ĐTC Phanxicô – Thái Lan – ĐTC chính thức đặt chân đến Thái Lan
httpv://www.youtube.com/watch?v=lKWXCZQPG_Y
ĐTC Phanxicô – Thái Lan – ĐTC chính thức đặt chân đến Thái Lan
Tiền làm sao mua được đạo đức?
Tiền làm sao mua được đạo đức?
Cánh Cò (Blog RFA)

“Không thể xử lý được sự xuống cấp đạo đức vì thiếu kinh phí” là nguyên văn câu nói của ông Bộ Trưởng Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch Nguyễn Ngọc Thiện khi bị đại biểu Đinh Thị Kiều Trinh (Nghệ An) vặn hỏi về trách nhiệm và giải pháp hạn chế sự xuống cấp của đạo đức lối sống. Câu trả lời của ông Thiện ngay lập tức bị phản ứng dữ dội từ mạng xã hội và cùng với một vài sự kiện đang nóng, câu nói trở thành một thứ thiếu văn hóa điển hình của một ông bộ trưởng Văn Hóa.
Bởi vì đạo đức không thể dùng tiền mà xây dựng được. Nó chỉ hình thành từ nhiều năm tháng bồi đắp và kiến tạo của toàn xã hội mà điểm xuất phát là môi trường giáo dục. Chính từ mái trường từ lúc ấu thơ con người được bồi dưỡng đạo đức song song với những bài học từ gia đình, xã hội mà đạo đức được nuôi lớn. Mái trường cùng với mái ấm gia đình là nơi không thể thiếu cho hành vi đạo đức của con người.
Câu trả lời là có và không. “Có” nếu người ấy may mắn sống trong hoàn cảnh bụi đời nhưng chung quanh là một cộng đồng tốt, biết che chở giúp đỡ lẫn nhau để sống thì cá nhân của họ có cơ may trở thành người tốt, bằng ngược lại nếu cá nhân ấy được nuôi lớn bằng những đồng tiền máu thì tâm lý sống còn sẽ khiến người ấy trở thành vô đạo đức một cách chắc chắn.
Câu hỏi của đại biểu Đinh Thị Kiều Trinh không phù hợp với vai trò ông Bộ Trưởng Nguyễn Ngọc Thiện bởi vì không thể quy trách nhiệm giữ gìn hay phát triển đạo đức cho một con người, bất kể người ấy là ai. Bởi vì cơ quan mà ông Thiện lãnh đạo không có hai chữ đạo đức trong đó.
Cũng vì bị hỏi quẩn nên ông Thiện trả lời cũng quẩn quanh theo. Ông Thiện cho biết: “Bộ của ông đã tham mưu và trung ương đã ban hành Nghị Quyết 33 xây dựng và phát triển văn hóa con người vào năm 2014. Sau khi có nghị quyết đã triển khai tổ chức thực hiện. Trong 2 năm qua, bộ đã ban hành nhiều nghị định liên quan đến chấn chỉnh quản lý lễ hội, xét danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa, ấp văn hóa và tổ chức hội nghị sau 18 năm để tổng kết công trình toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa.”
Đọc cả đoạn văn này không thể phát hiện ra đạo đức nằm ở đâu trong lễ hội, làng văn hóa, ấp văn hóa hay gia đình văn hóa như ông Thiện nói. Tất cả những gì ông Thiện nêu lên đều cần tiền để xây dựng vì vậy ông đánh đồng với việc bảo vệ đạo đức cũng bằng tiền chăng?
Những cái bên ngoài hào nhoáng được gọi là “văn hóa” ấy đã góp phần gây thương tổn cho đạo đức xã hội một cách khốc liệt. Nó bị nhào nặn lên thành một thứ bái vật mà cán bộ đảng viên thi nhau quỳ mọp trước chúng để tôn vinh một thứ tôn giáo do đảng đẻ ra để tiêu diệt mầm mống còn sót lại của đạo đức xã hội. “Xét danh hiệu gia đình văn hóa, làng văn hóa, ấp văn hóa” là cách hành xử vô đạo đức nhất của giới chức chính quyền cấp cơ sở. Những cán bộ này tô vẽ mô hình văn hóa của cộng đồng như một thứ thành tựu hiếm quý của người dân để họ tự hào và sẵn sàng bỏ tiền ra mua những thứ “Xét danh hiệu” một cách tự nguyện. Xã hội biết rất rõ nơi nào có những danh hiệu này thì y như rằng nơi đó là ổ chứa cờ bạc, mại dâm, sổ đề, hay tệ lắm cũng là cho vay nặng lãi.
Ông Thiện cho rằng chấn chỉnh những lễ hội là chấn chỉnh đạo đức! Ông đã ngộ nhận một cách thảm hại. Lễ hội không bao giờ là bộ mặt của đạo đức. Nó là đám đông, là sự hưng phấn tích hợp và bùng vỡ khi cao trào đến. Trong đám đông là phản xạ và hành vi đạo đức khó xuất hiện kể cả với những người đạo đức nhất.
Cho dù được cung cấp hàng ngàn tỉ thì ông Thiện cũng không thể nào làm cho người dân bỏ thói giết những kẻ trộm chó đáng thương. Hành vi giết người tập thể này là sự xuống cấp đạo đức kinh hoàng nhất chỉ có ở miền Trung Việt Nam. Công an tiếp tay cho sự xuống cấp này bằng cách làm ngơ và lu loa, qua quít khi bất đắc dĩ phải thụ lý vụ án. Bao nhiêu tiền để thúc đẩy bộ máy công an làm việc thưa ông bộ trưởng?
Cho dù được cung cấp hàng ngàn tỉ thì ông bộ trưởng cũng không thể làm cho các cháu gái bỏ thói tụ tập phe nhóm hành hung bạn cùng lớp của mình rồi quay clip tung lên mạng như một thứ chiến công.
Cho dù được cung cấp hàng ngàn tỉ thì ông bộ trưởng cũng không thể làm cho những hình ảnh mà các bạn trẻ trong Đoàn Thanh Niên Cộng Sản, bộ đội hay những học sinh trung học đang thực hiện trong những trò chơi mà khi nhìn vào kể cả các cô gái làm tiền, bán thân nuôi miệng cũng phải đỏ mặt. Trong các trò chơi đó nam thì mang trái dưa chuột ngay trước cơ quan sinh dục để một bạn nữ bị bịt mắt ngậm lấy trái dưa một cách thích thú. Còn các bạn nam thì phấn khích ôm lưng các bạn nữ thể hiện hình ảnh của một chú chó đực đang cố gắng phủ nọc với một con chó cái từ phía sau. Những hình ảnh ấy đầy trên mạng xã hội và chưa có ai điều tra tại sao nó lại vô đạo đức đến như vậy nhưng vẫn được đảng và chính phủ khuyến khích ưu ái.
Cho dù được cấp hàng ngàn tỉ thì ông bộ trưởng cũng không thể níu kéo cái đạo đức đã rụi tàn khi thầy giáo 55 tuổi làm nữ sinh lớp 10 mang bầu tại một huyện vốn nổi tiếng trong thời gian sau giải phóng, đó là huyện Hòn Đất. Người được xã hội biết đến là ông Nguyễn Văn Chính, sau khi bị tố cáo ông này đã có bản tường trình, thừa nhận mình có quan hệ tình cảm và quan hệ tình dục với em Th. từ Tháng Năm, 2018. Căn cứ theo giấy khai sinh và chứng minh nhân dân thì Trần Hồng Th. sinh ngày 31 Tháng Mười Hai, 2002, tức chưa đủ 16 tuổi tại thời điểm có quan hệ tình dục với ông Chính.
Nhưng bi đát nhất vẫn là sự tồn tại khái niệm đạo đức bị con thò lò chính trị khống chế không có cơ hội phát triển ngay trong nhóm lãnh tụ cao nhất.
Làm sao ông bộ trưởng lại có thể dùng tiển để khuyến khích các ông Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Xuân Phúc hay bà Nguyễn Thị Kim Ngân, những người chủ của ông hành xử một cách đạo đức trước cái chết của 39 người Việt Nam tại Anh? Họ không lên tiếng có nghĩa là họ phủ nhận vai trò đạo dức trong cách ứng phó chính trị. Họ sợ xã hội bất mãn và trở thành bất ổn và vì vậy họ không thiết tha gì tới một lời chia buồn, một phút mặc niệm hay một ngày treo cờ rủ để chứng tỏ họ cũng là người Việt Nam như 39 nạn nhân kia.
Và vì vậy đừng ai bận tâm tới ông Thiện nữa, hãy để ông ấy lo vụ Ngọc Trinh ở truồng tại liên hoan phim Cannes, đấy cũng là cách hành xử đạo đức mà một cán bộ Cộng Sản luôn đau đáu trong lòng.
LỜI THA THỨ LÀM RÚNG ĐỘNG NƯỚC MỸ
LỜI THA THỨ LÀM RÚNG ĐỘNG NƯỚC MỸ
Hôm 3 tháng Mười, một thanh niên da đen 18 tuổi đã làm rúng động nước Mỹ, và có thể còn xa hơn nữa, với thông điệp tha thứ của anh. Tất cả các kênh truyền hình lớn tại Hoa Kỳ đã ngưng các chương trình thường lệ để truyền đi diễn biến cảm động này.
Lời tha thứ làm rúng động nước Mỹ
https://www.facebook.com/marianguyenthihongqueop/videos/437160390258052/?t=51
Hôm 3 tháng Mười, một thanh niên da đen 18 tuổi đã làm rúng động nước Mỹ, và có thể còn xa hơn nữa, với thông điệp tha thứ của anh. Tất cả các kênh truyền hình lớn tại Hoa Kỳ đã ngưng các chương trình thường lệ để truyền đi diễn biến cảm động này.
Biến cố này đã diễn ra trong phiên tòa xét xử cô Amber Guyger, 31 tuổi, cảnh sát viên người da trắng, tùng sự tại sở Cảnh Sát thành phố Dallas. Ngày 6 tháng 9 năm ngoái, 2018, sau một ca trực kéo dài tới 15 giờ liên tiếp, cô mệt mỏi trở về căn nhà của mình ở lầu 4 một chung cư.
Vì lo nói chuyện điện thoại cho nên cô đã đậu xe ở garage của tầng thứ 3 và lầm lũi đi vào phòng của anh Botham Jean, là một căn phòng ngay dưới căn phòng của cô ở lầu 4.
Cửa không khoá cho nên cô Amber đã đi vào phòng dễ dàng và ngạc nhiên khi thấy anh Botham đang ngồi ăn kem trong phòng khách, cô liền rút súng ra.
