Lincoln và bên thắng cuộc

Lincoln và bên thắng cuộc

Tết rồi, một người bạn Nhật Bản không về nước nên mời tôi xông đất theo tục lệ Việt; rồi ăn tối. Sau đó, cả 2 gia đình mở lên cuốn phim mới “Lincoln” để cùng ngồi coi. Cuốn phim bắt nguồn từ một cuốn sách khảo sát và tổng hợp các sự kiện lịch sử trong 4 tháng sau cùng của cuộc đời Tổng Thống Mỹ Lincoln (Tác giả: Doris Kearns Goodwin‘s ; tên sách, Team of Rivals: The Political Genius of Abraham Lincoln). Thời điểm là tháng giêng năm 1865, vào những ngày cuối của cuộc Nội Chiến Bắc Nam (Civil War); đã kéo dài 4 năm và đã tổn phí 600,000 sinh mạng của lính 2 bên.

Lãnh tụ của bên thắng cuộc

Lúc này, phần thắng coi như đã trong tầm tay của miền Bắc (đội Union). Miền Nam (đội Confederate) đang xin thương thuyết một cuộc đầu hàng với vài lá bài còn lại. Cho những ai chưa quen thuộc với cuộc Nội Chiến, nguyên nhân bắt đầu là sự xóa bỏ chế độ nô lệ trong xã hội Mỹ. Kinh tế miền Nam, chủ yếu là đồn điền nông trại, rất cần các nô lệ từ Phi Châu để điều hành. Sự giải phóng nô lệ (một loại tài sản) sẽ tạo mất mát và khủng hoảng kinh tế sâu rộng; trong khi miền Bắc không chịu ảnh hưởng kinh tế này nên chỉ muốn tiến tới một xã hội công bằng và nhân quyền của mọi người được tôn trọng hơn.

Lincoln vừa thắng cử nhiệm kỳ hai và được cử tri bình dân yêu chuộng nhờ tài hùng biện trên các diễn đàn và lối sống giản dị; trong khi các tầng lớp thượng lưu của giới chánh trị và tư bản không mặn mà với những tư duy tiến bộ mà họ cho là quá mạo hiểm cho quốc gia.

Câu chuyện quay quanh cố gắng của Lincoln lấy cho được sự chấp thuận của Hạ Viện (cần 2/3 số phiếu) để thông qua Tu Chính số 13 của Hiến Pháp Mỹ đặt “hệ thống sở hữu và điều hành nô lệ ngoài vòng pháp luật” trên mọi tiểu bang. Lý do là dù thắng trận, nếu nô lệ vẫn còn là “tài sản hợp pháp” của người dân và tùy thuộc vào luật lệ của tiểu bang, ý nghĩa sự thắng trận của phe miền Bắc coi như công cốc. Trong khi đó, vì chiến thắng đã cận kề và mọi người đã mỏi mệt qua 4 năm mất mát, nên dù đảng Cộng Hòa hay Dân Chủ, không ai muốn đụng chạm đến chuyện “nô lệ” này nữa.

Cuối cùng, Lincoln và những người nô lệ hân hoan mừng thắng cuộc, trên chiến trường và nghị trường, đem vấn đề nô lệ ra khỏi lịch sử Mỹ từ đó. Hai tháng sau, Lincoln bị ám sát chết và 143 năm sau, Obama trở thành Tổng Thống da mầu đầu tiên của Mỹ.

Cuốn phim dàn dựng rất công phu và chi tiết theo đúng lối hấp dẫn khán giả của đạo diễn Spielberg; nhưng ngoài việc đang được đề cử cho giải Oscar của phim hay nhất trong năm, phim còn là một bom tấn trên thị trường. Điều này hơi lạ vì không ai nghĩ là người dân Mỹ quan tâm đến một đề tài khô khan của lịch sử, nhất là những tranh luận và thủ thuật chánh trị trong quá khứ xa vời. Với tôi, ấn tượng nhất là cuốn sách và phim “Lincoln” đã giúp cho tôi 4 góc nhìn mới về các sự kiện 150 năm về trước trong bối cảnh của thực tại hiện nay.

  1. Đây mới gọi là nghiên cứu và khảo sát lịch sử

Rất nhiều tư tưởng hiện tại về quốc gia, về các nhân vật lịch sử và về hệ quả của các hành xử chính trị hay quân sự thường dựa trên những định kiến và những tài liệu xa xưa chứa nhiều huyền thoại và sai lầm. Ngay cả trong 100 năm trở lại đây, khi tiến bộ về khoa học và nhân văn đã phổ thông toàn cầu, phần lớn những trích dẫn về dữ kiện lịch sử của Việt Nam lại đến từ ghi chép của các sử gia nước ngoài. Các tài liệu tôi đã đọc về sử Việt cho thấy những bài viết rất hời hợt, chủ quan và mang tính cách tuyên truyền cho một trường phái nào đó trên quan điểm chánh trị hay xã hội (đây là kết luận có thể sai lầm của tôi vì chưa đọc nhiều và đủ từ các sử gia Việt?).

Ngay cả khi một giả thuyết nghi ngờ về thân thế của một nhân vật lịch sử quan trọng xuất hiện trên mạng, đề tài này được bàn tán sôi nổi vì bí mật bao quanh sự kiện. Một cuộc khảo sát DNA mất 5 phút có thể cho ta lời giải đáp chính xác. Nhưng không một sử gia nào được phép liên quan. Khi khoa học và minh bạch đi vắng, thì góc nhìn của mọi người nhất định phải bị méo mó và thui chột.

Cuốn sách của Goodwin chỉ phủ trùm 4 tháng của cuộc đời Lincoln và chì đặt trọng tâm vào sự kiện Tu Chính 13 của Hiến Pháp Mỹ. Nhưng những chi tiết trích dẫn cho thấy một công trình khoa học, khách quan và có thể dậy cho chúng ta phân biệt thế nào là “lịch sử” và thế nào là “tiểu thuyết”. Những cái hay, cái đẹp, cái thiện được phơi bày rõ ràng cùng với những cái dở, cái xấu, cái ác…của các nhân vật và môi trường sinh hoạt 148 năm trước. Ngay cả những rắc rối khó khăn trong gia đình Lincoln, nhất là vấn đề của vợ con, cũng được phơi bày tường tận.

Santayana nói là những ai quên quá khứ sẽ phải trả giá cho sự tái diễn. Liệu sự ngu dốt của chúng ta về “sự thật” không nhuốm mầu chánh trị trong các sự kiện lịch sử chỉ mới xẩy ra chưa đến 100 năm có thể là một gánh nặng văn hóa và tư duy cho nhiều thế hệ sau này của Việt Nam?

  1. Chính trị gia thời nào nơi nào cũng thế

Trong cuộc tranh giành từng lá phiếu để thông qua Tu Chính 13, Lincoln và phe nhóm ông ta đã phải dùng đến rất nhiều thủ thuật để có đủ 2/3 số phiếu. Họ đã phải hối lộ (không bằng phong bì mà bằng những ban phát phát chức vụ trong chánh quyền mới), phải thỏa hiệp với những tay thao túng lợi ích (power brokers), phải chia để trị, phải đe dọa, phải dỗ dành….Tóm lại, tất cả những sắp xếp sau hậu trường (horse-trading) không khác gì những gian dối mua bán quyền lực và lợi ích ngày nay trên các sân khấu chánh trị từ Âu Mỹ đến Phi Á.

Quyền lợi cá nhân của đa số chính tra gia luôn đặt trên các lợi ích quốc gia hay lý tưởng cộng đồng. Do đó, nếu không có một thể chế phân quyền và minh bạch, sự lạm dụng quyền lực sẽ luôn luôn đi quá đà và tạo nên những thao túng pháp luật vô cùng trắng trợn và táo bạo.

Sự khôn ngoan của các bậc trí thức khi tạo dựng hiến pháp Mỹ và các tuyên ngôn dân quyền đã đem sự ổn định chánh trị và xã hội của Mỹ trong suốt 250 năm qua.

  1. Tinh thần thượng tôn pháp luật

Lý do chính khiến Lincoln phải vội vã đưa ra biều quyết cho Tu Chính 13 khi chiến thắng của miền Bắc đã gần kề là sự giải thích pháp luật theo cái nhìn của một luật gia với mọi văn kiện pháp lý. Theo Lincoln, nếu hiến pháp không đặt chuyện “nô lệ” ra ngoài vòng pháp luật, thì luật vẫn cho nô lệ là một tài sản và thuộc quyền xử lý của tiểu bang. Tóm lại, dù thắng trận, chánh phủ liên bang cũng không có quyền đụng đến “tài sản của dân” và không thể áp buộc các chủ nô lệ phải “giải phóng” hay “ chịu sự tước đoạt” của bất cứ thẩm quyền nào.

Ở xứ Trung Quốc, khi quan điểm của ông Chủ Tịch Mao là “ người cầm súng đặt ra luật lệ” thì không ai thắc mắc về những văn kiện hay điều lệ tiềm ẩn có thể gây tranh cãi tại các tòa án. Chính vì vậy, Lincoln đã tốn bao nhiêu vốn chính trị, đêm không ngủ, thực thi kế sách…để Tu Chính 13 được Hạ Viện thông qua. Tinh thần thượng tôn pháp luật của 1 vị Tổng Thống quyền lực và vừa thắng trận 148 năm trước không biết có làm các lãnh tụ bé hon ngày nay phải xấu hổ vì sự ngạo mạn chà đạp lên mọi luật lệ và công lý của xã hội?

  1. Không trả thù bại quân và dân và không cướp giật tài sản

Tuy nhiên, điều ấn tượng nhất trong cuốn sách là hai tuần trước khi miền Nam chính thức đầu hàng, Lincoln đã gặp tướng U. S. Grant, thống soái đạo quân miền Bắc cùng các tướng lãnh chỉ huy khác, và dặn dò đi lại nhiều lần là,” khi chiến tranh chấm dứt, hãy trả tự do mọi tù nhân chiến tranh (bại quân và bại dân) và giúp họ quay về nhà sớm để mưu sinh lo cho gia đình. Tuyệt đối không được đụng đến tài sản của dân (dù thua cuộc, tất cả bây giờ đều là công dân), không được trả thù và phải nghiêm trị mọi vi phạm pháp luật, nhất là của các quan cán chức hay binh sĩ của phe thắng trận”.

Ngoài ra, trong những đề nghị ngân sách các năm sau đó, các lãnh tụ kế tiếp của miền Bắc đã luôn dành ưu tiên cho việc tái thiết miền Nam để hàn gắn những đổ vỡ về vật chất cũng như tinh thần.

Tinh thần nhân hậu và cách đối xử văn minh của phe lãnh đạo miền Bắc đã tạo nên một tiền lệ lịch sử cho tinh thần xứ Mỹ: luôn luôn chăm lo cho phe thua cuộc hơn là băm xẻ những miếng mồi ngon bở cho phe nhóm mình. Sau trận thắng huy hoàng ở Thế Chiến 2, Mỹ đã bơm nhiều tỷ đô la thời đó vào chương trình Marshall để tái thiết Âu Châu và MacArthur đã giúp Nhật rất nhiều để xây một nền tảng pháp lý mới cho một nền kinh tế mới.

