏ đói, không ai chăm sóc.

Thật lòng không biết có ai hối hận không, nhưng đừng để bao giờ phải hối hận.

Giá mà ta làm việc ấy hôm nay, hay tự đặt cho mình một mệnh lệnh: “Hãy làm việc ấy hôm nay!” Ngày không thể không đi và đêm không đến vì việc ấy ta làm chưa xong!

Suốt đời, chúng ta đã bỏ bao nhiêu cơ hội, để làm một việc hay để nói một lời.

Không phải đến bây giờ người ta mới nhắc nhở “Nếu có yêu tôi thì hãy yêu tôi bây giờ. Đừng để ngày mai đến lúc tôi xa người… (*) mà ngày xưa, tình duyên đôi lứa đã một lần muộn màng, vì người con trai đã bỏ đi cơ hội nghìn vàng, để ngậm ngùi suốt đời.

“Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng,
Như chim vào lồng như cá cắn câu
Cá cắn câu biết bao giờ gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”

Có người hối hận để mất một cuộc tình, nhưng cũng có người đánh lỡ mất cả cuộc đời, để rồi than thở:

“Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!” (TTKh.)

Richard Templar là một tác giả người Anh, người đã viết nhiều cuốn sách về con đường thành công trong cuộc sống. Ông chia sẻ “con đường dẫn đến thành công” của mình trong một loạt sách, trong đó 100 quy tắc đơn giản được trình bày để đạt được thành công, trong kinh doanh, tiền bạc hoặc cuộc sống nói chung. Và “quy tắc của cuộc sống” của Richard Templar là “đừng để qua ngày mai!”

Người ta thường hẹn trong ngày mai sẽ làm công việc dự định hôm nay, nhưng đối với nhà thơ Norma Cornett Marek lại khác: “Ngày Mai Không Bao Giờ Đến!” đó cũng là tựa đề bài thơ của bà. “Nếu ta đang chờ ngày mai đến thì tại sao lại không làm điều đó ngày hôm nay? Vì nếu ngày mai không bao giờ đến, thì chắc chắn ta sẽ hối tiếc suốt phần đời còn lại của mình!”

Không ai biết đây là lần gặp gỡ cuối cùng, một lời nói giã biệt, vì không một ai, trong chúng ta, trẻ hay già, đoan chắc rằng, họ sẽ sống qua hôm nay, để ngày mai thấy mặt trời lên! Trên trái đất này, đêm nay có những người cũng lên giường như chúng ta, nhưng ngày mai, họ không còn thức trở dậy!

Đó chính là ân huệ của cuộc đời chứ không phải là một chuyện đương nhiên: “Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy, ta có thêm ngày nữa để yêu thương!

Xin đừng để quá trễ, hãy nói với ai đó một lời yêu thương hôm nay. Hãy nói một lời xin lỗi. Hãy nói một lời cám ơn. Nếu ai cũng nghĩ rằng hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc sống để hành động, để yêu thương, để dịu dàng với nhau…thì cuộc đời này đẹp biết bao nhiêu!

Xin hãy làm điều đó hôm nay. Ngày mai đã muộn rồi! (Huy Phương)

(*) Trần Duy Đức- Ngô Tịnh Yên

Khi tôi được sinh ra, VNCH đã không còn nữa.

Khi phỏng vấn vào chương trình Tuyển Sinh Y Khoa, có một câu hỏi từ giáo sư tuyển sinh làm tôi nhớ mãi

– Nếu em có thể đi về quá khứ để thăm một người hay đến một nơi nào đó, em sẽ đi đâu?

– Thưa thầy, em sẽ đi thăm đất nước của em: Việt Nam Cộng Hoà.


Dr. Wynn Tran

Khi tôi được sinh ra, VNCH đã không còn nữa.

Từ nhỏ, tôi nghe nói về VNCH từ ba tôi và những người bạn. Tôi chỉ hiểu rõ hơn về VNCH khi tôi lớn lên và qua Mỹ sau này. Càng tìm hiểu, tôi càng nhìn rõ hơn một thời bi thương oanh liệt của người miền Nam Việt Nam trong cuộc nội chiến nồi da xáo thịt, sự bất lực của những nước bé trong cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa những cường quốc.

Tôi sẽ về lại Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông, nhảy lên một chiếc xích lô máy dạo phố. Tôi muốn nghe tiếng máy nổ phịt phịt giòn tan trộn mùi xăng pha nhớt trong buổi sáng tinh sương Đô Thành. Tôi sẽ ghé chợ Bến Thành ăn một tô phở gà, ngắm nhìn các cô thiếu nữ Sài Gòn mặc áo dài bó eo, đeo kính mắt to tròn đèo nhau trên chiếc xe Honda Cub ở bùng binh trước chợ. Ăn xong, tôi sẽ thả bộ dọc đường Duy Tân, ghé qua toà Đô Chánh và toà nhà Hạ Nghị Viện, phác lại vài nét kiến trúc bằng bút chì trước khi tản bộ ra sông Sài Gòn ngắm tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo. Sau đó, tôi sẽ nhảy xe lên lambro về Nhà Bè nước chảy chia hai, ghé qua vườn trái cây Lái Thiêu bẻ măng cục, bóp nát vỏ xám đen lòi múi thịt trăng trắng ngọt lịm bỏ vào miệng.

Buổi tối, tôi sẽ ghé thăm phòng trà Tự Do nghe Khánh Ly hát. Có thể nói nhạc vàng (bolero) từ thời VNCH là dòng nhạc đẹp nhất của âm nhạc hiện đại Việt Nam. Đến nay, dòng Bolero tại Viêt Nam tuy ngày càng nở rộ nhưng những ca khúc hay nhất đều sáng tác thời VNCH.

Nhưng cái tôi muốn cảm nhận rõ nhất ở VNCH là tính nhân văn và tình người Việt Nam, có được do nền giáo dục đậm chất nhân bản. Thời VNCH, các trường ĐH tuy mới bắt đầu chậm chững nhưng đã để lại những nền tảng vững chắc cho các trường đại học lớn ở Việt Nam sau này. Ở đó, học trò được dạy về trên 3 nguyên tắc: nhân bản, dân tộc, và khai phóng.

Tôi sẽ ghé qua bộ giáo dục VNCH để thăm hỏi vì sao chỉ trong một vài năm đã thành lập một hệ thống giáo dục đại học tiến bộ gồm đại học quốc gia và đại học cộng đồng địa phương. Đại học thời VNCH hoàn toàn tự chủ về chuỵên môn, không chịu sự quản lý của bộ giáo dục. Ngân sách của trường ĐH do quốc hội chuẩn duyệt hàng năm, nhân viên và giáo sứ thuộc tổng uỷ công vụ.

Tôi sẽ ghé thăm Viện ĐH Sài Gòn (có 8 phân khoa Y, Dược, Nha, Sư Phạm, Khoa Học, Văn Khoa, Luật, và Kiến Trúc). Dĩ nhiên tôi chỉ thăm được đại học xá (ký túc xá) Minh Mạng dành cho nam vì đại học xá Trần Quý Cáp dành cho nữ. Nếu có thời gian, tôi sẽ ghé thăm Viện Đại Học Cần Thơ, nơi tôi đặc biêt thích chất miền Tây phóng khoáng trong từng sinh viên.

Thời Đệ Nhất Cộng Hoà, nền giáo dục nhân bản đã để lại cho bao thanh thiếu niên Việt Nam lòng yêu nước mãnh liệt, muốn góp tay xây dựng đất nước phú cường bằng trao dồi kiến thức học hành để mang đất nước ra tầm thế giới. Tôi vẫn còn cảm nhận được đều này khi gặp lại những thanh niên ngày ấy là những ông bà lão tại Mỹ sau này. Ba tôi, một sĩ quan VNCH, cùng là một trong những thanh niên ngày ấy.

Và dĩ nhiên, tôi sẽ gặp Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để hiểu rõ về những gì xảy ra với đất nước vì những gì tôi đọc được và nghiên cứu từ nhiều phía vẫn chưa đủ để tôi trả lời câu hỏi vì sao một đất nước nhân văn, đề cao tính dân tộc, và phồn vinh như VNCH lại bị bức tử.

