Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha từ Hiroshima

Image may contain: one or more people and night

Lm Trần Chính Trực is with Trần Chính Trực.

LƯƠNG CŨNG NHƯ GIÁO, ĐẶC BIỆT NHỮNG NGƯỜI ĐANG NẮM QUYỀN, NÊN ĐỌC SỨ ĐIỆP NÀY CỦA ĐỨC THÁNH CHA. NẾU BẠN THIỆN CHÍ, BẠN SẼ THẤY SỨ ĐIỆP NÀY THẬT BỔ ÍCH. NẾU BẠN VÌ LỢI ÍCH NHÓM, VÌ TƯ LỢI CÁ NHÂN, VÌ MỤC ĐÍCH CŨNG CỐ QUYỀN LỰC CHO BẢN THÂN VÀ NGƯỜI THÂN, CÓ THỂ HỌ KHÔNG THÍCH SỨ ĐIỆP TUYỆT VỚI NÀY.

                                                              ***
Sứ điệp hòa bình của Đức Thánh Cha từ Hiroshima

Đức Thánh Cha Phanxicô tưởng niệm các nạn nhân bom nguyên tử

Trong buổi cầu nguyện cho các nạn nhân bom nguyên tử tại Hiroshima, chiều tối ngày 24/11/2019, Đức Thánh Cha Phanxicô tái kêu gọi thế giới từ bỏ việc sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục tiêu chiến tranh, và vượt thắng mọi bất đồng bằng con đường đối thoại.

(G. Trần Đức Anh, O.P)

Sau thánh lễ chiều ngày 24/11 tại sân dã cầu ở thành phố Nagasaki, Đức Thánh Cha đã ra phi trường để đáp máy bay, lúc quá 4 giờ rưỡi chiều, đi Hiroshima, để tưởng niệm các nạn nhân bom nguyên tử và gióng lên sứ điệp hòa bình.
Sau hơn 1 giờ bay, Đức Thánh Cha tới Hiroshima, thành phố có gần 1 triệu 200 ngàn dân cư, đông gần gấp 3 Nagasaki, là nơi quả bom nguyên tử đầu tiên trong lịch sử được ném xuống đây ngày 06/08/1945 làm cho 150 ngàn người chết tức khắc, hàng chục ngàn người chết trong những năm tháng sau đó vì phóng xạ.
Từ phi trường, Đức Thánh Cha đi bằng xe thêm 53 cây số để tới Công viên tưởng niệm hòa bình, tại nơi bom nguyên tử được ném xuống. Đài tưởng niệm hòa bình được thiết lập năm 1954 trên khu đất rộng hơn 120 ngàn mét vuông, xung quanh là những vườn cây và nhiều cơ cấu tưởng niệm khác.
Đài tưởng niệm có mái vòm bằng kiếng và trong khu vực này cũng có một thính đường và một bảo tàng viện hòa bình.
Khi đến đây lúc 8 giờ 40 phút giờ địa phương, Đức Thánh Cha đã được ông Tỉnh Thưởng, thị trưởng và chủ tịch hội đồng thành phố chào đón. Ngài ký vào sổ vàng lưu niệm và chào thăm 20 vị lãnh đạo tôn giáo, và đại diện các nạn nhân, trước khi đặt vòng hoa trước đài tưởng niệm.
Đức Thánh Cha và 1300 người hiện diện cầu nguyện trong thinh lặng theo nhịp tiếng chiêng nhẹ nhàng.

Rồi mọi người lắng nghe chứng từ của hai người sống sót: một phụ nữ 14 tuổi khi xảy ra vụ ném bom. Bà đã chứng kiến tình trạng bao nhiêu người thân yêu, bạn hữu và những người quen biết chết vì bệnh ung thư do phóng xạ nguyên tử. Bà làm việc không ngừng để cổ võ bài trừ hạt nhân.

Chứng từ thứ hai của một nạn nhân, ông không đến được, nên một người đã đọc thay chứng từ. Lúc ấy ông mới 17 tuổi. Tuy sống sót nhưng ông chịu đau khổ rất nhiều vì những hậu quả.

SỨ ĐIỆP HOÀ BÌNH CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ

Đức Thánh Cha nói: “Tại nơi này, bao nhiêu người nam nữ, những mơ ước và hy vọng của họ chỉ còn lại bóng đen và thinh lặng sau khi luồng chớp và lửa lóe lên. Trong khoảnh khắc, tất cả bị thiêu hủy do một hố đen tối tàn phá và chết chóc. Từ vực thẳm thinh lặng ấy, ngày hôm nay người ta còn tiếp tục lắng nghe tiếng kêu mạnh mẽ của những người không còn nữa. Họ đến từ nhiều nơi khác nhau, có những tên khác nhau, một vài người trong số họ nói những tiếng khác. Nhưng tất cả cùng chung một số phận, trong một giờ thảm khốc mãi mãi đánh dấu không những lịch sử đất nước này, nhưng cả khuôn mặt của nhân loại.”

Nơi đây, tôi nhớ đến tất cả các nạn nhân và cúi mình trước sức mạnh và phẩm giá của những người sống sót sau những lúc đầu tiên ấy, nhưng trong nhiều năm trời, đã chịu trong thân thể họ những đau đớn cấp tính nhất, và trong tâm trí họ, những mầm mống của sự chết đã tiếp tục tiêu hao sinh lực của họ”.

Như người lữ hành hòa bình trước những đe dọa

Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tôi cảm thấy có nghĩa vụ phải đến nơi này như một người lữ hành hòa bình, để cầu nguyện, nhớ đến các nạn nhân vô tội của bao nhiêu bạo lực, mang trong tâm hồn những lời cầu khẩn và khát vọng của những người nam nữ thời nay, đặc biệt là những người trẻ, họ đang mong ước hòa bình, làm việc cho hòa bình, hy sinh cho hòa bình…”

“Với lòng khiêm hạ, tôi muốn là tiếng nói của những người, mà tiếng nói của họ không được lắng nghe. Họ lo âu bất an nhìn những căng thẳng đang gia tăng trong thời nay, những bất bình đẳng và bất công không thể chấp nhận được, đang đe dọa sự sống chung của nhân loại, sự bất lực trầm trọng trong việc chăm sóc căn nhà chung của chúng ta, sự liên tục và nhất thời tìm tới các võ khí, như thể chúng bảo đảm một tương lai hòa bình.”

LÊN ÁN VÕ KHÍ HẠT NHÂN

“Với tất cả xác tín, tôi muốn lập lại rằng sử dụng năng lượng hạt nhân vào những mục tiêu chiến tranh, ngày nay hơn bao giờ hết, là một tội ác, không những chống lại con người và nhân phẩm, nhưng còn chống lại mọi khả thể tương lai trong căn nhà chung của chúng ta. Sự sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục tiêu chiến tranh là vô luân. Chúng ta sẽ bị phán xét về điều này. Các thế hệ tương lai sẽ đứng lên làm người xét xử sự thất bại của chúng ta, nếu chúng ta nói về hòa bình mà không thi hành hòa bình bằng những hoạt động của chúng ta giữa các dân tộc trên trái đất. Làm sao chúng ta có thể nói về hòa bình trong khi chúng ta kiến tạo những võ khí mới mẻ và kinh khủng? Làm sao chúng ta có thể nói về hòa bình trong khi chúng ta biện minh cho một số hành động bất hợp pháp với những diễn văn kỳ thị và oán ghét? …”

CHẤP NHẬN NHỮNG KHÁC BIỆT

Việc kiến tạo hòa bình trong sự thật và công lý có nghĩa là nhìn nhận rằng “rất nhiều khi có những khác biệt, cả những dị biệt lớn lao, trong kiến thức, trong nhân đức, các khả năng phát minh, trong việc sở hữu của cải vật chất” (Pacem in terris, 49), nhưng điều đó không bao giờ có thể biện minh cho chủ ý áp đặt cho người khác những sở thích đặc thù của mình. Trái lại tất cả những điều đó có thể là một lý do để lãnh trách nhiệm và tôn trọng nhiều hơn. Cũng vậy, các cộng đồng chính trị, có thể có những khác biệt hợp pháp với nhau về mức độ văn hóa hoặc phát triển kinh tế, đều được kêu gọi dấn thân làm việc “cho sự thăng tiến chung”, cho thiện ích của tất cả mọi người (ibid. 49-50).

“Thực vậy, nếu chúng ta thực sự muốn xây dựng một xã hội công bằng và an ninh hơn, chúng ta phải rời bỏ khí giới: “Không thể yêu thương mà tay cầm võ khí tấn công” (Paul VI, ngày 04/10/1965 tại Liên Hiệp Quốc, n.5) …

BA MỆNH LỆNH LUÂN LÝ

Đức Thánh Cha cũng khẳng định rằng: “Tưởng nhớ, đồng hành với nhau, bảo vệ. Đó là ba mệnh lệnh luân lý, càng có một ý nghĩa mạnh mẽ và phổ quát hơn tại Hiroshima này, và chúng có khả năng mở ra một con đường hòa bình thực sự. Vì thế, chúng ta không thể để cho các thế hệ hiện tại và tương lai mất ký ức về những gì đã xảy ra. Ký ức là một bảo đảm và khích lệ để xây dựng một tương lai công chính và huynh đệ hơn; ký ức lan truyền, để thức tỉnh lương tâm của tất cả mọi người nam nữ, nhất là những người ngày nay đang giữ một vai trò đặc biệt đối với vận mệnh của các dân nước; ký ức sinh động giúp nói từ thế hệ này sang thế hệ khác: không bao giờ xảy ra nữa!”

HIỆP NHẤT VÀ HY VỌNG

“Chính vì thế, chúng ta được kêu gọi cùng hiệp nhất tiến bước với nhau, với cái nhìn cảm thông và tha thứ, mở ra chân trời hy vọng và mang những tia sáng vào giữa nhiều đám mây đang làm cho bầu trời đen tối. Chúng ta hãy mở cửa đón nhận hy vọng, trở thành những dụng cụ hòa giải và hòa bình. Điều này sẽ luôn có thể thực hiện được, nếu chúng ta có khả năng bảo vệ và nhìn nhận nhau như anh em trong cùng một vận mệnh chung. Thế giới chúng ta có liên hệ với nhau, không những vì sự hoàn cầu hóa, nhưng vẫn luôn vì trái đất chung, đang đòi hỏi hơn các thời khác, hãy ngưng những quyền lợi của những nhóm hoặc phe phái, để đạt tới sự cao cả của những người đang chiến đấu trong tinh thần đồng trách nhiệm, để bảo đảm một tương lai chung.”