Nhân và quả của một chánh sách

Bản chất nhân hậu, lương thiện, tôn trọng luật pháp và đặt lợi ích quốc gia trên quyền lợi cá nhân đã biến Lincoln thành một vị Tổng Thống vĩ đại của nước Mỹ. Cùng với các thận cần như Tướng Grant, các Bộ Trưởng Seward, Stanton…họ đã thay đổi định mệnh của xứ Mỹ. Chỉ 25 năm sau, mọi thành kiến, thù hận về cuộc nội chiến đã được xóa bỏ trong lòng người dân Mỹ. Giữa hai bên, phe thắng cuộc và thua cuộc, những rào cản pháp lý hay xã hội không cón hiện diện. Atlanta vươn lên từ đống tro tàn và trở thành một trong những thành phố đáng yêu nhất của miền Nam.

40 năm sau đó, xứ Mỹ qua mặt đế chế Anh về kinh tế và trở thành một đế chế siêu cường chỉ 60 năm sau nội chiến tương tàn để thay thế cho đế chế Anh vừa tàn lụi.

Tôi nói với người bạn Nhật,” nếu chúng tôi có một lãnh tụ như Lincoln 150 năm trước, lịch sử Việt Nam sẽ thay đổi nhiều.” Anh bạn cười, “Lúc đó, chúng tôi phải xếp hàng chờ qua Việt Nam để học hỏi các anh.”

Sao dân tộc Mỹ may mắn đến thế?

Alan Phan

15-02-2013

Theo Góc Nhìn Alan

T/S Alan Phan là tác giả của 9 cuốn sách về thị trường mới nổi, giảng viên thỉnh giảng tại các đại học Mỹ và Trung Quốc, và doanh nhân có 44 năm làm ăn tại Mỹ và Trung Quốc. Web site cá nhân của ông là www.gocnhinalan.com. Facebook: http://www.facebook.com/gocnhinalan?fref=ts

MẸ ĐẦY ƠN PHÚC

MẸ ĐẦY ƠN PHÚC

 ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Nhờ nhạc phẩm “Ave Maria”, tên tuổi của nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert được cả thế giới biết đến.  Tuyệt tác của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.  Nhiều danh ca nhờ bài thánh ca này mà được nổi danh ở tầm mức quốc tế.  Thật tuyệt vời khi thấy Đức Trinh nữ Maria được ca tụng tôn vinh qua bài ca này.  Từ những đại nhạc hội hàng ngàn hàng vạn thính giả, đến những nghệ sĩ violon hát rong ngoài đường phố, tất cả đều ca lên lời chào Đức Trinh nữ Maria: Mẹ đầy ơn phúc.  Từ những tín hữu đạo đức đến những người vô tín ngưỡng, tất cả đều chăm chú cảm nhận những lời ca và âm điệu ngọt ngào của bài thánh ca để tôn vinh Mẹ Chúa Trời.

Ave Maria là lời chào của thiên sứ Gabrien khi đến gặp Đức Mẹ trong ngày truyền tin.  Thiên sứ từ trời cao, xuống trần để gặp một phụ nữ khiêm hạ.  Ave Maria vừa là lời chào, vừa là lời mời gọi hãy vui lên vì “Đức Chúa ở cùng Bà.”  Qua lời chào kính trọng ấy, thiên sứ tỏ bày sự cung kính trước người phụ nữ được Chúa chọn làm thân mẫu của Ngôi Lời nhập thể.  Khi muốn cứu chuộc con người, Thiên Chúa mời gọi sự cộng tác của một người phụ nữ.  Ngài đã chọn Đức Trinh nữ Maria như một “điểm đỗ” để Con của Ngài giáng trần.  Thánh Luca đã diễn tả cuộc gặp gỡ kỳ diệu ấy, là một cuộc gặp gỡ giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa cao cả và con người phàm trần.  Trinh nữ Maria đã thưa lời “Xin vâng” để mở lòng đón nhận Ngôi Lời nhập thể.  Với lời thưa “Xin vâng” của Mẹ, Con Thiên Chúa đã đến thế gian, khởi đầu công cuộc cứu độ loài người.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, trước hết là lời kinh ca ngợi.  Chúng ta hợp lời với sứ thần chào kính và ca tụng thiên chức cao cả của Đức Mẹ.  Mẹ là người được Thiên Chúa chọn lựa trong muôn người, để làm ngai tòa cho Đấng Cứu thế ngự khi đến trần gian, mặc lấy thân phận con người.  Lời Mẹ nói tiên tri về chính mình nay đã được thực hiện: “Từ nay, hết mọi đời, sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc 2,48).  Qua cuộc đời của Mẹ, chúng ta ca tụng quyền năng vô biên của Thiên Chúa, đã thực hiện những việc lạ lùng.  Mẹ được tôn vinh làm Nữ Vương trời đất, cùng với Đức Giêsu là Vua Vũ trụ để chúc phúc cho muôn loài.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của niềm phó thác cậy trông.  Khi lần hạt Mân Côi, chúng ta xin Đức Mẹ cầu bầu cho chúng ta được những ơn lành phần hồn phần xác, nhất là được ơn trung thành như Đức Mẹ.  Lời kinh thấm nhập mỗi con tim, diễn tả tâm tư trìu mến của chúng ta dành cho Mẹ.  Lời kinh đem lại sự ngọt ngào mỗi khi chúng ta âu sầu đau khổ; đem lại hy vọng mỗi khi chúng ta gặp khó khăn thất bại; đem lại niềm vui mỗi khi chúng ta buồn bã; đem lại sức mạnh mỗi khi chúng ta yếu đuối; đem lại sự đỡ nâng mỗi khi chúng ta có nguy cơ gục ngã trên đường đời.  “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời”, đó là lời cầu nguyện của Giáo Hội, cũng là lời cầu nguyện của mỗi con tim, xin Đức Mẹ bầu cử cho chúng ta đang còn bước đi trong cuộc sống dương gian đầy gian nan thử thách.  “Kinh Mân côi không những kéo ơn trên trời xuống cho tội nhân, khiến họ mau mắn về với Mẹ, nhưng còn làm cho họ đứng vững trên con đường sùng kính mến yêu Mẹ.  Nơi nào đông người chuyên chăm lần hạt, nơi ấy giáo hữu tiến nhanh trên đường thánh thiện, trái lại nơi nào thờ ơ, giáo hữu sẽ lâm vào tình trạng hư hỏng” (Thánh Grignion de Monfort).

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, đó là lời kinh của tâm tình hiếu thảo chúng ta dâng lên Mẹ Thiên Chúa.  Có người thắc mắc tại sao phải lặp đi lặp lại nhiều lần kinh Kính mừng khi lần hạt Mân Côi.  Điều đó thật dễ hiểu!  Người con hiếu thảo nào cũng muốn nói ngàn lần lời yêu thương với cha mẹ mình mà vẫn chưa đủ.  Ngôn ngữ diễn tả tình yêu giống như dòng sông tuôn chảy mãi không dừng, cũng thế, những lời chào kính Đức Mẹ dù có lặp đi lặp lại là bằng chứng của tình mến chúng ta dành cho Đức Mẹ.  Kinh Mân Côi sẽ giúp khơi nguồn dòng chảy yêu thương từ nơi Đức Mẹ đến với chúng ta.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, mỗi lời kinh là một bước đường đời dẫn ta đến gần Chúa hơn, và giúp chúng ta nên giống Chúa.  Bởi lẽ kinh Kính mừng được đọc trong tâm tình suy niệm, chiêm ngắm những mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Cứu thế, từ ngày Truyền tin cho đến khi Người sống lại và lên trời vinh quang.  Mỗi bước đường của chúng ta đều có Đức Mẹ đồng hành.  Mỗi lối đi dương thế đều có Chúa dẫn đưa.  Đó là giá trị của Kinh Mân Côi.

Kinh Mân Côi là hình thức cầu nguyện được chính Đức Mẹ khuyến khích.  Quả vậy, khi hiện ra ở Lộ Đức cũng như ở Fatima, Đức Mẹ đã cùng lần hạt với các thị nhân, trong tình thân thương trìu mến.  Vì thế, tượng Đức Mẹ được trình bày tại hai nơi thánh địa này đều có cỗ tràng hạt nơi tay của Đức Mẹ.  “Hãy siêng năng lần hạt”, đó còn là lệnh truyền của Đức Mẹ khi hiện ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima năm 1917.

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, ước chi lời kinh này luôn vang lên nơi môi miệng chúng ta, từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, nhờ đó, chúng ta luôn được Đức Mẹ phù hộ độ trì.  Nhờ Mẹ và qua Mẹ, chúng ta sẽ gặp Đức Giêsu, và đạt được sự sống đời đời.

ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim

Những ‘món nợ’ của một tân Phó Đề Đốc

Những ‘món nợ’ của một tân Phó Đề Đốc

  Mạnh Kim

Bài báo của tác giả Tom McCarthy trên The Daily Oklahoman đề ngày 20-5-1975 với hình cậu thiếu niên Nguyễn Từ Huấn ở trang nhất có nhắc đến chi tiết cậu thiếu niên Từ Huấn có khả năng trở thành nghệ sĩ violin. Tuy nhiên, tên tuổi ông Huấn sau này được vinh danh không phải trên sân khấu giao hưởng. Ông khoác áo nhà binh. Con đường binh nghiệp đã giúp ông trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên đạt đến cấp bậc Phó Đề đốc Hải quân Hoa Kỳ…

 

Năm 1981, sáu năm sau khi đến Mỹ cùng hàng trăm người Việt Nam tỵ nạn khác sau ngày 30-4-1975, ông Nguyễn Từ Huấn tốt nghiệp Đại học Okahoma State với bằng cử nhân điện cơ. Không dừng lại, ông lấy tiếp các bằng thạc sĩ tại ba đại học: Đại học Southern Methodist, Đại học Purdue và Đại học Carnegie Mellon (hạng tối ưu) chuyên ngành kỹ thuật thông tin. Sau đó, ông làm việc cho một cơ quan thuộc Bộ Quốc phòng, thuộc bộ phận thiết kế các hệ thống điều khiển điện tử trên chiến đấu cơ.

