Nhà khoa học Trung Cộng bị bắt do trộm mẫu vật từ phòng thí nghiệm Hoa Kỳ

Trần Bang and Tony Ton shared a link.

Tin từ Boston – Khi chuẩn bị lên chuyến bay từ Boston đến Bắc Kinh, môt nhà khoa học Trung Cộng, tên Zheng Zaosong bị nhân viên quan thuế cản bước và kéo anh sang một bên. Bên trong hành lý ký gửi của anh Zheng, các nhân viên tìm thấy 21 lọ ch…
  • Khi chuẩn bị lên chuyến bay từ Boston đến Bắc Kinh, môt nhà khoa học Trung Cộng, tên Zheng Zaosong bị nhân viên quan thuế cản bước và kéo anh sang một bên. Bên trong hành lý ký gửi của anh Zheng, các nhân viên tìm thấy 21 lọ chất lỏng màu nâu được bọc trong một túi nhựa và sau đó nhét vào trong một chiếc vớ, và các lọ hóa chất này có chứa tế bào ung thư.

Khảo sát bác sĩ Mỹ: 74% tin vào phép lạ từ Chúa, 55% đã từng gặp điều đó

Hoa Do and 2 others shared a link.

Năm 2004, một cuộc khảo sát mức độ quốc gia tiến hành với 1.100 bác sĩ, được thực hiện bởi Công ty HCD Research, Viện Tôn giáo và Xã hội học Louis Finkelstein thuộc Chủng viện Thần học Do Thái (Jewish Theological Seminary) tại thành phố New York, Mỹ đã phát hiện 74% bác sĩ tin rằng phép lạ từng xảy ra trong quá khứ, 73% tin rằng những điều kỳ diệu đó vẫn diễn ra trong thời buổi hiện nay.

(ảnh: shutterstock)

Cuộc thăm dò cũng chỉ ra rằng các bác sĩ Mỹ có niềm tin vào tín ngưỡng đáng kinh ngạc, với 72% cho thấy họ tin rằng tôn giáo mang đến một định hướng đáng tin cậy và cần thiết cho cuộc sống.

Những người được khảo sát có tín ngưỡng rất đa dạng: Cơ đốc giáo (Công giáo La Mã, Tin lành, Cơ đốc giáo chính thống…), Do Thái (Chính thống, Bảo thủ, Cải cách và thế tục) và các tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo.

“Khảo sát cho thấy các bác sĩ, mặc dù có lẽ có trình độ học vấn trung bình cao hơn so với bệnh nhân, nhưng không nhất thiết phải khác biệt hơn hoặc hoàn toàn khác biệt so với bệnh nhân về quan điểm tôn giáo,” Tiến sĩ Alan Mittleman, Viện trưởng Viện Finkelstein cho biết.

“Công việc của chúng tôi là xác định nhu cầu và yêu cầu của bác sĩ phù hợp với môi trường chăm sóc sức khỏe; nghiên cứu này là cơ hội tuyệt vời để chúng tôi sử dụng phương pháp của mình để khám phá tâm linh và niềm tin cá nhân của bác sĩ”, Glenn Kessler, Đồng sáng lập và người quản lý các đối tác của HCD Research ở Flemington, NJ, Hoa Kỳ cho biết. Nghiên cứu đã khẳng định các cuộc thăm dò trước đó được thực hiện bởi HCD cho thấy mối tương quan giữa niềm tin tâm linh và sự bảo thủ chính trị của bác sĩ.

Các phát hiện cho thấy:

– 58% các bác sĩ được khảo sát tham dự các hoạt động tôn giáo ít nhất một lần mỗi tháng.

– 46% các bác sĩ tin rằng cầu nguyện là rất quan trọng trong cuộc sống của họ.

Có vẻ như niềm tin tôn giáo, đặc biệt là niềm tin vào phép lạ, giảm đi khi trình độ giáo dục tăng lên. Nhưng điều này dường như không đúng với các bác sĩ. Có lẽ vì liên quan thường xuyên đến các vấn đề của sự sống và cái chết, các bác sĩ cho thấy sự cởi mở đáng kể đối với tôn giáo.

Hơn một nửa các bác sĩ được khảo sát tham dự các hoạt động tôn giáo tối thiểu một lần mỗi tháng (ảnh qua cathnewsusa.com)

Quan điểm về phép lạ và nguồn gốc của Kinh thánh:

– 37% bác sĩ tin rằng những câu chuyện thần kỳ của Kinh thánh là đúng theo nghĩa đen trong khi 50% tin rằng chúng là ẩn dụ. 12% cho biết họ không tin vào mô tả phép lạ của Kinh thánh

– 9% tin rằng Kinh thánh được viết bởi Thiên Chúa, 58% tin rằng Kinh thánh được Thiên Chúa truyền cảm hứng và 34% coi đó là văn học cổ đại của con người.

– 55% tin rằng thực hành y tế nên được hướng dẫn bởi giáo lý tôn giáo (44% không đồng ý)

Tôn giáo và thực hành y học

Có lẽ kết quả đáng ngạc nhiên nhất của cuộc khảo sát là phần lớn các bác sĩ (55%) nói rằng họ đã từng chứng kiến điều kỳ diệu xảy đến với kết quả điều trị cho bệnh nhân. Có nhiều bác sĩ cầu nguyện cho nhóm các bệnh nhân của họ (51%). Thậm chí, 59% bác sĩ từng cầu nguyện cho từng bệnh nhân riêng lẻ.

