httpv://www.youtube.com/watch?v=d6YW8zkLkUw
Thế Hệ Trẻ Cần Khuôn Vàng Thước Ngọc, Để Thẳng Người Đứng Một Kiếp Mà Thôi-Cha Micae Phạm Quang Hồng

Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em (Mt 5,44)
httpv://www.youtube.com/watch?v=d6YW8zkLkUw
Thế Hệ Trẻ Cần Khuôn Vàng Thước Ngọc, Để Thẳng Người Đứng Một Kiếp Mà Thôi-Cha Micae Phạm Quang Hồng

Làm cha mẹ cần biết: Nói cho con điều gì quan trọng nhất trong đời
Từ khi một đứa trẻ oa oa cất tiếng khóc chào đời, tới khi trưởng thành nên người, có quá nhiều điều các bậc làm cha mẹ cần biết để nuôi dạy con mình nên người. Nhưng dẫu làm gì, vĩ đại hay bình thường, điều quan trọng nhất vẫn là quá trình của sinh mệnh. 10 câu dưới đây là món quà tuyệt vời hơn cả nhà cao cửa rộng, của cải tích cóp mà phụ huynh cần dành cho con cái mình.

Rất nhiều đứa trẻ không biết ABCD là gì, nhưng lại biết thế nào là liên minh anh hùng. Rất nhiều đứa trẻ không quan tâm tới thành tích học tập tốt xấu, nhưng lại để tâm xem chiến tích có huy hoàng không.
Nhưng con à, có một điểm hy vọng con nhớ kỹ: Con trả tiền để chơi điện tử, nhưng trò chơi điện tử lại không trang trải cuộc sống cho con. Con trả tiền để đi học, việc học hành sẽ mang lại những điều bất ngờ trên cả mong đợi.
Được đi học là người may mắn, học giỏi là người hạnh phúc. Những kiến thức con học được chính là người bạn đồng hành cùng con suốt cuộc đời. Con người có thể tay trắng dựng nghiệp, nhưng không thể tay không tấc sắt. Đi học là một hành trình rất dài, bước đi sẽ mệt, nhưng nếu không đi chắc chắn con sẽ phải hối hận.
Con à, dẫu người khác nói hay thế nào thì suy nghĩ của con vẫn là điều quan trọng nhất. Có người hỏi: “Một đứa trẻ có chủ kiến, rốt cuộc là như thế nào?”
Câu trả lời được nhiều người đồng tình nhất là: “Có thể xử lý tốt những chuyện vụn vặt trong cuộc sống, dàn xếp ổn thỏa mối quan hệ giữa bạn bè, chuyện học hành, khiến cha mẹ có thể yên tâm.”
Cần phải biết rằng “nước nổi bèo trôi” là một hiện tượng đáng sợ. Khi con người gia nhập vào một đoàn thể nào đó, trí thông minh của họ sẽ sụt giảm nghiêm trọng. Vì muốn được mọi người công nhận, nên cá nhân đó nguyện ý vứt bỏ đúng sai, đổi trí huệ lấy cảm giác an toàn tìm được chốn đi về.

Rất nhiều người sẽ làm vậy, nhưng những đứa trẻ có chủ kiến sẽ không như vậy.
Vậy nên con phải luôn là chính mình và can đảm là chính mình. Con cần biết mình muốn nói gì, có nguyện vọng gì. Có câu hỏi rằng: “tuyết tan thì biến thành thứ gì?” Đáp án chuẩn sẽ là “tuyết tan sẽ biến thành nước”. Nhưng những đứa trẻ có chủ kiến sẽ đáp: “tuyết tan hóa thành mùa xuân”, lẽ nào lại sai hay sao?
Con à, thành tích rất quan trọng, nhưng hứng thú còn quan trọng hơn.
Khi còn nhỏ, trẻ con thường ham vui, đến tuổi trung niên ham học hỏi, tới khi về già thường thích thưởng trà.
Con người dẫu ở độ tuổi nào, cũng cần có chí hướng của bản thân. Hứng thú và yêu thích mới thể hiện tính cách thực của một người. Thành tích không nên là tiêu chuẩn duy nhất để bình xét về sự tốt xấu của một học sinh.
Gotthold Ephraim Lessing, nhà triết học, nhà văn người Đức, từng nói: “Ánh mắt tò mò thường có thể nhìn thấy nhiều thứ hơn họ mong đợi.” Một người trường kỳ chú tâm vào sở thích của bản thân, ắt sẽ xuất sắc hơn người trong một vài lĩnh vực nào đó. Nhưng đây chẳng phải là ý nghĩa của việc học hay sao?
Con à, thời này là thời đại trọng thành tích, nhưng so với thành tích, điều ba mẹ quan tâm hơn là sở thích, là thiên tính của con: Điều con yêu mến vĩnh viễn vượt xa thứ mà thành tích có thể đong đếm.
Người không có nhân phẩm chẳng thể có chỗ đứng trong xã hội.
Thời gian trước, một kỹ sư, thạc sĩ họ Dương người Thượng Hải hơn một năm đã trốn vé 480 lần, với số tiền 2 vạn tệ (hơn 65 triệu VNĐ), bị cảnh sát đường sắt Thượng Hải bắt giữ. Cư dân mạng cảm thán rằng: “Nhân phẩm thấp kém, thì học lực cao nữa cũng vô dụng.”
Người có nhân phẩm không tốt, hoặc ngụy quân tử chẳng thể bền lâu, bởi “cái kim trong bọc cũng có ngày lòi ra.” Những người có nhân phẩm tốt thường khiến người khác cảm phục. Có câu rằng: “Chiêm ngưỡng một người, bắt đầu từ dung nhan, tôn kính bởi tài hoa, hòa hợp nhờ tính cách, lâu bền vì thiện lương, thủy chung vì nhân phẩm.”
Dẫu trong thời đại nào thì nhân phẩm cũng sẽ vượt xa năng lực của con. Năng lực tốt, nhân phẩm tốt là người hữu dụng. Năng lực rất tốt, nhân phẩm rất tệ chẳng khác chi thứ độc dược hại người.
Vậy nên con ạ, dù khi nào, con cũng không được đánh mất nhân cách của mình.

Ai ai cũng mong muốn có được một cuộc sống viên mãn, nhưng thực tế lại không có sự hoàn mỹ thực thụ.
Một vị thái hậu dốc tâm chuẩn bị nhiều năm cho tiệc mừng thọ nhưng đến ngày kế hoạch lại bị hủy. Trong tâm bà rầu rĩ chẳng vui. Nha hoàn bèn hỏi thái hậu rằng: “Vì sao trên đầu của Thọ Thần lại có một cục bướu?” Thái hậu không hiểu, nha hoàn bèn tiếp lời: “Trên đầu có một cục bướu mới có thể chứa được phúc thọ ạ! Mẹ con nói rằng, mọi sự không nên quá đầy, cần phải lưu lại một chút tiếc nuối. Quá đầy thì sẽ hưởng hết phúc.”
Thái hậu nghe xong bừng tỉnh: “Dẫu là trên đầu Thọ Thần cũng có một cục bướu, huống một kẻ phàm nhân như ta?“
Dẫu chỉ là một câu chuyện vui, nhưng nói lên rằng dưới ánh nắng cũng có bóng râm, cuộc sống sao có thể hoàn thiện hoàn mỹ. Hạnh phúc là bởi biết đủ, nuối tiếc là điều thường thấy trong đời.
Con à, ba mẹ hy vọng con hãy nỗ lực thay đổi, hoặc nỗ lực tiếp nhận. Cảm nhận về hạnh phúc của con quan trọng hơn sự hoàn mỹ mà con theo đuổi.
Con à, so với việc sùng bái những minh tinh, ba mẹ hy vọng con có tín ngưỡng của riêng mình.
Có người từng nói: “Đây là thời đại thiếu hụt tín ngưỡng.” Có người lại nói: “Đây là thời đại chết vì giải trí.” Rất nhiều người sùng bái giới giải trí, thần tượng các minh tinh, trong số đó những người trẻ chiếm tuyệt đại đa số. Họ quan tâm tới từng buổi diễn, từng đĩa CD, từng bộ phim của minh tinh mà mình ái mộ. Thậm chí là từng ly từng tý trong cuộc sống của họ.
Trong thời đại ngày nay, theo đuổi các ngôi sao đã trở thành cuộc sống của rất nhiều người. Điều này bản thân nó cũng không có gì đúng sai. Nhưng con ạ, quan trọng hơn điều đó, ba mẹ hy vọng con có tín ngưỡng của mình.
Con người có thể ngưỡng vọng trời sao, nhưng con đường trước mắt chúng ta vẫn phải tiến về phía trước. Có người từng hỏi rằng: “Nếu cho bạn tự do, cho bạn tài hoa, cho bạn tuổi xuân, bạn có làm không?”
Câu trả lời thường là: “Tôi nhất định sẽ giống như những cái tên trong sách, như châu ngọc trong thiên hạ, như ánh sáng trên thế gian.”
Ngôi sao sáng rồi cũng tắt, lòng người sẽ có khi đổi thay, nhưng sự thiện lương và đạo lý làm người trong những tín ngưỡng chân chính mới là bất biến.
Con à, con không cần phải có những lý tưởng xa vời như vậy, nhưng cần có tín ngưỡng soi đường dẫn lối trên hành trình nhân sinh của mình.

Hành trình nhân sinh thú vị hơn kết quả rất nhiều.
Có người nói rằng: “Thành công là một quá trình chứ không phải là đích đến. Quá trình thực hiện quan trọng hơn kết quả. Đời người cũng như vậy.”
Trước kia có một chàng trai trẻ tự xưng rằng mình đã thấu hiểu cõi hồng trần. Hàng ngày cậu ta không làm gì cả, lười nhác ngồi dưới gốc cây phơi nắng.
Một vị trí giả đi ngang qua, hỏi: “Chàng trai, thời cơ tốt thế này, sao cậu không đi kiếm tiền?”
Chàng trai đáp: “Chẳng có gì thú vị, kiếm tiền rồi lại phải tiêu.”
Vị trí giả lại hỏi: “Sao cậu không kết hôn?”
Chàng trai đáp: “Chẳng có gì thú vị, biết đâu lại phải ly hôn?”
Vị trí giả nói: “Sao cậu không kết bạn?”
Chàng trai đáp: “Chẳng có gì thú vị, kết bạn biết đâu lại trở mặt thành thù.”
Vị trí giả đưa cho chàng trai một sợi dây thừng nói: “Thế thì cậu treo cổ đi, dẫu sao cũng chết, chi bằng bây giờ chết quách đi cho xong.”
Chàng trai đáp: “Tôi không muốn chết.”
Vị trí giả tiếp lời: “Cuộc sống là một hành trình, không phải là kết quả.”
Sinh mệnh giống như một cuốn sách hay. Tin rằng những người đọc được nó, chắc chắn sẽ dừng lại lần giở từng chương mục, chứ không phải là mở ngay tới trang cuối, nóng lòng muốn biết kết cục ra sao.
Con à, sự mỹ hảo trong đời người nằm ở từng nụ hoa, từng phong cảnh, từng nụ cười. Hãy dừng lại và thưởng thức chúng.