Vì vừa mới đi từ ngoài sáng vào trong tối nên cô nhìn không rõ và phán đoán sai lầm phản ứng của anh Botham nên đã bắn hai phát súng trúng vào tim anh.
Botham Jean, 26 tuổi, người da đen, nhập cư từ đảo St. Lucia, là một nhân viên kế toán đã chết trong căn phòng của mình một cách bất ngờ, ngỡ ngàng không hiểu tại sao mình phải chết!
Trong bối cảnh căng thẳng vì vấn đề màu da và vì tình trạng bạo hành của cảnh sát, phiên tòa xử cô Amber Guyger đã diễn ra hết sức căng thẳng.
Thoạt đầu công tố viện Dallas dự định đưa cô ra tòa về tội ngộ sát. Nhưng các cuộc biểu tình phản đối dữ dội đã nổ ra. Vì thế, tội danh chính thức của cô là tội sát nhân với khung hình phạt có thể là chung thân.
Trước toà, cô Amber đã khai rằng cô hối hận và xin lỗi về sự lầm lẫn của mình và cho biết không một ngày nào cô tìm được bình yên được trong suốt cuộc đời cô. Tuy nhiên khi bị vặn hỏi là khi bắn một người như vậy thì lúc đó cô có ý gì, cô đã trả lời là bắn để giết.
Kết thúc 4 ngày xét xử, bồi thẩm đoàn đã nhất trí kết tội cô là ‘sát nhân’. Công tố viện đã đề nghị 28 năm tù nhưng bổi thẩm đoàn đã ân giảm xuống còn 10 năm tù.
Những gì xảy ra bên ngoài phòng xử án sau phán quyết chung thẩm rất căng thẳng. Nhiều nhóm bất mãn đã lên tiếng tố cáo là bất công, quá nhẹ, và nhiều người bà con của nạn nhân cũng lên tiếng là công lý chưa được thực hiện. Cảnh sát chống bạo động được tăng cường trước tòa và tại các vị trí trọng yếu trong thành phố để chuẩn bị cho các tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
Nhưng bên trong toà án thì một cảnh tượng hoàn toàn khác hẳn đã xảy ra. Đây là một diễn biến mà những phóng viên kỳ cựu đã mô tả là chưa từng chứng kiến một sự việc cảm động như thế bao giờ.
Người em trai của Botham tên là Brandt Jean, 18 tuổi, khi được cho phép nói lên lời cuối với tội nhân, đã sử dụng thời gian đó tại tòa án để đưa ra một thông điệp tha thứ:
“Tôi không muốn nói hai lần hoặc hàng trăm lần cô đã lấy đi những gì, và bao nhiêu từ chúng tôi.
Tôi nghĩ rằng cô biết điều đó.
Nhưng tôi chỉ hy vọng rằng cô đến với Chúa với tất cả mọi tội lỗi và tất cả những gì tôi nghĩ là xấu xa mà cô đã từng làm trong quá khứ.
Ai trong chúng ta cũng có thể đã làm một cái gì đó chúng ta không nên làm.
Nếu cô thực sự hối hận. Tôi biết tôi có thể nói về phần tôi là tôi tha thứ cho cô.
Và tôi biết nếu cô đến với Chúa và xin Ngài tha thứ thì Ngài sẽ tha thứ cho cô.
Và tôi không nghĩ không ai có thể nhắc lại chuyện này nữa.
Một lần nữa tôi đã nói về phần mình bất kể những điều tệ hại đối với gia đình tôi, tôi yêu mến bạn như bất cứ ai khác.
Tôi không hy vọng cô sẽ khổ đau và chết như anh tôi nhưng cá nhân tôi cầu chúc mọi điều tốt đẹp cho cô.
Tôi chưa từng nói điều này trước mặt gia đình tôi hoặc bất cứ ai nhưng thực tâm tôi không muốn cô phải ngồi tù.
Tôi muốn những điều tốt nhất cho cô bởi vì tôi biết đó là những gì chính xác anh Botham của tôi cũng muốn cho cô.
Và điều tốt nhất là dành cuộc sống của cô cho Chúa Kitô. Tôi không biết nói gì hơn.
Tôi nghĩ rằng dành cuộc sống của cô cho Chúa Kitô là là điều tốt nhất mà anh Botham của tôi cũng mong muốn nơi cô.
Một lần nữa tôi yêu mến cô như một con người
Tôi không muốn bất cứ điều gì xấu cho cô.
Ngập ngừng một lúc, anh quay sang phía chánh án hỏi:
Tôi không biết tôi có thể dành cho cô ấy một cái ôm không.
Xin vui lòng cho phép tôi.
Xin vui lòng.
Bà chánh án Tammy Kemp rất bối rối trước đề nghị này. Sau một lúc suy nghĩ bà nói “Được”.
Chứng kiến cảnh này bà chánh án Tammy Kemp đã rơi lệ.
Bà cũng đích thân bước xuống ôm chầm lấy các thành viên trong gia đình nạn nhân, trước khi ôm cô Amber Guyger và trao cho cô một cuốn Kinh Thánh.
Đức Cha Edward Burns, Giám Mục Dallas nói ngài rơi lệ trước cảnh này, và lên tiếng ca ngợi tinh thần Kitô giáo của anh Brandt Jean, em trai của nạn nhân Botham Jean.
Ngài nói: “Thật là một tấm gương đáng kinh ngạc về tình yêu và sự tha thứ Kitô giáo, chúng ta đã chứng kiến cảnh anh Brandt, em trai của nạn nhân Botham Jean tuyên bố tha thứ cho cô Amber Guyger, khuyến khích cô ấy hiến dâng cuộc sống của mình cho Chúa Kitô và đã ôm cô ấy.”
Đức Giám Mục nói thêm: “Tôi cầu mong rằng tất cả chúng ta hãy noi gương người thanh niên xuất chúng này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho hòa bình trong cộng đồng của chúng ta và cho toàn thế giới.
Tác giả bài viết: vietcatholicnews
Chuyện gì đang diễn ra ở Hồng Kông?
20-11-2019
Mình lẽ ra không muốn viết. Nhưng giờ quá nhiều người hỏi và kêu mình giải thích. Thú thật mình sợ khi phải viết ra, mình sợ hệt như giới trẻ VN sợ hãi mỗi khi nhắc đến chánh trị.
Các bạn cần biết rằng, ở Việt Nam, đôi khi chỉ một stt thôi là đủ để bị mời làm việc. Cho nên với vốn kiến thức ít ỏi về xã hội mà mình có, mình chia sẻ lại diễn biến một cách ngắn gọn nhất có thể về Hồng Kông.
Hồng Kông là một đặc khu của Trung Quốc, chính sách một quốc gia hai chế độ. Trước đây Hồng Kông thuộc khối liên hiệp Anh. Năm 97 trả lại bằng ngoại giao cho Trung Quốc.
Vấn đề là, người Hồng Kông đã được thừa hưởng nền tư pháp, nền giáo dục từ Anh, họ ý thức được rằng nếu có sự cố xảy ra, tòa án và giới luật gia sẽ tranh tụng đòi quyền lợi cho thân chủ. Nói theo kiểu ngôn ngữ ở khu trà đá cafe là bạn không cần sợ bất kì thằng con ông cháu cha nào, hay sợ thằng cán bộ nào. Vì nếu xảy ra tranh chấp, đưa nhau ra tòa án công bằng, có luật pháp đảm bảo. (Khúc này anh em nào còn khó hiểu, thì đọc xem thuật ngữ tam quyền phân lập và tự ngẫm).
Về kinh tế, nhờ sự rõ ràng về luật pháp, Hồng Kông dễ dàng trở thành một trung tâm giao dịch và đem lại lợi ích về $ khủng khi thu hút đầu tư nước ngoài cho quốc gia đang sở hữu nó.
Người Hồng Kông không phải chấp nhận họ thuộc về Trung Quốc đại lục. Sự kiện 1997 xảy ra. Một số người Hồng Kông đã sang UK hoặc các nước phương tây sống. (Chính phủ UK cho phép người Hồng Kông nhập quốc tịch). Người Trung Quốc tràn vào cố gắng đồng hóa Hồng Kông nhưng không được, sống lâu trong “bơ thừa sữa cặn” nên họ ý thức được rằng bơ ngon hơn rau muống.
Sự mẫu thuẫn đó cứ âm thầm diễn ra. Và Trung Cộng từ từ từng bước cài cắm phe đỏ vào chính quyền Hồng Kông. Đỉnh điểm là đặc khu trưởng Hồng Kông hiện nay – Lâm Trịnh Nguyệt Nga.
Thế rồi cái gì đến phải đến, sau bao cuộc biểu tình vì chống lại những chính sách Trung Quốc áp đặt lên Hồng Kông mà tiêu biểu nhất là Dù Vàng do Hoàng Chí Phong và mấy người bạn trẻ của anh ta lãnh đạo (mình thích nhất Agnes Chow – may mắn cho ai lấy được cô bé làm vợ).
Nhận thấy nếu không thay đổi nền luật pháp dân chủ tại Hồng Kông thì Trung Quốc khó mà sát nhập Hồng Kông thành bờ cõi của mình (khúc này Tập đại đế nôn nóng thôn tính quá). Thành ra áp cái luật dẫn độ lên Hồng Kông thông qua bàn tay chị Lâm.
Tèn ten, dân Hồng Kông không ngu, giới luật gia Hồng Kông càng thông minh hơn. Dĩ nhiên họ không chịu. Hiện tại, nếu bạn đang sống ở Hồng Kông, khi phạm pháp, bạn sẽ ra tòa ở Hồng Kông và bị xử. Sau đó kết quả như thế nào thì bạn chịu. (Khúc trên mình nói rồi đó, thứ làm cho Hồng Kông đặc biệt chính là luật pháp công bằng). Nếu luật dẫn độ được thông qua, thì người Hồng Kông sẽ bị lôi về đại lục xử, mà tính công bằng trong luật pháp ở các nước có thể chế thiên đường thì các bạn tự biết nha. Đặc biệt là án chánh trị.
Nổ ra biểu tình liên tiếp, kết quả bà Lâm phải ngừng thông qua dự luật Dẫn độ. Nhưng trước khi ngừng thì đã có đàn áp, có đổ máu, “hắc cảnh” đã bắn chết sinh viên biểu tình, hàng loạt vụ tự tử, khủng bố trắng bất chấp luật pháp xảy ra. Chính quyền Hồng Kông đã dồn người dân tới chân tường.
