Sự khác nhau… là do con người

Image may contain: sky, outdoor and nature
Image may contain: sky, mountain, nature and outdoor

Chau Nguyen Thi

Sa mạc ở Israel và các nước Jordan, Ai Cập… là giống nhau ở chỗ là toàn cát, khoan hàng trăm mét vẫn không có giọt nước nào. Thổ nhưỡng khí hậu giống nhau, chỉ có con người là khác.

Trên sa mạc này, người Do Thái đã trồng chà là (tiếng Anh là DATE) và thu được tiền rất nhiều từ xuất khẩu loại quả này đi khắp thế giới trong khi người Ai Cập vẫn tập trung trồng dọc theo con sông Nile (sông Nin) và vài ốc đảo có sẵn nước. Cùng điều kiện lịch sử địa lý, nhưng thu nhập của Israel đã đạt mức 40,000 đô la Mỹ/người/năm so với 2,500 đô la Mỹ/người/năm của người láng giềng Ai Cập. Nghèo là do đầu óc dở quá dở, không chịu tính toán làm ăn, không chịu đi xa học hỏi, không chịu hành động gì. Với người có đầu óc, tiền không phải là mục tiêu của làm việc. Mục tiêu là có thành tựu lớn để lại cho đời. Ai ai cũng tâm niệm vậy nên có tiền là đầu tư, nhỏ đầu tư nhỏ, lớn đầu tư lớn, sản xuất làm ăn và làm ăn. Ở Israel, người ta chỉ mua đất để sản xuất, không có đầu cơ chờ tăng giá. Còn ở thì chỉ 1 diện tích rất nhỏ, gọi là nhà ở, không lãng phí tài nguyên vì tham, vì tiền.

Một chuyên gia nông nghiệp Israel đã từng sang Phan Rang, Ninh Thuận và thốt lên, khí hậu và đất đai ở đây sao tốt vậy mà các bạn không trồng gì? Tôi vẫn thấy vài bụi cây trên đất chứ bên tôi là chẳng có cây nào mọc tự nhiên nổi. Đất các bạn cứ khoan 100-200 mét có nước, cách vài chục km có con sông hay hồ thuỷ điện thì đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt, đảm bảo mọi sa mạc sẽ nở hoa. Ông nói nếu tỉnh này chủ động sang Israel tiếp thị đầu tư, mời Israel quy hoạch và làm tất cả thành khu nông nghiệp công nghệ cao Israel ở Ninh Thuận, đảm bảo tỉnh này sẽ số 1 Việt Nam về thu nhập. Chỉ xuất cho Trung, Hàn, Nhật….những trái cây nhiệt đới mà 3 nước kia không trồng được, thì chúng ta thật sự không đủ nhân công làm, thậm chí phải nhập công nhân nông nghiệp từ Campuchia, Indonesia, Băng La Đét….Cứ có nắng thì sẽ làm nông nghiệp tốt. Các nước ôn đới họ thèm nắng kinh khủng mà không có….

UBND tỉnh Ninh Thuận, Quảng Trị,…nên chủ động liên hệ Đại Sứ Quán Israel tại VN để hẹn đi xúc tiến đầu tư, nhờ họ làm 1 tiểu Israel tại Việt Nam vì khí hậu tương đồng. Còn không thì mỗi cá nhân tự đầu tư cũng được. Còn trẻ thì đi Israel nghiên cứu học tập để về làm.

Đi du học là nghiên cứu học tập nước ngoài để bắt chước về làm, không phải vì mấy đồng lương của đầu óc nhỏ. Đầu óc nhỏ thì sẽ nghèo vĩnh viễn….

Không biết làm thế nào để giới trẻ VN có được đầu óc lớn nữa. Cha mẹ thầy cô xã hội nhồi nhét toàn chắc ăn, an toàn, ổn định, nghĩ nhỏ, nghĩ ngắn…từ bé, nhiều bạn không thoát ra được. Không chịu làm, cái gì cũng sợ, rồi ngửa tay xin việc hoặc xin tiền mẹ cha. Có tiền thì cũng chỉ biết chi tiêu, mua đất mua nhà mua xe chứ không đầu tư làm ăn gì ở quê hương. Ngán ngẩm với những mái đầu chim sẻ lúc nhúc trên phố.

“Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con
Hạnh phúc đựng chỉ trong 1 tà áo đẹp
Một mái nhà yên, rủ bóng xuống tâm hồn….”

Nguồn Ăn Trưa Cùng Tony

Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nhìn thấu mà chính là trải nghiệm

Ý nghĩa của cuộc sống không phải ở chỗ nhìn thấu mà chính là trải nghiệm.

Cuộc sống có ngọt bùi, có đắng cay. Ngọt bùi có cảm giác của ngọt bùi, đắng cay có dư vị của đắng cay. Sẵn sàng cho đi, phúc báo càng nhiều, lòng đầy cảm ân, đường càng thuận lợi, vui thích giúp đỡ, quý nhân càng gần…

Cuộc sống có ngọt bùi, có đắng cay

Ngọt bùi có cảm giác của ngọt bùi, đắng cay có dư vị của đắng cay. Trải nghiệm cuộc sống khiến bạn vừa có thể thản nhiên đối mặt với khổ nạn, vừa có thể bình thản hưởng thụ những niềm vui.

Học cách trải nghiệm mới có thể chân thành đối diện với thế giới bằng tâm thái bình hoà. Hãy cứ trải nghiệm sự giàu có và nghèo khó, mỹ lệ và xấu xí, khổ đau và hạnh phúc trong cuộc đời.

Khi đối diện với cuộc sống, bạn thích điều gì, không thích điều gì, đặc biệt là bạn có để tâm tới những mối quan hệ nhân quả xuyên suốt bên trong nó hay không sẽ quyết định bạn có hạnh phúc hay không.

Sẵn sàng cho đi, phúc báo càng nhiều, lòng đầy cảm ân, đường càng thuận lợi, vui thích giúp đỡ, quý nhân càng gần.

Người thích báo oán, trong tâm phiền não. Người thích biết đủ, hạnh phúc đong đầy. Người thích trốn tránh, thất bại ê chề. Người thích chia sẻ, bạn bè sum họp. Người hay nổi giận, bệnh tật giày vò.

Người thích tranh đoạt, càng thêm nghèo túng. Người thích bố thí, phú quý đợi chờ. Người thích hưởng phúc, thống khổ càng nhiều. Người ham học hỏi, trí huệ minh tường.

Sự sống và cái chết cách nhau bao xa? Chỉ cách nhau một hơi thở mà thôi

Từ mê đến ngộ là bao xa? Là khoảng cách trong một ý niệm.

Từ yêu đến hận là bao xa? Là khoảng cách trong sự vô thường.

Từ cổ chí kim là bao xa? Là khoảng cách khi nói nói cười cười.

Từ bạn đến tôi là bao xa? Là khoảng cách của sự thiện giải.

Từ tâm đến tâm là bao xa? Là khoảng cách giữa trời và đất.

Từ người đến Thần là bao xa? Là khoảng cách của sự giác ngộ.

Mơ, thì đừng mơ sâu quá, mơ quá sâu khó có thể tỉnh giấc

Lời: Đừng nói hưng phấn quá, hưng phấn quá khó được viên mãn.

Giọng: Đừng nên cất cao quá, cao quá khó có thể hoà thanh.

Việc: Đừng có tuyệt tình quá, tuyệt tình quá khó có đường thoái lui.

Tình: Đừng có mê đắm quá, mê đắm quá khó có thể vượt qua.

Lợi: Đừng nên xem trọng quá, xem trọng quá khó giữ được sáng suốt.

Người: Đừng nên giả dối quá, giả dối quá khó có thể quay đầu.

Hãy luôn nhắc nhở bản thân từng thời từng khắc rằng, nhân duyên là sự tiếp nối, nhân quả báo ứng là lẽ công bình trong cõi thế gian.

Hãy nhắc nhở bản thân từng phút từng giây rằng, đừng làm những chuyện mà cái được chẳng thể bù cho cái mất.

Cuộc sống luôn trao lên thân bạn một chiếc cân tiểu ly, trên đó có thể đo lường thiện ác.

Cuộc sống chính là để hiểu được giá trị của bản thân, làm những gì mình có thể và những gì mình cần phải làm…

From: TU-PHUNG

Nhìn lại lịch sử đốt sách trên thế giới

“Chỉ có một lý do cấm sách, đó là cho rằng cuốn sách đó truyền tải ‘tư tưởng nguy hiểm’. Nhưng lịch sử đã nhiều lần chứng minh, hôm nay có thể xem là tư tưởng nguy hiểm, ngày mai lại trở thành bình thường…”

Nhìn lại lịch sử đốt sách trên thế giới

  • Hiểu Huy
  • Chủ Nhật, 02/04/2017 25.4k Lượt Xem   
  • Trong lịch sử loài người đã từng nhiều lần xảy ra thảm họa đốt sách. Với Trung Quốc, chuyện này khiến người ta liên tưởng ngay đến “đốt sách chôn Nho” của Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, phá hoại lịch sử và văn hóa một cách bạo ngược. Nhưng trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đến thế kỷ 20 thì thảm kịch đốt sách lại tái diễn ở Đức, Liên Xô và Trung Quốc với mức độ trầm trọng hơn.

Hồng Vệ binh Trung Quốc đốt sách trong thời Cách mạng Văn hóa. (Ảnh: internet)

Gần đây giới nghiên cứu đã chỉ ra, sách bị Tần Thủy Hoàng tiêu hủy chỉ là sử ký các triều đại trước nhà Tần và loại «Thi», «Thư» cùng tác phẩm của bách gia chư tử (những học giả trước nhà Tần) được dân chúng cất giữ riêng. Còn sách sử nhà Tần, các loại sách được các quan Tiến sĩ cất giữ và sách y dược, bốc phệ, trồng trọt được dân chúng cất giữ thì không bị tiêu hủy, Tần Thủy Hoàng chỉ ra lệnh đốt sách trong dân chúng, còn sách trong triều đình vẫn được giữ lại nguyên vẹn, vì thế mà nhà Hán không cảm thấy sách vở bị thiếu mất. Còn “chôn Nho”, trên thực tế không phải nhà Nho mà là giới phương sĩ (người cầu tiên học đạo), họ không chỉ đi lừa mị thiên hạ bằng phương thuật mà còn chửi rủa chính quyền mới khiến Tần Thủy Hoàng tức giận.

Vì thế, nếu so sánh thảm kịch đốt sách của Tần Thủy Hoàng với các thảm kịch đốt sách quy mô lớn sau này, tội của Tần Thủy Hoàng có lẽ cũng không sánh kịp.

Phát xít Đức làm sạch “tà thuyết dị đoan”

Tháng 4/1933 Đức quốc xã lên nắm quyền, để “thống nhất tư tưởng” gìn giữ “tính thuần khiết của tinh thần Đức”, Hitler đã quyết định thực hiện chế độ chuyên chế văn hóa khắc nghiệt, quyết định “làm sạch” tất cả “tà thuyết dị đoan”.

Buổi tối ngày 10/5, dưới hiệu lệnh của Bộ trưởng Tuyên truyền phát xít Joseph Goebbels, nhiều sinh viên Đức đã cầm đuốc và hát vang bài “Ý chí Đức cao hơn tất cả” tiến về quảng trường nhà hát trung tâm Berlin.

Tại quảng trường, sách tiêu hủy đã được chất thành từng đống cao như núi. Theo hiệu lệnh của đội viên xung kích Đức Quốc xã, các sinh viên và học sinh hăng máu cầm đuốc ném vào những đống sách, lửa bùng cháy dữ dội tiêu hủy hàng chục ngàn cuốn sách, trong đó có những kiệt tác của Heine, Freud, Zweig…

Ngoài Berlin, hoạt động đốt sách cũng được triển khai tại một số thành phố và trường đại học. Một số học giả, nhà văn, nhà thơ cũng tham dự các hoạt động đốt sách, trong đó có cả các nhà triết học nổi tiếng ủng hộ Phát xít là Martin Heidegger. Theo tuyên truyền của Đức Quốc xã, đốt sách là theo “ý dân”, phạm vi và quy mô cũng theo đó phát triển ngày càng rộng. Nhiều nhà văn Do Thái và nhà khoa học không cam chịu đã bỏ chạy ra nước ngoài.