Con à, so với việc yêu cầu người khác, ba mẹ hy vọng con có thể tìm kiếm nguyên nhân từ chính bản thân mình. Người giỏi xét mình thường sống có phẩm vị.
Epicurus, một nhà triết học Hy Lạp cổ đại từng nói: “Nhận ra sai lầm là bước đầu tiên cứu vớt bản thân.”
Con người khó tránh khỏi sai sót, sai sót không đáng sợ, điều đáng sợ là không biết phản tỉnh bản thân, sửa đổi lỗi lầm. Như vậy rất dễ đánh mất bản thân.
Con à, oán trách chẳng thể giải quyết được sự việc, nhưng cảm ơn thì có thể. Thay đổi người khác cũng không thể thay đổi thực trạng, nhưng thay đổi bản thân lại có thể. Phàm là mọi việc đều tìm nguyên nhân từ chính mình, con mới trở nên ưu tú hơn.
Con à, không có việc gì xứng đáng để con trả giá bằng cả sinh mệnh.
Theo “Báo cáo về tình hình sức khỏe nhân viên công chức thành thị tại Trung Quốc” cho biết: Tỷ lệ sức khỏe dưới mức tối ưu của giới cổ cồn trắng đạt 76%, 70% có nguy cơ làm việc quá sức; hàng năm số người đột tử lên đến 550.000 người; mỗi ngày có 10.000 người bị chẩn đoán mắc ung thư…
Con người có thể làm nhiều công việc, nhưng chỉ được sống một lần trên đời. Con à, đứng trước sinh mệnh, cha mẹ hy vọng con luôn đặt sức khỏe lên vị trí hàng đầu. Đừng coi tuổi trẻ như quân bài, chớ đặt cược sức khỏe vì ngày mai, có sức khỏe mới có tất cả.

Đi học rất vất vả, nhưng không đi học lại càng khổ hơn. Nỗ lực rất mệt, nhưng chỉ khi bây giờ dốc toàn lực, sau này mới có quyền lựa chọn. Buông bỏ một thứ hay một người nào đó rất khó, nhưng chỉ khi quá khứ qua đi, tương lai mới gõ cửa.
Trong đời có rất nhiều việc khó, nhưng dư vị đắng chát cuối cùng cũng ngọt ngào.
Con à, so với vui thú nhất thời, ba mẹ hy vọng con có được hạnh phúc bền lâu. Có lẽ cuộc sống sẽ chẳng như con mong muốn, có lẽ thật bất công, những chuyện không may cũng có thể xảy đến, nhưng nơi mà con muốn đến, hãy kiên trì bước tới cùng.
Lê Minh (biên dịch)
– Dương Hoài Linh
– 43% số gia đình nghèo ở Mỹ có nhà ở sở hữu riêng (tức không ở nhờ nhà từ thiện do nhà nước hoặc xã hội cung cấp), tính đổ đồng mỗi nhà có 3 phòng ngủ, 1 phòng sinh hoạt chung, 1 phòng khách và 1 phòng ăn kiêm bếp; trung bình mỗi nhà có 1,5 phòng vệ sinh (tức 1 phòng vệ sinh có bồn tắm và 1 phòng vệ sinh không bồn tắm). Điều tra tình hình nhà ở tại Mỹ cho thấy người Mỹ quan tâm nhiều nhất là nhà có bao nhiêu phòng vệ sinh.
– Bình quân mỗi gia đình nghèo ở Mỹ có 1 ga-ra ô tô. Phần lớn nhà ở của người nghèo đều có sân, vườn. 66,2% gia đình nghèo bình quân mỗi người có 2 phòng ngủ; 28,2% gia đình nghèo bình quân mỗi người có 1 phòng ngủ. 5,6% hộ nghèo thuộc diện nhà ở chật chội, tức mỗi phòng ngủ có hơn 1 người, trong đó 4,3% gia đình nghèo bình quân mỗi phòng có 1,5 người; 1,3% số gia đình nghèo bình quân mỗi phòng có trên 1,5 người.
– Thống kê của Bộ Năng lượng Mỹ cho thấy nước này đứng đầu thế giới về bình quân diện tích nhà ở của một hộ gia đình. Không gian sinh hoạt gia đình của mỗi người Mỹ bình quân là 71 m2, ở các gia đình nghèo là 43 m2. Nói cách khác, điều kiện nhà ở của người nghèo Mỹ còn cao hơn nhiều so với mức trung bình về không gian sinh hoạt gia đình của mỗi người tại các nước giàu như Anh, Pháp, Đức, Nhật (37 m2). Ngay tại các nước có mức thu nhập trên trung bình như Hy Lạp, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, bình quân mỗi người chỉ có 23 m2 không gian sinh hoạt gia đình. Điều kiện nhà ở của người nghèo Mỹ cao gấp hơn 2 lần các gia đình thu nhập trung bình tại Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ, và gấp 6 lần mức trung bình của người dân đô thị tại Ấn Độ.
– 79,7% các gia đình nghèo có máy lạnh (năm 1970 cả nước Mỹ chỉ 36% hộ có máy lạnh). 99,2% hộ nghèo có tủ lạnh, 64,3% có máy giặt, 56,7% có máy xấy quần áo; 89% có lò vi sóng và lò nướng thức ăn; hơn 1/3 có máy rửa bát.
Ba phần tư các gia đình nghèo Mỹ có ít nhất 1 xe ô tô; 31% có từ 2 xe trở lên. Đời sống tinh thần của các hộ nghèo cũng không tồi. 97% hộ nghèo có ít nhất 1 ti-vi màu; hơn 50% hộ có 2 ti-vi màu; 25,3% có ti-vi màn hình rộng. 75% hộ nghèo có máy DVD; 62% dùng truyền hình cáp hoặc truyền hình vệ tinh; hơn 50% có thiết bị âm thanh stereo; 91,3% có điện thoại cố định; 32,5% có cả điện thoại cố định và điện thoại di động. Một phần ba số gia đình nghèo có máy tính.
Trong điều tra số dân, 70% gia đình nghèo nói họ có đủ khả năng chi trả các khoản chi phí như tiền mua nhà trả dần hoặc tiền thuê nhà, tiền điện, nước, gas. Dĩ nhiên như thế vẫn là nghèo vì không có dư dật. 1/3 gia đình nghèo có hiện tượng chậm trả các khoản chi đó.
Trong bài báo dưới đây CSVN cố tình không biết về chuẩn nghèo đói của Mỹ. GDP bình quân đầu người $62 .000 , thu nhập bình quân của 1 gia đình $53.657.Chuẩn người nghèo hưởng trợ cấp xã hội của Mỹ là :
-1 người, $ 11,770;
– 2 người $ 15,930;
– 3 người $ 20,090;
– 4 người $ 24,250.
Trong khi đó thu nhập GDP đầu người VN là $2.740. Chỉ bằng 1/4 thu nhập người nghèo của Mỹ.
Theo chuẩn nghèo của Mỹ thì 99% dân Việt đều nghèo đói và trên 2/3 dân số thế giới đều nghèo đói.
Nguồn: Fb Hoai Linh Ngoc Duong






BÁNH VẼ!
Hôm nay ngày 01.01.2020, ngày chính thức nói lên sự thất bại của đảng csVn trong kế hoạch đưa đất nước trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại.
Cách đây 14 năm (28.4.2006). Ông Nông Đức Mạnh khẳng định đến năm 2020 VN là một quốc gia công nghiệp? Như vậy, đây là chiêu trò cho dân ăn bánh vẽ của lãnh đạo nhà nước hay kế hoạch xây dựng quốc gia công nghiệp bị thất bại?
Chúng ta tìm xem trong suốt 2 nhiệm kỳ của ông Mạnh và ông Trọng, có thấy họ đầu tư chuẩn bị gì để hình thành một đất nước công nghiệp không? Với chủ trương của đảng, liên tục đưa công dân đi XKLĐ trên khắp thế giới, thì làm sao nói họ có thiện chí xây dựng đất nước thành nước công nghiệp? Một đất nước mà lãnh đạo chỉ chú tâm vào xây tượng đài, xây chùa, xây nghĩa trang cấp cao… thì làm sao tiến lên quốc gia công nghiệp?
Như vậy, lãnh đạo cho toàn dân ăn bánh vẽ để hy vọng theo thời gian và để suy nghĩ rằng, giới lãnh đạo cũng quyết tâm xây dựng đất nước! Đảng cũng có phương án, cũng đưa ra kế hoạch, cũng xây dựng các đề án, cũng triển khai những mô hình… Nhưng thật ra, tất cả đều là trò lừa đảo, mỵ dân của giới cầm quyền!
Nói về chiêu trò cho dân ăn bánh vẽ thì không ai giỏi hơn lãnh đạo đảng, nhà nước VN. Đây không phải là lần đầu tiên ông Nông Đức Mạnh vẽ ra miếng bánh quốc gia công nghiệp, mà trước đây gần nửa thế kỷ, ông TBT Lê Duẫn cũng hùng hồn tuyên bố trước đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 4 diễn ra ngày 12.12.1976, rằng: “trong vòng 10 năm nữa, kinh tế ta sẽ đuổi kịp Nhật, khoảng 15 năm nữa ta sẽ vượt qua Nhật. Lúc đó, nhân dân ta sẽ đi trên thảm vàng”.
Những chiếc bánh vẽ được lãnh đạo vẽ ra để lừa dân hết lần này đến lần khác.
– Ông Nguyễn Thiện Nhân: “giải quyết dứt điểm vụ Thủ Thiêm trong năm 2019”.
– Ông Nguyễn Đức Chung: “tàu Cát Linh – Hà Đông chạy vào cuối tháng 12.2019”
– Ông Nguyễn Mạnh Hùng: “năm 2020 sẽ có 90 triệu người dùng Mạng Xã Hội Việt Nam”.
…………..
Đó, là những chiếc bánh vẽ mà lãnh đạo cộng sản đã cho chúng ta gặm trong gần nửa thế kỷ qua. Và hiện nay, ông Nguyễn Xuân Phúc đang đưa ra chiếc bánh mà đến năm 2045 nếu chưa tắt thở thì chúng ta sẽ thưởng thức tiếp, còn không, thì nhường cho thế hệ mai sau. Bởi, sống với cộng sản, thì ai ai cũng có cơ hội ăn bánh vẽ và thế hệ nào cũng đều có phần. Ơn đảng!
*p/s: Năm mới, cầu chúc tất cả bạn bè, anh chị em làng fây được dồi dào sức khỏe, an lạc, thịnh vượng.
Happy new year!