Người Hồng Kông quyết định biểu tình để giữ bằng được quyền bầu cử dân chủ. Ai cũng biết nếu bầu cử dân chủ thực sự thì Trung cộng chẳng thể nào cài cắm được phe ta vào. Các bạn đã đi bầu cử ở VN chưa, nếu chưa đi thì yên tâm, các bạn như robot, chả biết mình bầu cho ai. Đợt trước mình tẩy chay bầu cử vì mình ghét Đảng cử dân bầu. Bên Hồng Kông thì đỡ hơn, tạm thời tính dân chủ còn ít ít nên các cậu trẻ sẽ tham gia tự ứng cử. Và bà Lâm cấm Hoàng Chí Phong ứng cử 🙂.
Thế là tiếp tục biểu tình đòi nợ máu, đòi tự do…
Cái nhọt ở Hồng Kông khiến chính quyền Trung Quốc đau nhức và tức tối khi mà thua ở chiến tranh thương mại và sợ cái nhọt này sẽ lây lan khiến **** sụp đổ. Trong khi Mỹ rơi vào một cuộc đàn hặc nội bộ thì anh Tập rảnh tay hơn và dạy dỗ dân Hồng Kông. Diễn biến tiếp theo thì như các bạn thấy rồi đó. Trung Quốc tập trung tấn công vào những trường đại học đầu não của phong trào biểu tình. Một bên là vũ khí hiện đại, một bên thô sơ như thời trung cổ.
Khi phong trào và sự ảnh hưởng này lan rộng thì các nước chung thể chế thiên đường hạnh phúc nụ cười sẽ bắt đầu rêu rao tuyên giáo đổ lỗi cho bên này bên kia. Vì nếu không như vậy sự ảnh hưởng có thể dẫn đến sụp đổ toàn cục theo hiệu ứng domino.
Tôi buồn vì thấy dân Hồng Kông phải chọn sự hy sinh để cả thế giới thấy được sự rập rình nguy hiểm của ranh giới từ CS thành phát xít.
Tôi cười vì thấy dân trí VN ta còn thấp nên bị một số kẻ ngụy biện làm cho các bạn hiểu sai về con người Hồng Kông. Làm sao một đám trẻ rảnh rỗi đi lấy đá ném lại kẻ cầm súng?!
Tôi thấy hạnh phúc vì các bạn trẻ 2k bắt đầu quan tâm chánh trị. Lúc tôi bắt đầu đọc nhiều về chánh trị, tôi đơn độc lắm, tôi biết rằng dù né tránh thì chánh trị nó cũng tự tìm đến với mình. Formosa, HD981, 10-6 ANM và đặc khu,… tôi lạc lõng giữa bạn bè xung quanh. Hay gần đây, mỗi mg không khí bạn hít vào là chánh trị đó. Tuyệt nhiên chúng ta chỉ biết mua khẩu trang đeo chứ đang yên đang lành loang quạng là về đồn tự tử.
Không ít bạn bè tôi cũng từng mất việc, bị bỏ tù, đánh đập vì ngày 10-6. Chúng ta chẳng khác gì Hồng Kông nhưng người Hồng Kông dám hy sinh thay ta rồi đó.
Một cái cúi đầu giành cho những người Hồng Kông, các bạn đã giúp chúng tôi ý thức được rằng tự do không miễn phí, và không có sự hy sinh nào là vô ích.
Tôi viết để các bạn đọc và hiểu, hiểu rồi thì hãy tự viết, tự nói với mọi người xung quanh. Biểu tình là điều có trong hiến pháp các quốc gia quy định. Nhưng thử bạn nào ra công viên hay đường phố hét lớn: Đả đảo Tập Cận Bình coi có bị bắt không?! Ngoài biển dân ta vẫn bị bạn tốt đánh và giết, mỏ của ta nó vẫn kéo tàu vào.
Các bạn nên tập đọc nhiều đi, sẽ có lúc các bạn phải chọn chết vinh còn hơn sống nhục như cách người Hồng Kông đang làm đó. Chân thành.
Nhạc vàng kho tàng âm nhạc Việt Nam

Nguyễn Quang Duy
20-11-2019
Miền Nam trước đây gọi nhạc vàng là tân nhạc để phân biệt với cổ nhạc. Sau chiến tranh, bên thắng cuộc mở “mặt trận” tấn công vào nền văn hóa miền Nam, cả tân nhạc lẫn cổ nhạc đều bị nghiêm cấm và bị hủy diệt.
Tân nhạc bị gán ghép là nhạc tâm lý chiến, nhạc phản động, nhạc xuyên tạc đường lối, chống phá cách mạng, hay bị xem là thứ nhạc sến, nhạc đồi trụy, nhạc ru ngủ, nhạc lãng mạn bi quan, nhạc vàng vọt.
Từ ngữ nhạc vàng xuất phát từ miền Bắc đã nhanh chóng được người miền Nam chấp nhận để phân biệt với nhạc đỏ là loại nhạc cộng sản.
Trong tâm tư người miền Nam màu vàng là màu da, màu dân tộc, màu mai vàng phương Nam, màu tươi trẻ, màu của kim loại quý hiếm vào bậc nhất. Bởi thế cờ vàng và nhạc vàng nhanh chóng được xem là báu vật của Việt Nam Cộng Hòa.
Vì yêu nhạc vàng…
Khi đất nước chia đôi, cách mạng văn hóa được phát động tại miền Bắc, nhạc vàng bị nghiêm ngặt cấm đoán. Nhạc đỏ với âm điệu Trung Hoa nhanh chóng thống trị nền âm nhạc miền Bắc, nhưng vẫn còn nhiều người yêu nhạc thường lén lúp thưởng thức nhạc vàng.
Một vụ án văn nghệ liên quan đến ban nhạc 3 người bị tố cáo hát xen kẽ nhạc vàng trong những đám cưới và những cuộc liên hoan, được xử công khai tại Hà Nội vào tháng 1/1971.
Ông Phan Thắng Toán tự Toán Xồm bị kết án 15 năm tù giam và tước quyền công dân 5 năm. Ông Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù và tước quyền công dân 5 năm. Ông Nguyễn Văn Lộc tự Lộc Vàng, 10 năm tù và tước quyền công dân 4 năm.
Thập niên 1980, khi họ ra tù, nhạc vàng đã khá phổ biến nhưng cả ba vẫn bị quản chế và gặp phải muôn vàn khó khăn.
Ông Toán Xồm không nhà sống lang thang đã qua đời trên hè phố Hà Nội vào đúng đêm 30/4/1994, tưởng niệm 19 năm miền Nam lọt vào tay cộng sản.
Ông Đắc mất năm 2005 trong nghèo khổ.
Ông Lộc Vàng sống bôn ba mãi đến gần đây mới mở một quán cà phê nhỏ ở Hà Nội lấy tên Lộc Vàng.
Văn nghệ tự do
Chủ trương của Việt Nam Cộng Hòa được ghi rõ trong cả 2 Hiến pháp 1956 và 1967 là xây dựng một xã hội dựa trên triết lý nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Văn nghệ được tự do hoạt động nên chỉ trong vòng 20 năm đã có hàng chục ngàn bản tân nhạc đủ thể loại chính thức phát hành, trong số đó, có hàng trăm tác phẩm đã trở thành bất hủ.
Đa số nhạc miền Nam đều chan chứa tình người, tình yêu quê hương, yêu đất nước, nỗi mong muốn thanh bình trở lại.
Tân nhạc được chia thành dòng nhạc tiền chiến, nhạc đại chúng, nhạc trẻ, nhạc du ca và nhạc phản chiến.
Còn được phân loại thành nhạc lính, nhạc tình, nhạc kích động, nhạc khiêu vũ, nhạc dân ca, nhạc sắc tộc, nhạc ngoại quốc lời Việt, nhạc chiêu hồi, nhạc chính huấn, nhạc đạo, nhạc thiếu nhi, nhạc hướng đạo, nhạc sinh hoạt…
Người miền Nam trân quý tác giả nên trân trọng đặt tên cho dòng nhạc Lam Phương, nhạc Phạm Duy, nhạc Trần Thiện Thanh, nhạc Hoàng Thi Thơ, nhạc Anh Bằng…
Trước khi hát một bản nhạc, người điều khiển chương trình hay ca sỹ thường giới thiệu tên tác giả và hoàn cảnh tác phẩm được sáng tác.
Việc giới thiệu tác giả và tác phẩm đã trở thành một phần của nền văn hóa Việt Nam Cộng Hòa.
Mỗi tác giả mỗi khác, mỗi bài nhạc mỗi khác, mỗi ca sỹ trình diễn mỗi khác, biểu hiện sự phong phú và đa dạng của âm nhạc miền Nam.
Ở miền Nam nhà nào cũng có radio, nhiều nhà có tivi, có dĩa hát, có máy thu thanh cassette… không có thì nghe ké nhà hàng xóm.
Nhiều ca sỹ, nhiều ban nhạc, nhiều hãng băng dĩa cassette cạnh tranh phục vụ đại chúng.
Từ tờ mờ sáng nhạc vang vọng khắp nơi, đến tối mịt mù, đôi khi vẫn nghe tiếng nhạc dập dình.
Những bản nhạc bolero, rumba, chachacha, tango dễ nhớ, dễ hát và dễ đi vào lòng người.
Người miền Nam hát bất cứ lúc nào có thể hát được. Đám cưới, đám hỏi hát hò, đến cả ngày giỗ đám ma cũng tụm năm tụm bẩy hát cho nhau nghe.
Họ hát từ tiền đồn heo hút, hát trong nhà thờ, trong chùa ra đến góc đường, góc chợ, quán ăn, hát cho nhau nghe và cho chính mình nghe.
Họ quan niệm hát hay không bằng hay hát, họ đồng cảm và đồng sáng tác bằng cách chế lời đổi nhịp điệu bài hát.
Máu văn nghệ chìm đắm trong tim óc người miền Nam, trở thành nếp sống, nếp văn hóa Việt Nam Cộng Hòa.
Trong tù “cải tạo”, nhạc miền Nam bị cấm, ai hát bị biệt giam đến chết, các tù nhân vẫn hát, hát cho nhau nghe, hát để gìn giữ báu vật Việt Nam Cộng Hòa.
Nhạc vàng Bắc Tiến
Những ngày đầu 30/4/1975, không ít người miền Nam ngạc nhiên khi nghe bộ đội Bắc Việt hát những bài viết về người lính miền Nam như Rừng Lá Thấp của Trần Thiện Thanh hay Xuân Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân.
Khác chiến tuyến nhưng họ hát với tấm lòng của người lính xa nhà mong muốn chiến tranh chấm dứt để về lại quê hương.