Dưới tuyên truyền của Đức Quốc xã, hoạt động đốt sách ngày càng được hưởng ứng, từ đó Đức Quốc xã ngày càng tàn bạo: Quẳng người Do Thái vào lò thiêu. Từ đốt sách đến đốt người tưởng đâu rất xa vời, nhưng thực tế lại rất gần: cùng việc nhiều người hưởng ứng đốt sách là hưởng ứng bức hại người Do Thái; khi hưởng ứng bức hại người Do Thái thì hưởng ứng đốt sách không còn gì khó khăn.

Liên Xô loại bỏ “kẻ thù của nhân dân”

Theo «Lịch sử đốt sách trên thế giới» của tác giả Lý Bác Trùng (Li Baichong), sau khi đảng Cộng sản Liên Xô thành lập năm 1917, để bảo vệ cái gọi là “tính thuần khiết của chủ nghĩa xã hội”, họ đã tiêu hủy “sách độc hại về chính trị”, “kẻ thù nhân dân”.

Ngày 6/6/1922, Liên Xô chính thức thành lập Tổng cục Quản lý văn học và xuất bản quốc gia và liệt kê bản danh sách sách cấm, những sách bị liệt vào sách cấm, dù là tác phẩm trong nước hay nước ngoài, đều bị tịch thu. Nếu sách cấm được in với số lượng quá nhiều thì sẽ bị tiêu hủy hàng loạt. Vì thế, một số lượng khổng lồ sách đã bị tiêu hủy trong phong trào “đốt sách” này.

Vào năm 1938, số sách bị cho là sách chính trị phản động là 10.375.706 quyển, 223.751 bức tranh tuyên truyền, 55.514 báo chí nước ngoài đã bị đưa đi tiêu hủy. Trong thời gian 1938 – 1939 có hơn 24 triệu “sách độc hại” bị tiêu hủy.

Đi cùng phong trào đốt sách, đảng Cộng sản Liên Xô còn tổ chức khủng bố giới trí thức: Nhiều giáo sư, bác sĩ, nhà nông học bị điều đi đến các tỉnh phía bắc, một số khác thì bị trục xuất ra nước ngoài và bắt ký kết không được trở về nước, nếu không sẽ bị tử hình.

Lịch sử đốt sách của đảng Cộng sản Trung Quốc

Sau khi đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) xây dựng chính quyền, việc quan trọng trước tiên là cải tạo tư tưởng của trí thức, loại bỏ quan điểm sùng bái dân chủ Tây phương, quan trọng hơn nữa là tiêu hủy những giá trị tinh túy thừa kế từ văn hóa truyền thống Trung Quốc. So với Cách mạng Văn hóa sau này thì giai đoạn đầu chủ yếu áp dụng cách “giáo dục thuyết phục”.

Lúc này ĐCSTQ còn chưa tiêu hủy rầm rộ sách vở, chủ yếu chỉ nhẹ nhàng thu gom lại hoặc cấm xuất bản, phát hành, ví dụ như sách Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Giáo trình khoa học và kỹ thuật cho sinh viên bị thay đổi từ phiên bản Anh-Mỹ sang phiên bản của Liên Xô. Do không có tự do truyền thông nên mọi người chỉ biết tin theo tuyên truyền của giới cầm quyền. Còn tác phẩm văn chương thì giương ngọn cờ phục vụ giai cấp vô sản, vì thế mà từ đó Trung Quốc khó xuất hiện nhà văn và tác phẩm kiệt xuất.

Sau khi cuộc nổi dậy vũ trang ở Hungary năm 1956 bị quân Liên Xô đàn áp, ông Mao Trạch Đông và ĐCSTQ càng thêm lo ngại, vì trong cuộc nổi dậy tại Hungary có vai trò quan trọng của giới trí thức. Từ bài học kinh nghiệm này, năm 1957 chính quyền đảng Cộng sản Trung Quốc hiệu triệu xin ý kiến của giới trí thức. Nhiều trí thức bản tính chân thật nên đã thành thật đề xuất ý kiến với Mao và chính quyền, hệ quả sau đó là toàn bộ vài chục ngàn trí thức bị quy kết “phái hữu”.

Nhưng tội ác đốt sách trên quy mô lớn lần đầu tiên của ĐCSTQ là sau khi nổ ra Cách mạng Văn hóa. Ngày 22/8/1966, Đài Phát thanh Trung ương Trung Quốc phát thông tin “phá tứ cựu” trong giờ vàng. Nhật báo Nhân dân đăng bài xã luận với nội dung “Hoan hô tinh thần cách mạng giai cấp vô sản tạo phản của các tiểu tướng Hồng Vệ binh Bắc Kinh chúng ta!… Các tiểu tướng Hồng Vệ binh dùng tư tưởng Mao Trạch Đông làm vũ khí, đang quét sạch tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, thói quen cũ của giai cấp bóc lột.”

Dưới khẩu hiệu “phá tứ cựu”, Hồng Vệ binh không chỉ trắng trợn đi cướp bóc vàng bạc châu báu mà còn phá hủy thư tịch được cho là di sản của phong kiến, tư bản. Trong sách «Lịch sử đốt sách trên thế giới» ghi lại, ngoài những loại sách kể trên, đa số sách được xuất bản trong 17 năm từ 1949 – 1966 đã không thể thoát khỏi kiếp nạn bị thiêu hủy. Ngoài một số ít sách về chủ nghĩa Mác-Lênin, của Mao, và tác phẩm của Lỗ Tấn, hàng loạt sách phổ biến khoa học do giới trí thức khoa học làm và thể loại văn chương bị xem là “độc hại” đều không thể tránh khỏi kiếp nạn.

Tháng 8 – 9/1966 là thời điểm cao trào đốt sách. Hồng Vệ binh Bắc Kinh tổ chức hoạt động đốt sách quy mô lớn tại sân thể thao Đông Đơn, hàng “núi sách” to nhỏ đã được mang về chất đống để tiêu hủy.

Ngày 23/8/1966, hơn 200 Hồng Vệ binh của Trường Trung cấp nữ số 8 Bắc Kinh và Trường in Bắc Kinh đến trước miếu Khổng Tử tại Quốc tử giám và tiêu hủy trang phục biểu diễn của các đoàn kịch thuộc Sở Văn hóa Bắc Kinh, trong đó có cả sách. Ngày 24/8/1966, nhà của giáo sư Đại học Bắc Kinh Lương Thấu Minh (Liang Shuming, 1893 – 1988) bị tịch thu, theo đó nhiều sách quý, tranh chữ và vật dụng cổ của ông bị mang ra ngoài sân tiêu hủy. Ngày 25/8/1966, Hồng Vệ binh lại tiếp tục đến nhà sử gia Cố Hiệt Cương (1893- 1980) tiêu hủy hàng ngàn tranh ảnh và thư từ.

Nhà văn Thẩm Tòng Văn (1902 – 1988) khi đó làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Trung Quốc. Khi chỉ huy ban cưỡng chế quân sự chỉ vào kho sách trong nhà ông hỏi: “Tôi giúp ông tiêu hủy thứ độc hại, ông có phục không?” Thẩm Tòng Văn hốt hoảng trả lời: “Không có gì không phục”. Thế là vô số sách quý của ông bị ném ra ngoài sân đốt thành tro bụi.

Chuyên gia làm khung tranh chữ Hồng Thu Thanh được xem là “thần tài” tranh chữ cổ, đã trang hoàng vô số tác phẩm tuyệt kỹ, toàn bộ số tranh chữ mà ông khổ công sưu tầm lưu giữ trong hàng chục năm làm nghề đã bị tiêu hủy hết.

Tình trạng như vậy không chỉ xảy ra ở Bắc Kinh mà diễn ra trên toàn quốc.

Tại phủ Khổng Tử ở Khúc Phụ, từ ngày 9/11 – 7/12/1966, hơn 6000 loại văn vật bị phá hủy, hơn 2700 sách cổ bị đốt, số tranh chữ là hơn 900 bản, hơn 1000 bia đá cùng nhiều bảo vật quốc gia xếp vào loại cần bảo tồn cấp 1 đã bị phá hủy.

Chị Kiều Hải Yến (Qiao haiyan), một trong số sinh viên từng tham gia phong trào “đốt sách” đã kể lại: Khi vào thư viện, các sinh viên thấy vô số “sản phẩm độc hại”, mọi người đua nhau ném ra ngoài sân chất thành đống để tiêu hủy. Thầy quản lý thư viện trông tình cảnh mà sắc mặt vàng như nghệ, đứng ngây người sững sờ…

Nghe nói, ngoài tác phẩm của Mao Trạch Đông và Mác – Lê-nin, tất cả sách văn học nghệ thuật, khoa học xã hội, đều bị xem là sản phẩm của phong kiến phải tiêu hủy. Hệ quả là trên toàn quốc dường như chỉ còn lại tác phẩm của Mao Trạch Đông, trong tay người nào cũng có một cuốn của Mao, không cần phải đi nhà sách mua, những nhân viên làm việc tại các nhà sách khi đó được cho là nhàn nhã nhất.

Cùng với phong trào đốt sách là hoạt động khủng bố giới trí thức, nhiều người tài bị bắt giam, tra tấn, độ tàn bạo của ĐCSTQ thậm chí vượt ra cả Đức Quốc xã và Liên Xô.

Sau khi Cách mạng Văn hóa kết thúc, đến thập niên 80 của thế kỷ trước, nhờ chính sách mở mang của ông Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương mà Trung Quốc có được một giai đoạn khá tự do trong hoạt động xuất bản, nhiều sách phương Tây trước đây bị cho là sách cấm đã được xuất bản, nhiều sách khí công được bày bán trong các nhà sách. Đến thập niên 90 có sách «Pháp Luân Công Trung Quốc» bán khá chạy, vào năm 1996 được Báo Thanh niên Trung Quốc bình chọn nằm trong 10 cuốn sách bán chạy nhất toàn quốc.

Nhưng đến tháng 7/1999, cựu Tổng Bí thư ĐCSTQ Giang Trạch Dân đã ra chính sách nghiêm cấm đối với Pháp Luân Công, theo đó vô số sách báo liên quan đến Pháp Luân Công bị tiêu hủy, những người theo Pháp Luân Công bị đàn áp, bắt bớ, tịch thu gia sản, tội ác khủng bố đối với Pháp Luân Công của ĐCSTQ không thua gì thời Cách mạng Văn hóa. Đây cũng có thể xem là tội ác đốt sách quy mô lớn lần thứ hai của ĐCSTQ.

Kết luận

Trong tác phẩm Best seller «Vừa đi đường vừa đọc sách» (Nhất lộ tẩu lai nhất lộ đậu), nhà văn Lâm Đạt (Lin Da) viết:

“Chỉ có một lý do cấm sách, đó là cho rằng cuốn sách đó truyền tải ‘tư tưởng nguy hiểm’… Nhưng lịch sử đã nhiều lần chứng minh, hôm nay có thể xem là tư tưởng nguy hiểm, ngày mai lại trở thành bình thường. Sách nguy hiểm do một số nhân vật có quyền lực phán định nhưng lại có thể là sách được đông đảo công chúng đón nhận…”

Quả thật, những hành vi triệt hạ sản phẩm sáng tạo của nhân loại kiểu khủng bố sẽ bị lịch sử phán xét: Sau khi Đức Quốc xã sụp đổ, người ta đã cho xây dựng “đài kỷ niệm bảo tàng không có sách” tại quảng trường Bebelplatz Berlin; ngày nay Liên Xô cũng đã bị giải thể; phong trào đốt sách của ĐCSTQ cũng đã được lịch sử ghi lại như những thất bại của tội ác.