67% bác sĩ khuyến khích bệnh nhân của họ cầu nguyện. Trong số các bác sĩ đó, 5% tin rằng Chúa sẽ đáp ứng lời thỉnh cầu của họ, 32% thấy có lợi ích tâm lý và 63% tin vào cả hai lý do trên. 33% bác sĩ không khuyến khích bệnh nhân của họ cầu nguyện.

Có nhiều bác sĩ thường xuyên cầu nguyện cho bệnh nhân của họ và tin vào sức mạnh của Chúa (ảnh: shutterstock)

Sự khác biệt về tôn giáo

Các bác sĩ có nhận thức khác nhau về ảnh hưởng đối với kết quả điều trị bệnh bởi các phương pháp y học so với sự tác động của các hiện tượng siêu nhiên hoặc hành vi của Thiên Chúa.

35% người Công giáo tin rằng toàn bộ hoặc rất nhiều kết quả điều trị là do những những tác động phi y học này, 46% người Tin lành đồng tình trong khi chỉ có 20% người Do Thái cho rằng kết quả có ảnh hưởng bởi sự tác động phi y học.

Thu nhập và niềm tin của bác sĩ

Một nghiên cứu khác năm 2005 của Đại học Chicago, Hoa Kỳ cho thấy có đến 76% các bác sĩ tin vào Chúa, trong khi đó chỉ có 39% các nhà khoa học và khoảng 70% dân chúng tin vào Chúa.

Báo cáo cũng chỉ ra rằng những người có thu nhập cao thường có ít niềm tin vào tín ngưỡng. Tuy nhiên, sự tương quan này không đúng với các bác sĩ, những người có thu nhập nằm trong top 5% của xã hội.

Báo cáo cho thấy các tỷ lệ các bác sĩ tin vào Chúa nhiều hơn các nhóm khác có cùng mức thu nhập. Có lẽ do thường xuyên đối diện với những tử vong và cái chết không thể đoán trước, các bác sĩ luôn nhớ rằng một bệnh nhân không thể dùng tiền mua lối thoát khỏi những bệnh nan y, và an ninh về tài chính cũng không nhất định giúp được họ thoát khỏi những nguy cơ đó.

Những sự kiện tiêu cực và niềm tin của bác sĩ

Báo cáo của Đại học Chicago có một điểm thú vị rằng môi trường làm việc khiến các bác sĩ luôn phải chứng kiến những sự kiện kinh khủng mà hầu hết người khác đều cho rằng không công bằng, như người tốt bụng luôn đau yếu, những đứa trẻ mất cha mẹ, hay những đứa trẻ ngây thơ phải chịu bệnh tật… Nhiều người đặt câu hỏi rằng chứng kiến những hoàn cảnh như vậy có thể khiến các bác sĩ mất đi niềm tin vào Chúa. Nhưng, nghiên cứu đã chứng minh rằng hầu hết họ vẫn tin vào Chúa.

Điều này rất khó giải thích, nhưng có lẽ là do sự yên bình và thanh thản đến bất ngờ mà các bệnh nhân khi tử vong thể hiện ra hoặc do quan sát nhiều sự kiện tưởng là “xấu” lại không nhất định đơn giản như những điều “tốt hay xấu” theo cái lý thông thường, khiến các bác sĩ vẫn đặt niềm tin lớn hơn vào các sức mạnh của Thượng đế cho dù bất kể lý do bất hạnh của con người là gì.

THUVIEN24H.COM
Năm 2004, một cuộc khảo sát mức độ quốc gia tiến hành với 1.100 bác sĩ, được thực hiện bởi Công ty HCD Research, Viện Tôn giáo và Xã hội học Louis…
Năm 2004, một cuộc khảo sát mức độ quốc gia tiến hành với 1.100 bác sĩ, được thực hiện bởi Công ty HCD Research, Viện Tôn giáo và Xã hội học Louis…
Tại Mỹ 74% bác sĩ tin rằng phép lạ từng xảy ra trong quá khứ, 73% tin rằng những điều kỳ diệu đó vẫn diễn ra trong thời buổi hiện nay

Quan hệ với Trung Quốc: ‘Chính phủ Việt Nam phải nghe dân, bằng không sẽ mất hết quyền lợi dân tộc’

About this website

 

RFA.ORG
Vụ việc căng thẳng tại Bãi Tư Chính, ở Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ tháng 6 và kéo dài đến gần cuối tháng 10 cho thấy rõ thái độ của Bắc Kinh đối với Hà Nội; mặc dù trên lý thuyết hai nước có cùng ý thứ…
Vụ việc căng thẳng tại Bãi Tư Chính, ở Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu từ tháng 6 và kéo dài đến gần cuối tháng 10 cho thấy rõ thái độ của Bắc Kinh đối với Hà Nội; mặc dù trên lý thuyết hai nước có cùng ý thứ…

CƠ ĐỒ

Image may contain: 1 person, text
Lê Vi

CƠ ĐỒ

Về cái câu tự sướng mà các báo quốc doanh đang tung hô, rằng “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ như hôm nay”, chúng ta cần thấy:
-Đó cũng chỉ là dạng tư duy cùn mòn, kiểu như so với trước cách mạng tháng 8 thì nông thôn bây giờ có nhiều nhà ngói hơn, thậm chí có cả nhà mái bằng, nhà 2 tầng.