Về miền Bắc, trong ba lô người bộ đội, chiếc cassette nhỏ và chục băng nhạc làm quà. Làng trên xóm dưới bắt đầu biết đến nhạc miền Nam.
Còn ở miền Nam, các đội cờ đỏ truy lùng nhạc chế độ cũ. Người yêu nhạc bị mang ra khu phố đấu tố, nhiều thanh niên bị cưỡng bức đi Thanh Niên Xung Phong, có người còn bị bắt đi cải tạo chỉ vì lén lúp chơi nhạc vàng.
Đầu năm 1979, chiến lợi phẩm của bộ đội miền Bắc là những kho cassette và băng nhạc trên đất Campuchia, nhạc vàng lại một lần nữa tràn ngập miền Bắc.
Rồi những radio cassette, những cuộn băng nhạc hải ngoại được chuyển ra miền Bắc, tiếp tục sự nghiệp Bắc tiến của nhạc vàng.
Khi ấy Hà Nội đã chuyển hầu hết công an và cán bộ tuyên giáo vào Nam nên nhạc vàng công khai cạnh tranh với loa phường và các đài chính thống.
Nhạc vàng trở thành món ăn tinh thần cho người dân miền Bắc, nhất là những người sống ở thành thị.
Nhạc vàng theo chân người Việt “xuất khẩu lao động” sang tận Liên Xô và Đông Âu. Ở đâu có người Việt ở đó có nhạc Việt Nam Cộng Hòa.
Ở miền Nam, sau những cuộc truy quét, nhạc vàng bắt đầu sống dậy. Nhiều ca sỹ lén lút thu thanh, nhiều quán cà phê hát nhạc vàng, nhiều đoàn hát “chui” về tận miền quê trình diễn.
Ngược lại, số người nghe nhạc đỏ giảm sút rất nhiều, nhất là với những người trẻ muốn quên đi chiến tranh và cách mạng.
Đến năm 1986, Hà Nội phải chính thức công nhận nhạc vàng, một danh mục gồm 36 tác phẩm âm nhạc của miền Nam được công khai trình diễn. Nhiều chương trình văn nghệ nhạc vàng được công khai tổ chức.
Ở hải ngoại các nhạc sỹ tiếp tục sáng tác tạo ra dòng nhạc vàng hải ngoại. Đến thập niên 1990, băng video Paris By Night, ASIA, Vân Sơn,… từ hải ngoại gởi về được bà con trong nước nhiệt tình ủng hộ.
Nghị quyết 36 ra đời, Hà Nội chính thức chỉ đạo phục vụ văn nghệ “đồng bào” hải ngoại. Nhạc vàng được Hà Nội chính thức nuôi dưỡng. Nhiều ca sỹ nhạc vàng được Hà Nội cung cấp tiền và phương tiện ra hải ngoại trình diễn. Hà Nội còn chấp nhận một số ca sỹ hải ngoại về nước hát.
Các nhạc sỹ đỏ bị “vắt chanh bỏ vỏ”, nhạc đỏ bị bỏ xó không ai màng tới, đến đài phát thanh, đài truyền hình Hà Nội cũng phát nhạc vàng.
Nhạc Việt Nam Cộng Hòa sống dậy
Bước sang thời đại Youtube và Facebook, chỉ cần chiếc máy tính, chiếc điện thoại cầm tay, mọi người có thể dễ dàng thưởng thức kho tàng âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa.
Nhiều bạn trẻ mặc đồ lính Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc vàng thu hút hằng triệu người xem.
Nhạc vàng không chỉ giúp giới trẻ tìm hiểu lịch sử Việt Nam Cộng Hòa, một số bạn trẻ dùng lời ca tiếng hát làm phương tiện đấu tranh với mong ước phục hồi thể chế tự do.
Nhạc vàng còn được sử dụng để phản kháng làn sóng nhạc Hàn, nhạc Mỹ, nhạc Trung… giữ gìn tình tự dân tộc và văn hóa Việt Nam.
Nhạc vàng được hát khắp nơi từ miền núi xa xăm phương Bắc xuống Cà Mau tận cuối miền Nam và mọi nơi trên thế giới.
Nhạc vàng đã bị “chôn” nhưng vẫn sống, ngày càng sống mạnh. 44 năm qua, nhiều thế hệ tiếp nối vẫn yêu quý nhạc miền Nam, tìm ra sự thật lịch sử và hướng về một ngày đất nước có tự do.
Trong vòng 20 năm Việt Nam Cộng Hòa xây dựng thành công một kho tàng văn hóa dựa trên triết lý nhân bản, khai phóng và dân tộc.
Kho tàng này không chỉ thuộc thể chế Việt Nam Cộng Hòa mà đã trở thành một kho tàng văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Quang Duy, từ Melbourne, Úc Đại Lợi
TỪ THÀNH ĐÔ ĐẾN ĐÔ THÀNH
TỪ THÀNH ĐÔ ĐẾN ĐÔ THÀNH:
một lộ trình tái lập tự do & dân chủ
Tính tới 2020, hội nghị Thành Đô vừa tròn 30 năm. Tấm hình bên trái: bốn lãnh tụ Đảng Cộng sản Tầu – Việt nâng ly rượu ‘‘chúc mừng’’ Đảng Cộng sản Việt Nam bán nước cầu vinh. Bên phải là Đô Thành lúc còn mang tên Saigon, chưa bị thay trắng đổi đen. Từ Thành Đô đến Đô Thành, liệu cái tên đảo ngược có báo trước sự xoay chuyển tình hình?
Bài thuyết trình của chúng tôi gồm ba phần:
I – Hội nghị Thành Đô (3 – 4/09/1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên): tiến trình từ mất đất đến mất nước.
II – Mật ước Thành Đô vô hiệu tuyệt đối (nullité absolue), xét về quốc tế công pháp.
III – Đô Thành Saigon: viễn tượng tái lập tự do, dân chủ.
I – Hội nghị Thành Đô:
1 – Tổng quan (Généralité) :
1.1. Bối cảnh (contexte): Hội nghị Thành Đô chỉ diễn ra trong hai ngày 3 và 4/09/1990, trong bối cảnh:
– 09/11/1989: bức tường Bá Linh sụp đổ.
– 1990: các nước cộng sản Đông Âu (Đức, Bulgarie, Ba Lan, Nam Tư, Albanie) lần lượt giải thể.
– 08/1991: Boris Yeltsin ký sắc lệnh cấm đảng cộng sản Liên Xô hoạt động.
– 26/12/1991: Liên Xô giải thể. 15 nước cộng hòa trong Liên bang Xô viết lần lượt tuyên bố độc lập.
Năm 1666, thi sĩ John Dryden sáng tác bài thơ ‘‘Annus mirabilis’’, ngợi ca tháng năm tuyệt vời. Trên cục diện thế giới, các nhà nghiên cứu đã mệnh danh 1990 là annus mirabilis. Liệu năm 2020 có sẽ là annus mirabilis cho đất nước?
1.2. Thành phần tham dự (Participants): Hội nghị Thành Đô có nhiều điều khuất tất nên còn được gọi là Mật ước Thành Đô. Về phía Việt Nam có Nguyễn Văn Linh (Tổng Bí Thư) và Đỗ Mười (Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng). Phía Trung cộng có Giang Trạch Dân (Tổng Bí Thư), Lý Bằng (Thủ tướng Quốc vụ viện).
1.3. Hậu quả (Conséquences): 14 năm sau hội nghị Thành Đô, Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã đưa tin :‘‘Trong khuôn khổ hội nghị Thành Đô, Việt Nam bày tỏ ý nguyện tự biến thành một khu tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh, như Trung cộng đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây, v.v. Phía Trung cộng đồng ý chấp nhận thỉnh nguyện trên, và cho Việt Nam thời hạn 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc..’’
– Hoàn Cầu Thời Báo (环球时报) cùng với Nhân Dân Nhật Báo (人民日报) là cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng sản Tầu. Như tên gọi (Global Times), tờ báo này phát hành năm 1993, tập trung vào các vấn đề quốc tế (như Hội nghị Thành Đô).
– Tân Hoa Xã (新華社), tên tiếng Anh là Xinhua News Agency, là cơ quan thông tấn của chính phủ Tầu. Việc Trung cộng đưa tin mật ước Thành Đô qua báo chí chính thức của đảng (Hoàn Cầu Thời Báo) và hãng thông tấn của chính phủ (Tân Hoa Xã) tương ứng với các thành phần tham dự hội nghị Thành Đô: tổng bí thư (đảng) và thủ tướng (chính phủ).
Sau đây, ta sẽ xét xem tính đáng tin cậy của thông tin (fiabilité de l’information), bằng cách đối chiếu giữa các tài liệu và tin tức, trước và sau hội nghị Thành Đô.
2 – Đối chiếu văn bản (comparaison de documents)
2.1. Các tài liệu (Recherche documentaire):
2.1.1. Tài liệu của Xiaoming Zhang:
Xiaoming Zhang tốt nghiệp Đại học Nhân dân Bắc Kinh (1986), giám đốc Văn phòng Liên lạc của Trung Quốc tại Hồng Kông, viết sách về hội nghị Thành Đô nhan đề Deng Xiaoping’s Long War: The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991 (The University of North Carolina Press).
Trong cuốn sách, tác giả đưa ra một số sự việc như sau :
– Ngày 05/06/1990, Nguyễn Văn Linh gặp đại sứ Trung cộng Trương Đức Duy (Zhang Dewei) tại Hà Nội. Linh tự nhận là học trò trung thành của Mao Trạch Đông, khẩn khoản xin được gặp các nhà lãnh đạo cộng sản Tầu.
– Bắc Kinh ra chỉ thị cho Trương Đức Duy gặp riêng Nguyễn Văn Linh để biết thêm thỉnh nguyện (appeal) của Linh… Trung cộng ra điều kiện tiên quyết là Hà Nội phải lập tức rút quân khỏi Campuchia.
– Ngày 22/08/1990, Nguyễn Văn Linh lại gặp Trương Đức Duy, bày tỏ ý muốn viếng thăm Trung Quốc.
– Ngày 27/08/1990, Lý Bằng báo cáo với Đặng Tiểu Bình việc mời các nhà lãnh đạo Việt Nam sang Thành Đô, vì Bắc Kinh là địa điểm tổ chức Á Vận Hội 1990.