Ngày 30/4 hằng năm, tôi vẫn nhớ về 200,000 người Việt Nam đã bỏ mạng trên biển trên đường tìm tự do, hàng triệu người Việt đã chết trong cuộc chiến, vẫn nghĩ về sự ngạo mạn của kẻ chiến thắng, sự khốc liệt và dơ bẩn của chính trị. Tôi vẫn nhớ về VNCH phồn vinh, thịnh vượng, và nhìn lại đất nước Việt Nam ngày hôm nay mà không khỏi đắng lòng.

Huynh Wynn Tran

Bao giờ Nguyễn Phú Trọng dám sớm về vườn để biết học làm “người tử tế”?

Tại sao lại cứ giương cờ HCM không có thật?

Âu Dương Thệ

Từ mấy tháng nay lợi dụng tình trạng Nguyễn Phú Trọng bị bệnh nặng không thể đảm nhiệm cả hai trách nhiệm vừa là Tổng bí thư (TBT) lẫn Chủ tịch nước (CTN), hoang mang và phân hóa trầm trọng vì quyền-tiền giữa các phe nhóm lợi ích trong Trung ương đảng và Bộ chính trị (BCT), nên triều đình đỏ hầu như đang tê liệt, rơi vào hoàn cảnh như không có đầu, vô chính phủ. Vì thế Bắc kinh lợi dụng tình hình trên, nên đang đưa tầu chiến hộ tống tầu thăm dò dầu khí làm mưa làm gió ở bãi Tư chính ngay trong thềm lục địa VN, vùng đặc quyền kinh tế của nước ta.[1] Trong khi biển đảo và chủ quyền đất nước đang bị phương Bắc đe dọa trực tiếp và rất nghiêm trọng, nhưng ông Tổng – Chủ lại không biết ngượng, không biết giữ liêm sỉ, vẫn vênh váo rao giảng đạo đức cho giới trẻ là phải “Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên tối cao”!!! [2]

Là người cực kì tham lam quyền lực nên sau khi đòi cho bằng được để Đại hội 12 (1.2016) xếp độc quyền cho mình vào “trường hợp đặc biệt” để chiếm ghế TBT tiếp, Nguyễn Phú Trọng lại lợi dụng thời cơ khi Trần Đại Quang mất (9.18) đã chiếm nốt cả ghế CTN. Qua đó ông Trọng đã tự vất bỏ nguyên tắc tổ chức “tập trung dân chủ” trong đảng. Chính ông đã coi đó là xương sống của Đảng và từng kết án, ai chống nó là chống chế độ XHCN từ bản chất! Ông Trọng còn thề thốt và rao giảng đạo đức cho cán bộ đảng viên là, ông quyết “nhốt quyền lực vào trong lồng” và cương quyết không để những kẻ háo danh, mưu đồ và tham lam quyền lực nắm giữ các chức vụ quan trọng trong Đảng và Nhà nước!

Nhưng con người thực của ông Trọng lại hoàn toàn khác. Từ tháng 4.2019 đến nay, ông Trọng bị tai biến mạch máu não và phải thường xuyên vắng mặt trong nhiều dịp quan trọng. Nghĩa là vì lí do sức khỏe ông đã không thể đảm nhận những nhiệm vụ và trách nhiệm của TBT và CTN. Nhưng tới nay ông vẫn không biết tự trọng giữ lời hứa và làm gương rút lui về làm “người tử tế”, như “Đồng chí X” Nguyễn Tấn Dũng vài năm trước đã bị “Ông Đặc biệt” đuổi về vườn. Trước khi rũ áo quan trường đỏ Nguyễn Tấn Dũng đã nói với chính mình và nhắn nhủ các đồng liêu trong BCT là, từ nay ông về nhà để học làm “người tử tế”.[3] Vì suốt bao nhiêu năm trong BCT và giữ ghế Thủ tướng ngụp lặn trong quyền lực và tiền bạc nên ông đã bán mình cho quỉ, trở thành người bất tử tế, chỉ sống dối trá và lừa đảo!

Còn Nguyễn Phú Trọng tới nay vẫn chưa dám làm như Nguyễn Tấn Dũng. Tuy bệnh nặng nhưng ông vẫn không thích làm “người tử tế” và lại vẫn muốn tiếp tục làm Ông Đặc biệt! Tư cách rất tồi tệ như thế, nhưng hiện nay trong dịp 50 năm Hồ Chí Minh mất, ông Trọng lại vẫn lên mặt rao giảng đạo đức, lại bắt cán bộ đảng viên và nhân dân “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”! Cố tình gán ghép theo lối thần tượng hóa HCM như thế, chính Nguyễn Phú Trọng và những người tiền nhiệm của ông thừa biết là hoàn toàn không có thực. Trái lại, chính khi sinh thời ông Hồ đã từng bán đứng lương tâm để làm những điều cực kì mất tư cách và vô đạo đức của một người bình thường. Chính những điều này ông Trọng đã thừa biết, vì đã được xác nhận ngay trên báo Đảng.

Hãy hình dung một ông A rất muốn tự khen, tự tâng bốc và tự thần thánh hóa mình. Nhưng ông hiểu rằng làm như vậy là kịch cỡm và vô cùng lố bịch. Vì thế ông đã dùng thủ đoạn lưu manh lấy một tên khác để viết sách ca tụng ông có tài đức như một thánh sống! Như vậy rất rõ ràng, ông A đã là một người cực kì lừa dối, mất tư cách, vô đạo đức. HCM đã làm đúng như vậy khi ông lấy tên là Trần Dân Tiên để tự tâng bốc, thần thánh mình là “cha già dân tộc”. Tất cả những người cầm đầu chế độ từ Trường Chinh, Lê Duẩn… tới Nguyễn Phú trọng hiện nay đều biết Trần Dân Tiên chính là một trong nhiều bút hiệu của HCM. Họ biết đây là sự thật về sự lừa dối với đảng viên và nhân dân của HCM. Nhưng họ vẫn ca tụng việc làm của HCM là đạo đức, phong cách cao! Vì thế chính họ lại cũng tự lừa dối mình, lừa dối dân!

Chẳng những thế, bề ngoài thì đề cao ông Hồ, nhưng nhiều người cầm đầu chế độ đã coi thường HCM và cô lập ông vào thập niên 60 của thế kỉ trước. Chính khi HCM còn sống, trong những năm cuối ông đã bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cô lập để thâu tóm quyền lực. Tệ bạc hơn nữa ngay sau khi HCM mất chính Lê Duẩn, thường được ca tụng là “Ông Trăm nến”  -sáng suốt thông minh như trăm cây nến – người có quyền lực áp đảo khi đó đã sửa ngay cả bản Di chúc của ông Hồ để nhằm phục vụ những ý đồ riêng. Mặc dầu Lê Duẩn biết rằng, những lời di chúc của một người – dù ngay của một người bình thường – người sau không được tẩy xóa thêm bớt. Bởi như thế là phản lại người vừa mất, như thế là vô đạo đức, vô lương tâm! [4]

Cuối thập niên 80 của thế kỉ trước chế độ toàn trị ở trong hoàn cảnh cực kì ngặt nghèo, như sợi chỉ treo ngàn cân; trong nước nạn đói đe dọa, bên ngoài Bắc kinh đang dạy bài học cho chế độ này qua chiến tranh biên giới phía Bắc và sa lầy trong chiến tranh ở Campuchia, Mĩ và Tây phương phong tỏa. Nguy hiểm nhất là Liên xô, thành trì Thế giới CS và mụ đỡ của CSVN, khi ấy đang rơi vào tổng khủng hoảng đi đến tan rã. Vì thế tại Đại hội 7 (1991) họ phải vực HCM dậy khoác cho ngọn cờ “tư tưởng HCM” để thay thế cho ngọn cờ Marx-Lenin đã rách nát! Nhưng sau cả chục năm nghiên cứu của các nhà khoa bảng XHCN hàng đầu, có tới 60 định nghĩa khác nhau về cái gọi là “tư tưởng HCM”, nhưng chẳng có định nghĩa nào được mọi người đồng ý. Điều này đã được chính Hà Đăng, nguyên Ủy viên Trung ương và Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương xác nhận khi ấy.