Hiểu Huy

M.TRITHUCVN.NET

Trong lịch sử loài người đã từng nhiều lần xảy ra thảm họa đốt sách. Với Trung Quốc, chuyện này khiến người ta liên tưởng ngay đến “đốt sách chôn Nho” của Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, phá hoại lịch sử và văn hóa một cách bạo…

TẠI SAO LÚC NÀO CŨNG LẢM NHẢM “THẾ LỰC THÙ ĐỊCH”?

Bang Uong and Nhung Pham shared a post.
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, smiling, suit
Phạm Văn Lý

TẠI SAO LÚC NÀO CŨNG LẢM NHẢM “THẾ LỰC THÙ ĐỊCH”?

Cựu Tổng thống Israel nói 1 câu khiến tổng thống Putin lặng người
Nội dung cuộc nói chuyện tại buổi gặp mặt cuối cùng giữa cựu Tổng thống Israel Shimon Peres và Vladimir Putin gần đây đã được công bố. Ông Peres đã chân thành giải thích cho Putin, rằng tất cả sẽ mất hết và không còn gì có thể cứu vãn được, vì tất cả các nỗ lực hiện nay của ông Putin đang trở nên vô ích vì sẽ không thể đạt được bất cứ điều gì.
Ông Peres nói với ông Putin: “Anh đang ở độ tuổi 63, còn tôi đã 93 rồi, thế anh muốn đạt được điều gì trong 30 năm tới? Anh đang đấu tranh vì điều gì? Vì dân tộc anh hay vì muốn là kẻ thù của người Mỹ chăng?”
Ông Putin nói: “Không phải”.
Ông Peres nói tiếp: “Nước Mỹ muốn chiếm một phần nước Nga chăng? Không, giữa anh và Obama có những vấn đề không hiểu nhau chăng?”
Ông Putin hỏi lại: “Tại sao ông lại nói vậy?”
Ông Peres trả lời: “Hãy nghe tôi đi, tôi không phải là gián điệp, anh có thể tâm sự với tôi về tất cả”.
Ông Putin hỏi tiếp: “Thế ông nghĩ sao?”
Và ông Peres liền trả lời: “Hoàn toàn không phụ thuộc vào những gì anh gây ra, nước Mỹ sẽ vẫn chiến thắng”.
Ông Putin hỏi: “Tại sao?”
Ông Peres trả lời: “Vì họ là những người hạnh phúc, còn anh thì không”.
Ông Putin cười … Và ông Peres nói tiếp: “Khi một người Mỹ tỉnh dậy vào buổi sáng, anh ta nhìn thấy gì? Đất nước Mexico ở miền Nam, và họ đón nhận những người Mexico ở đất nước mình. Nước Canada ở miền Bắc, người Canada chẳng phải là những người bạn tốt nhất trong thế giới này” … “Vậy thì Obama còn phải lo lắng gì nữa?”
“Còn anh, khi anh thức dậy vào buổi sáng, anh có biết rằng ai là hàng xóm của anh không?”
“Trung quốc, Afganistan, Nhật Bản? Lạy Chúa! Họ biết rõ rằng anh có rất nhiều đất đai, và anh không chia cho họ một tấc nào. Anh sở hữu tới 20% nước ngọt, nhưng lại không cho ai một giọt nào. Bởi vậy, khi tuyết tan ở vùng Siberia, điều đầu tiên mà anh sẽ nhìn thấy đó là những người Trung Quốc. Bởi vì hiện ở Viễn đông họ có mặt rất nhiều nhưng lại có rất ít người Nga”.
Ông Peres cũng đề cập vấn đề thứ hai với ông Putin:
“Nước Mỹ là đất nước có sự phân bổ hợp lý nhất giữa diện tích đất đai và dân số. Ở nước Nga sự phân bổ đó là tồi nhất. Hai mươi triệu cây số vuông. Ôi, lạy Chúa!”
“Nhưng đất nước của anh không có đủ ngần ấy người. Người Nga sẽ chết dần. Đừng ảo tưởng trước những điều nịnh nọt và tán dương. Không ai không tha thứ cho anh đâu. Tại sao người Nga chỉ sống có 62 năm, trong khi người Mỹ thọ đến 82 tuổi?”
Ông Peres lạnh lùng nói tiếp: “Anh hành xử như một vị Sa Hoàng”.
“Các vị Sa Hoàng đã làm gì? Họ đã xây dựng hai thành phố, St. Petersburg và Moscow, như một cái tủ kính trưng bày. Dù anh muốn hay không, anh sẽ thấy điều đó. Những phần còn lại của Nga chẳng khác nào đất nước Nigeria, nhưng phủ đầy tuyết. Những người dân đang hấp hối. Anh không cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn. Anh có nghĩ rằng họ liệu sẽ tha thứ chăng?”
Ông Peres ngưng lại rồi hỏi: “Tại sao nước Mỹ tươi đẹp?”
Ông Putin trả lời: “Bởi vì họ là những người hay viện trợ”.
Ông Peres lại hỏi tiếp: “Tại sao Châu Âu có nhiều vấn đề?”
Ông Putin trả lời: “Bởi vì họ thủ cựu”
Ông Peres tiếp tục giải thích: Nước Mỹ hay đem cho, mọi người nghĩ rằng đó là vì họ hào phóng. Tôi nghĩ rằng đó là bởi vì họ là những người khôn ngoan.
Nếu anh hay đem cho, anh tạo ra bạn bè. Việc đầu tư hữu ích nhất đó là gây dựng nhiều bạn bè.
Người Mỹ có can đảm chấp nhận kế hoạch Marshall, đem một lượng lớn GDP của họ để cho một Châu Âu đang hấp hối. Và như vậy, họ đã chỉ ra rằng đó là sự đầu tư tốt nhất trên thế giới.
Không có một quốc gia Châu Âu nào mà không trải qua thời kỳ đế chế, Sa Hoàng. Người Pháp và người Anh, người Bồ Đào Nha… và tất cả. Và điều gì đã xảy ra? Họ đã bị ném ra ngoài và không còn gì.
Nước Anh, một đế quốc lớn nhất, nơi mà mặt trời từng chưa bao giờ lặn, có tất cả các đại dương, và rồi người thổ dân da đỏ tốt bụng đã đuổi họ đi và không để lại gì cho họ, ngoài ba hòn đảo nhỏ, để rồi người Anh không biết phải làm gì.
Cuối cùng ông Peres chốt hạ một câu khiến ông Putin lặng người: “Tin tôi đi, kẻ thù và hận thù là tổn thất lớn nhất trong cuộc đời. Anh đang đầu tư vào sự ngu ngốc”.

*. Câu chuyện của hai Chính trị gia. Và hình như đó là người cha nói với con; một sự so sánh; một cái nhìn sắc bén nhưng rất giản dị của cựu TT Itsrael ! Bài học cho các Chính trị gia. Chúng ta hãy nhìn Thụy sĩ; Thụ Điển; Hungarian … chả mấy khi báo chí nói về họ; song đất nước họ yên bình; dân họ tự do hạnh phúc. Chúng ta chỉ cần vậy thôi. Bài này chắc dịch giả Thái Bá Tân dịch mới có được. Cảm ơn Dịch giả!

THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO

THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO

Chiều hôm qua, lúc 18h thứ Sáu, 27.03.2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cử hành nghi thức ban phép lành Urbi et Orbi cho toàn thế giới trong cơn mưa chiều buồn bã của thành Rôma.

Tuy nhiên, chính trong khung cảnh có vẻ lạnh lẽo ấy, một “hình ảnh sống động” được trang Vaticannews ngay sau đó đưa bản tin với tiêu đề: “Il Crocifisso bagnato dalle lacrime del Cielo” – tạm dịch: THẬP GIÁ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO.

Phải chăng, Trời cao đã khóc?

Vâng, có lẽ thế!

–   Trời cao đã khóc vì một thế giới đang khổ đau đối mặt với tai ương, dịch bệnh.

–   Trời cao đã khóc cho một nhân loại đang oằn mình chiến đấu với hậu quả từ lỗi lầm của một ai đó, hay từ những bất toàn của thế gian này.

–   Trời cao đã khóc như một lời đáp trả của Cha Nhân Từ với lời van xin thống thiết của người đứng đầu Dân Ngài là Đức Thánh Cha Phanxicô, và của hàng triệu tín hữu gần xa tham dự trực tuyến: “LẠY CHÚA, XIN HÃY THỨC DẬY.”

–   Trời cao đã khóc như một lời nhắn nhủ của Đức Kitô với mọi người và từng người rằng: “CỨ YÊN TÂM, CÓ THẦY ĐÂY, ĐỪNG SỢ” (x. Ga 6,20).

Vâng, Trời cao đã khóc!

–   Nước mắt Trời cao hòa lẫn với nước mắt của những bệnh nhân vẫn đang gồng mình chống chọi tìm sự sống trong cô đơn, hay trong những khoảnh khắc hấp hối cuối đời, mà không có một cái nắm tay an ủi của người thân kề cạnh.

–   Nước mắt Trời cao tuôn chảy cùng biết bao con người sắp mất đi người thân yêu, mà thậm chí không thể gặp gỡ lần cuối để nói một lời từ biệt.

–   Nước mắt Trời cao chan hòa trên bờ mi đẫm lệ của những người còn ở lại, bất lực nhìn những chiếc xe quân đội chở quan tài người thân của mình đi chôn cất qua ống kính truyền hình, mà không thể chạm vào, tiễn đưa, đồng hành, đặt một nhành hoa hay thắp một ngọn nến từ biệt.

–   Nước mắt Trời cao vẫn luôn chực tràn trên đôi mắt của những người không biết người thân mình giờ đang ở đâu, hay trong tình trạng thế nào, chỉ thấy được qua vài hình ảnh lượm lặt, hay trong một video clip nào đó trôi nổi trên mạng; bởi có một người con sống tại Bergamo – Italia, khi thấy đoàn xe tang đi qua nhà mình, cô ấy đã thốt lên rằng: “Có lẽ, Bố tôi giờ đang nằm trong những chiếc xe tải đó.  Cả một đời ông ấy đã sống cho tôi, vậy mà giờ ông ấy phải ra đi lạnh lẽo một mình”.

– Nước mắt Trời cao cảm thấu với hy sinh cao cả của biết bao con người, đang trực tiếp dấn thân chống chọi đại dịch; trong đó, không thể không nhắc đến những anh hùng đã tử nạn vì hy sinh phục vụ người khác: Linh mục người Ý Berardelli, – 72 tuổi đã chết vì nhường máy thở cho bệnh nhân trẻ tuổi hơn.

–   Nước mắt Trời cao cũng đã hòa lẫn với nước mắt của các Kitô hữu trong Thánh lễ cuối cùng, trước khi lệnh tạm ngưng các Thánh lễ với đông người tham dự chính thức có hiệu lực.

–   Nước mắt Trời cao cũng cuộn trào trong lòng các Linh mục khi cử hành Thánh lễ không còn giáo dân như một Linh mục chia sẻ: “Khi giang tay đọc: Chúa ở cùng anh chị em, không một lời thưa, chẳng một lời đáp… mà lòng muốn khóc!”

–   Nước mắt Trời cao hẳn như đang muốn xóa nhòa nỗi lo sợ của biết bao con người: Lo sợ vì thấy những con số ca nhiễm, người chết cứ tăng dần đều trên màn ảnh; lo sợ vì nghe tiếng còi xe cấp cứu ngoài kia cứ khoảng dăm mười phút lại ầm ĩ một lần; lo sợ vì không biết người mình đang giao tiếp có nhiễm bệnh hay không…

–   Nước mắt Trời cao chắc chắn vẫn đang lặng lẽ chảy trong lòng chúng ta – những con người đang trăn trở về một điều gì đó: những người trẻ lo cho ông bà, ông bà lo cho các cháu, chính phủ lo cho công dân, người chủ gia đình lo về cái ăn cái mặc ngày mai không biết thế nào, các chủ doanh nghiệp lo không biết lấy gì để trả lương cho nhân viên, các mục tử lo cho phần thiêng liêng của các tâm hồn tín hữu khi mọi cử hành phụng vụ phải tạm dừng…  Những ngày dài vô tận, những đêm dài thức trắng, những con đường trống vắng, những quảng trường, chợ búa, quán ăn tấp nập ngày nào nay không bóng người qua lại…; và, tất cả mơ về những điều bình thường của cuộc sống trước đây.