– Viên Lực Phong, giám đốc nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên (Kim Ngưu Tân quán) tiết lộ: ‘‘Chúng tôi đã bố trí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, mỗi vị ở riêng một biệt thự, nơi đó họ được hưởng thụ những làn da thu thủy nét xuân xanh, phục vụ nào là tẩm thất (1), thực đơn hảo hạng hợp khẩu vị, được hầu tận miệng, ăn ít bổ nhiều, thư giãn bằng tẩm quất (2) toàn thân và xem một vài video có tính kích dục, hầu như ba vị không từ chối cách phục vụ này, tất nhiên họ sống không khác nào hoàng đế phong kiến. 48 giờ trôi qua vừa họp mệt nhoài cho nên họ chú ý hưởng thụ, cũng vừa có lý do để cách ly ba vị ấy, không còn thời gian để hội ý trước khi Hội nghị’’.
Chú thích:
(1) tẩm thất (寑室) : tẩm (寑) : ngủ ; thất (室) nghỉ ngơi.
(2) tẩm quất : án 按 : bấm ; ma (摩) : xoa. Xoa bóp toàn cơ thể.
– Trong hội nghị Thành Đô, Giang Trạch Dân nói rõ các sai trái về phía Việt Nam. Nguyễn Văn Linh ‘‘thú nhận đã đi theo một chính sách sai lầm’’.
– ‘‘Sau buổi họp kéo dài đến hôm sau, các nhà lãnh đạo Việt Nam đầu hàng. Giang Trạch Dân trích dẫn một bài cổ thi: ‘‘chỉ cần một nụ cười là ân oán tiêu tan’’:
度尽劫波兄弟在
相逢一笑泯恩仇
(Độ tận kiếp ba huynh đệ tại
Tương phùng nhất tiếu mẫn ân cừu)
– Tác giả Xiaoming Zhang còn nhắc lại việc người Tầu trích dẫn cổ thi:
有奶便是娘
(Hữu nãi tiện thị nương)
để trách cứ các lãnh tụ cộng sản Việt Nam từng bú vú (nãi 奶: vú) cộng sản Tầu cộng mà vô ơn bạc nghĩa.
– Giang Trạch Dân soạn thảo văn kiện đàm phán bí mật, lấy tên là ‘‘Kỷ yếu Thành Đô 1990’’. Kỷ yếu này ấn định lịch trình sáp nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười đã ký vào “Kỷ yếu Thành Đô 1990”.
2.1.2… Tài liệu của Wikileaks
Các thông tin của Xiaoming Zhang được Wikileaks xác nhận. Wikileaks là tổ chức phi chính phủ, do Julian Assange thành lập năm 2006, nhằm công bố các tin mật trên quy mô toàn cầu.
Wikileaks đã đưa ra biên bản hội nghị Thành Đô ngày 3-4/09/1990.
Tài liệu của Wikileaks bao gồm 3100 công điện ngoại giao của Sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội gửi chính phủ Hoa Kỳ. Nội dung chính của tài liệu như sau:
“… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ.
‘‘Việt Nam sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Quốc để Việt Nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây.
‘‘Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho Việt Nam thời hạn 30 năm (1990-2020), để đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Tài liệu trên đây của Wikileaks đã xác nhận tin tức của Hoàn Cầu Thời Báo và Tân Hoa Xã.
2.2. Đối chiếu văn bản (comparaison de documents):
2.2.1. Hồi ký của Thứ trưởng Ngoại giao Hà Nội Trần Quang Cơ: Thứ trưởng Trần Quang Cơ viết về hội nghị Thành Đô như sau:
– ‘‘Nhìn lại trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm Trung Quốc ít nhất ba điểm:
(…) Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay cuộc gặp, hầu như tất cả các nước đã được Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông báo nội dung chi tiết thỏa thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.’’
– Ngoài ra, ông Trần Quang Cơ còn trích dẫn ý kiến của Võ Văn Kiệt: ‘‘Trong thâm tâm tôi, tôi không đồng ý có anh Tô (Tô là bí danh của Phạm Văn Đồng) trong đoàn đi Thành Đô. Nếu có gặp anh Đặng (Đặng Tiểu Bình) thì anh Tô đi là đúng. Tôi nói thẳng là tôi xót xa khi biết anh Tô đi cùng anh Linh và anh Mười chỉ để gặp Giang và Lý, không có Đặng. Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.’’
Tài liệu trích dẫn ý kiến của Võ Văn Kiệt cho rằng Việt Nam đã bị Trung Cộng ‘‘lừa’’ khi yêu cầu Phạm Văn Đồng phó hội, trong khi vắng mặt đồng sự (cùng chức vụ cố vấn) là Đặng Tiểu Bình. Sự việc này chứng tỏ:
– Trung Cộng coi thường phái đoàn Việt Nam.
– Trung Cộng tin cậy vào quá trình bán nước, thân Tầu của Phạm Văn Đồng nên muốn Đồng có mặt trong phái đoàn bán rẻ đất nước. Đồng từng có tên Tầu Lâm Bá Kiệt, là phó chủ nhiệm cơ quan biện sự tại Quế Lâm (Quảng Tây). Lâm (林) cùng với Hứa (許) đều là họ người Tầu ở Phúc Kiến. Ngoài ra, Phạm Văn Đồng còn là tác giả công hàm bán nước ký ngày 14/09/1958 gửi ‘‘đồng chí tổng lý’’ Chu Ân Lai, tán thành tuyên bố ngày 04/09/1958 của Trung Cộng về hải phận… Bộ Ngoại giao Trung Quốc cho rằng công hàm của Phạm Văn Đồng đương nhiên công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo trên biển Đông (mà Tầu gọi là Nam hải). Theo quốc tế công pháp, việc đương nhiên công nhận (reconnaissance implicite) phát sinh những hậu quả pháp lý.
Trong tài liệu trích dẫn, hai nhà lãnh đạo đảng là Trần Quang Cơ (ủy viên trung ương đảng) và Võ Văn Kiệt (tên thật là Phan Văn Hòa, bí thư: Sáu Dân – ủy viên bộ chính trị đại hội VIII) tuyên bố thẳng thừng :
– ‘‘Ta mắc lỡm Trung Quốc’’ (Trần Quang Cơ).
– ‘‘Việt Nam đã bị Trung Quốc lừa. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.’’ (Võ Văn Kiệt)…
Ngày nay, việc sinh viên học sinh trong nước biểu tình phản đối Trung Cộng là chính đáng. Tại sao họ lại bị đảng ra lệnh cho công an bắt bớ, chỉ thị cho tòa án nhân dân kết tội ?
2.2.2. Kiến nghị của một số cựu sĩ quan cao cấp: Năm 2014, 20 cựu tướng lãnh, trong đó có cựu trung tướng Lê Hữu Đức, các cựu thiếu tướng Trần Minh Đức, Huỳnh Đắc Hương, Lê Duy Mật, Bùi Văn Quỳ và Nguyễn Trọng Vĩnh viết kiến nghị ngày 02/09/1914 gửi Trương Tấn Sang (chủ tịch Nước) và Nguyễn Tấn Dũng (thủ tướng) yêu cầu công khai mật ước Thành Đô, nhưng không được trả lời. Tại sao Đảng Cộng sản Hà Nội lại giữ yên lặng?
Hiệp định Thành Đô mở đầu tiến trình từ mất đất đến mất nước.
- Các hậu quả của hội nghị Thành Đô (les conséquences des accords secrets de Chendu):
3.1. Về phía Trung Cộng:
– Một năm sau hội nghị Thành Đô (11/1991), tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Giang Trạch Dân đưa ra thập lục tự phương châm (十六字方针) nhằm thúc đẩy việc nước Việt trở thành một khu tự trị của Tầu:
Sơn thủy tương liên,
Lý tưởng tương thông,
Văn hóa tương đồng,
Vận mệnh tương quan.
山 水 相 連
理 想 相 通
文 化 相 同
運 命 相 關
Tháng 11/2000, tổng bí thư Tầu cộng Giang Trạch Dân và tổng bí thư Việt cộng Nông Đức Mạnh ký tên vào thập lục tự kỳ II do họ Giang soạn thảo, định hướng cho việc Việt Nam trở thành một khu tự trị trực thuộc Trung Quốc.
Trường kỳ ổn định
Diện hướng vị lai
Mục lân hữu hảo
Hợp tác toàn diện
长期稳定
面向未来
睦邻友好
全面合作
Tôi mạn phép đối lại bằng thập lục tự cáo giác (十六字告覺), chỉ dùng vần trắc để nói lên sự phẫn uất của dân Việt trước việc Tầu cộng từng bước thôn tính nước ta.
Cộng tặc mại quốc
Đồ bản Đông hải
Trung Quốc thôn phục
Sơn hà nguy cấp!
共 賊 賣 國
圖 版 東 海
中 國 吞 服
山 河 危 急
Giặc cộng bán nước
Đất đai biển cả
Trung Quốc nuốt trửng
Sơn hà nguy cấp!
Cùng với thập lục tự phương châm, họ Giang chỉ thị cho đảng cộng sản Việt Nam soạn thảo hiến pháp mới, chuyển từ chống đối Tầu đến thần phục Trung Cộng.
3.2. Về phía Việt Nam: Hai năm sau hội nghị Thành Đô (1992), Việt Nam sửa đổi hiến pháp, không còn các ngôn từ gay gắt chống Trung Cộng. Điều 14 chương I viết như sau : “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi…”
Quy định trên đây ghi trong hiến pháp 1980 mở đầu việc Hà Nội ký một loạt các văn kiện bán nước, mở cửa cho Tầu cộng xâm nhập, thôn tính nước ta.
3.3. Các hiệp ước bất bình đẳng (traités inégaux): Tôn Dật Tiên đã coi toàn bộ các hiệp ước mà nước Tầu đã ký với các nước tây phương vào thế kỷ XIX là ‘‘hiệp ước bất bình đẳng’’ (不平等条约). Hiệp định Thành Đô đã lập lại kịch bản này, đưa đến việc bán đứng chủ quyền đất nước, xét về phương diện quốc tế công pháp.
Dưới các triều đại quân chủ, quốc vương nước ta thường gửi sứ bộ tiến cống Bắc triều. Cống vật gồm 200 lượng vàng, 1000 lược bạc, 100 cây lụa, 2 bộ sừng tê giác, 100 cân ngà voi, 100 cân quế, nhưng giữ nguyên bờ cõi.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam thần phục Tầu cộng, cống vật là đất đai, hải đảo, giang sơn gấm vóc do cha ông để lại.
3.3.1. Hai hiệp định về biên giới và lãnh hải:
– Ngày 30/12/1999, tại Hà Nội, bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và bộ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Đường Gia Truyền (Tang Jianxuan) ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc. Quốc hội Bắc Kinh thông qua ngày 29/04/2000, Quốc hội Hà Nội thông qua ngày 09/06/2000.
