Cách ứng xử của Đấng Đạo Sư.

Cách ứng xử của Đấng Đạo Sư.

Một hôm, Đức Phật đang ngồi nói chuyện với các môn đồ ở bên  dưới một cái cây to thì đột nhiên có một người đàn ông đi tới và nhổ nước bọt trước mặt Ngài. Song trái lại với mọi dự đoán, Đức Phật vẫn ngồi điềm tĩnh, Ngài chỉ cười nhẹ và hỏi lại người đàn ông một câu: “Điều ông thực sự muốn nói là gì nào?”.

Trong khi đó, các môn đồ của Ngài thì rất tức giận. Môn đồ gần gũi nhất với Đức Phật là Ananda nói: “Thế này là quá lắm. Chúng ta  không thể tha thứ cho hành động vô lễ này. Cần phải trừng trị hắn,  nếu không những kẻ khác sẽ lại bắt chước điều đó”.

Nhưng Đức Phật đã trấn an Ananda: “Con hãy im lặng! Anh ta không khiến ta thấy phiền, nhưng con thì có. Anh ta là một người mới, là người ta không quen biết. Hẳn anh ta đã nghe người khác nói gì đó về ta, rằng ta là một người đạo đức giả, một người nguy hiểm,khiến người ta đi chệch hướng, một kẻ xấu xa. Và có thể trong đầu anh ta đã hình thành một định kiến về ta. Anh ta không nhổ nước bọt vào ta, mà vào hình ảnh mà anh ta nghĩ ra trong đầu.

Anh ta nhổ nước bọt vào hình ảnh đó vì anh ta không hiểu ta. Nếu suy nghĩ kỹ, ngươi sẽ thấy người đàn ông đáng thương này hẳn là có điều gì đó muốn nói, đây là cách anh ta bày tỏ điều đó. Nhổ nước bọt là cách để anh ta nói điều gì đó. Có những lúc, khi ta thấy bất lực với ngôn từ, ta sẽ dùng hành động để biểu đạt. Ta 

có thể hiểu được anh ta. Vì thế, ta mới hỏi anh ta rằng “Điều ông thực sự muốn nói là gì nào?” Ta cảm thấy rất thất vọng, không phải vì anh ta, mà vì các con. Đã đi theo ta nhiều năm như vậy rồi, mà các con vẫn còn có cách phản ứng vội vàng như vậy”.

– Trước phản ứng bất ngờ này, người đàn ông như đứng chết trân  tại chỗ. Anh ta chưa từng gặp chuyện như vậy trong đời. Anh ta đã từng sỉ nhục rất nhiều người, và họ đều phản ứng lại tương tự. 

Với những kẻ hèn nhát và yếu thế, họ cố cười gượng rồi tìm cách  lấy lòng anh ta. Nhưng Đức Phật thì khác. Ngài không tức giận, cũng không cố tỏ ra vui vẻ. Nét mặt của Ngài toát ra sự điềm tĩnh, và Ngài chỉ muốn biết anh ta có muốn nói gì không.

Chẳng biết nói gì nữa, người đàn ông trở về nhà. Tối đó, anh ta không thể ngủ được. Anh ta bị ám ảnh bởi những gì đã diễn ra. 

Anh ta không thể giải thích cho bản thân chuyện đã xảy ra. Anh ta  run rẩy, người vã ra đầy mồ hôi. Anh ta chưa từng gặp ai như vậy. Đức Phật đã khiến cho thứ tâm trí rối bời, đen tối, đầy oán hận cũng như toàn bộ quá khứ của anh ta như bị vỡ vụn thành trăm mảnh.

Sáng hôm sau, người đàn ông quay trở lại, phủ phục dưới chân  Đức Phật. Đức Phật ân cần hỏi anh ta: “Sao nào? Đây cũng là một cách nói điều gì đó. Khi ông đến phủ phục dưới chân ta, ông đang muốn gián tiếp nói một điều gì đó mà ngôn từ dường như bất lực?”

Rồi, Đức Phật nhìn sang Ananda: “Ananda, người đàn ông này lại tới, anh ta đang nói điều gì đó. Anh ta là một người đang chất chứa rất nhiều cảm xúc”.

Người đàn ông ngẩng đầu lên nhìn Đức Phật rồi nói: “Xin Ngài hãy tha thứ cho những gì.. con đã làm hôm qua”. 

Đức Phật hỏi lại: “Tha thứ điều gì? Nhưng ta đâu phải là người mà ngươi đã sỉ nhục. Sông Hằng luôn chảy không ngừng, sông Hằng của hôm nay đâu phải sông Hằng của hôm qua. Mỗi người đều là một dòng sông. Người bị ông sỉ nhục đã không còn ở đây. Ta chỉ giống người đó thôi, chứ không phải ông ta. Trong 24 giờ 

đồng hồ, có rất nhiều chuyện xảy ra. Vì thế, ta không thể tha thứ cho ngươi, vì ta không có gì oán hận ngươi cả. Và ngoài ra, ngươi cũng không phải là người đàn ông hôm qua tới đây. Vì anh ta lúc đó rất giận dữ, anh ta khạc nhổ vào ta, còn ngươi thì phủ phục dưới chân ta. Sao 2 người các ngươi lại là một được? Vì thế, 

hãy quên chuyện đó đi. Hãy tới gần ta hơn và nói về chuyện khác”.

Suy Nghiệm: 

Là một trong số những giai thoại về Đức Phật được nhiều người kể lại, câu chuyện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và to lớn trong việc giáo dục cách ứng xử giữa con người với con người.

Thông thường, người ta dễ dàng tha thứ cho bản thân, nhưng lại hà khắc trước những sai sót của người khác. Khi bản thân gặp chuyện không vui, người ta cho phép mình hành động bất cẩn, thậm chí gây tổn thương cho người khác.

Nhưng nếu là nạn nhân, họ lại tỏ ra tức giận và khó tha thứ cho kẻ đã gây ra của những hành động ấy. Song, theo như lời Đức Phật nói, ai cũng là một dòng sông, ai cũng có những khúc mắc, những câu chuyện, những nỗi đau riêng không dễ gì chia sẻ được với người khác, và sẽ có lúc không tránh khỏi việc vô tình, hoặc cố ý làm người khác tổn thương.

