KHÔNG THỂ XOÁ MỘT NỀN VĂN HOÁ, VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT.

17 hrs

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

8 SÀI GÒN

KHÔNG THỂ XOÁ MỘT NỀN VĂN HOÁ, VĂN CHƯƠNG NGHỆ THUẬT.

Người ta có thể đập bỏ một di tích đã hơn 100 năm, người ta cũng có thể phá nát một ngôi chùa cổ, và người ta cũng có thể đốn hạ những hàng cây cổ thụ rợp bóng ký ức của nhiều người, xoá sạch những dinh thự, những kiến trúc đã hiện diện ở miền Nam này suốt cả thế kỷ. Tất cả sẽ biến mất nhường lại cho những khối bê tông đồ sộ, những dãy nhà chọc trời.

Năm, mười năm sau, thế hệ trẻ lớn lên sẽ không biết, không nhớ những di tích đã bị tiêu diệt. Nhiều thành phố sẽ bị đánh mất ký ức về những kiến trúc, những hàng cây, và khi những người già mất đi, sẽ còn ai nhớ đến chúng. Có chăng chỉ còn là những hình ảnh trên bưu ảnh, trong những cuốn sách ảnh đã ố vàng phủ bụi thời gian.

Nhưng văn chương, hội hoạ, thơ ca, âm nhạc thì không thế. Bởi đó là văn hoá của một vùng đất, là hơi thở của một quãng đời. Nhà thờ, dinh thự, hàng cáy có thể bị đánh mất và lụi tàn trong tâm khảm của nhiều người, nhưng văn hoá thì không. Miền Nam Việt Nam trải qua hai mươi năm chiến tranh và trong khoảng thời gian ấy tồn tại một nền văn hoá văn nghệ không thể phủ nhận. Nó là tiếng nói, là suy nghĩ của một thời đại được phản ánh trong văn học nghệ thuật. Nó mang hơi thở của chiến tranh nhưng đầy ắp tính nhân văn và cũng không thiếu những tình tự dân tộc. Và chính điều đó làm cho nó tồn tại dù đã bị nhiều lần vùi dập.

Tại sao chiến tranh đã chấm dứt gần bốn mươi lăm năm rồi, văn hoá, văn nghệ của miền Nam thất trận vẫn được người dân yêu thích và tán dương. Và không chỉ ở miền Nam, những người đã từng đọc, từng nghe, từng thấy trong suốt cuộc chiến tranh mà cả người miền Bắc sau cuộc chiến cũng bị thu phục. Lúc cuộc chiến đang diễn ra, nhạc đỏ, văn chương, thơ ca của miền Bắc có nhiệm vụ hô hào, kích động và cổ vũ chiến đấu. Khi hoà bình, văn nghệ tung hô lại trở thành lạc lõng, không còn hợp thời và chính điều đó khiến cho những tác phẩm đó không còn được yêu thích và ưa chuộng.

Nó trở thành dĩ vãng, kỷ niệm của một thời đã đi qua. Người ta nhắc lại nó, trình diễn nó trong những buổi lễ kỷ niệm, những lễ lạt. Và chúng không còn khán giả. Tất nhiên khi không còn hoặc quá ít người thưởng thức thì không có nhà đài nào, nhà xuất bản nào trong thời buổi kinh tế như thế này dám dùng nó để kiếm tiền. Bởi văn hoá văn nghệ thời nay cũng chỉ là một cách để kinh doanh. Không ai làm kinh doanh để nhận lấy lỗ trắng tay cả.

Và văn hoá, văn nghệ miền Nam trước 1975, không phải tất cả đều có giá trị, không phải tác phẩm, tác giả nào cũng hay. Thế nhưng đa số nó mang nỗi lòng của con người, của mỗi cá nhân. Nó mang tình cảm thật của một thế hệ, không lên gân, không hô hào. Ca nhạc miền Nam không phải chỉ có nhạc Boléro, phải biết rõ điều đó, chẳng qua là suốt hơn bốn mươi năm, âm nhạc của thời đại không có gì nổi bật để hấp dẫn quần chúng nên họ tìm về cái cũ, cái mang tình người, tính nhân văn, thể hiện được tình cảm của họ. Mà nhạc Boléro của miền Nam đầy ắp điều đó.

Âm nhạc của miền Nam còn có Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, Phạm Thế Mỹ, Anh Việt Thu, Y Vân, Y Vũ, Dương Thiệu Tước, Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Ngô Thuỵ Miên, Hoàng Thi Thơ, Từ Công Phụng, Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Đức Quang, Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Phạm Mạnh Cương, Lê Uyên Phương, Trần Thiện Thanh, Lê Hựu Hà, Nguyễn Trung Cang… và nhiều nhiều nữa không kể hết, nhạc của những nhạc sĩ này đâu chỉ có điệu Boléro, nhưng vẫn là những bài hát tiêu biểu của miền Nam, mang tình tự dân tộc, mang hơi thở cuộc sống và nỗi niềm riêng của mỗi con người về tình yêu, về thân phận, về cuộc đời. Không ai có thể xoá được. Và cũng chẳng thế nào xoá được.

Thế mà ở hội nghị giao ban quý III/2019 của Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật TP.HCM ngày 10/11, nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên nhận định sáng tác văn học, nghệ thuật đang xuống thấp một cách không tưởng và ông phát biểu:

“Giữ chế độ này là giữ thành quả cách mạng, nhưng giờ bỏ qua hết, chạy theo giải trí, game show… Trong khi để kế thừa cái đã có thì làm không tốt, mà lại ca ngợi boléro của chế độ cũ thì chính là ca ngợi luôn đời sống của giai đoạn đó… Cũng từ khi đi vào thị trường, hội nhập, chúng ta lại quên đi biến động vô cùng phức tạp. Chương trình Âm nhạc Việt Nam – Những chặng đường trên VTV không biết chủ trương của Bộ Chính trị hay của ai, vì cái này ca ngợi nhạc của Sài Gòn cũ bằng những lời có cánh”

Đồng thời, Nhạc sĩ Trần Long Ẩn với tư cách Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật TPHCM cũng cho rằng, nói chua cay, mỉa mai như báo chí thì nhạc cách mạng hiện nay gần như đã “rút lui vào hoạt động bí mật”. Các chương trình chính thống muốn lên đài truyền hình vào giờ vàng thì khó lắm.

Cũng theo ông Ẩn, nhạc ca ngợi Việt Nam Cộng hòa mà giờ cũng cho là ca ngợi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì không được: “Chúng tôi đề xuất phải hết sức thận trọng với trang sử đen tối của miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là bị xâm lược. Văn học, nghệ thuật độc hại của nó xuyên tạc đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ở miền Nam và hiện nay không thể tẩy xóa. Vậy mà đồng thời, phong trào cách mạng ở miền Nam trong văn học, nghệ thuật rất dữ dội, rất lớn thì không biểu dương, không tôn vinh, không học tập, không nhân rộng mà lại đòi xóa nhòa không còn khái niệm âm nhạc cũ trước giải phóng nữa”.(Trích báo Phụ Nữ)

Đó là những quan niệm quá lạc hậu và lỗi thời. Và theo ý ông Liên và ông Ẩn thì không nên phổ biến và nên xoá sạch loại văn hoá độc hại của miền Nam trước 1975. Sau 75, chế độ mới đã phát động đốt sạch cái họ gọi là văn hoá đồi truỵ, phản động. Hàng ngàn tấn sách đã bị đốt, nhưng không đốt được văn hoá trong tim của người miền Nam.