KHÔNG BAO GIỜ CHIẾN TRANH NỮA

“Trong một lời khẩn cầu duy nhất, cởi mở đối với Thiên Chúa và tất cả những người nam nữ thiện chí, nhân danh tất cả các nạn nhân các vụ dội bom, những vụ thí nghiệm hạt nhân và tất cả các cuộc xung đột, chúng ta cùng nhau gióng lên một tiếng kêu: không bao giờ chiến tranh nữa, không bao giờ còn những tiếng nổ của võ khí, không bao giờ nhiều đau khổ như vậy nữa! Ước gì hòa bình đến trong thế giới chúng ta ngày nay. Lạy Thiên Chúa, Chúa đã hứa với chúng con: Tình thương và chân lý gặp nhau. Công lý và hòa bình hôn nhau. Chân lý sẽ nảy mầm từ lòng đất và công lý sẽ xuất hiện từ trời” (Tv 8,11-12).

“Lạy Chúa xin hãy đến, vì trời đã tối, và nơi nào đầy tàn phá, ước gì ngày hôm nay được dồi dào hy vọng, có thể viết và thực hiện một lịch sử mới. Lạy Chúa là Vua hòa bình, xin làm cho chúng con trở thành những dụng cụ và phản ánh hòa bình của Chúa!”
Kết thúc buổi cầu nguyện, Đức Thánh Cha đã trở lại phi trường để đáp máy bay trở lại Tokyo và về đến Tòa Sứ Thần lúc 10 giờ rưỡi đêm.

LỪA CHÍNH MÌNH…

LỪA CHÍNH MÌNH…

Ngồi phê phán đám Hong Kong ngu xuẩn, phá rối, và bị xúi dục.

Lập luận là:

sao không ổn định, sao đi phá rối, sao lại đập phá, sao đốt xe cảnh sát, sao không đi ra Tsim sha Tsui mà ăn hàng, shopping, selfie Facebook có phải vui không!

Dẫn chứng là:

Ta đây ở VN ăn rẻ, check-in sang chảnh, đi taxi khỏi xếp hàng, ăn quán lề đường vui, uống rượu lái xe thoải mái, xả rác vô tư, cà phê suốt ngày.. và rất tự do. Có ai cấm gì đâu nè!

Dạ, ấy là tự lừa dối mình, là phép Tự Thắng trong AQ của Lỗ Tấn..

Dân Hong Kong đâu có ngu.

Thu nhập bình quân $62k một năm, hơn cả Mỹ, họ đâu có nghèo.

Họ là một trong 3 trung tâm tài chính thế giới, họ hiểu đồng tiền và giá trị của Tư Bổn, vốn!!

Trường Đại Học top ten của thế giới, họ đâu dở.

Hệ thống giao thông hiệu quả từng góc phố, bến du thuyền đẹp tuyệt vời, hàng ngàn cao ốc như Landmark 81, địa ốc có giá nhất nhì thế giới, film ảnh nổi tiếng, hàng hoá phong phú, họ đâu có gì phải phàn nàn..

Hộ chiếu HK đi được 150 đất nước mà không cần xin visa trước, vậy là quá Tự Do rồi còn gì..

Vậy tại sao kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ, giáo viên, sinh viên, luật sư, thương gia, những thành phần ưu tú, tiên tiến của xã hội… cả người già, trẻ em… lại lao ra đường, bất chấp hiểm nguy, tánh mạng, mưa nắng, đêm ngày để gào thét, để bị đánh đập, bắt bớ, thủ tiêu, tù tội?

Nào phải vài ba trăm người, mà có lúc lên đến 2 triệu, gần một 1/3 dân xuống đường cùng một lúc, đây là tỉ lệ biểu tình cao nhất trên thế giới!

Tại sao vậy?

Là vì TỰ DO!

Sao lại Tự Do, có ai cấm họ ăn, ngủ, ai cấm đi lại, cấm mua sắm, tem phiếu gì đâu, ai cấm đức tin, ai bắt đi làm nô lệ đâu?

Ấy là cái Tự Do về Tư Tưởng, về Bầu Cử, về Quyền biểu quyết vận mệnh mình và thành phố, Quyền được lắng nghe, Quyền được nói ra.. cái đó nó quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác, kể cả được sống sung túc trong sợi xích.

Khi bạn không có Tư Duy thì bạn sẽ không hiểu được Tự Do Tư Duy!!

Chuyện bắt đầu từ khi HK được trao trả cho TQ, họ được hứa là được Tự Do, Tự Trị, Dân Chủ ít nhất cho đến năm 2047. Họ có quyền có luật riêng (ví dụ HK tưởng niệm Thiên An Môn, nhưng Trung Hoa Lục Địa thì không hề), có toà án riêng, có lãnh đạo của họ.., nhưng TQ đã nuốt lời.

Từ năm 2012, TQ muốn thay đổi giáo dục trẻ em HK là yêu đảng cộng sản, TQ thất bại.

TQ cho bầu cử, nhưng do đảng chọn, dân bầu, giống như ba mẹ bảo con muốn ăn gì thì ăn, mì tôm hay mì gói?!

Khi lãnh đạo và pháp luật thuộc TQ thì nó sẽ phục vụ đảng cs TQ.

Ví như cảnh sát HK trong film rất nghĩa hiệp, lịch sự, bảo vệ dân lành, thì nay quay lại bắn giết, đánh đập, bắt bớ dân mình.. vì cs hồi xưa là Hoàng Gia Anh Quốc, giờ cảnh sát nghe lệnh của đảng.

Năm 2014, cảnh sát dùng hơi cay và vòi rồng giải tán đám đông, vi phạm quyền Tự Do Hội Họp, thì dân dùng dù để che, nên phong trào Dù Vàng ra đời.

Hoàng Chí Phong, mười mấy tuổi, đã nêu rõ, không muốn phải học cái nhồi sọ, cái độc tôn và sai sự thật, không muốn internet định hướng, truyền thông kiểm duyệt, suy nghĩ bị định đoạt, không muốn đồng hoá yêu nước là yêu đảng, không muốn làm con trừu non..

Năm nay, luật Dẫn Độ xem như huỷ luôn luật pháp HK, mất quyền tự chủ.

Dân Lục Địa sang HK phạm pháp thì được đưa về TQ xử, coi như HK vô luật pháp, còn dân HK nếu bị khép vào tội gì đó, kể cả chính trị, thì bị dẫn về TQ, không ai bào chữa và bảo đảm công lý cho họ..

Dân HK sống 99 năm Tự Do, nên hiểu và quý Tự Do. Họ trải qua 22 năm với cs TQ, họ nhìn ra tương lai.

Và Biểu Tình nổ ra.

Bạo lực leo thang khi cảnh sát dùng bạo lực để trấn áp, hơi cay, vòi rồng, và cả đạn thật để giết người.. khi ấy thì luật Tự Do Biểu Tình đã tắc tử.

Cảnh sát chơi bẩn, trà trộn, phá hoại và lấy cớ đàn áp người dân vốn dĩ hiền lành, nên dân mới điên lên và bạo loạn.

Cảnh sát triệt ĐH Bách Khoa, vì nơi ấy là trung tâm internet để kiểm soát mọi tin tức và liên lạc..

Vậy cảnh sát bạo động hay dân phá hoại?

Dân HK sợ một ngày họ sẽ bị như Tân Cương, Tây Tạng, hay hội viên Pháp Luân Công, bị bắt bỏ đạo, bị bắt thuần phục, bị chém giết, bị đồng hoá, bị xoá sổ… nên họ lên tiếng đòi quyền sống.

Quyền sống với tất cả ý nghĩa của con Người, chứ không phải con chó bị xích nhưng cho ăn đầy đủ mập mạp!

Nếu Carrie Lâm do dân HK bầu ra, ắt hẳn đã làm tất cả để bảo vệ, bênh vực, che chở cho dân mình. Nhưng bà ta lại do đảng chỉ định, nên phải dẹp loạn, nên càng loạn. Đó, cái khác của Dân làm Chủ và Độc đảng là chỗ đó.

Cái gì không có cạnh tranh, không có chỉ trích, không có kiểm quyền lực đan chéo thì không thể phát triển và tốt đẹp được.

Bây giờ thì ta thấy, tại sao Tự Do không gói gọn trong việc được đi chơi, được la hò khi bóng vào lưới, được ăn ngon mặc đẹp nhất thời..

Khi em nói em được đánh giày với giá 15k lẻ, có nghĩa là em đang bóc lột thằng đánh giày, nó phải làm vì nó đói.

Khi em đi Taxi không cần xếp hàng, nghĩa là dân thất nghiệp đông quá, lo chạy Grap tranh nhau sống.

Khi em ăn quà dễ dàng, vì quá nhiều bà mẹ còng lưng nuôi con.

Em bảo không nên quan tâm chính trị, quan tâm chính em thôi, thì em mặc định chấp nhận kẻ lãnh đạo, và họ muốn làm gì thì làm, nói nhăng cuội, và tham nhũng cuồng điên. Giả như thị trưởng là dân bầu, ổng phải làm việc cho dân, đường ngập thì phải thông cống, đường chật thì phải xây thêm, bệnh viện phải đầy đủ, trường lớp phải ra trò, nếu ổng và nội các ổng không làm được, thì bị đuổi cổ, và trăm ngàn người giỏi và có trách nhiệm lên thay, cái cạnh tranh và đấu đá đó tự nó thúc đẩy xã hội phát triển và hoàn thiện.

Em sẽ không phải kẹt xe trong ngập lụt, không phải chen chúc dưới gầm giường bệnh viện, sẽ không phải tìm đường cho con em du học sau này.. tất tần tật là chính trị ấy.

Em ăn ngon, mặc đẹp, vì em may mắn có được đặc quyền, đặc lợi, hay có ai đó bảo bọc cho em..

Cái tự do em đang có là tự do nhục dục, tự do ích kỷ, tự do tạm thời, tự do gói gém trong cái hưởng thụ ngắn ngủi và hạn hẹp!

Cái Tự Do họ tranh đấu nó ở mức cao hơn:

Tự Do là từ trong Tư Tưởng, và kiểm soát quyền lực, mong mang lại điều tốt nhất cho đời sống. Quyền chọn ra hệ thống phục vụ cho dân, chứ không phải nhóm lãnh đạo!

QUỐC VINH

Image may contain: outdoor
Image may contain: one or more people and shoes

Văn Minh Trung Hoa & Văn Hoá Búa Liềm

Văn Minh Trung Hoa & Văn Hoá Búa Liềm

HongKong CN 1

Quân tử sống vì nghĩa, tiểu nhân sống vì lợi.

