Vì sao người lương thiện cả đời gặp nỗi buồn và trắc trở

Vì sao người lương thiện cả đời gặp nỗi buồn và trắc trở

Tôi đã tìm một người thầy thông thái và đạo hạnh xin chỉ bảo:
-Vì sao những người lương thiện như con lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt như vậy

Thầy hiền hòa nhìn tôi trả lời:

– Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào, như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác. Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.

Có cảm giác như bị xúc phạm, tôi không phục, liền nói:
-Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!
Thầy trả lời:
-Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con đang tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.

Tôi nói:

-Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có “cảm giác thua thiệt” bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này; trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…

Cứ như vậy, lần lượt tôi kể hết với thầy những nỗi thống khổ của mình.

Thầy gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, người từ tốn nói với tôi:
– Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy.

-Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.

– Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có. Tâm ngu si cũng là ác tâm!

– Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.

Sư phụ tiếp tục mỉm cười:

Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.”

– Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.

-Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện! Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!”

– Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.

-Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi! Một người sống trong thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy duyên tự tại! Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì.

-Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?

Vị thầy khả kính nói xong những điều này, tiếp tục nhìn tôi với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.

Ngồi im lặng hồi lâu…xưa nay tôi vẫn cho mình là một người rất lương thiện, mãi đến lúc này, phải! chỉ đến lúc này, tôi mới biết được trong tôi còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác! Bởi vì nội tâm của tôi chứa những điều ác, nên tôi mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm của tôi không ác, sao tôi có thể khổ chứ?

Xin cảm tạ thầy, nếu không được người khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!

XIN MỘT PHÚT MẶC NIỆM CONTAINER VÀ MỘT PHÚT MẶC… MẸ CHUYÊN CƠ!

XIN MỘT PHÚT MẶC NIỆM CONTAINER VÀ MỘT PHÚT MẶC… MẸ CHUYÊN CƠ!

“Phương tiện lưu vong” của 4 triệu người Việt Nam ở hải ngoại, sau 44 năm đất nước chấm dứt nội chiến, đã ghi thêm 2 kỳ tích (sự tích kỳ cục) là vượt biên bằng chuyên cơ lẫn container.

Trước và sau giờ tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, quân, dân, cán, chính bên thua cuộc đã chen nhau di tản bằng 2 phương tiện: phi cơ quân sự (trực thăng và 1 đầm già ra Hàng Không Mẫu Hạm, phi cơ cánh cứng qua Thái Lan) và tàu quân sự cùng 1 tàu buôn Việt Nam Thương tín. Cuộc di tản khá an toàn, trừ những máy bay bị phòng không bắn hạ.

Sau cuộc cải tạo tư sản lần thứ nhất (từ 4/9/1975), người Hoa rồi người Việt lần lượt vượt biên bằng ghe, số lượng ngày càng tăng dần, số người chết đói, chết khát, bị cướp biển, đàn bà bị hiếp dâm nhiều vô số kể.

Số người ra khỏi hải phận VN và đến được trại tỵ nạn của các nước ĐNA chỉ còn phân nửa. Số người bị bắt tại bãi và trong hải phận VN bị ở tù vì tội phản quốc.

Một chiếc tàu đi bán chính thức bị nổ ở Cát Lái, 300 xác trôi về tới Nhà Bè, xác được vớt tập trung nhiều chỗ, để BS pháp y Nguyễn Thanh Tuyền đến khám tử thi.

Vậy mà, người ta cứ bỏ đi, nếu cột đèn có chân nó cũng đi.

Để dần chấm dứt tình trạng vượt biển bằng ghe (Năm 1997 đóng cửa các trại tỵ nạn) từ năm 1980, Mỹ lập ra chương trình Ra Đi Có Trật Tự (Orderly Departure Program – O.D.P) cho 3 nhóm đối tượng:

Diện HO (Humanitarian Operation) là các cựu tù nhân trại cải tạo, có tên chính thức là Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo).

Diện U11 là các cựu nhân viên chính phủ Hoa Kỳ.

Diện V11 là các cựu nhân viên của công ty tư nhân hoặc tổ chức của Hoa Kỳ.

Trước năm 1980, nhiều gia đình diện H.O, U11, V11 đã chia người thân ra vượt biển bằng nhiều chuyến, có chuyến có người thân chết, nên gia đình đã “vắng vẻ” còn định cư ly tán ở nhiều nước.

Trong khi đó, những gia đình 3 diện này không vượt biển, đều định cư cùng “bầu đoàn thê tử”, an toàn trên máy bay. Bởi vậy, kiều bào ta mới có từ mỉa mai: Người sau: DIỆN Ô – ĐI – PI, Kẻ trước: DIỆN Ô – ĐI – GHE.

Diện Ô – ĐI – GHE của bên thua cuộc ôm nhiều tủi hờn nhất, khi nhìn thấy con cái của cán bộ bên thắng cuộc được định cư theo DIỆN Ô – ĐI – DU (học); hoặc cả gia đinh cán bộ cao cấp tham nhũng định cư theo DIỆN Ô – ĐI – I – BI – PHAI (DIỆN EB5).

Mới đây, trang sử luu vong ghi thêm 2 diện vượt biên ô nhục và tang tóc: DIỆN Ô – ĐI – CHUYÊN – CƠ và DIỆN Ô – ĐI – CÔNG – TEN – NƠ.

Khi TBT Nguyễn Phú Trong hỏi “Đất nước ta chưa bao giờ có được như ngày hôm nay” và chủ tịch QH Nguyễn Thị Kim Ngân nói “luật Thanh niên sửa đổi phải giúp thanh niên đọc vào thấy được mình đã làm gì cho Tổ quốc”, thì là lúc người dân phát minh 2 hai phương tiện vượt biên mới: “chuyên cơ” và “container”.

2 chữ hơi đồng âm (homonym) nhưng rất tương phản (contrast). Chín người vượt biên bằng chuyên cơ đều giàu và có thế lực lớn. 39 vượt biên trong container lạnh đều nghèo hèn, đói khổ.

Hai thanh niên Phạm Thị Trà My và Nguyễn Đình Tứ chưa làm gì cho Tổ quốc, nhưng không làm nhục Tổ quốc như bà Ngân đi chuyên cơ còn chở 9 người vượt biên.

Vượt biên băng chuyên cơ làm nhục quốc thể, còn vượt biên bằng container chỉ làm “nhớ nước đau lòng con quốc quốc, thương nhà mỏi miệng cái gia gia”.

Xin một phút mặc niệm 39 người trong container và một phút mặc… mẹ Nguyễn Thị Kim Ngân vả 9 người trên chuyên cơ!

MAI BÁ KIẾM

****

QUỐC THỂ CHO AI?…

1. Thi thoảng nhìn tấm khăn len trên vai người con gái Việt ở miền Nga giá buốt, nghe một điệu hát quê hương bên ánh lửa xứ Lào, lòng tôi rức lên một cảm xúc hỗn mang.

Tôi vui vì đồng bào tôi tìm được một nơi cho họ một cuộc sống khác. Tôi cũng buồn, trong mắt của những người viễn xứ luôn có điều gì đó buồn bã, tiếc nuối.

Bạn tôi ở Úc, lấy vợ Việt. Vợ 17 tuổi làm lễ rồi đợi đủ tuổi làm đăng ký. Đợi thêm vài năm để vượt qua các cuộc sát hạch của xứ bạn. Họ kiểm tra cả những tấm hình trước kết hôn để chắc rằng họ không đính hôn giả.

Anh tôi sang Úc tìm đường cho các con mai này. Anh làm công việc cắt thịt, làm cả hai ca, là một điều cấm. Ngày làm đêm ngủ, bàn tay bấy máu. Anh live stream về cho chị, hai người tươm nước mắt…

Những người quen tôi những tháng đi về để giữ điều kiện nhập tịch. Họ bảo cô đơn và lạnh lẽo, buồn lắm nhưng vì con.

2. Úc, Mỹ Canada… với những chính sách nhập cư hà khắc, không còn là “thiên đường” của người Việt. Nó chỉ còn rộng cửa với người giàu. Mỗi năm tầm 9 tỷ đô ra nước ngoài, theo các chuyên gia. Và trong số những người giàu đó, chắc rằng không ít quan chức.

Thiên đường thứ hai của người Việt hiện tại hầu hết là Đông Âu, để lưu lại được vào Nhật, Hàn cực khó. Mẹ bạn tôi ở Nga bao nhiêu năm, đến khi xế bóng muốn về quê nhưng hai bàn tay trắng. May mắn sao bạn tôi có chút công danh như ý, đón mẹ về.

Nước Lào đang là lựa chọn mới nổi. Người miền Trung sang bên đó làm gỗ, làm ve chai. Mấy lúc nhàn rỗi lại về. Họ dắt díu nhau đi tìm đất sống. Nước Lào hiền dịu cưu mang rất nhiều người con quê tôi.

Ly hương là lựa chọn nghiệt ngã. Càng nghiệt ngã hơn cho những con người “sống chui” nơi đất khách. Nép mình trong phòng sợ hãi. Chờ siêu thị hết giờ để lấy thịt hết hạn, ăn nội tạng mà người ta không ăn…

3. Tôi không cổ suý đồng bào tôi ra đi. Nhưng tôi lấy gì để níu họ ở lại? Tôi nhìn vào thực tế đắng cay: Ai cũng muốn ra đi. Tài năng chất xám ra đi, người giàu có ra đi, tôi chưa bao giờ trách họ.

Tôi trách quốc gia. Một quốc gia để công dân của mình không có đất sống, phải ngậm đắng ra đi lựa chọn cuối cùng. Quốc gia mà đến y tế và giáo dục người ta cũng tìm đường tị nạn. Đến cả việc dồn dân đô thị cũng không còn đất cho người nữa rồi.

Tôi trách quan chức. Họ cũng là những kẻ ra đi. Nhưng là đi trong nhung gấm. Tài sản ở nước ngoài, con cái ở nước ngoài. Tiền đó ở đâu? Chắc chắn là góp lại từ những mảnh đời của nhân dân tôi lam lũ.

Nhân dân đánh bạc với cuộc đời cũng chỉ để mong chắt mót một chút của cải từ viễn xứ mang về quê hương, cho mình và cho người xung quanh mình. Họ có thể sai nhưng có gì đáng tội?

So với quan chức vơ vét quê hương để mang đi vương giả đầm ấm ở thiên đường, ai mới là tội phạm?

Quốc gia rừng vàng biển bạc đã không nuôi nổi những công dân lương thiện. Để họ phải vượt sóng xé trời tìm nơi khác. Quốc gia ấy lấy tư cách gì đòi hỏi nhân dân giữ gìn quốc thể?

Quan chức ăn là mặc lượt đu bám những chuyến xuất ngoại. Quan chức mang cả vợ con bằng tiền của nhân dân đi du lịch shopping có nghĩ đến quốc thể hay không?

Đừng nói về quốc thể. Khi quốc thể của các người là miếng bít tết vào mỗi buổi sáng, còn quốc thể của nhân dân là tô cơm hẩm cuối chiều!”

NB NGUYỄN TIẾN TƯỜNG

Image may contain: 2 people
Image may contain: 9 people, people standing
Image may contain: 1 person

Ly hương ngay trên chính quê hương mình

Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

Ly hương ngay trên chính quê hương mình

  • Lê Trai
  • Thứ Hai, 28/10/2019 • 4.7k Lượt Xem
  • “Em ơi, gọi điện về cho bố mẹ thắp hương cho anh, chứ giờ anh lên xe đây” – là  
  •    lời nhắn cuối cùng của anh N. (Nghệ An) trong cuộc gọi vội vã cho vợ trưa ngày   
  • 22/10. Chúng nghiệt ngã như những dòng tin nhắn cuối cùng Trà My (Hà Tĩnh)
  • nhắn cho mẹ lúc 4 rưỡi sáng ngày 23/10.

“Con xin lỗi bố mẹ nhiều mẹ ơi… Con chết vì không thở được… Con xin lỗi mẹ, mẹ ơi”…

 

Những lời nhắn gửi cô độc, một nửa hy vọng và rồi hoàn toàn tuyệt vọng. Không có ai, ngoài gia đình làm nơi bấu víu cho những bước chân biết mình đang đánh cược cả mạng sống khi dấn thân vào những chuyến xe sinh tử. Không có ai, ngoài gia đình khiến những dòng tin nhắn đầy day dứt lẫn trong đau khổ tuyệt vọng khi không làm tròn chữ hiếu vì đường đi không thành.

Sau chuyến đánh cá, Phú Bài, Thừa Thiên Huế, ngày 4/7/2019. (Ảnh: Tran Qui Thinh/Shutterstock)

Tại Anh, danh tính 39 người thiệt mạng trong container vẫn đang được xác định, với lời hứa “đảm bảo sự tôn trọng người đã mất” của cảnh sát hạt Essex (London).

Còn tại Việt Nam, tính đến chiều ngày 27/10, 24 gia đình ở Nghệ An, Hà Tĩnh đã xác nhận có con mất tích ở Anh. Trong số đó, riêng một huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) đã có 8 gia đình báo đã mất liên lạc với người thân khi trên đường sang Anh.

Chưa bao giờ, những con ngõ, ngôi nhà ở Hà Tĩnh, Nghệ An nhiều tang thương như thế. Tất cả vẫn đang cùng nguyện cầu rằng các con còn sống. Nhưng cùng lúc, những gia đình khốn khổ ấy vẫn thu thập mẫu máu, mẫu tóc gửi sang Anh để giới chức xác nhận tìm con. Có gia đình đã lập bàn thờ tạm trong nỗi mong ngóng con trở về. Dù chỉ còn một tia hy vọng, không ai nỡ bỏ rơi con mình. Dù cõi dương hay âm, không ai đành lòng khi biết con mình hãy còn bơ vơ.

Như nhiều biến cố và thảm kịch xảy ra gần như mỗi ngày trên đất nước Việt, xót thương không còn là cảm xúc duy nhất và tuyệt đối trước những phận người đã khuất. Sự tuyệt vọng đang phủ trùm từng người bởi những thảm kịch xảy ra liên tục không có hồi kết, dù gần ngay trước mắt như tai nạn giao thông hay âm thầm và dai dẳng như ung thư hay muôn vạn trạng bệnh do môi trường khánh kiệt, người với người đầu độc nhau khiến từng miếng ăn, miếng nước, khí thở cũng làm nên tội. Vì xót xa nên thay vì lặng một chút cảm thông, người người vội lên tiếng trách than cho người đi bởi sự lựa chọn quá nghiệt ngã. Chúng ta thậm chí hãy ngưng phán xét cả những người đang phán xét. Như lời của một người đã chứng kiến quá nhiều phận “người rơm” khốn khổ (*), một chút im lặng cảm thông với những gia đình đang ở tận đáy của sự đau thương có lẽ là điều cần trong lúc này. Dù là người Việt Nam, người Trung Quốc hay người dân của bất kỳ quốc gia nào chăng nữa, họ được quyền yên nghỉ sau quá nhiều những đau đớn, hoảng loạn lúc cuối đời. Người đã khuất cần được tôn trọng, như cách cả thế giới đã nâng niu cậu bé Syria say ngủ vĩnh viễn bên bờ biển ở xứ sở mênh mông.