-Chỉ nhìn vào thực tế trong nước rồi tự bảo ta đã tiến được thế này thế nọ, sao không thấy trong cùng thời gian ấy xứ người ta đã có cơ đồ bằng mấy mình. Nói đâu xa, chỉ sang Thái Lan là biết, chứ chưa cần Hàn, Nhật.

-Sao không tự hiểu, nếu không có các vị, cơ đồ của đất nước bây giờ có khi còn lớn gấp bao nhiêu lần cái cơ đồ đang có.

-Suốt mấy chục năm, cụ thể là 44 năm sau chiến tranh, tức là gần nửa thế kỷ, nay mới chỉ đạt được cơ đồ thế này, đáng nhẽ phải thấy nhục chứ không phải là vênh vang đắc chí. Lãng phí tiêu phí của cả dân tộc biết bao là thời gian, còn khoe mẽ nỗi gì.

– Nguyễn Thông

Đất nước cần tiềm lực tự nhiên hay tiềm lực nhân văn?

Đã hơn 40 năm kể từ ngày toàn cõi Việt Nam không còn binh đao, lửa đạn. Chỉ cần 20-30 năm, nhiều quốc gia ở Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, Hongkong… đã hóa rồng hóa hổ. Nhưng, đã 40 năm mà Việt Nam vẫn nằm trong top 30 nước nghèo nhất thế giới. Cần phải đặt ra câu hỏi: Tại sao lại thế, và đất nước cần tiềm lực nào để phát triển?

Đất nước cần tiềm lực tự nhiên hay tiềm lực nhân văn?

Đề thi môn văn tốt nghiệp phổ thông trung học năm học 2017-2018 là bài thơ Đánh Thúc Tiềm Lực được Nguyễn Duy viết vào năm 1980-1982 trong thời kỳ đất nước quá nghèo khổ, được xếp vào hàng 5 nước nghèo khổ nhất thế giới vào thời điểm đó. Nhưng, cần phải nhận thức chính xác rằng, đất nước vào thời kỳ ấy có nhiều tiềm lực vật chất để không nghèo đói: Rừng vẫn vàng, biển vẫn bạc, tài nguyên thiên nhiên vẫn chưa được khai thác nhiều, đất đai vẫn mênh mông. Thế nhưng, vào thời điểm ấy cơ chế quan liêu bao cấp chính là dây thòng lòng bóp nghẹt tất cả.

Trong nhận thức non trẻ của các em học sinh phổ thông, có lẽ hầu hết các em tin rằng Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm lực vật chất- tài nguyên khoáng sản để đánh thức, để phát triển như nhà thơ Nguyễn Duy. Nhưng, nếu có em nào đó viết đúng sự thật rằng, tiềm lực tự nhiên của đất nước không còn nữa, bài thi của em đó có bị điểm o không? Nếu chịu khó suy xét, có thể thấy rằng, Việt Nam không còn tiềm lực vật chất để phát triển nữa. Rừng- về cơ bản đã bị quan chức và những chính sách sai lầm phá hết. Biển- về cơ bản đã chết khi nguồn lợi hải sản đã bị khai cùng thác tận, và bị đầu độc ô nhiễm nặng nề. Dầu khí biển- về cơ bản cũng đã hết, và quan trọng nhất là 67 lô dầu khí biển đang mất dần vào tay bạn vàng bốn tốt Trung Hoa. “ Rừng đã hết và biển thì đang chết” có lẽ là câu thơ đau xót nhất trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Đất đai- về cơ bản đã nằm trong tay các thương gia trục lợi và các nhóm tư bản thân hữu. Tài nguyên khoáng sản- về cơ bản đã hết. Việt Nam có tiềm lực vật chất nào nữa để mà đánh thức, để mà phát triển? Có nên trách người ra đề không có nhận thức về những thực tiễn đau lòng? Có nên xem xét rằng, người ra đề thi đã chính trị hóa sâu sắc bài thơ để tuyên truyền, mị dân về sự giàu có tài nguyên của đất nước? Nếu đặt ra những câu hỏi này, cần phải có thái độ cảm thông với các em học sinh vì các em đã bị cung cấp một ngộ nhận.

Thế giới đã qua rồi cái thời phát triển bằng tài nguyên khoáng sản, họ thấu hiểu “lời nguyền tài nguyên” là gì(Lời nguyền tài nguyên là một thuật ngữ chỉ việc khai thác tài nguyên chỉ làm lợi cho một nhóm người, không có lợi cho cộng đồng và đất nước, tàn phá môi trường…). Nước Nga của hoàng đế đỏ Putin đầy rẫy tài nguyên khoáng sản quý hiếm, đất hiếm và tồn tại bằng khai khoáng nhưng có giàu mạnh chút nào đâu. Lục địa đen cũng đầy rẫy tài nguyên khoáng sản nhưng vẫn đắm chìm vào đói nghèo và lạc hậu. Trong khi đó, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và hàng chục quốc gia khác không có tài nguyên khoáng sản, hoặc kiên quyết không khai thác tài nguyên khoáng sản vẫn phát triển như vũ bão, vẫn giàu có, thịnh vượng và hạnh phúc. Từ cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, Mỹ, Anh và nhiều quốc gia khác đã kiên quyến nói không với khai thác mỏ để phát triển bằng kinh tế tri thức, bằng sáng tạo. Nước Mỹ dồi dào khoáng sản nhưng Mỹ không khai thác. Nước Mỹ nhập nguyên liệu phôi thép từ Liên xô cũ và nay là CHLB Nga về và chỉ sau vài tuần nước Mỹ đã có những sản phẩm thép đặc hữu có giá trị cao ngất. Giá trị cao ngất đó đến từ trí tuệ và sáng tạo chứ không đến từ khai thác và luyện thô. Nước Mỹ có trữ lượng dầu mỏ và khí đốt vào hàng cao nhất thế giới, nhưng nước Mỹ chỉ khai thác nhỏ giọt, chủ yếu nhập khẩu. Trí tuệ và sức sáng tạo không ngưng nghỉ của nước Mỹ đã giúp cho nước Mỹ kiên định với con đường “giọt dầu cuối cùng của thế giới là giọt dầu của nước Mỹ”. Kiên định con đường ấy, nước Mỹ đã sản sinh ra công nghệ khai thác dầu đá phiến với hệ số thu hồi dầu cao gấp đôi các công nghệ hiện có, qua đó giảm giá thành, nâng cao sản lượng. Chính công nghệ này đã giúp giá dầu xuống thấp trong 4 năm nay. Với nước Mỹ, trí tuệ và sáng tạo làm nên thành tựu chứ không phải là tiềm lực tự nhiên.