Khổng Tử


Tuần lễ cuối tháng bẩy của năm 2019, Tạp Chí Luật Khoa đã đăng tải một loạt bài viết rất cô đọng và giá trị của bỉnh bút Y Chan:

Kỳ 1: Đài Loan – phòng lab phản dân chủ đầu tiên của Bắc Kinh
Kỳ 2: Úc – Mảnh đất lành để khai (và) phá
Kỳ 3: Mỹ – vào hang cọp bắt cọp
Kỳ 4: Hệ thống tuyên giáo toàn cầu và sứ mệnh gieo hạt giống đỏ
Kỳ 5: Làm thế nào để chống lại cơn bão Trung Quốc?

Tác giả bỏ rất nhiều thời gian, cũng như công sức, để thu thập dữ liệu về những nỗ lực “gieo hạt giống đỏ toàn cầu” của Trung Hoa Lục Địa.

Ở Đài Loan: “Họ thao túng, nhuộm đỏ, giới truyền thông của đảo quốc này bằng sức mạnh của kim tiền.”

Ở Úc Châu: “Họ áp dụng công thức 3C: Covert, Coercive, Corrupting – Đội lốt, Đe nạt, Đút lót.”

Ở Hoa Kỳ: “Họ có các mối quan hệ mật thiết và kín đáo với những quan chức liên bang, với các nghị sĩ quốc hội. Họ thiết lập quan hệ và thỏa thuận riêng với nhiều bang, nhiều thành phố. Họ dùng các tổ chức ‘mặt trận’ tìm cách kiểm soát cộng đồng người gốc Hoa. Họ giám sát nhất cử nhất động của các sinh viên TQ. Họ dùng tiền thu phục những nhóm nghiên cứu (think tank) để tạo ảnh hưởng đến cộng đồng. Họ bước vào trận chiến thông tin từ khắp ngả, vỗ thẳng mặt, đánh từ bên hông, và âm thầm úp từ phía sau. Họ gây áp lực, biến các doanh nghiệp thành đồng minh, thậm chí là công cụ. Và họ đánh cắp tất cả những phát minh sáng tạo nào mà không thể mua được bằng tiền.”

Tác giả Y Chan kết luận:

“Nếu sức mạnh mềm phiên bản làm mòn của Trung Quốc (TQ) không nhận được bao nhiêu phản ứng tích cực từ các nước phương Tây, thì ở nhiều ‘mặt trận’ khác trên thế giới, và đối với nhiều tổ chức cá nhân, sức hút của nó là không thể xem thường.”

Tôi vô cùng trân trọng lời cảnh báo thượng dẫn, và hoàn toàn không dám “xem thường” thằng Tây hay con Tầu nào hết. Tuy thế, bằng kinh nghiệm bản thân (tất nhiên là hạn hẹp, chủ quan và có phần phiến diện) tôi vẫn thành thực tin rằng “văn hóa kim tiền và búa liềm” của TQ không có ảnh hưởng chi đáng kể – nơi tầng lớp đại chúng – nơi vài quốc gia mà mình đã có dịp sống qua: Miên, Lào, Miến Điện, và Hương Cảng.

Cách đây chưa lâu, The Cambodia Daily hớn hở loan tin: “Spring Festival Gala a Display of China’s Soft Power.” Xin được trích dẫn một đoạn ngắn, theo bản dịch của Hồng Thủy: “Trung Quốc và Campuchia đã cùng tổ chức một chương trình văn nghệ truyền hình trực tiếp Festival Mùa Xuân tại đảo Koh Pich ở Phnom Penh. Chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng kéo dài 2 giờ 30 phút với sự có mặt của vợ chồng Thủ tướng Hun Sen do đài truyền hình quốc gia Campuchia và đài truyền hình tỉnh Vân Nam đồng tổ chức.”

HongKong CN 2

Chỉ cần nhìn qua đôi màn “biểu diễn hoành tráng” như thế này thôi, cũng đủ khiến tôi lo ngại rằng có sự nhầm lẫn (đáng tiếc) giữa xiếc Tầu với văn hoá Trung Hoa. Vợ chồng T.T Hun Sen, cùng đám tướng lãnh và vợ con những quan chức cao cấp của Cambodia hiện nay (có thể) vì tối mắt với những khoản viện trợ hào phóng nên không thấy được sự dị biệt này nhưng dân chúng của Xứ Chùa Tháp thì “tinh tế” hơn nhiều. Họ nhận ra được sự giả danh văn minh Trung Hoa qua mọi “sinh hoạt văn hoá” được Trung Cộng tài trợ.

Bởi thế, những trường quốc tế ở đất nước này (British International School, Canadian International School,  Western  International School,  Northbridge International School, Australian International School, Singapore International Academy, Lycée FrançaiRené Descartes …) dù học phí cao vẫn có học sinh, còn Viện Khổng Tử ở Phnom Penh thì không mấy ai lai vãng. Được thành lập từ năm 2009 nhưng đến nay cái học viện Khổng Tử giả danh này vẫn chưa có nổi một cái website, và FB (CIRAC) của viện cũng chả có người nào bước chân vào cả. Người Miên chớ có phải người điên đâu mà đi học tiếng Tầu!

Người Lào cũng vậy. Đức Khổng Phu Tử (thiệt) e cũng chưa chắc đã có chỗ đứng giữa núi rừng của xứ Triệu Voi, nơi mà lễ giáo và phép tắc rườm rà – xem ra – không cần thiết lắm. Nói chi đến cái thứ lễ nghĩa và đạo đức (giả) chuyên nói một đằng làm một nẻo của Văn Hoá Búa Liềm.

Trí trá, gian xảo, quỷ quyệt là những thuộc tính có thể “gần” với dân Việt nhưng hoàn toàn xa lại với cái “tạng” chân chất của dân Lào. Họ quan tâm đến những sinh hoạt tâm linh, chiêm bái, và lễ lạc hơn là việc kiếm tiền … bằng mọi giá. Ngó bộ thì dân Lào hợp với Tây hơn là Tầu.

Khi đi lang thang ở Vientianne, tôi cứ có cảm tưởng như là Pháp chưa bao giờ rời khỏi xứ Lào và Tầu thì chưa bao giờ có mặt ở nơi đây – dù chỉ một ngày. Tên của những cơ quan cấp bộ vẫn giữ y chang như thời thuộc địa: MINISTÈRE DE L’ENERGIE ET DES MINES, BỘ NĂNG LƯỢNG VÀ KHOÁNG SẢN –  MINISTÈRE DE LA JUSTICE, BỘ TƯ PHÁP – MINISTÈRE DE LA SANTÉ, BỘ Y TẾ … Patrick Boehler, phóng viên của New York Times, có một nhận xét khá bất ngờ và hơi giễu cợt: “Lào, dường như, là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không có nhật báo tiếng Hoa.” (Laos, it seems, is the only Southeast Asian nation without a Chinese language daily newspaper.) Nhiều tỷ đồng Nguyên đã ào ạt “đổ” vào đất nước này, từ mấy thập niên qua, cứ như là nước đổ lá môn vậy thôi.

Tiếng Hoa, xem ra, không có duyên lắm với người Lào. Chả riêng chi Thủ Đô Vạn Tượng, nơi những thôn bản xa xôi heo hút (suốt từ Thượng Lào xuống đến Nam Lào) cũng thế, cũng bói chả ra được một chữ Tầu nào ráo.

HongKong CN 3

Chả ai ngây thơ đến độ tin rằng người Pháp chiếm thuộc địa chỉ để thực hiện “sứ mệnh khai hóa” cả. Tuy thế, cũng khó ai có thể phủ nhận được rằng tuy tận lực bóc lột đám dân bản xứ nhưng bọn thực dân Tây cũng không quên việc xây dựng hạ tầng cơ sở (cầu cống, đường xá, bưu trạm, bệnh viện, trường học … ) một cách rất đàng hoàng và nghiêm chỉnh. Đám tân thực dân Trung Hoa hiện nay thì e không được tử tế như thế.

Đâu thì không biết, chớ Sihanoukville (một trong những nơi được xem là trọng điểm trên lộ trình One Belt One Road – OBOR – của Tập Cận Bình) thì tôi có ghé chơi vài bữa. Ở thành phố cảng này, tôi đếm được khoảng gần 100 cái casino và building sang trọng của người Hoa. Xen cạnh là vô số restaurant cùng supermarket – đỏ rực bảng hiệu tiếng Tầu – nằm san sát hai bên những con đường lỗ chỗ ồ gà, ngập ngụa rác rưởi, và mịt mù khói bụi. Nơi đây, người Tầu ở biệt lập trong những khách sạn hay những khu chung cư cao cấp. Họ chỉ chia chung với dân bản xứ những dòng nước suối đen ngòm (lềnh bềnh chai lọ nhựa) lừ đừ chảy qua những ngõ ngách chật chội và hôi thối.

Miến Điện cũng là một “cas” thú vị khác. Đất nước này sau nhiều thập niên đóng cửa và ai cũng tưởng chừng như là đã bị nhuộm đỏ lòm rồi. Tưởng vậy là Tưởng Tầm Bậy. Hai bức hình bên dưới, tôi chụp được ở Rangoon vào năm 2016. Tôi đố bạn tìm được một chữ Tầu nào trong đó, nửa chữ cũng khỏi có luôn. Dù mang tiếng là đồng minh của Trung Cộng trong mấy thập niên qua nhưng Miến Điện vẫn đủ sáng suốt để không tin tưởng gì lắm về thiện ý của ông bạn láng giềng: “Myanmar does not fully trust China’s intentions” (*).

HongKong CN 4

Mà cũng chả cần phải qua tuốt bên Miên hay Miến làm chi cho má nó khi. Cứ tà tà thả bộ trên đường Nathan (con lộ chính của Hồng Kông) rồi vỗ vai bất cứ một thanh niên hay thiếu nữ nào hỏi xem họ có phải là người Tầu không – chắc chắn – bạn sẽ nhận được câu trả lời cùng cái quắc mắt (giận dữ) của người đối diện: I’m HongKonger Ain’t Chinese.

HongKong CN 5

Chưa đến 4 phần trăm thế hệ trẻ tuổi từ 18 đến 29 nhận mình là dân Tầu trong năm 2017. Less than 4 percent of the young generation ages 18 through 29 identified as Chinese in 2017, according to HK01. Con số này có thể sẽ hoá âm sau những biến động đẫm máu, tại Hồng Kông, vào năm 2019.

Nhà nước Trung Hoa Lục Địa, rõ ràng, không thể xử dụng quyền lực mềm ở bất cứ nơi đâu. Lý do, giản dị, chỉ vì giới lãnh đạo của xứ sở này thuần là một bọn tiểu nhân (vị lợi, gian giảo và hung bạo) nên chưa bao giờ thủ đắc được loại quyền lực này cả. Trung Cộng không phải là Trung Hoa. Cố tráo (trở) giữa Văn Minh Trung Hoa với Văn Hoá Búa Liềm là một việc làm vô ích và vô vọng.