Năm 1991, cuộc chiến Vùng Vịnh nổ ra. Ông Huấn đăng ký vào quân ngũ. Năm 1993, ông trở thành sĩ quan Hải quân trừ bị. Trong thời gian này, ông làm việc thêm ở Bộ Năng lượng. Với vị trí kỹ sư phụ trách dự án đặc biệt chuyên nghiên cứu kỹ thuật dẫn hai tia proton phóng với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng sao cho chúng có thể chạm nhau (superconducting super collider), từ đó cung cấp các dữ liệu nhằm giúp hiểu thêm về hiện tượng Big Bang cũng như các hiện tượng khác trong vũ trụ, ông Huấn là một trong số rất ít người Việt có mặt trong nhóm nghiên cứu này. Từ Bộ Năng lượng, ông chuyển sang làm việc cho General Motors (GM), phụ trách thiết kế các hệ thống điện tử cho xe hơi. Tại đây, ông phát minh một số sáng chế mà hiện GM vẫn sử dụng…

Một trong những bằng sáng chế của ông Huấn. (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp) 

Năm 1993, internet chưa phát triển, cả nước Mỹ chỉ có khoảng 20 website. Tuy nhiên, ông Huấn đã nghĩ đến việc làm thế nào có thể sử dụng network để phục vụ quân đội và hỗ trợ tác chiến. Ý tưởng của ông được một đề đốc ủng hộ. Ông Huấn được mời vào Ngũ Giác Đài tường trình cho giới lãnh đạo Hải quân. Tiếng nói của anh thiếu úy Huấn trở nên lạc lõng giữa những hoài nghi. Cho đến thời điểm đó, rất ít người có thể hình dung cái gọi là “network warfare”. Không đầy 10 năm sau, khi nước Mỹ bước vào cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai (2003), kỹ thuật chiến tranh không gian mạng đã trở thành một trong những yếu tố quyết định thắng bại. Cuộc chiến Vùng Vịnh lần hai cũng là thời điểm thiếu tá Huấn được đưa sang Afghanistan và Iraq, với vai trò sĩ quan chỉ huy đơn vị kỹ thuật giúp phá hủy các thiết bị kích nổ bom từ xa của khủng bố… “Một trong những thử thách khó nhất đối với tôi là phải đi một bước trước kẻ thù” – ông Huấn trả lời phóng viên Eric Schmitt trên New York Times số ra ngày 6-2-2006.

Thiếu tá Huấn (thứ hai, phải sang) trong những ngày làm việc tại Iraq. (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp)


“Cách đây 44 năm, tôi là một trong những người tỵ nạn, lòng lo lắng cho một tương lai bất định nhưng vẫn cảm thấy vô cùng biết ơn khi đến được đây. Những hình ảnh tôi còn nhớ rõ mồn một khi đặt chân đến Trại Asan ở đảo Guam này, giờ là công viên Asan Beach, là những thủy thủ và thủy quân lục chiến Mỹ phơi mình dưới cái nắng cháy da, dựng lều và lán thức ăn, phát nước uống và đồ ăn nóng, giúp đỡ và chăm sóc mọi người với thái độ tử tế và kính trọng… Những người lính đó đã mang lại cảm hứng cho tôi cống hiến cho Hải quân Mỹ đến tận hôm nay”… Phát biểu trên của Đại tá Nguyễn Từ Huấn trong dịp khánh thành tượng Lone Sailor tại Guam ngày 30-4-2019 đã cho thấy tại sao ông quyết tâm gia nhập và cống hiến cho quân đội (tượng đài Lone Sailor do chính ông Huấn khởi xướng với sự thực hiện của US Navy Memorial).

Đại tá Huấn trong lễ khánh thành tượng Lone Sailor, Guam, 30-4-2019 (The Guam Daily Post).


Ông có một sứ mạng khác trong lẽ sống của mình. Ông định hình cuộc đời ông bằng những định nghĩa khác với những đo lường về vật chất. Với ông, có nhiều cách để “trả nợ” nước Mỹ nhưng ông đã chọn binh nghiệp, vì quân đội mới là hình ảnh đại diện bảo vệ cho quốc gia nơi đã cưu mang những người tỵ nạn như ông, một quốc gia từng là ngọn hải đăng cho những giá trị nhân bản, về tự do, dân chủ và nhân quyền. “Món nợ” đối với nước Mỹ không phải là món nợ lớn nhất đối với ông Huấn. Có một món nợ khác chất chứa gánh nặng lương tri thậm chí nặng nề hơn. Nó có ý nghĩa lớn hơn cả. Nó ám ảnh ông như một lời thề mà ông nguyện phải làm, như một cách để báo hiếu cho cha ông – cố Đại tá Chỉ huy trưởng Trường thiết giáp VNCH Nguyễn Tuấn, như một cách để làm mẹ ông mỉm cười nơi chín suối, như một cách để “trả lời” cho một cuộc chiến tàn khốc từng làm điêu linh dân tộc mà toàn bộ gia đình ông là nạn nhân, để cuối cùng, cho thấy rằng, hòa bình có giá trị như thế nào và tại sao bằng mọi giá phải bảo vệ hòa bình.

Câu chuyện bi thương của ông đã được kể đi kể lại với rất nhiều tình tiết không có thực. Và khi thuật lại câu chuyện, một số nhân vật luôn được đẩy ra phía trước như thể họ là nhân vật chính. Cũng khó có thể tránh điều đó vì câu chuyện đã trở thành một phần của lịch sử cuộc chiến. Tuy nhiên, những thước phim chính xác đáng lý cần phải lột tả thời khắc kinh hoàng xảy đến với gia đình ông chứ không phải những gì xảy ra sau đó. Đó là hình ảnh kiên cường của bố và mẹ ông trước họng súng của đặc công Cộng Sản.

Hơn 50 năm trôi qua, ông Huấn chưa bao giờ quên những gì ông chứng kiến. Ông không thể quên tràng súng liên thanh điên cuồng nã vào bảy người trong gia đình mình – vào bố, vào mẹ, vào các người anh và cả đứa em út mà mẹ bế trên tay, khi họ đang bị bắt làm con tin, ngay trong những ngày mà hai bên đã thỏa thuận ngưng chiến. Ông không thể quên cảnh người anh thở hắt ra làn hơi cuối cùng và cảnh người em bị bắn thủng bụng ruột đổ ra ngoài. Ông không bao giờ có thể quên được cảnh mẹ ông, bị bỏ nằm đó đau đớn, chảy máu và rên xiết nhiều giờ cho đến chết. Ông cũng không thể quên cảnh đặc công cầm lưỡi lê đâm vào lon bia để uống, dọn đồ ra ăn, giữa những nạn nhân bị thương đang rên xiết và giữa những thi thể vừa bị thảm sát man rợ.

Gia đình cố Đại tá Nguyễn Tuấn (tất cả đều bị sát hại, trừ ông Nguyễn Từ Huấn-đứng giữa; ảnh chụp năm 1967). (Hình: Nguyễn Từ Huấn cung cấp)

Rồi có một đặc công chĩa súng vào đầu Huấn khi phát hiện đứa trẻ 9 tuổi duy nhất còn sót lại. Dưới ánh sáng hỏa châu từ bên ngoài, tay đặc công cộng sản đối diện ánh mắt không hề lộ chút sợ hãi của cậu bé Huấn. Một vết đạn, từ vụ thảm sát trước đó, trúng vào đầu khiến mặt mày Huấn bê bết máu. Có lẽ đó cũng là lý do khiến toán đặc công không buồn bận tâm ban cho Huấn “một phát đạn ân huệ”, bởi nghĩ rằng ông sẽ không thể nào sống nổi. Tuy nhiên, ông đã không chết.

Vài giờ của một thời khắc sáng mùng hai Tết Mậu thân 1968 đã trở thành cơn ác mộng dài lê thê đi theo suốt cuộc đời ông. Thay vì gục ngã, thay vì đầu hàng số phận khi đặt chân đến Mỹ với hoàn cảnh một thiếu niên tỵ nạn nghèo khó, ông Huấn đã chiến thắng tất cả thách thức và khó khăn, một cách ngạo nghễ. Nước mắt thương mẹ và nỗi đau nhớ cha cùng các anh em trong gia đình đã không làm ông ngã quỵ mà giúp ông mạnh mẽ đứng lên, bằng hình ảnh không phải là nạn nhân một cuộc chiến mà một mảnh đạn đến giờ vẫn còn lưu trong đầu. Ông đã trả được “món nợ” cho lương tri, cho lẽ làm người, cho công dưỡng dục của hai vị chú thím cưu mang nuôi nấng ông, và nhất là cho lẽ làm con đối với hai bậc sinh thành.

Tháng 10-2019 tới đây, lễ thăng chức Phó Đề đốc cho ông Nguyễn Từ Huấn sẽ được tổ chức tại Washington DC. Với kinh nghiệm cùng sự tận tụy, tân Phó Đề đốc Huấn còn sẽ đảm nhận một chức vụ mới: Tham mưu phó Bộ tư lệnh hải dương hệ thống Hải quân (Naval Sea Systems Command-NAVSEA), đặc trách an ninh mạng. Cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại có thêm một nhân vật đáng để tự hào. Ông đã trả hết nợ chưa? Chắc là chưa – ông nói. Làm thế nào tôi có thể yên tâm thản nhiên nhìn Trung Quốc đe dọa quê hương mình từng ngày từng giờ mà không chút xót xa lo nghĩ? – ông Huấn tâm sự. Ông còn ôm nặng một món nợ lớn khác: “nợ” mình là người Việt Nam.

Mạnh Kim
Nguồn : BBC

Chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc và chủ nghĩa Phát xít ở Đức là một 

Chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc và chủ nghĩa Phát xít ở Đức là một 

  • Nguyễn Tiến Trung

5-10-2019

Duyệt binh khoe vũ khí để răn đe Việt Nam

Cuối cùng thì lễ duyệt binh hoành tráng của Tập Cận Bình trước Quân Giải Phóng Nhân dân Trung Quốc đã lắng lại. Các loại vũ khí tối tân nhất đã được cộng sản Trung Quốc đưa ra cho người dân Trung Quốc và toàn thế giới chiêm ngưỡng: tên lửa hành trình tầm bắn xa nhất thế giới 15 nghìn km DF-41, đầu đạn siêu thanh DF-17 bay ở vận tốc gấp 5 lần vận tốc âm thanh…

Tất nhiên, thực tế các loại vũ khí này có thể sử dụng được hay không lại là một câu chuyện khác, khi cộng sản Trung Quốc nổi tiếng là những người sẵn sàng nói dối không biết ngượng miệng. Chẳng phải Tôn Tử đã dạy họ rằng, “binh bất yếm trá” đó ư?

Tại sao giới lãnh đạo Trung Quốc luôn tuyên bố là “hòa bình quật khởi” lại liên tục đầu tư vào quốc phòng và phát triển nhiều loại vũ khí mới như vậy? Chắc chắn họ phải đối phó với những mối đe dọa ghê gớm, hoặc họ phải có tham vọng gây chiến với các nước khác thì họ mới liên tục đầu tư vào vũ khí như vậy.

Hỏi cũng là trả lời. Những thứ vũ khí mà cộng sản Trung Quốc “khoe” ra ở trên để nhằm răn đe người dân những quốc gia dám chống lại chủ nghĩa bành trướng xâm lược của họ, trong đó có nhân dân Việt Nam. Nên nhớ là trước, trong và sau ngày 1/10, là ngày lễ kỉ niệm đảng Cộng sản chiếm toàn bộ Trung Quốc, các tàu của cộng sản Trung Quốc đã bốn lần xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam với khoảng 28 tàu. Nhà cầm quyền Việt Nam đã phản đối cộng sản Trung Quốc 40 lần qua các kênh ngoại giao từ ba tháng qua.