Nói thẳng ra, HCM chỉ sao chép và tôn thờ tư tưởng CS từ Marx, Lenin tới Mao, chính khi sinh thời ông đã thừa nhận như vậy. Sau khi cướp được chính quyền thì ông đã ép buộc đảng viên và nhân nhân phải học tập và cũng từ đó HCM, khi có quyền lực trong tay ông đã đánh tráo thứ tự giá trị ưu tiên cuộc tranh đấu của dân tộc ta, từ đánh đổ thực dân để giành độc lập và xây dựng VN thành một nước dân chủ tự do, như trong Tuyên ngôn Độc lập 1945 HCM đã long trọng thề như thế. Nhưng khi nắm được chính quyền HCM đã bắt mọi người phải “yêu nước là yêu XHCN”, đảng trước, nước sau, dân bét. Đây cũng là sự thực mà từ Trường Chinh, Lê Duẩn… tới Nguyễn Phú Trọng đều biết rất rõ. Nhưng nay ông Trọng vẫn bắt cán bộ, đảng viên và nhân dân dân “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”! Đây chính là thái độ lạm dụng quyền lực, hành động như những kẻ cầm súng trong tay, bắt đảng viên và nhân dân phải theo!

Thật là cực kì lầm lẫn, ở thời đại dân chủ nhưng ông Trọng lại vẫn muốn cai trị như thời phong kiến vua chúa, vẫn cứ ngang ngược cho rằng, đang nắm chức cao nên tự do lạm quyền và cưỡng bách mọi người phải theo ý mình! Ông Trọng khinh thường trí thức, thanh niên và nhân dân; coi người dân như cục đất sét, ông muốn vo tròn, bóp méo thế nào cũng được!

Ông Trọng nên chấm dứt ngay thái độ lạm dụng quyền lực trong vai trò TBT và CTN, ông cứ ngang ngược cho rằng có thể đổi trắng thành đen, không thành có và mọi người phải nghe theo! Đây chính là thái độ của người không tử tế, đã đánh mất đạo đức và phong cách!

Nhân dịp 50 năm HCM mất (9.1969-9.2019) người viết trích lại phần dưới đây trong tập sách vừa xuất bản: (Việt Nam “Đổi mới”?! Hay: Treo đầu dê, bán thịt chó! by Thệ Âu … – Luluwww.lulu.com › shop › ebook › product-24170286), trang 94-97 phân tích và nhận định về lí do tại sao trong Đại hội 7 (6.1991) những người cầm đầu chế độ toàn trị đã phải đưa HCM ngồi cạnh Marx-Lenin. Khi đó chính họ biết rằng những gì họ thần tượng hóa HCM từ tư tưởng tới đạo đức, phong cách là hoàn toàn giả dối, không có thực!:

Đặt Hồ Chí Minh ngồi cạnh Marx-Lenin để mong cứu chế độ toàn trị

Chính vì thế có một vấn nạn rất lớn đối với thành phần bảo thủ trong giới lãnh đạo của ĐCSVN là, phải tìm ra cách giải thích về sự tan rã của chế độ CS ở Liên xô và Đông Âu như thế nào để không gây ảnh hưởng bất lợi tới tương lai của đảng CSVN. Trong thâm tâm nhiều người trong họ cũng thừa biết, ngọn cờ Marx-Lenin không còn tung bay mà đang rách nát, mất sự ngưỡng mộ trên thế giới và đang có dao động lớn ngay trong hàng ngũ CSVN. Cho nên cần có một biểu tượng mới để lấp khoảng chống này. Vì vậy họ đã gán cho HCM là một tư tưởng gia và để ông bên cạnh Marx-Lenin. Tuy sự chọn lựa này của họ cho thấy ở thế bị động, nhưng về mặt tâm lí tuyên truyền họ đã đề cao sáng kiến này, vì HCM -người sáng lập chế độ- trước sau vẫn còn uy tín trong nhiều đảng viên và một phần trong nhân dân. Chính điều này Nguyễn Văn Linh đã hoan hỉ nói lên ngay trong Báo cáo Chính trị:

“Cái mới trong các Văn kiện Đại hội lần này là cùng với chủ nghĩa Mác-Lê-nin, Đảng nêu cao tư tưởng HCM. Điều đó là tự nhiên, bởi tư tưởng HCM chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lê-nin trong điều kiện cụ thể của nước ta”.

Nói rằng “điều đó là tự nhiên”, như thế Nguyễn Văn Linh đã tự lừa dối mình. Vì nếu HCM là một tư tưởng gia thì đảng phải nêu điều này từ lâu. Nhưng nay mãi tới ĐH 7 mới đưa điều này vào, như chính ông Linh xác nhận. Điều này họ tự nhìn nhận gián tiếp là, HCM không phải là một tư tưởng gia. Việc gán cho ông biệt hiệu này chỉ vì ở vào hoàn cảnh bất đắc dĩ, do ngọn cờ Marx-Lenin đã bị rách nát ngay tại cái nôi cựu Liên xô. Thần thánh hóa người sáng lập Đảng vào đúng dịp chế độ như người mất đầu, để chỉ muốn khai thác tâm lí trong một thành phần đảng viên và nhân dân về một số huyền thoại họ đã đề cao ông Hồ!

Cho tới lúc đó, người ta chỉ biết HCM là một người có tài tổ chức và biết khai thác tâm lí quần chúng nhuần nhuyễn vào sinh hoạt chính trị (với quần chúng, đối thủ và ngoại giao), đặc biệt biết khai thác và lợi dụng triệt để lòng ái quốc của người Việt. Điều này đã được nữ văn sĩ Dương Thu Hương tóm trong ý rất đúng là, nhóm cầm đầu CSVN đã coi lòng yêu nước của người Việt như một mỏ vàng. Từ một nhúm đảng viên CS lúc đầu, ông Hồ đã huấn luyện họ biết cách tổ chức, thu phục quần chúng và phân hóa đối phương theo phương châm hành động ”dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Sách lược tổ chức rất điêu luyện và tinh vi hiểm độc này được ông Hồ và các đồng chí thân cận thực hiện trong việc thành lập các Mặt trận Dân tộc, từ Mặt trận Việt minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Giải phóng miền Nam, Mặt trận Tổ quốc…; tới cách giải tán giả vờ ĐCS để che mắt Pháp, Tưởng Giới Thạch, các đảng không CS và các thành phần trí thức và nhân dân nặng lòng yêu nước. [5]

Đây là nguyên tắc hành xử, sách lược làm sao bảo vệ sự tồn tại của đảng trước những biến động từ bên ngoài, nhất là đối với các đối thủ của đảng. Câu này đã được HCM dặn dò Huỳnh Thúc Kháng và Võ Nguyên Giáp trước khi ông sang Pháp đàm phán lâu với chính phủ Pháp (giữa năm 1946). Để giữ sự tồn tại của đảng và chính quyền của đảng còn như trứng nước, tại các cuộc đàm phán ở Fontainebleau HCM đã nhượng bộ chính phủ Pháp và nửa đêm 14.9.1946 đã kí Bản Tạm ước tại tư thất của bộ Trưởng Marius Moutet, đồng ý đặt VN trong Liên hiệp Pháp và giành cho Pháp nhiều quyền lợi ở VN. Nhưng đổi lại, chính phủ non trẻ của Chủ tịch HCM đã được Pháp công nhận, khiến cho các đảng không CS lúc đó bị rơi vào tình trạng một cổ hai tròng cả Pháp lẫn chính quyền HCM.[6] Nên Võ Nguyên Giáp trong vai trò Bộ trưởng Nội vụ đã thẳng tay bắt và thủ tiêu các lãnh tụ nhiều chính đảng không hợp tác với Việt minh. Về sau này HCM cũng như các đồng chí thân cận của ông đã tìm cách đề cao thủ đoạn này, nói rằng vì quyền lợi đất nước nên đã sẵn sàng nhượng bộ Pháp. Nhưng họ không dám nói thực mưu đồ của “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, chỉ có nghĩa là phải giữ vững mục tiêu bảo vệ sự tồn tại và độc quyền của đảng bằng mọi giá, sẵn sàng uyển chuyển trong chiến thuật và cách làm. Sách lược này tiếp tục được thi thố sau này đối với nhân dân VN, đối với các đối thủ chính như Mĩ, TQ…

Còn về mặt tư tưởng lí thuyết, làm thế nào để xây dựng một nhà nước CS, mô hình nào cho phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội…thì HCM đã khoán trắng cho chủ nghĩa Marx và mô hình nhà nước của Lenin-Stalin và sau này cả của Mao Trạch Đông. Chính HCM đã nhiều lần xác nhận việc này. Nhưng dĩ nhiên những người cầm đầu sau này khi đưa ông lên là một nhà tư tưởng đã tránh không dám động đến những tuyên bố này của HCM.