Tưởng Năng Tiến
11/2019

(*) Damon Lim Wei Da, “Sino-Burmese Identity with the Rise of ChinaModern Southeast Asia, 2018.

Tự do và lương tri cho Hồng Kông: Ma quỷ không thể thống trị thế giới này

Sang Nguyen and Song-Thùy Lê shared a link.

MAPP.DKN.TV
Cuộc chiến giữa các sinh viên Hồng Kông và cảnh sát Hồng Kông ngày càng trở nên khốc liệt. Cảnh sát càng ra tay tàn nhẫn sát hại người biểu tình bằng những cách thức tàn độc. Nhưng người biểu tình vẫn không lùi bước. Có điều gì…

Đối với Trung Quốc – Hoà bình là tự sát

Đối với Trung Quốc – Hoà bình là tự sát

– fb Kien Tran

Diễn biến tại Hong Kong chỉ là bề nổi của vấn đề. Nó bắt buộc phải diễn ra. Dù có đổ bao nhiêu máu.

Hãy nhớ, họ chấp nhận hi sinh để bảo toàn sự an toàn cho các thế hệ muôn đời sau.

Trung Quốc khác với Mỹ. Nó là một thể chế vô nhân đạo đến mức không nhân nhượng.

Mỹ còn có thượng viện, hạ viện. Tam quyền phân lập. Mỹ ít ra còn giữ bộ mặt với thế giới. Phần lớn đều minh bạch và công khai. Dân Mỹ ít ra còn hiểu biết và nhân đạo, hiểu được quyền con người và sự tự do từ khi sinh ra. Ít ra ở Mỹ còn có người đứng ra bênh vực bạn.

Còn Trung Quốc không nhân nhượng. Nó giống như AI. Một khối quyền lực tập trung đồng nhất và không nhân tính.

Nếu nó muốn tiêu diệt bất kỳ dân tộc nào, nó có thể làm. Sau đó bịt miệng. Tuyên truyền xoa dịu. Mọi thứ dù có tồi tệ đến mấy cũng sẽ bị lãng quên.

Cái duy nhất nó sợ là danh tiếng bị huỷ hoại. Nó sợ mạng xã hội. Tuyên truyền là cánh tay phải đắc lực của nó. Nó đang bôi nhọ người Hong Kong.

Cho nên Hoà bình và im lặng với Trung Quốc là tự sát. Không chỉ một thế hệ mà thế hệ muôn đời sau.

Tưởng tượng, nếu Việt Nam vẫn là một tỉnh của Trung Quốc. Bạn đã không được dùng Facebook. Ngôn ngữ tiếng Việt sẽ bị xoá sổ. Bạn phải học cách ngày ngày tôn thờ Đảng CS Trung Quốc, Mao Trạch Đông.

Bạn sẽ bị tính điểm công dân. Người Hong Kong nếu bị tính điểm công dân chắc chắn là chết hết. Nó không tiêu diệt cả một dân tộc cùng một lúc. Nó tiêu diệt từ từ. Từng gia đình một.

Đồng hoá. Bạn phải phục tùng. Không phục tùng, bạn sẽ chết. Nó đủ công nghệ để giết bạn. Và bạn nghĩ báo chí sẽ bảo vệ bạn?

Nếu nó không thích bạn, nó sẽ giết gia đình bạn. Sau đó bịt miệng báo chí. Hoặc bôi nhọ bạn.

Bạn có kêu gào cũng không ai nghe. Mồm nó to hơn. Lũ cừu nó lôi kéo và thuần hoá sẽ hùa vào chửi bạn.

Bạo loạn ở Hong Kong dù có tồi tệ đến đâu cũng nên diễn ra.

Thứ duy nhất cứu được Hong Kong lúc này là sự chú ý trên toàn thế giới.

Ps: xin chia sẻ !

Image may contain: 4 people

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Bác Trọng

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến: Bác Trọng

 Tưởng Năng Tiến

  • Tuong Nang Tien
    Anh đến thăm em đêm 30

    còn đêm nào vui bằng đêm 30
    anh nói với người phu quét đường
    xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em
    (“Anh Đến Thăm Em Đêm 30” nhạc: Vũ Thành An, thơ: Nguyễn Đình Toàn)Có lẽ đây là lần đầu tiên, và (không chừng) cũng là lần duy nhất, đám phu phen quét đường của miền Nam nước Việt được giới văn nghệ sĩ của vùng đất này (vô tình) đưa vào tác phẩm. Ở miền Bắc thì hoàn toàn khác, với chủ trương “văn nghệ công nông binh,” lớp người khốn cùng này được nhắc nhở đều đều, cùng với rất nhiều “ưu ái!”

    Chả những thế, sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng (Nam/Bắc hoà lời ca) một công nhân của Sở Vệ Sinh Thành Phố Hồ Chí Minh – bà Lê Thị Thêu – còn được Mặt Trận Tổ Quốc giới thiệu ra ứng cử để trở thành đại biểu Quốc Hội nữa cơ.

    Chỉ có điều đáng tiếc là nhân vật này hoàn toàn không có năng khiếu gì trong lãnh vực ăn mặc, cũng như ăn nói. Bà Thêu không biết ăn diện như bà Nguyễn Thị Kim Ngân, cũng chả dám ăn nói liều mạng như bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, và trông nhỏ thó dúm dó chứ không được cao lớn đẫy đà như bà Tòng Thị Phóng. Có thể vì những khiếm khuyết vừa kể nên công nhân Lê Thị Thêu chỉ được ngồi ghế đại biểu chỉ trong một khoá mà thôi.

    Le Thi Theu
    Lê Thị Thêu đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI (1976-1981)

    Từ đó, không có thêm một bà (hay ông) phu quét đường nào khác được Đảng “cơ cấu” vào quốc hội nữa. Nhà Nước, tuy thế, không quên sự đóng góp và vai trò quan trọng của giới người này. Theo nhận định của Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc (TPHCM) thì “đây là lực lượng quan trọng, là tai mắt đường phố, có thể góp phần giữ vững an ninh chính trị, phòng chống, phát hiện các đối tượng tệ nạn xã hội… được công an quận tập huấn một số kỹ năng như: hướng dẫn nắm bắt vụ việc, nhận diện hiện tượng, con người liên quan đến an ninh chính trị; về hoạt động băng nhóm hoặc nghi vấn đối tượng trộm cắp, cướp giật tài sản cũng như công tác bảo vệ hiện trường.”

  • Đã làm vệ sinh đường phố còn kiêm nhiệm luôn công việc của ngành an ninh tình báo, và bảo vệ hiện trường nữa thì quả là vô cùng vất vả. Để bù lại, trong dịp Xuân Kỷ Hợi vừa qua, các chị em quét rác đã được ông Nguyễn Phú Trọng ưu ái lì xì cho chút tiền sài tết. Nghĩa cử nhân ái, nhân văn, và vô cùng nhân hậu này của vị Chủ Tịch Nước – tiếc thay – đã không được tán dương mà còn có năm ba lời tiếng eo xèo:
    – FB Chánh Lê: “Ôi … những người quét rác đẹp xinh và sạch sẽ hơn cả diễn viên điện ảnh.”
    – FB Trần Thị Thảo: “Chỉ nhìn qua hình là biết: 2 em lao công là diễn viên đóng thế, 2 em vừa trẻ vừa xinh bởi biết trang điểm cho làn da, rồi nâng mũi, ặp long mi giả.”
    – FB Luân Lê: “Làm trò lố bịch để lừa cả ông Tổng bí thư.”
    – FB Đặng Thiện Chân: “Lừa cả TBT, chúng nghĩ ông ấy già quá không biết gì kkk.”
    – FB M T Vu Vu: “Đầu năm mới cụ Tổng bị chúng qua mặt.”
    – …

    Tôi e rằng vẫn có sự ngộ nhận rất trầm trọng, và vô cùng đáng tiếc về bác Trọng. Người không lú lẫn, và không dễ bị lừa lọc hay qua mặt như vậy đâu. Nguyễn Tiến Dân, một ngòi bút sắc sảo và khả tín, nhận xét như sau:

    “Trước hết, phải khẳng đinh một điều: Nguyễn Phú Trọng, là một con người vô cùng nhân hậu. ‘Kính trên – nhường dưới’, là cái điều, ông luôn khắc sâu trong lòng. Vinh quang và thiêng liêng, có gì sánh được với Nghĩa vụ Quân sự? Ấy thế mà, ngài cũng lui xuống phía sau, để nhường nó cho những kẻ kém hiểu biết và hiếu danh khác. Không biết đi ắc ê, cũng chưa từng ngửi mùi thuốc súng. Tuy vậy, ngài vẫn giành được chức Chính ủy của toàn Quân. Không dừng ở đó, ngài còn giành tiếp được chức Chủ tịch Nước. Hiển nhiên, thâu tóm nốt quyền Tổng Tư lệnh các Lực lượng Vũ trang. Quá quắt hơn, lại nhảy tiếp vào Đảng ủy Công an Trung ương, để nắm và chỉ đạo nốt công việc nội trị. Gian hùng như Lê Duẩn, cũng không có nổi 1 trong 3 cái chức ấy và suy rộng ra, trên thế gian này, cũng chưa có ai dám nghĩ, chưa có ai dám làm và chưa có ai làm được cái điều như thế.”

    Một người “quá quắt” tới cỡ đó e khó mà bị đám hậu sinh lường gạt. Tui còn nghi là chính bác Trọng là là đạo diễn cái vụ gửi thư cho cô giáo cũ hồi cuối năm rồi. Còn cái vụ lì xì đầu năm nay, không chừng, cũng là sáng tác riêng của thằng chả chớ còn ai vô đó nữa.

    Cả hai vụ “diễn” này tuy rất vụng và ngó hơi chướng mắt thiệt nhưng nói nào ngay thì cũng không có gì là sai quấy lắm. Bác Trọng, chả qua, chỉ sống và học tập theo gương của bác Hồ thôi:

    “Một lần tôi quay cảnh ông thăm đồng bào nông dân ở Hải Dương, mùa hè năm 1957. Sáng sớm hôm ấy trời mưa to, trên đường còn lại những vũng nước lớn. Đến một đoạn đường lầy lội ông tụt dép, cúi xuống xách lên. Trong ống ngắm của máy quay phim tôi nhìn rõ hai bên vệ cỏ không bị ngập. Tôi chợt hiểu: ông không đi men vệ đường bởi vì ông muốn chưng đôi dép. Vì lòng kính trọng đối với ông, không muốn rồi đây người xem sẽ nhận ra trên màn ảnh lớn diễn xuất lộ liễu, tôi tắt máy. Nghe tiếng cái Eymo 35 đang kêu xè xè đột ngột im tiếng, ông ngẩng lên nhìn tôi, nhưng ngay đó ông hiểu ra” (Vũ Thư Hiên. Đêm Giữa Ban Ngày. California: Văn Nghệ, 1997).