24-12-2019
Tái cử Bộ Chính trị, chiếm được ghế Trưởng ban Tổ chức Trung ương, quyền hạn của Tô Huy Rứa cực kỳ lớn:
– Tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chính sách về tổ chức cán bộ, đoàn thể, nội chính, Mặt trận.
– Đánh giá, tham mưu điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, phê chuẩn, đình chỉ chức vụ cán bộ.
– Giới thiệu ứng cử, quy hoạch các chức danh thuộc diện Bộ Chính trị, Ban bí thư quản lý.
– Thường trực Tiểu ban nhân sư Đại hôi đảng.
Và Tô Huy Rứa đã “phát huy” hết sức mạnh quyền lực ấy như thế nào?
Quay lại những năm về trước, Tô Huy Rứa có một mối tình sâu nặng với một phụ nữ gốc Nghệ An lên Yên Bái dạy học, có tên Phạm Thị Thanh Trà, sinh 1964. Khi ấy Trà vừa qua tuổi bốn mươi, da trắng ngần, cao ráo và xinh đẹp. Giới quan chức Yên Bái gọi cô là “đoá hoa rừng”.
Năm 2006, khi là Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương, Rứa đưa “người tình” Phạm Thị Thanh Trà vốn xuất thân là một giáo viên cấp 2 Trường PTCS thị trấn Cổ Phúc – Trấn Yên – Yên Bái, vượt qua một số chức vụ để ngồi vào ghế Ủy viên Ban Thường vụ (khóa XVI), Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái. Từ đó leo lên Phó chủ tịch UBND tỉnh, Bí thư Thành uỷ TP Yên Bái, Phó bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái.

Năm 2016, với vị thế Ủy viên BCT, Bí thư Trung ương, Trưởng Ban tuyên giáo, Rứa đã giúp Phạm Thanh Trà dễ dàng kiếm một suất Uỷ viên Trung ương khoá XII và làm Phó Bí thư, kiêm Chủ tịch UBND tỉnh.
Sáng 18/7/2016, Chi cục trưởng kiểm lâm Đỗ Cường Minh nổ súng K59 bắn chết Bí thư tỉnh uỷ Phạm Duy Cường và Chủ tịch HĐND Ngô Ngọc Tuấn. Phạm Thị Thanh Trà được ngồi vào ghế Bí thư tỉnh uỷ Yên Bái.
Phạm Thị Thanh Trà là chị ruột Phạm Sĩ Quý, cựu Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường, xây biệt phủ ngàn tỷ bằng tiền “chạy xe ôm” và “buôn chổi đót”.
Về phần Nguyễn Phú Trọng, sau khi đắc cử Tổng Bí thư, ông cùng Chủ tịch nước Trương Tấn Sang quyết tâm tuyên chiến với phe nhóm Nguyễn Tấn Dũng.
Ngày 31/12/2011, bế mạc Hội nghị trung ương 4 khóa XI. Ngày 16/1/2012, Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, tức NQTW 4: Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng.
Văn bản nêu rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”
Và sau đó là một đợt rầm rộ kiểm điểm, phê bình và tự phê tất cả đảng viên trên cả nước. Đích đến chủ yếu vẫn là Nguyễn Tấn Dũng và các đồ đệ, bị gọi là “nhóm lợi ích”.
Sau đó là Hội nghị trung ương 5, “seri đòn” được phe Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang đưa ra, để cân bằng quyền lực, ghìm cương “con ngựa bất kham” và khống chế sự lộng quyền, tàn phá kinh khủng của Nguyễn Tấn Dũng và “nhóm lợi ích”.
Ông Trọng kích hoạt phương châm “nhốt quyền lực vào lồng luật pháp”. Hàng loạt văn bản của đảng được tung ra, như:
Quyết định số 68-QĐ/TW của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát trong Đảng (ngày 21/03/2012).
– Kết luận số 21-KL/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí (25/05/2012).
– Quyết định số 158-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc thành lập Ban Nội chính Trung ương (28/12/2012).
– Quyết định số 160-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc thành lập Ban Kinh tế Trung ương (28/12/2012).
– Quyết định số 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (01/02/2013).
Tiếp theo là chỉ đạo QH ra nghị quyết 35, lần đầu tiên trong lịch sử VN, lấy phiếu tín nhiệm các chức danh do QH bầu và phê chuẩn, tại kỳ họp 5, khoá 13, khai mạc vào ngày 20/5/2013.
Chưa hết, phe ông Trọng yêu cầu và thực hiện sửa đổi Hiến pháp 1992, tăng quyền hạn chủ tịch nước, rút quyền phong tướng của Nguyễn Tấn Dũng… tại kỳ họp 6, QH khoá 13, tháng 11/2013.
Tuy nhiên, “nhóm lợi ích” vẫn bảo đảm thành trì. Hội nghị 6 tháng 10/2012 không kỷ luật được Nguyễn Tấn Dũng, những giọt nước mắt phẫn uất đã lăn dài trên má ông Trọng. Mặc dù vậy, phe Trọng cũng buộc được Dũng đã cúi đầu nhận trách nhiệm của người đứng đầu Chính phủ và nhận lỗi trước Quốc hội, toàn Đảng, toàn dân về tất cả những yếu kém, khuyết điểm của Chính phủ trong lãnh đạo, quản lý, điều hành, trong phiên khai mạc kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 13, ngay sau đó.

Phần mình, Tô Huy Rứa cùng với Trần Đại Quang vận động và giới thiệu Nguyễn Bá Thanh với nhóm ông Trọng – Sang, để Thanh ngồi vào ghế Trưởng ban Nội chính, hòng giúp Nguyễn Bá Thanh kiếm một suất bổ sung Bộ Chính trị, nhưng thất bại tại Hội nghị 7, tháng 5/2013, khi cả Nguyễn Bá Thanh và Vương Đình Huệ đều “out”.
Có điều, thế và lực bắt đầu nghiêng về nhóm hai ông Nguyễn Phú Trọng – Trương Tấn Sang. Tô Huy Rứa rất nhanh, ngả về bên mạnh hơn. Để lập công, Tô Huy Rứa cũng góp công giúp ông Trọng thực thi chủ trương và quyết định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về luân chuyển cán bộ. Dịp này Rứa cũng nhanh chân đưa Trịnh Xuân Thanh về Hậu Giang, qua Văn bản số 6149, ngày 20/1/2014 của Ban Tổ chức Trung ương do Trần Lưu Hải, Phó Trưởng ban Thường trực nhiệm kỳ 2010-2015, ký. Toàn bộ là do chỉ đạo của Rứa, nhưng người “lãnh đạn” sau này là Trần Lưu Hải.
Việc luân chuyển 44 cán bộ Trung ương về địa phương, nằm trong kế hoạch xoay chuyển “bàn cờ” chính trị của ông Trọng.
Có người cho rằng Tô Huy Rứa là tác giả của Quy chế 244, ra đời tháng 6/2014. Nhận định thế là không đúng. Các “bộ não” cận thần tham mưu cho hai ông Trọng – Sang mới chính là tác giả của Quy chế 244, ra đời tháng 6/2914. Vì quá chủ quan, Nguyễn Tấn Dũng đã bị hạ “knoc-out” ngay trước thềm đại hội XII diễn ra tháng 1/2016, bởi “thiên la địa võng” mà bên tấn công giăng ra, và cũng bởi Quy chế lạnh lùng và tàn khốc mang bí số 244.
Bốn ngày trước khi khai mạc Hội nghị Trung ương 13, Nguyễn Tấn Dũng viết đơn gởi Nguyễn Phú Trọng, xin KHÔNG TÁI CỬ và rút lui khỏi cuộc đua quyền lực.
Là “kiến trúc sư” trong công tác nhân sự, cuối năm 2014, để đưa đàn em Trịnh Văn Chiến vào Uỷ viên Trung ương, Tô Huy Rứa kéo Mai Văn Ninh, Bí thư tỉnh uỷ Thanh Hóa ra Hà Nội để thay Cao Đức Phát làm Bộ trưởng. Sắp hết tuổi, nhưng Phát không chịu nghỉ, Rứa phải đưa Ninh về làm Phó Ban tuyên giáo nằm chờ. Tại đại hội XII, Ninh nằm trong danh sách tái cử Uỷ viên Trung ương, nhưng khi bầu lại rớt. Chỉ có Trịnh Văn Chiến, người tình của “hotgirl” Quỳnh Anh, vào BCH Trung ương. Mai Văn Ninh ngậm đắng nuốt cay, rời chính trường.
Còn nữa, trong suốt thời gian chuẩn bị đại hội 12, Tô Huy Rứa đã tiếp một tay, giúp Nguyễn Văn Bình, Đinh La Thăng, Hoàng Trung Hải lách qua khe cửa hẹp, để ngồi chung “ngai” với ông Trọng, trong Bộ Chính trị.
Với gia đình, Tô Huy Rứa sắp đặt vẹn toàn. Phu nhân Trương Thị Tuyết Nhung, sau khi rời chức vụ Trưởng phòng đào tạo Học viện Báo chí tuyên truyền, thì lập ngay “Quỹ từ thiện Bầu ơi” từ tháng 4/2913 để hoạt động. Quỹ của phu nhân Trưởng ban Tổ chức Trung ương tiền không bao giờ cạn. Hàng trăm doanh nghiệp nhà nước đổ tiền vào ủng hộ Quỹ.