Đó là điều bất khả thi, vì những thứ mà các ông cho là độc hại đó là tinh hoa của miền Nam đã thấm đẫm trong lòng người, mà như trên đã nói, có thể xoá bỏ một ngôi chùa, một dinh thự, một con đường, đập phá nát bia mộ, lăng tẩm, chứ không thể xoá bỏ được một nền văn hoá. Người nào kêu gọi và thực thi việc xoá nhoà, tấy sạch một nền văn hoá thì kẻ đó đi ngược lại với lịch sử, là kẻ mọi rợ, là kẻ vô văn hoá. Bỏ quên văn chương nghệ thuật miền Nam trước 1975 trong văn học sử hiện đại đã là một sai lầm, đòi xoá sạch nó lại là một tội lỗi khó bào chữa.

Đã qua rồi thời đốt sách, đã không còn là thời đấu tố, đã không còn có thể cấm hát, cấm đọc. Bởi cấm cũng không được khi lòng người còn luyến tiếc mà chẳng có gì để thế chỗ. Đừng dao to búa lớn làm chi, các ông có những sáng tác hay hơn cái cũ của miền Nam thì tất nhiên cái cũ đấy sẽ bị lãng quên, chẳng cần chi kêu gào xoá sạch làm gì. Nhưng các ông lại không đủ tài năng để làm điều đó.

Saigon.16/11/2019
DODUYNGOC

BÓP CHẾT ƯỚC MƠ

Image may contain: 1 person, sitting and indoor
8 SÀI GÒN

BÓP CHẾT ƯỚC MƠ

PHẠM ĐOAN TRANG

Tôi học cấp III ở Trường PTTH Hà Nội-Amsterdam và tốt nghiệp cử nhân kinh tế Đại học Ngoại thương. Thế hệ của tôi là thế hệ chứng kiến Việt Nam mở cửa; HIV/AIDS tràn vào (1989); tiếng Anh lên ngôi, tiếng Nga thoái trào (đầu những năm 90); Internet vào Việt Nam (1997); báo điện tử xuất hiện (VnExpress 2001); mạng xã hội bùng nổ (Yahoo!360, giữa năm 2005)…

Hơn ai hết, tôi thấy thế hệ của tôi, những bạn bè sống quanh tôi luôn dằn vặt với hai câu hỏi lớn: Đi (du học) hay ở lại Việt Nam? Học xong trở về Việt Nam hay kiếm đường ở lại nước ngoài?

Rất nhiều người đã từng hỏi tôi hai câu ấy. Trong số đó có T. T. Hồng – nếu bạn nào tình cờ xem một kênh truyền hình có tên VietNamNet TV vào những năm 2005-2006 thì có thể còn nhớ cô gái dẫn chương trình có phong cách rất Tây này. Hồng là một biên tập viên truyền hình, một nhà báo có tài, và Hồng từng dằn vặt dữ dội với câu hỏi lớn “Đi hay ở”, “Về hay ở lại”. Khoảng cuối 2006, Hồng nhận được học bổng đi Anh học thạc sĩ, và từ đó cô không trở về Việt Nam nữa; nói đúng hơn, trong mắt tôi, cô chỉ về như một khách trọ, mỗi lần về vài tuần rồi lại bay đi ngay.

Trước khi quyết định tìm đường du học, Hồng từng hỏi tôi hai câu hỏi ấy, và tôi trả lời: “Gì cũng được, nhưng không kỳ vọng, không thất vọng, không nản”.

Tôi nói thế, bởi tôi biết Việt Nam dưới chế độ cộng sản là xứ sở vô địch về bỏ lỡ cơ hội, về vùi dập nhân tài và bóp chết ước mơ của người trẻ.

Tôi biết đã có bao nhiêu thanh niên Việt Nam du học, mê say với những kiến thức mình thu nhận được ở trời Tây, rồi ôm cả một bầu trời mơ ước, hy vọng về Việt Nam, những mong có thể “áp dụng kiến thức mình học được”, “xây dựng lại ngành của mình”, “thay đổi đất nước”…

Tôi biết họ đã vỡ mộng nhanh như thế nào, chỉ sau vài tháng.

Trước Hồng, anh trai tôi, một bác sĩ nhi khoa, trước khi từ châu Âu trở về Việt Nam còn đi mua ít đồ chơi để “về tặng bệnh viện”, vì anh thấy bên đó, các bệnh viện nhi đẹp quá, nhiều đồ chơi cho bệnh nhân quá, như vườn trẻ (điều đó giúp các bé giảm rất nhiều nỗi đau, nỗi sợ). Anh mua cả thùng sách chuyên môn, hàng trăm cuốn, trị giá vài ngàn euro, về nước. Anh ôm một trời khao khát, hy vọng, đam mê nghề…

Tiếc rằng, thực tế Việt Nam không có gì đáp lại tấm lòng của những bác sĩ yêu nghề, yêu con người, như anh. Cũng may, cả anh và T. T. Hồng bạn tôi đều không ai cảm thấy sốc hay đau khổ khi trở về nước, đối diện với thực tế phũ phàng và đáng ngán ngẩm.

Cho nên tôi luôn thấy quan niệm của mình – “gì cũng được, nhưng không kỳ vọng, không thất vọng, không nản” – là một quan niệm đúng, thậm chí còn là một cách để mình tự vệ trong hoàn cảnh Việt Nam.

* * *

Câu chuyện của T. T. Hồng, của anh trai tôi, là vào thập niên 2000. Bây giờ đã là cuối thập niên 2010, và dường như xung quanh tôi, chẳng còn nhiều người dằn vặt vì hai câu hỏi kia nữa. Câu trả lời đã quá rõ ràng, với số đông: Có cơ hội là đi khỏi Việt Nam, và tìm đường ở lại nước ngoài. Đừng về. Về làm gì?

Nhưng so với thập niên trước, thập niên này lại có thêm sự xuất hiện của một “cộng đồng” nho nhỏ, là những nhà hoạt động dân chủ-nhân quyền. Họ ra nước ngoài chủ yếu theo các học bổng ngắn hạn do các tổ chức quốc tế cung cấp, học về xã hội dân sự. Họ không hẳn là du học sinh, theo nghĩa họ không tham gia vào thế giới học thuật, hàn lâm của các trí thức; họ là nhà hoạt động.

Và tôi không biết họ có đối diện với hai câu hỏi lớn kia, như thế hệ của tôi từng dằn vặt không.

Có một điều tôi biết chắc chắn: Việt Nam vẫn không hề thay đổi, Việt Nam vẫn nằm dưới chế độ cộng sản, và vẫn là xứ sở vô địch về bỏ lỡ cơ hội, về vùi dập nhân tài và bóp chết ước mơ của người trẻ.