‘‘Đặc biệt khi thông qua hiệp ước về biên giới này, chỉ một số lãnh đạo cấp cao trong quốc hội được đọc nội dung hiệp ước, còn đại đa số dân biểu không biết gì cả, chỉ thông qua theo lệnh của Đảng Cộng sản Việt Nam mà thôi.’’ (Người Việt Online ngày 25/01/2002).
Theo hiệp định ngày 30/12/1999, Việt Nam bị mất nhiều đất dọc theo biên giới Việt-Hoa, cụ thể là đèo Nam Quan và ải Nam Quan.
Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép rằng năm 1407, khi Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt sang Tầu, Nguyễn Trãi tiễn biệt cha ở cửa ải Nam Quan.
– Ngày 25-12-2000, bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh ký với bộ trưởng Ngoại giao Đường Gia Truyền Hiệp ước phân định lãnh hải, phân chia quyền lợi trên vịnh Bắc Việt, có chủ tịch Trần Đức Lương và chủ tịch Giang Trạch Dân chứng kiến. Ngày 15/06/2004, quốc hội phê chuẩn hiệp ước, có hiệu lực từ 30/06/2004.
Vịnh Bắc Việt rộng 123700 km². Theo sự phân chia lãnh hải với nhà Thanh (26/06/1887), Việt Nam được 62%, còn Trung Hoa được 38%. Theo hiệp định ngày 25/12/2000, Việt Nam chỉ còn 53.23%, Trung Cộng: 46.77%.
Việt Nam mất trên 8% diện tích vịnh Bắc Việt, tương đương khoảng 10000 km² mặt biển.
3.3.2. Vụ nhường cho Tầu cộng khai thác bauxite ở Tây nguyên:
Việc thi hành mật ước Thành Đô đưa đến việc Đảng Cộng sản Việt Nam cho Tầu khai thác quặng bauxite ở tỉnh Đắc Nông. Tỉnh Đắc Nông thành lập năm 2004, tách ra từ tỉnh Đắc Lắc, có 6 mỏ bauxite rộng 1971 km², chế biến thành alumina, ký hiệu hóa học là Al203. Cứ hai tấn bauxite thì chế được 1 tấn alumina giá USD 350/tấn, còn lại là bùn đỏ (red-mud) tác hại trực tiếp đến dân cư sinh sống tại Đắc Nông, gián tiếp đến nguồn sông Đồng Nai và Serepok, gây ô nhiễm đến hạ nguồn. Cờ đỏ thì tiêu diệt được, chứ bùn đỏ sẽ còn mãi, biến mảnh đất mầu mỡ Tây nguyên trở thành tử địa (terra mortuum).
Trong khuôn khổ hiệp định Thành Đô, ngoài việc khai thác bauxite, đảng cộng sản Việt Nam còn dâng cho Tầu ‘‘hợp đồng trọn gói’’ (EPC: Engineering, Procurement, Construction) độc quyền khai thác điện, kim loại, hóa chất v.v.
3.3.3. Người Tầu ồ ạt sang Việt Nam mua nhà cửa: Hội nghị Thành Đô mở cửa cho người Tầu sang Việt Nam làm ăn buôn bán, mua nhà cửa, đất đai.
Bình Dương chỉ cách Saigon 30 km, hơn 50 % dân số Bình Dương là dân nhập cư, đa số là Tầu cộng. Họ tập trung vào khu thương mại Đông Đô Đại Phố. Cứ đến lễ quốc khánh của Tầu, dân Tầu ở Bình Dương lại treo cờ Trung cộng la liệt trên khắp đường xá. Cũng ở Bình Dương, Tầu cộng có khu du lịch Đại Nam lớn nhất Đông Nam Á, mở song bài vét sạch tài sản những người có máu mê cờ bạc.
Theo thống kê chính thức năm 2009, có 82307 người Tầu sinh sống ở Việt Nam. Sau 10 năm, con số này tăng gấp hơn 10 lần. Họ mở sòng bài ở Đà Nẵng, mua nhà cửa ở Nha Trang, kinh doanh ở Saigon v.v.
3.4. Việc thiết lập các đặc khu kinh tế:
Ngày 22-3-2017, bộ chính trị chuyển qua quốc hội “Thông báo kết luận của bộ chính trị” về việc xây dựng các đơn vị hành chánh kinh tế đặc biệt, gọi tắt là đặc khu:
Lệnh của bộ chính trị gồm 6 điều, trong đó điều 5 giao cho quốc hội soạn thảo và thông qua luật đặc khu.
Bộ chính trị là cơ quan lãnh đạo đảng có quyền lực cao nhất, không ghi trong hiến pháp, chi phối quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất. Vậy mà bà Nguyễn Thị Kim Ngân, chủ tịch quốc hội phát biểu trong phiên họp ban thường vụ quốc hội ngày 16/04/2018: “Bộ chính trị đã kết luận rồi, dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn để ra luật chứ không không thể không ra luật.” (Vietnam Economy, ngày 16-4-2018.).
Dự luật đơn vị hành chánh kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc, gọi tắt là luật đặc khu, dự tính nhường đất cho Tầu cộng trong 99 năm.
Ngày 12/06/2018, quốc hội dự định chung quyết dự luật.
Ngày 10/06/2018, biểu tình phản đối ở Hà Nội, Hải Dương, Nghệ An, Đà Nẵng, Nha Trang, Bình Thuận, Sài Gòn, Bình Dương, Mỹ Tho. Riêng tại Bình Thuận, cuộc biểu tình trở nên bạo động.
Cũng ngày 10/06/2018, người Việt hải ngoại nhất loạt đồng tổ chức biểu tình phản đối hai dự luật bán đất cho Trung Cộng, có giá trị đến thế kỷ 22, tại tất cả các thủ đô và thành phố lớn các nước trên khắp thế giới, từ Mỹ Châu, qua Âu Châu, Á Châu và Úc Châu.
Trước cao trào phản đối của đồng bào trong và ngoài nước, ngày 12/06/2018, quốc hội hoãn biểu quyết luật đặc khu.
3.5. Dự án thiết lập đường cao tốc:
Dự án thiết lập đường bộ cao tốc bắc – nam trong số các thỏa thuận giữa Tầu cộng và Việt cộng tại Thành Đô. Đường cao tốc dài 1811 km, nối liền từ Pháp Vân (Hà Nội) đến Chà Và (Cần Thơ), đi qua Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Phan Thiết, Dầu Giây, Long Thành, Bến Lức, Trung Lương, Mỹ Thuận. Việc thực hiện cao tốc khiến Việt Nam trở thành con nợ lâu dài của Tầu cộng.
Ngoài ra còn dự án đường sắt cao tốc bắc – nam dài 1545 km. Theo ông Võ Đại Lược, nguyên viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, ‘‘ngân sách nhà nước còn khó khăn, nợ công cao, nếu thực hiện đường sắt cao tốc với tổng vốn lên tới 58,7 tỷ USD, phần lớn đi vay, sẽ tạo áp lực rất lớn cho ngân sách.’’
Việt Nam vay nợ Tầu cộng với lãi suất cao. Mặt khác, Tầu muốn thực hiện thực hiện dự án này, phù hợp với chủ trương ‘‘Nhất đới nhất lộ’’ ( 一带 一路) do Tập Cận Bình đưa ra. Ta cần ghi nhận việc Tầu cộng không tán thành việc mở mang đường hàng hải bắc – nam mà Việt Nam có lợi thế, vì muốn độc quyền biển Đông.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại sứ Hà Nội tại Bắc Kinh từ 1987 đến 1974, cảnh báo nhà cầm quyền về cạm bẫy của Tầu cộng: ‘‘Vay tiền của Trung Quốc và để Trung Quốc vào làm đường cao tốc Bắc – Nam thì đại đa số người dân không đồng tình, do đó phải suy nghĩ lại. Thời gian kéo dài, sử dụng một lượng nhân lực lớn rải khắp mặt tiền của nước ta, vậy nghĩa là gì? Sẽ có biết bao nhiêu người Trung Quốc cả có phép lẫn không phép, cả dân sự lẫn quân đội trà trộn vào? Phía Việt Nam đã từng ký bao nhiêu hợp đồng lỏng lẻo, dại dột với Trung Quốc để cho họ tự tung tự tác lấn át chủ quyền của ta?’’
Trên đây là danh sách không đầy đủ (liste non exhaustive) những hậu quả khôn lường của hiệp ước Thành Đô mà Việt Nam phải gánh chịu. Liệu năm 2020, Việt Nam có thể biến thành một tỉnh tự trị hay không?
II – Giá trị pháp lý của mật nước Thành Đô (Valeur juridique des accords secrets de Chengdu en droit international public):
Vào năm 1990, hội nghị Thành Đô họp tại Thành Đô (Tứ Xuyên). Theo sự sắp đặt của Tầu, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư) và Đỗ Mười (chủ tịch hội đồng bộ trưởng). Phía Trung Quốc có Giang Trạch Dân (tổng bí thư) và Lý Bằng (thủ tướng), cùng ký vào mật ước. Bắc Kinh cho rằng có chữ ký cấp chính phủ sẽ phát sinh hiệu lực pháp lý (création d’effets juridiques), bắt buộc Việt Nam phải thi hành. Trung cộng khôn mà không ngoan, vì không biết rằng mật ước chịu sự chi phối của luật quốc tế (régi par droit international). Mật ước Thành Đô trở nên vô hiệu tuyệt đối (nullité absolue), căn cứ vào :
– mục 2: sự vô hiệu của các hiệp ước (nullité des traités) ;
– điều 46 của công ước Vienna về quy chế của các hiệp ước (convention Vienne sur le droit des traités) ký ngày 23/05/1969, có hiệu lực ngày 27/01/1980. Quốc hội Việt Nam có trách nhiệm thông báo cho Trung Quốc sự vô hiệu này. Việc thông báo không có thời tiêu (pas de délai de prescription). Sau đây là bốn sai phạm (vices – danh từ pháp luật VNCH trước 1975: hà tì) khiến mật ước Thành Đô trở nên vô hiệu tuyệt đối:
Sai phạm 1: Mật ước Thành Đô vi phạm hiến pháp Việt Nam.
Theo luật gia Hans Kelsen (1881-1973), hệ cấp các quy phạm (hiérarchie des normes) được quy định như sau :
– tính hợp hiến (constitutionnalité);
– tính cách hiệp ước, mật ước (conventionnalité) ;
– tính hợp pháp (légalité).