Con trai cả của Rứa là Tô Huy Vũ, trong ba năm đổi hai chức. Từ Vụ trưởng Thống kê, nhảy sang Vụ trưởng Hợp tác Quốc tế Ngân hàng Nhà nước.
Con trai kế Tô Tử Hà, Bí thư đoàn thanh niên Vietnam Airlines, Trưởng phòng Tổ chức – Nhân sự Cảng HKQT Nội Bài.
Con gái út Tô Linh Hương, “công chúa” sinh ngày 14/2/1988 từng khuấy động dư luận khi về làm Chủ tịch HĐQT Cty Vinaconex-PVC, một cty liên doanh của “người tình” thành đạt Trịnh Xuân Thanh, vào tháng 4/2012 và rút lui sau đó hai tháng, vì cty này đang ngập nợ nần.


Tô Linh Hương nhanh chóng được bố Rứa đưa về Bộ Văn hoá – Thể thao – Du lịch, làm Ủy viên Ban chấp hành Đảng ủy Bộ VHTTDL, Ủy viên Ban thường vụ Đoàn khối các cơ quan trung ương, Bí thư Đoàn bộ VHTTDL. Rồi Hương làm Nghiên cứu sinh theo QĐ số 3204/QĐ- ĐHKT ngày 8/11/2013 của Hiệu trưởng Đại học Kinh tế- ĐHQG với đề tài “Chuỗi giá trị toàn cầu ngành hàng chè và sự tham gia của Việt Nam”, do đích thân Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ làm cán bộ hướng dẫn khoa học. Chiều ngày 7/2/2018, tại Phòng 801 nhà E4, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, trước hội đồng giáo sư chấm, Tô Linh Hương đã bảo vệ luận án tiến sĩ với số điểm tuyệt đối (!)
Hy vọng các “thiên tài” họ Tô đời thứ 14, sẽ thay bố Tô Huy Rứa, làm rạng danh “làng ăn mày” Đồn Điền, Quảng Thái.
Gần đây, báo chí và dư luận lại xôn xao với video clip xe Mercedes E250 có bảng số 30F-462.75 của bà Trương Tuyết Nhung, đăng ký năm 2018 lại mang thêm bảng số xe màu xanh 80B-4329 đăng ký năm 2009 trực thuộc Ban Tuyên giáo trung ương, để được hưởng những đặc quyền khi tham gia giao thông. Điều đó cho thấy rằng, dù nghỉ hưu đã 4 năm, máu đam mê công danh và uy vũ vẫn nóng hổi như ngày nào, trong huyết quản một chân dung quyền lực như Tô Huy Rứa.