Câu chuyện thành công- thất bại của các quốc gia không phải là câu chuyện tiềm lực tự nhiên, tài nhiên khoáng sán, mà chính là câu chuyện của các tiềm lực nhân văn, mà cụ thể là thể chế chính trị ưu việt hay thể chế chính trị tồi tệ, câu chuyện của tự do hay nô lệ, câu chuyện tôn trọng nhân quyền hay chà đạp nhân quyền.

Các quốc gia tự do, dân chủ và tôn trọng nhân quyền đều là những quốc gia giàu có, thịnh vượng và hạnh phúc như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, New Zealand, Úc, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc……Ở đó, họ có đa nguyên và đa nguyên chính trị, có tự do bầu cử, có tam quyền phân lập để giám sát quyền lực, để chống tha hóa quyền lực. Ở đó có tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do học thuật, tự do xuất bản, tự do biểu diễn, tự do sáng tác… Tự do là nền móng của sáng tạo, mà sáng tạo lại là nền tảng của phát triển và thịnh vượng, và họ giàu có là điều tất nhiên. Ở các quốc gia đó, quyền con người- nhân quyền được nhà nước và cộng đồng tôn trọng tuyệt đối. Khi nhân quyền được coi trọng và tôn trọng, con người luôn có hứng khởi để sống, để làm việc, để sáng tạo và cống hiến.

Nếu soi chiếu đơn giản các đặc trưng cơ bản của tự do- dân chủ- nhân quyền, hãy can đảm đặt câu hỏi: Việt Nam đã có tự do- dân chủ -nhân quyền hay chưa? Câu trả lời chính xác là, đó là mặt hàng xa xỉ mà nhân dân Việt Nam đang mong mỏi. Và khi chưa có mặt hàng xa xỉ đó, Việt Nam vẫn cứ phải lầm lũi trong đói nghèo, khổ đau và bất hạnh như những quốc gia thiếu vắng tự do- dân chủ- nhân quyền khác!

Việt Nam không còn tiềm lực tự nhiên để đánh thức, để phát triển, vậy cần gì để phát triển? Câu trả lời thật đơn giản: Việt Nam đang rất cần tiềm lực nhân văn đặc biệt Tự Do- Dân Chủ- Nhân Quyền. Đó là giải pháp vạn năng để sửa chữa những sai lầm của quá khứ, để phát triển trong hiện tại và thịnh vượng- hạnh phúc trong tương lai.

BÁNH VẼ

Image may contain: 1 person, text
Hai Chu Vinh

Một trong những nguyên nhân khiến cộng sản thành công là: Hứa hẹn, hứa hẹn và hứa hẹn. Và đó là những hứa hẹn không bao giờ đến. Chế Lan Viên với sự thông minh hiếm có, với những cảm nhận tinh tế của một nhà thơ tài năng, đã cho rằng, ông cũng như hàng triệu người dân Việt Nam khác đã bị chiếc BÁNH VẼ của cộng sản mê hoặc.Những năm cuối đời, ông đã viết bài thơ Bánh Vẽ nói về nỗi đau bị lường gạt, bị dụ dỗ và bị tha hóa. Vì bài thơ Bánh Vẽ này mà tuyệt phẩm Di Cảo của ông đã bị thu hồi và cấm.

BÁNH VẼ

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Ðêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc…
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm…

Một số hiểu lầm về Kinh Thánh

No photo description available.
Trần Bang

Một số hiểu lầm về Kinh Thánh

Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, ở ta quen gọi là “thuốc phiện của nhân dân”, chớ có dại mà đụng chạm tới – vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần và chớ nên đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới không ngừng xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.

Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.

Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên “Kinh Thánh” đem lại ấn tượng “thần thánh”, thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là “sách”; 2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là “trước tác” “bài viết”, “bản thảo” – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.

Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên “Thần thánh điển phạm” (Mẫu mực thiêng liêng) và “Thiên kinh địa nghĩa” (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, người Trung Quốc ghép hai chữ thứ hai lại thành “Thánh Kinh”, nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo.

Đây thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc nhưng không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.

Sơ lược nội dung Kinh Thánh

Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1.600 năm từ thế kỷ 12 trước CN cho tới thế kỷ 2 sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1.400 trang chữ khổ nhỏ.

Cựu Ước – Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5.000 năm trước, người Hebrew đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo Hóa, the Creator) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật.

Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); sách Lịch sử (12 cuốn); sách Tiên tri (16 cuốn); sách Văn thơ (6 cuốn). Cựu Ước rất ít màu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1.200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết thành văn. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Chứng cớ là thời gian 1947–1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết (Dead Sea, ở Israel) chứa hơn 900 “sách” có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.

Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki-tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: sách Phúc Âm (5 cuốn); sách giáo lý (21 cuốn); sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Các học giả cho rằng Tân Ước được viết xong vào khoảng năm 382 sau CN.

Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá … Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém …), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.

Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onanism – từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 “Sáng thế ký (Genesis)” “Giuđa và con dâu là Tama”.[1]

Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ “Kinh thánh” của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.

Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.

Tính chất quan trọng của Kinh Thánh

Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa học, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.

Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất – đây là tiêu chuẩn định lượng đánh giá một tác phẩm. Cho tới nay, Kinh Thánh đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1.800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng tỉ người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.

Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy, …vô số tác phẩm văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Karl Marx và Engels trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn … đều trích dẫn Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh …, tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa,… tất cả đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh.

Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội … đều nên đọc Kinh Thánh.

Kinh Thánh ở Việt Nam

Có lẽ vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki-tô giáo, tuyên truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa bình thường.

Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo; Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách “Kinh Thánh bằng hình” (phụ bản của báo “Công giáo và Dân tộc” in tại TP Hồ Chí Minh năm 1991, lượng in 25.000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước cũng không phát hành cuốn này.

Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1.400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ, khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.

Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ … của Kinh Thánh. Việc tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.

Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa-tâm linh.

(Tác giả-Nguyễn Hải Hoành là dịch giả và là nhà nghiên cứu tự do hiện sống tại Hà Nội , bài đăng trên NGHIENCUUQUOCTE.ORG )

Thế lực nào đánh sập chế độ cộng sản?

 
About this website

Thế lực nào đánh sập chế độ cộng sản?

Thanh Trúc-RFA
2020-01-01

Nhân sự trong đảng!

Mạng Infonet.vn trích dẫn nguyên văn lời ông Trần Quốc Vượng rằng “Kiên quyết sàng lọc, không để lọt vào cấp ủy khóa mới những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm”; bản thân hoặc vợ, chồng, con vi phạm.”

Đến ngày 30 tháng Mười Hai, bài viết tựa đề “ Ba Điều Sáng Tỏ Từ Bài Phát Biểu Của Ông Trần Quốc Vượng”  của tác giả Nguyễn Ngọc Chu được đưa lên trang baotiengdan.com, nêu bật 3 điều mà người viết cho rằng ông Trần Quốc Vượng đã xác định đúng. Thứ nhất là  “Cơ đồ xây dựng 75 năm có nguy cơ sụp đỗ”. Thứ hai, “ Không ai mang máy bay, đại bác đền để lật đổ ta, ta không làm tốt thì ta tự lật đổ ta, chẳng phải do kẻ thù đâu”.

Vẫn theo tác giả Nguyễn Ngọc Chu trên baotiengdan.com, ông Trần Quốc Vượng đang chỉ ra rằng thế lực thù địch phản động, thường bị Nhà Nước xử phạt theo Điều 117 Bộ Luật Hình Sự, chừng như không đến từ bên ngoài chính quyền mà ngay trong nội bộ, và chừng như trước giờ nhiều người trong chính quyền đã định nghĩa sai thế nào là ‘thù địch” là ‘phản động’.

Đây là ý kiến của một nhà phản biện trên một trang mạng độc lập, còn ý kiến của người dân, người quan sát thời cuộc, hoặc người hoạt động chính trị thì sao?

Một nhà quan sát và hoạt động chính trị từ Paris, ông Nguyễn Gia Kiểng, cho biết sau khi tham khảo bài nói chuyện của ông Trần Quốc Vượng hôm 25 tháng Mười Hai thì cảm nghĩ của ông là đang có sự khó khăn trong công tác chuẩn bị tư tưởng cũng như chọn lựa nhân sự trước thềm Đại Hội Đảng lần thứ 13 tới đây:

“Sau đại Hội Đảng 12 họ đã lấy quyết định nhất thể hóa, rập khuôn theo công thức tổ chức của Trung Quốc, là thống nhất Nhà Nước với Đảng, thâu gồm hai chức vụ tổng bí thư và chủ tịch nước trong Hiến Pháp đã được sửa đổi năm 2013, cho chủ tịch nước những quyền rất lớn, đặc biệt quyền đứng đầu quân đội. Họ đã tập trung quyền lực đó vào trong tay ông Nguyễn Phú Trọng. Nhưng ông Nguyễn Phú Trọng đột nhiên bị tai biến và chắc chắn không thể tiếp tục cầm quyền được nữa”.

“Cho nên vấn đề đặt ra là phải chọn người thay thế ông Nguyễn Phú Trọng, và người có nhiều khả năng mà ông Nguyễn Phú Trọng và thân cận của ông Trọng muốn đặt vào chức vị thế ông Nguyễn Phú Trọng không ai khác hơn là ông Trần Quốc Vượng. Cho nên ông Trần Quốc Vượng là người lo lắng vấn đề cơ cấu nhân sự cho Đại Hội Đảng 13”.