Hãy vội khoan phán xét, chỉ bởi chúng ta là một phần trong xã hội đó, trong vô thức hay thờ ơ mà góp phần làm cho xã hội ấy vận hành. Những tác nhân vĩ mô không khiến cho trách nhiệm của mỗi phần tử trở nên tiêu biến. Hôm nay, không chỉ có hàng chục, hàng trăm… người Hà Tĩnh, Nghệ An chấp nhận phận “người rơm” nơi đất khách. Trên vùng cao phía Bắc, những người H’Mông, Dao, Tày… mất đất, hết rừng từ lâu đã chui theo đường mòn, đánh cược mạng sống của phận làm chui với những chủ người Trung Quốc. Với những cô gái Việt bán tủi nhục, bán tương lai làm lao động tình dục bên Singapore, Malaysia, Phillipines…, Việt Nam là quê nhà nhưng không phải nơi để về. Nơi đất Tây Nguyên, nhiều gia đình người Thượng kéo nhau cùng chạy trốn, sang Campuchia, sang Thái Lan, không hẳn bởi đói mà bởi những trận đòn, những hận thù, họ chẳng được đối xử như con người, bị cấm nói ngôn ngữ tộc mình, bị cấm thực hành đức tin theo tín ngưỡng của mình. Còn nhiều tiếng nói tha hương ngay trên đất mình, cô độc đến lẻ loi khi bị gọi tên “bất đồng chính kiến” chỉ bởi họ cất lên tiếng nói của chính mình giữa muôn vàn ngụy tạo.

Chúng ta không thể từ chối rằng mình đã hơn một lần quay lưng – vì sợ sệt hay vì vị kỷ đến thờ ơ – trước những điều được gọi chung là “vấn đề xã hội”, vội vã gieo vào đầu một từ “làm chính trị” để cắt đứt mọi dòng suy tư. Có lẽ sự “thiếu hiểu biết” chẳng ở đâu xa. Thiếu hiểu biết đôi khi chỉ là việc chúng ta từ chối trách nhiệm. Trách nhiệm bận tâm, trách nhiệm đi tìm ngã rẽ, trách nhiệm cùng giải quyết vấn đề. Khác với những người không biết, khi có phán xét nhất định rằng đó là “vấn đề xã hội” hay “làm chính trị”, chúng ta rõ ràng đã có sự lựa chọn. Chỉ là chúng ta lựa chọn im lặng mà thôi.

Mà, hãy khoan nói đến biển chết do Formosa, thành phố ngộp thở do hàng triệu cây xanh bị chặt, nước chết, đất chết do hóa chất công nghiệp, nông nghiệp, rừng bị tàn phá và những xác đứa trẻ quện trong lũ bùn… Đóng một bản tin, tắt màn hình điện thoại, mọi lời tự vấn “tại sao” cũng tự nhiên khép lại. Không phải vì chúng đã được trả lời, mà vì chúng đi vào bế tắc. Thật khó chấp nhận cho những con đường ngồn ngộn xe, nước uống nhiễm độc, không khí gây bệnh, rác khắp nơi, tiếng còi xe, tiếng la hét, tiếng chửi rủa từ đường phố cho tới khi về nhà. Nhưng chúng ta vẫn chấp nhận. Chấp nhận một đời sống “định hướng”, sống theo tư duy “định hướng” chỉ là con đường nối dài dẫn tới việc chấp nhận cho qua từ thảm họa này sang thảm họa khác. Trong xã hội đó, ai cũng là nạn nhân và ai cũng là thủ phạm. Miễn là khi cái chết không ập xuống bất thình lình, có ai không thừa nhận rằng chúng ta đang lựa chọn cách phớt lờ để sống?

Ai cũng chọn cách sống đời ly tán, để rồi tất cả cùng ly hương?

Vì sao nhiều người kêu gọi phải minh bạch thông tin, vì sao cần giúp đỡ kẻ yếu, hướng dẫn những người không có hiểu biết, ít được học hay hỗ trợ từ những điều thiết yếu như ăn, ở, học hành? Chỉ bởi muốn thay đổi thì cần phải hành động. Hãy dừng phán xét và cũng đừng tự ti. Hãy giúp thay đổi, cải biến hoàn cảnh, bắt đầu từ những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt ở xung quanh.

Khi người trẻ Hồng Kông gây dựng biểu tượng cho lòng khát khao nhân quyền dọc mùa hè 2019, nhiều người Việt đã lên tiếng hỏi: Người trẻ Việt Nam đâu? Họ đang sống thay cho những thế hệ đã chọn ngậm miệng và giữ im lặng trước quá nhiều sự toàn trị. Thế hệ trước cả một thời đại đã bị cưỡng chế buông bỏ truyền thống văn hóa, nội hàm đạo đức được gầy dựng thông qua giáo dục, thế hệ tiếp theo thì hoàn toàn trưởng thành trong hoàn cảnh ấy, chấp nhận rằng nội hàm văn hóa chính là như thế, phương cách tư duy chính là như thế. Thế hệ trẻ hôm nay hấp thu nền giáo dục “không chân”, buộc tồn tại trong một hệ văn hóa biến dị, ô nhiễm khi chứa đầy gian dối và bạo lực. Không chỉ người trẻ hôm nay chạy trốn, nhiều người trung niên, lão niên cũng chạy trốn dưới cái tên “định cư nước ngoài”. Chạy trốn vì nghèo thôi chưa đủ. Người người đang chạy trốn vì mong cầu một nền giáo dục nhân văn, một đời sống nhân văn, một nền văn hóa nhân văn.

Con đường có thể dài hay ngắn, hợp pháp hay hiểm nguy, để theo đuổi ước mơ hay mang theo hy vọng đổi đời – nhưng giữa rất nhiều dấu ngược ấy, có một điểm chung rằng người ta đi vì tin. Chẳng có cái giá nào người ta cho là đắt nếu không có đủ niềm tin rằng nơi đó có tương lai.

“Giá của sự sống” không còn chỉ là câu hỏi vọng với 39 người xấu số. “Giá của sự sống” có lẽ đã thành câu hỏi vọng cho một dân tộc tự biến mình thành ly hương ngay trên chính quê hương mình.

Lê Trai

(*) “Người rơm” ở Anh và những câu chuyện buồn từ Calais

 

M.TRITHUCVN.NET
39 người thiệt mạng trong container, nếu được xác nhận có người Việt, đau buồn thay, đó chỉ là một trong rất nhiều thảm kịch xảy ra mỗi ngày nơi đây.

Không ai muốn bỏ nước mình


Tôi mới quay trở lại huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng do bà con ở đây nhờ tôi tới tư vấn đấu tranh chống lại giặc môi trường.

Ô nhiễm môi trường nặng nề là một nguyên nhân khiến người dân ở Thuỷ Nguyên, Hải Phòng phải bỏ xứ mà đi? (Ảnh: Đỗ Cao Cường)

Tôi cũng rất buồn khi nghe bà con nói là họ không hề biết đến những người đấu tranh nổi tiếng nhất hiện nay – những người đã được nhiều tổ chức nước ngoài tôn vinh, trao thưởng. Chỉ có số ít người đến với họ nhưng cuối cùng cũng phản bội, làm tiền. Vậy là, công cuộc khai sáng trí tuệ mới chỉ dừng ở việc ngồi một chỗ hát cho nhau nghe, hát cho những người đang sống và đã biết.

Trước khi đi tôi có tìm hiểu về hội Liên lạc Việt kiều Hải Phòng, hội này có ba chi hội Việt kiều quận, huyện thì huyện Thủy Nguyên nằm trong số đó, để thấy rằng lượng Việt kiều ở Thuỷ Nguyên đông đến mức nào. Tiêu biểu là xã Lập Lễ – một trong những xã có số lượng chị em lấy chồng nước ngoài đông nhất cả nước.

Người kết hôn giả, người vượt biên trái phép, người xuất khẩu lao động hợp pháp và cũng có người “cắm nhà” cho con đi du học…

Có người đi do hoàn cảnh, có người lo làm ăn nhưng cũng có người dính vòng lao lý, có người chết trên biển và có người gửi tiền về cho người thân đập phá, sau khi trở về tiền mất tật mang gia đình đổ vỡ, lần trở về cũng là lần chia ly.

Cũng có người trở về quê với vẻ mặt kiêu ngạo, khinh đời, nhưng xét cho cùng, sự ra đi nào cũng chất chứa những nỗi buồn, sự đáng thương – thân phận người Việt cùng tấn bi kịch cuộc đời.

Không ai muốn mình phải tha hương cầu thực hay kết hôn với người lạ, bất đồng cả về ngôn ngữ lẫn tư duy, cũng tại hệ thống bất lực, quan chức bất tài, báo chí độc quyền, giáo dục độc đoán đã đẩy con người ta vào bước đường cùng.

Từ dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, tôi được biết Việt Nam liên tục lọt top 10 nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới, nguồn tiền đó không đến từ đâu khác mà đến từ chính các quốc gia, nhóm người bị quy cho là phản động, thế lực thù địch hay tư bản giãy chết.

Và cuối cùng…

GDP bình quân đầu người đã bị Lào vượt, tấm hộ chiếu ngày càng rẻ mạt, tài nguyên thiên nhiên từ thời dựng nước đã bị khai phá đến cùng kiệt chỉ trong một thời, tài sản của hàng triệu người nằm trong tay một số, thu không bù chi và nếu cứ để cho con nghiện quản lý… chẳng mấy chốc vỡ nợ công, viễn cảnh Venezuela chẳng xa. Ô nhiễm hoành hành, mỗi năm Việt Nam không chỉ có 165 ngàn ca ung thư mới (chắc chắn số liệu không đầy đủ vì nhiều bệnh nhân ung thư cho tôi biết họ giấu bệnh, cũng không thấy ai đến lấy số liệu), các làng ung thư mọc lên cùng những dân oan ngày càng nhiều…

Tôi tới xã Minh Tân, huyện Thuỷ Nguyên vào một buổi chiều tàn, bức tranh sơn thuỷ hữu tình hiện ra trước mắt. Nhưng càng đi sâu, tôi càng sợ hãi vì sự sống ở đây đang có dấu hiệu kết thúc, bức tranh xám xịt như cuộc đời của chú cá nhiễm kim loại nặng nằm trên thớt.

Những người dân khốn khổ ở đây cho tôi biết buổi tối đi ngủ, đóng kín cửa rồi họ vẫn phải đeo khẩu trang, người chết do ung thư không đếm hết, có rất nhiều sát nhân môi trường vây quanh, không chỉ vây quanh mỗi cái xã Minh Tân khốn khổ, tội nghiệp này.

Nhà máy xử lý chất thải Minh Tân thuộc chi nhánh Công ty cổ phần Thương mại và Dịch vụ kho vận Phú Hưng vẫn ngày ngày phát tán mùi hôi thối ra toàn khu vực, hố chôn lấp chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp rộng hơn 2 ha, người dân phải tập trung lập bốt, chặn không cho xe chở rác vào bãi chôn lấp vì nước rỉ rác chảy ra sông Thải khiến cá chết hàng loạt, đầu độc nguồn nước uống, mặt nước màu vàng khè có dấu hiệu nhiễm kim loại.

Chẳng hề có công nghệ xử lý chất thải hiện đại, rác không được phân loại – từ hộ gia đình cho tới lúc chôn lấp, không có miếng lót đặc thù nào để ngăn rác với đất, tất cả vô tư thẩm thấu vào nguồn nước ngầm.

Theo người dân, hầu hết chất thải rắn đều được mang về đây xử lý, với sự xuất hiện của nhiều nhân công Trung Quốc.

Và đâu chỉ có một, nhà máy xử lý rác thải của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ Toàn Thắng cũng khiến bà con nơi đây cảm thấy sợ hãi, họ cho biết doanh nghiệp này đốt rác trộm vào ban đêm khiến nhiều cụ già, em nhỏ khó thở, mắc nhiều bệnh liên quan tới đường hô hấp. Nếu không xử lý theo dây chuyền hiện đại thì chắc chắn việc để lộ thiên, đốt rác thải công nghiệp, sinh hoạt độc hại sẽ kèm theo điôxin, khí axit và kim loại nặng…. người yếu chết trước, người khoẻ chết sau và những thế hệ dị tật ra đời.

Và đâu chỉ có hai, người dân còn tố cáo lãnh đạo Trung tâm GD & LĐ xã hội Gia Minh đã biến trung tâm này thành nơi tái chế chất thải nguy hại bậc nhất thành phố cảng. Hàng trăm học viên cai nghiện đã từng bỏ trốn và tố Trung tâm GD & LĐ xã hội Gia Minh trên danh nghĩa dạy họ học nghề nhưng thực chất bắt họ làm các công việc độc hại ở lò đốt, phân xưởng tái chế nhựa – được Trung tâm GD & LĐ xã hội Gia Minh ký hợp đồng với một số doanh nghiệp trên địa bàn, các học viên không được thanh toán tiền công, còn phải khai thác đá “chui”, nghiền đá rất độc hại và nguy hiểm.

Người dân tâm sự rằng các nhóm lợi ích khai thác đá khiến khói bụi, bom mìn làm rung chuyển nhà cửa, lăng mộ trong khi chưa đền bù thoả đáng cho bà con…

Nói chung, dù đến bất cứ nơi đâu trên mảnh đất Việt Nam này tôi cũng đều phát hiện nhiều sai phạm cùng những câu chuyện đẫm nước mắt, nếu cấu kết với các nhóm lợi ích tôi đã trở nên giàu có và ít gặp nguy hiểm. Nhưng không, tôi muốn sống cuộc đời ngẩng cao đầu và tôi mong người Việt nếu ra đi thì cũng phải ngẩng cao đầu.

Tôi hy vọng chính quyền Việt Nam cùng mỗi một thân phận trong đất nước này hãy nhìn lại chính mình, các bạn đã làm gì để cho những người đồng bào khốn khổ tội nghiệp phải tìm mọi cách ra đi, dù biết rằng bản thân sẽ chết bất cứ lúc nào.

Không ai muốn bỏ lại người thân, quê hương của mình để đến những nơi lạ nước lạ cái. Chắc hẳn phải khổ lắm, nghiệt ngã, đau đớn lắm họ mới phải ra đi.

Sông có khúc, người có lúc, ai rồi cũng phải chết, tôi hy vọng tất cả hãy hồi tâm chuyển ý, làm một điều gì đó chuộc lại lỗi lầm, để những thân phận còn sống sót trong cái đất nước này có một ngày ngẩng cao đầu bước chân ra thế giới. Và dù có đi đâu, đến một lúc nào đó họ còn muốn quay về.

Đỗ Cao Cường (Phóng viên):01

About this website

M.TRITHUCVN.NET

Vượt biên – Không ai muốn bỏ lại người thân, quê hương của mình để đến những nơi xa lạ. Chắc hẳn phải khổ lắm, nghiệt ngã, đau đớn lắm họ mới phải ra đi.

CHÚNG TA CÓ NÊN THÁNH ĐƯỢC KHÔNG?

CHÚNG TA CÓ NÊN THÁNH ĐƯỢC KHÔNG?

 Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội mừng trọng thể lễ các thánh nam nữ.  Qua thánh lễ hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biểu lộ niềm vui mừng, hãnh diện và hy vọng vào ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho chúng ta là những người cùng chung niềm tin vào Chúa như các thánh.

Tuy nhiên, hẳn mỗi người chúng ta nhiều khi tưởng tượng ra sự xuất sắc của các thánh như là những vĩ nhân, những người siêu quần bạt chúng, hay các ngài như là những người có một cuộc sống đặc biệt, khác thường nên mới trở nên những vị thánh!  Còn chúng ta, những người tầm thường, có lẽ niềm hy vọng nên thánh là điều khó có thể xảy ra!

Suy nghĩ như thế có đúng hay sai?  Và chúng ta có trở nên thánh trong thời đại hôm nay được hay không?  Giờ đây, chúng ta cùng nhau suy niệm về cuộc đời của các thánh, và từ đó, rút ra một giải đáp cho thắc mắc trên.  Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu xem: các thánh là ai?  Và các ngài đã sống như thế nào?

  1. Các thánh là ai?

Khi đặt câu hỏi như thế, chúng ta có thể trả lời ngay rằng: các ngài là những Giáo hoàng, Hồng y, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ và Giáo dân.  Các ngài là những người tri thức, nhưng cũng không thiếu những đấng bình dân học vụ.  Các ngài là những người có địa vị trong Giáo Hội và xã hội, nhưng cũng không thiếu những đấng thường dân.  Các ngài là những người được sinh ra nơi thành phố phồn hoa đô hội, nhưng cũng có vị hiện hữu nơi cuộc đời này trong cảnh màn trời chiếu đất, nơi thôn quê hẻo lánh…  Các ngài là những bác sĩ, kỹ sư, là những người giàu, nhưng cũng rất nhiều đấng suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là những người nghèo, cảnh mẹ góa con côi…  Các ngài cũng là những người thánh thiện, tốt lành ngay từ nhỏ, nhưng cũng không thiếu đấng trước đó là kẻ rối đạo, chối đạo, sống cuộc đời bê tha và trác táng, nhưng chỉ được ơn sám hối, canh tân, tin tưởng, phó thác nơi Chúa trước khi nhắm mắt rời bỏ thế gian mà thôi…

Như vậy, các thánh thật đông đảo và các ngài từ mọi nơi, mọi miền và đủ mọi thành phần.  Chính thánh Gioan khi được thị kiến đã thốt lên: “… kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9); và: “Một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Itraen” (Kh 7, 4); các ngài “… là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao.  Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14).

Nói chung, thế giới của các thánh gồm đủ mọi thành phần, và số lượng các thánh không ai đếm xuể.  Công việc của các ngài là tôn vinh, thờ phượng, cảm tạ Thiên Chúa và cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.  Các ngài đang được sống một sự sống hạnh phúc nơi quê thật là Nước Trời.

Việc chúng ta ngưỡng mộ tài cao đức rộng, cuộc sống phi thường của các thánh hẳn không sai, nhưng không phải là tuyệt đối đúng, vì thực tế, trong số các thánh, nhiều đấng cũng không hơn gì chúng ta.  Có khi các ngài cũng là nhưng người tội lỗi một thời như Maria Mađalêna, Phêrô, người trộm lành, Phaolô, Augustinô… 

Điều đáng nói ở đây chính là: các ngài thuộc những người đã trải qua kinh nghiệm về yếu đuối, sa ngã và tội lỗi, nhưng các ngài đã sám hối, ăn năm, canh tân đời sống theo ánh sáng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô.  Các ngài là những người 99 lần ngã, nhưng lần thứ 100 thì đứng dậy và đứng luôn trong ân sủng.

Thật vậy, sau khi sa ngã, các ngài đã nhận được ân sủng và tình thương lớn lao của Thiên Chúa dành cho mình, nên các ngài đã tin tưởng, phó thác và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, yêu thương anh chị em tha thiết.  Như thế, có thể nói: các thánh đều là những người đã nếm mùi đau khổ thử thách ở trần gian như chúng ta, xong, các ngài vẫn giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa và kiên trì tuân giữ Giới Luật của Người cũng như thi hành xuất sắc Tám Mối Phúc Thật.

Cuộc đời hy sinh, đòn vọt, bắt bớ vì Chúa và tâm tình sám hối, canh tân để trở nên ngày càng đồng hình đồng dạng với Đức Kitô nơi các thánh được ví như một cuộc thanh luyện và cố gắng liên lỷ.

  1. Các thánh là những người trung thành với Hiến Chương Nước Trời

Tất cả các thánh, không ai là người sống ngoài bản Hiến Chương Nước Trời mà Tin Mừng hôm này thuật lại.  Các ngài luôn coi bản Hiến Chương Nước Trời như là khuôn vàng thước ngọc cho cuộc đời mình.  Qua bản Hiến Chương này, các ngài đã sống tinh thần nghèo khó, không bị lệ thuộc vào vật chất, sống hiền lành và bao dung, quảng đại, tha thứ.  Cuộc đời các ngài luôn khao khát sự sống công chính, mong muốn sống trong sạch, yêu thương, chăm sóc những người đau khổ, luôn kiến tạo hòa bình và khước từ hận thù, xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất, yêu thương.  Các thánh còn là những người vì yêu mến Chúa trên hết mọi sự, nên chấp nhận mọi sự hiểu lầm, đòn vọt, bắt bớ, gươm đao và ngay cả cái chết để được mối lợi tuyệt đối là Đức Kitô, vì người, các ngài đành mất hết (x. Pl 3, 8).  Các ngài được ví như những người lái buôn, đã đánh đổi tất cả một khi đã tìm được Kho Tàng, Viên Ngọc Quý.  Vì thế, đối với các ngài: “…sống là Ðức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21), nên không có gì tách các ngài ra khỏi tình yêu của Đức Kitô.

Mừng lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta có niềm an ủi thật lớn lao, đó là: các thánh không phải là người xa lạ với chúng ta.  Các ngài là những người có cùng niềm tin, là tổ tiên, là cha ông, là những người thân của chúng ta.

Có những vị thánh nổi tiếng, nhưng cũng không thiếu những vị thánh bình thường, vô danh.  Đường lối nên thánh cũng không phải chỉ có một con đường độc điệu, mà là nhiều con đường khác nhau…

Như thế, các thánh là những người rất gần gũi với cuộc sống thực tế của chúng ta.  Bởi vậy, mỗi người đều có quyền hy vọng rằng: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi, tại sao không?” (Thánh Augustino).

  1. Hãy trở nên thánh vì ta là Đấng Thánh

Lời mời gọi nên thánh vẫn luôn là một điều gì đó mới mẻ và hấp dẫn đối với chúng ta.  Tuy nhiên, để sống được lời mời gọi này, chúng ta phải lội ngược dòng, phải lột xác và chấp nhận sự nghịch lý của Tin Mừng, bởi lẽ, chúng ta đang sống trong một xã hội thực dụng, thỏa mãn xác thịt, ham muốn điều bất chính, gây bất hòa, chia rẽ, vô cảm, dửng dưng với đau khổ của anh chị em, gây nên những bạo lực, đau khổ, sống dối trá, giả hình, bóc lột, bất công…!  Trong khi đó, Lời Chúa và những giá trị của Chân Lý luôn nhắc nhở và mời gọi chúng ta ý thức rằng: hạnh phúc đích thực của chúng ta ở nơi Thiên Chúa và quê hương chúng ta ở Trên Trời, chứ không phải ở những thứ chóng tàn, mau qua sớm hết nơi trần gian này…  Vì thế, muốn đạt được Nước Trời làm gia nghiệp, chúng ta phải chiến đấu liên lỷ để biện phân và lựa chọn giữa tốt và xấu, giữa thiện và ác, giữa cuộc sống tạm bợ và cuộc sống vĩnh cửu. Chấp nhận đi theo con đường hẹp của Tin Mừng.  Được hạnh phúc hay bất hạnh là do sự lựa chọn của chúng ta.

Mừng kính lễ các thánh nam nữ hôm nay, chúng ta cùng nhau tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những gương sáng ngang qua cuộc đời của các thánh, từ đó trở thành động lực cho mỗi chúng ta phấn đấu trên con đường nên thánh.  Đồng thời, mỗi khi mừng kính các thánh, chúng ta cũng tạ ơn Chúa đã ban nhiều ơn thánh trợ giúp, để: con cháu, anh chị em, cha mẹ, ông bà, tổ tiên… chúng ta đã thành công trên con đường tiến đức và nay đang diện kiến tôn nhan Chúa.

Mặt khác, qua việc mừng lễ này, sứ điệp Lời Chúa và Giáo huấn của Giáo Hội mời gọi chúng ta tái khám phá và làm mới lại sự quyết tâm trong việc: nghĩ thánh, hành động thánh và sống thánh trong cuộc sống thực tại hôm nay.

Lạy các thánh nam nữ trên trời, xin chuyển cầu cùng Chúa cho chúng con. Amen.

Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

 From: Langthangchieutim

CHÍNH QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM

Lê Vi

CHÍNH QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM

Nhà Báo Mạnh Kim

Tờ San Diego Union Tribune (14-10-2019) cho biết, chính quyền thành phố San Diego (California) đã chấp nhận bồi thường 1,25 triệu USD cho đương đơn Van Nguyen vì những thiệt hại mà ông ta gánh chịu do tai nạn lúc đi xe đạp và vấp ngã “ngoài ý muốn”…

Tai nạn xảy ra với ông Van Nguyen vào tháng 11-2016, khi ông đang đi xe đạp thì bị té ngã bởi lề đường hỏng, khiến ông bị hất văng khỏi xe và “bị ném vào không trung một cách dữ dội”, làm ông bị tổn thương hộp sọ, gãy răng và mặt mày bầm dập. Sau ba năm kiện tụng, ông Van Nguyen không chỉ được thành phố bồi thường 1,25 triệu USD mà ông chủ căn nhà (tên Billy Jean Hart), nơi có rễ cây trồi lên làm hỏng lề đường, cũng phải bồi đền cho mình (số tiền không được công bố). Đây không phải vụ “đi kiện cái lề đường” đầu tiên ở San Diego. Năm 2017, cư dân Clifford Brown đã được bồi thường 4,85 triệu USD trong một tai nạn gần tương tự ông Van Nguyen. Tháng 3-2018, chính quyền San Diego cũng trả một triệu USD cho vợ chồng Edward và Mary Jo Grubbs sau khi bà Mary Jo trượt té trên một lề đường mấp mô…

Tháng 9-2018, một số gia đình bị mất người thân trong vụ thảm sát bởi cựu quân nhân Devin P. Kelley cũng kiện Không quân Hoa Kỳ vì tội tắc trách, sau khi Không quân thừa nhận họ không báo cáo hồ sơ gây án trong quá khứ của Devin cho các cơ quan hữu trách liên bang. Ngoài việc kiện Không quân, họ còn kiện cả chính quyền Austin (Texas), tội “vô trách nhiệm”. “Chính quyền chẳng làm gì cả – đúng nghĩa đen – để giải quyết vụ việc và giúp đỡ các gia đình (có người thân bị giết)”. Đó là lý do chúng tôi phải kiện vì chẳng có cố gắng nào được thực hiện” – một đương đơn nói…

Giữa năm 2019, công dân Jakarta (Indonesia) đã cùng ký tên kiện chính quyền trước tình trạng không khí ô nhiễm nghiêm trọng. Ở đây không có chuyện chính quyền đổ thừa người dân “ăn dơ, ở bẩn”, không có thái độ biện bạch rằng thành phố ngày càng có nhiều phương tiện giao thông thì đương nhiên không khí phải ô nhiễm. Trong đơn kiện gửi lên Tòa Trung tâm Jakarta ngày 4-7-2019, người dân và giới hoạt động môi trường đã kiện tổng thống và giới chức chính quyền, yêu cầu họ xem xét lại luật kiểm soát môi trường và có giải pháp cụ thể trong việc bảo vệ sức khỏe người dân. Tính đến giữa năm 2019, chính quyền và các công ty tại 28 quốc gia đã bị kiện, liên quan vấn đề ô nhiễm môi trường.

Vài trường hợp trên cho thấy gần như tất cả mọi cá nhân, tổ chức và đặc biệt hệ thống chính quyền đều có liên đới ít nhiều và phải chịu một phần trách nhiệm trong những sự việc ảnh hưởng xã hội và đời sống người dân, đặc biệt nếu nguồn gốc sự việc có nguyên nhân từ một phần chính sách điều hành. Không mô hình chính quyền lý tưởng nào hoàn hảo đến mức có thể làm tất cả người dân hài lòng nhưng một chính quyền tôn trọng phục vụ lợi ích người dân thì phải lắng nghe và biết thực thi trách nhiệm. Điều thường nghe về cái gọi “chống chế độ” hay “chống phá nhà nước” trước những chỉ trích người dân là một lập luận sai từ lý lẽ căn bản. Nếu có một nhà nước được bầu bằng lá phiếu dân chủ thay thế chế độ cộng sản thì nó vẫn phải tiếp tục hứng chịu sự lên án người dân khi nó phủi tay trách nhiệm trước những sự kiện ảnh hưởng không chỉ một cá nhân mà nhiều người, không chỉ một trường hợp đơn lẻ mà nhiều vụ tương tự lặp đi lặp lại, không chỉ đối với một khu vực cá biệt mà nhiều vùng miền đất nước.

Tại sao có chính quyền phải bồi thường người dân cả triệu đôla chỉ vì cái vỉa hè nhưng ở một nước khác, như Việt Nam, thì người ta luôn tìm cách thối thác trách nhiệm, trong gần như tất cả vụ việc từ nhỏ đến lớn? Không người dân nào có quyền quy hoạch đô thị cũng như thiết kế hạ tầng giao thông nhưng tại sao kẹt xe hoặc ngập đường không phải là trách nhiệm của chính quyền? Ô nhiễm môi trường, dù có phần lỗi người dân, nhưng chính quyền không thể hoàn toàn vô can. Không người dân nào được phép “trồng” cột điện hoặc đào hố ga nhưng dù xảy ra vô số cái chết bởi điện giật và té hố ga nhưng vấn đề ai chịu trách nhiệm luôn được đẩy từ chỗ này sang chỗ kia cho đến khi sự việc chìm vào quên lãng. Một trong những trường hợp điển hình của thái độ vô trách nhiệm là có hàng chục tổ chức chính quyền và đoàn thể liên quan bảo vệ phụ nữ và trẻ em nhưng tình trạng cưỡng hiếp trẻ em chưa bao giờ kinh khủng bằng giai đoạn này.

Giải pháp cho việc đối mặt trách nhiệm, với chính quyền Việt Nam, không phải là chấp nhận thử thách việc xử lý sao cho người dân có thể hài lòng mà là làm thế nào để yếu tố trách nhiệm ít được đặt vai mình càng nhiều càng tốt. Cách thức xử lý khủng hoảng thông tin trong những sự việc nghiêm trọng, với chính quyền và hệ thống truyền thông thuộc sự kiểm soát chính quyền, là tìm cách dồn “nguyên nhân” và “hậu quả” về phía người dân. Điều này có thể lái sự phẫn nộ dư luận sang hướng khác ở thời điểm trước mắt nhưng nó không là giải pháp để cứu sự sụp đổ chính quyền trong tương lai nếu ngày càng có nhiều người dân nhận thức được rằng họ là nạn nhân trên một đất nước được điều hành bởi một chính quyền vô trách nhiệm.