Điều 3 khoản 1 luật về điều ước quốc tế số 180/2016/QH13 ngày 09/04/2016 của Việt Nam đã quy định ‘‘nguyên tắc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế phải không trái với hiến pháp’’.
Vào thời điểm ký kết mật ước Thành Đô (03-04/09/1990), hiến pháp 1980 của Việt Nam vẫn còn hiệu lực. “Lời nói đầu” của hiến pháp 1980, chống bá quyền Trung cộng viết nguyên văn như sau: “Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến bảo vệ tổ quốc chống bọn phản động Cam-pu-chia ở biên giới Tây-Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.”
Sai phạm 2: Viên chức ký kết vô thẩm quyền
– Theo điều 7 công ước Vienna, người ký kết phải có đủ thẩm quyền (pleins pouvoirs).
– Theo điều 4 luật số 180/2016/QH13 ngày 09/04/2016 về điều ước quốc tế, điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trong các trường hợp sau đây:
- a) Điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác;
- b) Điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vì nội dung mật ước Thành Đô liên quan đến chủ quyền quốc gia nên người ký kết phải là chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Vào thời điểm ký kết mật ước, chủ tịch Hội đồng Nhà nước là Võ Chí Công (giữ chức vụ từ 1984 đến 1992). Chữ ký của Đỗ Mười là vô giá trị.
Sai phạm 3: Mật ước Thành Đô không được Quốc hội phê chuẩn.
Theo điều 18 luật tổ chức quốc hội số 57/2014/QH13 ban hành ngày 20/11/2014, quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn điều ước.
Theo điều 2 khoản 8 luật về điều ước quốc tế, ‘‘phê chuẩn là hành vi pháp lý do Quốc hội hoặc Chủ tịch Nước thực hiện để chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đã ký đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’’.
Vì mật ước Thành Đô không được quốc hội hoặc chủ tịch Nước phê chuẩn nên không phát sinh hiệu lực ‘‘ràng buộc’’ đối với Việt Nam.
Sai phạm 4: Mật ước Thành Đô ký kết bởi các viên chức đã nhận hối lộ:
Điều 50 công ước Vienna quy định việc viên chức ký kết nhận hối lộ (corruption du représentant d’un État) khiến mật ước Thành Đô trở nên vô hiệu.
Viên Lực Phong, giám đốc nhà khách Tỉnh ủy Tứ Xuyên (Kim Ngưu Tân quán) cáo giác việc hối lộ nguyên văn như sau ‘‘Chúng tôi đã bố trí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng, mỗi vị ở riêng một biệt thự, nơi đó họ được hưởng thụ những làn da thu thủy nét xuân xanh, phục vụ nào là tẩm thất, thực đơn hảo hạng hợp khẩu vị, được hầu tận miệng, ăn ít bổ nhiều, thư giãn bằng tẩm quất toàn thân và xem một vài video có tính kích dục, hầu như ba vị không từ chối cách phục vụ này, tất nhiên họ sống không khác nào hoàng đế phong kiến. 48 giờ trôi qua vừa họp mệt nhoài cho nên họ chú ý hưởng thụ, cũng vừa có lý do để cách ly ba vị ấy không còn thời gian để hội ý trước khi Hội nghị’’ (tài liệu đã dẫn).
Chỉ cần một sai phạm cũng khiến mật ước trở thành vô hiệu. Mật ước Thành Đô có tới bốn sai phạm. Bằng chứng hối lộ do Tầu đưa ra cùng với ba sai phạm vừa nói chứng minh mật ước Thành Đô là vô hiệu tuyệt đối (nullité absolue) xét về công pháp quốc tế, không thể thi hành được.
Quốc hội Việt Nam có trách nhiệm thông báo cho Trung cộng :
Vì mật ước Thành đô không có hiệu lực pháp lý nên không có việc Việt Nam bị sáp nhập vào Trung Quốc, trở thành một khu tự trị vào năm 2020.
III – Đô thành Saigon: viễn tượng tái lập chủ quyền cho đất nước (Préfecture de Saigon: la perspective du rétablissement de la souveraineté vietnamienne) ;
Saigon là thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa. Dưới chế độ VNCH, Việt Nam không bị mất một tấc đất nào cho ngoại bang.
Về các quần đảo trong biển Đông, bộ Hồng Đức Bản Đồ soạn năm 1467 vẽ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đại Nam Nhất Thống Bản Đồ (1838) cũng ghi rõ quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc lãnh thổ nước Đại Nam.
– Ngày 13/07/1961, tổng thống VNCH Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 174-NV ấn định quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam.
– Ngày 22/08/1956, tầu HQ-04 của Hải Quân VNCH dựng cờ và bia chủ quyền tại Trường Sa.
– Tổng thống VNCH ký sắc lệnh số 143-NV ghi rõ Trường Sa thuộc tỉnh Phước Tuy.
Công hàm bán nước ngày 14/09/1958 của Phạm Văn Đồng mở đường cho Tầu cộng xâm chiếm Hoàng Sa ngày 14/02/1974.
Việc đối chiếu giữa công hàm của Phạm Văn Đồng và công văn của Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc chứng minh chỉ có chế độ VNCH thực sự bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Vì chế độ cộng sản bán rẻ đất đai và hải đảo của tổ tiên cho ngoại nhân, việc tái lập chế độ VNCH, không phải là nhân sự VNCH, trở nên cấp bách.
Tái lập VNCH là tái lập Nhà nước pháp quyền (État de droit), cũng như rule of law của Hoa Kỳ – Canada, Rechtsstaat của Đức. Đặc tính chung là Nhà nước chịu sự chi phối của pháp luật. Nếu các lãnh đạo chánh phủ phạm tội cũng bị xét xử như mọi công dân khác.
Nhà nước pháp quyền khác hẳn chế độ độc tài cộng sản (mà đảng mập mờ, đánh lận con đen, gọi là chuyên chính): đảng chỉ thị cho quốc hội làm luật, ra lệnh cho công an tác yêu tác quái.
Việc tái lập chế độ cộng hòa có nghĩa là đất nước gắn bó với các nguyên tắc tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền, các quyền tự do căn bản và luật pháp (attachement aux principes de la liberté, de la démocratie, du respect des droits de l’homme et des libertés fondamentales et de l’état de droit). Các nguyên tắc này phải được thể hiện trong các sinh hoạt thường ngày, không chỉ là bánh vẽ mị dân ghi trong hiến pháp, xa rời thực tế
Tượng đài Bà Mẹ Thuyền Nhân giữa lòng Ottawa, thủ đô Canada, nhắc lại việc ra đi tìm tự do của tất cả chúng ta. Rồi sẽ có ngày Bà Mẹ Thuyền Nhân trở về đất nước, lấy lại tự do dân chủ đã bị cộng sản tước đoạt.
Để kết luận cho bài nói chuyện này là bài thơ viết tặng tất cả người Việt tự do trên đất nước Canada:
Bà Mẹ Thuyền Nhân
Mẹ Việt Nam còn vất vả ngược xuôi,
Mắt lo buồn chạy tất tả khôn nguôi:
Ngô, sắn, khoai; chồng tập trung cải tạo
Vượt núi rừng Việt Bắc đến thăm nuôi.
Bồng bế con, biển khơi sóng chập chùng
Quê hương ta nhuộm máu đỏ bần cùng
Nghĩ suy hoài :‘‘Tự do hay là chết’’ ?
Còn kẹt lại, tương lai quá mịt mùng!
Trong bão tố, sóng vùi dập nhấp nhô
Nước hết rồi, dòng sữa cũng cạn khô
Rơi nước mắt, mẹ nhìn con thoi thóp
Trời hộ phù, thuyền cặp bến tự do.
Trên tượng đài mẹ vẫn mãi ngóng trông
Ottawa niềm mong ước trong lòng
Con thơ bé nay công thành danh toại
Canada: đất nước đã cưu mang.
Ottawa, ngày 16/11/2019
From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh
CẢM PHỤC NGƯỜI NHẬT VÔ CÙNG
CẢM PHỤC NGƯỜI NHẬT VÔ CÙNG
13 điều thú vị có thể bạn chưa biết về Nhật Bản
- Bạn có biết rằng trẻ em Nhật làm vệ sinh trường học của chúng mỗi ngày trong vòng 45 phút cùng giáo viên, điều này mở ra một thế hệ người Nhật khiêm tốn và ưa thích sự sạch sẽ.
- Bạn có biết rằng bất cứ công dân Nhật nào mà có nuôi chó thì phải mang theo túi đựng và túi đặc biệt để hốt phân chó khi chúng ị ra trên đường. Họ giải quyết chuyện đó rất vệ sinh và quyết liệt.
- Bạn có biết rằng những người lao công (công nhân vệ sinh) ở Nhật được gọi là “Kỹ Sư Sức Khỏe”; họ có thể yêu cầu một mức lương từ 5000 tới 8000 Đô la Mỹ mỗi tháng. Và một người lao công cũng phải trải qua các bài kiểm tra miệng và kiểm tra viết.
- Bạn có biết rằng nước Nhật không có các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và họ phải chịu đựng hàng trăm trận động đất mỗi năm, nhưng những điều đó cũng không ngăn cản Nhật trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới trong nhiều năm liền (hiện nay phải tạm đứng thứ 3 vì sự trỗi dậy của Trung Quốc).
- Bạn có biết rằng thành phố Hiroshima chỉ cần 10 năm đã trở lại thời phát triển kinh tế đầy sôi động của mình sau khi xảy ra vụ ném bom nguyên tử của Mỹ.
- Bạn có biết rằng Nhật ngăn cấm việc nói chuyện điện thoại trên các tàu điện và xe bus. Ngồi trong tàu điện hay xe bus ở Nhật Bản lúc nào cũng yên tĩnh y như trong 1 thư viện. Mọi người đọc sách, nghe nhạc, nhắn tin, làm việc, ngủ gật… nhưng không ai gây ồn ào hay làm phiền người khác. Nếu có nói chuyện cũng rất nhỏ nhẹ và khẽ khàng.
- Bạn có biết rằng học sinh Nhật Bản từ năm đầu cho tới năm thứ 6 tiểu học phải học về những nguyên tắc xử thế (tạm gọi là đạo đức học thiết thực) để giao tiếp với những người xung quanh.
- Bạn có biết rằng người Nhật tuy là dân tộc giàu có hàng nhất nhì thế giới, họ cũng không có người giúp việc (osin). Trong gia đình thì cha mẹ chịu trách nhiệm chăm lo nhà cửa và con cái.