Vẫn theo lời ông Nguyễn Gia Kiểng, tổ chức gọi là bộ máy sàng lọc của đảng, trong đó kỷ luật là trên hết, đã loại trừ hầu  như gần hết những người có tư kiến, có nhân cách, chỉ để lại những con người mà khả năng lớn nhất là giữ im lặng trong suốt thời gian qua:

“Họ cũng không có những con người để mà giải quyết cùng một lúc nhiều vấn đề phúc tạp, cho nên ông Trần Quốc Vượng có lý, lần này đảng cộng sản sẽ rất lúng túng trong việc chuẩn bị Đại Hội 13, sẽ rất chia rẽ, sẽ có tranh cãi gay gắt bởi không có người thay thế ông Nguyễn Phú Trọng. Năm 2020 sẽ là một năm khó khăn, đòi hỏi một nhân sự lãnh đạo vừa có thiện chí vừa có tài ba mà điều đó thì đảng cộng sản không có. Cho nên đảng cộng sản lúng túng về nhân sự, lúng túng vì bị đe dọa, lúng túng vì chia  rẽ trong chọn lựa và quản lý”.

Đấu đá nội bộ!

Cô Nguyễn Hoàng Vi, thành viên của Mạng Lưới Blogger Việt Nam, bày tỏ:

“ Khi nghe ông Trần Quốc Vượng thì điều đầu tiên trong đầu tôi là một dấu hỏi. Nếu như trong thời điểm bình thường mà không phải là trước Đại Hội Đảng thì tôi cho rằng đó là những lời thật lòng của ông ấy. Nhưng mà trước Đại Hội Đảng mà ông phát biểu như vậy thì tôi nghĩ nó mang tính chất đấu đá, phe phái với nhau hơn là sự trung thực của ông”

“Ông Trần Quốc Vượng muốn dùng lá bài “chính ta lật đổ ta” có thể là đề thanh trừng nội bô, ghế này ghế nọ trong đảng với nhau. Tôi không chắc rằng sau này ông ấy có quay lại đỗ thừa cho dân, đỗ thừa cho thế lực thù địch thế này thế kia”

Dù muốn dù không, cô Nguyễn Hoàng Vi vẫn cho rằng lời nói của ông Trần Quốc Vượng có sức tác động nhất định đến tư duy phải thay đổi, phải cải thiện mà đảng cộng sản biết rõ nhưng không chịu thực hiện:

“ Gốc rễ của vấn đề, đúng như lời phát biểu của ông, sự sụp đổ, sự phát triển của đất nước và của đảng cộng sản nói chung không phải từ chính thế lực thù địch như Ban Tuyên Giáo của đảng cộng sản tuyên truyền bấy lâu nay. Người dân biết điều đó hơn ai hết và bây giờ ông Vượng chỉ muốn mượn cái điều mà ai cũng biết nhưng không dám nói để làm tăng uy tín của ông lên mà thôi”.

“ Gốc rễ của vấn đề, đúng như lời phát biểu của ông, sự sụp đổ, sự phát triển của đất nước và của đảng cộng sản nói chung không phải từ chính thế lực thù địch như Ban Tuyên Giáo của đảng cộng sản tuyên truyền bấy lâu nay. Người dân biết điều đó hơn ai hết và bây giờ ông Vượng chỉ muốn mượn cái điều mà ai cũng biết nhưng không dám nói để làm tăng uy tín của ông lên mà thôi”, Nguyễn Hoàng Vi

Đồng tình với ông Trần Quốc Vượng, rằng kẻ thù làm hại ta chính là ta chứ không ai khác, là ý kiến của phó  giáo sư tiến sĩ, chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm, cựu giám đốc Học Viện Hải Quân Nhân Dân Việt Nam:

Từ xa xưa chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói cán bộ phải thật sự vì nước, vì dân, vì đảng. Thế thì cán bộ chọn ra mà trước thì tốt sau đó biến chất thì trở lại là phản dân, phản nước. Câu nói “chọn cán bộ hết sức quan trọng” của vị lãnh đạo đó tôi hoàn toàn đồng ý, vì nếu chúng ta làm sai thì nó dẫn đến hậu quả hết sức nặng nề, đi đến chuyện dân mất tin. Trong quá trình xây dựng đất nước Việt Nam từ xưa đến nay, khi cán bộ làm cho dân mất tin rồi thì rõ ràng rất nguy hiểm cho việc duy trì quyền lực của Nhà Nước và quyền lực của nhân dân. Tôi thấy câu nói rất đúng thôi”.

“Kinh nghiệm và bài học đau đớn vừa qua ví dụ như vụ xét xử AVG, rồi gần đây vụ xử ông Nguyễn Trung Tín, nguyên phó chủ tịch thành phố Hồ Chí Minh, rồi một loạt các vụ xử khác nữa, là những bài học phải nói là thấm thía và đau đớn cho quá trình chọn cán bộ ở nước Việt Nam chúng tôi”.

Người dân giám sát!