Bồi thường dân chỉ vì một cái vỉa hè không chỉ cho thấy hệ thống luật pháp đất nước đó được xây dựng chặt chẽ như thế nào mà còn cho thấy chính quyền họ không ảo tưởng về vai trò và trách nhiệm để trở thành nơi được người dân tin cậy hơn là chỗ để người dân trút lên phẫn uất. Không mô hình chính quyền nào hoàn hảo. Để có một chính quyền chấp nhận “chịu thiệt” nhằm thể hiện trách nhiệm, cần một quá trình không phải ngày một ngày hai. Điều đó chưa hẳn là ý muốn chính quyền khi mô hình chính quyền ra đời, xét đến yếu tố lịch sử hình thành thiết chế chính quyền, và nó có thể chẳng bao giờ có nếu không có những tiền lệ, xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của người dân. Chừng nào người dân “chưa cần”, mô hình như vậy không có cơ hội ra đời. Chừng nào đa số vẫn còn tin vào lập luận của một thiểu số, trong đó có cả “trí thức”, luôn cố nói rằng “không nên cái gì cũng chửi chính quyền,” thì bất công vẫn tràn lan và những cái chết tức tưởi tiếp tục xảy ra mà trách nhiệm chẳng thuộc về “lương tâm” kẻ nào cả.

KHÔNG BIẾT TỰ VỆ, DÂN VIỆT RẤT ĐÁNG THƯƠNG

Van Nga DO

Đỗ Ngà

Đầu tư du học qua Anh – Mỹ -Úc thì phải vượt qua 2 rào cản: thứ nhất là tiền, ít nhất là 35 ngàn đô mỗi năm; thứ nhì là Anh ngữ.

Muốn đầu tư EB5 sang Mỹ để có thẻ xanh thì ít nhất phải vượt qua 2 rào cản: thứ nhất là nửa triệu đô nếu đầu tư ủy thác, ít nhất 1 triệu đô nếu tự đầu tư; thứ nhì đó là dự án thu hút đầu tư EB5 phải thành công còn nếu thất bại là mất trắng.

Muốn xuất khẩu lao động sang Anh Mỹ thì gần như không thể vì thị trường này rất kén chọn. Để di dân sang những nước này người dân Việt Nam đã gặp rào cản quá lớn, di dân hợp pháp không dành cho những người có đời sống trung bình ở Việt Nam.

Nhìn vào điều kiện để nhập cư hợp pháp, thì người ta phải vượt qua điều kiện quá cao, với tầm trong túi chỉ có 1 tỷ là không thể, ngoại trừ con đường bất hợp pháp. Nhưng để có 30 ngàn Bảng trong túi đối với người dân Việt Nam là thành phần khá giả rồi. Nếu dùng 30 ngàn Bảng để làm vốn làm ăn ở Việt Nam người ta có thể tạo ra thu nhập đủ sống và sống một cách hợp pháp. Nhưng nếu dùng 30 ngàn Bảng để nhập cư lậu vào Anh sống bất hợp pháp thì có sướng ích gì? Và vì sao người ta phải đánh đổi như vậy?

Cô Phạm Thị Trà My đã mất 30 ngàn Bảng để được đến Anh lao động bất hợp pháp, mà những gì bất hợp pháp thì luôn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro khôn lường, sao nhiều người chọn con đường này? Vấn đề ở đây là sự hiểu biết của người dân Việt Nam về cuộc sống ngoài vòng pháp luật còn rất hạn chế. Hay nói đúng hơn dân Việt rất kém hiểu biết về pháp luật nên dễ bị dụ. Mà hậu quả của sự kém hiểu biết là do chính sách của ĐCS, đến hôm nay là thế kỷ 21 mà họ vẫn còn “ngăn sông cấp chợ” về tin tức chính trị – xã hội từ bên ngoài. Báo chí và truyền hình hướng người dân vào các loại tin tức bịa đặt tự tô hồng của chính quyền hoặc các game show vở vẩn và những trò chơi rẻ tiền khác vv.. Thì người dân Việt kém hiểu biết là lẽ đương nhiên.

Trong chính sách cai trị của ĐCS họ đã làm cho người dân không hiểu gì về vai trò luật pháp cả. ĐCS đã thành công trong việc nhồi sọ nhân dân, đảng đã tạo bức tường ngăn cản người dân không được tiếp xúc với thông tin kinh tế – chính trị – xã hội trái chiều. Và kết quả là, hôm nay người dân Việt Nam chỉ biết phó mặc cho nhà nước lo mà không quan tâm đến việc luật mà chính quyền CS viết ra có công bằng không, hành xử của chính quyền có đúng luật không. Có thể nói, làm cho người dân dốt chính trị, dốt luật pháp là dã tâm khốn nạn nhất của chế độ. Và hậu quả của việc không quan tâm đến chính trị là đa phần người dân Việt không phân biệt được sự an toàn của việc sống hợp pháp và sự nguy hiểm của việc sống bất hợp pháp. Đây rõ ràng là kết quả tất yếu của chính sách kiểm soát thông tin báo chí của CS. ĐCS đã định hướng mù cho người dân Việt nhằm phục vụ ý đồ cai trị của họ.

Khi người dân Việt bị định hướng mù của ĐCS nhuộm đen não bộ, thì khi đó chính người dân Việt Nam đáng thương đã dễ dàng trở thành nạn nhân của bọn buôn người. Khi được những kẻ buôn người vẽ ra viễn cảnh thu nhập tại xứ Anh xứ Mỹ bằng những gương người thật việc thật thì lập tức dân Việt tin ngay. Nhưng khổ một điều, những trường hợp đem chứng minh cho nạn nhân toàn là những trường hợp sống và làm việc hợp pháp, còn cái khổ của dân nhập cư bất hợp pháp thì được giấu nhẹm, thế là người dân Việt dễ dàng bị cắn câu. Từ những trò lừa đảo đó, mà những người dân Việt đáng thương đã chạy vạy cả tỷ đồng để đầu tư cho chuyến đi.

Sang Anh làm việc bất hợp pháp nếu trót lọt thì họ cũng chẳng an toàn vì mọi sự thiệt thòi vì bị bóc lột hay bị đánh đập không được luật pháp bảo vệ, họ sống cứ nơm nớp lo sợ bị phát hiện, sợ bị bắt và bị trục xuất về nước. Nếu người lao động bất hợp pháp mà biết điều này chắc chắn họ đã không đem 1 tỷ đồng đưa cho bọn buôn người để được đi chui sang Anh. Với trường hợp cô Phạm Thị Trà My và những nạn nhân như cô rất đáng thương vì họ là nạn nhân của 2 loài quỷ dữ: thứ nhất, cô là nạn nhân của chế độ; thứ nhì, cô là nạn nhân của bọn buôn người. Nạn nhân chế độ là nguyên nhân, còn nạn nhân của bọn buôn người là kết quả.

Không phải chỉ riêng trường hợp những nạn nhân của bọn buôn người mà chịu khó nhìn rộng ra, chúng ta sẽ thấy người dân Việt Nam thật sự là những người dễ bị lừa gạt nhất. Ngay tại Việt Nam, những gian thương Trung Quốc luôn dùng một trò lừa đảo giống nhau để lừa mãi mà người dân Việt Nam vẫn sập bẫy. Và ở vùng biên giới phía Bắc, nạn buôn người sang Trung Quốc hoành hành bao nhiêu năm nay mà không có cách nào ngăn chặn vì chính người dân thiếu kiến thức để tự vệ cho mình.

Một chính quyền thối nát, một xã hội băng hoại đạo đức, một nền kinh tế què quặt, một không khí sinh hoạt chính trị đầy tính đe dọa, một nền dân trí cực thấp vv..tất cả đều bắt nguồn từ đảng chính trị đang nắm quyền lãnh đạo đất nước này. Đi đâu trên thế giới, người dân Việt đều bị khinh khi bị căm ghét vì đạo đức thấp, nhưng dù bị khinh khi họ vẫn là người dễ bị lừa gạt. Nói cho cùng đó cũng là “thành quả” mà tập đoàn cai trị đất nước này gây ra.

Cái chết của cô gái Phạm Thị Trà My đã làm rúng động người dân Anh Quốc, họ bất chấp việc đúng sai của người di dân lậu, tính nhân đạo trong họ trổi dậy và họ đã thắp nến cầu cho những người đã khuất. Họ giương biểu ngữ chào đón những nạn nhân. Thật là ngưỡng mộ lòng tốt của người dân xứ Anh Quốc xa lạ – một xã hội nhân bản đáng mơ ước được xây dựng bởi một nền chính trị tử tế vì con người. Càng căm phẫn hơn khi trong xã hội Việt Nam còn có kẻ lòng dạ ác hơn dã thú khi xỉ vả chê bai người xấu số là “tham sung sướng, tham vinh hoa phú quý mà sập bẫy”. Cô Trà My và những người Việt trong container đó chính là nạn nhân của 2 tầng quỷ dữ, thế mà vẫn bị xỉ vả. Nói thật không gì khốn nạn bằng!

Thật thương cho những nạn nhân trong thùng container định mệnh đó, và thương cho những người Việt chúng ta – những người mà vì thiếu hiểu biết trong một xã hội bưng bít nên vẫn đang và sẽ là những nạn nhân tiếp theo. Thương lắm nhưng không cách nào ngăn chặn vì chính người dân không thể có đủ kiến thức về luật pháp để tự bảo vệ cho mình và cho người thân. Thương lắm nhưng bất lực!

-Đỗ Ngà-

Image may contain: 1 person, selfie and closeup

BỆNH HOẠN

BỆNH HOẠN

Đỗ Ngà

Một cơ thể bệnh, nay xì ra ung nhọt rồi chữa, mai xì ra ung nhọt rồi chữa. Cứ nhưng vậy cơ thể bệnh hoạn đó sống vất vưởng và suốt ngày chỉ có một mục đích duy nhất là đối phó với bệnh tật. Tiền bạc bao nhiêu cũng không còn, đến vay mượn bao nhiêu thì căn bệnh cũng nuốt hết. Nợ chồng chất và khi không còn mượn mõ được ai thì bệnh bùng phát và chủ nhân không còn tiền để chạy chữa được nữa. Thế là cái gì cần đến nó phải đến – cái chết.

Hiện nay đất nước Việt Nam nó như vậy, nay thì ông quan này nhảy lầu, mai ông quan kia đu càng trốn chạy, mốt lại đến dân bỏ nước ra đi vv.. những chuyện như vậy nó cứ xảy ra liên tục. Nó là những cái ung nhọt nhỏ đang nổi lên đều đặn nổi trên cơ thể ĐCS. Thế rồi cái đảng bệnh hoạn này cũng bịt được, nhưng bịt được không có nghĩa là ung nhọt không mọc tiếp. Chỉ chữa triệu chứng không diệt tận gốc nguyên nhân gây bệnh nên ung nhọt cứ mọc lên nữa và ngày càng nhiều hơn.

Hiện nay đảng bệnh hoạn nắm quyền cai trị đất nước đang vay nợ để chữa trị, nợ cứ chất cao mãi và dấu hiệu không còn khả năng trả nợ đã xuất hiện. Khi trong nhà không còn gì nữa, đảng sẽ vay kẻ này trả nợ kẻ kia để giải quyết những món nợ tới hạn. Cứ xoay vòng như vậy nên núi nợ cứ ngày càng cao. Núi nợ ngày càng cao mà song hành với nó là bệnh tật ngày càng nặng thì cuối cùng cái chết cũng sẽ đến với cái đảng bệnh hoạn này mà thôi. Đó là điều chắc chắn.

Câu hỏi đặt ra là khi đảng đi đến cái chết thì nó sẽ làm cho đất nước này tan hoang cỡ nào? Chúng ta có thể hình dung rằng, đất nước như căn nhà của cái thây bệnh CS. Khi bệnh nặng thì nó sẽ bán nhà để chữa trị. Có thể không khó để đoán rằng, đất nước này sẽ bị bán trước khi con bệnh đến cơn hấp hối. Bởi đơn giản đảng quan trọng hơn tổ quốc, nên cái mà đảng đem ra hy sinh là giang sơn. Giang sơn sẽ đem bán để duy trì thây bệnh ĐCS. Và đó là thực tế mà ĐCS đang làm.

-Đỗ Ngà-

No photo description available.

Vì sao giới trẻ Hồng Kông mạo hiểm tính mạng để đấu tranh vì tự do?

Hoa Kim Ngo and 3 others shared a link.

Vì sao giới trẻ Hồng Kông mạo hiểm tính mạng để đấu tranh vì tự do?

  • Trí Đạt

 Thứ Ba, 29/10/2019 • 3.4k Lượt Xem

Phong trào phản đối Dự luật Dẫn độ tại Hồng Kông đã kéo dài được gần 5 tháng, ngày 23/10, Cục trưởng Cục An ninh Hồng Kông Lý Gia Siêu đã chính thức hủy bỏ dự thảo “Pháp lệnh Tội phạm bỏ trốn” sửa đổi trước Hội đồng lập pháp Hồng Kông. Tuy nhiên, bước đi này của chính phủ Hồng Kông quá muộn, Connie, một người biểu tình Hồng Kông 27 tuổi chia sẻ với Reuters rằng, “[Bước đi này của chính phủ Hồng Kông là] quá nhỏ và quá muộn”, “còn những yêu cầu khác cần chính phủ phải đáp ứng, đặc biệt là vấn đề bạo lực.”

Cảnh sát Hồng Kông ném lựu đạn hơi cay trên đường Nathan Hôm 27/10. (Ảnh: Epoch Times)

Mấy tháng qua, cuộc đấu tranh dân chủ của người Hồng Kông chưa hề dừng lại. Tối hôm 26/10, giới y tế Hồng Kông tập trung tại Công viên Chater để tổ chức mít tinh chống bạo lực. Ngày 27/10, họ tiếp tục diễu hành “Truy cứu cảnh sát sử dụng bạo lực, Bảo vệ người dân, đồng hành cùng phóng viên” và “Hội tưởng niệm hạc giấy tự do”.

Khủng bố mà cảnh sát Hồng Kông gây ra liên tiếp leo thang, một người biểu tình 22 tuổi lấy biệt danh là “Vô danh tiểu tốt” từng nói với tờ New York Times rằng, khi anh tận mắt nhìn thấy cảnh sát nằm vùng bắn súng đạn thật vào đám đông, kể từ giờ phút đó, anh biết rằng “sinh mệnh mình đã nằm trong nguy hiểm”. Mặc dù vậy, thanh niên Hồng Kông vẫn không khuất phục, không sợ hãi, cận kề cái chết cũng không chùn chân. Họ cùng mang theo di thư đã viết sẵn, tinh thần đấu tranh hy sinh vì nghĩa bất cứ lúc nào từ lâu đã khiến cho thế giới cảm động.