Đêm nay là đêm giao thừa từ năm cũ 2019 bước sang năm mới 2020. Trong giờ linh thiêng nhất trong năm, với suy nghĩ làm sao cho đời sống của mỗi người chúng ta được BÌNH AN, VUI TƯƠI, HẠNH PHÚC, để trong cõi đời trần thế hiện tại này được nhẹ nhàng, thư thái, khoan dung, yêu thương và được yêu thương. Để sau này, lúc ra đi, linh hồn ta cũng nhẹ nhàng, êm ái, tràn đầy tình cảm yêu thương, thần thái vui tươi, hạnh phúc trong nước Trời.
Trong suy tư đó, xin gởi đến tất cả những người thân yêu lời kinh dưới đây. Mời đọc và suy ngẫm.
Phùng Văn Phụng
Kinh Tha Thứ
Lạy Chúa Giêsu, điều con xin hôm nay là ơn tha thứ.
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho chính con: những tội lỗi của con, những lỗi lầm của con, những sa ngã của con, những điều xấu trong con, những mê tín dị đoan của con, cầu cơ lên đồng, xem tử vi, coi chiêm tinh gia, coi thầy bói, đeo những bùa may mắn hộ mạng. Con từ bỏ tất cả những dị đoan đó. Con tin nhận Chúa là Chúa cứu thế duy nhất của con. Xin hãy ban Thánh Thần Chúa trên con. Con tha thứ cho con vì: đã làm đau khổ cha mẹ con, chè chén say sưa, sử dụng ma tuý, đeo đuổi hành động thiếu trong sạch, ngoại tình, những hành động tình dục về đồng tình luyến ái. Như Chúa đã tha thứ cho con, hôm nay con cũng tha thứ cho con. Ðồng thời những tội khác như: phá thai, ăn cắp, nói dối, lừa đảo… Con tha thứ cho chính con.
Con tha thứ cho người mẹ con qua những lần mẹ con: làm đau đớn con, phẫn nộ với con, giận dữ với con, trừng phạt con, thanh lọc con ra khỏi anh chị em, nói con đần độn, xấu xí, ngu dốt, hư hỏng nhất, hao tốn tiền của gia đình. Cho con là đứa con không được thừa nhận, là thiếu xót, là đứa con không được như ý muốn…
Con tha thứ cho cha con là người cha: thiếu nâng đỡ con, thiếu tình thương, thiếu cảm tình, thiếu sự trông nom, thiếu thời giờ, thiếu sự cảm thông dành cho con. Con tha thứ cho cha con là: người nghiện ngập, ẩu đả với mẹ con, ẩu đả với những người con khác, những sự trừng phạt nghiêm khắc, những bỏ bê, bỏ nhà ra đi, ly dị mẹ con, đi lang thang…
Con cũng xin tha thứ cho anh chị em con: những người xua đuổi con, nói dối con, ghét con, tranh dành tình yêu của cha mẹ con, ám hại con, nghiêm khắc với con, làm cho đời sống con khổ sở…
Lạy Chúa con xin tha thứ cho người phối ngẫu của con về: sự thiếu tình thương, thiếu cảm tình, thiếu thông cảm, thiếu sự chăm sóc, thiếu liên lạc trò chuyện với con. Con xin tha thứ cho những thiếu xót, vất ngã, yếu đuối, những lời nói hay hành động làm tổn thương và khó chịu cho con…
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho con cái của con: Thiếu kính trọng, Thiếu vâng lời, Thiếu yêu thương, Thiếu trông nom, Thiếu âu yếm, Thiếu hiểu biết, Những thói hư tật xấu, Bỏ đi nhà thờ, Những hành động làm phiền hà con…
Lạy Chúa con xin tha thứ cho gia đình bên vợ/chồng con, nhất là cha mẹ, anh chị em, bà con bên vợ/chồng con đã làm tổn thương đến gia đình con…
Lạy Chúa con xin tha thứ cho những họ hàng thân thiết của con, ông bà nội ngoại, cô cậu chú dì, những người đã can thiệp vào nội bộ gia đình con, cố gắng gây ảnh hưởng trên cha mẹ con, gây ra những hiểu lầm, xúi cha mẹ này đến cha mẹ khác…
Lạy Chúa, xin giúp con tha thứ cho người bạn cùng sở của con về những sự bất đồng ý kiến, là con phải sầu khổ, bắt con phải làm việc của họ, trêu trọc con, muốn dành công việc của con.
Lạy Chúa, những người hàng xóm của con cũng cần được tha thứ về: Những sự ồn ào, Những tiệc tùng về khuya, chó sủa làm con thức giấc, làm cho khu xóm mất giá trị…
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho những linh mục, cha sở họ đạo con, cộng đoàn con, Ðức Giám mục, Giáo Hoàng, Giáo hội công giáo về: Thiếu nâng đỡ, Nhàm chán, phục vụ tồi tệ, Thiếu niềm nở, Không xác nhận, Chẳng có điều gì khuyến khích con, Không sử dụng con vào những chức vụ chủ yếu, Không mời con phục vụ trong những tổ chức đông người, những đau đớn giáng xuống trên con, con thực sự tha thứ…
Con tha thứ cho những người trí thức (professionals) về những tổn thương xảy đến con như bác sĩ, ý tá, luật sư, quan tòa, chính trị gia, dân biểu…
Lạy Chúa con tha thứ cho những người phục vụ công quyền (service people): cảnh sát, nhân viên cứu hỏa, tài xế xe bus, nhân viên nhà thương và những nhân viên khác.
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho chủ hãng con về không trả xứng lương cho con, không biết ơn việc con làm, có thái độ thiếu lịch sự, thiếu công bình, nóng giận, thiếu hòa nhã, không thăng chức cho con…
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho thầy cô giáo, huấn luyện viên trong quá khứ và hiện tại, nhất là những người đã trừng phạt con, những người đã hăm dọa con, những người đã sĩ nhục con, đối xử thiếu công bình, những người chế diễu con, những người nói con là đồ ngu ngốc, dốt nát, những người phạt con ở lại sau giờ học.
Lạy Chúa, con xin tha thứ cho bạn bè con về: Những người chà đạp con xuống, Những người không liên lạc với con trong lúc con cần sự giúp đỡ, mượn tiền mà không trả lại, tán gẫu về con…
Lạy Chúa Giêsu, con khẩn thiết cầu xin ơn tha thứ, cho một người trong cuộc sống của con đã làm con đau khổ nhất; cho những người là kẻ thù không đội trời chung của con; cho người rất khó tha thứ; cho người con thề không thể tha thứ cho họ. Lạy Chúa, con xin tha thứ những người này, cho những đau đớn con đã gây ra cho họ, đặc biệt là cha mẹ của con, người phối ngẫu của con. Con cám ơn Chúa về tất cả tình thương của Chúa đã đến trong cuộc đời con qua họ.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa đã cho con có sức mạnh, can đảm để con tha thứ cho anh em con. Xin Cha tha thứ cho con và chúc lành cho đời sống mới của con. Amen.
LM DeGrandis
Phạm Tín An Ninh – Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu
Đỗ Trường (Danlambao) – Sau chiến tranh, tuy bị bức tử, nhưng Văn học miền Nam vẫn hồi sinh, phát triển, để bước sang một trang sử mới. Văn học Hải ngoại, một hình thức, hay tên gọi văn chương tị nạn, là sự nối dài của nền Văn học ấy. Và từ đó, ngoài các nhà văn tên tuổi, ta thấy, xuất hiện một loạt các cây viết mới. Họ xuất thân từ những người lính, tù nhân, thuyền nhân tị nạn, như: Cao Xuân Huy, Song Vũ, hay Phạm Tín An Ninh… Chiến tranh, con đường giải oan cho cuộc bể dâu ấy, là đề tài đã được các nhà văn đào sâu, tìm kiếm làm sáng tỏ một cách chân thực, sinh động. Và khi đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Phạm Tín An Ninh là một trong những nhà văn tiểu biểu nhất viết về đề tài này.
Nếu bút ký Phan Nhật Nam sắc nhọn, hừng hực khói lửa, thì vẫn nơi chiến trường ấy, ngòi bút, lời văn Phạm Tín An Ninh nhẹ nhàng, sâu lắng và trong sáng. Có thể nói, ngoài sự tài hoa, với bút pháp hiện thực, Phạm Tín An Ninh còn là một nhà văn đức độ, có sự cảm thông và tình yêu sâu sắc đối với tha nhân. Văn thơ Phạm Tín An Ninh như một luồng gió mới thổi vào hồn không chỉ những người lính đồng đội, bạn bè ông, mà còn cho cả những người lính một thời ở bên kia của chiến tuyến. Phải nói, ông là một trong những nhà văn mà tôi đã học được nhiều điều, khi đọc. Bút pháp, và tư tưởng ấy, Phạm Tín An Ninh đã gieo vào nhiều thế người hệ đọc, từ hải ngoại về đến quốc nội, dù cho đến nay, ông mới cho in ấn, phát hành 4 tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường, Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, Vẫn Còn Vương Tơ, và Sau Cuộc Bể Dâu. Bốn tập truyện ngắn, bút ký này, tôi đã đọc nhiều lần. Có thể nói, truyện nào của Phạm Tín An Ninh cũng sâu sắc, và cảm động. Kể cả truyện viết đầu tay. Một đặc điểm nổi bật nhất trong văn thơ Phạm Tín An Ninh ta có thể nhận thấy, không chỉ trong tư tưởng, bút pháp, mà lối hành văn, câu cú, chính tả cũng sáng, đẹp và chuẩn mực. Dường như, cho đến nay, không có nhiều nhà văn, trang sách hội đủ những đặc điểm này.
Nhà văn Phạm Tín An Ninh sinh năm 1943 tại Khánh Hòa. Thi đậu tú tài, ông nhập ngũ, khóa 18 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mười một năm lính chiến, để rồi sau tháng 4-1975, Phạm Tín An Ninh bị cải tạo, tù đày từ Nam ra đến Bắc. Năm 1984 ra tù, ông vượt biển, xin tị nạn ở Nauy. Hiện ông sống và viết văn tại Cali, Hoa Kỳ.
Chiến tranh với cái nhìn chân thực của người lính
Có thể nói, sau mười một năm cầm súng, và gần chục năm cải tạo tù đày, cùng những tháng ngày trốn chạy, tị nạn nơi đất khách, quê người, Phạm Tín An Ninh có đủ độ lùi thời gian để nhìn lại cuộc chiến đã qua, một cách sâu sắc và trung thực nhất. Và chỉ có cầm bút người lính Phạm Tín An Ninh mới có thể tìm lại linh hồn đồng đội và chính mình. Sự trả tính chất cuộc chiến về đúng vị trí, tên gọi của nó, như một món nợ đối với người lính, tù nhân, tị nạn còn sống sót vậy. Do đó, về mặt tâm lý, Phạm Tín An Ninh hoàn toàn không có sự chuẩn bị để trở thành nhà văn. Tuy nhiên, chính những điều không tưởng này, cho Phạm Tín An Ninh một tâm lý thoải mái, tự nhiên khi viết, và sáng tạo. Từ những đặc tính riêng biệt ấy, (hiển nhiên) làm nên tên tuổi nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Cũng như Song Vũ, nhà văn Phạm Tín An Ninh đi lên từ một sĩ quan trẻ chỉ huy cấp trung đội. Mười một năm dài đằng đẵng lăn lộn khắp các chiến trường miền Trung, Cao Nguyên và ông trở thành một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Những ngày tháng gian khổ, bi thương ấy, như nhát dao đâm nát hồn người. Bởi, hằng ngày, hằng giờ ông phải chứng kiến cái chết, không chỉ của những người lính (trẻ cùng một dòng máu) ở bên kia chiến tuyến, mà còn phải vuốt mắt cho đồng đội, người thân của mình. Nỗi ám ảnh ấy, thường trực đeo bám ông. Và chỉ khi ngồi đối diện với ngòi bút và trang sách, thì dường như gánh nặng tâm hồn ông mới trút bỏ. Do vậy, ta có thể thấy, tính hiện thực xuyên suốt những tác phẩm của Phạm Tín An Ninh.
Rời quân trường, Phạm Tín An Ninh ra đơn vị tác chiến, phải thế chỗ cho một trung đội trưởng vừa tử trận. Hiện thực ấy, tác động đến tâm lý, làm cho người sĩ quan trẻ không khỏi bùi ngùi giao động. Những Mùa Mưa Trong Ký Ức, tuy không phải là bút ký hay của Phạm Tín An Ninh, song đã nói lên phần nào cái không khí, cục diện mới của chiến tranh, cũng như tâm trạng chung của người lính lúc đó:
“Nghi thức ra mắt vừa xong, tất cả tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng đến Quân Y Viện Nguyễn Huệ để dự tang lễ của một ông thượng sĩ vừa qua đời do bị trọng thương trong cuộc hành quân tại Lâm Đồng tuần trước. Tôi bất ngờ và có cảm giác xốn xang khi biết ông thượng sĩ này là Trung đội trưởng Trung Đội 3/3 mà tôi là người đến thay thế ông…ngày đầu ra nhận đơn vị lại là ngày phải tiễn đưa người tiền nhiệm mà mình chưa hề biết mặt ra nghĩa trang, nên ít nhiều nghĩ tới phần số của mình trong nay mai và sớm bị ám ảnh bởi tiếng khóc than của người góa phụ”.
Nếu ta đã đọc bút ký, truyện ngắn nơi chiến trường của những: Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, hay Song Vũ… thì thấy được trước cái chết, sự hy sinh tình đồng chí, đồng đội, mới dừng lại ở sự miêu tả cái khoắc khoải, tàn khốc, đớn đau. Song đến Phạm Tín An Ninh đã có sự liên tưởng. Với phương thức liên tưởng này, cùng những ca khúc trữ tình, lãng mạn ấy, làm cho hình ảnh người lính dường như đi vào bất tử, và cái chết của họ nhẹ nhàng, dịu bớt nỗi đau trong lòng người đọc chăng?. Vẫn trích đoạn trong bút ký, Những Mùa Mưa Trong Ký Ức dưới đây, không chỉ chứng minh cho điều đó, mà còn cho ta thấy, nỗi đau và tình đồng đội của người lính:
“Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả nước mắt (cho người đồng đội thương binh không có chút hy vọng sống còn)… Khuya hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi, mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên người nhạc sĩ sáng tác bài Dư Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này, tôi lại nhớ đến anh…”
Có thể nói, Chuyện Người Lính Trinh Sát là một trong những truyện ký hay nhất của Phạm Tín An Ninh. Đọc nó, tôi cứ bị ám ảnh mãi, bởi câu kết: “Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được”. Dường như, đó là câu hỏi, một vấn đề buộc nhà văn, người lính Phạm Tín An Ninh phải đi tìm. Có lẽ, không một ai hiểu được tâm trạng của một người vợ có chồng theo Cộng sản, bị lính Việt Nam Cộng Hòa bắn chết, và người con trai duy nhất đi lính VNCH lại bị bộ đội giết?. Sự đau đớn ấy, không thể làm một phép tính so sánh, song cái giằng xé, đau đớn, âm thầm của bà nhân lên gấp bội, bởi không người xẻ chia, cảm thông. Thật vậy, thông qua bà, nhà văn Phạm Tín An Ninh đã cho ta thấy rõ, hình ảnh thu nhỏ của cuộc chiến hai mươi năm, anh em tương tàn này. Tuy nhiên, hơi bị tiếc, bởi tác giả dường như, chưa khai thác hết mâu thuẫn nội tâm của người vợ, người mẹ đau khổ này. Nếu tác giả khoét sâu vào khía cạnh này, tôi tin rằng, truyện hay lên gấp nhiều lần, và câu chuyện không dừng lại chỉ một người lính trinh sát can trường. Có thể, tác giả phải đặt lại tên “Chuyện Về Mẹ” thay cho truyện “Chuyện Người Lính Trinh Sát” không chừng.
Vâng! Và cuộc chiến hai mươi năm được đặt lên đôi vai gầy của mẹ. Có cái đau nào bằng nỗi đau nhìn chồng chết mà không dám nhận, không dám khóc, không dám vấn khăn tang? Và có những nỗi đau chồng lên nỗi đau, khi bà mẹ nhìn con trẻ chết tan xác, bởi hỏa tiễn đồng đội của chồng, khi nỗi đau mất chồng chưa kịp nguôi ngoai? Đọc xong Chuyện Người Lính Trinh Sát, tôi cứ phân vân tự hỏi: Nếu có ghi tên vào Trang sử của chiến tranh, người vợ, người mẹ này thuộc về những người lính chiến VNCH, hay là của những anh Bộ đội? Và có phải đó là nỗi đau chung, nỗi đau khó xóa nhòa?. Ta hãy đọc lại những lời thoại, với sự cảm thông, chia sẻ giữa người lính VNCH và người đàn bà trong: Chuyện Người Lính Trinh Sát dưới đây, để thấy rõ cái trớ trêu, cũng như bản chất của cuộc chiến, và nỗi đau tận cùng của con người, hay của cả một dân tộc này:
“Chờ cho người mẹ thắp hương và bớt xúc động, tôi hỏi nhỏ:
– Ở làng Long Giang, chị có biết bà Lê Thị Đúng, có người con chỉ huy du kích, bị chết cách nay khoảng tám năm?
Người mẹ ngạc nhiên nhìn tôi, thoáng dò xét rồi cúi xuống, nói thật nhỏ chỉ đủ tôi nghe:
– Bà là mẹ chồng tôi, và con tôi đây là đích tôn, cháu nội duy nhất của bà. Vừa nói chị vừa đưa tay chỉ vào nấm mồ mới toanh trước mặt.
Khi về lại đơn vị, tôi xin Ban Tài Chánh ứng trước nửa tháng lương. Trích ra một phần, bỏ vào bì thơ, tôi tìm đến đại đội trinh sát gặp và biếu cho bà mẹ của người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh. Bà thoáng một chút xúc động ngạc nhiên nhìn tôi, nói lời cám ơn…Chia tay bà, trên đường trở về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, tôi suy nghĩ mông lung. Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được.”
Tôi không nghĩ, ngòi bút của nhà văn Phạm Tín An Ninh đại diện chung cho người lính VNCH. Nhưng tư tưởng, sự cảm thông mang tính nhân văn có được trên những trang sách, bởi ông đã nhận ra bản chất của cuộc chiến này. Thật vậy, đọc Người Góa Phụ Giờ Thứ 25, ta có thể thấy, ngoài sự dũng cảm với những cái chết tang thương của người lính, cùng sự cảm thông, kính phục, nhà văn Phạm Tín An Ninh còn chỉ ra, bàn cờ chính trị bẩn thỉu đã quyết định số phận người lính ở nơi chiến trường. Tôi đã đọc nhiều bút ký, hồi ký của những nhà văn từ cả hai phía viết cuộc chiến này, song phải nói, rất ít gặp được những nhận định rạch ròi, mang tư tưởng sâu sắc như Phạm Tín An Ninh:
“Sau khi Mỹ bất chấp những phản đối của VNCH, đã tự cho mình ngồi ngang hàng với Cộng Sản Bắc Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều điều trong Hiệp Định Paris ký kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ý định sớm bỏ rơi đồng minh, phủi tay cuộc chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đã ồ ạt tung nhiều sư đoàn với lực lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn công qui mô vào các đơn vị phòng thủ của ta. Phước Long là tỉnh đầu tiên bị thất thủ vào ngày 6 tháng 1/1975 nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay phản đối CSBV vi phạm hiệp định. Điều này đã báo hiệu cho số phận của VNCH.” (Người góa phụ giờ thứ 25)
Có thể nói, đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức, cái nhìn (đa chiều) về cuộc chiến tàn khốc nhất của dân tộc mà ông, thế hệ ông đã đi qua. Tôi nghĩ, với lăng kính, cái nhìn khách quan như vậy, trang viết của ông không chỉ giá trị về mặt văn học, mà còn có giá trị về lịch sử. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh.
Tính nhân bản, lòng vị tha vượt lên trên ngục tối tù đày
Đi sâu vào đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy, truyện của Phạm Tín An Ninh luôn mang tính điện ảnh, kịch tính với mâu thuẫn, tình tiết éo le được đẩy lên cao độ, và bất ngờ. Tuy thắt nút được mở, cái kết vỡ òa có hậu, song làm cho nguời đọc không khỏi bùi ngùi, xót xa. Đà Lạt Trời Mưa là một truyện hay, tiêu biểu cho đặc tính này trong truyện ký, văn xuôi của ông. Thật vậy! Chiến tranh kết thúc, nhà tù, cải tạo là nơi người lính thất trận phải đi đến. Ở địa ngục trần gian này, cái chết chưa phải là điều đáng sợ nhất đối với người lính cải tạo tù đày, mà cực nhọc, đói khát, đày đọa về vật chất, giam hãm tinh thần mới là nỗi ám ảnh thường trực, kể cả khi họ đã thoát ra khỏi nơi địa ngục ấy. Ta hãy đọc lại trích đoạn trong Đà Lạt Trời Mưa dưới đây, để thấy rõ, cái chết rẻ mạt và bất ngờ của họ, dẫn đến những bi kịch của con người ở một xã hội luật pháp, đạo lý đảo lộn tùng phèo này:
“Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ…Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc… Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.”
Tuy viết về chiến tranh, người lính, và cải tạo tù đày, song chất trữ tình là nghệ thuật đặc trưng nhất xuyên suốt truyện ngắn, văn xuôi của Phạm Tín An Ninh. Do vậy, đọc ông luôn cho ta cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng ăm ắp tình người. Ta có thể thấy, cùng với, Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, Ở Cuối Hai Con Đường là truyện ngắn hay nhất về tình người, lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Phạm Tín An Ninh. Nếu ở, Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, sự cảm thông của người mẹ, người dân miền Bắc đối với những người lính cải tạo tù đày, thì Ở Cuối Hai Con Đường, thì cái tình người ấy, thể hiện ngay trong tình cảm, hành động của người quản giáo (một cựu tù binh ở chiến trường Kontum, đã được những người lính VNCH đối xử nhân đạo). Có thể nói, tôi đã đọc rất nhiều bút ký, hồi ký của những cựu cải tạo, tù nhân từ Nam ra đến Bắc, song có rất ít nhà văn, người viết tìm ra khía cạnh này. Tôi nghĩ, đây là cái nhìn công bình, không mang tính định kiến, hận thù của một nhà văn có tình yêu và lòng vị tha cao cả. Cho nên, trong một lần điện đàm, bàn luận về nhà văn Phạm Tín An Ninh, nhà thơ Trần Trung Đạo cho rằng: Phạm Tín An Ninh chinh phục được độc giả như vậy, vì khi viết anh có cái tâm trong sáng.
Thật vậy, đoạn văn miêu tả tình cảm, tình người dưới đây, sẽ chứng minh cho chúng ta điều đó:
“Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:
– Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.
Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động.
Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên. Rồi đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác. Nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc giấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.” (Ở Cuối Hai Con Đường)
Nghỉ Hè Ở Mallorca là một truyện ký, tôi cho rằng, hay, và toàn bích nhất của Phạm Tín An Ninh. Cùng với Ra Biển Gọi Thầm của Trần Hoài Thư, Nghỉ Hè Ở Mallorca là truyện độc đáo nhất về tình yêu ở nơi cải tạo tù đày. Tính chất trữ tình tựa như cơn mưa đầu làm dịu mát cái nắng nóng hừng hực giữa hè của văn chương về chiến tranh, tù đày sau 1975, ở hải ngoại vậy. Vâng! Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, chập chờn ký ức của nhân vật lồng vào tác giả, Phạm Tín An Ninh đã đưa người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng tuyệt đẹp, giữa một nữ kỹ sư lâm trường và người tù cải tạo. Tình yêu, và sự cao thượng trong hoàn cảnh ấy, tuy nghiệt ngã, song nó đã mở ra một lối thoát, một nghị lực sống của con người:
“Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Bởi vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.” (Nghỉ Hè Ở Mallorca)
Dường như, càng bị đọa đày, thì Phạm Tín An Ninh càng tĩnh tâm hơn. Nhất là khi ông bước vào nghiệp viết. Lòng nhân bản, tình người giúp ông bước ra khỏi hận thù. Cho nên, mỗi trang viết của ông như một liều thuốc, lời ru làm xoa dịu nỗi đau của con người vậy.
Quê hương với nỗi đau và mất mát
Bước ra khỏi nhà tù nhỏ, nhưng con đường trước mặt Phạm Tín An Ninh còn bế tắc hơn nữa. Nỗi đau của đất nước, và gia đình như đám mây đen bao kín cả bầu trời. Và đi hết biển, con đường duy nhất, là nơi ông phải đến. Tâm trạng ấy, được Phạm Tín An Ninh ủ vào bài viết, mà tôi không thể gọi thành tên. Bởi, ông trộn tất cả các thể loại văn học vào trong đó. Vâng! Những Đám Mây Trên Đỉnh Núi Phổ Đà là bài viết như vậy. Có thể nói, đây là một trong những bài văn cảm động nhất của Phạm Tín An Ninh. Vẫn lối viết giản dị, lời văn mộc mạc, nhưng giàu hình tượng làm cho người đọc phải rưng rưng ngấn lệ. Những hình tượng so sánh ấy, trải ra, rồi cuộn tròn thành nỗi đau, nỗi u hoài trong lòng tác giả, trong lòng người đọc. Thành thử, tôi không thể lược bỏ bất cứ từ ngữ, câu cú nào trong đoạn trích dưới đây, dù có thể khá dài:
“Chỉ có dãy núi Phổ Đà vẫn còn đứng nguyên ở đó. Hôm đầu tiên ra cổng nhìn lên, tôi không còn thấy cánh đại bàng hùng vĩ ngày xưa. Cả đỉnh núi bị bao phủ bởi những đám mây đen buồn thảm, làm tối cả một vùng trời ảm đạm. Tôi hình dung đến cha mẹ tôi, hai ông chú và cả những đồng đội bạn bè, trong đó có Phan. Tất cả như đang ẩn hiện trong các đám mây mù buồn thảm ấy. Lòng tôi đau đớn như đang có trăm ngàn vết chém. Tôi thắp hương, nhắm mắt tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát trong một thế giới bình an, không còn có đau khổ, hận thù. Nghe tiếng sấm chớp, tôi giật mình mở mắt ra. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Nhìn mưa trút nước từ những đám mây đen trên đỉnh núi Phổ Đà, tôi có cảm giác như suối nước mắt của bao nhiêu người thân bất hạnh. Mưa dứt. Những đám mây đen biến mất. Tôi cũng vừa nhìn thấy cánh chim đại bàng trên vách núi vỗ cánh bay đi. Mất hút cuối chân trời.”
Và Phạm Tín An Ninh đã đi gần hết biển. Xứ lạnh Na Uy là nơi ông cập bến đỗ. Cuộc sống yên bình, hạnh phúc nơi đây càng làm cho ông day dứt khôn nguôi. Với đồng đội, với quê hương, một món nợ, buộc ông phải trả. Như một cánh chim biệt xứ, ông biết về đâu, khi thành phố xưa đã thực sự không còn, và những dấu tích, kỷ niệm xưa chỉ còn là cổ tích. Một nỗi đau, không thể giãi bày. Hoàn cảnh ấy, chỉ có trang viết mới làm ông nguôi ngoai nỗi nhớ thương. Và khi viết Chim Bay Về Biển, dường như Phạm Tín An Ninh đã vắt hết nỗi đau, và niềm nhớ thương nơi quê nhà vào trong đó. Thật vậy, Chim Bay Về Biển là những trang văn đẹp nhất, và cũng buồn nhất, mà tôi đã được đọc trong thời gian gần đây. Ta hãy đọc lại một trích đoạn trích dưới đây, để thấy rõ điều đó:
“Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.”
Có lẽ, thời gian đẹp, nhiều kỷ niệm nhất của Phạm Tín An Ninh là lúc mặc áo lính, nên truyện của ông chủ yếu viết về lính, viết về chiến tranh. Có điều đặc biệt, trên trang sách của ông, tôi ngửi thấy mùi khét của bom, nghe thấy tiếng súng, nhưng tôi không thấy có địch, có ta, không có hận thù và những cảnh khát máu giết người, mà chỉ thấy ngun ngút tình người trong đó. Và ước nguyện của Phạm Tín An Ninh, dường như cũng là ước nguyện chung cho tất cả những người lính đã đi qua cuộc bể dâu này. Chính vì vậy, tôi xin mượn một đoạn văn trong truyện ký: Tháng 4 Nhớ Bạn (của ông) nhằm làm sáng tỏ thêm chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh, cũng như để kết thúc bài viết này:
“Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ chúng tôi đã từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh và đau thương nhất của dân tộc.”
Leipzig ngày 27-12-2019
Những đoạn kết… buồn hiu!
Huy Phương
Cô đào thương biết lúc phải giã từ sân khấu lúc mình về già, khi nhan sắc đã tàn phai, giọng hát đã rã rời, đứt đoạn. Dù sự ra đi ấy có đem lại những thiệt thòi, đau xót, người trong cuộc cũng phải đành chấp nhận. Chính người hâm mộ cũng không bao giờ muốn thấy thần tượng của mình lúc xế chiều, mà họ muốn giữ lại cái hình ảnh đẹp đẽ của những ngày xưa.
“Limelight” là cuốn phim nổi tiếng nhất của Charlie Chaplin, một phim rất cảm động về tình đời. Trong phim, Charlie Chaplin đóng vai một ca sĩ hài hước về… chiều, thất bại vì tài năng đã đến lúc tàn tạ, “Rồi khi ánh đèn tắt lặng lẽ cô đơn, chìm trong bóng đêm, người ta lãng quên bẽ bàng…”
Chúng ta thương xót cho cuộc đời nghệ sĩ lúc về chiều, không còn ai hâm mộ, chết trong lãng quên, nhưng chúng ta cũng không muốn người nghệ sĩ kéo dài năm tháng trên sân khấu khi nhan sắc đã về chiều, tẻ nhạt và buồn phiền.
Người ta thường tự kết liễu thanh danh của mình bằng những đoạn kết… buồn.
Trong những con người đó chúng ta có thể kể đến Phạm Duy, một tên tuổi hay nói ví von hơn, là một “cây cổ thụ” trong làng âm nhạc Việt Nam, đã có một đoạn kết dở, khi ông đã tự phủ nhận tất cả chính kiến của mình để xoay chiều 180 độ. Những người đó, cũng là Trịnh Công Sơn, người đã được sự yêu thương của tất cả người Việt Nam, đã có một đoạn kết… buồn, khi dưới bạo lực… mềm, ông đã kéo dài thêm một quãng đời, khi đồng bào rên xiết, ông đã reo vui bằng những câu hát mê muội, “Em ở nông trường anh ra biên giới,” “ Huyền thoại Mẹ,” “Ra chợ ngày thống nhất,” và tệ hại hơn là “Ánh sáng Mạc Tư Khoa,” được xem như một bản “báo cáo công tác” sau khi ông được ân huệ của Cộng Sản trả công bằng một chuyến “tham quan” Liên Xô.
Liệu những “thiên tài” hay “đại thụ” có cần kéo lê thêm một đoạn đời như thế không?
Có những ca sĩ tên tuổi, được sự yêu mến của mọi người, giờ đây muốn thêm một kịch bản gọi là phần hai cho đời mình. Dù dưới mục đích cao đẹp “cần về quê hương hát cho đồng bào mình nghe,” hay thực tế là họ cần tiền và còn kiếm được tiền, thì những đoạn kết ấy cũng không mấy tốt đẹp, đánh mất tất cả niềm tin và sự thương yêu lâu nay người đời đã dành cho họ.
Nói như Nguyễn Du, “Đã buồn cả ruột, lại dơ cả đời!”
Tiểu thuyết Trà Hoa Nữ (La Dame Aux Camélias) được chuyển thành kịch bản là một tác phẩm nổi tiếng trên khắp thế giới, nhưng nếu chẳng may có ai đó dựng nên kịch bản “Hậu Trà Hoa Nữ” để cho Marguerite Gautier có dịp gặp tái hồi cùng Duval, như lấy nhau, thì vở kịch chán chường lố bịch biết bao.
Người đời thường thích những chuyện có “hậu” và phải hiểu đây là thứ hậu vuông tròn, đẹp đẽ (happy ending.) Chính vì vậy mà Nguyễn Du kéo dài truyện Kiều, nên nhân gian có thành ngữ “tái hồi Kim Trọng.” Trong phần tái hồi này Kim Trọng để chàng phải nài nỉ, phân bua “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,” cũng tính chuyện “động phòng.” May mà Thúy Kiều cứng rắn, cho mình là “hương dưới đất, hoa cuối mùa,” từ chối quyết liệt, Kim Trọng mới thẹn thùng đổi chuyện chăn gối ra chuyện cầm thơ.
Có nhiều người không tự biết mình, hay soi gương cũng chẳng thấy khuôn mặt mình, nhưng như vậy không có nghĩa là không ai thấy mình. Đó là những người chưa chết nhưng đã tự chôn mình. Họ cố ôm lấy những danh vọng hão, hết chức vụ này lại muốn nhảy sang cầm lấy chức vụ khác, hết làm chủ tịch thì quay sang làm cố vấn, họ nghĩ không có họ thì ai còn khả năng đứng ra cứu nước!
Trong khi ông nọ hết nhiệm kỳ làm tổng thống lại lui về chức thủ tướng chờ thời, rồi trở lại làm tổng thống, bà nọ không còn là thị trưởng thì ứng cử lấy chức nghị viên thành phố, người kia oanh liệt một thời cấp tiểu bang nay lại công danh thụt lùi về lại quận hạt. Như vậy còn chỗ nào cho người khác, trẻ tuổi và tài năng tiến thân. Cái giỏ cua bây giờ cua bò lên không bị ai kéo trở lại, nhưng đóng nắp rồi thì cũng không ai còn tìm được con đường tiến thân. Biết chấm dứt kịp lúc, đúng thời, đối với họ quả là chuyện khó khăn.
Lê Đạt trong phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, năm 1956, đã có bài thơ “Ông Bình Vôi” để phê phán những cán bộ sống lâu lên lão làng nhưng “càng lớn càng đặc,” ôm lấy các chức vị, trong đó có những câu:
“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại…”
Nhà văn Phan Khôi, nhân mấy câu thơ của Lê Đạt, có viết một bài văn cũng mang tên là “Ông Bình Vôi” có những câu như: “vật gì sống lâu và to xác thì gọi bằng ‘Ông’ để tỏ lòng tôn kính, sùng bái.” Trong cộng đồng chúng ta bây giờ không thiếu những “Ông Bình Vôi!”
Ở Việt Nam có quy định tuổi về hưu cho các cấp chỉ huy, nhưng gần đây người ta cho tái bổ nhiệm một bà với một lý do rất buồn cười là vì bề ngoài, trong bà còn trẻ! Người ta trau chuốt công lao của bà và gần như đi đến kết luận, trong lúc này chưa ai thay thế được bà.
Ở Mỹ nếu một ông tổng thống làm đến 3 nhiệm kỳ thì… chán chết, trong khi đó, “Ong Bình Vôi” (*) Phạm Văn Đồng của “ta” ôm chức thủ tướng Việt Cộng tại vị lâu nhất đến 32 năm (1955-1987).
“Giai nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu!”
Ai muốn nhìn một hoa hậu về già, tóc bạc, miệng móm?
Ông tướng chết giữa chiến địa có đoạn kết cho đời mình bi hùng, trong khi ông tướng về hưu chết trong nhà dưỡng lão có một đoạn kết… buồn hiu!
(*) “bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa…”
Huy Phương