Việc phản ứng lại một cách gay gắt không những không giải quyết được vấn đề, mà còn làm mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc, khó hòa giải. Hiểu được điều này, giữ được sự bình tĩnh, bỏ qua được bề nổi của sự việc, tìm hiểu nguồn cơn không chỉ là một cách làm thông minh, giúp giải quyết tận gốc vấn đề, mà còn

 giúp ta nhận được SỰ TÔN TRỌNG từ người khác. Đó mới chính là phần thưởng vô giá.

Ngoài ra, câu chuyện cũng bao gồm một ngụ ý mang tính triết học:

 Mỗi con người là một dòng sông. Ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai, ta đều là những con người khác nhau. Hãy để những phiền muộn, những sai lầm theo những dòng chảy, trôi về quá khứ. Đừng mãi ám ảnh bởi những gì đã xảy ra, đừng sợ sự thay đổi, mà hãy luôn ngẩng cao đầu, đối diện và hướng tới những thay đổi tích cực ở phía trước. 

 From: Ansong Hoàng

*Cảm thông, yêu thương và tha thứ (tha thứ 70 lần 7)

 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? “Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18,21-22)

Thêm lời bình của BBT

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ!

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ!

Tục ngữ Do Thái có câu: “Thiên Chúa không thể ở mọi nơi, nên Ngài đã tạo dựng những người mẹ” (God could not be everywhere, so He made mothers). Đây là tình cảm lâu dài và tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nhờ đảo ngược câu nói mà chúng ta đến gần chân lý hơn: “Thiên Chúa có thể ở mọi nơi và chứng tỏ điều đó bằng cách tạo dựng những người mẹ” (God could be everywhere and proved it by creating mothers). Hình ảnh này phù hợp với nhận xét của tiểu thuyết gia Hoa Kỳ William Makepeace Thackeray, trong cuốn Vanity Fair (Hội chợ Phù phiếm): “Mẹ là danh xưng đối với Thiên Chúa trên những đôi môi và trong những trái tim của những người con bé bỏng.”

   Người mẹ không thể thay thế Thiên Chúa, nhưng hành động như người trung gian chuyển lòng nhân từ của Thiên Chúa sang những người khác. Dĩ nhiên, người ta có thể phản bác rằng người cha cũng làm điều này. Điều này đủ mức thật. Nhưng có điều gì đó trong đặc quyền về cách thức mà người mẹ bộc lộ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Theo cách mầu nhiệm nào đó, điều đó như thể người mẹ có được vậy, một kinh nghiệm đối diện của Thiên Chúa.  Điều này có thể đáng hoan nghênh hơn nếu chúng ta hiểu vai trò của Đức Mẹ là nguyên mẫu tâm linh của mọi người mẹ.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhận xét về Đức Mẹ “Mẹ giữ trong lòng bí mật làm Mẹ Thiên Chúa, là người đầu tiên được thấy Thiên-Chúa-làm-người, hoa trái của lòng mẹ.”  Khái niệm về việc Đức Mẹ là người trần tục đầu tiên Mary thấy Thiên Chúa vừa gây ngạc nhiên vừa soi sáng. Là mẫu gương của những người mẹ, kinh nghiệm này gồm cả bản chất làm mẹ và mẫu gương của các phụ nữ đã từng sinh con.

   Nếu ông bà nguyên tổ coi Thiên Chúa là Cha nghiêm khắc theo cách nào đó, thì các thế hệ đều tôn kính Đức Mẹ là người hiền từ và dễ gần gũi.  Nathaniel Hawthorne bày tỏ tình cảm này đẹp hơn trong cuốn Blithedale Romance khi ông viết: “Tôi luôn ganh tỵ với người Công Giáo về Đức Tin của họ nơi Đức Trinh Nữ thánh thiện và ngọt ngào, Đức Mẹ đứng ở giữa họ và Thiên Chúa, che chắn sự chói lọi uy nghiêm của Ngài, nhưng cho phép Tình Yêu Chúa tuôn đổ trên người thờ kính theo cách hiểu của con người qua vị trung gian của sự dịu dàng nữ tính.”

   Thánh Augustinô nói rằng sự dịu dàng từ mẫu đặc biệt này có thể thấy ngay ở những con thú hung dữ – như người Việt nói: “Cọp dữ không ăn thịt con.”  Ông nhận xét trong The City of God (Thành phố của Thiên Chúa): “Có con cọp cái nào không thương và không vuốt ve con nó?” Ngược với câu tục ngữ Do Thái nói ở trên, chúng ta có thể ám chỉ câu tục ngữ Tây Ban Nha: “An ounce of mother is worth a ton of priests” (Tạm dịch: “Một lạng người mẹ đáng một tấn linh mục”).

   Khái niệm về “sự nhiệt thành” đã thôi miên người Hy Lạp cổ đại. Thế giới không thể là một nơi, như Democritus ước đoán, không có gì hơn một số nguyên tử không thể đếm xuất hiện trong rất nhiều hình thể.  Nghĩa là có thể tính toán đối với sự nhiệt thành tìm được sự hưng phấn và niềm vui trong kinh nghiệm sống bằng cách nào?  Sự hưng phấn là hoạt động tâm linh không thể giải thích bằng vật chất.  Người ta đã nghi ngờ nhiều thứ: nhân đức, chân lý, kiến thức, và ngay cả tình yêu.  Nhưng không ai có thể nghi ngờ thực tế khả nghiệm của sự hăng hái.  Thế giới hiện đại của chúng ta vẫn liên kết với sự thấu hiểu này của người Hy Lạp cổ đại.  Từ ngữ “sự nhiệt thành” theo tiếng Hy Lạp là enthusiasmos, được rút từ chữ entheos có nghĩa là “được Thiên Chúa sở hữu” hoặc “được Thiên Chúa linh ứng.”  Người Hy Lạp tin rằng một người có thể hít thở bằng cuộc sống của Thiên Chúa, người đó có thể là người đem đến tinh thần của Ngài.  Họ tin rằng con người có thể là “bình chứa” đối với Thiên Chúa.  Một trong những từ đối với sự sống là zoe, không ám chỉ sự sống rộn ràng trong mỗi người, mà nói đến sự sống có thể được chia sẻ với người khác. Khái niệm này về sự sống là nền tảng không thể thiếu đối với khái niệm của Kitô giáo về sự sống của Thiên Chúa, hoặc ân sủng, điều có thể chia sẻ trong chúng ta, và với Mẹ Maria và những người mẹ theo cách đặc biệt.  Đời sống của Đức Mẹ với Chúa Con là sự sống cao tới mức ưu việt.