Rất nhiều người cảm phục giới trẻ Hồng Kông đã và đang hỏi: Rốt cuộc là điều gì đã thúc đẩy họ đấu tranh mà không sợ chết, thậm chí là người Trung Quốc Đại Lục tại Hồng Kông cũng muốn tham dự?

Người biểu tình Hồng Kông bị cảnh sát khống chế trên đường Nathan hồi tháng 8/2019. (Ảnh: Rumbo a lo desconocido / Shutterstock)

Trước khi nói vào chủ đề này, chúng ta hãy xem 2 nữ sinh Hồng Kông chia sẻ:

Lần đầu tiên trong đời tham gia biểu tình

Tháng 6 năm nay, nữ sinh 15 tuổi Tử Tháp cùng bạn học tham gia cuộc diễu hành đầu tiên trong đời mình. Tử Tháp cho hay, việc cô tham gia diễu hành chính là muốn nói với chính phủ rằng, mặc dù tuổi còn nhỏ, nhưng cô cũng quan tâm đến xã hội như bao người khác. Ngày 2/9, Tử Tháp cũng tham gia hoạt động bãi khóa. Cô chia sẻ với Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (VOA), cô nhận định thân phận mình là “người Hồng Kông”. “Sinh ra tại Hồng Kông, yêu Hồng Kông. Nhìn thấy sự không tốt và phiền phức của chính phủ Trung Quốc (ĐCSTQ), so sánh hai bên, thì Hồng Kông vẫn tốt hơn nhiều.”

Yêu văn hóa Trung Hoa, không chấp nhận chế độ ĐCSTQ

Năm 2017 là tròn 20 năm chuyển giao chủ quyền Hồng Kông, để truyền thụ “chấp nhận dân tộc” cho thế hệ trẻ Hồng Kông, chính phủ Hồng Kông đã đưa 15 thanh niên Hồng Kông đến Đại Lục học tập. Kathy, một người rất yêu thích văn hóa truyền thống Trung Quốc, đã thực tập 6 tuần tại Bảo tàng Cố Cung ở Bắc Kinh, tất cả chi phí đều do chính phủ Hồng Kông chi trả.

2 năm sau, sinh viên khoa nghệ thuật đã tốt nghiệp này đã tham gia vào phong trào phản đối Dự luật Dẫn độ. Chia sẻ với Đài Á châu Tự do (RFA), Kathy cho biết, lập trường của bản thân hiện nay cùng với sự yêu mến văn hóa lịch sử Trung Quốc “không hề có xung đột”. Cô nói: “Sự yêu mến của tôi đối với văn hóa Trung Quốc không hề khiến cho tôi tin tưởng hơn hoặc yêu thích pháp luật và chế độ chính trị của Trung Quốc (ĐCSTQ).”

Nhận định về thân phận

Trong lời chia sẻ của 2 cô gái này, đều trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc đến “nhận định thân phận”.

Thời kỳ Hồng Kông thuộc Anh, người ta có thể tự do nhận định mình là người Hồng Kông, người Trung Quốc hoặc công dân thế giới. So sánh với thế hệ trước, mối quan hệ giữa thanh niên Hồng Kông và Trung Quốc Đại lục cũng không phải là mật thiết, họ càng có khả năng cho rằng bản thân có thân phận người Hồng Kông.

Đại học Hồng Kông đã từng làm cuộc khảo sát hồi tháng 6, trong những người được hỏi ở độ tuổi 18 – 29 tuổi, có 69,7% người cho rằng bản thân là “người Hồng Kông”, 0,3% người tự nhận là “người Trung Quốc”. Hai con số này đã lần lượt đạt mức cao và thấp kỷ lục kể từ khi chuyển giao chủ quyền Hồng Kông vào năm 1997.

Những người được hỏi ở độ tuổi 30 trở lên có tỷ lệ đồng tình với Trung Quốc cao hơn, nhưng vẫn có 49% người cho rằng bản thân là “người Hồng Kông”. Cần phải chỉ ra, những cư dân tuổi tác tương đối cao này, rất nhiều người được sinh ra tại Trung Quốc Đại Lục, hoặc cha mẹ họ vẫn ở Đại Lục. Tuy nhiên, con cái của họ lại không đồng tình với thể chế của ĐCSTQ. Đặc biệt là có rất nhiều người có cha mẹ ở Đại Lục bị ĐCSTQ bức hại đến mức không thể tiếp tục sống được và phải vượt biên đến Hồng Kông.

Nhà nghiên cứu Alan Yau thuộc Đại học Trung văn Hồng Kông cho biết, gần đây, rất nhiều người chuyển hướng sang thân phận khép kín và gò bó hơn.

Sau khi chủ quyền được chuyển giao, kinh tế Hồng Kông đang dần dần suy thoái. Cộng thêm mỗi năm có khoảng 50.000 người Trung Quốc di dân đến Hồng Kông, khiến cho thân phận truyền thống của người Hồng Kông chịu áp lực to lớn hơn. Đầu tư bất động sản của di dân Đại Lục, chiếm đoạt tài nguyên, điều trị y tế, v.v khiến thân phận “người Hồng Kông” và “người Trung Quốc” đột nhiên trở nên vô cùng nhạy cảm.

Nhà chính trị học Brian C.H. Fong thuộc Đại học Giáo dục Hồng Kông hình dung, tình huống này chính là “một quốc gia, hai chủ nghĩa dân tộc”. New York Times cho biết, điều này thực tế là ám chỉ địa vị “một quốc gia, hai chế độ” tại Hồng Kông cần phải được bảo hộ.

Nhưng sự thực thì không phải như vậy. Người Hồng Kông đã ngày càng nhìn thấy rõ sự bất đồng giữa Đại Lục và Hồng Kông, nhưng sau khi chủ quyền được chuyển giao, sự bất đồng này đang thu hẹp dần. Thanh niên Hồng Kông yêu mến tự do dân chủ ngày càng không thích ĐCSTQ, nhất là sự tàn bạo của ĐCSTQ đối với người Đại Lục, khiến họ ngày càng cảm thấy sợ hãi.

Tổng Thư ký Đảng Demosistō Hoàng Chi Phong, một thanh niên mới 23 tuổi nhưng bị ĐCSTQ gọi là “phần tử đòi ly khai Hồng Kông” chia sẻ với VOA rằng, rất nhiều người trẻ Hồng Kông không đồng tình với ĐCSTQ, là bởi “sự đàn áp nhân quyền” của ĐCSTQ. Nhìn thấy người Tân Cương bị giam giữ, nhìn thấy Nghị viên Hội đồng lập pháp bị xua đuổi, nhìn thấy nhà bán sách Hồng Kông bị công an Đại Lục bắt giữ, phóng viên nước ngoài bị đuổi, tất cả đều đang thúc đẩy mọi người “tiếp tục đấu tranh”.

‘Một quốc gia, hai chế độ’ chỉ còn là cái vỏ 

Trước khi chủ quyền được chuyển giao, hai nước Trung Quốc và Anh Quốc đã có nhiều vòng đàm phán để ký kết “Tuyên bố chung Trung – Anh”. Bản tuyên bố có viết rất rõ ràng, ĐCSTQ cam kết trong 10 năm (trước năm 2007), Hồng Kông sẽ thực thi chế độ bầu cử phổ thông kép để chọn ra Nghị viên Hội đồng lập pháp và Trưởng Đặc khu. Thời điểm đó, điều này đã khiến cho người Hồng Kông tràn đầy sự mong đợi.

Nhưng 10 năm trôi qua, ĐCSTQ không hề tuân thủ theo “Tuyên bố chung Trung – Anh”, không hề thực hiện cam kết bầu cử phổ thông kép. Năm 2007, đương nhiệm lãnh đạo ĐCSTQ khi đó là ông Hồ Cẩm Đào còn nói, năm 2017, Hồng Kông có thể trực tiếp bầu chọn Trưởng Đặc khu hành chính, sau đó là toàn bộ cơ cấu lập pháp. Điều này lại tiếp tục khiến cho người Hồng Kông như được thắp thêm ngọn lửa hy vọng.

Tuy nhiên, sự giải thích về luật pháp của ĐCSTQ vào ngày 31/8/2014, đã sớm làm vỡ tan hy vọng của người Hồng Kông. Sau đó, bùng nổ “Phong trào Ô dù” kéo dài 79 ngày, người Hồng Kông hy vọng có thể buộc Bắc Kinh thực hiện cam kết. Nhưng cảnh sát Hồng Kông đã sử dụng vũ lực và hơi cay, khiến cho hy vọng cuối cùng của thế hệ trẻ Hồng Kông cũng tan thành mây khói.

Cuộc diễu hành phản đối Dự luật Dẫn độ lần đầu tiên bùng nổ tại Hồng Kông vào ngày 9/6 với hơn 1 triệu người tham gia. (Ảnh: Epoch Times)

Hơn nữa, người Hồng Kông ngày càng phát hiện, sự thâm nhập và kiểm soát Hồng Kông của ĐCSTQ ngày càng gia tăng, ngày càng nghiêm trọng. Thân phận đảng viên ngầm của Trưởng Đặc khu Hồng Kông, khiến họ hoàn toàn trở thành con rối của Bắc Kinh. Họ chỉ biết vâng vâng dạ dạ tuân lệnh của Bắc Kinh, còn đối với dân ý và tiếng nói của người Hồng Kông lại coi như không nhìn thấy gì, coi như không nghe thấy gì, thậm chí một mực đàn áp những nhân sĩ bất đồng chính kiến tại Hồng Kông.

Đặc biệt là cuộc bầu cử Hội đồng Lập pháp năm 2016, thanh niên Hồng Kông bầu chọn ra nghị viên mà mình vừa lòng. Nhưng những người này sau đó lại bị đuổi ra khỏi Hội đồng Lập pháp, tư cách nghị viên cũng bị tước đoạt một cách vô lý.

Nhà bình luận thời sự Hồng Kông Lewis Loud chỉ ra, việc đuổi nghị viên trẻ ra khỏi Hội đồng Lập pháp là hành động “giết người hàng loạt đối với thế hệ thanh niên”, là ĐCSTQ tiến hành “thanh trừng cả một thế hệ” Hồng Kông một cách hiệu quả.

Thực ra, phần lớn thanh niên Hồng Kông không hề muốn để Hồng Kông chia tách khỏi Đại Lục, họ chỉ là hy vọng bảo lưu thân phận đặc thù của họ mà “một quốc gia, hai chế độ” trao cho. Nhưng sự việc lại không giống như mọi người chờ đợi. New York Times chỉ ra, hầu như mỗi ngày đều có chứng cứ mới cho thấy tự do của Hồng Kông “đang dần dần mất đi, nơi này đang bị che phủ bởi cái bóng của Bắc Kinh”.

“Một quốc gia, hai chế độ” chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, Hồng Kông đã suy thoái và mang màu sắc cùng với ĐCSTQ – màu đỏ.

Cuộc diễu hành phản đối Dự luật Dẫn độ lần đầu tiên tại Hồng Kông vào ngày 9/6 với hơn 1 triệu người tham gia. (Ảnh: Epoch Times)

Hồng Kông màu máu

20 năm chờ đợi, người Hồng Kông từ thất vọng trở thành tuyệt vọng, thanh niên không nhìn thấy tương lai của bản thân. Mà trong đúng thời điểm này, con rối Lâm Trịnh Nguyệt Nga và các nghị viên thân ĐCSTQ bắt đầu thúc đẩy sửa đổi “Pháp lệnh Tội phạm bỏ trốn” (còn gọi là Luật Dẫn độ). Các đảng viên ĐCSTQ của Hồng Kông có ý đồ cho phép dẫn độ người nghi là phạm tội đến Đại Lục xét xử.

Người Hồng Kông ý thức được ĐCSTQ có ý đồ đánh thông “bức tường lửa pháp trị” giữa Đại Lục và Hồng Kông, muốn kiểm soát hoàn toàn Hồng Kông, triệt để biến “một quốc gia, hai chế độ” thành “một quốc gia, một chế độ”. Đây không chỉ là tấn công vào quyền lợi tự do dân chủ của người Hồng Kông mà liên quan đến tương lai của người Hồng Kông, liên quan đến hạnh phúc và lợi ích của Hồng Kông.

Cảm thấy lo lắng cho tương lai, thanh niên Hồng Kông đã đứng lên gánh vác trọng trách. Bằng nhiều hoạt động như diễu hành của 1 triệu người, 2 triệu người, 1,7 triệu người mít tinh, thanh niên Hồng Kông đã dùng phương thức hòa bình, lý tính, phi bạo lực để biểu đạt yêu cầu với chính phủ Hồng Kông.

Tuy nhiên, chính phủ Hồng Kông vẫn luôn lạnh nhạt, phớt lờ dân ý, dưới sự chỉ đạo của Bắc Kinh, cảnh sát Hồng Kông bắt đầu dùng vũ lực trấn áp đối với “hòa bình, lý tính, phi bạo lực”.

Mấy tháng qua, công an Đại Lục trà trộn vào cảnh sát Hồng Kông, dùng các phương thức khác nhau nhắm vào thanh niên Hồng Kông: Sử dụng lựu đạn hơi cay hết hạn, đạn túi vải, đạn cao su, đạn bọt biển, bạo lực tình dục, thay nhau cưỡng gian, bắn đạn thật ở cự ly gần, thậm chí giết người diệt khẩu, ném thi thể từ trên cao xuống, ném thi thể xuống biển, v.v…

Người biểu tình đặt hoa tưởng niệm những người tử vong trong sự kiện khủng bố trắng tối ngày 31/8 tại nhà ga Prince Edward. (Ảnh: Epoch Times)

Ông X phải đeo khẩu trang để che mặt

Hôm 26/10, tại Công viên Hòa Bình 228 ở Đài Bắc, Đài Loan đã có một cuộc họp báo về sự kiện “Xây dựng lại bia tưởng tưởng niệm sự kiện tại ga Prince Edward”. Ông X, một người đến từ Hồng Kông chia sẻ ông từng tham gia hoạt động chiếm lĩnh tòa nhà Hội đồng Lập pháp Hồng Kông hôm 12/6. Sau đó vài tháng, lúc nào ông cũng lo lắng đang bị người khác theo dõi, cái bóng của sự sợ hãi vẫn luôn theo sát ông. Lo lắng khủng bố trắng tại Hồng Kông, ông mong mọi người lượng thứ cho việc mình phải đeo khẩu trang để che mặt.

Ông kể một câu chuyện: Một nữ sinh Trung Quốc tham gia kháng nghị, sau khi bị bắt đến San Uk Ling, đã bị ít nhất 4 cảnh sát thay nhau cưỡng gian. Sau đó, nữ sinh này đã 4 lần tự sát bất thành, hiện giờ chỉ có thể dựa vào thuốc an thần mới có thể ngủ được.

Ngô Ngạo Tuyết – dũng khí siêu phàm

Hôm 10/10, nữ sinh Ngô Ngạo Tuyết thuộc Đại học Trung văn Hồng Kông và Hiệu trưởng Đoàn Sùng Trí đã có một cuộc đối thoại. Nữ sinh viên dũng cảm này đã dùng dũng khí siêu phàm để gỡ bỏ mặt nạ. Cô vừa khóc vừa kể về việc bị cảnh sát đánh bị thương, bị bắt, thậm chí bị cảnh sát bạo lực tình dục trong thời gian bị tạm giam.