Đối với những du học sinh tràn đầy tâm huyết trở về năm xưa, thể chế ở Việt Nam dội nước lạnh vào họ, gò nặn cho họ vào guồng, gọt họ tròn như bi, đặt họ đối diện với bao nhiêu thứ tồi tệ và đáng chán nản. Không biết nịnh sếp thì về Việt Nam sẽ biết nịnh. Không biết đấu đá, tranh giành thì về Việt Nam sẽ biết đấu đá, tranh giành. Muốn phục vụ, cống hiến thì về Việt Nam sẽ hết muốn, hết ước mơ luôn.

Đối với những nhà hoạt động trẻ thời nay, tình hình còn thảm hơn. Việt Nam đón nhận họ với hàng chục nhân viên an ninh tại sân bay, câu lưu, thẩm vấn, đe nẹt và không quên dạy đời họ. (Thật khủng khiếp, khi những con ếch ngồi đáy giếng, nhìn thế giới bằng cặp mắt hằn học và “cảnh giác với thế lực thù địch”, lại có thể lải nhải răn dạy những thanh niên yêu nước, đầy nhiệt huyết đổi thay và hội nhập). Và cuộc sống của họ sau đó sẽ là những ngày tháng đối diện với việc bị truy đuổi, mất nhà cửa, thất nghiệp, bị theo dõi, canh giữ, nặng hơn thì bị đánh đập, bắt bớ, tù đày…

Đó là những gì đang và sẽ xảy đến với Đinh Phương Thảo (Thảo Gạo) kể từ hôm nay, 15/11/2019, khi cô trở về nước sau gần bốn năm ở nước ngoài, tham gia vận động nhân quyền cho Việt Nam.

Tôi nhìn thấy tất cả những điều ấy, và bình thản. Nhưng không thể không có chút buồn.

Yêu nước, khao khát thay đổi, dấn thân, cống hiến… để bị chế độ công an trị đối xử như vậy sao?

PHẠM ĐOAN TRANG

“Nếu Cộng sản VN sụp đổ như bức tường Berlin thì Việt Nam mới vươn lên được!”

“Nếu Cộng sản VN sụp đổ như Bức tường Berlin thì Việt Nam mới vươn lên được!”
Hôm 9/11/2019, ông Phạm Xuân Thụy, một người từ Đông sang Tây Berlin, Đức sinh sống 30 năm trước nói về suy nghĩ của mình trong ngày kỷ niệm 30 năm Bức tường Berlin sụp đổ.

https://www.facebook.com/RFAVietnam/videos/746624805811025/?t=67

Bí quyết 90/10: Đừng quên, phản ứng của bạn quyết định đến 90% đối với những gì xảy ra

Bí quyết 90/10: Đừng quên, phản ứng của bạn quyết định đến 90% đối với những gì xảy ra

Chuyện bất ngờ xảy ra chỉ chiếm 10%, quyết định phản ứng của bạn chiếm tới những 90%.

Trên thực tế, 10% cuộc đời là những gì xảy đến đối với bạn, 90% cuộc đời là do những phản ứng của bạn đối với những chuyện xảy ra. Do vậy, cuộc sống của bạn sẽ diễn biến thế nào, phần lớn phụ thuộc vào những phản ứng của chính bản thân bạn.

Để dễ hiểu hơn, hãy lấy một ví dụ chắc chắn đã xảy ra đâu đó ngay xung quanh bạn:

Một buổi sáng thức dậy, bạn đang vui vẻ ăn bữa sáng với gia đình. Bất chợt, con bạn làm đổ ly cà phê lên áo bạn. Chuyện đó xảy ra bất chợt, bạn không kiểm soát được. Ðiều xảy ra tiếp sau đó là phản ứng thuộc quyền quyết định của bạn.

Bạn mắng bé. Cháu phát khóc.

Bạn quay sang trách vợ mình đã đặt tách cà phê quá gần rìa bàn, đã không trông con cẩn thận…vô vàn lý do bạn có thể đưa ra để trách cô ấy. Hai người bắt đầu cãi nhau.

Bạn giận dữ, đùng đùng bước lên lầu thay áo. Khi bạn trở xuống con bạn vẫn còn khóc, chưa ăn xong để đi học. Và bé bị lỡ chuyến xe đưa đón của trường. Vợ bạn dọn dẹp xong phải hối hả đi làm. Bạn đi nhanh ra, đưa con đến trường. Sợ trễ, bạn chạy xe vượt tốc độ cho phép. Sau khi chịu phạt nặng, bạn đưa con tới trường trễ 15 phút.

Con bạn chạy nhanh vào lớp không kịp chào bạn. Bạn đến văn phòng trễ 20 phút, lại thấy mình bỏ quên chiếc cặp ở nhà…

Một ngày của bạn đã bắt đầu thật khủng khiếp. Chuyện càng lúc càng tệ hại tiếp tục xảy ra…

Buổi chiều bạn buồn chán trở về nhà, và chắc chắn hôm nay vợ con không vui vẻ đón mừng mình như ngày hôm trước.

Tại sao bạn có một ngày buồn chán như thế?

-Tại tách cà phê chăng?

-Tại con bạn chăng?

-Hay tại anh cảnh sát đã phạt bạn?

-Hay do chính bạn gây ra đấy chứ?

Câu trả lời đúng, buồn thay lại chính là do bạn. Bạn đã không làm chủ cái 90% thuộc quyền phản ứng của mình. Cách phản ứng của bạn đã tạo nên một ngày buồn cho chính bạn và cả những người quanh bạn.

Bạn cũng đã có thể phản ứng một cách khác.

Khi tách cà phê đổ, cháu bé muốn khóc, bạn đã có thể nói: “Không sao đâu con, lần sau con nên cẩn thận hơn một chút”.

Bạn nhẹ nhàng lên lầu thay áo và mang theo chiếc cặp. Bạn xuống nhà và nhìn thấy vợ bạn đã kịp dọn dẹp xong, con bạn cũng đã dùng xong bữa sáng và chuẩn bị sẵn đồ để vừa kịp vẫy tay chào bạn trước khi lên xe bus đưa đón của trường. Vợ chồng bạn cùng đi làm.

Bạn đến văn phòng sớm năm phút và vui vẻ chào các đồng nghiệp buổi sáng. Có lẽ sếp cũng khen bạn về một ngày làm việc có hiệu quả.

Hãy nhớ rằng phản ứng của bạn rất quan trọng. Chuyện bất ngờ xảy ra chỉ chiếm 10%, quyết định phản ứng của bạn chiếm tới những 90%.

——————–

Gần đây trên mạng xã hội cũng đang lan truyền một câu chuyện cảm động lòng người. Một “lời nói dối ngọt ngào” hay một cách lựa chọn phản ứng của một người đã thay đổi cuộc sống của một người khác.

Ở một thị trấn nhỏ của nước Anh đã xảy ra một vụ cướp ngân hàng, tên cướp không cướp được tiền mà lại bị bao vây chặt bên trong. Hắn ta bắt một em bé 5 tuổi và yêu cầu cảnh sát phải chuẩn bị cho mình một khoản tiền lớn cùng một chiếc ô tô, nếu không hắn sẽ nổ súng giết con tin.