Một điều có thực nữa là, sau khi “Tư tưởng HCM” được ghi bên cạnh tư tưởng Marx-Lenin, BCT đã chi một số tiền rất lớn cho các học viện nghiên cứu của đảng để viết về tư tưởng HCM trong các “Chương trình Nghiên cứu khoa học Cấp nhà nước”. Nhưng sau 10 năm, không lâu trước ĐH 9 trước sự tranh cãi giữa hai phe bảo thủ và tiến bộ về mô hình phát triển kinh tế và đất nước, chính Hà Đăng, Tổng biên tập TCCS và là một trong những nhà lí luận hàng đầu của ĐCS khi ấy đã cho biết, chính khi Liên xô sụp đổ và các nước CS Đông Âu tan rã vào cuối thập niên 80 đã làm chủ nghĩa Marx-Lenin bị hoài nghi đến cực điểm, vì thế từ ĐH 7 (1991) nhóm lãnh đạo khi đó đã phải vội vàng vá víu thêm “tư tưởng HCM” để từ đó trở thành “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng”.

Và sau 10 năm Đảng đã giao cho nhiều viện nghiên cứu hàng đầu và các nhà khoa bảng XHCN tên tuổi nghiên cứu, nhưng khi làm công việc tổng kết Hà Đăng đã cho biết: Hơn 60 định nghĩa khác nhau về Tư tưởng HCM đã được đưa ra và rồi ai cũng thấy rằng, chưa có định nghĩa nào khái quát nổi nội dung” tư tưởng của HCM.[7] Ngay cả một số người đầu đàn về lí luận khi ấy như Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Phú Trọng và Lê Xuân Tùng cũng không thể định nghĩa rõ thế nào là “tư tưởng HCM”!

Nói một cách khác, cho tới nay ngay cả những nhà khoa bảng XHCN hàng đầu cũng không thể thống nhất được với nhau, liệu có “Tư tưởng HCM” thực sự hay không, và nếu có thì nội dung như thế nào! Tuy vậy, những người cầm đầu chế độ toàn trị vẫn kết án những ai cho rằng, HCM không phải là một nhà tư tưởng và họ vẫn phát động các phong trào “Học tập Tư tưởng HCM”, bắt đảng viên và nhân dân phải nghe những câu rất sáo ngữ của ông Hồ! Giải pháp phải ghép HCM là một tư tưởng gia cho thấy nhóm cầm đầu toàn trị đang ở vào đường cùng, nên đã phải sử dụng cả gia tài của người sáng lập. Nhưng gia tài đó quá nghèo nàn!

Chẳng những thế tư cách đạo đức của HCM còn tồi tệ hơn nữa. Chính khi còn sinh thời ông Hồ đã tự thần thánh hóa mình. Dưới bút hiệu Trần Dân Tiên viết về mình (tức HCM), ông Hồ đã rất dối trá khi tự tâng bốc “nhân dân ta gọi Hồ Chủ tịch là cha già của dân tộc”![8]Theo lẽ thường một người có tư cách, biết quí tự trọng thì không thể tự khen và thần thánh hóa mình, và lại càng không được dối trá dùng một bút hiệu khác viết sách ca tụng mình! Một người mưu mô và hành động tồi tệ như vậy đã tự mình đánh mất nhân cách.

HCM không phải là một tư tưởng gia, không những thế tư cách đạo đức lại rất tồi tệ. Những sự kiện có thực và rất xấu này về HCM những người cầm đầu chế độ toàn trị từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng đều đã biết. Nhưng họ vẫn im lặng và tiếp tục thần thánh hóa HCM. Chính điều này lại càng chứng minh tư cách đạo đức của họ cũng cực kì tồi tệ như người đã sáng lập ra chế độ toàn trị! Chẳng những thế họ vẫn bắt nhân dân “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”!!!

Nguyễn Phú Trọng hãy trả lời công khai trên công luận để nhân dân biết: Nên học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách nào của HCM? Chả lẽ cứ theo Bác mở “đũa thần” Marx-Lenin đã bị lịch sử vất vào sọt rác ra làm tiếp? Chả lẽ học cách lừa dối nhân dân bằng cách tự đề cao mình như HCM đã làm không biết ngượng ngùng, không biết tự trọng, rồi bảo đó là đạo đức và phong cách đáng làm gương? Hay chả lẽ tiếp tục học tập HCM sử dụng các thủ đoạn cực kì gian dối để lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân dựng lên một chính quyền độc tài bạo ngược chỉ lo củng cố quyền lợi phe nhóm, tham nhũng rồi phản bội quay đầu đàn áp lại nhân dân?

31.8.2019

Ghi chú

[1] . Tiếng dân, bản tin ngày 31.8.19

[2] . Ông Trọng nói với giới trẻ trong Đoàn Thanh niên CS HCM ngày 27.8.19

[3] . Công an Nhân dân 26.3.16

[4] . VNExpress 30.8.14; Bùi tín, Hoa xuyên tuyết, tr.110 tiếp theo

[5] . Âu Dương Thệ, die Vietnampolitik der USA -von der Johnson zur Nixon-Kissinger Doktrin 1979, tr. 40 t.th.

[6] . Vương Văn Bắc, Lịch sử VN cận đại, Viện đại học Đà lạt 1966, tr. 110 t.th; ThS. Nguyễn Thị Ánh, Huỳnh Thúc Kháng – một tấm gương hết lòng vì nước, vì dân, Cộng sản diện tử 29.9.16

[7] . Hà Đăng, tìm hiểu nội dung dự thảo các văn kiện trình ĐH 9 của đảng -nền tảng tư tưởng của đảng ta, ND 6.12.2000

[8] . Trần Dân Tiên (bút hiệu của HCM), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của HCM, Hà nội 1976,tr. 149. Chính tờ CS đã xác nhận Trần Dân Tiên là một trong số ít nhất 175 bút hiệu của HCM, http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-su-dang/doc- 010720152043156.htm l; Bùi Tín, Hoa xuyên tuyết, tr. 110 t.th; BBC 25.11.18

BAOTIENGDAN.COM
Bao giờ Nguyễn Phú Trọng dám sớm về vườn để biết học làm “người tử tế”? Bởi AdminTD – 31/08/2019 Âu Dương Thệ 31-8-2019 Tại sao lại cứ giương cờ HCM không có thật? Từ mấy tháng nay lợi dụng tình trạng Nguyễn Phú Trọng bị bện…

GIÁO TRÌNH VN KHÔNG CẦN THÊM, CHỈ CẦN BỚT 

Image may contain: 1 person, text
Việt Tân

GIÁO TRÌNH VN KHÔNG CẦN THÊM, CHỈ CẦN BỚT 

Ngô Trường An

Nghe lão Nhạ nói: “Sẽ nhập các giáo trình đào tạo tiên tiến để sinh viên khỏi phải đi du học nữa”. Há há!!!

Thế “nhập” giáo trình nước ngoài về rồi ai dạy? Hay phải “nhập” luôn giáo sư ở nước ngoài về giảng? Rồi còn phải “nhập” luôn nếp sống văn minh, môi trường tự do học đường của nước ngoài để sinh viên được quyền biểu đạt chính kiến mà không bị hạ điểm đạo đức hay bị cảnh cáo vì quan điểm sai lệch nữa phỏng?

Giáo trình, mà ông nói nhập như nhập phân bón hay thức ăn gia súc… Thì đủ biết trình bộ trưởng của ông nằm ở đâu rồi! Theo tôi, nền giáo dục nước nhà khỏi cần đưa thêm bộ môn nào nữa, mà cần phải loại bỏ bớt đi, dẹp bớt đi những môn học vô ích như:
– Lịch sử đảng
– CNXH khoa học
– Duy vật lịch sử 
– Triết học duy vật biện chứng
– Tư tưởng HCM
– Đạo đức phong cách HCM ….