Đoạn video sau khi được lan truyền trên mạng, cô đã nhận được nhiều thư và tin nhắn đe dọa. Đe dọa cô nếu tiếp tục ra mặt lên tiếng, sẽ bị bắt cóc, cưỡng gian, thậm chí những người đe dọa còn viết rõ “kế hoạch thi hành bạo lực”. Trong thư đe dọa có sử dụng chữ chính thể và chữ giản thể (người Đại Lục sử dụng chữ giản thể). Điều đó cho thấy, cả hai khu vực Đại Lục và Hồng Kông đều có người đe dọa cô.

Nữ sinh Ngô Ngạo Tuyết thuộc Đại học Trung văn Hồng Kông đeo khẩu trang kể về việc bị xâm hại, sau khi bị bắt giam tại trại tam giam San Uk Lang. (Ảnh từ Facebook)

Trong đó, một bức thư đe doạ, họ nói sẽ đem theo dịch máu có HIV, sau khi thay nhau cưỡng gian sẽ tiêm loại virus này vào người cô, còn nói sẽ tiêm lượng thuốc độc thích hợp, đồng thời đe dọa sẽ tung ảnh và video lõa thể của cô lên mạng.

Theo Ngô Ngạo Tuyết nói, số điện thoại của cô chỉ có bạn bè thân thích mới có. Nhưng sau khi bị bắt hồi tháng 9, cảnh sát đã uy hiếp cô phải giao điện thoại của cô ra. Cho nên chúng tôi tin rằng bạn bè thân thích của cô không có quá nhiều khả năng lan truyền số điện thoại của cô, nghi ngờ lớn nhất chính là cảnh sát, họ đã phát tán và tạo khủng bố.

Ngô Ngạo Tuyết gặp phải những đe dọa khủng bố này đều là dưới hình thức thư và tin nhắn. Còn người nhà của những người “bị tự sát”, họ gặp phải đe dọa do hắc cảnh đến nhà mặt đối mặt đe dọa. Điều này rất có khả năng là nguyên nhân khiến rất nhiều người nhà của người bị hại không dám đứng ra nói sự thật.

>>Nữ sinh Hồng Kông kể chuyện ngược đãi tại sở cảnh sát Kwai Chung

Vì sao người nhà nạn nhân không lên tiếng?

Người nhà của nạn nhân không dám đứng ra nói sự thật có thể do 2 nguyên nhân. Một là sau khi phát hiện thi thể người bị hại, thi thể sẽ rất nhanh bị hỏa táng, ngay cả lễ tưởng nhớ thông thường cũng không có. Thứ hai, hắc cảnh nhiều lần “ghé thăm” người nhà của người bị hại, đe dọa người nhà họ nếu dám nói sự việc ra thì những người nhà khác và con cái đều sẽ bị đối xử như vậy.

Cảnh sát Hồng Kông có cả công an Đại Lục trà trộn vào, không thể tưởng tượng được họ dám làm ra những hành động gì. Bởi vì những hành vi của họ từ lâu đã vượt quá giới hạn làm người thấp nhất, từ lâu đã không phải là hành vi của con người. Điều này khiến người ta không khỏi sợ hãi.

Cảnh sát, công an đã làm gì?

Trên bức tường truy điệu được dựng lại mới có ít nhất mấy chục người đã mất mạng trong thời gian diễn ra đấu tranh, trong đó có cả Trần Ngạn Lâm – một kiện tướng bơi lội 15 tuổi. Cô gái có thể nhảy từ bệ nhảy cao 5m xuống hồ sâu 5m, nhưng thi thể lõa thể bị phát hiện trôi trên biển một cách kỳ lạ.

Cảnh sát kiểm tra camera giám sát gần đó và cho biết chắc chắn Trần Ngạn Lâm đã tự nhảy xuống biển. Nhưng khi Hoàng Chi Phong yêu cầu cảnh sát công khai đoạn ghi hình đó, cảnh sát đã mặc kệ lời yêu cầu này. Phía cảnh sát rốt cuộc đã che giấu điều gì? Vì sao không dám công khai băng ghi hình?

>>Hồng Kông: Nhiều nghi vấn về vụ xác thiếu nữ biểu tình 15 tuổi

Tháng trước, một học giả tự do đã công bố trong thời gian xảy ra phản đối Dự luật Dẫn độ có 109 vụ “tự sát” khả nghi. Đặc biệt là sau sự kiện cảnh sát khủng bố tại ga tàu cao tốc Prince Edward hôm 31/8, trong 10 ngày kể từ ngày 1/9, các vụ án mà cảnh sát Hồng Kông nhận định là “tự sát” đã tăng mạnh lên 49 vụ.

Tuy nhiên, những vụ án được gọi là “tự sát” này rất đáng nghi ngờ. Điểm nghi ngờ là nơi phát hiện thi thể rơi từ trên lầu xuống mà cảnh sát công bố lại không có vết máu, trên thi thể còn có vết thương cũ. Thi thể nổi trên mặt biển có hai tay bị trói. Còn có một cô gái mà cảnh sát chắc chắn cô bị “tử vong do đuối nước” nhưng từ trước đó đã là một trạng thái của “thi thể khô”.

Những thi thể được phát hiện này đều có trạng thái tử vong rất đáng sợ! Cảnh sát và công an rốt cuộc đã làm những gì?

>> Cộng đồng mạng chỉ ra 6 điểm đáng ngờ trong vụ tự sát ở Hồng Kông

Cuộc chiến sống còn, không thể rút lui

Tuy nhiên, điều mà cảnh sát Hồng Kông và công an Đại Lục không ngờ tới, chính phủ Hồng Kông mà đứng đầu là bà Lâm Trịnh Nguyệt Nga không ngờ tới, Trung Nam Hải cũng không ngờ tới, đó là thủ đoạn tàn ác của họ đã gặp phải cuộc đấu tranh “giống như nước” của người Hồng Kông.

Người Hồng Kông mà đứng đầu là thanh niên đã ý thức được rằng cần phải gánh vác sứ mệnh “khôi phục Hồng Kông”, cứu vớt Hồng Kông đang nguy vong. Họ dùng phương thức dũng cảm, kiên định để đánh úp chính phủ Hồng Kông, Bắc Kinh và ĐCSTQ, dùng cuộc “cách mạng thời đại” để tuyên cáo với thế giới, thanh niên Hồng Kông “có thể đối kháng với chính quyền độc tài bạo chính”, có thể khiến cho Hồng Kông tỏa sáng trở lại.

Cảnh sát khống chế người biểu tình ở khu vực nhà ga Tai Koo hồi tháng 8/2019. (Ảnh:  Rumbo a lo desconocido / Shutterstock)

Hoàng Chi Phong chia sẻ trên Twitter: “Thế giới chỉ cần biết một điểm. Sự kiện tại Hồng Kông đã vượt khỏi phạm vi phản đối Dự luật Dẫn độ, vượt khỏi phạm vi của Lâm Trịnh Nguyệt Nga, thậm chí là vượt khỏi phạm vi dân chủ. Những điều này đều rất quan trọng. Nó liên quan đến tương lai của Hồng Kông sau năm 2047, liên quan đến tương lai của thế hệ chúng ta.”

Hội trưởng Hội Sinh viên Đại học Giáo dục Hồng Kông Lương Huy Đình cho biết cuộc chiến chống lại Luật Dẫn độ là vấn đề liên quan đến tồn vong. Mặc dù tất cả mọi người đều “cảm thấy sợ hãi”, nhưng vì tự do dân chủ nên cần phải đứng ra.

Trong một buổi tập trung của phái nữ, luật sư Linda Wong chỉ ra: “Thanh niên đấu tranh không phải là vì tư lợi bản thân, mà là vì hạnh phúc và lợi ích của Hồng Kông.”

Cô Mã (hóa danh), từng tham gia cuộc diễu hành với 1 triệu người tham gia hồi tháng 8 cho biết dù chỉ còn một tia hy vọng cũng cần phải đòi lại. “Bởi vì chúng ta cần gánh vác trách nhiệm cho thế hệ sau, sự tự do này đáng quý và khó có được, chúng tôi không muốn mất.”

Cô gái 16 tuổi Tô Hiểu Thanh thường tự hỏi: “Phải chăng là làm chưa đủ, nếu vậy thì còn có thể làm gì hơn?” Sau khi tham gia một hoạt động hồi tháng 6, cô đã trở về nhà và khóc một trận. Nhưng sau khi khóc xong, cô lại nói với bản thân mình: “Cần phải đứng ra, cố gắng đoàn kết nhiều người hơn nữa.”

Nhân viên kế toán Trương Thiệu Nhân có bài viết đăng trên tờ Apple Daily nói rằng 30 năm tới, Hồng Kông sẽ từng bước bị khóa chặt vào Trung Quốc, trở thành một thành phố nội địa Trung Quốc. Hồng Kông vốn tràn đầy tự do phồn vinh, tràn đầy sức sống, đa nguyên văn hóa sẽ đi lùi mấy chục năm. Từ bầu trời trong xanh bị khóa vào trong màn đêm u tối, thế hệ người Hồng Kông này không đấu tranh, há chẳng phải trở thành tội nhân của thời đại sao?

Bài viết nói ngày 1/10, ĐCSTQ tổ chức duyệt binh diễu võ dương oai, người Hồng Kông về cơ bản đều vô cảm trước hoạt động này. Một chính quyền đến ngay cả sự tôn trọng cũng không biết, một quốc gia mà ngay cả người dân đi vào nhà vệ sinh cũng cần nhận diện khuôn mặt chắc chắn không phải là thứ mà người Hồng Kông muốn, Hồng Kông là thành phố văn minh tiến bộ. Còn về những vũ khí đầu đạn hạt nhân và tên lửa tầm xa trong cuộc diễu binh vừa rồi, năm 1989 khi Liên Xô giải thể, có dùng đến những đầu đạn trong các cuộc diễu binh hàng năm? Văn minh của nhân loại là cần tôn trọng lẫn nhau, cùng trợ giúp nhau cùng tồn tại, chứ không phải là dựa vào báng súng trấn áp người dân đẫm máu, cướp đoạt lợi ích của người khác.

Trương Thiệu Nhân chỉ thẳng: Đây chính là nguyên nhân thanh niên Hồng Kông đối mặt với đàn áp đẫm máu nhưng lại tràn đầy sự phẫn nộ, không có chút sợ hãi mà rút lui nào.

Người Đại Lục tại Hồng Kông ủng hộ Hồng Kông

Sự nuốt chửng tự do dân chủ của Hồng Kông của ĐCSTQ không chỉ khiến thanh niên Hồng Kông không thể nhẫn nhịn được, mà nhiều người Đại Lục đang ở Hồng Kông cũng không chấp nhận được. Họ liên tiếp dùng các phương thức khác nhau của bản thân mình để biểu đạt sự ủng hộ đối với người dân Hồng Kông, thậm chí tham gia vào đội ngũ đấu tranh.

Trong bóng dáng của những người ủng hộ thanh niên Hồng Kông này có một nữ sĩ giấu tên tại Đại Lục đã đặc biệt đến Hồng Kông bỏ ra 10.000 Đô la Hồng Kông để mua nước cho người dân tham gia kháng nghị; thanh niên Đại Lục tham gia vào cuộc đại diễu hành ngày 7/7 và biểu đạt sự cảm tạ đối với người Hồng Kông. Còn có bà mẹ từ Đại Lục đối mặt với những cảnh sát chuẩn bị xông trận đã trực tiếp mắng cảnh sát rằng sớm muộn gì cũng sẽ bị ĐCSTQ “dùng xong rồi ruồng bỏ”.

Những nghĩa cử này của người Đại Lục từng cảm động biết bao nhiêu người. Nhưng cần chú ý rằng đây chỉ là những đóa hoa được mọi người phát hiện trong làn sóng người Đại Lục tại Hồng Kông ủng hộ người Hồng Kông.

Tại đây chúng tôi đưa ra 2 câu chuyện của 2 cô gái học tập tại Hồng Kông.

Trở thành “thủ túc” của người kháng nghị

Trần Nhân, một sinh viên Đại Lục sinh sau năm 1990, cách đây 5 năm cô đã đến Hồng Kông học Thạc sĩ. Ở Đại Lục, cô chụp một bức ảnh đạp xe trong trang phục đội mũ bảo hiểm và đeo mặt nạ. Cô chia sẻ với BBC, “cũng coi như đã gián tiếp biểu đạt thái độ rồi”.

Ngày 12/6, nhiều đoàn thể tại Hồng Kông phát động hoạt động bãi công, bãi khóa, bãi thị. Trần Nhân và các bạn người Hồng Kông cùng đi đến Hội đồng Lập pháp. Trong lúc cô muốn đi xuống dưới cây cầu vượt, người bạn đồng hành nhắc nhở cô: “Nếu quyết định đi xuống, bạn phải chuẩn bị cho việc bị bắt.” Trần Nhân lưỡng lự một hồi nhưng cô vẫn quyết định tham gia vào đội ngũ kháng nghị. Đây là lần đầu tiên cô tham gia vào hoạt động kháng nghị dân chủ quy mô lớn, và trở thành “thủ túc” với những người đấu tranh khác. Trong phong trào này, những người biểu tình đều dùng từ “thủ túc” (anh em như tay với chân) để xưng hô với nhau, để biểu thị sự thân mật như anh em thân thiết.

Tối ngày 23/8, khoảng 210.000 người tại Hồng Kông đã tham gia hoạt động nắm tay nhau tạo thành ‘Con đường Hồng Kông’ để phản đối Dự luật Dẫn độ. (Ảnh từ Facebook)

Cô còn dùng ví dụ mà tận mắt mình chứng kiến hình ảnh những người cha người mẹ đang đẩy xe trẻ em, người tàn tật ngồi xe lăn, v.v… để giải thích cho người Đại Lục trên WeChat, phản bác cách nói “kích động” của ĐCSTQ. Cô nói: “Người Hồng Kông biết làm chủ bản thân họ, không phải vì người khác đưa tiền hoặc là bị kích động nên mới ra đường diễu hành.”

Trần Nhân còn đặc biệt nhấn mạnh thông qua việc hòa cùng người Hồng Kông cùng tiến cùng lui, “càng cảm nhận được sự mỹ lệ và đáng quý của xã hội Hồng Kông, càng cảm thấy sự mỹ lệ này có thể là được xây dựng trên sự tưởng tượng đối lập với sự xấu xí của ĐCSTQ”.

“Mong muốn bản thân là người Hồng Kông”

A Y, 19 tuổi, cách đây 2 năm cô đã đến Hồng Kông, cô đã bỏ công sức khổ luyện nói tiếng Quảng Đông, tích cực kết giao với bạn bè bản địa. Sau khi bắt đầu phong trào phản đối Dự luật Dẫn độ, cô đã tham gia diễu hành, còn tham gia vào điểm tiếp tế vật tư để tiếp tế nước và đồ ăn, cũng từng tình nguyện tham gia phiên dịch tiếng Anh để quảng bá sự kiện này ra quốc tế.