    Diễn là động tác tự giác, và tự nhiên, của cả nước chứ chả phải riêng ai:
    “Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó…

    Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng…

    Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.

    Anh trở lại, tôi hỏi khẽ:
    – Đánh người ta làm gì?
    – Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? ” (Trần Đĩnh. Đèn Cù, tập I. Người Việt, Westminster, CA: 2014).
    Theo bà Nguyễn Thị Kim Thanh – Trưởng Phòng GD, Sở GD-ĐT TPHCM – cho biết: “Tính ra, thu nhập của giáo viên mầm non còn thua cả người giúp việc!” Giới giáo chức sống thảm hại đến thế thì bác Trọng tiếc gì vài dòng bút mực mà không “vẽ” một cái thư cho cô giáo cũ. Báo Giáo Dục Thời Đại mô tả đây là “Bức thư được viết tay bằng mực xanh, rất ngắn gọn, giản dị nhưng sâu sắc và ân tình như chính con người của Tổng Bí thư vậy.” Nhà báo Bùi Hoàng Tám “tám” thêm:

    “Việc làm của TBT, Chủ tịch nước cũng là lời động viên, chia sẻ với các thầy, các cô, dù cuộc sống còn không ít khó khăn trong thời điểm tết đến, xuân về…khi đất nước được lãnh đạo bởi một người có nghĩa, có tình, có đạo lý thì đó là khi vận nước đang lên!”
    Thật là qúi hóa!

    Tương tự, bác Trọng cũng chả tiếc gì mấy đồng bạc lẻ để lì xì cho mấy cô công nhân quét rác. Từ bác Hồ đến bác Trọng, bác nào cũng chỉ lừa thiên hạ mà thôi chứ làm gì có chuyện ngược lại bao giờ. Vẫn còn giữ ảo tưởng về qúi bác thì còn bị đè đầu, cưỡi cổ là chuyện tất nhiên, không có gì oan uổng cả.

‘Mạ Thủ,’ những tay chửi mướn chuyên nghiệp

‘Mạ Thủ,’ những tay chửi mướn chuyên nghiệp

Huy Phương

Số đông dư luận viên làm việc ẩn danh và giấu mặt. (Hình minh họa: Getty Images)

Đọc truyện Tàu, Tam Quốc Chí hay Hán Sở Tranh Hùng, người đọc không thể không biết tới một thứ quân đặc biệt luôn luôn có trong bất cứ một đội quân nào của những phe phái khác nhau. Người xưa khi đem quân vây thành địch, mà địch quân trong thế yếu không dám mở cửa thành xung trận, thì họ chọn ra những sĩ tốt có buồng phổi to, tiếng nói khỏe và đặc biệt là có sở trường về những chuyện chửi bới, bẩn thỉu, tục tĩu nhất ra trận.

Cánh quân này có khi trần truồng, đứng trước cửa thành địch mà chửi rủa. Đám quân này được gọi là “mạ thủ” (những tay chửi,) ra trận không dùng đao thương, chỉ dùng mồm to mà chửi bới, thóa mạ kẻ địch, gọi ông cha tổ tiên của các tướng lãnh phe địch ra mà réo; một thứ chiến tranh tâm lý, chọc giận quân địch, khiêu khích… khiến cho địch hoang mang, mất khôn mà mở cửa thành trong khi hoàn cảnh chưa hẳn là thuận lợi. Lẽ cố nhiên, quân “mạ thủ” luôn đứng ở trận tiền, sát thành địch, trong tay lại không có vũ khí, nên khi xung trận, là những quân sĩ chết đầu tiên.

Mạ thủ ngày nay không ra mặt và mang một cái tên khác: “dư luận viên!”

Đây là nhóm người phục vụ cho đảng, gọi là chuyên nghề định hướng dư luận trong nhân dân theo chiều có lợi cho đảng, nhưng nói nôm na là xung trận chửi không tiếc lời những ý kiến, bài vở biên tập trên mạng không có lợi cho đảng và chính phủ của họ. Chúng không lèo lái được dư luận, nhưng dùng kỹ thuật “cả vú lấp miệng em” đánh phá địch thủ, nấp sau nhưng tên tuổi giả, tràn đầy, dày đặc để tạo cho quần chúng cái ý nghĩ là dư luận này nghiêng về đa số.

Theo một tài liệu của nhà văn Trần Trung Đạo mới đưa ra đây, ông đã nói về một lực lượng “dư luận viên” có tổ chức quy mô ở Trung Cộng: “Tại Trung Cộng, dư luận viên không chỉ chịu sự kiểm soát của Ban Tuyên Truyền Trung Ương (Việt Nam gọi là Ban Tuyên Giáo Trung Ương) về các chính sách chung của đảng Cộng Sản mà mỗi bộ trong chính phủ Trung Cộng cũng có các dư luận viên riêng để phục vụ cho chính sách riêng của bộ có trách nhiệm trả lương cho dư luận viên này.

Tháng Giêng, 2007, Hồ Cẩm Đào chỉ thị “tăng cường việc xây dựng mặt trận dư luận và tư tưởng” trong hội nghị Bộ Chính Trị lần thứ 38. Đáp lại chỉ thị của họ Hồ, một đội ngũ các “cán bộ có phẩm chất chính trị cao” tức đội ngũ dư luận viên được chính thức thành lập theo quyết định của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng và Hội Đồng Nhà Nước.

Sở Giáo Dục Trường Sa, tỉnh Hồ Nam được biết như là cơ quan sớm nhất tuyển dụng dư luận viên vào năm 2004.

Theo Zhang Lei viết trên Global Times Tháng Hai năm 2004, cơ quan giáo dục tỉnh Cam Túc tuyển dụng bình luận viên một cách công khai. Lực lượng 650 dư luận viên tỉnh Cam Túc chỉ có một việc phải làm là ngồi đọc hết các bình luận của độc giả dưới các bài viết hay trong các diễn đàn Internet và phản biện lại đúng với đường lối của đảng, làm lạc đề hay nếu cần viết các nhận xét tiêu cực, chụp mũ, bêu xấu để chấm dứt dòng bình luận được độc giả trước đó đưa ra.

Năm 2011, trong một bài báo trên The Sydney Morning Herald, nhà báo Pascale Trouillaud tố cáo Trung Cộng tuyển dụng gần nửa triệu dư luận viên làm việc một cách xảo quyệt nhưng hữu hiệu để bảo vệ đảng Cộng Sản. (Trần Trung Đạo- Đảng 50 xu -Dư Luận Viên tại Trung Cộng.)

Hiện nay, CSVN Việt Nam đã theo gương Bắc Hàn và Trung Cộng thành lập đơn vị 47 mở cuộc chiến tranh trên Mạng với 10,000 dư luận viên. Những bài viết của người Việt hải ngoại trên youtube thường bị tràn ngập bởi hàng ngàn lời bình phẩm chửi bới. Những đài truyền hình có tinh thần quốc gia, tổ chức thiện nguyện gây quỹ cho thương binh VNCH, các tổ chức xiển dương ưu điểm của chế độ VNCH đều bị đánh phá, vùi dập, gây ra những cái nhìn lệch lạc trong cộng đồng tỵ nạn cộng sản ở hải ngoại. Chủ trương của loại tuyên truyền này là “nói mãi cũng phải tin, nhiều người nói đáng tin hơn một vài người.”

Hiện nay, trên Internet, cứ sau một youtube hay một bài báo được đưa lên có chiều hướng bất lợi cho chính thể trong nước, thì hầu như có hàng trăm “comment” bâu lại, như đàn cá tra trong cầu cá, chửi rủa không tiếc lời. Chúng vào comment với những cái tên thay đổi, lạ lẫm, nặc danh, nhưng chỉ đọc qua, chúng ta đã biết ngay chúng là ai?

Nhìn chung là lớp dư luận viên này phần lớn là vô học, không hiểu biết, thiếu lý luận, nên chỉ biết chửi rủa một chiều, không có sức thuyết phục, không có khả năng tranh luận, phân tích điều đúng, sai. Thay vì ôn tồn với chữ nghĩa, bàn luận thiệt hơn, thì dám dư luận viên trong và ngoài nước này, chỉ muốn đánh phủ đầu người khác với ngón đòn hạ tiện. Những danh từ quen thuộc chúng hay dùng để mạ lỵ, xỏ xiên người khác, nghe đến nhàm chán như “ba que,” “đu càng,” “tụt quần,” “bám đít Mỹ…”

Chỉ tiếc là những thứ chúng mạt sát như “ba que,” “đu càng,” “tụt quần,” “bám đít Mỹ…” là những thứ hiện nay, trong nước đang muốn phục hồi, vì nó là những thứ tinh hoa mà hơn 40 năm nay, chế độ trong nước đã đánh mất không tìm lại được, trong khi người dân thì tiếc đã đi qua một thời đại vàng son, không bao giờ tìm lại được, nếu bất hạnh, Cộng Sản còn thống trị đất nước như hôm nay!

Là người làm truyền thông, nguyên là một người lính của miền Nam Việt Nam, đã từng ở trong trại tập trung của Cộng Sản, từng sống dưới chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, có kinh nghiệm sống và thấy hết những sự dã man hay gian trá của chế độ và con người Cộng Sản, tôi vẫn tâm nguyện dùng ngòi bút để viết hay nói lên những điều tồi tệ của chế độ này và nỗi thống khổ và mất quyền con người trong chế độ.

Thay vì, nhận được những ý kiến phân tích hay thậm chí, nếu là biện bạch của những dư luận viên phe Cộng, thì chúng tôi thường trực nhận những lời chửi rủa không liên quan gì đến những ý kiến chúng tôi đã nêu ra, mà chỉ là những lời rủa vu vơ nhắm vào cá nhân tác giả như “thằng già gần đất xa trời,” “mắc dịch,” “tâm lý chiến hết thời!” và không quên thêm những tiếng “ba que,” “tụt quần” như thường lệ!

Nhưng xét cho cùng, những bài viết, những câu chuyện, ý kiến bị các dư luận viên bâu vào, chửi bới nhiều nhất, thì đó là những tài liệu xác đáng, có khả năng đánh thẳng vào chế độ, khiến cho chúng phải sợ hãi. Vậy thì khi một bài báo được đưa lên net, bị các dư luận viên xúm vào đánh phá hung hãn nhất, thì bài tham luận đó coi như đã thành công.

Bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, là một nhà đấu tranh về môi trường, tham gia vào các hoạt động biểu tình phản đối Formosa, đòi chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam, đã bị bắt giam từ Tháng  Mười, 2016 vì tội tuyên truyền chống Nhà Nước CHXHCN Việt Nam và bị kết án 10 năm tù, theo Điều 88 Bộ Luật Hình Sự.

Năm 2010, bà được trao giải Hellman/Hammett của Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền.

Năm 2015, bà được trao giải Người Bảo Vệ Quyền Dân Sự của Tổ Chức Civil Rights Defenders.

Năm 2017, bà được trao giải Phụ Nữ Dũng Cảm Quốc Tế của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ.

Tháng 6/2018, blogger Mẹ Nấm đoạt giải Tự Do Báo Chí Quốc Tế của Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả và được đề cử giải Nobel Hòa Bình.

Được sự can thiệp của Đệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ, Mẹ Nấm đã được phóng thích khỏi nhà tù ở Thanh Hóa và rời khỏi Việt Nam vào trưa ngày 17 Tháng Mười, 2018.

Ngày 7 Tháng Mười Một, 2019, với tư cách là nhân chứng sống của tội ác Cộng Sản Việt Nam, blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh đã được mời vào Tòa Bạch Ốc, cùng với 4 chứng nhân khác từ các quốc gia Ba Lan, Cuba, Venezuela, và Bắc Hàn, để trình bày trực tiếp với TT Trump về những kinh nghiệm hãi hùng mà họ đã từng trải qua dưới sự thống trị dã man của xã hội chủ nghĩa. Tại đây, Mẹ Nấm đã có một bài phát biểu bằng Anh Ngữ lưu loát và và hùng hồn lên án chế độ Cộng Sản.

Tất cả những vinh dự và hoạt động của Mẹ Nấm đều làm bỉ mặt Hà Nội, và tất nhiên bị Bộ Ngoại Giao CSVN lên án, nhất là sau khi bà được tổng thống Hoa Kỳ tiếp kiến và sau bài phát biểu nhân ngày Tưởng Niệm Các Nạn Nhân Cộng Sản Trên Toàn Thế Giới, bà bắt đầu bị bọn “mạ thủ” chụp mũ và bêu rếu.

Mới đây thôi, trên Internet loan truyền một bài viết lên án Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là loài “nấm đỏ, nấm độc,” “hình mẫu của loài nhộng đỏ được cài cắm vào Việt Tân.”

Không ai lạ gì với lối đánh “chiến thuật biển người” của sư đoàn dư luận viên, nghĩa là chúng ta sẽ thấy Cộng Sản dốc toàn lực đánh, chửi những nhân vật đối kháng và những gì đang làm chúng sợ hãi.

Như vậy, chúng ta nên phải tiếp tục lên tiếng hay hành động những gì mà Cộng Sản đang lo sợ! (Huy Phương)

Giá trị của Việt Nam Cộng Hòa

SỰ THẬT MÃI TRƯỜNG TỒN…

Giá trị của Việt Nam Cộng Hòa

TRẦN TRUNG ĐẠO

Từ 1954 tại miền Bắc và sau 1975 trên phạm vi cả nước, bộ máy tuyên truyền của đảng CS đã không ngừng vẽ trong nhận thức của bao nhiêu thế hệ Việt Nam một VNCH chẳng khác gì một con ma, ghê sợ, hung dữ và tội lỗi nhất trong thế gian này. VNCH là hiện thân của mọi thứ tội ác. Trong nhận thức không chỉ tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975 mà ngay cả các tầng lớp cán bộ, đảng viên, nhà văn, nhà thơ thì VNCH có ba đặc điểm lớn là “tham nhũng”, “trấn áp” và “ôm chân đế quốc Mỹ”.

Trong tiểu luận “Khám nghiệm một hồn ma” trên Talawas hơn mười năm trước người viết đã có dịp phân tích thể chế cộng hòa tại miền Nam. Xin trích một phần bài viết đó ở đây để chia sẻ với các độc giả chưa đọc.

Miền Nam trước 1975 có tham nhũng không? Có.

Miền Nam có đàn áp biểu tình, đối lập không? Có.

Miền Nam trước 1975 có lệ thuộc vào viện trợ Mỹ không? Có.

Nhưng các đặc điểm đó có đại diện cho Việt Nam Cộng hoà (VNCH) không? Không.

Cho đến nay, một số người hoặc vì không có cơ hội nghiên cứu sinh hoạt chính trị tại miền Nam, không phân biệt được sự khác nhau giữa chính quyền và chế độ chính trị hoặc vì nghe riết những lời tuyên truyền của đảng đến độ nhập tâm, đã đồng hoá chính quyền của các ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Dương Văn Minh với VNCH.

Như một viên ngọc nằm trong lòng lớp rong rêu của vỏ con trai, trên tất cả, giá trị đích thực của VNCH không nằm trong tham nhũng, trấn áp và đồng đô la Mỹ mà nằm trong Hiến pháp VNCH đặt nền tảng trên một thể chế dân chủ do dân và vì dân.

Lời mở đầu của Hiến pháp 1967 do chủ tịch Quốc hội Lập hiến Phan Khắc Sửu ký ngày 18 tháng 3 năm 1967, xác định Việt Nam là một chế độ cộng hòa “Dân chủ độc lập, thống nhất, lãnh thổ bất khả phân, chủ quyền thuộc về toàn dân” phát xuất từ:

“Ý thức rằng sau bao năm ngoại thuộc, kế đến lãnh thổ qua phân, độc tài và chiến tranh, dân tộc Việt Nam phải lãnh lấy sứ mạng lịch sử, tiếp nối ý chí tự cường, đồng thời đón nhận những tư tưởng tiến bộ để thiết lập một chánh thể cộng hòa của dân, do dân và vì dân, nhằm mục đích đoàn kết dân tộc, thống nhất lãnh thổ, bảo đảm Độc lập Tự do Dân chủ trong công bằng, bác ái cho các thế hệ hiện tại và mai sau.”

Ngoài phần mở đầu hùng hồn nêu trên, chuyên chở trong suốt 9 chương và 117 điều của Hiến pháp 1967 là nền tảng của chế độ cộng hòa, qua đó, quyền lãnh đạo đất nước như chỉ rõ trong điều 3, được phân quyền rõ rệt: ”Ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được phân nhiệm và phân quyền rõ rệt. Sự hoạt động của ba cơ quan công quyền phải được phối hợp và điều hòa để thực hiện trật tự xã hội và thịnh vượng chung trên căn bản Tự do, Dân chủ và Công bằng xã hội”.

Hiến pháp 1967 tốt đẹp đến nỗi ông Lý Quý Chung, trong Hồi ký không tên, xuất bản tại Sài Gòn trước ngày ông qua đời, dù chê bai các chính quyền miền Nam tàn tệ, cũng không thể nói xấu bộ luật tối thượng của chế độ cộng hoà như một diễn đàn để ông ta thực thi dân chủ: “Quốc hội lập hiến kéo dài một năm đã cung cấp cho tôi một môi trường học tập đấu tranh chính trị tại nghị trường và từ diễn đàn này, tôi cũng có cơ hội bày tỏ công khai qua mạng lưới báo chí Sài Gòn các quan điểm của mình đối với chính quyền, đối với các vấn đề dân chủ, chiến tranh, hoà bình v.v…”

Về căn bản, không có nhiều khác biệt giữa Hiến pháp VNCH 1967 và Hiến pháp Nam Hàn 1948 được tu chỉnh lần cuối vào năm 1987. Cả hai hiến pháp đều dựa trên chế độ cộng hoà, phân quyền rõ rệt, thích hợp với đà tiến hoá của văn minh nhân loại.

Dân chủ không phải là món quà của ông thần tài đem đặt ngay trước cửa nhà mà là chiếc máy lọc từ nước đục sang nước trong, từ phong kiến lạc hậu đến văn minh tiên tiến, và trong quá trình đó hai quốc gia VNCH và Nam Hàn, đều phải trải qua những kinh nghiệm máu xương trên con đường dân chủ hoá đất nước. Giống như người dân Nam Hàn, người dân miền Nam Việt Nam cũng vừa học dân chủ và vừa tập sống dân chủ với tất cả những khó khăn thử thách.

Điểm khác nhau chính giữa Nam Hàn và Nam Việt Nam là cơ hội.

Nam Hàn có cơ hội để biến những ước mơ của dân tộc Triều Tiên gói ghém trong hiến pháp của họ để ngày nay là nước giàu mạnh nhất nhì châu Á. Miền Nam Việt Nam thì không. Chế độ cộng hoà tại miền Nam Việt Nam ra đời và lớn lên trong một hoàn cảnh chiến tranh tàn khốc, trong đó các nguyên tắc dân chủ đã trở thành con dao hai lưỡi. Chính con dao dân chủ hai lưỡi đó đã đâm vào thân thể của chế độ cộng hoà hàng trăm vết thương đau đớn từ ngày mới ra đời cho đến gục xuống trong tức tưởi.

Ngay cả những quốc gia tiên tiến như Pháp, Mỹ cũng phải bước qua con đường đầy máu nhuộm để có được nền dân chủ như hôm nay.

VNCH cũng vậy. Miền Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính.

Nếu trước 1975, vì thiếu cái nhìn về cả hai bên của cuộc chiến và bất mãn trước xã hội nhiễu nhương, việc kết án chính quyền là “trấn áp” có thể còn thông cảm được, thế nhưng sau 42 năm sống dưới chế độ độc tài đảng trị vẫn có kẻ biện minh cho hành động đốt xe, bắt cóc, ném bom xăng vào thương xá, ném lựu đạn vào nhà hàng ăn uống trước đây thì quả thật là vô cảm.

Đặc điểm thứ ba đảng tuyên truyền là miền Nam chỉ biết “ôm chân Mỹ”.

Thật mệt mỏi nếu lại phải lần nữa đem so sự lệ thuộc vào Mỹ của chính quyền miền Nam và sự lệ thuộc vào Liên Xô, Trung Cộng của đảng CSVN và cũng chẳng sướng ích gì khi phải đọc lại bảng kê khai vũ khí, quân trang, quân dụng mà hai đế quốc cộng sản đổ xuống Việt Nam.

Cho dù sự lệ thuộc vào cường quốc là điều không tránh khỏi trong thế giới phân cực của thời kỳ Chiến tranh Lạnh vừa qua thì chọn lựa cường quốc nào sẽ mang lại nhiều lợi ích cho đất nước hơn?