Phía cảnh sát cử một chuyên gia đến đàm phán, tuy nhiên tên cướp vẫn ngoan cố không chịu đầu hàng. Khi thấy tên cướp có ý định giết con tin, tận dụng đúng thời cơ, phía cảnh sát đã nổ súng bắn tỉa, tên cướp kêu lên một tiếng rồi ngã lăn xuống đất. Cậu bé nhìn thấy những vết máu và nghe thấy tiếng súng nên sợ hãi khóc thất thanh. Người đàm phán tranh thủ cơ hội chạy lại ôm cậu bé vào lòng.

Đây có lẽ cũng là câu chuyện xảy ra ở nhiều nơi, và cũng không hiếm người gặp phải. Tuy nhiên, câu chuyện chưa dừng lại ở đây.

Tiếng súng dứt, các hãng thông tin truyền thông cũng vừa kịp kéo đến, đúng lúc đó, mọi người chợt nghe tiếng người đàn ông hô to: “Tốt lắm, diễn tập đến đây là kết thúc!”. Cậu bé nghe xong liền ngừng khóc và hỏi người mẹ vừa kịp chạy đến bên cạnh: “có phải như thế không mẹ?”.

Mẹ cậu bé kìm nén nước mắt và gật đầu. Một viên cảnh sát khác cũng đi đến bên cạnh cậu bé và bình tĩnh khen ngợi: “Cháu diễn tốt lắm, cháu xứng đáng được khen thưởng”.

Những ngày sau đó, giới truyền thông đều im lặng, không ai nói một lời về vụ cướp bởi họ từ hiểu rằng, đó là cách tốt nhất để bảo vệ tâm hồn cậu bé!

Nhiều năm sau, một chàng trai tìm đến gặp người đàm phán năm xưa, hỏi ông: “Tại sao trong lúc ấy, ông lại hô lên như vậy ạ?”.

Ông cười và trả lời: “Khi tiếng súng vang lên, tôi nghĩ rất có thể cậu bé sẽ bị ám ảnh cả đời vì chuyện đáng sợ như thế này. Nhưng khi tôi tới gần cậu bé hơn thì dường như Thượng đế đã gợi ý cho tôi và thế là tôi thốt lên câu “Diễn tập kết thúc!”.

Lúc này, chàng thanh niên bật khóc và ôm chầm lấy ông: “Con chính là đứa trẻ năm xưa đây ạ, con đã bị nói dối suốt 20 năm qua, mãi cho tới gần đây, mẹ của con mới nói rõ sự thật cho con biết. Con cảm ơn bác, cảm ơn bác đã cho con một cuộc đời lành mạnh!”.

Ông nhìn người đàn ông trung niên rồi cười nói: “Con đừng cảm ơn ta! Nếu con muốn cảm ơn thì hãy cảm ơn tất cả những người đã biết chuyện nhưng vẫn sẵn lòng “lừa gạt” con ấy!”.

——————–

Hành động của người cảnh sát đó chính là 90% phản ứng của bạn với việc xảy ra. Vụ cướp, vụ nổ súng chỉ là 10% điều bất chợt xảy đến trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu người đàn ông năm đó không chọn phản ứng đó, mà mọi chuyện rẽ theo hướng khác, ông ôm cậu bé, an ủi rằng không sao, mọi chuyện qua rồi, thì chắc chắn cậu bé sẽ không thoát khỏi ám ảnh, và cuộc sống của cậu bé đã chuyển hoàn toàn sang một hướng khác.

Người đàn ông đã đem lại điều tuyệt vời cho cuộc đời của một đứa trẻ, bảo vệ tâm hồn của cậu bé khỏi những ám ảnh cả đời. 

Hãy nhớ rằng phản ứng của bạn rất quan trọng. Chuyện bất ngờ xảy ra chỉ chiếm 10%, quyết định phản ứng của bạn chiếm tới những 90%.

Hạnh phúc không phải là một vấn đề của số phận. Đó là vấn đề lựa chọn.”

Hạnh phúc không phải là một vấn đề của số phận. Đó là vấn đề lựa chọn.”

 Cuối cùng ông nói:

Hãy thận trọng với suy nghĩ của bạn bởi vì suy nghĩ sẽ trở thành lời nói.

Hãy thận trọng với lời nói của bạn bởi vì lời nói sẽ trở thành hành vi.

Hãy thận trọng với hành vi của bạn bởi vì hành vi sẽ trở thành thói quen

Hãy thận trọng với thói quen của bạn bởi vì thói quen sẽ tạo thành tính cách.

Hãy thận trọng với tính cách của bạn bởi vì nó sẽ tạo thành vận mệnh

và vận mệnh của bạn sẽ chính là cuộc sống của bạn.

Đức Đạt Đai Lạt Ma, trong bài:

(Đối thoại giữa Đạt Lai Lạt Ma và Leonardo Boff)

Cách ứng xử của Đấng Đạo Sư.

Cách ứng xử của Đấng Đạo Sư.

Một hôm, Đức Phật đang ngồi nói chuyện với các môn đồ ở bên  dưới một cái cây to thì đột nhiên có một người đàn ông đi tới và nhổ nước bọt trước mặt Ngài. Song trái lại với mọi dự đoán, Đức Phật vẫn ngồi điềm tĩnh, Ngài chỉ cười nhẹ và hỏi lại người đàn ông một câu: “Điều ông thực sự muốn nói là gì nào?”.

Trong khi đó, các môn đồ của Ngài thì rất tức giận. Môn đồ gần gũi nhất với Đức Phật là Ananda nói: “Thế này là quá lắm. Chúng ta  không thể tha thứ cho hành động vô lễ này. Cần phải trừng trị hắn,  nếu không những kẻ khác sẽ lại bắt chước điều đó”.

Nhưng Đức Phật đã trấn an Ananda: “Con hãy im lặng! Anh ta không khiến ta thấy phiền, nhưng con thì có. Anh ta là một người mới, là người ta không quen biết. Hẳn anh ta đã nghe người khác nói gì đó về ta, rằng ta là một người đạo đức giả, một người nguy hiểm,khiến người ta đi chệch hướng, một kẻ xấu xa. Và có thể trong đầu anh ta đã hình thành một định kiến về ta. Anh ta không nhổ nước bọt vào ta, mà vào hình ảnh mà anh ta nghĩ ra trong đầu.

Anh ta nhổ nước bọt vào hình ảnh đó vì anh ta không hiểu ta. Nếu suy nghĩ kỹ, ngươi sẽ thấy người đàn ông đáng thương này hẳn là có điều gì đó muốn nói, đây là cách anh ta bày tỏ điều đó. Nhổ nước bọt là cách để anh ta nói điều gì đó. Có những lúc, khi ta thấy bất lực với ngôn từ, ta sẽ dùng hành động để biểu đạt. Ta 

có thể hiểu được anh ta. Vì thế, ta mới hỏi anh ta rằng “Điều ông thực sự muốn nói là gì nào?” Ta cảm thấy rất thất vọng, không phải vì anh ta, mà vì các con. Đã đi theo ta nhiều năm như vậy rồi, mà các con vẫn còn có cách phản ứng vội vàng như vậy”.