Ấn tượng sâu sắc nhất của cô là cuộc đại diễu hành với 2 triệu người tham gia ngày 16/6. Khoảng 10 giờ tối cùng ngày, đội ngũ diễu hành đi đến trụ sở chính của chính phủ Hồng Kông và tiếp tục dừng lại. Đột nhiên có người ở trên cầu vượt bật đèn chiếu sáng, giơ điện thoại và hô lớn “người Hồng Kông cố lên”. Sau đó hàng loạt đèn chiếu sáng cũng được bật, giống như bầu trời đầy sao trong đêm tối. Cảnh tượng này khiến cho tất cả mọi người đều cảm thấy chấn động, sau đó mọi người cùng nhau hô vang khẩu hiệu.

A Y nói, trong thời khắc đó, bản thân cô cảm xúc lẫn lộn, cảm thấy “rất kích động” bởi sự đoàn kết một lòng của người Hồng Kông vì đấu tranh cho tự do dân chủ, lại cảm thấy “rất buồn” vì sự kiểm soát của ĐCSTQ đối với Hồng Kông. Trải nghiệm trong cuộc diễu hành hôm đó đã khiến cô “không còn tiếp tục kiên định cho rằng bản thân cô là người Trung Quốc nữa”. Cô nói, “thời khắc đó, tôi rất muốn bỏ khẩu trang ra, rất hy vọng tôi là một người Hồng Kông”.

Trí Đạt (Theo Epoch Times)

Tâm Thức Sợ Hãi Của Đảng Cầm Quyền – Huy Phương

Tâm Thức Sợ Hãi Của Đảng Cầm Quyền – Huy Phương

Phiên tòa xử ông Michael Phương Minh Nguyễn 12 năm tù hôm 24 Tháng Sáu, 2019. (Hình: Getty Images)

Nói thẳng đảng này là đảng Cộng Sản đang đè đầu cưỡi cổ dân tộc Việt Nam, một chế độ được thành hình sau một cuộc thắng trận, chiếm được đất đai, lãnh thổ nhưng không chiếm được nhân tâm.

Khi không chiếm được nhân tâm, không thu phục được lòng người thì chế độ này luôn luôn đề cao, cảnh giác với ngay những người thua cuộc, đầu hàng và cả đám đông thầm lặng, chịu đựng nghịch cảnh không thay đổi được. Nỗi sợ hãi xuất hiện vì những mối đe dọa vô hình và hữu hình.

Đảng CSVN có dám đối xử công minh, không giam giữ nửa triệu người lính miền Nam, cho sĩ quan thua trận được giữ vũ khí cá nhân của mình, cho tất cả quân lính miền Nam được trở về quê quán làm ăn như văn kiện Appomattox của tướng miền Bắc Ulysses S. Grant dành cho quân thất trận miền Nam sau khi kết thúc trận nội chiến tại Hoa Kỳ hay không?

Cộng Sản Bắc Việt làm sao có được thái độ quân tử ấy!

Người ta sợ hãi vì người ta không có chính nghĩa. Người ta sợ hãi vì không thu phục được nhân tâm. Hàng nghìn trại tù với thép gai, trạm gác được dựng nên khắp nước, nơi thâm sơn cùng cốc, để đầy đọa, trả thù hằng trăm nghìn người lính, đảng phái và trí thức miền Nam. Họ sợ hãi gì với một người lính già, ốm yếu bệnh tật, thiếu ăn… để cầm tù, giam hãm họ đến 17 năm ròng rã, mà ngày ra tù, còn theo dõi, kiểm soát họ ngày đêm.

Vì sợ hãi nên chính quyền mới không dám dùng những nhân tài, đã được đào tạo qui mô trong nhiều năm tại miền Nam và từ các nước tự do, văn minh khác. Cộng Sản đã phế bỏ, xô đẩy bao nhiêu trí thức, chuyên viên ra chợ trời hay với các nghề tay chân lao lực bần cùng khác, xô đẩy họ ra biển cả, dìm họ xuống đại dương, vì xuất thân họ không có gốc gác ba đời bần cố nông hay vì số mệnh, sinh ra, lớn lên và được đào tạo tại miền Nam.

Sợ người sống còn là điều dễ hiểu, nhưng cộng sản còn sợ cả những người đã chết! Hàng chục nghìn tử sĩ VNCH trong nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa ngày trước, không còn khả năng đội mồ đứng dậy để cầm súng, mà vẫn bị bao vây với kẽm gai, bót gác như một nhà tù vĩ đại thực sự, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Một vị danh tướng miền Nam, Nguyễn Khoa Nam, sau khi thất trận đã tự sát, những gì còn để lại chỉ là nắm tro tràn còn lại trong một chiếc hũ sành, để trong ngôi chùa Già Lam, cũng bị công an làm áp lực phải mang đi chỗ khác. Một quân đội cuồng tín, khoe khoang trang bị vũ khí tận răng, với xe tăng, hỏa tiễn, thì sợ gì với một nắm tro tàn của một người lính thất trận?

Cộng sản dị ứng, lo sợ với cả một lá cờ, một chiếc áo, xem như là những bóng ma ám ảnh, làm mất ăn mất ngủ.

Người ta nói những người yếu bóng vía, nhất là những kẻ thủ ác, thường sợ những “hồn ma bóng quế!” Đó là những gì được đặt tên là “thế lực thù địch,” “gián điệp quốc tế,” “âm mưu lật đổ chính quyền…”

Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm bị kết án là “hàng ngũ phản động,” bị quy kết là “gián điệp quốc tế.”

Mới đây, ông Nguyễn Phương Minh, người Mỹ gốc Việt, bị tuyên 12 năm tù vì bị cáo buộc tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân,” ông bị bắt ở tỉnh Đồng Nai hồi tháng 7 năm ngoái, khi từ Đà Nẵng về Sài Gòn, “có mang theo trong người $1,200 và 1 triệu đồng VN, cùng một số quần áo.” Ông Trương Hữu Lộc thuê 2 taxi để chở bánh mì và nước uống đến hỗ trợ cho đồng bào biểu tình chống Dự luật Đặc khu đã bị bắt vào ngày 10 Tháng Sáu, 2018 và bị đảng CSVN kết án 8 năm tù.

Vì sợ hãi, Cộng Sản luôn luôn cảnh giác với “thù trong – giặc ngoài.” Lịch sử sông nước của chúng ta là một lịch sử trường kỳ chống ngoại xâm Tàu phương Bắc, do vậy thời VNCH các chiến hạm Hải Quân đều được đặt tên các danh tướng, địa danh hay trận chiến như Bạch Đằng, Chi Lăng, Vạn Kiếp hay Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải… những cái tên có thể gây dị ứng hay làm mếch lòng “ông chủ” lớn.

Đảng Cộng Sản Việt Nam không có được cái dũng khí ấy!

Cộng Sản Hà Nội sợ hãi ân nhân là Cộng Sản Bắc Kinh, nên ngày nay những ai chống Trung Cộng đều được liệt vào thành phần chống đảng, chống chính phủ, chống nhân dân.

Câu chuyện sợ làm cho chúng ta nhớ đến Việt Khang. Không giăng biểu ngữ, không súng đạn, không xuống đường, không hô hào, chỉ với một bài hát, đã làm cho nhà cầm quyền Việt Nam phải kiêng nể.

Có một thời đại nào trong lịch sử Việt Nam, tồi tệ và hèn hạ như hôm nay, khi mà một câu hát chống Tàu xâm lược, lại làm cho chính quyền lo sợ, bắt bớ, trù dập tác giả như trường hợp của Việt Khang?

Đảng Cộng Sản Việt Nam sợ hãi cả khi gọi tên một quốc gia.

Trên thế giới ai cũng gọi hai nước Đại Hàn là Bắc và Nam Hàn, như trước đây thế giới đã từng gọi Bắc và Nam Việt Nam, hay Đông Đức và Tây Đức, nhưng vì sao đảng CSVN lại đồng loạt trên báo chí, truyền thanh và các văn bản ngoại giao, đã đổi tên hai nước, Bắc Hàn thành Triều Tiên, và Nam Hàn là Hàn Quốc? Thực ra thì Nam và Bắc đều là Hàn Quốc, Bắc và Nam đều là Triều Tiên, đó là một cái tên gọi chung.

Đảng CSVN đổi tên hai nước Nam và Bắc Hàn hay Nam và Bắc Triều Tiên là vì chúng sợ khi nói đến hai tiếng Bắc Nam. Đặt lên bàn cân các thể chế Nam-Bắc Triều Tiên, Nam-Bắc Việt Nam, hay cả Đông-Tây Đức, người ta ai cũng thấy một bên là Cộng Sản độc tài, nghèo đói, lạc hậu, một bên là tư bản tự do, no ấm và thịnh vượng, nhất hoàn cảnh ngày nay của hai nước Bắc, Nam Triều Tiên. Nếu gọi tên nước là Nam hay Bắc Hàn, dân chúng sẽ liên tưởng đến hai miền Nam và Bắc Việt Nam ngày trước.

Từ Đông sang Tây, chế độ độc tài nào cũng sợ dân nổi dậy, chế độ độc tài nào cũng có nhiều nhà tù và lực lượng công an, cảnh sát hùng hậu để bảo vệ chế độ và trấn áp quần chúng. Vậy chúng ta cần làm những gì mà chế độ trong nước đang lo sợ.

Huy Phương

Phẩm giá con người

Nhưng sự thương tiếc không có nghĩa là biện hộ, càng không phải là chấp nhận cái sai.

Sau năm 1975, từ điển của thế giới đã tạo ra một từ mới “thuyền nhân” (boat people) để gọi những người Việt Nam vượt biển liều chết trốn ra nước ngoài. Hôm nay, đã có người dùng từ “thùng nhân” để gọi những di dân trái phép từ Việt Nam, những người đã chui vào thùng xe tải để tránh bị phát hiện trong hành trình đi sang nước Anh.

Trong khi những thuyền nhân năm xưa “biết chết mà vẫn đi” thì nay, hoàn cảnh éo le này không còn áp dụng cho những “thùng nhân” hiện đại. Quan sát phỏng vấn trên truyền thông, gia đình của những người trẻ này không phải nghèo đói đến mức “nếu không đi thì chết” nữa, nhưng vì sao họ vẫn đi để rồi phải chịu cái chết đau đớn và tức tưởi như thế này?

Nhiều người cho rằng phải có một sự phẫn uất, tù túng và bất lực ghê gớm nào, đến mức mà những thanh niên tươi trẻ, tràn đầy sức sống này mới phải liều mạng tha hương nơi xứ người? Nhưng chúng ta cần nhìn vào sự thật rằng với họ, và với hàng trăm, hàng nghìn gia đình Việt Nam khác, chuyến xe “đi chui” sang Anh đó không phải là một lựa chọn liều mạng. Từ trước sự kiện 39 người chết, chỉ có duy nhất một vụ xe đông lạnh chở di dân lậu Trung Quốc bị phát hiện tử vong khi sang Anh vào năm 2000. Từ đó đến nay, có biết bao nhiêu container đi qua hải quan mà không bị phát hiện, bao nhiêu thanh niên Việt Nam đã “chui thùng” an toàn sang Anh? Bao nhiêu người đang “trồng cỏ”, hành nghề mại dâm hay bị bóc lột trong các tiệm nail ở khắp nước Anh? Bao nhiêu người đang gửi hàng tỷ đồng tiền ngoại hối từ những công việc bất chính nơi xứ người về cho gia đình, trong con mắt ngưỡng mộ của hàng xóm, để rồi cả đám thanh niên, lại lũ lượt dắt díu nhau trốn lậu sang xứ người?

Bởi nhu cầu khổng lồ đó, cả một ngành công nghiệp đưa người lậu sang Anh trị giá hàng chục tỷ USD đã hình thành và được vận hành tinh vi. Đây là con đường đã được đảm bảo “an toàn” bởi những đầu nậu có thể chính là những người Việt Nam đã trốn đi trót lọt. Lời kể của những gia đình tang tóc này cho thấy rõ rằng việc đi trốn sang Anh ở khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh là một việc làm có tổ chức và thường xuyên được thực hiện, nhưng cái chết của con cái họ lại là một cú sốc không ai ngờ tới. Không, họ không hề “liều chết” để đi tìm sinh kế, mà họ ra đi để tìm một con đường làm giàu dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn, một con đường mà họ không thể tìm thấy ở quê hương.

Nhưng cho dù mưu cầu giàu sang là một quyền tự do cá nhân và chính đáng, thì quyền ấy không cho phép chà đạp lên tự do, pháp luật, tài sản, tính mạng và nhân phẩm của những người khác, những quốc gia khác. Lựa chọn “đi lậu” sang nước ngoài, tức là lựa chọn một hành vi phạm pháp, lựa chọn tước đoạt đi vị trí chính đáng của những di dân hợp pháp, những người đang xếp hàng chờ để được đến lượt; lựa chọn khiến cho các nước khác ngày càng siết chặt kiểm soát người Việt ở những chốt nhập cảnh; lựa chọn khiến dân tộc ta ngày càng thấp kém và tự ti trước thế giới; lựa chọn trước khả năng phải phạm tội, gây tổn hại đến những người vô tội ở nước khác để phục vụ mục đích làm giàu.

Không thân phận, phải trốn tránh cảnh sát, những thanh niên thậm chí không hiểu tiếng Anh này sẽ làm gì ở nước ngoài? Một số người trở thành nạn nhân của nô lệ lao động, làm việc quần quật trong các tiệm nail và quán ăn, không dám lên tiếng vì sợ bị tố giác. Muốn kiếm tiền nhanh để trả nợ, nhiều người sẵn sàng tham gia trồng cần sa trong các trang trại của các băng đảng tội phạm, hay trở thành gái mại dâm. Vô ý hay cố ý, họ đã đã lựa chọn những đồng tiền tội lỗi, bất chấp phẩm giá ngày càng chìm dưới bùn đen rồi một ngày chính họ lại trở về quê “tuyển quân” cho các trang trại cần sa để bắt đầu một vòng tuần hoàn mới.

Điều gì đẩy họ đến lựa chọn này? Bởi vì những thanh niên này không có lý niệm rằng đây là một việc làm sai trái. Bởi vì một xã hội kim tiền của chúng ta đã khiến mọi cá nhân sôi sục, bất chấp chạy theo tiền tài và danh vọng. Khối tài sản của những người giàu nhất, chứ không phải triết lý và tâm thức của ông ta, mới là những người được trọng vọng nhất. Các cô cậu công tử, tiểu thư “rich kids” là đối tượng mà giới trẻ trầm trồ nhất; những nhà lầu, xe hơi, đồ hiệu chiếm trọn không gian thảo luận của quốc gia.