Duyệt binh cũng là để che giấu bất an

Thật ra, việc Tập Cận Bình cho duyệt binh lớn để khoe quân đội hùng mạnh như vậy có tác dụng tăng cường lòng tin yêu của dân vào đảng Cộng sản cầm quyền. Cuộc duyệt binh nhằm khiến người dân Trung Quốc tạm quên đi những khó khăn chồng chất trong nước, kiểu như đã có lãnh đạo Việt Nam từng phát biểu là nên cho dân xem pháo hoa để quên … đói nghèo.

Những khó khăn đó của đảng Cộng sản Trung Quốc là gì? Đó là dòng vốn lên tới 1,2 nghìn tỷ USD đã rời Trung Quốc trong thập niên vừa qua, những nhà đầu tư nước ngoài vỡ mộng vì bị chèn ép tại thị trường Trung Quốc, phát triển kinh tế chững lại, chiến tranh thương mại với Mỹ, chiến lược Vành đai – Con đường bị phủ bóng bởi quản trị kém và tham nhũng khiến người dân ở bất kì nơi nào có Trung Quốc đầu tư đều phản đối, từ châu Phi tới Việt Nam, người dân Hongkong nổi dậy đòi dân chủ, Đài Loan thách thức trực diện chủ nghĩa bành trướng của đảng Cộng sản, cả thế giới đề cao cảnh giác và cô lập cộng sản Trung Quốc, dân số Trung Quốc cũng đang già hóa nhanh chóng, ô nhiễm môi trường nặng nề, phân hóa giàu nghèo lớn…

Trước những khó khăn chồng chất đó, rất tự nhiên, nhà cầm quyền Trung Quốc sẽ tìm cách hướng sự chú ý của người dân ra bên ngoài, nhằm vào các “thế lực thù địch” như Việt Nam. Thậm chí một học giả người Mỹ David Archibal còn cho rằng, cộng sản Trung Quốc sẽ chọn Việt Nam là nơi gây chiến đầu tiên vì Việt Nam dễ “xơi” nhất. Một cuộc chiến tranh chớp nhoáng chiếm các đảo còn lại của Việt Nam ở Trường Sa sẽ là liều thuốc củng cố sự ủng hộ của người dân Trung Quốc với đảng Cộng sản Trung Quốc.

Trung Quốc Xã (Chinazi)

Người dân Hongkong không phải ngẫu nhiên nghĩ ra cụm từ “Chinazi” (diễn giải tiếng Việt là “Trung Quốc Xã”), vốn là từ ghép của China (Trung Quốc) và Nazi (Quốc xã). Chủ nghĩa Cộng sản hiện tại ở Trung Quốc và chủ nghĩa Phát xít của Hitler giống nhau một cách đáng kinh ngạc.

Thứ nhất, chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Phát xít đều là biểu hiện của các chủ nghĩa cực đoan. Chủ nghĩa Cộng sản là chủ nghĩa tập thể bị cực đoan hóa. Chủ nghĩa Phát xít là chủ nghĩa quốc gia – dân tộc bị cực đoan hóa. Con người cá nhân bị vùi lấp trong những thứ nhân danh “tập thể”, “dân tộc”, “quốc gia”. Đó là những chủ nghĩa tước đoạt tự do cá nhân của con người, biến con người thành nô lệ.

Thứ hai, chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Phát xít đều dựng lên các “thế lực thù địch” để hướng sự căm thù của người dân vào các đối tượng bên ngoài. Chủ nghĩa Cộng sản thời đầu thì nhắm vào giai cấp thượng lưu, trung lưu, còn bây giờ thì nhắm vào các quốc gia khác như Trung Quốc đang tìm cách xâm chiếm Việt Nam, Philippines, Malaysia. Giống hệt như thế là chủ nghĩa Phát xít vì nó nhắm vào các dân tộc khác khi cho chủng tộc Đức là thượng đẳng, và phải tiêu diệt người Do Thái.

Thứ ba, chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Phát xít đều đặt một đảng, một lãnh tụ lên trên tất cả, lên trên cả đất nước. Chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc hiện tại đặt đảng Cộng sản lên trên tất cả, cai trị không cần pháp luật, không cần lá phiếu của người dân, buộc người dân sùng bái cá nhân Tập Cận Bình, bắt dân học tập “tư tưởng Tập Cận Bình”. Còn chủ nghĩa Phát xít tại Đức cũng đặt đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa (gọi tắt là đảng Quốc Xã – Nazi) lên trên tất cả, bắt người dân sùng bái Hitler.

Thứ tư, chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Phát xít thành công được ở Trung Quốc và Đức là nhờ lợi dụng sự giận dữ của người dân khi bị nước ngoài sỉ nhục. Trung Quốc bị nước ngoài như Anh, Mỹ, Nhật, Nga,… sỉ nhục một trăm năm (bách niên quốc sỉ), còn Đức bị sỉ nhục vì thua thế chiến thứ 2. Không ngạc nhiên khi Hitler và Tập Cận Bình đều ưa thích các cuộc diễu binh lớn.

Chính bài học lịch sử từ Đức đã đưa đến nhận định rằng, lịch sử sẽ lặp lại với cộng sản Trung Quốc khi họ sẽ quyết định gây chiến để vuốt ve tự ái dân tộc, và đối tượng đầu tiên dễ thắng nhất chính là Việt Nam, một quốc gia không có đồng minh, có rất ít hoặc thậm chí không có vũ khí hiện đại, chứ đừng nói tới vũ khí hạt nhân để răn đe. Thanh niên và người dân Việt Nam cần nhìn thẳng vào khả năng này, nhất là những người đang ở nơi tuyến đầu là bộ đội ở biên giới phía Bắc và các chiến sĩ hải quân ở Trường Sa.

Trở ngại của đảng Cộng sản Việt Nam

Dù vậy, người Việt Nam không nên sợ hãi mà phải sẵn sàng đương đầu với thách thức mang tên Cộng sản Trung Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam cần nhận thức rõ giới hạn của chế độ độc đảng. Toàn dân Việt Nam bây giờ sẽ không đoàn kết chống ngoại xâm xung quanh đảng cầm quyền nữa vì rất nhiều lý do như tham nhũng, cướp đất, ô nhiễm, bất công xã hội rộng khắp. Dân không thể tin vào sự lãnh đạo của đảng Cộng sản với việc cựu bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh e ngại “xu thế ghét Trung Quốc” của người Việt.

Việc đưa hình ảnh lãnh tụ đã mất như Hồ Chí Minh lên để làm tính chính danh cho chế độ không hề có tác dụng hoặc có tác dụng rất ít với đa số người dân sinh sau năm 1975… Bản thân rất nhiều cựu chiến binh cộng sản đã rời bỏ đảng Cộng sản và tham gia vào phong trào dân chủ. Còn chế độ hiện tại thì luôn trong tình trạng “ngân sách như dòng sông đã cạn” thì lấy đâu ra tiền mà mua vũ khí chống ngoại xâm.

Đảng cộng sản Việt Nam phải làm gì?

Do đó, việc quan trọng nhất mà các lãnh đạo cộng sản phải làm ở trong nước là dân chủ hóa. Chỉ có dân chủ hóa thì dân mới ủng hộ chính phủ và quốc hội do dân bầu ra một cách thực chất. Chỉ có dân chủ hóa thì dân mới đoàn kết xung quanh việc tôn trọng một bản hiến pháp dân chủ, chuẩn mực. Chỉ có dân chủ hóa và có nhà nước pháp quyền thì cộng đồng quốc tế dân chủ, văn minh mới tin tưởng và sẵn sàng giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam vì đã có cùng hệ giá trị với họ.

Còn ở ngoài nước, cũng không có cách nào khác là nhà cầm quyền phải nhanh chóng tham gia vào một liên minh kinh tế – quân sự đứng đầu bởi Mỹ và theo sau là các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc,… để tạo thế ỷ dốc, sẵn sàng hỗ trợ nhau trước bất kỳ đe dọa nào từ cộng sản Trung Quốc.

Còn người dân phải làm gì?

Còn về phía người dân, chúng ta không thể ngồi yên thụ động. Bước đầu tiên là mỗi một công dân cần phải lên tiếng phản đối Cộng sản Trung Quốc xâm lược Việt Nam, phản đối chủ nghĩa Cộng sản ở Trung Quốc và Bắc Hàn đang đe dọa hòa bình, ổn định ở châu Á, phản đối Cộng sản Trung Quốc tìm cách thủ tiêu tự do chính trị của nhân dân Hongkong, đàn áp người Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ, tìm cách xâm lược Đài Loan,…

Hình ảnh nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc cai trị hà khắc, đàn áp các dân tộc đó chính là hình ảnh Việt Nam trong tương lai nếu người dân Việt Nam không cảnh giác và phản đối ngay từ bây giờ.

PHỤNG SỰ CHÚA CHO PHẢI ĐẠO LÀM TÔI

PHỤNG SỰ CHÚA CHO PHẢI ĐẠO LÀM TÔI

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Với trí tưởng tượng phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”

Ai cũng có chiếc bóng đi theo mình.  Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.

Vậy mà nhân vật “Chiếc Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.

Tương quan giữa con người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình.  Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại được.  Chúa là Chủ, con người là tôi tớ.  Chúa là Hình, con người là bóng.  Vậy mà nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm của Andersen.  Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ.  Họ đòi Thiên Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi hỏi của Thiên Chúa trước đã.

Chẳng hạn khi yếu đau, người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành.  Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa cho no đủ.  Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự thành công…  Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!

Vì yêu thương loài người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện ý Chúa trước đã.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của người tôi tớ, và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà không được kể lể công lao.

Chúa nói: “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: “Mau vào ăn cơm đi”, chứ không bảo: “Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau?  Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?

Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”

Hai vị tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa 

Một trong những nét đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng vâng lệnh Chúa truyền.  Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa.  Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy tôi là tớ nữ của Chúa.  Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.

Ngay cả Chúa Giêsu, “vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ… Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự…” (Philip 2, 6-8).

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa là Thiên Chúa quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn, thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.

Lm. Ignatiô Trần Ngà

From: Langthangchieutim

TỨ KHOÁI

Chau Nguyen Thi
TỨ KHOÁI

(Xin đăng lại 4 cái stt viết về “tứ khoái” của con người đã được đăng trước đây vì… khỉ vẫn còn nguyên là khỉ!)

ĂN CÓ KHÓ KHÔNG?

Nhớ hồi còn nhỏ, một lần trong bữa ăn, ba tôi giận dữ nói: “Con lấy đũa quậy nhiều lần vào nồi cơm lúc đang sôi phải không?” Tôi sợ hãi nhìn ba tôi, lòng ngạc nhiên không hiểu tại sao ông biết là lúc nấu cơm tôi dùng đũa quậy nhiều lần vào nồi cơm đang sôi, vì sợ cơm bị khê cháy. Ba tôi bị đau bao tử, nên ông rất khó khăn, kỹ lưỡng chuyện ăn uống. Lúc hết giận, ba tôi giải thích: “Khi cơm sôi, chỉ cần quậy một lần cho đều rồi bớt lữa. Không nên quậy nhiều lần vì như vậy sẽ làm cho gạo đổ nhựa ra bọc lấy hột cơm, nên hột cơm bên ngoài thì mềm, ở giữa thì sượng”
Ha ha… Hồi nhỏ tôi cũng ăn cơm đó mà không thấy khác biệt gì, cơm nào cũng là cơm, và nghĩ là ba tôi chỉ… vẽ chuyện.