    Hồng Y Joszef Mindszenty, người can đảm bảo vệ Giáo Hội trong thời gian cộng sản chiếm lĩnh Hungary, đã dành tình cảm mạnh mẽ với cương vị người mẹ.  Trong cuốn The Mother (Người Mẹ), ngài viết hùng hồn bày tỏ lòng tôn kính những người mẹ, nhấn mạnh sự gần gũi của họ đối với Thiên Chúa:

 “Người quan trọng nhất trên thế gian này là người mẹ.  Bà không thể đòi hỏi lòng tôn kính của việc xây dụng Nhà Thờ Đức Bà.  Bà không cần.  Bà đã xây dựng cái gì đó quan trọng hơn bất cứ Nhà Thờ nào – sự cư ngụ đối với một linh hồn bất tử, sự hoàn hảo gọn gàng của cơ thể đứa trẻ.  Các thiên thần không được chúc lành bằng ân sủng như vậy.  Các thiên thần không thể chia sẻ phép mầu sáng tạo của Thiên Chúa là đưa những vị Thánh mới vào Thiên Quốc.  Chỉ có người mẹ khả thi.  Những người mẹ gần gũi với Thiên Chúa Tạo Hóa hơn bất cứ sinh vật nào, Thiên Chúa liên kết các sức mạnh với những người mẹ trong việc sáng tạo.  Còn gì vinh quang hơn là được làm mẹ?”

Donald Demarco,
bản dịch của Trầm Thiên Thu

từ IntegratedCatholicLife.org From: Nguyen Kim Bang

Bạo lực và khủng bố dưới thời Stalin

Bạo lực và khủng bố dưới thời Stalin

Nguồn: Jonathan Brent, The Order of Lenin: ‘Find Some Truly Hard People’, The New York Times, 22/05/2017

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

“Lưu trữ là sức mạnh,” Kirill Mikhailovich Anderson, cựu giám đốc Cục Lưu trữ Lịch sử Chính trị – Xã hội Quốc gia Nga tại Moskva, đã từng nói với tôi như vậy. Ông kể về vị giám đốc đầu tiên của Viện Marx-Engels (thành lập năm 1919): Là một người Bolshevik cũ, David Riazanov gần như không thể kiên nhẫn được với các viên chức Đảng Cộng sản – những người liên tục yêu cầu các văn kiện hoặc để khẳng định lập trường ý thức hệ hoặc để bôi nhọ kẻ thù.

Một ngày nọ, ông lấy ra một lá thư của Karl Marx, ve vẩy nó trước mặt một lãnh đạo và hét lên: “Marx của ông đây. Giờ thì biến đi!” Riazanov chạy trốn khỏi Stalin vào năm 1931, nhưng đã bị bắt vào năm 1937 và bị hành quyết một năm sau đó.

Giống như hàng ngàn nhà xuất bản, nhà nghiên cứu và nhà báo nước ngoài khác – những người lũ lượt tới Moskva vào tháng 01/1992, tôi đã tìm đến kho lưu trữ nhà nước sau khi Boris Yeltsin tuyên bố vào tháng 12/1991 rằng ông sẽ cho mở cửa các kho lưu trữ bí mật của Liên Xô. (Tôi là đại diện của Nhà xuất bản Đại học Yale/ Yale University Press.) Sức mạnh mà Anderson nói đến quả thực hiện diện sống động ở đó.

Khám phá tại những kho lưu trữ này đã làm thay đổi hoàn toàn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu của Chiến tranh Lạnh như: gián điệp trong Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, Đại Thanh trừng (Great Terror) của Stalin, số phận của các nhà văn và nghệ sĩ, và nhiều sự kiện khác. Đối với vài người, phát hiện mới này giúp khẳng định quan điểm trước đó của họ; còn với những kẻ khác, nó làm xáo động niềm tin vốn đã được khắc sâu. Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất [của nó] chắc chắn là làm sâu sắc hơn và tạo nên những góc nhìn đa chiều về sự phức tạp của hiện tượng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô và tính cách của Joseph Stalin.

Tôi đã từng hỏi một nhà sử học người Nga rằng liệu chúng ta có thể nghiên cứu “đến tận đáy” các hồ sơ lưu trữ của K.G.B., cơ quan mật vụ Liên Xô, về một chủ đề cụ thể hay không. “Dĩ nhiên,” ông đáp đầy khéo léo. “Nhưng K.G.B. có nhiều đáy lắm.”

Một trong những vấn đề tăm tối nhất liên quan đến bản chất và nguyên nhân hành động khủng bố của Stalin, và câu hỏi liệu rằng Stalin có vi phạm chính sách của Lenin hay chỉ là đang tiếp nối nó. Đằng sau đó chính là câu hỏi về việc thể chế hoá bạo lực trong nền văn hoá Bolshevik và nhà nước Liên Xô.

Dù sự chấp nhận phổ biến đối với việc sử dụng bạo lực chính trị đã sớm được thiết lập trong phong trào cách mạng Nga – ngay từ thời bản tuyên ngôn năm 1869 của Sergey Nechayev về “Giáo lý của Một Nhà Cách mạng” (Catechism of a Revolutionary) – nhưng chính sách của Lenin và Đảng Bolshevik lúc đầu không dựa vào khủng bố. Tuy nhiên, các điều kiện khắc nghiệt của cuộc nội chiến 1917 – 1922, trong đó bảy triệu người đã thiệt mạng, cùng với việc xuất hiện các chính sách kinh tế tàn nhẫn của Lenin, đã dẫn đến cảnh khốn cùng và tuyệt vọng của hàng triệu người khi thấy mình chẳng còn lương thực, sinh kế, nơi ở và an ninh.

Cuộc nổi dậy hàng loạt của nông dân bắt nguồn từ các quy định hà khắc của nhà nước Liên Xô trong việc thu mua ngũ cốc. Chế độ Bolshevik non trẻ cần ngũ cốc để ngăn chặn nạn đói ở các thành phố, và khi không thấy có lựa chọn nào khác, Lenin đã ban hành mệnh lệnh này vào tháng 08/1918, mà sau đó được phát hiện trong một kho lưu trữ bí mật: “Hãy treo cổ (không được giấu diếm, phải làm công khai để mọi người đều thấy) ít nhất 100 địa chủ, nhà giàu, những kẻ hút máu dân.” “Công khai tên của chúng,” ông chỉ định. “Lấy hết ngũ cốc của chúng. Chỉ định ai sẽ làm con tin.”

“Hãy làm việc này theo cách để hàng trăm người xung quanh phải nhìn thấy, run rẩy, thừa nhận, thét lên,” ông tiếp tục, rằng những người Bolshevik “đang siết cổ, bóp chết bọn địa chủ hút máu người.”