Học mấy môn này SV tốn quá nhiều thời gian, cha mẹ chúng nó tốn rất nhiều tiền. Nhưng khi ra đời chúng chẳng áp dụng vào lĩnh vực nào để kiếm nổi chén cơm, thì nhà trường cố nhồi nhét vào đầu HS – SV để làm gì?

Trước khi nghĩ đưa giáo trình của các nước văn minh về áp dụng cho giáo dục nước nhà, thì trước hết, phải loại bỏ mấy môn giẻ rách vô tích sự đó đi.

Muốn thay áo mới, trước hết phải lột áo cũ. Ông hiểu chưa!

*Admin đặt tựa

MỘT NỀN TƯ PHÁP BẤT NHÂN

Ngo Thu
MỘT NỀN TƯ PHÁP BẤT NHÂN

__________
Cảnh sát điều tra viết thêm vào biên bản hỏi cung: nguồn cơn án oan?
Hoà Ái / RFA
Khởi tố cảnh sát điều tra

Trong bản tin loan đi ngày 29/08/19, Báo mạng Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết Cơ quan Điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao vừa tống đạt quyết định khởi tố bị can đối với Trung tá Nguyễn Việt Cường, 43 tuổi, cựu điều tra viên thuộc Công an thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên theo khoản 2, Điều 375 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trung tá Nguyễn Việt Cường bị buộc tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, do tự ý viết thêm nội dung vào biên bản hỏi cung một vụ án hình sự liên quan vận chuyển và mua bán trái phép chất ma túy hồi tháng 7 năm 2012.

Tại thời điểm đó, Trung tá Nguyễn Việt Cường, được giao trách nhiệm thụ lý điều tra vụ án trong vai trò là Đội trưởng Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm ma túy Công an thành phố Tuy Hòa.

Báo mạng Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh cho biết rõ rằng vụ án vừa nêu được đưa ra xét xử sơ thẩm hồi tháng 3 năm 2014 và phúc thẩm vào tháng 9 cùng năm.

Tại phiên phúc thẩm, Tòa án Nhân dân tỉnh Phú Yên hủy bản án sơ thẩm đối với Nguyễn Hồng Ngọc Anh, một trong các bị cáo của vụ án để điều tra lại. Và trong quá trình điều tra lại vụ án, Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Tuy Hòa đã phát hiện Trung tá Nguyễn Việt Cường tự ý viết thêm nhiều nội dung vào các bản cung có tính chất buộc tội đối với bị can, làm sai lệch hồ sơ vụ án. Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Tuy Hòa đề nghị giám định các biên bản hỏi cung này.

Ở Việt Nam, việc bức cung, dùng nhục hình và làm sai lệch hồ sơ điều tra thì xảy ra rất nhiều. Trong thời gian đi tù và nghe bạn tù nói về nhiều việc như bị tra tấn, bị bức cung nhục hình và bị bắt ký vào những tờ biên bản để trống. Gần đây nhất là trường hợp tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa bị lập biên bản và bị bắt ký vào những biên bản vẫn còn khoảng trống. Hóa đã không chịu ký thì bị đánh
-Blogger Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải
Kết quả, cảnh sát điều tra Nguyễn Việt Cường bị đình chỉ chức Trưởng Công an phường Phú Thạnh, thành phố Tuy Hòa và bị tạm đình chỉ công tác để phục vụ điều tra trước khi nhận được quyết định khởi tố của Cơ quan Điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao.

Không phải là trường hợp cá biệt

Vào tối ngày 29 tháng 8, Luật sư Phạm Công Út lên tiếng với RFA rằng theo ghi nhận của ông thì trường hợp Trung tá Cảnh sát Điều tra Nguyễn Việt Cường tự ý viết thêm vào bản cung không phải là trường hợp cá biệt:

“Theo kinh nghiệm, tôi thấy hiện tượng đó là nhiều. Thậm chí là rất nhiều. Việc (cảnh sát điều tra) viết thêm, điền thêm diễn ra rất nhiều bởi vì khi lấy lời khai của bị can hoặc của người bị tình nghi thì các bản cung không có khóa cái đuôi, tức là phần cuối cùng của bản cung thường để trống và cảnh sát điều tra kêu bị can, người bị tình nghi hay người bị tố giác ký tên vào. Những người bị điều tra thường lâm vào tình trạng mệt mỏi do làm việc mấy tiếng đồng hồ liên tục, mà đa số họ không để ý phần cuối cùng để trống còn lại là phải gạch chéo, phải khóa đuôi do đó sau khi ký tên rồi thì phía điều tra viên có thể thêm, bớt. Thậm chí có những bản cung không có chữ mà bị can vẫn phải ký tên vô vì người ta sợ hãi mà ký vào. Chúng tôi chứng kiến một số vụ án khi ra tòa, bị cáo nói là phần này họ không khai nhưng chữ ký thì đúng là chữ ký của bị cáo. Phần viết thêm đó gọi là là phần bất lợi nhất trong toàn bộ bản cung, dựa vào phần cuối của bản cung để kết tội.”

Cựu tù nhân lương tâm, Blogger Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải cũng xác nhận tình trạng này với RFA:

“Ở Việt Nam, việc bức cung, dùng nhục hình và làm sai lệch hồ sơ điều tra thì xảy ra rất nhiều. Trong thời gian đi tù và nghe bạn tù nói về nhiều việc như bị tra tấn, bị bức cung nhục hình và bị bắt ký vào những tờ biên bản để trống. Gần đây nhất là trường hợp tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Hóa bị lập biên bản và bị bắt ký vào những biên bản vẫn còn khoảng trống. Hóa đã không chịu ký thì bị đánh.”

Trung tá Cảnh sát Nguyễn Việt Cường ở tỉnh Phú Yên bị khởi tố theo khoảng 2, Điều 375 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Trung tá Cảnh sát Nguyễn Việt Cường ở tỉnh Phú Yên bị khởi tố theo khoảng 2, Điều 375 Bộ luật Hình sự năm 2015. Courtesy: Ảnh chụp màn hình plo.vn

Qua trao đổi với Luật sư Phạm Công Út, chúng tôi được biết tình trạng cảnh sát điều tra tại Việt Nam thường tự ý viết vào bản cung là do phía nhân viên điều tra bị áp lực về thời hạn tố tụng, tức là thời gian điều tra bị giới hạn và họ phải nhanh chóng hoàn tất hồ sơ điều tra để đạt thành tích thi đua. Bên cạnh đó cũng không thể không bỏ sót vì mục đích tư lợi của nhân viên điều tra mà họ thay đổi thêm, bớt nội dung trong bản hỏi cung.

Một số luật sư còn nhấn mạnh với RFA rằng mặc dù tại các phiên tòa, bị cáo nói rằng họ không cung khai theo như trong bản cung và dù luật sư và hội đồng xét xử có thể nghi ngờ, thế nhưng hội đồng xét xử phó mặc số phận của bị cáo mà họ chỉ tuyên theo hồ sơ điều tra và do đó hậu quả là có rất nhiều oán oan tại Việt Nam.

Đài Á Châu Tự Do nêu vấn đề với Luật sư Phạm Công Út, rằng có phải trường hợp hiếm hoi của Trung tá Nguyễn Việt Cường bị phát hiện và bị khởi tố bởi vì hồ sơ vụ án được yêu cầu điều tra lại hay không, và được ông trả lời:

“Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì theo Luật Tố tụng quy định là điều tra viên không bị thay đổi trong trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc án bị hủy; vẫn là điều tra viên đó. Cho dù đầu tiên do điều tra viên làm sau đó đưa ra xử sơ thẩm, rồi xong việc. Sau đó đưa ra xử phúc thẩm, xử xong rồi hủy và quay lại thì không thay đổi điều tra viên và kiểm sát viên. Hai chủ thế đó không bị thay đổi. Chỉ có chủ thể hội đồng xét xử bị thay đổi, tức là đã tham gia xét xử rồi thì không được xét xử nữa. Tức là đã tiến hành tố tụng rồi thì không được tiến hành tố tụng nữa. Còn riêng điều tra viên, kiểm sát viên thì không bị rơi vào ‘vùng cấm’ đó do đó họ vẫn tiếp tục điều tra và họ phải bảo vệ cái sai trước đó của họ.”