– Trước phản ứng bất ngờ này, người đàn ông như đứng chết trân  tại chỗ. Anh ta chưa từng gặp chuyện như vậy trong đời. Anh ta đã từng sỉ nhục rất nhiều người, và họ đều phản ứng lại tương tự. 

Với những kẻ hèn nhát và yếu thế, họ cố cười gượng rồi tìm cách  lấy lòng anh ta. Nhưng Đức Phật thì khác. Ngài không tức giận, cũng không cố tỏ ra vui vẻ. Nét mặt của Ngài toát ra sự điềm tĩnh, và Ngài chỉ muốn biết anh ta có muốn nói gì không.

Chẳng biết nói gì nữa, người đàn ông trở về nhà. Tối đó, anh ta không thể ngủ được. Anh ta bị ám ảnh bởi những gì đã diễn ra. 

Anh ta không thể giải thích cho bản thân chuyện đã xảy ra. Anh ta  run rẩy, người vã ra đầy mồ hôi. Anh ta chưa từng gặp ai như vậy. Đức Phật đã khiến cho thứ tâm trí rối bời, đen tối, đầy oán hận cũng như toàn bộ quá khứ của anh ta như bị vỡ vụn thành trăm mảnh.

Sáng hôm sau, người đàn ông quay trở lại, phủ phục dưới chân  Đức Phật. Đức Phật ân cần hỏi anh ta: “Sao nào? Đây cũng là một cách nói điều gì đó. Khi ông đến phủ phục dưới chân ta, ông đang muốn gián tiếp nói một điều gì đó mà ngôn từ dường như bất lực?”

Rồi, Đức Phật nhìn sang Ananda: “Ananda, người đàn ông này lại tới, anh ta đang nói điều gì đó. Anh ta là một người đang chất chứa rất nhiều cảm xúc”.

Người đàn ông ngẩng đầu lên nhìn Đức Phật rồi nói: “Xin Ngài hãy tha thứ cho những gì.. con đã làm hôm qua”. 

Đức Phật hỏi lại: “Tha thứ điều gì? Nhưng ta đâu phải là người mà ngươi đã sỉ nhục. Sông Hằng luôn chảy không ngừng, sông Hằng của hôm nay đâu phải sông Hằng của hôm qua. Mỗi người đều là một dòng sông. Người bị ông sỉ nhục đã không còn ở đây. Ta chỉ giống người đó thôi, chứ không phải ông ta. Trong 24 giờ 

đồng hồ, có rất nhiều chuyện xảy ra. Vì thế, ta không thể tha thứ cho ngươi, vì ta không có gì oán hận ngươi cả. Và ngoài ra, ngươi cũng không phải là người đàn ông hôm qua tới đây. Vì anh ta lúc đó rất giận dữ, anh ta khạc nhổ vào ta, còn ngươi thì phủ phục dưới chân ta. Sao 2 người các ngươi lại là một được? Vì thế, 

hãy quên chuyện đó đi. Hãy tới gần ta hơn và nói về chuyện khác”.

Suy Nghiệm: 

Là một trong số những giai thoại về Đức Phật được nhiều người kể lại, câu chuyện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng và to lớn trong việc giáo dục cách ứng xử giữa con người với con người.

Thông thường, người ta dễ dàng tha thứ cho bản thân, nhưng lại hà khắc trước những sai sót của người khác. Khi bản thân gặp chuyện không vui, người ta cho phép mình hành động bất cẩn, thậm chí gây tổn thương cho người khác.

Nhưng nếu là nạn nhân, họ lại tỏ ra tức giận và khó tha thứ cho kẻ đã gây ra của những hành động ấy. Song, theo như lời Đức Phật nói, ai cũng là một dòng sông, ai cũng có những khúc mắc, những câu chuyện, những nỗi đau riêng không dễ gì chia sẻ được với người khác, và sẽ có lúc không tránh khỏi việc vô tình, hoặc cố ý làm người khác tổn thương.

Việc phản ứng lại một cách gay gắt không những không giải quyết được vấn đề, mà còn làm mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc, khó hòa giải. Hiểu được điều này, giữ được sự bình tĩnh, bỏ qua được bề nổi của sự việc, tìm hiểu nguồn cơn không chỉ là một cách làm thông minh, giúp giải quyết tận gốc vấn đề, mà còn

 giúp ta nhận được SỰ TÔN TRỌNG từ người khác. Đó mới chính là phần thưởng vô giá.

Ngoài ra, câu chuyện cũng bao gồm một ngụ ý mang tính triết học:

 Mỗi con người là một dòng sông. Ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai, ta đều là những con người khác nhau. Hãy để những phiền muộn, những sai lầm theo những dòng chảy, trôi về quá khứ. Đừng mãi ám ảnh bởi những gì đã xảy ra, đừng sợ sự thay đổi, mà hãy luôn ngẩng cao đầu, đối diện và hướng tới những thay đổi tích cực ở phía trước. 

 From: Ansong Hoàng

*Cảm thông, yêu thương và tha thứ (tha thứ 70 lần 7)

 Bấy giờ, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không? “Đức Giê-su đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18,21-22)

Thêm lời bình của BBT

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ!

GIÁ TRỊ CỦA NHỮNG NGƯỜI MẸ!

Tục ngữ Do Thái có câu: “Thiên Chúa không thể ở mọi nơi, nên Ngài đã tạo dựng những người mẹ” (God could not be everywhere, so He made mothers). Đây là tình cảm lâu dài và tốt đẹp. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng nhờ đảo ngược câu nói mà chúng ta đến gần chân lý hơn: “Thiên Chúa có thể ở mọi nơi và chứng tỏ điều đó bằng cách tạo dựng những người mẹ” (God could be everywhere and proved it by creating mothers). Hình ảnh này phù hợp với nhận xét của tiểu thuyết gia Hoa Kỳ William Makepeace Thackeray, trong cuốn Vanity Fair (Hội chợ Phù phiếm): “Mẹ là danh xưng đối với Thiên Chúa trên những đôi môi và trong những trái tim của những người con bé bỏng.”

   Người mẹ không thể thay thế Thiên Chúa, nhưng hành động như người trung gian chuyển lòng nhân từ của Thiên Chúa sang những người khác. Dĩ nhiên, người ta có thể phản bác rằng người cha cũng làm điều này. Điều này đủ mức thật. Nhưng có điều gì đó trong đặc quyền về cách thức mà người mẹ bộc lộ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Theo cách mầu nhiệm nào đó, điều đó như thể người mẹ có được vậy, một kinh nghiệm đối diện của Thiên Chúa.  Điều này có thể đáng hoan nghênh hơn nếu chúng ta hiểu vai trò của Đức Mẹ là nguyên mẫu tâm linh của mọi người mẹ.

Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nhận xét về Đức Mẹ “Mẹ giữ trong lòng bí mật làm Mẹ Thiên Chúa, là người đầu tiên được thấy Thiên-Chúa-làm-người, hoa trái của lòng mẹ.”  Khái niệm về việc Đức Mẹ là người trần tục đầu tiên Mary thấy Thiên Chúa vừa gây ngạc nhiên vừa soi sáng. Là mẫu gương của những người mẹ, kinh nghiệm này gồm cả bản chất làm mẹ và mẫu gương của các phụ nữ đã từng sinh con.