Ông kết thúc bản ghi nhớ khủng khiếp bằng chỉ thị: “Hãy tìm những người thực sự khét tiếng”

Một tháng sau, ông ra lệnh: “Cần phải giữ bí mật – và khẩn trương – chuẩn bị đợt khủng bố.”

Lenin sử dụng khủng bố để chống lại những kẻ thù được thừa nhận của nhà nước. Stalin lại dùng nó để chống lại các thể chế của nhà nước và bản thân xã hội Liên Xô. Stalin đi theo Lenin, nhưng đã vượt qua ông.

Ngày 07/11/1937, ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, bài phát biểu của Stalin tại cuộc họp gồm các nhà lãnh đạo Bộ Chính trị đã được đảng viên Cộng sản Bulgaria và lãnh đạo Tổ chức Comintern, Georgi Dimitrov, ghi lại trong cuốn nhật ký được xuất bản của ông.

“Tôi muốn nói vài lời, có lẽ không được vui cho lắm.” Stalin nói. “Các Sa hoàng đã làm rất nhiều điều xấu. Họ cướp bóc và biến dân chúng thành nô lệ. Nhưng họ đã làm một điều tốt. Họ đã xây dựng được một đất nước to lớn, kéo dài đến tận Kamchatka. Chúng ta đã được thừa hưởng đất nước đó.”

Ông nói tiếp: “Chúng ta đã thống nhất đất nước theo cái cách mà nếu một phần nào đó bị cô lập khỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa chung, thì nó sẽ không chỉ gây ra thiệt hại cho nhà nước, mà còn không thể tồn tại một cách độc lập và chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng nô lệ cho nước ngoài. Vì vậy, bất cứ ai cố gắng hủy hoại sự thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bất cứ ai tìm cách tách rời bất kỳ phần nào của nó – thì hắn là kẻ thù, một kẻ thù công khai của nhà nước và của các dân tộc thuộc Liên bang Xô viết. Và chúng ta sẽ hủy diệt từng kẻ thù như thế, ngay cả khi hắn là một thành viên Bolshevik cũ; chúng ta sẽ giết tất cả họ hàng, gia đình của hắn. Chúng ta sẽ tàn nhẫn hủy diệt bất cứ ai, nếu hành động hay tư tưởng của hắn – đúng, tư tưởng của hắn – đe dọa sự thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hãy nâng ly vì sự hủy diệt hoàn toàn tất cả các kẻ thù và họ hàng của chúng!”

Lúc đó, các thành viên Bộ Chính trị đã lên tiếng ủng hộ: “Hãy nâng ly vì Stalin vĩ đại!”

Tính đến thời điểm ấy, những kẻ thù trong nước của chế độ Bolshevik đã bị loại bỏ, bao gồm cả những nông dân cứng đầu đã chết trong nạn đói năm 1932 – 1933. Đại hội Đảng lần thứ 17 (1934) đã được tung hô là “Đại hội của những người chiến thắng,” và Andrei Zhdanov, đảng viên đại diện vùng Leningrad và một người yêu thích Stalin, có thể tự tin tuyên bố tại Đại hội Hội Nhà văn Xô viết trong năm đó rằng “những khó khăn lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bị vượt qua.”

Nghịch lý là, Stalin đã tiến hành Đại Thanh trừng vào năm 1936, trong thời điểm tương đối hòa bình và ổn định. Hàng loạt kẻ thù đột nhiên xuất hiện trong xã hội Liên Xô là do tưởng tượng nên. Hàng triệu người vô tội đã bị bắt giữ, tra tấn và bắn chết, chẳng hề có bằng chứng, nhưng chỉ dựa theo quota mà Kremlin chỉ thị. Stalin đã không nói dối: Đúng là “bất cứ ai” cũng có thể phạm tội.

Nikolai Bukharin, cựu lãnh đạo Bolshevik và biên tập của tờ Pravda, đã trở thành một trong những kẻ thù: bị bắt vào tháng 02/1937 và bị hành quyết vào tháng 03/1938. Bức thư ông viết cho Stalin từ nhà tù, vào ngày 10/12/1937, là một bức thư run rẩy và đáng thương từ một người đàn ông biết chắc chắn mình sẽ chết. Nhưng ngạc nhiên thay, ông không chỉ khẳng định những lời Stalin nói với Bộ Chính trị cách đây vài tháng, mà còn thừa nhận vai trò của mình trong việc tạo ra cỗ máy mà giờ đây khiến ông mắc kẹt trong tuốc-bin của nó.

“Có điều gì đó vĩ đại và táo bạo trong ý tưởng chính trị của một cuộc thanh trừng hàng loạt,” ông viết. “Việc thanh trừng này này bao gồm 1) kẻ tội đồ; 2) người bị nghi ngờ; và 3) những người có khả năng bị nghi ngờ. Hành động này không thể được thực hiện mà không có tôi.”

Nhà nước độc tài mà Bukharin hình dung là nhà nước dựa trên một trạng thái bất ổn lâu dài, trong đó hỗn loạn và sợ hãi là những thành phần thiết yếu của chính phủ. Nhà văn Lydia Chukovskaya đã miêu tả nỗi sợ hãi vốn là cốt lõi của thế giới đảo ngược này trong tiểu thuyết tuyệt vọng năm 1939, “Sofia Petrovna”, vốn không được xuất bản ở Liên Xô mãi cho đến cuối thập niên 1980. Nhân vật nữ chính trong tác phẩm “giờ đây khiếp sợ mọi người và mọi thứ,” Chukovskaya viết. “Có lẽ họ đã đưa cô ta đến đồn cảnh sát, tước mất hộ chiếu và đẩy cô vào cảnh lưu đày? Cô sợ hãi từng tiếng chuông kêu.”

Xóa bỏ trật tự xã hội, xem thường các quy định của pháp luật, truyền nỗi sợ vào sâu trong ý thức cá nhân và gieo mầm sự hồ nghi là điều cần thiết cho mục tiêu của Stalin, nhằm loại bỏ bất cứ mối đe dọa nào đối với quyền lực tuyệt đối của ông. Stalin không chỉ dùng Đại Thanh trừng để loại trừ những người có thể trở thành đối thủ trong đảng, mà còn gửi đi một tín hiệu không thể nhầm lẫn cho cả nước: Nếu Bukharin, Lev Kamenev và Grigory Zinoviev còn có thể có tội, thì mọi người đều bị nghi ngờ.