Kêu gọi minh bạch trong tư pháp

Đài RFA ghi nhận có thể nói vụ việc Trung tá Cảnh sát Điều tra Nguyễn Việt Cường là trường hợp lần đầu tiên được truyền thông nhà nước loan tin kể từ sau khi Ủy ban Chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc đưa ra các khuyến nghị cho Việt Nam cần thực hiện theo Công ước Chống tra tấn, sau phiên họp định kỳ lần thứ 65 của Ủy ban Chống tra tấn của Liên Hiệp Quốc diễn ra hồi trung tuần tháng 11 năm 2018 cũng như các tổ chức nhân quyền và chính phủ trên thế giới kêu gọi Việt Nam cải tổ hệ thống tư pháp minh bạch hơn.

Theo Luật Tố tụng quy định là điều tra viên không bị thay đổi trong trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc án bị hủy; vẫn là điều tra viên đó. Cho dù đầu tiên do điều tra viên làm sau đó đưa ra xử sơ thẩm, rồi xong việc. Sau đó đưa ra xử phúc thẩm, xử xong rồi hủy và quay lại thì không thay đổi điều tra viên và kiểm sát viên. Hai chủ thế đó không bị thay đổi. Chỉ có chủ thể hội đồng xét xử bị thay đổi, tức là đã tham gia xét xử rồi thì không được xét xử nữa. Tức là đã tiến hành tố tụng rồi thì không được tiến hành tố tụng nữa. Còn riêng điều tra viên, kiểm sát viên thì không bị rơi vào ‘vùng cấm’ đó do đó họ vẫn tiếp tục điều tra và họ phải bảo vệ cái sai trước đó của họ-
Luật sư Phạm Công Út
Blogger Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải lưu ý mặc dù quy định pháp luật của Việt Nam ghi rõ phải có sự tham gia của luật sư trong quá trình điều tra, tuy nhiên trên thực tế hầu hết các cuộc điều tra của cảnh sát điều tra đều không có mặt của luật sư cũng như không có sự giám sát nào để bảo vệ cho người bị điều tra. Blogger Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải khẳng định rằng ở Việt Nam, công an luôn bắt người trước rồi mới điều tra sau với động cơ để buộc tội, chứ không phải điều tra để chứng minh người bị bắt vô tội. Và, theo nhận định của Blogger Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải thì giới luật sư và người dân phải vận dụng quy định của pháp luật cũng như có sự vào cuộc của truyền thông thì những vụ việc như của nhân viên điều tra-Trung tá Nguyễn Việt Cường mới bị phơi bày và mang ra ánh sáng.

Luật sư Phạm Công Út cho rằng trường hợp Trung tá Cảnh sát Điều tra ở tỉnh Phú Yên bị phát hiện và bị khởi tố là vì đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của địa phương và do Cơ quan Điều tra Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao thụ lý. Luật sư Phạm Công Út lý giải ngày càng nhiều người dân được giới luật sư hỗ trợ về kiến thức pháp luật nên những trường hợp như thế bị phanh phui và tố cáo trực tiếp lên cấp Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao để giải quyết.

Luật sư Phạm Công Út và một số luật sư mà Đài RFA tiếp xúc mong muốn truyền thông nhà nước tích cực hơn nữa trong việc phổ biến kiến thức pháp luật rộng rãi đến dân chúng để họ nhận biết thế nào là nhóm tội “xâm phạm hoạt động tư pháp”, như trường hợp nhân viên điều tra tự ý viết thêm vào bản cung, để người dân có thể chủ động tố cáo theo đúng thủ tục và trình tự pháp lý đến Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao nhằm góp phần hạn chế những bản án oan sai tại Việt Nam.

About this website

RFA.ORG
Một cảnh sát điều tra ở tỉnh Phú Yên bị khởi tố do tự viết thêm vào biên bản hỏi cung. Đây chỉ là một trường hợp hy hữu bị phát hiện hay tình trạng cảnh sát điều tra Việt Nam lạm quyền trong việc lập biên bản khi hỏi cung?

Lầu Năm Góc lên án Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của Việt Nam

Lầu Năm Góc lên án Trung Quốc cản trở hoạt động dầu khí của Việt Nam
Trọng Nghĩa
Trụ sở bộ Quốc Phòng Mỹ (Lầu Năm Góc), Washington DC.Getty Images/UIG/Hoberman Collection

Sau bộ Ngoại Giao, hôm qua 26/08/2019, đến lượt Bộ Quốc Phòng Mỹ chính thức lên tiếng tố cáo Trung Quốc bức hiếp Việt Nam trong vấn đề khai thác dầu khí ở Biển Đông.

Continue Reading

Hoàng Nguyên Vũ: Gateway, đừng ác một cách vô nhân tính như thế!

Hoa Kim Ngo
Tiếng Dân: Hoàng Nguyên Vũ: Gateway, đừng ác một cách vô nhân tính như thế!

Cứ giả sử như là cháu Long chết trên xe. Cứ giả sử như là bà Quy bỏ quên cháu thật. Cứ giả sử như cái trường quốc tế kia đã thành công trong việc muốn người ta phải tin cháu chết vì bị bỏ quên trên xe. Thì:

– Cháu Long đã bị cô giáo chủ nhiệm quên, đã bị chính những người thu tiền cha mẹ cháu cũng như thu tiền bao cháu khác quên. Và bị chính cái ngành giáo dục này quên. Họ đã quên có một đứa bé tồn tại trên đời này. Họ khốn nạn đến thế và hiện họ vẫn ung dung tồn tại. Họ chưa bị bắt, giống như cơ quan pháp luật đang bắt bà Quy. Nhưng chắc chắn rằng, nghiệp sẽ không buông tha cho họ!

– Về nghĩa đen, ai là người cuối cùng quên cháu? Nếu bà Quy và lũ trẻ đi rồi, ông tài xế Phiến chính là người bỏ quên cháu Long. Một cái cửa đẩy rộng thênh thang. Một chiếc kính chiếu hậu to lù lù. Ông không nhìn thấy gì sao? Và ông đóng nó lại, để đứa bé bị nhốt để rồi chết trong đó. Ông Phiến đâu? Nếu ông ấy còn sống, sao chưa thấy tin tức về trách nhiệm của ông trong cái chết của đứa trẻ, mà lại đi thanh minh một tin đồn rằng ông ấy còn sống?

Một bà dẫn trẻ không thể một mình làm trẻ chết. Và cũng không một mình nhận hết mọi thứ. Ai đã không gọi cho bà nói rằng rõ ràng hôm nay đang thiếu một đứa trẻ? Ai đã không gọi cho cha mẹ cháu hỏi sao hôm nay không dẫn cháu đến trường? Ai đã không gọi cho tài xế để hỏi hôm nay có qua nhà đón cháu không?

Quên ư? Đừng ác với người dân như thế chứ? Như thế này mà có thể nói là quên được?

Rồi, tôi không giả sử cháu bị chết ngạt được. Mặc dù, với một đứa trẻ chết, tôi có quyền đặt nhiều câu hỏi hơn. Thì rằng, bao nhiêu người có lương tâm đã đặt rồi.

Một đứa trẻ chết ngạt trên xe tự ngoan ngoãn thay áo màu trắng rồi tự biển thủ luôn cái áo màu đỏ, sau đó nằm chết một cách ngoan ngoãn, để rồi khi được bê xuống khỏi xe, cơ thể thẳng tưng thế được ư?

Không, cái tư thế chết thẳng tưng ấy, khó có thể là tư thế của một em bé bị chết ngạt. Và cứ cho là chết ngạt đi, trên cái băng ghế chật chội và ngắn, chân em bé có thể duỗi thẳng được như thế không?

Rồi nữa, nhìn kỹ đi, khi bé được bế xuống khỏi xe. Khi cửa xe mở, có một người đàn ông tự dưng lao ra bay qua cả hàng rào an ninh bế bé rất vội vàng vào trường.