Lịch sử đã chứng minh một cách hùng hồn, hầu hết các nước chọn lựa hay do điều kiện chính trị thế giới đẩy đưa, đã đứng về phía tự do dân chủ như Nhật Bản, Tây Đức, Nam Hàn, Đài Loan, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ v.v. đều trở nên các quốc gia ổn định và phát triển nhờ chính sách đối ngoại thân Mỹ một cách khôn khéo, trong lúc các nước theo chân Liên Xô, Trung Cộng như Bắc Việt, Cu Ba, Bắc Hàn thì kết quả ra sao không cần phải phân tích.

Không ai từng chống Mỹ quyết liệt hơn cố tổng thống Anwar Sadat nhưng để mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân Ai Cập, năm 1976, ông đã bỏ đồng minh Liên Xô để bước sang phía thế giới tự do cho dù ông biết trước sự chọn lựa đó có thể trả giá bằng nhiều rủi ro như ông tiên đoán trong diễn văn đọc trước Quốc hội Israel ngày 20 tháng 11 năm 1967.

Một số người có thể cho rằng Hiến pháp VNCH cũng do người Mỹ nhúng tay vào. Dù điều đó đúng thì đã sao. Hiến pháp của quốc gia Nhật Bản hiện đại cũng do bàn tay của Mỹ nhưng ngày nay tướng McArthur chẳng những không bị oán ghét mà còn được nhân dân Nhật xem như là một trong những người có công lớn trong việc xây dựng nước Nhật hiện đại.

Dân chủ là một kỳ quan được nhân loại bồi đắp qua nhiều thời đại chứ không phải là tài sản riêng của quốc gia nào.

Học hỏi cái hay cái đẹp của các nước tiên tiến để áp dụng vào cuộc cách mạng dân tộc và phát triển đất nước như cụ Phan Chu Trinh từng thống thiết kêu gào gần trăm năm trước, luôn luôn là điều đáng khuyến khích.

Phân tích để thấy, chế độ cộng hoà tuy không còn hiện diện tại miền Nam nhưng các giá trị dân tộc, nhân bản và khai phóng thể hiện trong Hiến pháp VNCH vẫn còn đó. Gia tài quý giá đó chẳng những không rã mục theo chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Dương Văn Minh mà ngày nay đã vượt ra khỏi biên giới Bắc Nam để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.

Nếu ai cho người viết cường điệu hãy tạm gác qua bên các định kiến Bắc Nam, khuynh hướng chính trị, đảng phái, tôn giáo, tả khuynh, hữu khuynh, thù hận riêng tư và thậm chí che luôn bốn chữ Việt Nam Cộng hoà trên trang đầu của Hiến pháp mà chỉ đọc một cách nghiêm chỉnh nội dung của Hiến pháp VNCH 1967 thôi, người đọc sẽ công nhận đó chính là mục tiêu mà dân tộc Việt Nam cần phải đạt đến.

Việc lặp lại những lời tuyên truyền cũ mèm của đảng cho rằng chế độ cộng hoà tại miền Nam là “sản phẩm do chính quyền Mỹ tạo ra trong Chiến tranh Lạnh” chẳng khác gì chê lớp rong rêu ngoài vỏ một con trai.

Hiến pháp VNCH có thể chưa hoàn chỉnh nhưng là một văn kiện tham khảo cần thiết để kiến tạo một Việt Nam dân chủ cường thịnh. Hạt giống dân chủ khơi mầm tại miền Nam cũng không chỉ bắt đầu sau khi đất nước bị chia đôi mà đã có từ hàng trăm năm trước.

Lợi dụng chính sách Nam kỳ tự trị của thực dân, các nhà cách mạng tại miền Nam có cơ hội học hỏi và áp dụng phương pháp đấu tranh nghị trường, tiếp cận các tư tưởng dân chủ Tây phương, mở mang dân trí làm nền tảng cho chế độ cộng hoà sau này.

Đó không phải là sản phẩm của Tây hay Mỹ mà là vốn quý của dân tộc đã được đổi bằng mồ hôi nước mắt của nhiều người. Những ai biết gạt bỏ định kiến Bắc Nam, gạt bỏ lòng “căm thù Mỹ Ngụy”, sẽ thấy đó chính là hành trang cần thiết cho nỗ lực mưu cầu một xã hội công bằng và tốt đẹp hơn cho các thế hệ mai sau.

Tiếc thay, viên ngọc và viên sỏi khác nhau khi nằm trong tay người thợ bạc nhưng lại giống nhau khi nằm trong tay mấy cậu bé bắn chim.

Do đó, phục hưng VNCH không có nghĩa là phục hưng chính quyền miền Nam. Chính thể không đồng nghĩa với một chính quyền và do đó không sống hay chết theo một chính quyền.

Giá trị của VNCH được xây bằng xương máu của bao nhiêu người và ngày nay đã vượt qua khỏi vĩ tuyến 17 để trở thành ước vọng chung cho cả dân tộc.

Lịch sử Việt Nam như một dòng sông, có khi cuồn cuộn lúc âm thầm, có chỗ sâu chỗ cạn nhưng chưa bao giờ ngưng chảy.

Đó là sự thật. Khoảng thời gian từ khi Mã Viện, danh tướng nhà Đông Hán, đánh bại Hai Bà Trưng (năm 43) đến khi Lý Nam Đế đánh bại quân Lương Vũ Đế và dựng nước Vạn Xuân (năm 543) là tròn 500 năm. Biết bao nhiêu lớp người đã sinh ra và chết đi trong suốt 5 thế kỷ sống trong bóng tối nô lệ nhưng sức sống Việt Nam vẫn tồn tại và lớn lên.

Đối mặt với một kẻ thù Trung Cộng đông hơn nhiều và mạnh hơn nhiều, chưa bao giờ sức mạnh tổng hợp của 90 triệu người Việt trong nước và 3 triệu người Việt ở hải ngoại cần thiết như hôm nay.

Chỉ có sức mạnh toàn dân tộc phát triển trên cơ chế dân chủ tự do mới mong thắng được Trung Cộng và mọi kẻ thù có âm mưu xâm lược Việt Nam. Tổ tiên Việt Nam đã làm được rồi các thế hệ Việt Nam ngày nay cũng sẽ làm được.

Người viết biết rằng, đối với một số người Việt đã bị bộ máy tuyên truyền đầu độc quá lâu và các bạn trẻ bị nhào nặn hoàn toàn trong hệ thống giáo dục một chiều CS, để có một nhận thức đúng về lịch sử là một quá trình đấu tranh tư tưởng khó khăn.

Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn thẳng vào thực tế đất nước sau 42 năm vẫn là một nước lạc hậu về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, quốc phòng và đời sống. Việt Nam còn thua xa những nước ở châu Phi như Ghana, Sierra Leone, Namibia vì những quốc gia đó còn nghèo nhưng hãnh diện vì chính phủ họ do nhân dân họ bầu lên.

Nếu vậy, tạm gác qua chuyện thế kỷ trước mà hãy nhìn vào cách giải quyết tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Cộng của lãnh đạo CSVN. Ngoài những lời phản đối đọc như kinh nhật tụng họ không có và cũng không thể có một chọn lựa dứt khoát nào chỉ vì quyền lợi trước mắt của một nhóm người cầm quyền được đặt lên trên quyền lợi lâu dài của đất nước.

Sau mỗi cơn giận hờn, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy.

Thảm trạng xã hội Việt Nam hôm nay, những lạc hậu kinh tế hôm nay, những yếu kém về quốc phòng hôm nay, những cô đơn trong bang giao quốc tế hôm nay là những câu trả lời cho những ai còn do dự, còn một chút tin tưởng nào đó ở lãnh đạo đảng CSVN.

Giống như hầu hết các nước cựu CS ở Đông Âu và khối Liên Xô, thể chế Cộng Hòa là chọn lựa đương nhiên và dứt khoát.

Các quốc gia sẽ bình đẳng trước công pháp quốc tế. Những khẩu hiệu tuyên truyền rất sến như “16 chữ vàng”, “hữu nghị Việt Trung” sẽ bị chôn sâu theo xác của ý thức hệ CS.

Dân tộc Việt Nam sẽ vượt qua những khó khăn để phát triển thành một quốc gia hiện đại về cả kinh tế lẫn quốc phòng.

Các nhà lãnh đạo VNCH trong cuộc đấu tranh mới trên mặt trận ngoại giao sẽ hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước VNCH thống nhất, dân chủ, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới. Giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một cuộc tranh đấu gian nan, gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng chính nghĩa và chân lý cuối cùng sẽ thắng.

TRẦN TRUNG ĐẠO

No photo description available.

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

TUYÊN XƯNG, SỐNG VÀ LÀM CHỨNG CHO ĐỨC TIN

+ ĐTGM Giuse Nguyễn Năng

1- Không một tôn giáo nào có một lịch sử kỳ lạ như Kitô giáo. Quả vậy, không một tôn giáo nào bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương như Kitô giáo; và cho dù bị bách hại nhiều, lâu dài và đau thương, Kitô giáo không hề bị tiêu diệt, trái lại vẫn không ngừng tăng trưởng cả về phẩm chất lẫn số lượng. Đó là những bí ẩn của lịch sử không thể lý giải bằng lý lẽ tự nhiên, nhưng chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng của niềm tin.

Quả vậy, ngay từ những năm tháng đầu tiên loan báo Tin Mừng, Hội Thánh đã trải qua 300 năm bị bách hại dưới thời các hoàng đế Roma. Rồi từ đó, Phúc Âm được rao giảng ở đâu, thì ở đó không sớm thì muộn, các Kitô hữu cũng bị bắt bớ và giết chết, Hội Thánh bị bách hại và loại trừ. Lịch sử Hội Thánh là một lịch sử đầy những cuộc tử đạo, ở khắp mọi miền trên thế giới, vào hết mọi thời kỳ trong lịch sử.

Ngay trong thời đại chúng ta, trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này, nếu tính tổng cộng tất cả các Kitô hữu, gồm Công giáo, Chính thống, Anh giáo và Tin lành, thì hằng năm có khoảng 170.000 người tử đạo, 200.000.000 người chịu bách hại vì đức tin Kitô giáo.

Trên mảnh đất Việt Nam thân yêu này, 117 vị thánh đã được phúc tử đạo trong một giai đoạn bách hại kéo dài đúng 117 năm, tính từ hai vị tử đạo tiên khởi vào năm 1745 đến vị cuối cùng vào năm 1862, qua các triều đại vua Lê chúa Trịnh, Tây Sơn và các triều nhà Nguyễn. Đó là chưa kể chân phước Anrê Phú Yên tử đạo vào năm 1644, và hằng trăm ngàn tín hữu chết vì đức tin nhưng chưa được phong thánh.