   Nếu ông bà nguyên tổ coi Thiên Chúa là Cha nghiêm khắc theo cách nào đó, thì các thế hệ đều tôn kính Đức Mẹ là người hiền từ và dễ gần gũi.  Nathaniel Hawthorne bày tỏ tình cảm này đẹp hơn trong cuốn Blithedale Romance khi ông viết: “Tôi luôn ganh tỵ với người Công Giáo về Đức Tin của họ nơi Đức Trinh Nữ thánh thiện và ngọt ngào, Đức Mẹ đứng ở giữa họ và Thiên Chúa, che chắn sự chói lọi uy nghiêm của Ngài, nhưng cho phép Tình Yêu Chúa tuôn đổ trên người thờ kính theo cách hiểu của con người qua vị trung gian của sự dịu dàng nữ tính.”

   Thánh Augustinô nói rằng sự dịu dàng từ mẫu đặc biệt này có thể thấy ngay ở những con thú hung dữ – như người Việt nói: “Cọp dữ không ăn thịt con.”  Ông nhận xét trong The City of God (Thành phố của Thiên Chúa): “Có con cọp cái nào không thương và không vuốt ve con nó?” Ngược với câu tục ngữ Do Thái nói ở trên, chúng ta có thể ám chỉ câu tục ngữ Tây Ban Nha: “An ounce of mother is worth a ton of priests” (Tạm dịch: “Một lạng người mẹ đáng một tấn linh mục”).

   Khái niệm về “sự nhiệt thành” đã thôi miên người Hy Lạp cổ đại. Thế giới không thể là một nơi, như Democritus ước đoán, không có gì hơn một số nguyên tử không thể đếm xuất hiện trong rất nhiều hình thể.  Nghĩa là có thể tính toán đối với sự nhiệt thành tìm được sự hưng phấn và niềm vui trong kinh nghiệm sống bằng cách nào?  Sự hưng phấn là hoạt động tâm linh không thể giải thích bằng vật chất.  Người ta đã nghi ngờ nhiều thứ: nhân đức, chân lý, kiến thức, và ngay cả tình yêu.  Nhưng không ai có thể nghi ngờ thực tế khả nghiệm của sự hăng hái.  Thế giới hiện đại của chúng ta vẫn liên kết với sự thấu hiểu này của người Hy Lạp cổ đại.  Từ ngữ “sự nhiệt thành” theo tiếng Hy Lạp là enthusiasmos, được rút từ chữ entheos có nghĩa là “được Thiên Chúa sở hữu” hoặc “được Thiên Chúa linh ứng.”  Người Hy Lạp tin rằng một người có thể hít thở bằng cuộc sống của Thiên Chúa, người đó có thể là người đem đến tinh thần của Ngài.  Họ tin rằng con người có thể là “bình chứa” đối với Thiên Chúa.  Một trong những từ đối với sự sống là zoe, không ám chỉ sự sống rộn ràng trong mỗi người, mà nói đến sự sống có thể được chia sẻ với người khác. Khái niệm này về sự sống là nền tảng không thể thiếu đối với khái niệm của Kitô giáo về sự sống của Thiên Chúa, hoặc ân sủng, điều có thể chia sẻ trong chúng ta, và với Mẹ Maria và những người mẹ theo cách đặc biệt.  Đời sống của Đức Mẹ với Chúa Con là sự sống cao tới mức ưu việt.

    Hồng Y Joszef Mindszenty, người can đảm bảo vệ Giáo Hội trong thời gian cộng sản chiếm lĩnh Hungary, đã dành tình cảm mạnh mẽ với cương vị người mẹ.  Trong cuốn The Mother (Người Mẹ), ngài viết hùng hồn bày tỏ lòng tôn kính những người mẹ, nhấn mạnh sự gần gũi của họ đối với Thiên Chúa:

 “Người quan trọng nhất trên thế gian này là người mẹ.  Bà không thể đòi hỏi lòng tôn kính của việc xây dụng Nhà Thờ Đức Bà.  Bà không cần.  Bà đã xây dựng cái gì đó quan trọng hơn bất cứ Nhà Thờ nào – sự cư ngụ đối với một linh hồn bất tử, sự hoàn hảo gọn gàng của cơ thể đứa trẻ.  Các thiên thần không được chúc lành bằng ân sủng như vậy.  Các thiên thần không thể chia sẻ phép mầu sáng tạo của Thiên Chúa là đưa những vị Thánh mới vào Thiên Quốc.  Chỉ có người mẹ khả thi.  Những người mẹ gần gũi với Thiên Chúa Tạo Hóa hơn bất cứ sinh vật nào, Thiên Chúa liên kết các sức mạnh với những người mẹ trong việc sáng tạo.  Còn gì vinh quang hơn là được làm mẹ?”

Donald Demarco,
bản dịch của Trầm Thiên Thu

từ IntegratedCatholicLife.org From: Nguyen Kim Bang

Bạo lực và khủng bố dưới thời Stalin

Bạo lực và khủng bố dưới thời Stalin

Nguồn: Jonathan Brent, The Order of Lenin: ‘Find Some Truly Hard People’, The New York Times, 22/05/2017

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

“Lưu trữ là sức mạnh,” Kirill Mikhailovich Anderson, cựu giám đốc Cục Lưu trữ Lịch sử Chính trị – Xã hội Quốc gia Nga tại Moskva, đã từng nói với tôi như vậy. Ông kể về vị giám đốc đầu tiên của Viện Marx-Engels (thành lập năm 1919): Là một người Bolshevik cũ, David Riazanov gần như không thể kiên nhẫn được với các viên chức Đảng Cộng sản – những người liên tục yêu cầu các văn kiện hoặc để khẳng định lập trường ý thức hệ hoặc để bôi nhọ kẻ thù.

Một ngày nọ, ông lấy ra một lá thư của Karl Marx, ve vẩy nó trước mặt một lãnh đạo và hét lên: “Marx của ông đây. Giờ thì biến đi!” Riazanov chạy trốn khỏi Stalin vào năm 1931, nhưng đã bị bắt vào năm 1937 và bị hành quyết một năm sau đó.

Giống như hàng ngàn nhà xuất bản, nhà nghiên cứu và nhà báo nước ngoài khác – những người lũ lượt tới Moskva vào tháng 01/1992, tôi đã tìm đến kho lưu trữ nhà nước sau khi Boris Yeltsin tuyên bố vào tháng 12/1991 rằng ông sẽ cho mở cửa các kho lưu trữ bí mật của Liên Xô. (Tôi là đại diện của Nhà xuất bản Đại học Yale/ Yale University Press.) Sức mạnh mà Anderson nói đến quả thực hiện diện sống động ở đó.

Khám phá tại những kho lưu trữ này đã làm thay đổi hoàn toàn nhiều sự kiện lịch sử tiêu biểu của Chiến tranh Lạnh như: gián điệp trong Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, Đại Thanh trừng (Great Terror) của Stalin, số phận của các nhà văn và nghệ sĩ, và nhiều sự kiện khác. Đối với vài người, phát hiện mới này giúp khẳng định quan điểm trước đó của họ; còn với những kẻ khác, nó làm xáo động niềm tin vốn đã được khắc sâu. Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất [của nó] chắc chắn là làm sâu sắc hơn và tạo nên những góc nhìn đa chiều về sự phức tạp của hiện tượng chủ nghĩa cộng sản Liên Xô và tính cách của Joseph Stalin.