Vâng, ngày hôm qua,

THẬP GIÁ ĐÃ THẤM ĐẪM NƯỚC MẮT TRỜI CAO

Nước mắt từ Trời cao rơi xuống như hòa lẫn với dòng máu chảy ra từ cạnh sườn của Đấng vì yêu nên đã làm người.

Và điều đó chứng tỏ rằng:

–   Dù thế nào, Chúa vẫn ở đó – nước mắt của Ngài hòa lẫn với nước mắt thống khổ của nhân loại này.

–   Dù thế nào, Thập Giá đồi Calvê vẫn ở đó – lặng lẽ nhưng hiên ngang, âm thầm mà sống động, nhỏ bé nhưng vẫn đủ sức gánh đỡ những gánh nặng khổ đau của nhân loại này.

Vậy,

–  Nếu một Thiên Chúa làm người đã tự nguyện vác lấy cây Thập Giá, để gánh đỡ những gánh nặng của ta… thì ta được khích lệ đón lấy những thập giá đời mình trong bình an.

–   Và, nếu nước mắt từ Trời cao đã hòa lẫn với nước mắt thống khổ của nhân loại này, thì nếu có phải khóc, hãy cứ tiếp tục khóc, nhưng khóc trong niềm tin tưởng, và khóc với niềm hy vọng… tất cả rồi sẽ ổn thôi, vì “Cứ yên tâm, có Thầy đây, đừng sợ” (x. Ga 6,20)

Đaminh Thứ Trưởng

Rôma 28.03.2020

Nguồn https://dongten.net/2020/03/28/thap-gia-tham-dam-nuoc-mat-troi-cao/

From: Langthangchieutim

Corona – Biến cố của thế kỷ * Nguyễn Tường Bách

1-
Khi tác giả viết những dòng này, đại dịch Corona đang tiếp diễn khốc liệt trên thế giới. Châu Âu đang ở cao điểm của dịch bệnh, số tử vong tại Ý đã cao hơn so với Trung Quốc. Tại các nước Tây Âu khác như Tây Ban Nha, Pháp, Đức, Anh… số ca lây nhiễm vẫn đang tăng theo cấp số nhân. Tại Mỹ, người ta tiên liệu dịch còn bùng phát mạnh mẽ lên đến hàng chục triệu người. Châu Phi đã có trên 27 quốc gia bị nhiễm và không khó để đoán rằng, một khi dịch bệnh lan tỏa tại châu lục này thì số người mắc bệnh và tử vong sẽ tăng nhanh hơn các nơi khác trên thế giới

Không ai nghi ngờ gì, rõ ràng đây là một nạn dịch lịch sử, xảy ra thình lình như một trận sóng thần giữa trời quang mây tạnh. Thế giới hoảng loạn chưa từng thấy, ta có thể nhắc lại lời Thủ tướng Đức Angela Merkel, biến cố này phải được xem là kinh hoàng nhất kể từ ngày chấm dứt Thế chiến thứ hai vào năm 1945.

Về độ nguy hiểm của dịch bệnh

Tới nay người ta tính khoảng 250.000 người nhiễm bệnh và con số tử vong ở khoảng trên 10.000*. Nếu ta dùng một phép tính đơn giản từ hai con số đó thì xác suất tử vong khoảng 4%. Tỷ lệ tử vong tại Vũ Hán được nêu chính thức trong tạp chí Nature Medicine ngày 9-3-2020 là 1,4%. Các tỷ lệ này thực ra không hề chính xác, vì con số người chết tương đối rõ ràng, nhưng số lượng thực sự người bị nhiễm thì lại rất mơ hồ. Khoảng 80% người bị nhiễm chỉ có triệu chứng rất nhẹ nên không mấy ai chịu thử. Đó là chưa kể nhiều nước trên thế giới khuyên dân chúng không nên vội thử vì sợ các trung tâm y tế quá tải như tại Anh hay Đức.

Vì lý do đó số ca bị nhiễm được cho là cao gấp 6 đến 10 lần so với con số được thông báo, tùy theo quốc gia. Trên cơ sở này, ta có thể nói tỷ lệ tử vong của Covid-19 tối đa là 1%. Con số nghe qua thì nhỏ, nhưng 1% của một triệu người là 10.000 nạn nhân và mỗi người chết là một thảm cảnh, một số phận, không ai được phép coi nhẹ.

So với bệnh cúm mùa với tỷ lệ tử vong chỉ 0,1% thì bệnh Covid-19 nguy hiểm hơn, nhất là cho những ai có tiền sử bệnh án hay suy yếu đường hô hấp. Bệnh cúm mùa là bệnh của mùa đông. Tại Đức, mỗi năm có khoảng 850.000 người chết, trong đó khoảng 15.000-20.000 là nạn nhân trực tiếp của bệnh cúm mùa. So với số tử vong của bệnh cúm mùa thì số nạn nhân của Covid-19 rất nhỏ. Thế thì tại sao cả xã hội hoảng loạn?

Toàn thế giới rúng động vì hai lý do. Một, dịch bệnh lây lan quá nhanh, theo cấp số nhân. Hai, chưa có thuốc chữa, chưa có vắc-xin phòng bệnh. Xưa nay mọi lo ngại của ngành y tế trong mọi cơn dịch vốn đều vì hai lý do đó. Đó là nguyên nhân đích thực của cơn khủng hoảng toàn cầu hiện nay.

Thực ra, nhìn một cách toàn thể, thì dịch bệnh là một loại rủi ro tự nhiên của đời sống, nhất là trong một thời kỳ mà con người đi du lịch, tiếp xúc dễ dàng và nhanh chóng trên khắp thế giới như hiện nay. Đối với các nhà quản lý y tế vĩ mô thì một trong những giải pháp đối trị là cứ để dịch lan rộng nhưng trong vòng kiểm soát và hạn chế tử vong.

Một khi dịch lan đến khoảng 60-70% quần chúng thì dịch tự ngưng vì con người đã miễn dịch. Giải pháp “mềm” này đã được bước đầu áp dụng tại Anh và Hà Lan trong những tuần qua nhưng nay đã bị bác bỏ vì thiếu hiệu quả và áp lực dư luận.

Hạ tuần tháng 3 năm 2020, thế giới áp dụng phương pháp “cứng” nhằm đối trị nạn dịch. Toàn cầu đang đứng trước một cơn khủng hoảng chưa từng có. Ngày 20-3, con số tử vong nằm ở mức 10.000 nhưng sự hoảng loạn đã lên cao ngang tầm của một cuộc chiến tranh quân sự.

Sự hoảng loạn bất ngờ này mang nhiều nét kỳ lạ, nằm xa một vấn nạn thuần túy y tế. Xã hội rối loạn chưa từng có.

2-

Nước Anh đã từ bỏ thái độ phớt tỉnh trong việc đối trị dịch bệnh, họ thừa nhận sai lầm. Nước Đức đã bắt đầu phong tỏa một vài thành phố và khả năng lớn là họ sẽ phong tỏa toàn quốc. Các nước châu Âu khác như Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Áo… đã dùng mệnh lệnh hành chánh, cấm dân chúng ra khỏi nhà trừ phi có lý do chính đáng. Tại Mỹ, tiểu bang California với khoảng 40 triệu dân cũng đã ra lệnh phong tỏa từ ngày 20-3.

Những ai đã sống tại châu Âu và Mỹ mấy mươi năm qua cũng đều ngơ ngác trước những cảnh tượng kỳ lạ của phố phường. Đó là những thành phố xem như đã chết, tê liệt, câm lặng. Thảng hoặc vài nơi bán hàng thì người mua đứng xa nhau cả mét, nhìn nhau bằng cặp mắt lo ngại. Họ vơ vét những món hàng xem ra chẳng thật cần thiết, xuất phát từ một nỗi lo vô cớ. Con virus Corona chưa lan đến nhưng sự sợ hãi đã tới trước.

Thế nhưng cái đảo lộn lớn nhất không nằm ngoài đường mà trong mọi gia đình. Trường học đóng cửa, trẻ con ở nhà và cần người trông giữ. Phụ nữ phải ở nhà trông con, trong đó có nhiều người làm trong ngành y tế, bệnh viện, nơi đang cần nhân lực. Một số người phải làm việc ở nhà, một số khác bắt đầu thất nghiệp, nỗi lo lắng và phẫn nộ ngày càng tăng. Vài nhà xã hội tiên liệu bạo lực trong gia đình sẽ tăng nếu vợ chồng con cái bị nhốt giữa bốn bức tường.

Điều đáng nói trong đại dịch này là, tuy số tử vong chưa gọi là cao, nhưng nó đã “thấm” vào mọi tế bào của đời sống, kể cả trong những góc cạnh vô danh nhất. Người ta kể đến với giọng bùi ngùi về những thảm cảnh trong viện dưỡng lão, nơi mà vợ chồng săn sóc nhau trong tuổi già, nay bị cấm gặp gỡ. Tài xế xe tải kẹt biên giới ròng rã vài ngày, phải cần tiếp tế thức ăn. Kiều dân cố “chạy” về quê hương trốn dịch bị kẹt trên đường. Những kẻ buôn bán lẻ, phục vụ công nhật trong ngành du lịch, khách sạn hay tiệm ăn, nay không còn thu nhập. Thậm chí người ăn xin nay cũng không còn “khách”.

Điều kỳ lạ trong trận dịch này so với SARS hay Ebola nhiều năm trước là toàn thể xã hội, từ tầng lớp cao cấp nhất đến góc tối nhất của đời sống, đều đang bị chao đảo và thiệt hại. Phải chăng tính chất đó báo hiệu một chuyển biến vĩ mô?

Kinh tế đảo lộn và suy thoái

Khoảng giữa tháng 2-2020 ta còn chứng kiến chỉ số Dow Jones của Mỹ nằm ở khoảng 29.400. Chưa đầy 6 tuần qua chỉ số này chỉ còn 19.000. Đó là một sự sụp đổ khoảng hơn 1/3 trị giá cổ phiếu. Các chỉ số tại thị trường chứng khoán châu Âu cũng thiệt hại tương tự. Sự mất giá này chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Không khó để biết rằng thế giới đang đứng trước một sự suy thoái nặng nề và lâu dài. Các đại công ty như Boeing tại Mỹ hay Lufthansa tại Đức phải cần hỗ trợ vốn của Nhà nước.

Một số lớn xí nghiệp toàn cầu phải ngừng sản xuất, thậm chí phá sản. Vô số các công ty hạng trung lâm vào khủng hoảng vì thị trường tiêu thụ bất ngờ biến mất. Một số công ty khác bị đình trệ sản xuất vì thiếu nguồn cung ứng vật tư từ quốc gia bị dịch trước đó là Trung Quốc. Trong bối cảnh này, tính chất toàn cầu hóa lần đầu tiên cho thấy mặt trái của nó, đó là sự lệ thuộc quá nhiều vào các đối tác châu Á.

Sau công nghiệp thì ngành dịch vụ liên quan đến vận chuyển, du lịch, khách sạn hoàn toàn bị đình trệ vì dịch bệnh. Người ta dự đoán một số lớn hãng hàng không, tàu biển sẽ phá sản. Các ngành này vốn lớn mạnh nhờ tính chất toàn cầu hóa trong những thập niên vừa qua, trong đó yêu cầu chuyên chở hành khách và hàng hóa xuyên lục địa tăng cao hơn bao giờ hết

Một mặt khác của nền kinh tế các nước là thành phần kinh tế gia đình, thành phần hành nghề tự do, họ cũng lâm vào cảnh túng quẫn. Đó là các loại kinh doanh tuy nhỏ, nhưng họ phải thuê nhân công, phải thuê mặt bằng. Một khi các thành phố bị phong tỏa, nguồn thu nhập của họ lập tức bị cắt. Họ đành sa thải nhân công và thường phải tiếp tục chi trả phí mặt bằng. Tỷ lệ thành phần đó nằm khoảng 5-10% trong một quốc gia. Tại một nước dân số hơn 80 triệu dân như Đức, thành phần đó lên đến khoảng 5 triệu người

Trước tình hình kinh tế vô cùng bi đát, các chính phủ của Mỹ, Tây Âu và cộng đồng châu Âu dự kiến sẽ tung những gói hỗ trợ tài chánh khổng lồ để giải cứu. Nhưng “giải cứu” cũng chỉ là cho vay, làm sao có chuyện tặng không. Thường thì các công ty then chốt mới có khả năng thụ hưởng các chương trình này, trong đó một trong những giải pháp đáng chú ý là Nhà nước sẽ tham gia cổ phần, nói khác đi là công ty được “quốc hữu hóa”. Đây sẽ là một nét đáng chú ý về mặt kinh tế trong thời kỳ “hậu Corona”.