Nhằm minh chứng cho câu nói “ Ta không làm tốt thì tự ta lật đổ ta” mà ông Trần Quốc Vượng tuyên bố mới rồi, chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm nhấn mạnh không chỉ cán bộ tốt là quan trọng mà  vai trò của nhân dân cũng quan trọng không kém: 

“Tới đây, Đại Hội Đảng thứ 13, có chọn cán bộ tất nhiên phải cán bộ tốt. Nhưng tôi cũng có đề nghị là chọn xong rồi, bố trí xong rồi, Đại Hội Đảng xong rồi phải tăng cường công tác kiểm tra giám sát quyền lực. Phải kiểm soát quyền lực khi cán bộ được đưa vào vị trí quyền lực rồi, và tôi nói cái giám sát quyền lực tốt nhất là nhân dân. Nhân dân là người giám sát quyền lực một cách chặt chẽ nhất và trung thực nhất”

Thường trực Ban Bí Thư Trần Quốc Vượng đã dám đưa ra tín hiệu quan trọng về nhân lực và nhân sự trong đảng cộng sản  những ngày tới đây,  nguyên Vụ truởng Vụ Nghiên cứu, Ban Dân Vận Trung ương, ông Nguyễn Khắc Mai, nhận định như vậy:

“ Trần Quốc Vượng đáng khen vì dám nói là nếu đảng cộng sản không thay đổi thì nguy cơ bị lật đổ là hiện thực. Ít ra Trần Quốc Vượng đã dám nói lên điều này”

“Chỉ coi trọng cái yếu tố cán bộ không thì không đủ. Bây giờ cho là họ có sàng lọc, chọn lựa tử tế đi nhưng mà đường lối vẫn như cũ, vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội và kinh tế nhà nước, vẫn là đảng độc quyền toàn trị cả đường lối phát triển đất nước, thể chế chính trị không phù  hợp, không dân chủ, không tam quyền phân lập thì tất cả những yếu tố ấy mới thật sự là nguyên nhân tổng hợp làm cho sụp đổ đảng cộng sản”, Ông Nguyễn Khắc Mai

Rõ là đảng cộng sản bắt đầu nhận thức ra vấn đề, ông Nguyễn Khắc Mai phân tích, đó là đội ngũ đảng viên cán bộ thiếu năng lực và thối nát. Có điều nhận thức này chừng như thiếu một yếu tố cần thiết là lấy dân làm gốc:

“Chỉ coi trọng cái yếu tố cán bộ không thì không đủ. Bây giờ cho là họ có sàng lọc, chọn lựa tử tế đi nhưng mà đường lối vẫn như cũ, vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội và kinh tế nhà nước, vẫn là đảng độc quyền toàn trị cả đường lối phát triển đất nước, thể chế chính trị không phù  hợp, không dân chủ, không tam quyền phân lập thì tất cả những yếu tố ấy mới thật sự là nguyên nhân tổng hợp làm cho sụp đổ đảng cộng sản”.

Tóm lại, theo nhà lý luận Nguyễn Khắc Mai, kẻ thù là ta, ta tự lật đổ ta,  là nhận thức quan trọng mà mỗi cán bộ đảng viên đang giữ trọng trách trong bộ máy Nhà Nước phải ghi tâm khắc cốt để không biến mình thành những con sâu đục khoét một chế độ đã quá nhiều tai tiếng:

“ Lời ông Trần Quốc Vượng có thể coi như một nhận thức mới, không còn đổ riệt cho “thế lực thù địch nữa”. Cái  nhân tố nội bộ làm cho chế độ này sụp đổ, làm cho đảng cộng sản này sụp đổ nằm ngay trong lòng của họ”.

RFA.ORG
Ông Trần Quốc Vượng, Thường Trực Ban Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam, hôm 25 tháng Mười Hai vừa qua tại Hội Nghị Toàn Quốc Tổng Kết Công Tác Tổ Chức Xây Dựng Đảng năm 2019, Triển Khai Nhiệm Vụ năm 2020, nhấn mạnh rằng “ Phải h…..

Tội ác của Tố Hữu đối với cái chết của nhà thơ Vũ Hoàng Chương

Image may contain: 1 person, closeup

Liên Trà is with Van Tuan Vo.

Fb:Ngọc Tuyên Đàm

Tội ác của Tố Hữu đối với cái chết của nhà thơ Vũ Hoàng Chương

Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 năm 1916 – 6 tháng 9 năm 1976) là một nhà thơ người Việt Nam, với văn phong được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông Phương. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.

Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, đỗ Tú tài năm 1937.

Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh – Na Sầm.

Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơ và kịch. Sau đó trở về Hà Nội lập “Ban kịch Hà Nội” cùng Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975. Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam, tiếp tục dạy học và sáng tác ở Sài Gòn.

Vũ hoàng Chương với Tố Hữu là bạn nhưng Vũ Hoàng Chương lớn hơn Tố Hữu vài tuổi. Năm 1946 Huy Cận ra bưng theo kháng chiến dùng thi tài của mình để phục vụ bác và đảng, được sủng ái nên đã leo lên đến chức Thứ trưởng bộ Văn hóa. Vũ Hoàng Chương không theo kháng chiến, sau hiệp định Genève năm 1954 di cư vào Saigon tiếp tục nghiệp thơ và sinh sống bằng nghề dạy học.

Năm 1976, Huy Cận được cộng sản cử vào Saigon cùng với một phái đoàn gồm có Tố Hữu, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Vũ Đình Liên, …, với mục đích thăm dò và chiêu dụ các văn nghệ sĩ miền Nam.

Phái đoàn được Thanh Nghị ký giả (một cộng sản nằm vùng) tiếp đón và tổ chức một đêm “họp mặt văn nghệ” với các nhân vật gạo cội miền Nam để cùng đánh giá văn hoá hai miền ngõ hầu thống nhất tư tưởng về một mối. Buổi họp này Vũ Hoàng Chương đã được mời và ông đã tham dự.

Đề tài được đưa ra là mấy câu thơ của Tố Hữu đã làm để khóc Stalin chết vào năm 1953. Hai câu thơ đã gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp với Tố Hữu:
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười”.