Bây giờ già rồi; già hơn tuổi ba tôi lúc ông dạy tôi về chuyện nấu cơm và ăn cơm, tôi nhận ra rằng, trong đời, ngay cả chuyện ăn cũng cần phải có kiến thức và kinh nghiệm.

NGỦ CÓ KHÓ KHÔNG?

Cũng như “ăn”, “ngủ” là sinh hoạt tự nhiên của con người. Hễ đói thì ăn; buồn ngủ thì ngủ; cần gì học, mà học là học cách nào?
Nhớ trước đây một cô huê hậu VN đi máy bay, trưng ra một màn “huê hậu ngủ ngày” vô cùng “ấn tượng”. Cô nằm ngủ kiểu mà khi nhìn vào ai cũng tưởng tượng đến câu thơ của Hồ Xuân Hương “Phành ra ba góc da còn thiếu”. Cả cộng đồng mạng nổi sóng; kẻ khen người chê ầm ĩ. Người bênh vực thì bảo “Ngủ thì làm sao mà kiểm soát được”; người chê thì bảo “Ngủ thì ngủ cũng phải ngủ cho đẹp! Ngủ cũng phải học!” Ngủ có phải học không? Cá nhân tôi thì tin rằng có. Thế hệ trước đây, trong gia đình, từ khi còn nhỏ, cha mẹ đã canh chừng gắt gao con cái khi ngồi khi nằm, nhất là con gái. Khi thấy nó nằm hay ngồi hớ hênh quá thì nhắc, chỉnh cho nó ngồi ngay ngắn, đúng cách lại. Và cả khi ngủ, thấy chúng nằm không ngay, không đẹp mắt thì “sửa” lại cho ngay. Lâu dần, sẽ thành thói quen, tay chân phành ra hay khép lại đều có “ý thức”; “ý thức” cả trong “vô thức”; lớn lên sẽ không mắc phải cái cảnh ngủ ngày đầy “ấn tượng” như cô huê hậu đó.

Đó là ngủ đơn. Giờ nói chuyện ngủ kép. Trước đây, xã hội VN, trai gái đi đâu cũng phải trai ngủ riêng, gái ngủ riêng. Ngày nay dưới thời “VC rực rỡ” trai gái kéo nhau đi chơi, đi du ngoạn, tối lại ngủ chung với nhau không “ngại ngùng” gi cả. Tôi đã chính mắt xem những cái video clip do bọn trẻ quay lại rồi bỏ lên mạng.

Khổng Tử sống mấy ngàn năm trước, nhưng ông hiểu rõ cái khác nhau giữa lý trí và thể xác, nên chủ trương “nam nữ thọ thọ bất thân”. Thể xác khi “thích” thì lý trí không “can ngăn” nổi. Cho nên mới nam nữ không được gần gũi nhau. Cọ vào thì nẹt lửa. Lý trí không nhảy vào can thiệp được. Trừ thánh nhân ra, còn người phàm thì không thể dùng lý trí để kiểm soát những phản ứng của thể xác được. Không ai có thể dùng lý trí để làm cho mình không cảm thấy đau khi bị dao đâm vào da thịt chẳng hạn. Hồi trẻ tôi có nghe một câu chuyện thực như thế này. Thời Tây, một cặp vợ chồng kia chạy không kịp khi lính Tây kéo đến. Người chồng leo lên nóc nhà trốn. Cô vợ bị một tên lính Tây đè ra hiếp. Anh chồng ở bên trên nhìn xuống chứng kiến từ đầu tới cuối. Khi lính Tây rút đi, anh chồng vác dao rượt chém cô vợ. Những người lớn tuổi trong làng đứng ra khuyên can, bảo rằng đó là “ách nước”, chứ có ai muốn vậy đâu. Anh chồng sừng sộ đáp: “Tui chém là chém cái tội nó ở dưới… nẩy lên!”
Tôi tin rằng cô vợ không muốn vậy. Không muốn bị hiếp. Không thích bị hiếp. Không mong bị hiếp. Rất xấu hổ khi bị hiếp. Nhưng những thứ đó thuộc phần lý trí. Còn phần thể xác thì khi đã đúng nơi, nói theo kiểu “khoa học hiện đại” là khi đã điểm đúng “huyệt G” rồi thì dù một tỷ thằng “lý trí” nhảy vào bảo nằm im, cũng không thể nằm im được, không thể không “nẩy lên” được!

Cho nên lúc nào cũng phải học, tuổi nào cũng phải học và việc gì cũng phải học. Học để biết. Biết để hiểu. Và hiểu để có sự cảm thông với chính mình và với tha nhân.

“ẤY” CÓ KHÓ KHÔNG?

Xin kể ngay một câu chuyện nữa, cũng thuộc loại “người thật việc thật”: Hồi người Việt mới sang tỵ nạn ở Mỹ, có anh chàng Việt lần đầu “vật lộn” với một cô gái Mỹ. Phụ nữ Mỹ họ rất tự nhiên, không thẹn thùng, e lệ như phụ nữ Á châu; nên khi “vật lộn” thì họ nhiệt tình lắm: la hét, cào cấu, hổn hển y như sắp… tắt thở tới nơi khiến anh chàng VN hoảng quá; đang tấn công sắp chiếm được thành rồi mà thấy “địch” la dữ quá tưởng “nó” sắp… chết, nên vội ngưng lại xem chuyện gì. Cô gái Mỹ chưng hửng, ngưng… hổn hển và hỏi ráo hoảnh: “Chuyện gì vậy?”. Ha ha… Té ra không phải “nó” tắt thở; mà là “nó” đang… nín thở!

Vậy “ấy” có cần học không? Dĩ nhiên là cần! Nếu không tại sao từ ngàn xưa cho đến ngày nay người ta viết hàng đống sách để dạy? Nhưng học là học cái gì? Chuyện “ấy” thì cũng như ăn. Hễ đói thì kiếm cái gì cho vào mồm, nhai rồi nuốt, khó gì đâu?

Không phải vậy. Nếu mọi việc trên đời chỉ để thoả mãn chính mình thì cứ sống theo bản năng, không cẩn học. Còn nếu biết yêu thương nhau, biết trân trọng nhau, biết nghĩ đến nhau trong mọi hoàn cảnh, biết “chia ngọt xẻ bùi” thì phải học. Học để biết cách cùng đưa nhau lên… thiên thai. Tinh thần và thể xác là hai phần không thể tách rời của đời sống con người. Các bậc thánh nhân có thể yêu theo kiểu thánh nhân là yêu chay, yêu tinh thần, không cần hôn hít, ve vuốt gì cả. Còn người phàm thì đại đa số ai cũng cần có một cuộc sống cân bằng về cả hai phương diện tinh thần và thể xác. Không có một tình yêu trai gái nào bền vững lâu dài nếu tình yêu đó không có tình dục; và ngay cả có tình dục mà phần tình dục đó không cân bằng, nhưng lại không có sự cố gắng của người trong cuộc để học hỏi mà bù đắp, san sẻ yêu thương cho nhau thì tình yêu cũng khó vững bền..

Trong cuốn “Lady Chatterley’s Lover” nhà văn D. H. Lawrence kể chuyện một cặp vợ chồng trẻ thuộc giai cấp quý tộc bên Anh cưới nhau được vài năm; rồi người chồng nhập ngũ và sau đó bị thương liệt cả hai chân, không còn có khả năng đàn ông nữa. Từ đó, cuộc sống vợ chồng của họ thời gian đầu vẫn bình thường nhưng về sau thì thay đổi hẳn. Cô vợ tuy yêu chồng nhưng sự thiếu thốn về tình dục dẫn đến việc cô có quan hệ xác thịt với người đàn ông quản gia… Về sau, cô vợ bỏ chồng chạy theo người tình mà lúc đầu quan hệ chỉ đơn thuần là vì tình dục, rồi dần dà nảy sinh tình yêu…..
Câu chuyện còn dài. Nhưng tựu chung tác giả muốn nói một điều là tình dục là một phần không thể thiếu của tình yêu. Không có nó tình yêu sẽ chết. Mà ngay cả có tình dục nhưng nếu đó chỉ là một hoạt động theo bản năng thì tình yêu cũng sẽ chết. Tình dục cần được học hỏi để trở thành một hoạt động để bày tỏ, san sẻ yêu thương chứ không phải chỉ đơn thuần để thoả mãn nhu cầu sinh lý cho riêng cá nhân mình.

LỜI KẾT

Trong bốn cái khoái của con người, ba cái đầu đã nói qua trong những stt trước rồi, còn cái khoái thứ tư thì tương đối không có gì nhiều để học. Chỉ cần kiểm soát chuyện ăn uống của mình để khỏi bị Tào Tháo rượt, và đừng có bạ đâu ỉa đái đó như khỉ trên rừng thì mọi chuyện sẽ ổn thoả. Cho nên không cần phải dài dòng.

***
Để kết lại, xã hội VN xưa, con người từ lúc mới sinh ra đến khi trưởng thành đều được gia đình và học đường dạy dỗ nghiêm khắc. Từ chuyện ăn, chuyện ngủ, chuyện “ấy” đến chuyện đại tiện, tiểu tiện đều được nhắc nhở, chỉ bảo cặn kẽ. Nhờ vậy mà xã hội trật tự, ổn định, lành mạnh. Đời sống có thể thiếu tiện nghi, chật vật; nhưng con người đối đãi với nhau trong yêu thương và tôn trọng; sẳn sàng giúp đỡ, nhường nhịn, che chở cho nhau. Ngày nay, từ khi bọn khỉ rừng tràn về thành phố, biến phố thành rừng thì mọi giá trị mà cha ông chúng ta đã dày công xây dựng đều trở thành công cốc. Bọn khỉ rừng đó “sống, chiến đấu” bằng bản năng khỉ rừng của chúng; dùng cái sức mạnh của loài thú tràn về chiếm được thành phố rồi thì tưởng mình là cái rốn của vũ trụ, một bước từ khỉ thành người, không cần học; không học từ những chuyện cần học để làm một con người có phẩm cách như ăn, uống; mà ngay cả học để thu thập kiến thức để xây dựng đất nước cũng không học nốt. Chỉ cần mỗi con mua một cái bằng tiến sĩ, phó tiến sĩ, kỹ sư dán trước ngực là đã tự cho mình trí thức, tài ba lỗi lạc rồi. Vì vậy mà chúng ăn không từ một thứ gì; ăn xương máu nhân dân, ăn rừng, ăn biển, ăn ruộng vườn, ăn đất đai, ăn cứt con nít, ăn mồ hôi háng phụ nữ, ăn luôn cả hài cốt liệt sĩ từng một thời là đồng chí của chúng. Còn ngủ thì bạ đâu ngủ đó; ngủ cả trong khi đang “họp quốc hội”, đứa há mõm, đứa nghẽo đầu, đứa xuôi tay, đứa dạng chân. Đến cái món đ. thì còn kinh khủng hơn nhiều. Chúng đ. từ trẻ con đến người lớn; cha đ. bồ của con trai; đ. vợ, đ. chồng “đồng chí” của nhau. Vì ăn tạp, ngủ tạp và đ. tạp như vậy nên chúng bạ đâu ỉa, đái đó, khiến cả một nước bây giờ thúi um. Một bọn cầm quyền như vậy thì xã hội VN ngày nay nát bét như tương là chuyện đương nhiên. Giả như lũ khỉ rừng đó có lăn ra chết hết hôm nay thì xã hội VN cũng phải cần một trăm năm nữa để học lại những giá trị tốt đẹp của cha ông mà ăn không giành giựt, ngủ không “phành ra ba góc”; trở về lại với cách sống nhân bản của ông cha chúng ta đã làm từ nhiều thế hệ trước.
Cho nên, nhân gian có câu châm biếm này: “Nhân bất học, bất tri lý; nhỏ không học lớn làm tỉnh uỷ”. Muốn làm người thì chuyện gì cũng phải học, lúc nào cũng phải học, tuổi nào cũng phải học.