Dịch Corona – những điều có thể

Bên trên là những dòng miêu tả sơ lược về đại dịch Corona trong thời kỳ đầu của nó tại châu Âu và Mỹ. Thời gian còn lại của tháng 3 và hết tháng 4-2020 sẽ là sáu tuần quyết định sự phát triển của bệnh, tổn thất nhân mạng, tổn thất kinh tế và xáo trộn xã hội. Không ai biết được điều gì chắc chắn sẽ xảy ra.

Thế nhưng ngay trong thời gian này ta đã thấy đại dịch Corona biểu lộ nhiều điều đáng chú ý.

Một, nền kinh tế thế giới suy sụp trầm trọng, các chính phủ đã cạn kiệt đòn bẩy ứng cứu. Lãi suất là một trong những đòn bẩy quan trọng nhất của nhà nước, nay đã lùi về số không. Thời kỳ phồn vinh và phát triển của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, trong thời kỳ toàn cầu hóa nay đã qua. Ngược lại, nền kinh tế suy thoái này sẽ cần cả chục năm mới hồi phục, nó sẽ cần một sự tái cấu trúc. Nhiều công ty sẽ chết, một số khác ra đời. Nhiều ngành nghề biến mất, một số khác phát sinh.

Hai, sự toàn cầu hóa như mô hình hiện nay đã lộ ra những nhược điểm trầm trọng. Đó là sự lệ thuộc quá mức vào “cơ xưởng thế giới” Trung Quốc. Khi Trung Quốc ngưng sản xuất thì nhiều công ty Âu Mỹ phải chịu bó tay, chờ nguồn tiếp tế. Qua trận dịch này người ta bừng tỉnh về cái giá phải trả nếu mãi lệ thuộc vào một nguồn hàng và vào một quốc gia nhiều tham vọng. Hiệu ứng hiển nhiên của tình trạng này là người ta sẽ đa phương hóa các nguồn cung cấp trên thế giới.

Ba, nền y tế và an sinh xã hội trên thế giới và tại phương Tây đã lộ các nhược điểm chết người. Tại châu Âu và Mỹ, nền y tế chủ yếu là một hệ thống săn sóc sức khỏe, kéo dài tuổi thọ hơn là công cụ đối trị dịch bệnh bất ngờ. Tệ hại hơn nữa, nền y tế bị thương mại hóa trầm trọng, nhất là tại Mỹ. Đó là nơi người ta kinh doanh kiếm tiền, bệnh nhân trở thành khách hàng mua bán, ai không có tiền sẽ bị bỏ rơi. Đức là quốc gia mà mật độ giường bệnh cao nhất châu Âu, thế nhưng mặt trái của nó là các bệnh viện “khuyên” bệnh nhân mổ xẻ hơn mức cần thiết để làm kín chỗ giường bệnh.

Bốn, tâm thức xã hội của dân chúng phương Tây trở nên đáng lo ngại sau nhiều thập kỷ sống trong hòa bình và phồn vinh. Khi đại dịch đã hoành hành tại Trung Quốc và bắt đầu tràn đến châu Âu, con người vẫn coi nhẹ mối hiểm nguy này, cho rằng sẽ không chạm đến mình. Khi các cơ quan công quyền ban hành lệnh phong tỏa, nhiều người trẻ vẫn ngông nghênh xem thường, hoàn toàn không ý thức trách nhiệm mình trong xã hội. Một số khác thì có những hành động bất thường, như tàng trữ thức ăn, xăng dầu, thậm chí mua thêm súng đạn như tại Mỹ. Ý thức cộng đồng lẽ ra phải có thì nay nhường chỗ cho một dạng mới của bạo lực và vô cảm.

Năm, về mặt chính trị, đây là ý chính của bài này. Sau đại dịch Covid-19, nền chính trị trên thế giới có lẽ sẽ có những thay đổi to lớn. Chủ trương toàn cầu hóa, vốn đã bị các biến cố di dân ngăn chặn trong thời gian qua, nay sẽ quay đầu sau trận đại dịch này, như dự đoán của nhiều nhà quan sát. Cộng đồng châu Âu vốn đã bị chính sách của Tổng thống Mỹ cũng như biến cố Brexit của Anh làm suy yếu. Thêm vào đó, chính sách di dân và thái độ đóng cửa các nước Đông Âu làm phân hóa thêm cộng đồng gồm 27 nước này.

Nay, trong đại dịch Covid-19, khi các quốc gia ai lo phần nấy, rút lui, tự phong tỏa và đóng cửa biên giới, cộng đồng châu Âu tự chấm dứt vai trò của mình, ít ra trong một thời gian nhất định. Trên phạm vi thế giới, thế đối đầu giữa Mỹ và Trung Quốc càng căng thẳng. Nước Nga đang tổn thương nặng nề về giá dầu và kinh tế. Iran khủng hoảng toàn bộ thể chế và xã hội. Những điều kể trên có thể tăng cường độ từng ngày, ta không thể loại bỏ khả năng chiến tranh xảy ra bằng một mồi lửa nào đó. Khi khó khăn nội bộ chồng chất thì hiềm khích bên ngoài dễ phát sinh chiến tranh, lịch sử thế giới đã chỉ rõ.

3-

Phải chăng đại dịch này là bài dạo đầu cho một sự sắp xếp lại, một cuộc tái cấu trúc vĩ đại?

Thay lời kết

Thế giới luôn chuyển biến và mọi chuyển biến đều có nhiều nguyên nhân, kể cả các nguyên nhân khó thấy. Đó là quy luật Duyên khởi về đời sống. Chúng ta không thể biết hết tất cả các yếu tố tác động lên một hệ thống vĩ đại, trong đó chúng ta đang sống. Nhưng điều rõ nét nhất là phần lớn nguyên nhân đều do con người gây nên. Dịch bệnh không phải là thiên tai như sóng thần hay động đất mà con người là tác nhân trực tiếp. Còn hệ thống chính trị và kinh tế xã hội thì quá hiển nhiên, con người đã xây dựng lên nó.

Thiên nhiên vốn rộng lòng. Một điều thú vị hiếm hoi trong thời kỳ này là thông tin về bầu không khí tại Vũ Hán và dòng nước xanh tại Venise (Ý). Chỉ sau vài tuần vắng bóng công nghiệp, bầu trời Vũ Hán vô cùng trong xanh như không ảnh cho thấy, so sánh với thời gian trước đó đen kịt một màu. Tại Venise, thủ đô du lịch của Ý, nơi mà du khách chê trách chất nước ngầu đục hôi hám trong các kênh rạch, cũng sau vài tuần vắng người, dòng nước xanh trong đã hiện ra, nhìn đến đáy, với cơ man nào là cá.

Những ai có tâm cần phải động lòng suy nghĩ trong đại dịch. Có lẽ chúng ta đã quá tàn phá thiên nhiên, sinh hoạt đã quá vô độ. Về mặt chính trị, các quốc gia đều quá ích kỷ, cho quyền lợi quốc gia mình là trên hết. Về mặt kinh tế, chúng ta đều quá chạy theo lợi nhuận, lấy con số tăng trưởng để làm thành tích, bất kể môi trường. Về mặt xã hội, chúng ta đều lấy tự do cá nhân làm chuẩn mực, coi thường cộng đồng và tha nhân.

Tất cả những thứ đó đã sinh ra các nhà lãnh đạo kỳ dị, các chủ trương bất thường, các phong trào theo chủ nghĩa dân tộc đang phát triển mạnh. Dù vậy, nhiều năm qua, thế giới vẫn chưa thức tỉnh.

Thế thì phải chăng đại dịch này là bài dạo đầu cho một sự sắp xếp lại, một cuộc tái cấu trúc vĩ đại?

Nguyễn Tường Bách

ĐẠI CÁCH LY…

Image may contain: text
8 SÀI GÒN

ĐẠI CÁCH LY…

Chúng ta đang sống trong những giờ phút kỳ lạ của lịch sử nhân loại.

Con virus nhỏ đến vô hình xuất phát từ Vũ Hán đã làm tê liệt và đóng băng toàn thế giới. Tổn thương nhất lại là các quốc gia văn minh giàu mạnh nhất thế giới. Ban đầu là hai nước giàu mạnh nhất Châu Á: Hàn và Nhật. Tiếp theo đó là Châu Âu, rồi hiện nay đang bùng phát mãnh liệt tại siêu cường số một thế giới, điều mà cách đây vài chục ngày không ai có thể tưởng tượng ra nổi.

Con virus Tàu quái ác đó đã cưỡng bức loài người bước vào thời gian đại cách ly chưa biết đến khi nào mới chấm dứt. Người cách ly với người, gia đình này cách ly với gia đình khác, địa phương này cách ly với địa phương khác, quốc gia này đóng chặt cửa với quốc gia khác.

Nói về cách ly, tui quá quen. Nhiều khi buồn buồn, tui tự cách ly trong nhà đến gần cả tháng, không đi ra ngoài và cũng chẳng muốn gặp ai. Vài lúc đang tự cách ly như vậy, bỗng dưng nghe tiếng chim kêu bên ngoài, chợt tỉnh lại, bùng lên, mang máy thoát ra khỏi nhà, phóng xe vào rừng.

Rồi rất nhiều lúc bị an ninh cưỡng bức cách ly, nhốt luôn trong nhà lúc 3 ngày, lúc 5 ngày, lúc 10 ngày… và dài nhất là hôm cụ Kình bị sát hại, chúng giam tui trong nhà đến 12 ngày.

Hiện chưa có lệnh phong tỏa, nhưng với nhiều biện pháp hạn chế đưa ra, các thành phố lớn ở VN xem như đang cách ly.

Không biết mọi người dùng thời gian cách ly để làm gì, chứ tui thì khối việc, vui nhất là lấy chim ra chơi.

Tui có một ổ đĩa chứa có đến chục ngàn ảnh chim chụp khắp mọi nơi, chưa có thời gian làm hậu kỳ và sắp xếp lại, nay mỗi ngày mang ra làm vài file là vui rồi.

Bên cạnh đó, có một số lão bạn già hưu trí ghiền nhậu lập ra nhóm nhậu online, chiều chiều lên mạng hú nhau mang rượu ảo ra khoe rồi cụng ly qua nét cũng vui lắm.

Tóm lại giới hưu trí, giới trung lưu trở lên phải cách ly vài tháng trở lại thì cũng tạm ổn về vật chất lẫn tinh thần.

Tuy nhiên giới lao động nghèo thì sao? Không bán hàng rong, không bán vé số dạo, không chạy được xe ôm, không có việc làm vì hàng quán dịch vụ đều đóng cửa… thì họ sống ra sao?

Nhìn ra đường vắng hoe, vẫn thấy những người lao động nghèo tất bật đi lại, hoặc lang thang đây đó kiếm cơm mà nát cả lòng. Một tuần thì họ còn gắng gượng được chứ kéo dài vài tuần hay vài tháng thì làm sao?

Lẽ ra nhà nước phải ưu tiên cho phúc lợi xã hội, có quỹ dồi dào để nuôi người tàn tật, người mất sức lao động, người nghèo khó, và đặc biệt phải có quỹ ứng ra cấp tốc cho những người lao động nghèo trong trường hợp khẩn cấp như thế này.