Một câu chuyện kể rằng Stalin đã giữ bức thư của Bukharin trong ngăn kéo trên cùng ở bàn làm việc của mình, nơi nó được phát hiện sau cái chết của ông, nhưng chỉ được xuất bản sau khi Liên Xô tan rã.

Thế chiến II kết thúc, đất nước giành được chiến thắng tuyệt vời trước Hitler, tuy nhiên, Stalin lại nhận ra rằng khi sự suy giảm về thể chất của ông xuất hiện, thì quyền lực cá nhân của ông cũng bắt đầu suy giảm. Phản ứng của ông là chuẩn bị một đợt thanh trừng thứ hai.

Một lần nữa, không ai được an toàn. Stalin giận dữ vì Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov đã cho phép xuất bản đầy đủ bài phát biểu của Winston Churchill trên tờ Pravda. Molotov đã không nhận ra kẻ thù của họ. Ngoài ra còn có Zhdanov, khi ấy đang là một trong những thành viên quyền lực nhất của Bộ Chính trị, cũng bị Stalin oán giận khi con trai ông, Yuri, người đứng đầu bộ phận khoa học của Uỷ ban Trung ương, cho tổ chức một cuộc hội thảo kín để thảo luận về công trình của nhà nông học “rởm” T. D. Lysenko, một nhân vật giống như Rasputin trong chính quyền Stalin.

Stalin đã trả thù bằng cách quen thuộc: dùng tra tấn thể xác như là một phương pháp đối phó với kẻ thù chính trị; lan truyền sự hoang tưởng, sợ hãi và hồ nghi trong xã hội; bịa đặt ra kẻ thù; và tự cho mình là nhà lãnh đạo có khả năng duy nhất trong những thời điểm khó khăn như vậy. Bằng cách thao túng, lập mạng lưới bảo trợ, sự tàn bạo và lén lút, Stalin tiếp tục tiến hành cuộc tấn công vào chính đất nước mình. Quyền lực của ông nằm bên ngoài cấu trúc chính thức của nó, và trong giai đoạn cuối cùng của chế độ độc tài Stalin, khủng bố lên đến đỉnh điểm sau vụ “Âm mưu của các Bác sĩ” năm 1953, một cuộc khủng hoảng được bịa ra, trong đó các bác sĩ Do Thái nổi tiếng bị buộc tội âm mưu chống lại lãnh đạo Liên Xô. Tiếp nối những lời đe dọa mà ông thốt ra trong bài phát biểu năm 1937, âm mưu mới này chứa đựng những hạt giống tai họa thậm chí còn lớn hơn do sự xuất hiện của Chiến tranh Lạnh.

Khi Molotov không tìm thấy tên mình trong danh sách những người được cho là mục tiêu ám sát của các bác sĩ Do Thái, ông biết mình đã bị đánh dấu trong danh sách bị khử trừ. Nhưng không chỉ có mình ông. Anastas Mikoyan, Kliment Voroshilov và nhiều cấp dưới khác của Stalin lo ngại ngày tàn của họ đã đến. Năm 1952, khi Bộ trưởng An ninh Semyon Ignatiev không thể tạo ra các bằng chứng giả cho vụ các bác sĩ Do Thái đủ nhanh, Stalin đã đe dọa sẽ làm giảm chiều cao của ông “bằng một cái đầu.”

“Đánh chúng, đánh chúng, đánh chúng bằng những cú đánh chết người,” ông hét vào mặt vị lãnh đạo an ninh. Ignatiev nhanh chóng bị trụy tim và được đưa ra khỏi văn phòng.

“Hãy nhìn lại các cậu đi,” ông nói với một nhóm cộng sự thân cận của mình vào tháng 12 năm đó, “bọn mù, lũ mèo con, các cậu không nhìn thấy kẻ thù; các cậu sẽ làm gì nếu không có tôi? – Đất nước này sẽ bị diệt vong bởi vì các cậu không nhìn thấy kẻ thù.”

Chỉ có ông, Stalin, mới có thể lãnh đạo đất nước, bởi vì chỉ có ông, Stalin, mới có thể nhìn thấy kẻ thù. Chỉ có cái chết của Stalin, vào tháng 03/1953, mới cứu được nhiều người khỏi bị hủy diệt – và có lẽ là cứu cả thế giới. Năm tháng sau, Liên Xô cho nổ quả bom hydro đầu tiên của họ.

Jonathan Brent, người khởi xướng loạt ấn phẩm Annals of Communism tại Yale University Press và từng nghiên cứu kho lưu trữ Liên Xô trong giai đoạn 1992-2009, hiện đang là giám đốc điều hành Viện YIVO về Nghiên cứu Do thái và giảng dạy tại Đại học Bard.

Hình: Các đại biểu dự Đại hội 16 Đảng Cộng sản Nga. Những người bị bôi mờ là nạn nhân của đàn áp chính trị dưới thời Stalin.

Chuyên gia Mỹ : Việt Nam cần liên minh với Mỹ để gìn giữ Biển Đông chống Trung Quốc

 

VI.RFI.FR|BY RFI TIẾNG VIỆT
Việc Trung Quốc mới đây ngang nhiên cho tàu khảo sát vào hoạt động, đồng thời tung tàu hải cảnh vào phá quấy công việc thăm dò dầu khí của Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam…

HỒNG KÔNG BẤT KHUẤT !

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor
Image may contain: one or more people
Image may contain: 1 person
Image may contain: one or more people
Hung Pham

HỒNG KÔNG BẤT KHUẤT !

Già trẻ đứng thẳng làm nguời
Bạo quyền đâu sợ đáp lời núi sông
Dấn thân ý thức cộng đồng
Tuơng lai con cháu quyết không thể lùi

Dân trí mở mang cắm dùi
Mầm dân chủ bật xóa đui sáng ngần
Tự do tuơng ái tuơng lân
Giá guơng nấy phủ chữ nhân nhiễu điều !

Những nguời già có tuổi không câu nệ sợ sệt , những thanh niên dũng cảm bất khuất đạp lên cuờng quyền Hồng Kông hơn 100 ngày đấu tranh cho tự do bất chấp hết tất cả bạo lực và khủng bố ngày hôm nay để ngày mai họ đứng thẳng làm nguời !

11/11/19

Nhìn lại sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản 30 năm trước

About this website

NGHIENCUUQUOCTE.ORG
Nguồn: Carl Bildt, “Remembering the Miracle of 1989”, Project Syndicate, 19/08/2019. Biên dịch: Phan Nguyên Tháng này đánh dấu 30 năm kể từ khi châu Âu – và nền văn minh nhân loại nói chung – bắt đầu trải qua một sự biến đổi kỳ diệu mà hiện ….