Học làm người mới khó; chứ làm khỉ thì có khó gì!
ST

Những trang cáo phó

Những trang cáo phó

September 29, 2019

Tưởng nhớ và tiếc thương. (Hình minh họa: Getty Images)

Mấy năm trước đây khi vào “comment” một bài viết của tác giả Bùi Bảo Trúc trên báo NV, có nhan đề là “Cáo Phó,” một độc giả đã viết như sau: “Mỗi sáng ngủ dậy thấy mình còn đọc được cáo phó người khác thì còn gì hạnh phúc cho bằng. Đó là ơn Trời, không phải ích kỷ đâu!”

Nghĩa là “đọc được cáo phó người khác,” nghe tin người khác chết mà mình cảm thấy vui? Có một điều gì đó không ổn! Có thật thế không? Phải chăng, theo ý kiến này, có thể cắt nghĩa hai điều, một là thấy người ta chết mà mình còn sống, hai là thấy người ta trẻ mà đã ra đi, mình lớn tuổi mà chưa chết!

Lấy điều đó làm hạnh phúc. Vậy thì ra có người cảm thấy có được niềm vui hạnh phúc khi nghe người khác chết, thì cứ tìm những trang cáo phó mỗi ngày mà đọc cho hạnh phúc đi!

Phần tôi, mỗi ngày, cầm tờ nhật báo lên, sau khi lướt qua các tin tức thế giới, nước Mỹ và những chuyện xẩy ra trong cộng đồng người Việt, tôi không bao giờ bỏ sót trang cáo phó, mà đọc cáo phó thì có gì vui?

Đọc cáo phó để luôn luôn nghĩ rằng: “Con người ai cũng phải chết, tôi là người, vậy tôi cũng phải chết! (mở ngoặc đơn: chỉ có trước hay sau thôi)!

Đọc cáo phó để xem những người chết có ai quen mình hay có liên hệ gì đến bạn bè, thân thích của mình không? Đọc cáo phó để đôi khi tò mò, tẩn mẩn vào xem tuổi thọ người chết là bao nhiêu, con cái đông ít thế nào?

Nếu làm một cuộc thống kê qua các cáo phó trên báo chí Việt Nam, chúng ta thấy một điều khó giải thích hay chỉ giải thích qua hiện tượng, mà chưa ai trong giới y khoa có được một kết luận, đó là tuổi tác tỷ lệ thuận với số con, nghĩa là tuổi thọ càng cao, tính đến ngày tạ thế, thì số con càng đông. Tôi tìm ra ít nhất có năm, bảy ông, bà cụ, qua đời khi đã quá tuổi đại thọ 95, có từ 10 đến 15 người con cả nam, lẫn nữ. Như vậy đương nhiên những người tuổi thọ chỉ dưới 50 có số con rất ít, có khi chỉ một, hai người khăn rơm, gậy trúc theo sau quan tài.

Vậy thì cũng làm đùa một cái tam đoạn luận: những ông bà cụ đại thọ thường có rất đông con, tôi không phải là người đông con, vậy tôi khó sống thọ. Nhưng nghĩ ra cũng đúng thôi! Thọ mà cô quạnh, không con cháu bên mình là một tuổi thọ buồn, thì sống làm gì cho lâu!

Sống đương nhiên là vui, chết hẳn là buồn, do vậy, chẳng có ai mong chết và thấy thân nhân bạn bè mình ra đi mà không buồn, dù cho có “được Chúa gọi về,” đi nữa, thì cũng phải “đau đớn báo tin cho thân bằng quyến thuộc, bằng hữu xa gần…”

Ở một vài nơi, nghĩ là cái chết buồn cho nên người ta cử hành đám tang rất vui, có bạn nhạc chơi ồn ào suốt đêm, có múa lửa hay vũ “sexy,” cho bà con lối xóm vui, mà người ra đi cũng “ngậm cười chín suối!”

Cáo phó là thông báo về tang lễ thường được treo trước cổng tang gia hoặc gửi đến từng người thân thích, do vậy trang cáo phó ngày nay vẫn thường có câu “cáo phó này thay thế thiệp tang.” Ngày nay thường tang gia nhờ báo chí đăng tải hay đọc trên đài phát thanh, để phổ biến tin buồn của gia đình rộng rãi hơn…

Quý độc giả đọc báo hàng ngày cũng nên ghé mắt qua trang cáo phó, kẻo nhiều khi vô tình, bạn bè qua đời mà không hay biết. Trên cáo phó thường có ghi rõ tên người chết, ngày sinh và mất, tuổi thọ và chương trình tang lễ, gồm thời gian, địa điểm làm lễ nhập quan, phát tang và di quan, giờ thăm viếng.

Ngày nay theo thói quen ở hải ngoại, ở cuối trang cáo phó, tang gia thường ghi thêm câu: “Xin miễn vòng hoa và phúng điếu.”

Chữ “phúng điếu” ở đây, theo thói quen của văn hóa Việt Nam là “đi tiền” hay “cúng tiền,” bà con thường có thiện ý là giúp đỡ tang gia phần nào trong việc chi phí cho tang lễ. Ngoài những thân nhân gần gũi trong gia đình, ngày nay không ai còn giữ cách phúng điếu này nữa, mà tang gia cũng không muốn phải chịu ơn, mắc nợ ai! Do đó, đôi khi tang gia gợi ý là nếu có, người viếng tang sẽ dành tiền để giúp đỡ cho các hội bác ái, như hội người cùi, người nghèo hay thương binh.

Về chuyện vòng hoa, có thể là đang ở trong vòng tranh cãi. Theo thời giá hiện nay, một vòng hoa tạm gọi là đẹp, tươm tất có giá không dưới $200, chỉ để trong phòng tang một hai ngày rồi vứt bỏ khi người chết được chôn cất hay đem vào phòng thiêu, quả là một chuyện phí phạm tiền bạc. Nhưng chúng ta thử tưởng tượng ra, một tang lễ mà không có những tràng hoa tang trông lạnh lẽo làm sao! Mặc dầu người đời vẫn có câu “không ai chê đám cưới, không ai cười đám ma,” nhưng theo thói quen, người ta vẫn đánh giá một đám tang lớn hay nhỏ qua số lượng của những vòng hoa viếng!

Nếu chúng ta có dịp dự một đám tang của người Mỹ bản xứ và đám tang của người Việt ly hương, chúng ta thấy số vòng hoa của người Việt phải nhiều gấp 5 lần.

Vậy thì, hiện nay, chúng ta chưa thể bỏ thói quen “phúng điếu,” bày tỏ lòng thương tiếc người đã khuất, bày tỏ tình thân của mình với tang gia, bằng một vòng hoa tang được. Lấy ví dụ giữa hai gia đình thông gia thân thiết đến với nhau, trong ngày buồn, lẽ nào đi viếng tay không, dù theo yêu cầu của tang gia là “xin miễn vòng hoa!” Coi sao được!

Quan niệm đạo lý Đông phương, “nghĩa tử là nghĩa tận,” chết là dứt nợ trần gian, nên đối với những người đã chết thì mọi điều oán giận, thù ghét đều nên bỏ qua, không hiểu vì sao có người còn dùng trang cáo phó để trách móc, chì chiết người chết.

Xin đọc một mẫu cáo phó này, những lời nguyền rủa thay cho thương tiếc: “Leslie qua đời vào 30/1/2017, dài hơn được kỳ vọng những 29 năm và dài hơn rất nhiều so với ông đáng được hưởng… Ông ra đi để lại hai đứa con được giải thoát – con trai Leslie Roy Charping và con gái Shiela Smith – cùng 6 đứa cháu và vô số nạn nhân khác bao gồm vợ, họ hàng, bạn bè, hàng xóm, bác sĩ, y tá và cả những người lạ ngẫu nhiên gặp gỡ. Sẽ không có đám tang nào được tổ chức và không lời cầu nguyện nào cho sự yên nghỉ vĩnh hằng, không lời tiếc thương đến gia đình người đã khuất… Leslie qua đời là minh chứng cho việc cái xấu xa cuối cùng rồi sẽ chết và hy vọng sẽ mở ra quãng thời gian an toàn, chữa lành vết thương cho tất cả.”

Tàn nhẫn đến thế là cùng!

Một câu chuyện khác, là ông Leroy Bill Black ở thị trấn Egg Harbor, New Jersey (Mỹ) qua đời ở tuổi 55 vì căn bệnh ung thư.

Ba ngày sau đó, có hai cáo phó về cái chết của ông, in cùng trên một trang báo của địa phương của hai người đàn bà, một là vợ, và một là nhân tình của ông. Cả hai đều dành quyền loan báo tin buồn của một ông Black, coi như ông có hai gia đình riêng biệt, cáo phó của nhân tình không nhắc đến tên vợ và các con của ông, cáo phó của vợ không biết đến tên nhân tình của ông!

Gần đây, có ai đó thù hận với một bà cụ vừa ra đi, đã đăng một bản cáo phó về bà, nhưng lại tố cáo bà đã lấy người em chồng và sinh ra những đứa con.

Truy sát nhau đến tận nhà quàn như thế, thì còn gì là tình là nghĩa nữa!

Và để cẩn thận, cho chắc ăn, bạn đã viết sẵn cho mình một cái cáo phó chưa?

Thôi thì mỗi ngày cũng nên giở tờ báo ra, lật những trang cuối và đọc đôi dòng cáo phó!

Còn vui hay buồn, có hạnh phúc hay không, thì còn tùy tâm sở của mỗi người.

Huy Phương.

Image may contain: 1 person

Chưa hoạt động mà tiền lãi cứ đều 300 tỉ mỗi năm

Làm ăn với Trung Cộng, đã sáng con mắt ra chưa.?

Ngo Thu

CHÂU ĐOÀN

Chưa hoạt động mà tiền lãi cứ đều 300 tỉ mỗi năm, tiền lương của 1000 nhân viên vẫn phải trả.

Sự yếu kém của lãnh đạo, cái tâm tư lợi và cả cái tâm thế nô lệ, phụ thuộc vào Trung Cộng là nguyên nhân tạo ra một đống cứt to tướng giữa thủ đô, dọn đi thì không đủ bản lĩnh và năng lực để làm, mà cũng không biết đốc thúc làm sao. Chắc khi soạn hợp đồng, tiền hoa hồng nhiều quá nên quên mẹ nó đi những điều quan trọng.