Chưa bao giờ phẩm giá con người Việt Nam lại trở thành thứ đồ rẻ rúng như ngày nay. “Giấy rách phải giữ lấy lề”, “đói cho sạch, rách cho thơm”, lời răn của tổ tiên bây giờ nghe lạc lõng và chỉ còn nhắc đến trong những câu chuyện cổ tích. Phải trái, đúng sai đều nằm dưới đồng tiền. Bao nhiêu trong số hàng trăm, hàng nghìn gia đình có con trốn lậu ở nước ngoài ra sức can ngăn chúng, hay đơn giản là từ chối giúp con vay tiền khi chúng bất chấp pháp luật đi trốn sang nước khác? Bao nhiêu người đặt nhân phẩm lên trên những khoản tiền bạc tỷ mà con gửi về, kiếm được nhờ phạm pháp ở nước bạn? Có bao nhiêu người ban đầu thì tỏ ra thương xót những con người “dại dột”, nhưng khi biết được họ có thể kiếm được hàng trăm triệu một tháng nhờ “trồng cỏ” thì lại thốt lên “nhiều tiền vậy thì đi được tôi cũng đi”?

Nhân nào quả nấy. Sự việc 39 người trong đó có nhiều người Việt tử nạn trên đường trốn lậu sang Anh là một cảnh báo mà không ai có thể làm ngơ trước vận mạng chung của cả dân tộc.

Có quá nhiều thứ mà một người có thể nghĩ ra để chỉ vào đổi lỗi cho sự tha hóa của cả một xã hội. Nhưng không ai trong chúng ta là vô can, bởi ta dù vô ý hay cố ý tạo ra cái xã hội thượng tôn tiền bạc và vật chất, phá phăng những lý niệm đúng sai, phải trái này.

Nhưng nếu bi kịch này là sản phẩm của cả một xã hội, thì ta có thể làm gì ngoài than vãn và chỉ trích?

Hãy thử bắt đầu từ việc nhỏ nhất: Biết sai thì không làm.

Chuyện tờ báo nọ công bố Việt Nam là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới là đáng cười hơn đáng vui. Trong cuộc khủng hoảng nhân phẩm, ta cảm thấy hạnh phúc có lẽ vì ta dễ dãi, vì ta tự ti và tự cao chứ không biết tự tôn; vì ta hạ thấp tiêu chuẩn của chính phẩm giá con người của mình. Để thực sự hạnh phúc, chúng ta, với tư cách là cá nhân phải chuộc tội với nhân phẩm của mình.

Chúng ta biết mình hèn nhát, tham lam, ích kỷ, và yếu đuối. Phần đông trong chúng ta không bao giờ có thể thay đổi cả xã hội, nhưng hầu như ai cũng có thể thay đổi bản thân, bắt đầu bằng việc “đừng đồng lõa với cái xấu”. Mỗi người trong chúng ta, thay vì chờ đợi và đổ lỗi, hãy từ từ gột rửa sạch tâm linh của mình bằng phán xét của lương tri.

Giống như nhà tâm lý học nổi tiếng hiện nay Jordan Peterson đã khuyên những người trẻ đang lạc lõng, chúng ta cần sống sao cho sự tồn tại của ta khiến thế giới tiến gần tới thiên đường hơn là địa ngục. Và giống như cái ác, cái thiện cũng sẽ gieo vào lòng người những mầm mống dễ lây lan. Đó là một trách nhiệm to lớn, nó sẽ không dễ dàng, nhưng khi đủ mạnh mẽ, chúng ta sẽ đủ dũng cảm để vươn tới ánh mặt trời dù chân ta vẫn đứng dưới bùn đen. Khi đủ mạnh mẽ, chúng ta có thể nhìn thẳng vào thế hệ tiếp theo mà nhắc lại những lời răn của tiền nhân.

Và bởi thế hệ tiếp theo sẽ nhìn vào chúng ta để đối chiếu, ta phải sống để một ngày nào đó, nếu con cháu của chúng ta phải đứng trước hai lựa chọn, một dễ dàng nhưng tội lỗi, một khó khăn nhưng trọn vẹn phẩm giá thì chúng sẽ biết cần phải tiến về bên nào.

Trọng Đạt

About this website

 

M.TRITHUCVN.NET
Không ai có thể tưởng tượng được những đau đớn, tủi nhục và kinh hoảng mà 39 nạn nhân đã phải trải qua trong thùng xe tải lạnh

Cái chết đến gần của một quốc gia…

formosa boi thuong 500 trieu usd
Thảm hoạ Formosa được cho là 1 trong những nguyên nhân khiến lực lượng lao động tại Nghệ An – Hà Tĩnh bỏ xứ đi tìm việc tăng đột biến

Ở thời mà đất nước chứng kiến giai đoạn “bình yên” có thể nói là lâu dài nhất kể từ thế kỷ 20 đến nay, những giọt nước mắt ly hương vẫn chưa cạn. Nếu không kể những người giàu có đi “tỵ nạn” để mong tương lai con cái tốt hơn, và thành phần quan chức tham nhũng cuốn gói trốn chạy, thì nhóm đối tượng với tỷ lệ đáng kể tìm mọi cách để đi khỏi quê hương lại chính là những người nghèo hoặc cực nghèo. Vừa nghèo vừa ít học. Nhiều trường hợp được khảo sát chi tiết cho thấy họ không còn bất kỳ chọn lựa nào khác là phải đi. Đi với hy vọng đổi đời, qua con đường buôn lậu người, với cái giá không hề rẻ.

Chưa có thống kê chính xác số người Việt bị đẩy vào các đường dây buôn người trên con đường di trú bất hợp pháp nhưng ghi nhận mới của Salvation Army, nơi tiếp xúc trực tiếp các nạn nhân, cho thấy rằng, tỷ lệ người Việt được nhắc đến đối với Salvation Army từ tháng 7-2018 đến tháng 7-2019 là nhiều hơn bất kỳ quốc tịch nào khác. Trong thời gian nói trên, Salvation Army đã làm việc với 209 người đến từ Việt Nam, tăng 248% so với số nạn nhân trước đó 5 năm. Tổ chức từ thiện ECPAT (End Child Prostitution and Trafficking) cũng cho biết có một sự tăng vọt số nạn nhân người Việt, từ 135 người năm 2012 lên 704 người năm 2018 (The Guardian 25-10-2019).

Việt Nam cũng “duy trì” “vị trí” như một trong những “quốc gia nguồn” về nạn nô lệ thời hiện đại tại Anh. Ít nhất 3.187 nạn nhân Việt Nam đã được ghi nhận tại Anh kể từ năm 2009 đến nay. Khoảng 362 nạn nhân trẻ em Việt Nam (được đưa đến bằng đường dây buôn lậu người) đã được phát hiện tại Anh năm 2017, tăng hơn 1/3 so với năm 2016 (Reuters 6-3-2019). “Nạn nhân trẻ em” – chi tiết này cho thấy có không ít người hoặc đã mang theo cả con mình trên con đường di trú lậu hoặc chấp nhận để con mình ra đi không chỉ để cứu chính nó mà còn mang lại sự sống cho những người còn ở lại quê nhà.

Nghèo không là nguyên nhân lớn nhất và duy nhất khiến nhiều người dân tại các vùng “chó ăn đá, gà ăn sỏi” thuộc các tỉnh cực nghèo như Hà Tĩnh hoặc Quảng Bình phải đi. Thế giới có nhiều nước nghèo. Châu Á có nhiều quốc gia nghèo. Ấn Độ có nhiều bang cực nghèo. Một nước nghèo như Philippines hẳn nhiên cũng có nhiều người “thiếu hiểu biết” đối diện nguy cơ trở thành nạn nhân bị dụ dỗ. Tuy nhiên, Việt Nam – quốc gia được đánh giá “liên tục thoát nghèo” – lại phải chứng kiến tình trạng di cư lậu ngày càng tăng. Họ đi khắp nơi, từ Ukraine đến Đức, từ Pháp đến Ba Lan, từ Anh đến Mỹ, từ Philippines đến Thái Lan…

Báo cáo Precarious Journeys: Mapping Vulnerabilities of Victims of Trafficking from Vietnam to Europe dài 135 trang, do Anti-Slavery International, ECPAT UK và Pacific Links Foundation thực hiện (công bố thượng tuần tháng 3-2019), đã không những thuật chi tiết liên quan các đường dây buôn lậu người mà còn cho thấy tại sao một số người nghèo Việt Nam chọn con đường nghiệt ngã và đau đớn khi rời quê hương. Kinh tế, chính trị, môi trường và văn hóa, tất cả đều trở thành những yếu tố có liên kết với nhau, tạo nên bức tranh phức tạp vẽ lên diện mạo những người ra đi.

Nó đồng thời tạo nên sự tương đồng với một bức tranh khác cũng xảy ra với người dân ở một nước mà Việt Nam theo đuổi mô hình chính trị lẫn kinh tế gần tương tự là Trung Quốc. Dường như sự “thiếu hiểu biết” và “ngây thơ tin vào sự đổi đời bằng cách đi khỏi đất nước” của người Việt không giống người dân quốc gia nào khác ngoài Trung Quốc? Các tổ chức buôn người dĩ nhiên đáng lên án nhưng tại sao chúng thường nhắm vào người dân Việt Nam và Trung Quốc hơn là dân các nước khác? Chúng tìm thấy ở các “đối tượng” này có điểm gì chung?…

Đừng lấy sự “thiếu hiểu biết” của người dân để biện minh như là lý do hàng đầu khiến họ trở thành nạn nhân của các tổ chức buôn người. Hãy tìm cách trả lời thật chính xác vì sao họ thiếu hiểu biết, nguyên nhân nào khiến họ thiếu hiểu biết, và làm thế nào để chặn đứng những cuộc ra đi khi không thể mang lại công ăn việc làm cho những người khốn cùng này. Không thể xem kiều hối là nguồn tiền đóng góp cho kinh tế quốc gia khi cùng lúc không quan tâm mồ hôi nước mắt của những người gửi tiền về. Không có thái độ nào vô lương tâm bằng việc khước từ trách nhiệm và đổ hết lỗi lên đầu người dân, đặc biệt người nghèo. Điều đó chẳng khác gì như muốn dội lên đầu người nghèo một gáo nước lạnh: “Mày ngu thì mày chết. Không phải lỗi của tao!”.

Với một số địa phương, nghèo thôi chưa đủ. Cuộc sống vốn dĩ khốn khổ của họ còn bị giáng thêm một cú khiến thêm khánh kiệt: ô nhiễm môi trường. Các cuộc ra đi liên tiếp của dân Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Hải Phòng… không phải mới đây. Hiện tượng này đã xảy ra từ nhiều thập niên trước. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng đột ngột số nạn nhân có nguyên quán Hà Tĩnh, như được ghi nhận của Mimi Vu – chuyên gia hàng đầu về tình trạng buôn người Việt (khi cô quan sát các trại tỵ nạn tại Bắc nước Pháp vào giữa tháng 10-2019) – cho thấy thêm, cuộc khủng hoảng môi trường đã đẩy nhanh tốc độ “chạy trốn” của người dân những khu vực này.

Chính phủ Việt Nam thừa nhận vụ ô nhiễm Formosa làm chết ít nhất 115 tấn cá, phá hủy 200 hecta san hô, gây ảnh hưởng cuộc sống 200.000 người trong đó có 41.000 ngư dân. Và chính phủ cũng đã “nỗ lực khắc phục”. Hai năm sau vụ Formosa, báo Chính Phủ (17-5-2018) cho biết:

“Thực hiện chính sách hỗ trợ khẩn cấp cho người dân bị ảnh hưởng bởi sự cố môi trường…, 19.335,374 tấn gạo đã được cấp cho 214.840 người thuộc các hộ gia đình bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự cố môi trường biển với mức 15 kg gạo/người/tháng trong thời gian 6 tháng…; hỗ trợ khẩn cấp 101,36 tỷ đồng để người dân mua giống, sửa chữa tàu, thuyền…; hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng…, hỗ trợ 70% giá trị hàng hải sản tiêu hủy… Tính đến ngày 10-5-2018, tổng kinh phí các tỉnh đã phê duyệt để chi trả bồi thường thiệt hại là 6.490,2 tỷ đồng (Hà Tĩnh: 1.748,1 tỷ đồng; Quảng Bình: 2.759 tỷ; Quảng Trị: 1.017,1 tỷ; Thừa Thiên-Huế: 966 tỷ). Đến nay đã chi trả 6.403 tỷ cho người dân, tương đương 98,7% so với số tiền đã phê duyệt…; Quỹ quốc gia về việc làm đã cho 2.384 dự án vay vốn tạo công ăn việc làm cho 3.279 người lao động…”.

Tuy nhiên, việc “khắc phục hậu quả” dường như không giải quyết tận cùng vấn đề. Nó không làm lu mờ một thực tế khác. Báo cáo “Precarious Journeys” cho biết, từ tháng 12-2016 đến tháng 5-2018 – gần bằng thời gian mà chính quyền “khắc phục sự cố” – số di dân bất hợp pháp gốc từ Hà Tĩnh nhập vào Anh đã tăng đột ngột. Cũng cần nhắc lại, ba tháng trước bài báo Chính Phủ, chính quyền đã xử Hoàng Bình, một trong những nhà hoạt động lên tiếng mạnh mẽ vụ khủng hoảng Formosa, với bản án 14 năm tù. Không phải tự nhiên mà yếu tố “tự do bị hạn chế” (“limited freedoms”) đã được “Precarious Journeys” đề cập như một trong những lý do khiến không ít người Việt ra đi. Ngay thời điểm hiện tại, có không ít người Việt, chưa được cơ quan hoặc tổ chức nào ghi nhận con số chính xác, đang trốn tại Thái Lan và Philippines như những nạn nhân tỵ nạn chính trị.

Bất luận thành phần ra đi là ai và đi bằng cách gì, hiện tượng rời bỏ quê hương, “chết cũng đi”, chưa hề dừng lại sau gần nửa thế kỷ “đất nước thống nhất”, cho thấy một điều không thể phủ nhận: chính quyền đang cai trị là một chính quyền thất bại. Để duy trì chế độ, nhà cầm quyền đã phải trả cái giá quá đắt, khi họ “thành công” trong việc áp đặt chính sách giáo dục nhồi sọ nhưng phải lãnh hậu quả và khiến người dân cùng lãnh hậu quả là đất nước ngày càng thiếu hụt nhân tài; khi họ “thành công” trong chính sách xóa đói giảm nghèo nhưng cùng lúc đẩy sự bất công lên đến mức không thể kinh khủng hơn; khi họ “thành công” trong “định hướng” kinh tế và kêu gọi đầu tư nhưng họ thờ ơ hoặc bất lực trong chính sách kiểm soát môi trường; khi họ “thành công” dựng nên những đô thị lộng lẫy nhưng thất bại trong việc ngăn chặn những cái chết tức tưởi của những người tận cùng dưới đáy xã hội; khi họ “thành công” tạo ra được một nhóm thiểu số trung thành nhưng thất bại tuyệt đối trong việc xây dựng niềm tin đối với đa số người dân…

Tương lai nào cho đất nước? Không ai có thể hình dung. Không thể hình dung tương lai một quốc gia cũng như nó sẽ sống và phát triển như thế nào, khi nó dường như đang chết, khi niềm tin dành cho đất nước đã chết.

Mạnh Kim

 

M.TRITHUCVN.NET
Vì sao không nội chiến tang thương, không cuộc khủng hoảng lương thực trầm trọng nào khiến cả nước bị đói, không bị đe dọa thường trực bởi khủng bố…, vậy mà người ta phải…