Còn sống chính là thắng lợi!

Còn sống chính là thắng lợi!
 

Trong cuộc đời này, còn sống chính là thắng lợi, kiếm tiền chính là trò chơi, khỏe mạnh mới là điều cần thiết, vui vẻ hạnh phúc là điều mọi người mong ước nhưng khi kết thúc sinh mệnh, được trở về nơi tốt đẹp mới là mục đích.

Dưới đây là 10 câu nói giúp người đọc hiểu đạo lý nhân sinh và cũng là những câu nói giúp người đọc có sự lựa chọn đúng đắn trong cuộc đời của mình.

Câu thứ 1: Giữa người với người chính là một loại nhân duyên. Giữa tâm với tâm chính là một loại giao lưu chia sẻ. Giữa tình yêu thương và tình yêu thương chính là một loại cảm tình. Giữa tình cảm với tình cảm chính là một loại thật lòng, thật dạ. Giữa sai lầm, tội lỗi với sai lầm, cần một loại tha thứ.

Câu thứ 2: Giữa người với người, phải trao cho nhau tình yêu thương đồng loại, phải vui với việc giúp đỡ người khác. Bởi vì, khi bạn tặng hoa hồng cho người khác, trên tay bạn sẽ còn lưu lại hương thơm. Yêu thương người khác kỳ thực chính là yêu thương mình. Hãy đem tình yêu thương của mình để sưởi ấm trái tim của người khác, lúc ấy bạn chính là những tia nắng ấm áp của mặt trời.

Câu thứ 3: Thế gian quá rộng lớn mà lòng người lại quá phức tạp, sao có thể không găp phải tiểu nhân? Cõi hồng trần rất thâm sâu mà người trần lại ưa thích những điều hào nhoáng, phù hoa, sao có thể không gặp chuyện phiền lòng?

Nghĩ phải đơn giản một chút bởi vì sống trên đời phải thích ứng với mọi hoàn cảnh. Coi nhẹ một chút bởi vì trên đỉnh đầu còn có một bầu trời xanh!

Câu thứ 4: Phải biết trân quý người bên cạnh mình bởi vì mỗi một thời, một khắc ở nhân gian càng ngày càng ít đi, cuối cùng còn phải chia lìa. Không cần tranh giành, không cần đấu khí, tranh hơn thua, vui vẻ trò chuyện để hiểu nhau mới là quan trọng.

Phải biết trân quý người đối xử tốt với mình, bởi vì một khi đã đánh mất đi rồi thì tìm đâu cũng không được lại nữa.

Câu thứ 5: Cuộc sống đơn giản mới là cuộc sống hạnh phúc. Đời người gặp được sự tình gì cũng không nên nghĩ phức tạp. Tâm linh một khi nặng thì sống cũng mệt mỏi.

Nên bỏ đi những ký ức không tốt đẹp trong trí nhớ, sống một cuộc sống vui tươi, an hòa cùng mọi người.

Câu thứ 6: Sống trên đời cũng đừng quá so đo tính toán. Cổ ngữ nói: “Trăm sự do tâm khởi, nụ cười giải ngàn sầu”. Tâm tính tốt là người bạn tốt nhất trong cuộc đời, nó khiến người ta sống sung sướng, thoải mái và bình an, khỏe mạnh.

Câu thứ 7: Người đến khi có tuổi nhất định phải để tâm được thanh thản. Ít một chút giận dữ, nhiều một chút rảnh rang, “thân vội nhưng tâm nhàn” là những điều không dễ dàng đạt được. Nhưng “thân vội mà tâm cũng vội” thì tất sẽ sinh ra loạn.

Câu thứ 8: Chẳng phải người ta vẫn nói “biết đủ thường vui” sao? Sở dĩ người ta vui là bởi vì cái tâm không bị vướng bận, tuy rằng của cải vật chất không quá nhiều. Tâm lượng sung túc, rộng lớn chính là tài phú thực sự của đời người.

Câu thứ 9: Con người còn sống ngày nào thì ngày ấy chính là phúc khí. Đời người ngắn ngủi, không cần phải nuối tiếc những việc đã qua.

Mặt trời lặn, mặt trời lại mọc, buồn thì một ngày cũng trôi qua, vui thì một ngày cũng trôi qua cho nên đừng để tâm vào những chuyện quá vụn vặt, nhỏ nhoi. Hãy để tâm được thoải mái thì thân thể mới thoải mái.

Câu thứ 10: Con người sống trên đời, kỳ thực cũng không cần nhiều thứ lắm, chỉ cần sống khỏe mạnh, chân thành yêu thương mọi người thì đó vẫn được coi là một cuộc sống giàu có, sung túc.

Cuộc đời này, còn sống chính là thắng lợi, kiếm tiền chính là trò chơi, khỏe mạnh mới là điều cần thiết, vui vẻ hạnh phúc là điều mọi người mong ước nhưng được trở về nơi tốt đẹp mới là mục đích.

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Đôi Ba Truyện Ngắn Của Một Nhà Văn

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Đôi Ba Truyện Ngắn Của Một Nhà Văn

07/11/2019

Nhà văn Tâm Thanh ra đi, như một cánh chim vút qua. Nhưng tiếng kêu của chim còn rớt lại, và sẽ còn ở với cõi nhân gian lâu dài.

Phạm Xuân Đài

Tôi nhặt được cụm từ “Kho Trời đã khoá” trong truyện ngắn (Chân Dung Một Cô Gái Việt Nam) của Tâm Thanh. Người kể chuyện tên Diễm, sinh ra tại Na Uy, và làm việc như một thông dịch viên (on call) cho sở cảnh sát di trú tại thủ đô Oslo. Nhân vật chính tên Vân, bị bắt giữ về tội ăn cắp và nhập cư bấ́t hợp pháp. Đoạn kết như sau:    

“Xin cô nghe đây,” cô cảnh sát mở đề cho một cuộc thẩm vấn cuối cùng. “Cô không đủ lý do xin tị nạn, cộng thêm việc phạm pháp, cô không có con đường nào khác ngoài đường trở về nơi cô đã ra đi.”

 “Thế thì trả tôi về Đức.” 

 “Tại sao lại Đức? Cô đi từ Việt Nam mà!” 