Chưa dùng đã trông như một đống sắt vụn, ngốn tiền ngân sách.

Mà có phải là một công nghệ gì ghê gớm đâu, chỉ là một cái tầu đi bằng tốc độ ngủ gật.

Mở mắt ra chưa? Đây chính là một nét vẽ lên chân dung của một chính quyền dốt nát, yếu kém, chỉ tham nhũng là giỏi.

Chính xác đây là một bẫy nợ, nó cố tình chây bửa.

Đây là một sự việc vô cùng nghiêm trọng, phải điều tra làm rõ và cho một số thằng vào tù.

https://baomoi.com/he-luy-du-an-cat-linh-ha…/c/32396389.epi…

https://www.facebook.com/704543964/posts/10157472737143965/

Image may contain: text

THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG!

Ngo Thu

THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG!

Tôi mệt, rất là mệt với những người đem mộ phần của ông tổng thống Pháp – Jacques Chirac ra so bì với mộ phần của ông chủ tịch Trần Đại Quang, hay lăng chủ tịch Hồ chí Minh. Họ rằng, tổng thống Pháp cũng chôn chung với các thường dân, và mộ ông ấy cũng 5m2 như bao người khác. Trong khi đó, phần đất mộ ông Trần Đại Quang to gấp 11.000 lần ông Jacques Chirac, hay khuôn viên lăng ông Hồ cũng to gấp hàng nghìn lần ông ấy. Hâydza!!

Mệt quá! Các người đã hiểu “thành quả cách mạng” là gì chưa mà dám so bì như thế? Những người đi làm cách mạng như ông Hồ, ông Quang….họ “chiến đấu giành thắng lợi” thì phải được hưởng thành quả cách mạng chứ? Ví dụ như ông Quang, trong thời gian làm bộ trưởng công an, ông cho đám lính lác dưới quyền đi cưỡng chế, ăn cướp hàng trăm ngàn ha đất của dân, thì nay ông chết, ông chỉ lấy có 5,5 ha xây mộ mà mấy người cũng la làng? Hoặc như ông Hồ, trong thời gian làm chủ tịch nước, ông tổ chức chiến dịch CCRĐ, tịch thu được hàng triệu mẫu đất của địa chủ, phú nông. Vậy nhà nước bỏ ra vài chục mẫu xây lăng cho ông thì có gì đâu mà quý vị so bì nào? Thử hỏi, suốt nhiệm kỳ làm tổng thống từ năm 1995 đến 2002 ông Jacques Chirac có cưỡng chế được m2 đất nào của dân Pháp không mà đòi mộ phần hoành tráng?

Vậy đấy, người cộng sản đi làm cách mạng thì họ hưởng thành quả cách mạng. Không những kẻ chết mà người chưa chết cũng thâu tóm ít nhất 5-7 lô đất vàng mặt tiền đó chứ. Mà làm cách mạng là làm gì quý vị biết không? Cách mạng, nó nằm trong cụm từ “cách cựu – mạng tân”. Có nghĩa là xóa bỏ cái cũ, thay vào cái mới đấy ạ.

Từ xa xưa, ông bà ta làm ăn theo kiểu cá thể. Ai thích làm gì thì làm (miễn là không phạm pháp luật hiện hành), ai muốn làm bao nhiêu thì làm, và ai làm nấy ăn. Đến khi người cộng sản đi làm cách mạng, họ xóa bỏ phương pháp làm ăn cá thể, thay vào đó bằng phương pháp kinh tế tập trung. Nghĩa là, người dân phải làm theo hướng dẫn và phân bổ của đảng, sản phẩm làm ra nhà nước thu hết rồi phân bổ một phần lại cho dân lao động. Dân muốn làm nhiều cũng không được, làm ít cũng không xong.Trống đánh, mới được đi làm. Trống tan chầu, phải về. Người thành phố biết buôn bán thì đưa lên rừng phát rẫy, kẻ thất học thì đưa vào bán hàng mậu dịch quốc doanh…. Thực hiện phương pháp đó chừng mươi năm thì dân đói rả họng, nhà nước kiệt quệ ngân sách. Đảng lại phải làm cách mạng tiếp, nghĩa là bỏ phương án kinh tế tập trung, cho người dân về tự làm kinh tế tư nhân. Ha ha!!! Đổi mới mà!

Giáo dục cũng cách mạng, cũng đổi mới, cũng cải cách. Năm này cải cách không ra gì thì sang năm cải cách cách cải cách của năm trước. Vẫn chẳng ra cái quần què gì thì lại cải cách cách cải cách của cải cách năm vừa rồi. Cứ thế, họ cải cách, họ đổi mới, họ cách mạng để rồi giáo dục càng ngày càng te tua….

Đấy! người cộng sản đi làm cách mạng lần xà quầng như thế đấy! Hậu quả cách mạng của họ để lại đến đời cháu con chúng ta vẫn chưa gỡ nỗi. Nhưng, thành quả thì họ lập tức hưởng vô biên. Mấy chục ngàn mét vuông đất nghĩa địa có là gì đâu mà quý vị càm ràm mãi hè?

Mệt!https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=2233177573459543&id=100003019675969

Image may contain: outdoor

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ếch & Bò

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Ếch & Bò

(RFA)

 

Ảnh của tuongnangtien

Trung Quốc đã làm rất tốt về việc xây dựng mạng xã hội của riêng họ. Vì vậy, Việt Nam cũng nên xây dựng mạng xã hội của mình.

T.T Nguyễn Xuân Phúc

La grenouille qui veut se faire aussi grosse que le boeuf.

Jean De La Fontaine

Trong lịch sử loài người, dường như, không xứ sở nào lại có một tầng lớp lãnh đạo “sính” chuyện viết lách như ở VN:

  • TBT Trường Chinh, làm thơ với bút hiệu Sóng Hồng.
  • TBT Nguyễn Văn Linh, viết báo với tên NVL.
  • TBT Nông Đức Mạnh, người suốt đời chỉ quan tâm đến lâm nghiệp và nông nghiệp (trồng cây gì? nuôi con gì?) cũng vừa làm công luận vô cùng kinh ngạc về bộ Tuyển Tập dầy cộm của ông, do nhà xuất bản Sự Thực xuất bản năm 2018.

Nói chung thì tất cả các đồng chí lãnh đạo đều có tác phẩm để đời ráo trọi:

Riêng Chủ Tịch Đầu Tiên của nước VNDCCH, kiêm Chủ Tịch Đảng, đã để lại cho hậu thế Hồ Chí Minh Toàn Tập (trọn bộ) tới 15 cuốn lận. Người còn làm thơ (tiếng Tầu) viết kịch (tiếng Tây) và đặc biệt nổi bật trong thể loại tự truyện – autobiography – với những bút danh xa lạ: Trần Dân Tiên hoặc Th. Lan. Ngay  cho đến nay, bài viết (“Địa Chủ Ác Ghê”) của Bác – xuất bản năm 1953, với bút hiệu CB – vẫn còn được dư luận rất quan tâm và vô cùng … ái ngại!

T. S Mạc Văn Trang nhận xét: “Cái này là mốt của những nhà cộng sản, bất kỳ ai làm Tổng Bí thư đều có sách, từ xưa đến giờ: ông Lê Duẩn có rất nhiều sách, ông Trường Chinh, ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười cũng rất nhiều sách.”

Đến như cỡ ông Đỗ Mười mà “cũng rất nhiều sách” thì đủ biết là giới lãnh đạo CSVN thích “trước tác” đến cỡ nào. Có điều ít ai để ý là ngoài việc chăm chỉ viết lách, họ còn vô cùng nhiệt tình … đốt sách nữa cơ. Họ đốt từ Hà Nội đến Sài Gòn. Một người dân ở lại miền Bắc sau năm 1954, ông Tự Do, cho biết:

“Tôi phải học năm cuối cùng, tú tài 2, cùng một số ‘lớp chín hậu phương,’ năm sau sẽ sát nhập thành ‘hệ mười năm.’ Số học sinh ‘lớp chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức hiệu đoàn,’ nhận ‘chỉ thị của thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’ Họ truy lùng…đốt sách!

Hai mươi mốt năm sau, tình trạng này lại tái diễn:

  • Trần Bích San: “Sau khi dùng bạo lực cưỡng chiếm miền Nam, Cộng Sản thực hiện cấp thời, qui mô chính sách tieu diệt toàn bộ văn hóa phẩm Việt Nam Cộng Hoà. Khoảng hơn 180,000,000 quyển sách đủ loại bị tịch thu, thiêu hủy.” (Trần Bích San. Văn Học Việt Nam. New Orleans, LA: Cảo Thơm, 2018).
  • T. Vấn: “Đó là những ngày tháng tủi hổ nhất cho lịch sử Việt nam, khi hàng ngàn thanh niên sinh viên học sinh của bên thua trận bị chính quyền mới ra lệnh vào tận những nhà sách, nhà xuất bản, cả những kệ sách tư nhân, tịch thu tòan bộ sách báo, ấn phẩm, tất cả những gì được in ấn, phát hành ở miền Nam trước tháng 4 năm 1975 đem ra đốt.”
  • Nguyễn Ngọc Chính: “Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc.”

Thời gian, may thay, không đứng về phe những kẻ phần thư. Những tác phẩm bị thiêu hủy đều có thể được tái tạo, dưới hình thức khác (gọn gàng, nhẹ nhàng, và dễ tiếp cận hơn nhiều) trong thời đại mới. Internet là một phát kiến ngoài dự đoán của Geroge Orwell nên nhà tiên tri của thế kỷ XX đã bị thời đại vượt qua. Trong tác phẩm Nineteen Eighty-Four (1984) ông viết: “Who controls the past controls the future: who controls the present controls the past. Ai kiểm soát được hiện tại, kiểm soát được quá khứ. Ai kiểm soát được quá khứ, kiểm soát được tương lai.”

Những phương tiện truyền thông đại chúng hiện nay khiến cho chế độ toàn trị mất ráo mọi thứ quyền “kiểm soát.” Hơn chục năm trước, báo Công An Nhân Dân (số ra ngày 05/10/2007) đã than thở rằng “blog như là một thứ hệ lụy và quản lý blog là … chuyện buộc cẳng chim trời.” Đến nay thì tình hình đã có phần (hơi) đổi khác: buộc chỉ chân voi. Vậy thì đành phải theo thời thôi!