NHÌN SANG NƯỚC BẠN THẤY MÌNH TE TUA
Hôm sang Thái Lan, tôi và một người bạn dự định sẽ ăn tối và uống chút bia, lai rai ngắm nhìn đường phố Bangkok. Vào một nhà hàng giống quán nhậu ở Việt Nam, chúng tôi gọi 2 chai bia sau khi đã order vài món.
Thật bất ngờ là quán từ chối bán bia. Nhìn sang hàng loạt bàn ăn bên cạnh, đều không có ai uống bia hay rượu. Cả quán ăn đông đúc là vậy mà rất yên tĩnh, không ồn như quán ăn nhậu ở Việt Nam.
Tìm hiểu thì được biết Thái Lan áp dụng cấm bán bia rượu ở nhiều khung giờ và hạn chế người dân tiếp cận bia rượu ở nhiều nơi. Đó là lý do mà đi dạo trên đất Thái Lan thấy người dân rất hiền hòa, thư thái, an bình.
Và với chúng tôi, việc không uống bia giúp bữa ăn được ngon lành trọn vẹn. Hơn nữa, số tiền thanh toán rất thấp, chỉ khoảng 300 ngàn đồng cho hai người.
Mấy năm trước, khi đi du lịch Singapore, nhóm đàn ông trong đoàn Việt Nam chúng tôi muốn làm một thùng bia sau cả ngày tham quan trong tiết trời oi nắng. Rất may là cậu tiếp viên quán ăn cảnh báo trước rằng giá mỗi một chai Tiger tương đương 400 ngàn đồng Việt Nam. Thế là mọi người quyết định nhịn uống. Tôi nhớ khi đó nhóm khách Trung Quốc ngồi ăn bàn bên cạnh uống bia khá thoải mái. Có lẽ họ giàu có hơn chúng ta nhiều.
Chắc chắn là ở những đất nước tiến bộ như Thái Lan, Singapore, Malaysia, bia rượu được nhốt kỹ ở một góc nào đó trong cuộc sống. Chúng không thể thả rông thoải mái, khuấy đảo xã hội như Việt Nam.
Quan sát cách vận hành thị trường bia rượu trên thế giới, chúng ta dễ nhận thấy Việt Nam đang ở trong một túi cồn được tạo ra từ chính sách.
Đánh thuế rẻ mạt, cho mua bán tràn lan tận hang cùng ngõ hẻm, bất cứ ai cũng có thể tiếp cận và tiêu thụ rượu, bia. Đến bất cứ chỗ nào ở Việt Nam, từ cổng trường học ở thị thành hay tận sâu trong các bản làng heo hút đều dễ dàng mua được bia rượu.
Chúng ta nhìn thấy gì qua diễn biến này. Tôi nghĩ đó là một âm mưu đầu độc quy mô lớn.
Đàn ông cả nước cứ lấy tửu điếm giải khuây thì không bao giờ có thể ngóc đầu lên mà làm cái gì đó lớn lao cho đất nước. Quân cai trị sẽ chỉ cười khẩy khi thấy các gã say chém gió chửi bới bên bàn nhậu.
Nhậu say thì lăn quay ra ngủ. Vòng tròn cứ lặp đi lặp lại. Dù sao sau khi tỉnh dậy, đám này vẫn nai lưng ra làm đóng thuế, đóng BHXH, tiêu thụ, tiêu thụ và tiêu thụ cho nhu cầu cá nhân.
(VÌ MỘT VIỆT NAM THỨC TỈNH)
fb Quý Lâm