 “Tôi từ bên Đức sang…” 

 “Trong hai lần thẩm vấn trước đây cô nói từ Việt Nam, đi bộ sang Trung Quốc rồi sang Nga. Bây giờ lại nói từ Đức sang. Lời nào là thật?”  

“Cái thai lày của một thằng Đức”.

 “Nhiều lần chúng tôi đã hỏi cha của thai nhi là ai, cô đều nói là không biết.” 

 “Không biết… thật đấy. Nói chung nà đêm không thấy mặt”. 

 “Dù cô không biết gì hết, không biết mặt người ngủ chung, không biết mình là ai, không biết cha mẹ là ai, không biết từ đâu tới, chúng tôi vẫn có cách tìm ra cô là ai. Và chúng tôi sẽ liên lạc với tòa đại sứ Việt Nam cấp giấy cho cô về Việt Nam”. 

 “Lói thật cũng chết, lói dối cũng chết…” người tù nói nhanh, rồi lại vội nói “Chị đừng dịch cho ló nghe nhá!”  

“Cô ấy nói gì?” thấy Diễm không dịch câu nói của người đối thoại, cô cảnh sát hỏi.  

“Cô ấy đổi ý, không muốn tôi dịch câu vừa nói.”  

Cô cảnh sát nhỏ giọng nói với người đàn bà mang thai: “Xin cô cộng tác với chúng tôi để tiến hành cho sớm việc hồi hương …

 Người mẹ đặt cả hai tay lên bụng, cúi xuống lẩm bẩm: “Con tôi sinh trong tù à?”

Diễm cảm thấy xót xa trong lòng… Diễm nghĩ đến thân phận chính mình – sở dĩ mình sống nhởn nhơ được, buổi sáng đứng bán nhà thuốc tây, buổi chiều đi nhảy aerobic, lâu lâu đi thông dịch lấy ngoại tài mua son phấn không cần ăn cắp… là vì cha mẹ mình đã chọn được con đường đúng ý nguyện: tới một nơi có thể lương thiện mà sống được. 

Không, không phải cha mẹ chọn. Đó là Trời ban. Ba chục năm nay, bây giờ ‘Kho Trời’ đã khóa. Nếu cha mẹ nàng chậm chân, không chừng giờ này Diễm cũng là một người mở miệng bằng câu không biết, và không từ làm bất cứ việc gì để sinh tồn. 

So với lúc “Kho Trời chưa khoá” thì tình hiện trạng của bà Vân, xem chừng, khắc nghiệt hơn hồi “ba chục năm” xưa nhiều lắm. Ở thời điểm đó, khi miền Nam vừa “được hoàn toàn giải phóng,” những cô gái ở vùng đất này đều có lời giao ước (rõ ràng) trước khi thuyền ra cửa biển: “Một là con nuôi má, hai là con nuôi cá, ba là má nuôi con.”

Bây giờ thì thân mẫu của bà Vân, nếu có, phải đi thăm nuôi cả con lẫn cháu vì tội vượt biên trái phép. Đứa cháu mà chính mẹ nó cũng không biết “thằng bố” là ai vì “nói chung nà đêm không thấy mặt.” Tình cảnh của bà Vân, tuy vậy, vẫn chưa đến nỗi nào – so với nhiều người đồng hương khác – theo tường thuật của nhà báo Vũ Ngọc Yên: “Vào ngày 23.10.2019 một thông tin chấn động thế giới khi chiếc xe container chở hàng chứa 39 thi thể người nhập cư bị phát hiện ở Essex, miền Đông Anh, cách thủ đô London 30km. Nhiều thông tấn xã quốc tế loan tin trong số nạn nhân có người Việt Nam.”

Hai hôm sau, 10/25/19, blogger Nguyễn Hữu Vinh (RFA) cho biết thêm chi tiết: “Khi việc điều tra của cảnh sát Anh chưa chấm dứt, thì trên mạng rộ lên thông tin về một tin nhắn của một cô gái nhắn về cho mẹ tại Thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, Tỉnh Hà Tĩnh. Cô gái cho biết tên là Phạm Thị Trà My, ở số nhà 1, Ngõ 2, Đường Đặng Dung, Thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, Tỉnh Hà Tĩnh. Trong tin nhắn mà gia đình nhận được, cô gái nói rằng: ‘Con đi nước ngoài không thành, con thương bố mẹ nhiều. Con chết vì không thở được…”

Lời cuối của cô Phạm Thị Trà My lại khiến tôi nhớ đến một mẩu đối thoại (giữa hai người Việt đồng cảnh, từ hai phòng giam sát cạnh nhau, tại một nhà tù nào đó ở Âu Châu) trong một truyện ngắn khác của Tâm Thanh: 

Tuyết ho, tôi xót ruột. Ho xong, nó nói:“Em mơ còn nằm trong cái xe thùng chở em sang đây. Đứa con gái nằm ngay bên cạnh em chết ngạt.”

“Chết!?”

“Chết. Bị nhốt trong thùng xe hai ngày hai đêm. Khi bọn đầu gấu mở cửa xe ra, thấy bốn người chết từ bao giờ. Con ấy thân với em nhất. Chúng em đã từng chia phiên nhau kề mũi vào cái lỗ nhỏ để thở.

Thương hại nó hay nhường cho em thở lâu hơn. Dọc đường nó cứ đòi về, không muốn đi nữa. Nhưng em biết về thế nào được với bọn đường dây. Nó mà sống sót cũng bị đường dây hành tới chết về cái tội đòi về… Anh có nghe không đấy?”

“Nghe rõ cả.”

“Nó nói khổ đều quanh năm chịu được, dồn vào một ngày thì chết. Anh nghĩ có đúng không?”

“Chắc đúng.”

“Mẹ nó bán ruộng, bán vườn để chung tiền cho nó đi, cứ mong nó mang đôla về chuộc đất, xây nhà như những người có thân nhân Việt kiều. Bây giờ nó chết, chưa kịp nhìn thấy tờ đôla xanh. Trước khi chết nó tựa vai em lầm bầm ‘Mẹ ơi! Con không muốn làm Việt kiều. Con muốn về nhà. Con muốn cơ cực ở nhà với mẹ suốt đời.’ Giọng nó như đứa trẻ con ba tuổi.” (“Người Rơm” – Diễn Đàn Thế Kỷ 1/7/2010). 