Nhân vật này là ai? Tại sao biết trên xe có một em bé chết khi xem ở cự ly rất xa, trong khi bảo vệ thì vẫn đi thủng thẳng, rồi từ đâu trong góc khuất, ông ta nhảy ra bế cháu Long vào vội vàng như thế?

Phải chăng trong cái nhanh của anh ta, trong cái clip hiếm hoi trong hệ thống camera chết ngắc, đúng hơn là chết tiệt, cũng đã hé mở khá nhiều sự thật? Ừ, cũng phải tòi một clip còn lại cho thấy cháu “chết trên xe”, nhưng lại cho thấy một sự thật khác, một người đàn ông như được “cài đặt sẵn” chế độ lao ra và bế cái xác vào ngay tức khắc.

Vâng, oan hồn hồn hiện, quả báo chẳng trừ ai đâu. Ác cũng ác vừa phải thôi, đừng ác một cách vô nhân tính như thế.

 THÁNH AUGUSTINÔ, BẬC TRÍ THỨC CỦA MỌI THỜI

 THÁNH AUGUSTINÔ, BẬC TRÍ THỨC CỦA MỌI THỜI

Đối với Augustinô, người Kitô hữu phải kết hợp thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô.  Vả lại, cuộc sống Kitô hữu là gì, nếu không phải là mặc lấy Chúa Kitô, tái sinh trong Thiên Chúa và trong sự thăng tiến tâm linh cho đến lúc gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt? 

  1. Hối nhân trở thành thánh nhân

Thánh Augustinô sinh ngày 13 tháng 11 năm 354, tại Tagaste, nay là thành phố Souk-Ahras thuộc nước Algeria, nằm phía Bắc Phi Châu.  Cha ngài là thị trưởng Patricius, thuộc gia tộc quyền quý và mẹ là Monica, một tín hữu công giáo, đạo hạnh, gương mẫu và giàu nhân đức.  Mẹ Monica đã kiên trì cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn và mở lòng người chồng và người con trai yêu quý tìm về nguồn Chân Thiện Mỹ.  Ơn Chúa rất huyền nhiệm và linh động nơi cuộc đời Augustinô.

Khi còn bé, Augustinô là một cậu bé tinh nghịch, thông minh xuất chúng, nên cậu là niềm hãnh diện của ông Patricius.  Sau 16 năm sống với gia đình tại Tagaste, ngài đã được cha mẹ cho đi học về văn khoa hùng biện tại Carthage vào cuối năm 370.

Thành phố Carthage là một thành đô phồn thịnh, những toà nhà nguy nga lộng lẫy, thổ dân ở đây đa số là đa thần, và lối sống cao xa dễ đưa con người vào con đường xa hoa trụy lạc.  Cuộc sống ở đô thành đã thu hút biết bao bạn trẻ, và Augustinô cũng không ngoại lệ.  Tuy con đường học vấn trổi vượt hơn các bạn học nhưng đời sống tâm linh và luân lý bị suy sụp.

Năm 19 tuổi, Augustinô đã trở thành giáo sư triết học.  Sự thành công trong học vấn đã tạo cho ngài một chỗ đứng vững vàng trong xã hội.  Những kiến thức thâm thúy và sự khôn ngoan của triết gia Cicero đã gợi trong tâm thức Augustinô nỗi khát vọng tìm kiếm sự khôn ngoan chân thật.  Khi nghe giáo chủ của giáo phái Manikê hùng biện về giáo thuyết của họ, ngài bị thu hút và đã gia nhập giáo phái này.  Với tài hùng biện sẵn có, ngài đã thuyết phục được bao nhiêu người gia nhập vào giáo phái đó.

Sau những năm theo học tại Carthage, năm 373, ngài trở về quê Tagaste, nhưng mẹ ngài không thể đón nhận một người thuộc bè phái Manikê dù đó là con trai của mình.  Nhưng tình yêu đã khiến Monica tha thứ và hết lời khuyên con trở về chính lộ.  Thời gian ở Tagaste, Augustinô đã mở lớp dạy môn khoa Ngữ Văn để kiếm tiền sinh sống.

Suốt 9 năm làm tín đồ Manikê, đến năm 383, khi tròn 29 tuổi, ngài ao ước sang Ý để lập nghiệp, nhưng ý định này không được mẹ tác thành.  Tuy nhiên, ngài vẫn trốn mẹ mà đi sang thánh đô Rôma, nước Ý.  Khi đến nơi, ngài đã lâm trọng bệnh và sau khi hồi phục ngài đã mở lớp dạy chuyên khoa văn hùng biện.  Học sinh ở đây không trả lệ phí nên ngài nản lòng và bỏ dạy.  Cuối cùng, ngài xin dạy tại đại học ở Milan.  Là một giáo sư dạy triết học, ngài say mê tìm kiếm và đào sâu vào triết lý của Plato. 

Năm 384-387, là giai đoạn khủng hoảng niềm tin.  Giai đoạn khủng hoảng được chấm dứt khi ngài nghe bài giảng thật huyền nhiệm của thánh Giám mục Ambrôsiô.  Phục Sinh năm 387, Augustinô được Rửa tội tại Nhà thờ Milan.  Ít lâu sau, đang khi phải chiến đấu dữ dội với những ham muốn của xác thịt, ngài đã nghe như có tiếng thúc bách từ nội tâm là hãy cầm sách Thánh lên để đọc.  Ngài mở thư thánh Phaolô gửi cho giáo đoàn Rôma: “Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương.  Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng” (Rm 13,13-14).  Niềm vui và sự bình an khôn tả tràn ngập tâm hồn Augustinô và đã biến đổi cuộc đời của ngài hoàn toàn.

Hè năm 387, Augustinô cùng với mẹ và các bạn đồng hành đến cảng Ostia.  Ít lâu sau, mẹ ngài qua đời và được chôn cất tại đây.  Năm 388, ngài trở về Tagaste.  Cùng với người bạn Alypius, ngài đã thành lập đan viện để sống chiêm niệm.  Năm 391, ngài được phong chức linh mục thành Hippo và ở đây cho đến chết.

Khi nhận ra Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ, ngài đã viết rất nhiều sách để phi bác các lạc thuyết thời bấy giờ.  Năm 395, ngài được phong làm phụ tá Đức Giám mục thành Hippo.  Sau khi Đức Giám mục Valerius thành Hippo băng hà năm 396, thánh Augustinô lên kế vị.  Sự khôn ngoan và thánh thiện của ngài đã giúp cho Giáo hội Phi Châu tiến triển rất nhiều.  Ngài còn để lại những bộ sách quý giá về thần học, minh giáo và chú giải Thánh Kinh.  Trong suốt quãng thời gian làm Giám mục, ngài còn thể hiện một tinh thần khiêm tốn và tình huynh đệ bác ái tuyệt hảo đối với các linh mục dưới quyền ngài.

Sau khi trở lại, thánh Augustinô sống nhưng không còn phải là ngài sống nữa, mà là Đức Kitô sống nơi ngài.  Khi mọi sự đã hoàn tất, Chúa đã gọi ngài một lần nữa qua cơn bệnh trầm trọng và đã qua đời ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippo.  Ngài đã được phong thánh và được nâng lên hàng Tiến sĩ Hội Thánh vào năm 1303.

Thánh Augustinô trở lại vào năm 33 tuổi và 3 năm sau Ngài trở thành linh mục, rồi năm 41 tuổi làm giám mục.  Ngài biết Chúa và yêu Chúa tuy muộn màng nhưng thật nồng cháy “Con đã yêu mến Ngài quá muộn, ôi Đấng tốt đẹp rất cổ kính và rất tân kỳ!  Con đã yêu mến Ngài quá muộn!