Bức tranh trên đây là một thực tế, và đó cũng là một điều bí ẩn của lịch sử Hội Thánh. Các Kitô hữu bị ghét, vì trước hết, chính Chúa Giêsu đã bị ghét và đã chịu tử hình trên thánh giá. Chúa Giêsu chính là vị tử đạo đầu tiên vì Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Ngài là con đường dẫn đến sự sống đích thực, nhưng thế gian lại yêu sự tối tăm hơn ánh sáng.

Chúa nói: “Vì anh em không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em… Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em… Họ chống lại anh em, vì anh em mang danh Thầy, bởi họ không biết Đấng đã sai Thầy” (Ga 15, 19-21). Đơn giản chỉ là thế. Sâu xa là như vậy.

Tuy nhiên, Chúa đã hứa ở cùng Hội Thánh mọi ngày cho đến tận thế, và Chúa đã tuyên bố không quyền năng nào có thể tiêu diệt Hội Thánh. “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

2- Ngày lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại đời sống đức tin của các thánh tử đạo Việt Nam để xem các ngài đã tuyên xưng, đã sống và làm chứng cho đức tin thế nào.

Tại sao các Kitô hữu bị ghét bỏ, bị bắt bớ và giết chết? Các thánh tử đạo đã làm gì?

Các thánh tử đạo bị giết chỉ vì tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giêsu. Lòng tin ấy biểu lộ qua việc tôn thờ thánh giá Chúa. Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên sao được!” Thánh Têôphan Ven nói: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”

Chắc chắn không phải vì các ngài đã theo đạo Tây mà phản bội tổ quốc và dân tộc. Các ngài tôn trọng vua quan và hết lòng vì quê hương. Thánh linh mục Tự đối đáp với quan tòa: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”.

Nhiều vị thánh đã ở trong hàng ngũ quân đội bảo vệ đất nước. Thánh Trần Văn Trung là một binh sĩ, đã bị giết vì khẳng khái tuyên bố: “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”. Thánh linh mục Khuông từng tuyên bố: “Đạo Giatô không những cấm tín hữu chống lại triều đình, mà còn khuyến khích để họ cầu nguyện và góp phần giúp quê hương an ninh thịnh vượng”.

Yêu nước không có nghĩa là phải thù ghét loại trừ các Kitô hữu và chống lại Kitô giáo.

3- Lời tuyên xưng của các thánh tử đạo không chỉ là lời tuyên bố trong một khoảnh khắc nhất thời trước khi chết, nhưng đó là hoa trái kết tinh từ một đời sống thấm nhuần Lời Chúa. Các ngài đã sống đức tin, đã thể hiện Tin Mừng yêu thương trong chính đời sống của mình.

Trước hết, đời sống đức tin của các thánh tử đạo được biểu lộ ngay trong bổn phận hằng ngày của đời sống gia đình.

Dù thời đó, chế độ đa thê vẫn đang thịnh hành trong xã hội Việt Nam, nhưng các thánh tử đạo đã trung thành với giáo huấn một vợ một chồng của Phúc Âm. Dĩ nhiên có những vị lúc đầu đã không trung thành với lời cam kết hôn nhân, như các thánh Gẫm, binh sĩ Huy, Cai Thìn, quan Hồ Đình Hy… đã có thời gian sa ngã, thế nhưng sau đó tất cả đều biết trở về để vun đắp lại mái ấm gia đình của mình.

Các thánh chu toàn bổn phận nuôi dạy con cái theo tinh thần đức tin. Thánh Thọ căn dặn các con vào thăm trong tù: “Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm săn sóc em mình. Các con nhỏ phải biết kính trọng vâng lời anh chị. Hãy thương yêu nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày. Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo”.

Về phần thánh Anê Lê Thị Thành, vị thánh nữ duy nhất trong số các vị tử đạo, người con gái thứ hai của ngài là cô Anna Năm xác nhận: “Bố mẹ chúng tôi chỉ gả các con gái cho những người thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn, mẹ tôi thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những lời tốt lành. Có lần mẹ dạy tôi: “Tuân theo Ý Chúa, con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui lòng nhận thánh giá Chúa gửi cho”. Người cũng thường khuyên vợ chồng tôi: “Hai con hãy sống hoà hợp, vui vẻ, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ”.”

Kế đến, sống đức tin là sống Tin Mừng yêu thương.

Thánh y sĩ Phan Đắc Hòa rộng tay giúp người nghèo khổ, riêng bệnh nhân túng thiếu, không những ông chữa bệnh miễn phí, lại còn giúp tiền giúp lúa. Thánh Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện”, nên ngài trồng thêm vườn dâu kiếm tiền giúp người thiếu thốn. Người cùng tử đạo với ngài là Gioan Cỏn từng mạnh dạn đấu tranh cho người nghèo chống lại chính sách đòi sưu cao thuế nặng. Thánh Năm Thuông là ân nhân của viện cô nhi trong vùng. Còn thánh Trùm Đích thường xuyên thăm viếng trại cùi và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch tại nhà mình.

Điều quan trọng trong đời sống đức tin của các thánh tử đạo là lòng tha thứ.

Nếu lòng anh dũng giúp các vị tử đạo bình thản đón nhận cái chết không run sợ, không quỵ lụy khóc than, thì chính lòng bao dung thứ tha mới là đặc tính phân biệt vị tử đạo với những vị anh hùng vì lý do khác.

Các tín hữu chỉ thực sự chết vì đạo nếu biểu lộ được tình yêu, lòng nhân ái, sự bao dung của Tin Mừng. Các vị chắc chắn không đồng ý với bản án bất công của triều đình, nhưng như Đức Giêsu trên thánh giá vẫn cầu nguyện cho quân lính giết hại mình, các chứng nhân tử đạo vẫn tiếp tục yêu thương vua quan và những người hành xử mình.

Khi viên quan nói: “Tôi phải theo lệnh vua, đừng giận tôi nhé”, linh mục Théophane Ven đáp: “Tôi chẳng ghét gì ai cả, tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho quan”. Thánh Hoàng Lương Cảnh làm cho quan quân phá lên cười khi ngài đọc: “Cầu Chúa Giêsu, xin cho các quan trị nước cho yên càng ngày càng thịnh”.

4- Lời tuyên xưng và đời sống đức tin của các thánh tử đạo đã làm trổ sinh hoa trái phong phú trên quê hương Việt Nam thân yêu này.

Chính đời sống của các thánh tử đạo đã cảm hóa và chiếm được tình cảm của bà con hàng xóm. Dù triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ bách hại, bà con hàng xóm vẫn tỏ dấu hiệu thân ái với người công giáo.

Thánh linh mục Vũ Bá Loan là niên trưởng 84 tuổi, được mọi người kính trọng gọi bằng “cụ”, ngài không bị đánh đòn; và trong ngày xử, mười lý hình chạy trốn, đến người thứ mười một, đã lịch sự xin phép: “Việc vua truyền cháu phải làm, xin cụ xá lỗi cho. Cháu sẽ cố giúp cụ chết êm ái. Khi về trời cụ nhớ đến cháu nhé”.

Trong vụ án thánh linh mục Gioan Đạt, viên cai ngục nói: “Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo đức, thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ một cổ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ.”

Hơn nữa, ngay trong lúc bị giam tù, các ngài đã đưa hằng trăm người đến với Chúa. Và từ đó đến nay, hạt giống Tin Mừng không ngừng lớn lên trong đất nước này. Tin Mừng như men đang thấm vào mọi sinh hoạt xã hội để đưa thế gian đi theo con đường của chân lý Phúc Âm.

Là con cháu các thánh tử đạo, chúng ta hãy phát huy gia sản đức tin mà cha ông đã để lại cho chúng ta. Đức tin ấy đã lớn lên trong máu và nước mắt, trong hy sinh và gian khổ. Bao nhiêu thế hệ đã nằm xuống để chúng ta được trung kiên với đức tin tông truyền.

Ngày nay, tuy không còn phải chịu những đau thương dữ dằn như trong quá khứ, nhưng chúng ta đang phải đối diện với một cuộc tấn công khác có thể còn nguy hiểm gấp bội, đó là sức mạnh của tiền bạc, địa vị, khoái lạc, tự do buông thả. Những sức mạnh này đã làm cho bao nhiêu tín hữu gục ngã, đã lôi kéo bao nhiêu Kitô hữu rời xa Hội Thánh, đã làm cho biết bao người quên Thiên Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước các thánh tử đạo tuyên xưng đức tin một cách xác tín, ý thức. Chúng ta có thể nói như thánh Phaolô không: “Tôi biết tôi đã tin vào ai?” (2 Tm 1,12). Hãy để cho lòng tin vào Chúa thấm nhuần và biến đổi cuộc sống chúng ta, để tất cả mọi hành vi, ứng xử, chọn lựa, thái độ, của chúng ta luôn tỏa chiếu sức mạnh của Tin Mừng và tạo nên một sức hấp dẫn đối với những người chung quanh để đưa họ đến với Chúa Giêsu Cứu Thế.

 TÌNH CA TỬ ĐẠO VIỆT NAM

Bài tình ca tử đạo

Thắm màu máu đỏ tươi

Trầm hùng và tuyệt diệu

Âm vang cả đất trời.

Những con người yếu đuối

Có sức mạnh niềm tin

Dẫu hiểm nguy không ngại

Vẫn hiên ngang ngước nhìn.

Da vàng và máu đỏ

Sắc màu thiêng Việt Nam

Kiên cường ôm thập giá

Dám chết vì đức tin.

Ác nhân luôn hèn hạ

Dùng đủ mọi cực hình

Nhưng tín nhân không sợ

Vẫn yêu Chúa hết tình.

Bài tình ca tử đạo

Những nốt yêu hòa âm

Êm đềm ngọt giai điệu

Dệt tình khúc Việt Nam. 

Viễn Dzu Tử

Kinh nguyện 

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 

Đội ơn Thiên Chúa muôn trùng

Ban cho các Đấng Anh Hùng Việt Nam

Một lòng chối bỏ trân cam

Mặc ai dụ dỗ chẳng ham phúc trần.

Máu đào dâng hiến trọn thân

Quyết tâm theo Chúa- chứng nhân Nước Trời

Ngày nay cho đến muôn đời

Thanh nhàn vĩnh phúc, gương soi chiên đoàn.

Chúng con còn ở trần gian

Nguyện xin các Thánh thông ban hộ phù

Ơn thiêng: sức mạnh, thân tu 

Nếu không tử đạo, cần cù siêng năng.

Vượt qua tục luỵ, lưới giăng

Noi gương các Thánh, Chúa hằng xót thương

Chờ ngày Chúa gọi lên đường

Về cùng các Thánh đồng hương Nước Trời. Amen.

(Thế Kiên Dominic)