Tâm Thanh qua đời ngày 9 tháng 4 năm 2015. Trước đó một năm, hôm 3 tháng 5 năm 2014, thân hữu tại Oslo đã tổ chức Ngày Văn Hóa Việt Nam để vinh danh những tác phẩm của ông. Bức thư ngắn ngủi ông gửi đi trong ngày hôm đó có đoạn sau: “Tôi đang nằm bệnh viện khi viết những dòng này. Vâng, tôi bị ung thư tụy tạng trong thời ký tái phát. Từ hơn năm nay trên giường bệnh, tôi chỉ có một nỗ lực duy nhất: trở thành trẻ thơ để trở về với Thượng Đế. Tuy nhiên đôi khi tôi cũng suy nghĩ một chút về việc viết lách. Xin cho phép tôi nói ra tiêu chí văn chương của mình: Bản chất văn chương là hư cấu. Khi viết tôi bịa đặt hoàn toàn; nhưng khi sống, tôi ráng không phản bội những điều mình viết, dù một chữ…” 

Cái chất “hư cấu” trong văn chương của Tâm Thanh khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Ông dự liệu được cái thảm hoạ mà đồng bào của mình sẽ bị ghánh chịu: “Anh giúp chúng ta hiểu đời hơn, báo trước cho chúng ta những bất trắc, những ngộ nhận, những mất mát không thể tránh khỏi trong đời sống, nghĩa là giúp chúng ta biết vui mà không mù quáng, cũng như biết buồn mà không bi lụy.” Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết như thế về tác phẩm của Tâm Thanh, trước khi cả hai ông (đều) đi về cõi vĩnh hằng.

TNT 10/28/89

25 CÂU NÓI THÂM THÚY– NGẤM TẬN XƯƠNG TẬN TỦY

25 CÂU NÓI THÂM THÚY– NGẤM TẬN XƯƠNG TẬN TỦY

 

  1. Chơi với người tốt như vào hàng hoa. Khi đi ra hương còn vương vấn.

Chơi với người xấu như vào hàng cá, quen tanh rồi, chẳng biết mình tanh.

 

  1. Người ta nói, con ong, độc nhất ở cái đuôi, còn đàn bà độc nhất là ở tấm lòng.

Không sai đâu, hãy nghĩ kĩ đi, nếu bạn không chọc phá con ong, nó sẽ chẳng chích, cũng như đàn bà, nếu không đẩy họ vào đường cùng, họ sẽ không bao giờ thâm độc.

 

  1. Lớn rồi!

– Nhìn 1 phải thấu 10

– Bởi vì bên trong 1 con người…

– Không thân thiện như cái miệng của họ thể hiện.

– Nhớ nhé:

Không phải cái gì lóng lánh cũng là vàng.

Không phải ai nhìn đàng hoàng cũng là người tử tế.

 

  1. Ở đời có 3 chữ đừng:

– Đừng hiền quá để người ta bắt nạt

– Đừng ngốc quá để người ta đùa giỡn

– Đừng tin tưởng quá để khi bị lừa dối cũng không đến nỗi bi thương

 

  1. 10 năm trước, những người quanh bạn sẽ dựa vào thu nhập của bố mẹ bạn để đối đãi với bạn! 10 năm sau, những người xung quanh bạn sẽ dựa vào thu nhập của bạn để đối đãi với bố mẹ bạn!

 

  1. Khi bạn đã cố gắng hết sức mà họ vẫn không cảm nhận được. Vậy thì hãy dừng lại…hãy sống vì những gì xứng đáng hơn.

 

  1. Chuyện của người khác, hãy nói cẩn thận.

Chuyện của người lớn, ít nói.

Chuyện của trẻ con, hãy nhẹ nhàng khuyên bảo giảng giải.

Chuyện nhỏ, nói một cách hài hước.

Chuyện làm không được, đừng nói.

Chuyện buồn, chỉ tìm bạn tri kỉ nói.

Chuyện của bản thân, nên nghe người khác nói thế nào trước.

Chuyện vợ chồng, cùng nhau thương lượng.

Chuyện gấp, từ từ nói.

Chuyện có thể sẽ xảy ra, đừng nên nói bậy.

Chuyện tổn thương người khác, tuyệt đối không nói.

 

  1. Là phụ nữ đừng ỷ vào nhan sắc, vì nó sẽ tàn phai theo thời gian.

 

  1. Đừng bao giờ níu kéo một ai cả. Đơn giản vì khi người ta muốn ở lại thì có đuổi thế nào cũng không đi. Nếu người ta muốn đi có giữ thế nào người ta cũng không ở lại.

 

  1. Nếu bạn cực kì cuồng si ai đó, đơn giản vì bạn không xứng với người ta.

 

  1. Đừng khoe khoang bản thân tăng ca hoàn thành nốt công việc, nó chỉ cho thấy năng lực làm việc yếu kém và khảng năng vạch kế hoạch tệ hại.

 

  1. Bill Gates thôi học theo đuổi ước mơ, trở thành một trong những người giàu nhất thế giới, nhưng chớ quên ông ấy thôi học ở trường Havard.

 

  1. Nếu mày giỏi thứ gì đó, đừng bao giờ làm nó miễn phí.

 

  1. Nếu thực sự muốn biết làm thế nào để giúp đỡ con cái, hãy để chúng một mình!

 

  1. Phụ nữ không có sức hấp dẫn mới cảm thấy đàn ông trăng hoa. Đàn ông không có thực lực mới cảm thấy phụ nữ thực dụng!

 

  1. Thứ không cần, có tốt đến đâu cũng là rác.

 

  1. Nếu không thể làm ba mẹ tự hào, vậy hãy để họ bớt lo lắng đi cũng được.

 

  1. Cuộc sống cũng tương tự như một trò đấm bốc. Thất bại không được tuyên bố khi bạn ngã xuống mà là khi bạn từ chối “đứng dậy”!

 

  1. Thỉnh thoảng bạn nên nói chuyện với một đứa trẻ 3 tuổi. Khi đó bạn sẽ nhìn nhận lại về cuộc đời.

 

  1. Khi mọi thứ dường như chống lại bạn. Hãy nhớ rằng máy bay chỉ có thể cất cánh khi chống lại gió.

 

  1. Yêu cầu sự giúp đỡ không hề khiến bạn yếu đuối.

 

  1. Đứng trên đỉnh núi, trên đầu bạn là cả trời sao.

 

  1. Thịnh vượng tạo ra bạn bè, nghịch cảnh thử thách họ.

 

  1. Đằng sau không ai chống lưng, tuyệt đối không thể ngã xuống được.

 

  1. Không chết được thì phải sống, đã sống thì phải sống cho ra hồn.

From: TU-PHUNG