Nhìn lại đất nước từ năm 1954 (với miền Bắc) và từ năm 1975 (trên phạm vi cả nước) cộng sản VN bưng nguyên mô hình CNXH Xô viết, kinh tế thị trường bị kỳ thị, tẩy chay do vậy trừ kinh tế cá thể nhỏ lẻ, còn lại kinh tế tư nhân, trước hết là các doanh nghiệp tư nhân bị xóa sổ. Chưa kể đến một nền kinh tế của miền Nam thời VNCH…
Đến hôm nay Đảng cộng sản mới thừa nhận kinh tế thị trường là phương thức phát triển kinh tế năng động nhất mà nhân loại đã tìm ra, là sản phẩm của nền văn minh nhân loại mà tư duy vô sản của cs đã đi ngược lại nhân loại.
Họ đâu biết rằng nền tảng để cho một quốc gia phát triển đâu phải cứ hô khẩu hiệu, rồi kiên định với đường lối chính trị Mác- lê. Rồi cho nhân dân ăn bánh vẽ mấy chục năm qua không biết ngán, mà mới đây còn vẽ cho dân mình ăn thêm cái bánh đến năm 1945 là thành nước công nghiệp phát triển. Thay cho khẩu hiệu đến năm 2020..
Phải chăng nhà nước cộng sản cố bấu nếu để duy trì sự độc tài của chế độ..
Đến nay thu nhập GDP theo đầu người của Việt Nam năm 2018 chỉ đứng thứ 136/168 so với các nước tham gia xếp hạng của thế giới.
Theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, GDP bình quân đầu người của thế giới ngày một doãng xa so với Việt Nam.
Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới hơn của Việt Nam 3.900 USD, nhưng nay đã vọt lên hơn 7.500 USD, gần gấp đôi, theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang Thái.
Thế lực thù địch, phản động là ai?
28-12-2019
Từ nhiều năm nay, đài báo cứ tuyên truyền các thế lực “thù địch, phản động” đang diễn biến hoàn bình, âm mưu lật đổ chính quyền do đảng cộng sản lãnh đạo.
Mới đây, phát biểu tại hội nghị toàn quốc tổng kết công tác tuyên giáo năm 2019 và triển khai nhiệm vụ năm 2020 ngày 23.12, ông Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, cũng nhấn mạnh: “Tuyên giáo phải là lực lượng nòng cốt, kết nối lực lượng, đấu tranh kịp thời với các luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị, …”