Thế là Đảng và Nhà Nước CSVN cho ra đời hằng trăm trang mạng. Tất cả đều tưng bừng khai trương và âm thầm đóng cửa – theo nhận định của Vnexpress, đọc được vào hôm 18/09/2019: “Rất ít mạng xã hội của Việt Nam tồn tại được quá một năm. 9 năm trước, mạng xã hội Go.vn ra đời kèm theo tuyên bố chắc nịch từ lãnh đạo của dự án này là: Soán ngôi Facebook sau 6 tháng với 5 triệu người dùng. Đơn vị này cũng đặt mục tiêu chiếm 40–50% lưu lượng truy cập mạng xã hội tại Việt Nam vào năm 2015. Nhưng rồi dự án mau chóng thất bại, chuyển thành một trang tin tức tổng hợp. Tương tự Go.vn, còn nhiều cái tên mạng xã hội cũng ra mắt đình đám nhưng sớm ‘chết yểu’ như Zingme, Tamtay.vn, Yume.vn…”

Tất cả mọi người đầu biết những sự kiện này, trừ mỗi ông tân Bộ Trưởng (TT & TT) Nguyễn Mạnh Hùng. Tại lễ ra mắt mạng xã hội Lotus, nhân vật này tuyên bố rằng: “Người Việt có thể làm ra những thứ mà thế giới chưa từng làm.” Nói vậy (chắc) chưa đã miệng nên đương sự còn thêm: “Thành công của Lotus sẽ góp phần để đến 2020, người dùng các mạng xã hội Việt Nam sẽ tương đương người Việt Nam dùng các mạng của nước ngoài.”

Ông Nguyễn Thế Tân, Tổng Giám Đốc Công Ty Cổ Phần VCCorp (đơn vị phát triển mạng xã hội Lotus) cũng hùng hổ, và hùng hồn, không kém: “Kỳ vọng sẽ đạt mốc 4 triệu người dùng mỗi ngày, sau đó sẽ tăng lên 20 triệu, thậm chí 50 triệu người dùng.”

Hai ông Trời con này khiến tôi nhớ đến mấy câu thơ ngụ ngôn của Thái Bá Tân:

Con Ếch ngu ngốc ấy/Nổ đánh bùm thật to/Thế là hết con Ếch/Muốn to bằng con Bò.

Còn công luận thì nhận xét ra sao?

  • TS Nguyễn Đức AnTrên thực tế, họ ra mắt rầm rộ nhưng có lẽ là hơi vội vì hiện vẫn chưa có giao diện trên web, chỉ là một ứng dụng trên thiết bị di động … nội dung thì có vẻ rất nhiều thứ vô thưởng vô phạt, với lượng tin bài gái xinh-trai đẹp và những chuyện cướp-giết -hiếp chiếm tỉ trọng lớn.
  • Chuyên gia Lê Ngọc Sơn (Đại Học Công Nghệ Ilmenau): Họ nói là mạng xã hội dựa trên nội dung, nhưng nội dung kiểu gì mà khi vào thì toàn nội dung rẻ tiền.
  • L.S Nguyễn Văn ĐàiMạng xã hội Việt chỉ lãng phí tiền và người.
  • Báo Lao ĐộngMạng xã hội 1.200 tỉ: Chỉ toàn hot girl vậy sao?
  • BBCPhát triển mạng xã hội của Việt Nam có đang đi sai hướng?

Câu trả lời xin được nhường cho một nhân vật có thẩm quyền, ông Trần Anh Dũng – CEO & Founder của công ty cổ phần MOG: “Việc phát triển một sản phẩm công nghệ là luôn đổi mới, không dừng lại nên nếu số vốn đầu tư không đủ lớn, mô hình không đủ tốt thì sẽ ‘đốt’ tiền rất nhanh. Và khi đó, trào lưu phát triển mạng xã hội sẽ lại gặp thực trạng như vài năm trước là chết như ngả rạ.” 

Hai cựu bộ trưởng TT& TT Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn (trái) khai nhận tổng cộng là 3,2 triệu đôla hối lộ từ ông Phạm Nhật Vũ. Ảnh chú thích: BBC

Cái gì chứ “đốt tiền” thì giới quan chức Việt Nam đều có năng khiếu cả. Hai vị bộ trưởng tiền nhiệmđã thể hiện khả năng thiên phú của họ một cách vô cùng ngoạn mục. Nay thì đến lượt ông Nguyễn Mạnh Hùng. Tiền đến tay ai thì người ấy cất thôi. Good luck, sir!

6 thời điểm khiến con người tỉnh ngộ nhất: Là ai cũng nên lưu ý, tránh họa hại thân

6 thời điểm khiến con người tỉnh ngộ nhất: Là ai cũng nên lưu ý, tránh họa hại thân

Trong 6 thời điểm này, có 1 thời điểm mà bất kể là ai cũng phải trải qua.

6 thời điểm khiến con người tỉnh ngộ nhất: Là ai cũng nên lưu ý, tránh họa hại thân

Có rất nhiều người trong cuộc sống này luôn tự cho mình là nhất, ngông cuồng không biết trời cao đất dày, sống một cuộc đời vô cùng hồ đồ. Thế nhưng, con người đều có những lúc tỉnh ngộ, hiểu ra. Vậy thì, vào những lúc nào, con người tỉnh ngộ nhất?

1. Lúc gặp đen đủi

Những lúc bình thường, trời yên bể lặng thì anh ổn, tôi ổn, mọi người cùng ổn, thoải mái ăn uống, nhậu nhẹt, thân như ruột thịt. Thế nhưng một khi bạn gặp chuyện đen đủi, sẽ có người ngồi nhìn mà không giúp, thậm chí còn mỉa mai chế giễu, đáng sợ hơn còn tranh thủ giậu đổ bìm leo.

Đây chính là lúc người gặp hoạn nạn nhìn thấy rõ nhất ai thực sự là bạn, ai là kẻ tiểu nhân vô sỉ. Tỉnh ngội rồi, sẽ biết cách chọn bạn, ai là người nên chơi và ai là người không thể chơi.

2. Sau cơn bạo bệnh

Sau một đợt ốm nặng, con người sẽ hiểu ra rằng, chỉ có sức khỏe mới là quan trọng nhất, những thứ khác đều xếp sau, sức khỏe là số 1, những thứ khác là số 0, số 1 không còn, số 0 có nhiều thế nào cũng trở nên vô nghĩa.

Vì thế mà có những việc, bình thường ta xem trọng như núi, nhưng sau cơn bạo bệnh, tất cả sẽ được xem nhẹ và nhìn thấu.

 6 thời điểm khiến con người tỉnh ngộ nhất: Là ai cũng nên lưu ý, tránh họa hại thân - Ảnh 1.

3. Sau khi mất chức

Một người nào đó có quyền thế, bỗng một ngày đẹp trời tự nhiên mất chức chuyện gì sẽ xảy ra? Cây đổ khỉ sơ tán, trước đây nhà lúc nào cũng nườm nượp người vào ra, giờ đây vắng tanh vắng ngắt, trước đây người người vây quanh, giờ đây có gặp mặt cũng trở thành người dưng không quen biết.

Gặp cơn bĩ cực, mới hiểu ra rằng những người trước đây cung kính mình thực ra họ chỉ quan tâm đến cái chức sắc mà mình có mà thôi; họ xu nịnh mình, cũng là bởi mình nắm quyền thế trong tay mà thôi.

4. Sau khi nghỉ hưu

Sau khi về hưu, nhớ lại những ngày còn đi làm, giữa đồng nghiệp với nhau vì danh lợi địa vị, vì thăng tiến, vì một danh xưng mà tranh giành đến mặt mũi tía tai, ngẫm lại mới thấy thật vô nghĩa.

Nghỉ hưu rồi mới ngộ ra, những thứ đó đều là vật ngoài thân, chết cũng chẳng đem theo được. Chức vụ cao hay thấp, nghỉ hưu rồi cũng chẳng khác gì nhau, mọi người sẽ đều trở thành những người bạn già về hưu, sớm biết vậy, hà tất lúc trước phải tranh giành?

 6 thời điểm khiến con người tỉnh ngộ nhất: Là ai cũng nên lưu ý, tránh họa hại thân - Ảnh 2.

Ảnh minh họa.

5. Sau khi đánh mất…

Rất nhiều người thường không biết đủ, luôn đợi đến khi mất đi rồi, mới hiểu ra những thứ mất đi đáng quý thế nào.

Từng có một người thật lòng yêu thương, quý mến xuất hiện ngay trước mặt bạn nhưng bạn không trân trọng, đợi đến khi mất đi rồi mới hối hận không kịp. Việc khổ sở nhất trên đời này, có lẽ không gì có thể vượt qua việc này…

Cuối cùng, trong cuộc đời, chỉ có trải qua rồi mới hiểu ra, chỉ có hiểu rồi mới biết trân trọng nâng niu. Trong đời, luôn có một người khiến bạn cười tươi nhất, cũng sẽ có người khiến bạn khổ đến cùng cực. Với người khiến mình khổ, hãy chọn cách quên đi, đó chính là cách bạn đối đãi tử tế với bản thân mình.

Có rất nhiều việc trên đời cần chúng ta nhìn một cách nhẹ nhàng, đơn giản. Quá trình của nhân sinh thực ra chỉ là được và mất, sau khi xem mọi chuyện bằng cách nhìn đơn giản, chúng ta sẽ biết chúng ta nên xem trọng cái gì, cái gì mới là quan trọng với mình, cái gì cần loại bỏ.

6. Lúc lâm chung

Con người, đến lúc lâm chung mới hiểu ra rằng: Tất cả đã không thể cứu vãn, tất cả đều là mây khói hư vô.

Chết đi rồi, sẽ chẳng mang theo được bất cứ thứ gì, thời gian, của cải, tiền bạc… tất cả đều trở thành di sản.

Chính bởi thế, lời khuyên dành cho tất cả chúng ta là, khi còn được sống, hãy tận hưởng cuộc sống theo cách khiến bạn thấy vui, ý nghĩa nhất. Sống trọn vẹn từng giây từng phút ở hiện tại, lúc nhắm mắt xuôi tay sẽ không còn điều gì phải hối tiếc.

TUỔI NHỎ TRÍ LỚN & ĐẦU TO ÓC BẰNG QUẢ NHO…?

Image may contain: 1 person, eyeglasses, selfie and closeup
Image may contain: 1 person, smiling, suit
Image may contain: 1 person, smiling, standing, eyeglasses and suit

Lê Hồng Song

TUỔI NHỎ TRÍ LỚN & ĐẦU TO ÓC BẰNG QUẢ NHO…?

Thằng “Tai dơi mỏ chuột” này, nó ra chính trường quốc tế, nó kêu tên cúng cơm từ Tập Cận Bình, Carrie Lam, đảng CS Trung Quốc ra mà tố cáo. Và nó cũng khẳng định sắt thép rằng công cuộc đòi tự do cho Hong Kong là trách nhiệm của thế hệ nó.

Chứ không như PTT Phạm Bình Minh, báo cáo xung đột tại biển Đông tại Liên Hiệp Quốc, mà phải mặc tả, run cầm cập và không dám kêu đích xác TQ xâm lược.

Và PTT Vũ Đức Đam thì tuyên bố rằng “Nếu đời ta không đòi được HS-TS thì giao cho con cháu chúng ta đòi.” thật là khỏe re!

Thiết nghĩ, Phạm Bình Minh và Vũ Đức Đam nên xin thằng “Tai dơi mỏ chuột” ị ra một ít làm thuốc uống mà có thêm can đảm để đảm trách vai trò một phó thủ tướng lãnh đạo đất nước…

(Ảnh trên Internet)