Tôi đã từng hỏi một nhà sử học người Nga rằng liệu chúng ta có thể nghiên cứu “đến tận đáy” các hồ sơ lưu trữ của K.G.B., cơ quan mật vụ Liên Xô, về một chủ đề cụ thể hay không. “Dĩ nhiên,” ông đáp đầy khéo léo. “Nhưng K.G.B. có nhiều đáy lắm.”

Một trong những vấn đề tăm tối nhất liên quan đến bản chất và nguyên nhân hành động khủng bố của Stalin, và câu hỏi liệu rằng Stalin có vi phạm chính sách của Lenin hay chỉ là đang tiếp nối nó. Đằng sau đó chính là câu hỏi về việc thể chế hoá bạo lực trong nền văn hoá Bolshevik và nhà nước Liên Xô.

Dù sự chấp nhận phổ biến đối với việc sử dụng bạo lực chính trị đã sớm được thiết lập trong phong trào cách mạng Nga – ngay từ thời bản tuyên ngôn năm 1869 của Sergey Nechayev về “Giáo lý của Một Nhà Cách mạng” (Catechism of a Revolutionary) – nhưng chính sách của Lenin và Đảng Bolshevik lúc đầu không dựa vào khủng bố. Tuy nhiên, các điều kiện khắc nghiệt của cuộc nội chiến 1917 – 1922, trong đó bảy triệu người đã thiệt mạng, cùng với việc xuất hiện các chính sách kinh tế tàn nhẫn của Lenin, đã dẫn đến cảnh khốn cùng và tuyệt vọng của hàng triệu người khi thấy mình chẳng còn lương thực, sinh kế, nơi ở và an ninh.

Cuộc nổi dậy hàng loạt của nông dân bắt nguồn từ các quy định hà khắc của nhà nước Liên Xô trong việc thu mua ngũ cốc. Chế độ Bolshevik non trẻ cần ngũ cốc để ngăn chặn nạn đói ở các thành phố, và khi không thấy có lựa chọn nào khác, Lenin đã ban hành mệnh lệnh này vào tháng 08/1918, mà sau đó được phát hiện trong một kho lưu trữ bí mật: “Hãy treo cổ (không được giấu diếm, phải làm công khai để mọi người đều thấy) ít nhất 100 địa chủ, nhà giàu, những kẻ hút máu dân.” “Công khai tên của chúng,” ông chỉ định. “Lấy hết ngũ cốc của chúng. Chỉ định ai sẽ làm con tin.”

“Hãy làm việc này theo cách để hàng trăm người xung quanh phải nhìn thấy, run rẩy, thừa nhận, thét lên,” ông tiếp tục, rằng những người Bolshevik “đang siết cổ, bóp chết bọn địa chủ hút máu người.”

Ông kết thúc bản ghi nhớ khủng khiếp bằng chỉ thị: “Hãy tìm những người thực sự khét tiếng”

Một tháng sau, ông ra lệnh: “Cần phải giữ bí mật – và khẩn trương – chuẩn bị đợt khủng bố.”

Lenin sử dụng khủng bố để chống lại những kẻ thù được thừa nhận của nhà nước. Stalin lại dùng nó để chống lại các thể chế của nhà nước và bản thân xã hội Liên Xô. Stalin đi theo Lenin, nhưng đã vượt qua ông.

Ngày 07/11/1937, ngày kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, bài phát biểu của Stalin tại cuộc họp gồm các nhà lãnh đạo Bộ Chính trị đã được đảng viên Cộng sản Bulgaria và lãnh đạo Tổ chức Comintern, Georgi Dimitrov, ghi lại trong cuốn nhật ký được xuất bản của ông.

“Tôi muốn nói vài lời, có lẽ không được vui cho lắm.” Stalin nói. “Các Sa hoàng đã làm rất nhiều điều xấu. Họ cướp bóc và biến dân chúng thành nô lệ. Nhưng họ đã làm một điều tốt. Họ đã xây dựng được một đất nước to lớn, kéo dài đến tận Kamchatka. Chúng ta đã được thừa hưởng đất nước đó.”

Ông nói tiếp: “Chúng ta đã thống nhất đất nước theo cái cách mà nếu một phần nào đó bị cô lập khỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa chung, thì nó sẽ không chỉ gây ra thiệt hại cho nhà nước, mà còn không thể tồn tại một cách độc lập và chắc chắn sẽ rơi vào tình trạng nô lệ cho nước ngoài. Vì vậy, bất cứ ai cố gắng hủy hoại sự thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bất cứ ai tìm cách tách rời bất kỳ phần nào của nó – thì hắn là kẻ thù, một kẻ thù công khai của nhà nước và của các dân tộc thuộc Liên bang Xô viết. Và chúng ta sẽ hủy diệt từng kẻ thù như thế, ngay cả khi hắn là một thành viên Bolshevik cũ; chúng ta sẽ giết tất cả họ hàng, gia đình của hắn. Chúng ta sẽ tàn nhẫn hủy diệt bất cứ ai, nếu hành động hay tư tưởng của hắn – đúng, tư tưởng của hắn – đe dọa sự thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hãy nâng ly vì sự hủy diệt hoàn toàn tất cả các kẻ thù và họ hàng của chúng!”

Lúc đó, các thành viên Bộ Chính trị đã lên tiếng ủng hộ: “Hãy nâng ly vì Stalin vĩ đại!”

Tính đến thời điểm ấy, những kẻ thù trong nước của chế độ Bolshevik đã bị loại bỏ, bao gồm cả những nông dân cứng đầu đã chết trong nạn đói năm 1932 – 1933. Đại hội Đảng lần thứ 17 (1934) đã được tung hô là “Đại hội của những người chiến thắng,” và Andrei Zhdanov, đảng viên đại diện vùng Leningrad và một người yêu thích Stalin, có thể tự tin tuyên bố tại Đại hội Hội Nhà văn Xô viết trong năm đó rằng “những khó khăn lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã bị vượt qua.”

Nghịch lý là, Stalin đã tiến hành Đại Thanh trừng vào năm 1936, trong thời điểm tương đối hòa bình và ổn định. Hàng loạt kẻ thù đột nhiên xuất hiện trong xã hội Liên Xô là do tưởng tượng nên. Hàng triệu người vô tội đã bị bắt giữ, tra tấn và bắn chết, chẳng hề có bằng chứng, nhưng chỉ dựa theo quota mà Kremlin chỉ thị. Stalin đã không nói dối: Đúng là “bất cứ ai” cũng có thể phạm tội.