Rồi tiếp đến, nghe Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nói: đấu tranh với thế lực thù địch phản động “đấu tranh một mất một còn, quyết liệt, nóng bỏng, cấp bách và không khoan nhượng“.

Nghe các quan tướng này nói hùng hổ quá, tôi là nhân dân với truyền thống đã 3 đời chống ngoại xâm cũng muốn xông ra trận tiêu diệt quân thù. Nhưng ngặt một điều, không biết thế lực thù địch, phản động là ai?
Đường đường là các quan tướng chính danh mà không nói rõ ràng thì dân làm sao phân biệt địch ta, phản động để cùng với quân đội bảo vệ đất nước?!
Kính thưa các vị tuyên giáo, cờ đỏ, dư luận viên; cứ nói đến quyết tâm tiêu diệt thế lực “thù địch, phản động”, nhưng “thù địch, phản động” thực sự là ai, ở đâu, thì dân đen ít người biết. Vậy xin hỏi mấy câu:
1. Tổng thống Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ là Donald Trump đã nhiều lần lên án chủ nghĩa xã hội, tuyên bố chống chủ nghĩa cộng sản và quyết tâm tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản trên toàn thế giới. Vậy ông Donald Trump có phải THÙ ĐỊCH không?
Và, những kẻ xum xuê đón tiếp ông Trump để xin được mua vũ khí, để được làm ăn, để được công nhận kinh tế thị trường,… Những kẻ đó có phải PHẢN ĐỘNG không?
2. Tổng bí thư đảng cộng sản, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình đưa quân đội chiếm giữ biển đảo Việt Nam, nói thẳng ra là xâm lược Việt Nam. Vậy tên Tập Cận Bình kia có phải THÙ ĐỊCH không?
Và, những kẻ nhận Trung Quốc là anh em láng giềng hữu nghị với “16 chữ vàng, 4 tốt”, liếc mắt đưa tình lúng liếng, mở toang cửa cho Trung Quốc tự do ra vào. Những kẻ đó có phải PHẢN ĐỘNG không?
3. Thế lực tham nhũng, phá hoại tài nguyên, nguồn lực của đất nước đến hàng ngàn ngàn tỷ có phải thế lực PHẢN ĐỘNG không?
Thế lực mang rác thải, công nghệ cũ vào Việt Nam đầu độc cả dân tộc, hủy hoại môi trường hàng trăm năm sau chưa khắc phục được, có phải thế lực PHẢN ĐỘNG không?
***
Kết luận:
Các cơ quan tuyên giáo, công an, lực lượng 47, hội cờ đỏ các tỉnh thành nào cũng có, thêm đám dư luận viên suốt ngày ra rả trên mạng chống lại các thế lực thù địch, phản động.
Nhưng thế lực thù địch, phản động là ai? … thì không có định nghĩa rõ ràng nên không ai được biết cụ thể!
Bài viết này mong muốn định danh tường minh thế lực “thù địch, phản động là ai?”. Tác giả sẵn sàng đối thoại với ông Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương và bất kỳ cơ quan chức năng chuyên môn nào để làm rõ phạm trù các khái niệm này.
Còn bây giờ, kính thưa các vị:
– Thế lực nào đã xâm lược, chiếm đoạt chủ quyền đất đai, biển đảo thiêng liêng của ông cha để lại.
– Thế lực nào đã đẩy hàng triệu người dân Việt Nam phải rời bỏ tổ quốc tìm đường mưu sinh ô nhục ở nước ngoài.
– Thế lực nào đã hủy hoại tài nguyên môi trường, làm suy yếu sức mạnh dân tộc, làm nhu nhược tinh thần nhân dân; làm cản trở tiến trình phát triển của đất nước.
Đó mới chính là thế lực THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG thực sự của dân tộc Việt Nam; lịch sử ngàn đời nguyền rủa và nhân dân sẽ quyết tâm tiêu diệt đến cùng.

Kính thưa các đồng chí đã, đang, sắp vào lò và các đồng chí đã hạ cánh an toàn khi mà mọi bí mật ăn đớp được may mắn bỏ sót.
Tôi xin được nhắc các đồng chí hiểu một điều là làm cán bộ, làm quan chức là để xây dựng đất nước, làm cho dân giầu, nước mạnh, đưa đất nước tiến lên thành một xã hội dân chủ, văn minh, bình đẳng, tôn trọng quyền con người chứ không phải là làm cán bộ, quan chức là để sắm biệt thự, xe hơi đắt tiền, là xây dựng quan hệ xã hội chằng chịt phức tạp mờ ám, là câu kết ăn đớp thả cửa, dành tích luỹ cho ngày về hưu, cho đời con, đời cháu và nhiều đời về sau của các đồng chí.
Các đồng chí nhớ cho là làm con người, miếng ăn không phải quá quan trọng mà điều quan trọng là đóng góp được gì cho xã hội. Nếu các đồng chí có đóng góp thật sự, nhân dân sẽ ghi công ngàn đời, sử sách sẽ khắc tên các đồng chí để thế hệ sau nhớ mãi.
Nhưng không, các đồng chí tuy mang bộ mặt con người nhưng trí não và tâm hồn lại của loài cầm thú tham lam. Mà nói thế cũng không chính xác bởi con vật khi giết thịt một con vật khác thì chỉ để no một bữa rồi đi ngủ, các đồng chí đã có một biệt thự thì lại muốn có hai, có ba. Đã đủ đời mình, thì lại muốn đủ đời con, đời cháu, đời chắt… Rất tiếc là khả năng ngôn ngữ của tôi có hạn nên không biết dùng từ gì để lột tả bản chất của các đồng chí. Thôi thì tôi sẽ dùng tạm là những con quái vật tham lam vô độ vậy.
Các đồng chí là bậc thầy của sự lưu manh, khốn nạn và đểu giả. Người dân đang sống yên ổn trong nhà, các đồng chí đang tâm cướp nhà của họ, nhưng lại nhân danh chính quyền, dùng quân đội và công an để thực hiện dã tâm của mình. Ấy thế nhưng khi đăng đàn trước công luận hay trả lời báo chí thì các đồng chí luôn dùng mĩ từ “do dân” “vì dân”, là “đầy tớ” là “công bộc” của dân. Các đồng chí cũng là bậc thầy của sự đạo đức giả.
Các đồng chí quả thật là “lưu manh giả danh cán bộ”, à, mà nói thế cũng không phải bởi các đồng chí không giả danh mà đúng là cán bộ thật. Vậy nói các đồng chí là cán bộ lưu manh mới đúng.
Các đồng chí quả thật rất nguy hiểm. Bởi kẻ cướp bịt mặt cầm dao thì ai cũng biết là kẻ cướp, kẻ cướp có dấu má, có chỉ thị, có chủ trương, có quy hoạch, có công an, quân đội tiếp tay thì dân đen nào đỡ cho nổi?
Fb Chau Doan