Nghe nói Thành Hồ tuyên bố cứu trợ cho các lao động nghèo vài trăm ngàn mỗi người trong thời gian dịch bệnh cách ly, nhưng không hiểu họ chi như thế nào cho đúng người đúng địa chỉ và kịp thời.

Nhiều người viện cớ đất nước còn nghèo, dân phải tự lo, không nên so bì với các nước giàu có khác.

Nhưng tại sao đất nước cứ mãi nghèo dù đã qua 45 năm phát triển trong hòa bình? Mà làm sao cứ nghèo mãi được nhỉ khi hàng năm nhận trên 15 tỷ đô la kiều hối, nhận hàng tỉ đô la viện trợ ODA (23 tỉ trong 10 năm từ 2003 đến 2012 của ngân hàng thế giới và gần chục tỉ khác từ Nhật, Hàn và EU), hàng chục tỉ đô la đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), chưa nói hàng chục tỉ đô la có được do bán than, bán dầu, bán tài nguyên và bán sức lao động của hàng chục triệu dân, với kim ngạch xuất khẩu mỗi năm trên 200 tỉ đô la.

Với tổng số tiền đó đổ vào VN mỗi năm thì đất nước phải giàu lên nhanh chóng chứ, tại sao cứ mãi nghèo để dân vẫn còn quá khổ, tại sao cứ mãi nghèo để bây giờ cần tiền trợ cấp cho dân lúc hiểm nghèo thì chẳng có gì.

Câu trả lời vì sao mãi nghèo nàn lạc hậu thì ai cũng biết, kể cả bộ phận đang cai trị đất nước, nhóm thiểu số cai trị này còn biết rõ hơn người dân.

Giữa tang thương đất nước như vậy lại nghe một ông ứng viên chức TBT đảng tuyên bố, “phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã là xu thế tất yếu” mà rợn hết cả người. Thấy phía trước là những quả đấm thép mới nhưng mục ruỗng, những dự án hàng chục ngàn tỷ đắp chiếu thành sắt vụn, những nhà máy xi măng lò đứng, những nhà máy đường công nghệ cũ, những đường sắt trên cao Cát Linh Hà Đông chưa biết bao giờ vận hành. Rồi thấy phía sau đó là những biệt phủ to lớn, những chiếc xe đắt tiền xa hoa, những cậu ấm cô chiêu du học ở trong các ngôi nhà triệu đô tận bên Anh, Mỹ, Úc…

Nguồn lực của đất nước và năng lượng của dân tộc bị tiêu hao quá mức tàn bạo.

Con đường đau khổ của dân tộc còn kéo dài…

HUYNH NGOC CHENH

Câu Chuyện Về Bức Ảnh Lịch Sử Sang Trang – Trần Trung Đạo

Câu Chuyện Về Bức Ảnh Lịch Sử Sang Trang – Trần Trung Đạo

Bức hình bên trái chụp đúng lúc Mikhail Gorbachev vừa đọc xong diễn văn từ chức Chủ Tịch Liên Xô và đang khép lại bài diễn văn sau bảy giờ tối ngày 25 tháng 12, 1991.
Bức hình mang ý nghĩa một chế độ độc tài toàn trị kéo dài suốt 74 năm với 20 triệu người bị giết trong các cuộc thanh trừng đẫm máu, đấu tố và lao động khổ sai trong các trại tập trung vùng Siberia, vừa chấm dứt.
Liên Xô có đạo quân hiện dịch 4 triệu 9 trăm ngàn và 35 triệu quân dự bị trong tuổi từ 18 đến 35. Liên Xô có một ngân sách quốc phòng vào thời điểm 1990 đã lên đến 290 tỉ Mỹ kim. Liên Xô vào năm 1986 có tới 45 ngàn đầu đạn nguyên tử.
Trước đó vài năm, ai cũng có thể hình dung ngày Chủ tịch Liên Sô từ chức phải là ngày trọng đại, thu hút hàng ngàn phóng viên báo chí, nhiếp ảnh khắp nơi trên thế giới và hàng tỉ người hội hộp đợi chờ.
Nhưng không. Một phóng viên nhiếp ảnh Mỹ chính thức tham dự cũng không có. Một ngày trôi qua gần như không tiếng động lịch sử nào. Bức ảnh có được cũng gần như một tình cờ vì phái đoàn quay phim của hãng ABC từ Mỹ sang không có ai là phóng viên nhiếp ảnh.
Người chụp bức hình này là nhiếp ảnh gia người Mỹ sinh tại Hong Kong Liu Heung Shing. Ông là phóng viên của hãng AP tại Moscow.
Buổi sáng ngày lịch sử đó, Liu Heung Shing nghe ngóng tin tức và biết đó là ngày Mikhail Gorbachev từ chức nên tìm cách vô điện Kremlin. Mặc dù bị KGB ngăn cấm vào, Liu Heung Shing cũng đã xoay xở vào được.
Khi Mikhail Gorbachev đọc diễn văn, Liu và Tom Johnson của CNN là hai phóng viên duy nhất có mặt trong phòng.
Phóng viên Liu Heung Shing không được phép chụp hình nhưng ông ta biết lịch sử đang sang trang và bằng mọi cách phải ghi lại cho được hình ảnh đó. Ông đặt máy hình đúng vị trí, điều chỉnh khoảng cách, thông số của ống kính chính xác và kiên nhẫn chờ cơ hội.
Khi Mikhail Gorbachev đọc xong, khép lại bài diễn văn là lúc Liu Heung Shing bấm máy.
Bức ảnh độc đáo mang ý nghĩa khép lại một kỷ nguyên sắc máu đó là phần bộ ảnh của AP được trao giải Pulitzer Prize.
Được hỏi đặc điểm nào trong nhiếp ảnh làm ông quan tâm nhất, Liu Heung Shing cho rằng những bức ảnh đại diện cho tiếng nói của con người là ông quan tâm nhất.
Người viết kèm theo bức ảnh Tập Cận Bình vừa đọc xong diễn văn để thấy chế độ CS Trung Quốc cũng vậy, như tảng băng đang tan chảy và mỗi ngày một mỏng dần, yếu dần.
Lịch sử sự sụp đổ của các đế quốc từ thời La Mã đến hiện đại và nay Trung Cộng, đều diễn ra theo một con đường bành trướng và suy thoái giống nhau.
Nhật chiếm Triều Tiên, Mãn Châu hay Tập chiếm Biển Đông cũng học từ một sách bành trướng giống nhau.
Trung Cộng còn trầm trọng hơn vì không phải chỉ mâu thuẫn quyền lợi với thế giới bên ngoài mà còn mâu thuẫn đối kháng thuộc về bản chất bên trong của chế độ.
Giống như Liên Sô 1991, căn bịnh cơ chế của Trung Cộng không thể nào chữa trị bằng cách biện pháp vá víu về kinh tế.
“Đổi mới” chỉ kéo dài thời gian tồn tại nhưng không chữa tuyệt được căn bịnh vì con người không chỉ cần ăn.
Không phải nước nhỏ nào cũng phụ thuộc vào các cường quốc. Mười lăm nước trong Liên Bang SoViet tuyên bố độc lập trước khi Liên Sô chính thức cáo chung vào ngày 25 tháng 12, 1991.
Có những nước chỉ một hai triệu dân như ba quốc gia Baltics đã “thoát Nga” từ 1989.
Họ không nằm chờ trái sung Gorbachev rơi vào miệng. Họ không chờ Mỹ bật đèn xanh. Họ không sống theo chủ nghĩa số phận.
Tương tự, đừng chờ Trung Cộng sụp đổ mà phải nắm bắt mọi cơ hội quốc tế và tận dụng sự suy thoái của chế độ CSTQ để thoát ra khỏi ảnh hưởng của Trung Cộng.
Đảng CSVN vì quyền lợi và quyền lực sẽ tiếp tục bám theo và chết theo Trung Cộng, nhưng những hạt nhân tốt, chăc chắn đang có, trong 90 triệu người Việt Nam phải tìm cách vươn lên và ngày cáo chung của chế độ độc tài CSVN sẽ đến.
24-12-2019
Nguồn: baotiengdan.com

    Tiếng ca, tiếng súng lên trời     

    Tiếng ca, tiếng súng lên trời     

Lời bàn:

Bài viết hay quá. Không có tên tác giả để khen trực tiếp, mà phải khen thầm.

Người viết có lẽ hơn tuổi bọn này, đầy tràn kinh nghiệm và kỷ niêm SG xưa, và giọng văn mang tính

tự do thoải mái, bác học, viết như 1 nhu cầu tỏa mãn tư tưởng, không theo khuôn phép, ý tưởng của riêng ai, vì điều kiện cuộc sống. Viết hoàn toàn bằng tính nghệ sỉ đúng nghĩa, sản phẩm đặc trưng của MNVN, và chỉ trong môi trường đó mới tạo dựng, nuôi nấng …. ra được. Những mỹ phẩm này làm nên “

nghệ sĩ VNCH”

. Bố bảo mấy thầng bồi bút VC cỏ thể bắt chước, ca tụng, đánh bóng chân thành như thế?

pnU Minh

            x     x     x     x     x     x    x    x    x    x    x     x     x      x     x     x

Thế là , chỉ 50 tiếng đồng hồ  , “tiếng- hát” đó , rồi “tiếng -súng” này , theo nhau , lần lượt lên trời !

   “Tiếng- hát” là “Danh -Ca -chi -bảo” Thái Thanh, “tiếng -súng”  là  “Thiếu Tướng hùng anh” Lê minh Đảo . Danh Ca mất lúc 11h50 ngày17/3/2020 ở Orange County, thọ 86 tuổi . Thiếu Tướng ra đi trưa 13h45 hôm19/03/2020 ở Connecticut, thọ 87 tuổi .

    Nói đến tiếng hát Thái Thanh thì có lẻ không có gì để thêm ! Bởi tiếng hát đó là một phần thân thể chúng ta : những -người -yêu -nhạc- trưởng- thành -trước -75 . Nó là con tim , là trí nhớ , là lệ ứa , là tai nghiêng . Chúng ta nghe Thái Thanh cả khi cô không cất tiếng !

    Đó là một chiều tối, đi làm về , vội vã thay đồ , chạy lên ngôi chùa gần nhà , cúng giao thừa  , chợt vẳng bên tai « đầu mùa Xuân cùng em đi lễ « . Đó là một khuya mùa Hạ , ôm đàn rãi từng nốt nhạc vườn trăng , lại nghe thoang thoảng  « đêm thơm như một giòng sữa « hay … «  hay chỉ là giấc mơ thôi / nghe tình đang chết trong tôi  « ..vv  Lòng kéo lòng , những âm vang mời người , đưa tôi « lên xe / về miền quá khứ « !

    Không phải ai cũng mê tiếng hát Thái Thanh . Có người bảo tiếng hát Thái Thanh là tiếng hát “đại chúng” . Tôi không nghĩ thế . Người thưởng ngoạn cô , đa số , có một trình độ “chừng mực” nào đó , và , phần đông là người di cư . Thập niên 70s , ở một số tỉnh miền Tây  (mà tôi biết) , người nghe Thái Thanh không nhiều , mà là Phương Dung , Hoàng Oanh , Thanh Thúy , Khánh Ly , Lệ Thu , Nhật Trường , Duy Khánh , Chế Linh , Elvis Phương , Sĩ Phú vv . . Ít cả Kim Tước , Châu Hà ,  Duy Trác , Nhật Bằng , Anh Ngọc .vv  Ở Sài Gòn , ” bạn–bè-chúng-tôi” , thỉnh thoảng “Thái Thanh” , còn đa phần là những tiếng hát cùng “thế hệ”  (cuối 40s, 50s) hơn : những Thanh Lan , Khánh Ly , Lệ Thu , Julie , Thái Hiền , những Sĩ Phú , Duy Quang , Jo Marcel ,  Nhật Trường vv . Nghe nhạc “trẻ” và chơi  ” nhạc trẻ” (nhạc ngoại quốc / nhạc ngoại quốc lời Việt) !