“Này, Ngài vốn ở trong con, mà con lại ở ngoài con và vì thế con tìm Ngài ở bên ngoài; là kẻ xấu xa, con đã lăn xả vào những vật xinh đẹp Ngài đã tạo dựng nên.  Ngài đã ở với con mà con lại không ở với Ngài.  Chính những vật, nếu không hiện hữu trong Ngài thì không bao giờ hiện hữu, đã cầm giữ con xa Ngài.  Ngài đã kêu gọi, đã gào thét, đã thắng sự điếc lác của con.  Ngài đã soi sáng, đã chiếu rọi, đã xua đuổi sự mù lòa của con.  Ngài đã tỏa mùi thơm của Ngài ra và con đã được hít lấy và đâm ra say mê Ngài.  Con đã được nếm Ngài, và đâm ra đói khát Ngài; Ngài đã đụng tới con và con ước ao sự bình an của Ngài” (Tự thuật X, 27, 38).  Ngài đã cầu nguyện, đọc tìm hiểu Kinh Thánh và lắng nghe Lời Chúa nên luôn thao thức “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I, 1, 1).

  1. Thánh Augustinô, bậc trí thức của mọi thời

Thánh Augustinô để lại cho Giáo hội một kho tàng tư tưởng quý giá trong 252 cuốn sách lớn nhỏ, 509 bài giảng đủ loại, và 207 lá thư xa gần.  Những tư tưởng bất hủ của ngài thường được trích từ ba cuốn sách nổi tiếng là: Những thú nhận, Thành trì của Thiên Chúa, về Chúa Ba Ngôi.

Nội dung tư tưởng phần lớn tập trung vào ba lãnh vực: Triết học, thần học, linh đạo.  Hình thức ngài dùng để diễn tả nội dung là rất phong phú.  Tất cả đều mang dấu ấn của một người học cao về văn chương và hùng biện.

Đọc những tác phẩm của thánh Augustinô, người nghiên cứu thấy: Phần, mà ngài nhận được bởi người khác, là rất đa dạng.  Phần, mà ngài tự suy nghĩ ra, là rất sâu sắc.  Ngài đã là giáo sư ở Thagaste, Carthage, Roma và Milan.  Ngài có quan hệ mật thiết với nhiều bạn bè trí thức, trong đó có thánh Ambrôsiô.

Trí thức của thánh Augustinô được nhận thấy ở điểm chung này là: Say mê đi tìm sự thật, lẽ phải và đức khôn ngoan.  Đối tượng là Thiên Chúa và con người.  Sau khi đã mải miết đi tìm ở các trường phái, các trường học, các học giả, thánh nhân đã đi tìm nơi Đức Kitô.  Ngài thú nhận: Chỉ Đức Kitô mới cho ngài thấy rõ sự thực, lẽ phải và sự khôn ngoan.  Chỉ Đức Kitô mới là thầy chỉ cho ngài thấy con đường phần rỗi.  Đức Kitô dạy ngài qua gương đạo đức của mẹ ngài là thánh Monica, qua Lời Chúa và trong nội tâm sâu thẳm của ngài.  Ngài ghi lại tất cả cuộc đời thăng trầm của ngài một cách rất khiêm nhường.  Với những tư tưởng trí thức trộn vào những kinh nghiệm bản thân, thánh Augustinô đã phản bác các bè rối một cách trí thức và đạo đức.  Cũng với trí thức và đạo đức, ngài đã lập cộng đoàn tu viện ở Thagaste, đã sống đời mục vụ khi làm giám mục ở Hippone.  Tại đây, ngài cũng đã trí thức trong lối sống của ngài.

Một chọn lựa đã được thánh Augustinô hay nhắc tới, đó là đời sống bên trong hơn đời sống bên ngoài.  Trong mục vụ, thánh Augustinô lo cho đời sống bên ngoài của con chiên bằng nhiều cách, nhất là bằng cách dạy bảo, cảnh báo, khuyên răn.  Nhưng điều quan trọng hơn ngài luôn cố gắng là, lo cho con chiên đi vào nội tâm mình, để gặp gỡ Đức Kitô.  Trong cố gắng ấy, ngài thường nhấn mạnh đến đời sống phục vụ trong yêu thương, tình nghĩa theo gương Đức Kitô.  Chính Đức Kitô mới là Đấng dạy dỗ nội tâm và đổi mới con người bên trong.  Vì thế, mục đích sau cùng, mà ngài nhắm tới trong mọi bài giảng, là dẫn con người đến với Đức Kitô.

Thánh Augustinô là niềm tự hào của giáo phận Hippone, của Hội Thánh Phi châu, của Hội Thánh toàn cầu.

Nếu nhìn Hội Thánh Việt Nam qua gương trí thức của ngài, chúng ta sẽ thấy mình còn nhiều điều phải cố gắng thêm.

Bước đầu của trí thức là biết nhận thấy vấn đề.  Trong lãnh vực tư tưởng cũng như trong lãnh vực đời sống, trí thức vẫn là một tiếng gọi.  Dù đối thoại, dù đối kháng, chúng ta cần phải trí thức.  Nhất là trí thức Phúc Âm.  Những chọn lựa đạo đức, nếu thiếu chiều sâu trí thức, sẽ khó có thể làm cho Chúa được vinh quang trên đất nước Việt Nam hôm nay một cách hữu hiệu và lâu bền.

Trên đất nước Việt Nam hôm nay và ngày mai, trí thức đang và sẽ phát triển ở mọi tầng lớp.  Trí thức cũng đang được khát khao ngay ở thôn quê bình dân nghèo túng.

Ước mong Công giáo Việt Nam khi hiện diện và đồng hành, sẽ không thiếu một đội ngũ trí thức tầm cỡ đi đầu.  Vừa trí thức trong đạo, vừa trí thức ngoài đời.  Khối trí thức ấy sẽ sát cánh kề vai với các trí thức xã hội, để cùng với tất cả đồng bào, xây dựng quê hương chung là Việt Nam yêu mến của chúng ta.  Chúng ta thành khẩn dâng lên Chúa mong ước trên đây với tâm tình cầu nguyện khiêm cung. (x. Vietcatholic 27-8-2010, nhân lễ kính thánh Augustinô, suy nghĩ về trí thức; ĐGM Bùi Tuần).

  1. “Giám mục vì anh chị em, Kitô hữu với anh chị em”

Cho anh chị em, tôi là Giám mục, cùng với anh chị em tôi là Kitô hữu. Tước hiệu thứ nhất là trách vụ đã lãnh nhận, tước hiệu thứ hai là của ân sủng.  Tước hiệu đầu nói lên mối nguy hiểm, tước hiệu sau nói lên ơn cứu độ.

Thánh Augustinô đã sống một đời sống cầu nguyện liên lỉ, không ngừng đào sâu Kinh Thánh.  Kinh nguyện trong cộng đoàn giúp ngài thêm mạnh mẽ.  Sự ân cần của ngài đối với mọi người luôn là một huyền thoại: những người dự tòng chuẩn bị bí tích Rửa Tội, những người bị mất phương hướng luân lý viết thư xin ngài chỉ giáo, những giáo lý viên chán nản, những linh mục mất định hướng thần học…

Đối với Augustinô, người Kitô hữu phải kết hợp thành một thân thể duy nhất với Chúa Kitô.  Vả lại, cuộc sống Kitô hữu là gì, nếu không phải là mặc lấy Chúa Kitô, tái sinh trong Thiên Chúa và trong sự thăng tiến tâm linh cho đến lúc gặp gỡ Thiên Chúa mặt đối mặt?

Cầu nguyện

Ôi thánh Augustinô ngàn đời hạnh phúc.
Thiên Chúa đã chọn Ngài để trở thành mục tử của Hội Thánh. 
Thiên Chúa đã ban cho Ngài đầy tinh thần Khôn ngoan và thông hiểu. 
Suốt đời, Ngài đã tìm kiếm Thiên Chúa với cả con tim thổn thức của mình. 
Trong đức tin, với lòng tín thác, tình yêu và sự bền chí, chúng con kêu cầu Ngài vì Ngài là cha chúng con: 
Xin giúp chúng con được củng cố trong đức tin, đức cậy và đức mến. 
Xin giúp chúng con biết noi gương Ngài luôn khát khao Thiên Chúa là nguồn mạch của sự khôn ngoan đích thực. 
Xin cũng giúp chúng con tìm thấy sự nghỉ an trong Thiên Chúa, chủ thể tình yêu vĩnh cửu mà thôi. Amen.

(Lời nguyện trong tuần cửu nhật chuẩn bị Năm Thánh của Tiểu chủng viện Thánh Augustinô-Koupélà).

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An