Hoài Thanh mời Vũ Hoàng Chương, một nhà thơ của Miền Nam góp ý. Vũ Hoàng Chương đã yêu cầu cử tọa thông cảm nếu có chỗ nào thất thố vì ông sợ rằng những gì ông muốn trình bày sẽ làm tổn thương cái “sáng giá” của đêm họp “văn nghệ đặc biệt” này. Sau đây là lời của Vũ Hoàng Chương:

“Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được “đóng khung” tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố Hữu đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên, đạt đến một mức độ điêu luyện cao… Nhưng thơ không phải chỉ có thế. Xuất thần khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật, dù đã có thi hứng phần nào, và nếu chỉ có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt; tức chưa phải là hay. Thơ hay cần phải khéo như thế vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép…

Tố Hữu đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ Việtnam, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ Việtnam yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca. Nhưng trước hết phải biết bà mẹ Việtnam có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài “Đời Đời Nhớ Ông”, Tố Hữu đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:
“Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin”

Chắc chắn là không có một bà mẹ Việtnam nào, kể cả Bà Tố Hữu, mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu sau ta đang mổ xẻ. Một tình tự không chân thực, dù đươc luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay, mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thợ thơ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi một tuyên truyền nào đó. Tố Hữu nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Nhưng bà mẹ Việtnam trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm”.

Lời phê bình của Vũ Hoàng Chương đã gây sôi nổi trong đám thính giả có mặt hôm đó. Muốn phản bác luận điệu của Vũ Hoàng Chương, có người đã yêu cầu Ông nói về thơ để hòng bắt bẻ này nọ, nhưng Ông vẫn ôn tồn phát biểu:

“Thơ vốn là mộng, là tưởng tượng, là tách rời thực tế, nhưng mộng trên những tình tự thực. Không chấp nhận loại thơ tình tự hoang. Có khoa học giả tưởng, không có thơ giả tưởng. Nói thơ là nói đến thế giới huyễn tưởng, huyễn tưởng trên sự thực để thăng hoa sự thực, chứ không bất chấp, không chối bỏ sự thực. Nhà thơ không được láo, nhà thơ phải thực nhưng thoát sáo sự thực thành mộng để đưa hồn tính người yêu thơ vươn lên sự thực muôn đời đạt đến chân lý cuộc sống. Thiên chức thi ca là ở chỗ đấy.

“Tôi xin nhắc, sự thực muôn đời là cơ sở duy nhất của thi ca. Vì có sự thực cho riêng một người, có sự thực cho riêng một thời, nhưng vẫn có sự thực cho muôn đời, sự thực bao quát không gian, thời gian, chân lý cuộc sống”.

Tố Hữu không ngờ bị Vũ Hoàng Chương chê bai là nịnh hót Stalin nên bực tức. Sau đêm đó, Vũ Hoàng Chương đã bị công an nửa đêm ngày 3/4/1976, tràn vào nhà bắt giam tại khám Chí Hoà nhốt chung với BS Phan Huy Quát (cựu Thủ Tướng VNCH).

Trong nhà tù bị hành hạ, ăn uống thiếu thốn, bệnh không có thuốc uống nên ông kiệt sức, cộng sản biết ông sắp chết nên thả về. Chỉ 5 ngày sau đó, ngày 6/9/1976 thì ông qua đời… Việt Nam đã mất đi một thi nhân tài hoa, bởi bàn tay sắt máu của Tố Hữu.

SỰ TÍCH CON HẾN

Liên Trà
SỰ TÍCH CON HẾN

Ngày xửa ngày xưa có vương quốc nọ nổi tiếng là nước có nền dân chủ gấp vạn lần các nước tây phương. Và cũng trong vương quốc đó, luật định cho phép toàn dân được tự do ngôn luận…

Thế rồi, trên tinh thần tự do ngôn luận đó, người ta đưa ra một bộ luật cấm ngôn luận phơi bày những điều xấu xa của bá quan văn võ. Song song với ngôn luận xấu xa thì họ cho ra một chỉ thị cấm ngôn luận tâng bốc, xu nịnh. Như vậy thì nói xấu cũng không được, nói tốt cũng không xong. Toàn dân hoang mang nín thở, im lặng.

Để phát huy tinh thần dân chủ, vương quốc đó cho phép toàn dân giám sát các hành vi của quân vương. Và kèm theo điều kiện giám sát này thì tất cả không được phép quay phim, ghi âm, chụp hình… các bề tôi của triều đình !
Có một thần dân thấy điều luật này cởi cổ điều luật kia, điều luật kia ỉa lên đầu điều luật nọ, nên rất lo sợ phạm huý thành ra cả đời cứ ngậm miệng mà vẫn không dám nói.

Khi chết xuống âm phủ, qủy sứ dẫn hắn đến trước điện Diêm Vương để lấy lời khai. Nhưng, Diêm Vương hỏi gì nó cũng không chịu mở miệng. Ngạc nhiên, Diêm Vương cho qủy sứ lên trần điều tra, và khi biết được sự tình, Diêm Vương thở dài phán:

Ta cho ngươi biến thành loài Hến! Tội nghiệp, suốt đời ngươi bạc nhược sợ chết mà không dám mở miệng. Nay ta cho phép ngươi mở miệng, và chỉ được mở miệng khi đã chết, nghe chưa?

Do đó, loài Hến cho đến nay khi chết mới được mở miệng. Là thế!
Ngô Trường An

Image may contain: food