    Nhưng không ” mê ” Thái Thanh không có nghĩa là không nghe cô hát , mà , không nghe thì thôi , nghe rồi thì nhớ mãi . Bài ca nào Thái Thanh hát, tuy không cầu chứng tại tòa , nhưng coi như nó thuộc về cô . Nó là của cô . Những tiếng hát thượng thặng khác ( Khánh Ly , Lệ Thu , Duy Trác , Sĩ Phú  .. ) có ghé qua chơi ,  cũng không làm người ta quên cô . Từ “Về miền Trung” , “Đêm màu hồng”, “10 bài đạo ca” , “Đôi mắt người Sơn Tây”  vv. những ca khúc “anh viết, em ca” ấy , cho đến ” Hòn vọng phu” (Lê Thương) , “Về đây nghe em” (Trần quang Lộc)  , “Chiều nay không có em”  (Nguyễn minh Khôi) , Tuổi 13 (Ngô Thụy Miên) … và , nhất là , “Dòng sông xanh” (lời Việt: Phạm Duy) . Tôi có nói quá không ? – Nếu có thì chắc cũng không ai trách . Bởi Thái Thanh là tiếng hát “đệ nhất” , là tiếng ca Minh chủ : có “bốc”  cũng thêm thừa !

    Trong những người mê Thái Thanh có 2 anh em bà -con : Mai Thảo và Hoàng hải Thủy . Chuyện ông Thảo và Thái Thanh thì ai cũng biết . Chuyện ông Thủy mê Thái Thanh thì , dầu ông bảo là “tôi chỉ mê tiếng hát thôi” , nhưng qua những bài thơ ông viết tặng cô thì ai cũng thấy là ông không chỉ mê tiếng hát .

    Ông Thủy nhớ lại lần đầu ông gặp Thái Thanh là năm 1952 : năm ông 19 , cô 18 . Chàng thanh niên Hà Đông mày mò đi kiếm một chân phóng viên , vô tình gặp được nàng ca sĩ Hà Nội , trên chiếc xe điện … Chợ Lớn – Sài Gòn . Và ông thú nhận : quyển phóng sự “Yêu nhau bằng mồm” của ông ( 1970 ) chả có nghĩa lý gì so với những ca khúc Thái Thanh hát   ” thời gian đã hai mươi năm trôi qua. Tôi thấy Nữ ca sĩ Thái Thanh, với tiếng hát không có dĩ vãng của nàng, đã làm cho đời tôi đẹp hơn, phong phú hơn là tôi với những truyện ngắn, truyện dài của tôi làm cho đời nàng thêm đẹp .. ”  . Chưa hết , Hoàng … Dược Sư còn hạ bút tự phê : ”  … Tôi quen mở máy nhạc khi ngồi viết, vừa viết vừa nghe nhạc. Nhưng khi tiếng hát Thái Thanh cất lên, tôi phải ngừng viết để nghe. Tôi vẫn nghĩ khi Thái Thanh hát mà tôi làm bất cứ việc gì là tôi có lỗi . “Mê Thái Thanh kiểu đó (thấy “có lỗi”) thì chắc chỉ có mình ông !

    Tôi có một cô bạn hát hay lắm . Nghe cô hát “Đưa em tìm động hoa vàng”  thì chỉ muốn từ quan ngay . Thường, bạn bè hát cho nhau nghe nhưng có hôm, trong một nhà hàng, cô được khán giả ái mộ mời lên sân khấu. Khi nghe cô giới thiệu “Thanh Ý xin hát ca khúc … ”  thì tôi hơi nhạc nhiên. Hát xong, về bàn, tôi hỏi nhỏ cô :

    – Ủa , đổi tên hồi nào sao không thấy xôi chè gì hết vậy ?

    – Đâu có, mình lấy tên Thanh Ý khi trình diễn , lâu rồi .

    – ? Thanh Ý là hát .. “y như thánh” ?

    – Mais non, cái ông này ! Thanh Ý  là ghép tên 2 tiếng hát thần tượng của mình:

       TháiThanh – Ý Lan .

    – Thế à . Vậy sao không lấy Thái .. Lan cho dễ nhớ hơn ?

    – !!!!

    Không chỉ hát hay , Thái Thanh còn là một nghệ sĩ có tư cách . Tháng 12 / 2002, trả lời một câu hỏi của đạo diễn Đỗ tiến Đức (và người bạn học cũ Nguyễn đắc Điều)  :

    ” .. Hỏi: Việt cộng nó có đến mời chị hát không?

    Thái Thanh: Có. Họ có mời vào đoàn hát này đoàn hát nọ nhưng tôi từ chối. Mà phải từ chối khéo chứ lôi thôi là nó đưa mình vào tù ngay. Tôi nói với họ rằng tôi chưa thể đi hát lúc này vì các con tôi chúng nó đã di tản nên tôi nhớ con lắm.

    Nguyễn Đắc Điều: Vậy mà nó để yên cho chị?

    Thái Thanh: Thì à… tôi không biết cái kiểu để yên và không để yên của người cộng sản như thế nào nhưng mà tôi chỉ biết tôi ở nhà của mẹ tôi ở tầng lầu trên cùng bỗng tự dưng không có nước máy lên nữa. Tôi đi hỏi thì họ trả lời là: “Nước yếu”. Tôi nói: “Tại sao thời không có cộng sản thì nước lại mạnh ?”. Nói thì nói chứ từ đó là tôi phải đi xách nước lên hai ba lầu rã cả cánh tay đấy. Lúc đó tôi cũng năm mươi tuổi rồi chứ trẻ gì đâu. Nói là xách dưới nhà nhưng thật ra là xách nước từ bên kia đường, rồi leo bao nhiêu là bậc thang nên đổ toẹt hết cả. Lúc bấy giờ tôi buồn lắm. Tôi tự an ủi mình rằng mình buồn khổ là vì mình không có nước. “

    Cảu hỏi  “Tại sao thời không có cộng sản thì nước lại mạnh? ”  là một câu nghe đã cái lỗ tai , xứng đáng được ” mấy tràng pháo tay” !

    Như người đàn ông rất là “ưu ái” cô, nhà văn Mai Thảo, Thái Thanh cũng có thái độ quyết liệt với cái gọi là văn nghệ CS :

    ” … Tôi hỏi: Xin trở lại chuyện cũ, chị nghĩ thế nào về nền âm nhạc của cộng sản?

    Thái Thanh: Tôi không để ý đến âm nhạc, và ngay cả ca sĩ của họ là vì tôi không thích cộng sản nên tôi không thèm ngó tới cái âm nhạc của họ, không thích ca sĩ, không thích sách báo, bài viết, văn thơ của cộng sản. Như anh đã biết đấy, cái gì cũng viết về đảng về Bác, chưa đọc đã biết, chưa nghe đã biết, thì đọc thì nghe làm quái gì. “

    Vâng, cô nói đúng lắm, thưa cô . Ngữ đó, đọc với nghe “làm quái gì” . Vùa bực mình , vừa phí thì giờ vô ích !

    Trong câu chuyện với ông Đức, ông Điều, cô Thái Thanh cho biết: đời cô, cô yêu nhất là âm nhạc, sau đó là “cuộc sống tu hành” (chữ của cô) . Và cô thêm: ”  .. Thành ra, khi tôi giác ngộ điều đó, tôi hay ngồi trước tượng Phật, và tôi cầu xin. Nhưng tôi không cầu xin cho riêng tôi đâu. Tôi không cầu xin cái gì cho tôi cả. Tôi cầu xin cho tất cả chúng sinh được mọi điều may mắn, được hưởng thanh bình, nhất là không có chiến tranh, không có cảnh chém giết nhau ”  .

    Ở hải ngoại , tôi chỉ một lần xem cô Thái hát . Đó là mùa thu năm 92, 93 gì đó , khi cô cùng hai bố con Phạm Duy, Duy Quang lưu diễn ở Tây Âu, ghé Pháp, hát trong một “nhà hàng” ở quận 13, Paris . Cô hát trước mấy bài (của các nhạc sĩ họ Phạm: Phạm Duy, Phạm đình Chương, Phạm trọng Cầu/ Em ra đi mùa thu), sau đó là qua nhạc yêu cầu, dĩ nhiên là có “Dòng sông xanh”

    Với tôi hôm đó , cô Thái hát không được như xưa , điều không có gì đáng ngạc nhiên ở cái tiếng hát 60 ngoài này cộng thêm “10 năm hình khổ” với CS . Nhưng , vẫn còn đó cái mượt mà, thánh thót, vẫn ngần ấy luyến láy, vẫn ngần ấy cảm xúc và, cái đáng nói nhất, là cô để cả tâm hồn mình vào mỗi câu hát, mỗi chuỗi ngân. Phải yêu mến và trân trọng âm nhạc biết chừng nào mới làm được như thế. Vinh hạnh thay cho những người có sáng tác được Thái Thanh trình diễn !

    Nhiều người đã xưng tụng Thái Thanh. Mai Thảo: tiếng hát vượt thời gian. Nguyễn đình Toàn: tiếng ca không tuổi. Hoàng hải Thủy: tiếng hát không có dĩ vãng. Khánh Ly: diva duy nhất. Thụy Khuê: tiếng hát lên trời … vv . Với tôi, Thái Thanh là “tiếng hát trời cho”.

    Cho cô . Cho người . Cho đời .

     ……. ……………………

    Trong khi cô bé 16 tròn trăng Băng Thanh “lên sân khấu” lần đầu bên cạnh các anh chị ở khu chiến Thanh Hóa thì, ở Sài Gòn, cậu Lê Minh Đảo, 17 tuổi, học sinh Petrus Ký, đang chuẩn bị thi lấy bằng tú tài bán phần .

    Tay bút, tay đàn . Để kiếm thêm chi phí phụ gia đình, ông Đảo gia nhập ban nhạc Lê Thương ( ? ), anh thủ cây “banjo”  , “guitare” giao cho ông Minh đờn (trung tướng Nguyễn văn Minh), người trở thành xếp anh, năm 1972 (Tư lệnh vùng 3). Em kế ông Đảo, ông Lê hằng Minh, cũng là một guitariste (classique) nổi tiếng (La Cumparsita) .

     Đỗ tú tài toàn phần năm 1952, năm 1953, theo lệnh tổng động viên, ông Đảo tình nguyên vào Võ Bị Đà Lạt. Ra trường năm 54, khóa 10 Trần Bình Trọng của ông có 3 ông lên tướng (tư lệnh sư đoàn) : Chuẩn tướng Vũ văn Giai (gốc Dù) sư đoàn 3 ; Chuẩn tướng Trần văn Nhựt (gốc Thủy quân lục chiến) sư đoàn 2 và ông , Thiếu tướng Lê minh Đảo: sư đoàn 18 .

     Tôi đọc đâu đó, nghe kể lại, có người (?) trước đây (trước 75 ?) gọi tướng Đảo là tướng “văn phòng” do các chức vụ ông đảm nhiệm trong quá khứ: trong 10 năm,  62 à 72, thì đã 9 năm ông Đảo làm Tỉnh Trưởng: từ Long An, qua Chương Thiện, đến Định Tường . Nhưng, cái người “phát ngôn bừa bãi”  đó  là một người thiếu suy nghĩ (hay do ganh tỵ làm mờ … óc ?) . Bởi vì, ngay từ đệ nhất Cộng Hòa, chức vụ Tỉnh Trưởng còn kiêm nhiệm chức vụ Tiểu Khu Trưởng mà cấp bậc Trung Tá / Đại Tá, trực tiếp chỉ huy một quân số tương đương với 1, 2 trung đoàn (tùy theo diện tích Tỉnh) tuy trang bị không bằng các sư đoàn (3 trung đoàn)  chủ lực. Có nghĩa là ông TỉnhTrưởng  Lê Minh Đảo không chỉ có ngồi bureau ký giấy không thôi! Mà ông cũng cầm quân “xuống Đông, Đông tĩnh; lên Đòai, Đòai an)

     Bằng chứng là trước khi ông Đảo về, sư đoàn 18, đứa em út trong 11 sư đoàn chủ lực VNCH, (thành lập năm 1965), chỉ được tuyên đương công trạng 1 lần (hành quân Cambodge) . Trong 3 năm 72 –74, sư đoàn được tuyên dương trước quân đội 3 lần, quân kỳ sư đoàn được gắn thêm 3 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu và chiến sĩ sư đoàn được mang giây biểu chương màu Quân Công Bội Tinh. Riêng tướng Đảo được ân thưởng 48 huy chương, trong đó có Bảo Quốc Quân Chương Đẹ Ngũ ,  Đệ Tứ và Đệ Tam Đẳng Đẳng (” Chiến Sử QLVNCH, trang 195, Phạm Phong Dinh, theo cassette tướng Đảo gởi cho tác giả) .