Nikolai Bukharin, cựu lãnh đạo Bolshevik và biên tập của tờ Pravda, đã trở thành một trong những kẻ thù: bị bắt vào tháng 02/1937 và bị hành quyết vào tháng 03/1938. Bức thư ông viết cho Stalin từ nhà tù, vào ngày 10/12/1937, là một bức thư run rẩy và đáng thương từ một người đàn ông biết chắc chắn mình sẽ chết. Nhưng ngạc nhiên thay, ông không chỉ khẳng định những lời Stalin nói với Bộ Chính trị cách đây vài tháng, mà còn thừa nhận vai trò của mình trong việc tạo ra cỗ máy mà giờ đây khiến ông mắc kẹt trong tuốc-bin của nó.

“Có điều gì đó vĩ đại và táo bạo trong ý tưởng chính trị của một cuộc thanh trừng hàng loạt,” ông viết. “Việc thanh trừng này này bao gồm 1) kẻ tội đồ; 2) người bị nghi ngờ; và 3) những người có khả năng bị nghi ngờ. Hành động này không thể được thực hiện mà không có tôi.”

Nhà nước độc tài mà Bukharin hình dung là nhà nước dựa trên một trạng thái bất ổn lâu dài, trong đó hỗn loạn và sợ hãi là những thành phần thiết yếu của chính phủ. Nhà văn Lydia Chukovskaya đã miêu tả nỗi sợ hãi vốn là cốt lõi của thế giới đảo ngược này trong tiểu thuyết tuyệt vọng năm 1939, “Sofia Petrovna”, vốn không được xuất bản ở Liên Xô mãi cho đến cuối thập niên 1980. Nhân vật nữ chính trong tác phẩm “giờ đây khiếp sợ mọi người và mọi thứ,” Chukovskaya viết. “Có lẽ họ đã đưa cô ta đến đồn cảnh sát, tước mất hộ chiếu và đẩy cô vào cảnh lưu đày? Cô sợ hãi từng tiếng chuông kêu.”

Xóa bỏ trật tự xã hội, xem thường các quy định của pháp luật, truyền nỗi sợ vào sâu trong ý thức cá nhân và gieo mầm sự hồ nghi là điều cần thiết cho mục tiêu của Stalin, nhằm loại bỏ bất cứ mối đe dọa nào đối với quyền lực tuyệt đối của ông. Stalin không chỉ dùng Đại Thanh trừng để loại trừ những người có thể trở thành đối thủ trong đảng, mà còn gửi đi một tín hiệu không thể nhầm lẫn cho cả nước: Nếu Bukharin, Lev Kamenev và Grigory Zinoviev còn có thể có tội, thì mọi người đều bị nghi ngờ.

Một câu chuyện kể rằng Stalin đã giữ bức thư của Bukharin trong ngăn kéo trên cùng ở bàn làm việc của mình, nơi nó được phát hiện sau cái chết của ông, nhưng chỉ được xuất bản sau khi Liên Xô tan rã.

Thế chiến II kết thúc, đất nước giành được chiến thắng tuyệt vời trước Hitler, tuy nhiên, Stalin lại nhận ra rằng khi sự suy giảm về thể chất của ông xuất hiện, thì quyền lực cá nhân của ông cũng bắt đầu suy giảm. Phản ứng của ông là chuẩn bị một đợt thanh trừng thứ hai.

Một lần nữa, không ai được an toàn. Stalin giận dữ vì Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov đã cho phép xuất bản đầy đủ bài phát biểu của Winston Churchill trên tờ Pravda. Molotov đã không nhận ra kẻ thù của họ. Ngoài ra còn có Zhdanov, khi ấy đang là một trong những thành viên quyền lực nhất của Bộ Chính trị, cũng bị Stalin oán giận khi con trai ông, Yuri, người đứng đầu bộ phận khoa học của Uỷ ban Trung ương, cho tổ chức một cuộc hội thảo kín để thảo luận về công trình của nhà nông học “rởm” T. D. Lysenko, một nhân vật giống như Rasputin trong chính quyền Stalin.

Stalin đã trả thù bằng cách quen thuộc: dùng tra tấn thể xác như là một phương pháp đối phó với kẻ thù chính trị; lan truyền sự hoang tưởng, sợ hãi và hồ nghi trong xã hội; bịa đặt ra kẻ thù; và tự cho mình là nhà lãnh đạo có khả năng duy nhất trong những thời điểm khó khăn như vậy. Bằng cách thao túng, lập mạng lưới bảo trợ, sự tàn bạo và lén lút, Stalin tiếp tục tiến hành cuộc tấn công vào chính đất nước mình. Quyền lực của ông nằm bên ngoài cấu trúc chính thức của nó, và trong giai đoạn cuối cùng của chế độ độc tài Stalin, khủng bố lên đến đỉnh điểm sau vụ “Âm mưu của các Bác sĩ” năm 1953, một cuộc khủng hoảng được bịa ra, trong đó các bác sĩ Do Thái nổi tiếng bị buộc tội âm mưu chống lại lãnh đạo Liên Xô. Tiếp nối những lời đe dọa mà ông thốt ra trong bài phát biểu năm 1937, âm mưu mới này chứa đựng những hạt giống tai họa thậm chí còn lớn hơn do sự xuất hiện của Chiến tranh Lạnh.

Khi Molotov không tìm thấy tên mình trong danh sách những người được cho là mục tiêu ám sát của các bác sĩ Do Thái, ông biết mình đã bị đánh dấu trong danh sách bị khử trừ. Nhưng không chỉ có mình ông. Anastas Mikoyan, Kliment Voroshilov và nhiều cấp dưới khác của Stalin lo ngại ngày tàn của họ đã đến. Năm 1952, khi Bộ trưởng An ninh Semyon Ignatiev không thể tạo ra các bằng chứng giả cho vụ các bác sĩ Do Thái đủ nhanh, Stalin đã đe dọa sẽ làm giảm chiều cao của ông “bằng một cái đầu.”

“Đánh chúng, đánh chúng, đánh chúng bằng những cú đánh chết người,” ông hét vào mặt vị lãnh đạo an ninh. Ignatiev nhanh chóng bị trụy tim và được đưa ra khỏi văn phòng.

“Hãy nhìn lại các cậu đi,” ông nói với một nhóm cộng sự thân cận của mình vào tháng 12 năm đó, “bọn mù, lũ mèo con, các cậu không nhìn thấy kẻ thù; các cậu sẽ làm gì nếu không có tôi? – Đất nước này sẽ bị diệt vong bởi vì các cậu không nhìn thấy kẻ thù.”

Chỉ có ông, Stalin, mới có thể lãnh đạo đất nước, bởi vì chỉ có ông, Stalin, mới có thể nhìn thấy kẻ thù. Chỉ có cái chết của Stalin, vào tháng 03/1953, mới cứu được nhiều người khỏi bị hủy diệt – và có lẽ là cứu cả thế giới. Năm tháng sau, Liên Xô cho nổ quả bom hydro đầu tiên của họ.

Jonathan Brent, người khởi xướng loạt ấn phẩm Annals of Communism tại Yale University Press và từng nghiên cứu kho lưu trữ Liên Xô trong giai đoạn 1992-2009, hiện đang là giám đốc điều hành Viện YIVO về Nghiên cứu Do thái và giảng dạy tại Đại học Bard.

Hình: Các đại biểu dự Đại hội 16 Đảng Cộng sản Nga. Những người bị bôi mờ là nạn nhân của đàn áp chính trị dưới thời Stalin.