- Bạn có biết rằng không có bất cứ kỳ thi nào từ lớp 1 cho tới lớp 3 ở cấp tiểu học; bởi vì mục tiêu của giáo dục là truyền đạt các khái niệm và xây dựng nhân cách, không phải là thi thố và nhồi sọ.
- Bạn có biết rằng nếu bạn đến một nhà hàng ăn món tự chọn tự phục vụ (buffet) ở Nhật, bạn sẽ thấy người ta chỉ ăn vùa đủ mà không lãng phí. Không có thức ăn thừa.
- Bạn có biết rằng tỷ lệ tàu lửa hay tàu điện đến trễ ở Nhật chỉ khoảng 7 giây mỗi năm! Người Nhật trân trọng giá trị thời gian, đến từng phút từng giây.
- Bạn có biết rằng trẻ em từ khi học mẫu giáo đã tự làm sạch răng và chải răng sau mỗi bữa ăn ở trường; chúng duy trì việc tự chăm sóc sức khỏe ngay từ thuở nhỏ.
- Bạn có biết rằng sinh viên/học sinh Nhật dành ra khoảng nửa tiếng để ăn một bữa, để đảm bảo cho việc ăn chậm và tiêu hóa tốt. Khi được hỏi về vấn đề này, người Nhật nói: Vì những sinh viên/học sinh đó là tương lai của nước Nhật!
Nguồn: General Knowledge
From: TU-PHUNG
NHỮNG CÂU MẮNG NHỚ ĐỜI

NHỮNG CÂU MẮNG NHỚ ĐỜI
Tiếng Ông Tổ trưởng vang lên từ ngoài cổng: “Sáng mai đi mua gạo nhé”.
Từ mờ sáng, tôi đã cầm cuốn sổ lương thực đi ra điểm bán gạo. Chỗ bán gạo là một cây xăng đã đóng cửa, vì xăng đâu ra mà bán vào thời điểm năm 1977. Người ta đã đến trước tôi và đứng xếp hàng từ bao giờ. 10g sáng, đến lượt tôi tiến lên nhận gạo. Phía dưới chen lấn làm tôi mất thăng bằng và ngã chúi vào đống gạo. Tiếng cô gái đong gạo quát lên: “Cái chị này! Từ từ rồi cũng có gạo, cứ như là chết đói đến nơi. Việc gì mà phải tranh nhau như vậy”. Tôi cảm thấy rất là nhục! Trước ngày Miền Nam bị rơi vào tay Cộng sản, tôi đâu có phải đi mua gạo kiểu này. Đây là lần đầu tôi bị mắng trước một đám đông và tôi cắn răng không nói một lời.
Lần thứ hai là lần đi mua dầu hôi thắp đèn. Những năm đầu của cái ngày gọi là Giải Phóng Miền Nam, điện cúp thường xuyên và phải thắp đèn dầu. Mua được lít dầu là quý lắm. Một lần xếp hàng mua dầu, mỗi nhà hai lít. Tôi đang đứng xếp hàng thì cô đong gạo hôm nọ nhìn thấy tôi: “Chị kia, đừng làm như lần trước đi mua gạo nhé. Lần này mà tranh nhau là sẽ không bán”. Tiếng cô gái the thé vang lên.
– Tôi tranh nhau bao giờ, ăn nói cho cẩn thận. Vừa nói dứt câu, tay Du kích xách súng chạy vào: “Chống đối cán bộ à”? Tù mọt gông đấy! Cả một đám đông nhìn chằm chặp vào tôi, tôi đứng như tượng đá.
Tiếng xì xào vang lên trách móc cô gái đã mắng tôi, còn tay Du kích nói to để cho tôi nghe thấy: “Xem lý lịch gia đình này thế nào, hay là lại đang âm thầm chống lại Nhà nước”.
Tôi xách hai lít dầu đi về nhà và nói với thằng em: “Từ ngày mai, tao không đi mua bất cứ một cái gì mà “chúng nó” bán nữa. Mày đi xếp hàng mà mua.
Và kể từ lần đó, không bao giờ tôi lai vãng đến những chỗ tập trung xếp hàng để mua đồ.
Ngày hôm nay, tôi có thể mua cả xe bồn dầu, vì cháu tôi có cây xăng, nhưng vào cái thời khốn nạn đó, mua được lít dầu là hạnh phúc lắm rồi…
SƯU TẦM
Sinh viên Hồng Kông tại Canada tuyệt thực giữa tiết trời giá lạnh để phản đối cảnh sát tấn công các trường đại học ở Hồng Kông

MB.DKN.TV
KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?
KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Khi nào cuộc đời chúng ta viên mãn? Đến một lúc nào đó trong đời, chúng ta có thể nói được: “Chính là đây! Đây là cao điểm! Từ giờ tôi chẳng thể làm gì hơn thế này nữa. Tôi đã dốc hết sức mình!”
Lúc nào thì chúng ta nói được như thế? Sau khi đạt đến đỉnh cao sức khỏe và sức mạnh thể chất? Sau khi sinh con? Sau khi nuôi dạy con cái thành công? Sau khi có một tác phẩm bán chạy? Sau khi nổi tiếng? Sau khi thắng chức vô địch lớn? Sau khi mừng kỷ niệm 60 năm ngày cưới? Sau khi tìm được tri kỷ? Sau khi bình an trở lại, thoát được cơn dằn vặt kéo dài? Khi nào thì chúng ta có thời điểm đó? Khi nào chúng ta đi đến tận đỉnh con đường trưởng thành?
Nhà thần nghiệm thời trung cổ, Gioan Thánh Giá nói cho rằng chúng ta đạt đến điểm này khi đến được “tâm điểm thâm sâu nhất của mình.” Nhưng với ngài, tâm điểm thâm sâu nhất trong linh hồn này, lại không giống với quan niệm thường có của chúng ta. Với thánh Gioan, tâm điểm thâm sâu nhất này chính là điểm tối đa có thể trong sự tiến triển của con người, sự trưởng thành thâm sâu nhất có thể đạt được trước khi chết. Nếu thật là thế, thì với một bông hoa, tâm điểm thâm sâu nhất, điểm tột đỉnh tiến triển của nó, sẽ không phải là lúc nở hoa, mà là lúc nó chết và tạo thành hạt giống. Đó là sự tiến triển xa hơn, là thành tựu tối cùng của nó.
Vậy còn điểm tiến triển tối hậu của chúng ta là gì? Tôi cho rằng chúng ta có khuynh hướng nghĩ nó như một thành tựu tích cực và cụ thể, như thành công trong sự nghiệp, hay một thành tích về thể thao, trí tuệ hay nghệ thuật đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn, công nhận và danh tiếng. Nhưng nếu nhìn từ quan điểm ý nghĩa sâu xa, có lẽ chúng ta sẽ trả lời theo kiểu khác, nói rằng thành tựu tối hậu của chúng ta là một hôn nhân trọn vẹn, được làm cha mẹ, hay sống cuộc đời phục vụ tha nhân.
Vậy nếu như một bông hoa, khi nào chúng ta sẽ tạo thành hạt giống đây? Henri Nouwen cho rằng người ta sẽ có những câu trả lời rất khác nhau cho câu hỏi này. “Với một số người, đó là tận hưởng ánh hào quang của danh tiếng, với số khác, là khi họ được hoàn toàn quên lãng, với một số là khi họ đạt đến tột đỉnh sức mạnh, với số khác là khi họ yếu đuối và vô lực, với một số là khi năng lực sáng tạo triển nở, với số khác là khi họ mất hết tự tin vào năng lực của mình.”
Vậy lúc nào thì Chúa Giêsu tạo thành hạt giống của Ngài, sự viên mãn của Ngài? Với Chúa Giêsu, đây không phải là ngay sau phép lạ làm cho dân chúng kinh ngạc, cũng không phải khi Ngài đi trên mặt nước, hay khi Ngài vang danh khắp cõi Israel đến nỗi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua. Không phải như thế. Vậy lúc nào Chúa Giêsu không còn gì nữa để vươn đến?
Và Henri Nouwen lại một lần nữa cho chúng ta câu trả lời này. “Tuy nhiên, chúng ta biết một điều, với Con Người, mọi sự đến hồi viên mãn, khi Ngài mất hết tất cả, mất quyền uy để lên tiếng và chữa lành, mất sự thành công và tầm ảnh hưởng, mất môn đệ và bạn bè, thậm chí là mất cả Chúa của mình. Khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự, bị tước hết phẩm giá con người, Ngài biết rằng mình đã đến thời điểm đó, và nói, ‘Mọi sự đã hoàn tất!’”
Chữ hoàn tất ở đây có gốc Hy Lạp là Tetelesti. Đây là một diễn đạt được các họa sĩ dùng để nói rõ rằng tác phẩm đã hoàn thiện và không thêm thắt gì nữa. Nó còn được dùng để thể hiện việc gì đó đã xong. Ví dụ như, chữ Tetelesti được đóng dấu trên các bản án sau khi phạm nhân đã mãn hạn tù, còn được ngân hàng dùng đóng trên giấy ghi nợ đã trả xong, được gia nhân dùng khi báo cáo với chủ đã hoàn thành công việc, và được các vận động viên thốt lên khi băng qua vạch đích.
Đã hoàn tất! Một bông hoa chết đi để tạo thành hạt giống, nên cũng hợp lý khi đây là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu. Trên thập giá, vẫn trung tín đến cùng với Chúa Cha, với lời của mình, với lòng yêu thương mà Ngài đã giảng dạy, Ngài thôi sống và bắt đầu chết, và đấy là khi Ngài tạo thành hạt giống của mình, khi thần khí Ngài bắt đầu ngấm vào thế giới. Ngài đã đến tâm điểm thâm sâu nhất của mình, cuộc đời Ngài đã viên mãn.
Vậy khi nào chúng ta thôi sống và bắt đầu chết? Khi chúng ta đi từ đóa hoa nở rộ đến tạo thành hạt giống? Nhìn qua, thì dĩ nhiên là khi sức khỏe, uy lực, danh tiếng và sự thu hút của chúng ta bắt đầu suy giảm và mờ nhạt đi, bị đẩy dần ra rìa và xuống dốc. Nhưng khi nhìn qua lăng kính cuộc đời Chúa Giêsu, thì chúng ta thấy rằng khi mờ nhạt đi, như một bông hoa đã qua thời điểm bung nở, chúng ta bắt đầu tạo ra một sự gì đó còn hấp dẫn hơn cả nở hoa. Đó là khi chúng ta có thể nói, “Đã hoàn tất!”
Rev. Ron Rolheiser, OMI
From: Langthangchieutim
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hồng Kông, vì lòng tốt sẽ quay trở lại…