     Đấy, văn (phòng) tướng hay chiến-tướng ?

     Không có danh từ nào khác hơn là “chiến thắng” của sư đoàn 18 ở Xuân Lộc, để nói về cuộc đọ sức giữa quân đoàn 4 Cộng Quân của tướng Hoàng Cầm (3 “sư” 6, 7, 341), tăng cường thêm “sư” 325 . Cộng Sản định chơi mửng cũ “lấy thịt đè ngườ” 4 đánh 1. Nhưng Bắc quân lầm ! Lần này không có “di tản” cũng chẳng “tái phối trí” nên tướng Đảo đã có thời giờ dàn quân, chuẩn bị đón “răng đen”. Thêm tinh thần chiến đấu của toàn thể quân nhân đều lên cao, quyết tâm rửa mặt cho quân lực VNCH.

     Và cuộc rửa mặt, bằng .. máu địch quân, với sự hổ trợ của Lữ Đoàn 1 Dù và Không quân Biên Hòa, đã được hoàn tất . Sau 12 ngày tấn công không có … nổi , các “sư” trưởng : 6, 7, 341, 325 đã theo “sư” trụ trì mới : Trần văn Trà, thay “sư” cụ Cầm (Cầm ôm … cầm đi chỗ khác chơi) , đổi hướng tấn công, đánh Biên Hòa. Để bảo vệ Biên Hòa, tướng Toàn, tư lệnh quân đoàn 3, ra lệnh sư đoàn 18 và các đơn vị bạn lui quân về đấy .

     Theo ước tính “khiêm nhường” của tướng Đảo, có khoảng 8000 bô đội “sinh Bắc tử Xuân (Lộc)” . Tội  ác này là của ai, nếu không là của cái nhúm người đang ngồi trong Bắc Bộ Phủ ngoài kia, phì phèo thuốc ngoại, bốc hốt bia ôm, chỉ tay xua quân vào chỗ chết ?

     Cần nói thêm là tuy nắm những chức vu quan trọng trong quân đội nhưng gia đình ông Đảo không có chuyện “một người làm quan cả họ  .. lính kiểng” .  Ông có 4 người em : 2 tử trận (Lê hằng Minh , Lê quang Thạch) , 2 phục vụ cho quân đội và Tổng liên đoàn lao công VNCH (Đại úy TQLC Lê hằng Nghi và Chánh văn phòng của ông Trần quốc Bửu: Lê nguyên Ánh)

     Trung tá Lê Hằng Minh, cha đẻ tên gọi “Trâu Điên” của Tiểu Đoàn 2, tiểu đoàn ngoại hạng của Thủy Quân Lục Chiến, gồm những tiểu đoàn trưởng ngoại hạng : Lê Hằng Minh, Ngô văn Định, Nguyễn xuân Phúc (Robert Lửa) , Trần văn Hợp. Ông Minh tử trận năm 66 . Ông Định (đồng khóa 4 với tướng Trưởng) là con “voi già” của sư đoàn , lữ đoàn trường của nhiều lữ đoàn . Ông Phúc, người nổi tiếng nhất binh chủng, tử trận cuối tháng 3/75 và ông Hợp , chết trong trại tù CS năm 1977

     Tuy không “vị quốc vong thân”  như hai em nhưng không phải là tổ quốc không ghi ơn ông Đảo. Nội chuyện bảo vệ an ninh cho đồng bào dưới quyền trách nhiệm của mình trong 9 năm Tỉnh trưởng , cũng đã đủ rồi, nói chi đến chiến thắng Xuân Lộc do ông chỉ huy; một chiến thắng đã đánh tan cái nhận định “quân lực VNCH không chịu chiến đấu” do bọn ký giả thiên tả, bất lương rêu rao .

     “Cổ lai chinh chiến Đảo nhân hồi” . Sau trên 17 năm tù tội, ông Đảo là một trong 4 vị tướng ra tù trễ nhất: 5/5/1992 . Tháng 4 / 1993, ông cùng gia đình sang Mỹ theo diện HO. Ở tuổi 60 (1933 –1993), nghe nói, ông làm lại cuộc đời bằng một chân quản lý … nhà hàng. Và ông vẫn tiếp tục tham gia công cuộc đấu tranh chống Cộng Sản nơi xứ người, au các hội đoàn, những cuộc diễn thuyết, hội thảo khắp thế giới. Ông là tấm gương sáng để những người khác noi theo .

     Tin ông qua đời làm tôi nhớ đến hai câu thơ của Văn thiên Tường “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử / Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh” .

     Vâng, ai mà không có lúc phải “lên đường”. Nhưng, để lại lòng son rọi sử xanh như tướng Đảo: hỏi có bao người  ? Cô B.Phượng, ái nữ ông Tướng kể:  “Hôm 18 tụi em vào thăm, biết mình sắp “đi”, ông nói: Ba chuẩn bị đi hành quân” . Với người lính già Lê minh Đảo:  một ngày Quân Đội là một đời Quân Đội .

    ………………….

    Cô Thái Thanh và Thiếu tướng Đảo không là  ” mỹ nhân tự cổ như danh tướng / bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”,  mà trái lại: ra đi ở tuổi 86 , 87 là khá thọ. Biết như thế nhưng buồn thì vẫn cứ. Bởi vì cô Thái và tướng Đảo là hiện thân của Việt Nam Cộng Hòa . Cái quê hương mến yêu ấy ngày càng thu hẹp lại , theo với những người “đi xa”.

   Như 45 năm trước, cũng tháng 3 này, lãnh thổ Cộng Hòa chúng ta ngày càng thu ngắn lại

  Tiếng-ca, tiếng – súng lên trời.

  Kính dâng hương hồn cô Thái Thanh và Thiếu Tướng Lê minh Đảo

       Tiếng ca, tiếng súng lên trời     

    Chim Thanh bặt tiếng giữa đời Đảo điên !

    Tiếng nào cuối đáy con tim

    Mang theo quá khứ bình yên trở về ?

    Hết rồi tiếng hát say mê ,

    Hết rồi tiếng súng , rừng che xác thù

    Hai hàng nến thắp âm u

    Mưa giăng Xuân Lộc , sương mù Sông Xanh !

    Bên kia cửa Tử là Sinh

   “Thôi thì thôi nhé ” , thôi đành vẫy tay !     

    Tàu xa , ga khóc nơi này

    Cuối “con đường đó”, cờ bay đón người .

From: phó nhòm U-Minh, thợ vườn

HÃY CÙNG CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI MỸ & GIA ĐÌNH TỔNG THỐNG TRUMP.

Image may contain: 1 person, cloud, sky and outdoor
Nguyễn Đình Ngọc

HÃY CÙNG CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI MỸ & GIA ĐÌNH TỔNG THỐNG TRUMP.
___________________________________

Bài “VIRUS VŨ HÁN DO ĐÂU?” viết hôm 15/3/2020, nhưng nội dung câu chuyện đã có từ những ngày tết – lúc mà hầu hết người VN vẫn bán tín bán nghi về xuất xứ và động cơ của con virus Tàu! (mời đọc lại theo đường link đính kèm [1]).

Sau khi đọc bài ngay bên dưới dẫn từ trang của facebooker Phạm Đức Bảo, Nguyễn Ngọc Già tiếp tục đưa ra một số tình tiết để quý độc giả tham khảo:

1/ Ngày 14/5/2012, đài RFI cho biết [2] Đạt Lai Lạt Ma nói (trích) : “…có một vài phụ nữ Trung Quốc tìm cách sát hại ngài bằng thuốc độc. Theo đó, những người này giả làm phật tử đến gần ngài, để xin ban phước lành. Nhân vật được người dân Tây Tạng tôn vinh như một vị Phật sống và được cộng đồng thế giới kính trọng chỉ đích danh thủ phạm là chính quyền Cộng sản Trung Quốc.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cho biết ngài được thông tin này từ Tây Tạng và tin này là sự thật : một số nữ điệp viên Trung Quốc sử dụng phương thức tẩm thuốc độc lên tóc và khăn choàng của họ để đầu độc người đặt bàn tay lên đầu họ…” (hết trích).

Đương nhiên, Tàu Cộng chối đây đẩy. Hầu như ai cũng biết, Tàu là “vua xài độc dược”.

2/ Hầu hết những ai nghiên cứu về văn hóa Tàu và đọc nhiều truyện cũng như coi phim kiếm hiệp Tàu đều biết những câu nói vô cùng phổ biến:

2.1 Quân tử trả thù 10 năm chưa muộn
2.2 Sát nhân bất kiến huyết. Kiến huyết phi anh hùng.
2.3 Vô độc bất trượng phu

Và còn nhiều câu khác. Tất nhiên, cũng không mấy người còn lạ “Liêu Trai Chí Dị” với sự tàn ác độc địa của loài cáo, sói, quỷ các loại nhưng luôn đội lốt yểu điệu thục nữ và hiền lương nhân hậu.

3/ Tổng thống Trump, phó Tổng thống Pence, Ngoại Trưởng Pompeo v.v… đã có những diễn văn, phát ngôn không chấp nhận CNXH với lời lẽ dứt khoát, đanh thép. Đó là những điều cho Trung Cộng hiểu rõ sự sụp đổ của chúng chỉ là thời gian.

4/ Vụ tai tiếng về uống thuốc sốt rét mà Tổng thống Trump đang bị quá nhiều ác ý và ác tâm bủa vây [4] do CNN đưa tin rất đáng đặt nghi ngờ:

4.1 Hai vợ chồng mua uống. Chồng chết, vợ sống.
4.2 Không biết ông chồng chết có tiền sử bệnh gì không nữa.
4.3 Liều lượng uống cũng không biết luôn.

Thử hỏi, nếu bình tâm mà nghĩ:

4.1A. Việc đầu độc chồng (vợ) không hề hiếm trong đời sống. Lý do thì nhiều nhưng vì tiền cũng không phải là ít.
4.2B Uống mấy viên sốt rét mà đến nỗi chỉ nửa tiếng là chết. Thật khó tin! Hay là ông này chơi luôn cả vỉ???!!! Mà tại sao ổng chết mà vợ ổng sống???
4.3C Hãy liên hệ với sự ác ý đổ lên đầu của Tổng thống Trump vào ngay trong lúc “dầu sôi lửa bỏng” thử?!.

KẾT

Thưa quý vị, nhất là những ông (bà) nào hồ đồ và võ đoán cứ đổ dồn hết tội lỗi cho Tổng thống Trump, hãy bình tâm suy xét!

Tàu Cộng không hiểu văn hóa người Mỹ: Văn hóa người Mỹ rất thực tế, rất sòng phẳng, rất tình nghĩa.

Văn hóa Mỹ không có kiểu “quân tử trả thù 10 năm chưa muộn”

Văn hóa người Mỹ là TIÊU DIỆT CÁI ÁC để cho chính người dân Mỹ và cả thế giới được bình an!

Những ai thật sự yêu chuộng hòa bình và hạnh phúc, xin hãy cùng cầu nguyện cho người dân Hoa Kỳ nói chung cùng Tổng thống & phu nhân & các con cháu của Ngài được mạnh khỏe và vượt qua kiếp nạn!
_________________

Nguyễn NgọcGià

[1] https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=494020534820508&id=100026376973361

[2] http://www.rfi.fr/…/20120515-duc-dat-lai-lat-ma-to-giac-am-…

[3] https://edition.cnn.com/…/arizona-coronavirus-c…/index.html…